MINH CHỨNG CHẤN ĐỘNG: MỘT THIỀN SƯ VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG TỊNH ĐỘ - 2007
Ảnh cây nhanh cong
"Nhất thừa Lục Tự Đại pháp khai
Nhất niệm Thâm tâm đáo Liên Đài
Phật quả, Phật nhân đồng thời hiển
Niệm niệm trực chỉ Diệu Như Lai! "
MINH CHỨNG CHẤN ĐỘNG: MỘT THIỀN SƯ VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG TỊNH ĐỘ - 2007
Ảnh cây nhanh cong
"Nhất thừa Lục Tự Đại pháp khai
Nhất niệm Thâm tâm đáo Liên Đài
Phật quả, Phật nhân đồng thời hiển
Niệm niệm trực chỉ Diệu Như Lai! "
LỜI TỰA
Thân chào tất cả các Đạo Hữu,
Nay duyên mầu hội ngộ, bút giả xin dốc chút thâm tình viết tạm vài dòng thô thiển, những mong cùng nhau suy gẫm để cùng dắt nhau tu Diệu pháp Như Lai.Xưa nay ta và chúng sanh trọn đủ Pháp thân mà tự bỏ quên không biết, đành đem Phật trí mà trầm luân sanh tử vô lượng kiếp, thay hình đổi dạng vô số lần. Biển lửa vạt đầu vào như đi chợ, súc sanh ngạ quỷ thường nhận người thân!
Bỗng đâu, nay được thân người khó được, nghe Phật pháp khó nghe. Diệu pháp Linh quang tuôn chảy cả thân tâm, hốt nhiên giật mình: “À, thì ra ta trọn đủ!”.Nhưng, dẫu biết trọn đủ mà biển nghiệp mênh mông hơn cả hư không vô tận, tình thức đặc dày không ngừng khuấy phá thân tâm. Bảo châu tuy biết thường trọn đủ mà khó hiển bày, Tâm gương tuy biết hằng tự sáng mà bụi mù vây kín! Tự tâm linh diệu khó hội mà dễ quên, Tự tánh trọn đủ mà sức dụng yếu ớt không đủ đương cự tử sanh nghiệp thức!
Lại một lần nữa, chủng duyên thù thắng nhiều đời run rủi cho gặp Pháp môn Di Đà Tịnh Độ. Như người chết đuối gặp phao, như kẻ mù bơ vơ vớ được vòng tay mẹ, như đất hạn lâu năm gặp ơn mưa móc, như mất vật báu bao ngày bỗng lồ lộ trước mắt ta!
Đêm dài sanh tử trầm luân vô hạn định đã thường nổi trôi, Diệu pháp thâm sâu mà vô phương an trụ vĩnh hằng. Vậy mà nay nhờ Thắng duyên gặp được biển Đại Bi tâm của chư Phật, được Bổn sư Thích Ca nhiều lần khuyên nhủ, Từ phụ Di Đà lập quốc mãi đứng trông. Tổ Tổ vắt cạn tâm huyết lập luận giải bày, Cổ đức nhiều đời thiết tha khuyên nhắc.Những kẻ hữu duyên phát được tín tâm chân thiết thật như rực sáng đường đi, chỉ muốn ràn rụa nước mắt cảm thương thâm ân Thầy Tổ, thệ nguyện kiên quyết tu hành.
Thế nhưng: Đây đã là “nan tín chi pháp”, đã là tạng bí mật thâm mầu của Như Lai, há có mấy ai đủ duyên sâu lãnh hội nổi? Cảnh duyên Ta Bà trược ác còn khuyến dụ, tâm phàm thích lạ ham hay còn hiện tiền, há tín tâm, nguyện lực chí quyết nơi Thánh cảnh có đủ mạnh, đủ sâu?Bởi thế, Từ phụ Di Đà và Thập phương chư Phật mới không quản công hết lần này đến lần khác thị hiện cho người tu Tịnh độ vãng sanh lưu thoại ứng chứng minh, khắp cả cổ kim, bất kể biên giới thảy đều tràn đầy chứng tích. Thiên nhạc, Linh quang, hoa nở, chim reo ngay lúc tịch; xá lợi muôn màu thần diệu mãi lưu hình,… Tất cả đều từ Đại Bi Tâm Vô thượng trùm khắp của chư Phật, không nỡ để chúng sanh trôi lăn khó phát tín tâm hoặc tín tâm không sâu mà bị đường ngang nẻo tắt, tà ma yêu đạo khuyến dụ đến nỗi uổng công tu học, mất phần Tịnh cảnh.
Mới đây, Tây phương Tịnh Thổ lại tiếp nhận thêm 1 Thánh nhân, thêm 1 chúng sanh hóa sanh nơi Liên đài và chắc chắn thành Phật, sớm hiện thực hóa Bi tâm hiện kiếp. Không chỉ vậy, Từ phụ Di Đà và thập phương Thánh chúng còn từ bi quá sức, gia hộ độ trì cho đương nhơn sau khi vãng sanh liên tiếp hồi báo, thị hiện bằng chứng rất nhiều cả trước và sau khi hóa vãng, nhằm lưu lại đời 1 chứng tích chân thiết, sáng rực hơn cả ánh nhật nguyệt trên cao, để hàng hậu học chúng ta noi theo mà tinh tấn trên đường đạo.
Đây là một bậc Thiền sư danh tiếng trong Tông môn, hiện đời độ người ngộ đạo rất nhiều, Đại Bi tâm phát khởi nức tiếng gần xa, áo vàng chan rải Chánh pháp Thiền Đốn Ngộ khắp đồ chúng, nhưng tiếc thay tuy có nhân sâu mà trọn đời lại không tin hướng Tịnh độ. Mãi đến gần lâm chung, ác duyên bệnh khổ bức bách, nhân duyên sâu dày kết quả, Ngài mới chuyển tâm quy chỉ Lạc Bang. Để rồi, bằng chứng lưu vô số, lời dạy mãi còn vương, dụng Từ Bi Tâm khi về Cực Lạc còn hiện về chỉ dạy, thâm ân này học chúng khó thể báo đền!
Xét thấy trường hợp tu học và vãng sanh của Liên Hữu này có thể nói là khá hy hữu và có giá trị thuyết phục cao, cũng như là chỡ thực thấy và cảm niệm của mình, nên bút giả mới không ngại tài hèn sức mọn, văn thô trí cạn mà ghi chép lại tỉ mỉ, không muốn bỏ lỡ cơ hội vạn kiếp hiếm gặp này, những mong có thể góp chút sức nhỏ cho người chưa phát tín tâm sớm phát Chân tín, kẻ đã phát tín tâm thời ngày càng kiên cố, để hiện tiền quyết chí tiến tu mà an lạc thân tâm, đương lai quyết chắc vãng sanh và đồng hội ngộ nơi Thánh cảnh.
Hơn 50 trang giấy lệ thường có vẻ hơi dài, nhưng so ra vẫn còn quá ngắn ngủi và vắn tắt so với thâm ân Thầy từ bi ứng hiện. 50 trang giấy đọc không tốn quá nhiều thời gian, nhưng nó là kết tinh thâm ân Phật Tổ, từ tâm của Thầy muốn mở mắt huệ cho chúng sanh, khai đường dẫn lối thoát khổ tử sanh vậy. Mong kẻ hữu duyên đọc qua hãy trân trọng và đọc kỹ, nghĩ sâu, tất sẽ nhận ra nhiều ích lợi!
Mong mỏi lắm thay!
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LAC THẾ GIỚI, QUANG TRUNG CỰC TÔN,
ĐẠI TỪ ĐẠI BI, TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
Last edited by sutu; 09-08-2008 at 02:16 PM.
TIỂU SỬ SƠ LƯỢC
CỐ TỲ KHEO THÍCH TUỆ TÂM
Cố Tỳ kheo Thích Tuệ Tâm, thế danh Phan Ngọc Thanh, khi còn là cư sĩ từng là 1 thương gia thành công trên thương trường từ trước ngày Giải phóng, vợ con hòa thuận, cuộc sống đầy đủ no ấm.Thầy phát tín tâm với Phật pháp từ rất sớm, ra sức tìm hiểu học đạo, nhưng do hoàn cảnh loạn lạc nước nhà mà hiếm có thầy giỏi sách hay.
Ban sơ, Thầy nghe lời khuyên của nhiều người học những giáo lý căn bản của đạo Phật và đặc biệt chuyên trì niệm một câu Lục tự Hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật để nương đó tu hành. Thầy kiên trì tu học đến tận 20 năm, sau đó gặp 1 vị Thầy chỉ cách niệm Phật để dễ nhập Tam Muội (dùng tâm lắng nghe từng tiếng, không bỏ sót, thời thời thường duyên Phật hiệu) và cuối cùng chỉ sau 1 thời gian ngắn gắng sức tu học thêm, Thầy đã được niệm Phật Nhất tâm Bất loạn sau thời gian công phu 20 năm ròng. Thầy vì không rõ nên tìm các vị tăng mà hỏi là như vậy đã đạt gì chưa, thì các vị đó nói như vậy đã là đến nhà rồi, còn mong gì nữa? Dù Thầy lại không hài lòng với câu trả lời này.
Sau đó, Thầy do có chủng duyên sâu nặng với Thiền tông mà Thầy nghe tiếng Thầy Thích Thanh Từ đang giảng dạy Thiền tông, nhưng Thầy cũng chưa có duyên gì nhiều. Thầy lại đọc được Kinh Kim Cang, và chính trong lúc đọc Kinh này, Thầy đã hoát nhiên Đại ngộ, tất nhiên về sau Thầy vẫn nhiều lần khẳng định Thầy ngộ được do ở trong trạng thái Nhất Tâm Bất Loạn của niệm Phật làm nền tảng.Đang đọc Kinh, Thầy bỗng thấy trong đầu như nổ bùng 1 cái, toàn thể thân tâm trời đất vắng lặng trong sáng lạ thường. Thầy như người chết đã lâu nay bỗng sống lại, thân tâm an lạc kỳ lạ, như đã biến đổi thành 1 người hoàn toàn khác, thường thanh tịnh ngay cả trong lúc đi đứng nằm ngồi, nói nín động tịnh. Thầy thường gọi nó là “trạng thái tâm lặng trang”, và giảng rằng tâm vắng lặng không chút gợn nhỏ mà thường biết rõ ràng khắp cả. Trạng thái tâm kỳ lạ đó duy trì liên tục không mảy may thiếu sót trong suốt cả 7 ngày đêm liên tục, điều mà hiếm có người nào dù ngộ Thiền mà làm được, chứng được, sống được. Dù sau đó nó có tạm thời ngắt quãng nhưng sức tỉnh giác vẫn còn rất sâu dày.
Sau đó, Thầy có cơ duyên lên gặp và học đạo với Sư ông Thích Thanh Từ, người khôi phục và chấn hưng Thiền tông Đốn ngộ nói chung và dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam nói riêng. Thầy được Sư ông Thanh Từ ấn khả rằng đã ngộ nhập Tự tánh. Sư ông hỏi Thầy có còn vọng tưởng không thì Thầy nói hoàn toàn không, vì câu Phật hiệu tuôn chảy liên miên bất tận, không chút kẽ hở cho vọng niệm chen ngang, nhưng Sư ông Thanh Từ lại khuyên Thầy phải bỏ câu niệm Phật.
Nhưng, câu niệm Phật đã thành khối, Thầy ra sức dụng công nhưng không cách gì bỏ được suốt 1 thời gian dài. Mãi đến 1 đêm Thầy tham thiền nhập định, tâm tha thiết muốn bỏ câu Phật hiệu và kết quả là sau khi xuất định Thầy đã không còn câu Phật hiệu trong tâm như mong ước (dù đối với hành giả Tịnh độ thấy rõ là rất uổng!).
Thầy tha thiết mong xuất gia, nhưng Sư ông không cho vì hoàn cảnh đất nước lúc đó còn khó khăn loạn lạc, Thầy lại còn vợ con cần chăm sóc không thể rũ áo ra đi trong lúc đó, nên Thầy đành mang thân cư sĩ mà tiếp tục tu học.
Lại nữa, sau khi Đại ngộ, Thầy bỗng bộc phát Đại Từ Bi Tâm chan rải hết chúng sanh. Thầy rất thương chúng sanh trọn có Phật tánh mà không hay không biết, không có Thầy sáng Đạo hướng dẫn để ngộ Đạo, nên Thầy từng xin Sư Ông Thích Thanh Từ cho lập 1 “Đạo tràng” chuyên hoằng dương Thiền tông Đốn ngộ, và Sư ông đã đồng ý.Đây chính là mô hình Đạo tràng đầu tiên làm mẫu mực cho hàng loạt đạo tràng tu Thiền về sau ra đời ở khắp các nơi, mà Đạo tràng của Thầy đến giờ này vẫn được mệnh danh là Đạo tràng số một trong tất cả.
Mô hình đạo tràng này có đặc trưng là các hành giả nghe Thầy giảng pháp trực tiếp 1 thời lượng cố định mỗi lần sinh hoạt, thường là mỗi tuần 1 lần, và chuyên tâm tu tập ngồi Thiền. Nếu trong quá trình Thầy giảng mà có thắc mắc thì được tự do hỏi lại Thầy, rồi Thầy luôn dành thời gian vài giờ cho Đại chúng cùng trao đổi kiến thức giáo lý hay những thể nghiệm công phu qua hình thức đăt câu hỏi và giải đáp. Thầy khuyến khích đệ tử tự giải đáp với nhau, có sai thì Thầy sẽ chỉnh sửa hoặc bổ sung thêm.Do đó, “Đạo tràng” ở đây không chỉ là hình thức nơi chốn tu tập mà còn là hình thức “pháp đàm”, giải nghi trong tu học, cởi mở trao đổi với nhau, cốt yếu để người học sớm ngộ nhập được Tự tánh của mình và tu tiến không ngừng vậy.
Từ Đạo tràng này đã có rất nhiều Đạo hữu ngộ Đạo, được các vị Tôn túc trong Tông môn ấn chứng, làm rạng danh Chánh pháp Đại thừa và Thiền tông Đốn ngộ, trong đó có rất nhiều người đã xuất gia tại các Thiền viện khác nhau.Ban đầu Thầy chưa xuất gia nên ở trong Đạo tràng được gọi là “Huynh trưởng”, về sau Thầy xuất gia đồ chúng mới gọi là “Thầy”.
Sau nhiều năm lập Đạo tràng, Thầy thấy con cái đã vững chãi, chuyện nhà đã tạm yên, đạo tràng đã khá vững mạnh, Thầy liền xin Sư ông Thanh Từ cho xuất gia và đã được đồng ý nhanh chóng. Thầy xuất gia làm Tăng ở Thiền viện Chân Không, BRVT, là cái nôi của dòng Thiền của Sư ông Thanh Từ, nơi Sư ông ngộ Đạo.Thầy tuy xuất gia lúc đã rất lớn tuổi (hình như là trên 60) nhưng do kiến thức uyên thâm, thông hiểu Kinh điển, trực ngộ sâu vào Tự tánh, có công lớn trong việc hoằng pháp lợi sanh qua mô hình “Đạo tràng” nên Thầy nhanh chóng được tăng chúng kính trọng, trở thành một người có uy tín cao trong Tông môn.
Tuy ban đầu Thầy giao phó hết Đạo tràng cho đồ chúng để đi xuất gia, chuyên tâm nhất ý làm hạnh Sa môn nhưng về sau thấy đồ chúng không quản lý đúng đắn Đạo tràng nên Thầy buộc phải thường về quản lý, và cuối đời do bệnh khổ bức bách mà Thầy về hẳn trong nhà để điều hành Đạo tràng tại nhà cho thuận tiện.
Tổng cộng từ lúc Thầy lập Đạo tràng cho đến lúc thị tịch là 18 năm ròng, cả thời gian là cư sĩ lẫn sau khi xuất gia làm Tăng, giúp rất nhiều người nog6 Đạo, đồ chúng đông đảo, và là mầm nhân của các Đạo tràng khác về sau.
Tuy có những công đức lớn lao không kể xiết cho Chánh pháp như vậy, tâm từ rộng lớn như vậy nhưng cuối đời Thầy lại bị bệnh khổ bức bách rất nặng nề, gia đình lại có quan hệ không được tốt. Tất cả là do thời trẻ, khi mới nhập Đạo thì Thầy đã thệ nguyện mong trả nghiệp trong hiện kiếp nên nghiệp hoặc bủa vây không để Thầy an.
Thầy bị ung thư phổi, đã phải cắt bỏ 1/3 lá phổi, sức khỏe tiều tụy dần theo năm tháng. Lại do dùng thuốc quá nhiều mà sanh ra bệnh đau dạ dày rất thống khổ, còn mắc thêm bệnh loãng xương nặng do tuổi già.
Cơn đau hành hạ Thầy suốt quãng đời còn lại, nhưng nó không hề làm tổn giảm tâm từ bi vì Chánh pháp của Thầy. Tuy mang thân bệnh rất nặng, bác sĩ bảo phải tịnh dưỡng nhưng Thầy thường gắng sức nói Pháp, lo lắng trong ngoài công việc của Đạo tràng. Mỗi lần giảng pháp lâu là bệnh tình Thầy lại trầm trọng thêm sau thời gian. Mình và các Đạo hữu thấy vậy rất lo lắng và thương Thầy, nhất là mỗi lần nhìn Thầy trong giờ giải lao giữa các lần giảng phải ngồi xông thuốc liên tục mà lòng quặng thắt!
Dù chỉ mới gia nhập đạo tràng từ trước Tết Đinh Hợi chừng 1, 2 tháng, trong khi Thầy lại mất vào tháng 3 âm lịch, thời gian quá ngắn ngủi so với những Đạo hữu đã gắn bó với Thầy từ xưa, nhưng thật tình mình vô cùng cảm phục một vị Thầy có tâm từ bi tha thiết đến không ngờ như Thầy, thật là hiếm gặp trong thời mạt pháp này. Và quan trọng hơn cả là mình rất mừng khi thấy còn có những người thông hiểu Chánh pháp như trong Đạo tràng và đặc biệt là Thầy. Vì vậy mà ban đầu mình chỉ vào đạo tràng với quan niệm như đi tham quan cho biết, nhưng về sau lại gắn bó nơi đây.
Thầy là tấm gương sáng của 1 người, 1 Tăng sĩ nhiệt tâm vì Đạo, chân thật tu hành, giới hạnh tinh nghiêm, đức độ cao rộng. Chỗ sống chỗ trụ sâu dày khó đoán, từ tâm chan rải không thể đo lường.
Trong những năm tháng cuối đời, Thầy có duyên gặp mình cùng với người bạn cùng song tu Thiền Tịnh, thường khuyến hóa Thầy nương chủng nhân 20 năm niệm Phật mà quay trở về kiêm tu Tịnh độ Pháp môn. Bệnh khổ, nghiệp hoặc bức bách đã làm duyên cho Thầy sáng suốt nhận định, để trước khi lâm chung thị hiện tướng lành hạnh lạ, dù bình thời thường vì bệnh khổ mà mất Chánh niệm mà giây phút cuối lại an nhiên thị tịch, trong suốt 49 ngày lại thường từ bi hóa hiện thoại ứng chứng minh đã vang sanh Tịnh cảnh. Thật là duyên mầu hội đủ, Thắng nhân hiển bày mà kết thành Diệu quả, mà chứng thực Kinh Sách nói không mảy may sai lệch!
Mong người đọc tiếp thu và suy nghiệm kỹ về những điều viết sau đây, để không uổng phí cơ duyên Thầy đã từ bi ứng hiện và ta đã có duyên gặp như vầy!Thầy cùng chư Thánh chúng Tây Phương, cùng Từ phụ Di Đà vẫn đang thường ngóng trông chúng ta chuyển tâm nhất niệm tin tấn tu tập cầu sanh, để cùng hội ngộ chốn Bảo trì, cùng tu diệu pháp, cùng sớm độ chúng sanh, cùng sớm thành Phật đạo!
Mong Từ quang bủa khắp, chúng chúng chuyên tu, niệm niêm quy nhất, thẳng tiến Tây phương, quyết lên Giác ngạn!
Thientinh82
BẰNG CHỨNG SỰ THỰC GIẤC MƠ
THẦY TUỆ TÂM BÁO MỘNG
VÃNG SINH CỰC LẠC
NGÀY 31/05/2007 (15/04 Â.L)
Ý NGHĨA NGÀY GẶP GIẤC MƠ:
Đại lễ Phật đản 15/04 Âm Lịch năm Đinh Hợi.Cũng là ngày lễ Thất thứ ba của Thầy Thích Tuệ Tâm tổ chức tại Thiền viện Thường Chiếu, có tổ chức Trai tăng để hồi hướng công đức cầu siêu cho Thầy.
Tỉnh giấc: 12h51’ sáng ngày 31/05/2007, tức 15/04 Âm Lịch.
Ghi lại: 12h57’ sáng cùng ngày, tức khoảng sau 06 phút.
Niệm Phật liên tục cho Thầy và chúc mừng Thầy vãng sinh Cực Lạc từ 12h51’ đến 12h57’, tức từ lúc tỉnh dậy đến lúc ghi giấy này.
Cảm giác sau khi tỉnh: tỉnh táo sáng suốt dù ngủ chưa nhiều (từ 11h30’ đến 12h51’, tức chưa đến 1,5 giờ), mọi việc rõ ràng như còn đang thấy trước mắt, vui mừng hoan hỷ tôt độ.
NỘI DUNG CỤ THỂ SỰ THỰC GIẤC MƠ:
Trước đó có thể có mơ nhưng không nhớ, chỉ từ lúc ghi lại ở đây là nhớ rõ.
Con (Thientinh82) thấy cùng vài thân quyến của con, trong đó có mẹ con, cùng 1 nhóm người, mà trong lòng tự hiểu là đạo hữu, mang máng như là đạo hữu Đạo tràng Tuệ Tâm nhưng cảm nhận không chắc chắn lắm, chỉ biết là đạo hữu, rất đông và tất cả rất thân thiện, vui vẻ.
Quang cảnh:
Tự cảm giác nửa như nhà Thầy Tuệ Tâm, nửa như đang ở nhà của con, nhưng nay nhớ lại thì thấy cảnh quan hoàn toàn khác: rất rộng rãi, thoáng mát, cảm giác như đang ngồi trong nhà, cụ thể là 1 căn phòng có lan can. Phía ngoài lan can là vườn cây xanh tốt, gió thổi mát, cảnh rất đẹp, ngập tràn ánh sáng; nửa lại thấy cũng là vườn cây đó nhưng ở dưới đất, trong khi mọi người đang ở trên lầu. Toàn khu lan can không có cửa, rất thoáng mát, bờ lan can thấp nhỏ như trong các khách sạn. Nhưng rõ ràng nhất là cảm giác thoáng mát và ngập tràn ánh sáng.
Đặc biệt, con thấy có 1 cụ ông tuổi không quá già, vui vẻ đẹp đẽ, thần sắc sáng sủa mạnh khỏe, còn tóc, không cạo đầu, mặc áo nửa như trắng nửa như màu trắng in bông nhỏ màu đỏ hồng, con không nhớ kỹ, chỉ nhớ áo rất sáng và sang trọng nhưng đơn giản, nhẹ nhàng, mỏng manh.
Con CẢM GIÁC RẤT RÕ cụ ông đó chính là THẦY THÍCH TUỆ TÂM. Ban đầu lúc mới thức dậy nhớ lại con thấy có hơi lạ, sao không giống hình ảnh Thầy mình lắm, nhưng bây giờ, lúc đang viết tờ giấy này thì mới nhới rõ rằng đó chính là hình ảnh của Thầy lúc còn là cư sĩ (nên có để tóc) và còn khá trẻ, khoảng chừng 40 - 50 tuổi, tóc thì con không nhớ rõ màu gì, hình như cũng đã bạc.
Đặc biệt nhất là CẢM GIÁC RẤT CHÂN THỰC RẰNG ĐÓ CHÍNH LÀ THẦY TUỆ TÂM, lại như Thầy không hề chết vì hoàn toàn không có sự xa cách như giữa người sống và người chết, dù TRONG ĐẦU CON LUÔN TỰ BIẾT THẦY ĐÃ CHẾT (THỊ TỊCH) RỒI (sẽ lý giải sau).
ĐẶC BIỆT NHẤT: Hôm nay là Thứ năm, 15/04 Âm lịch, là Đại lễ Phật đản (theo quy định thống nhất hiện nay), cũng là rằm tháng 04, 1 trong 3 ngày rằm lớn nhất trong 1 năm, mà lại là NGÀY CÚNG THẤT THỨ 3 CHO THẦY THÍCH TUỆ TÂM đang tổ chức trên Thiền viện Thường Chiếu, lại CHỈ VỪA QUA NGÀY MỚI, TỨC SAU 12 GIỜ TỐI.
TÓM LẠI: Không thể có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy mà chỉ có thể là do sự gia hộ của chư Phật hay chính là sức thần thông của Thầy sau khi nhập hàng Thánh mà thị hiện cho con có được giấc mơ này ngay đúng giờ phút trọng đại này!
Thầy Thích Tuệ Tâm hiện đang ngồi trên 1 cái ghế dài, tựa như loại ghế bố dài ngả lưng được ra phía sau, chất liệu thì mang máng như là loại vải thường làm ghế bố hay là bằng mây. Thầy luôn nở nụ cười, lặng lẽ quan sát mọi người.Nhóm người có lúc như tụ lại làm 1, có lúc như tách thành 2 nhóm: con và Thầy cùng 1 số người vào 1 nhóm, ngồi ở bên phía trái căn phòng, ngồi gần sát lan can. Theo con nhớ lúc đầu thì có vẻ như nhóm này ngồi gần 1 cái TV, nhưng nay nhớ lại hình như là ngồi gần 1 vật phát sáng khá lớn, có thể đó chính là bàn thờ trong phần sau của câu chuyện. Còn nhóm thứ 2 gồm mẹ con và các Đạo hữu, có người ngồi, có người cũng nằm nghỉ trên những cái ghế giống như của Thầy và đặt ngang hàng với ghế của Thầy.
Thầy và các Đạo hữu ngồi sát kề lan can của căn phòng. Riêng mẹ con và con thì ngồi có hơi lùi xuống dưới so với Thầy và các người khác.
Con cũng nhớ là trong nhóm đầu tiên, ngoài con và Thầy còn có nhiều người nữa nhưng hình tướng, mặt mũi không rõ lắm, chỉ nhớ là hình như họ mặc áo trắng và có phát sáng, hay không biết có phải là do ánh sáng mạnh của khu vườn tràn vào không.
Thầy cũng tựa như hơi phát sáng hay chìm trong ánh sáng nhẹ từ khu vườn, nhưng CON THẤY RẤT, RẤT RÕ THÂN TƯỚNG VÀ TẤM ÁO THẦY, có thể do con ngồi sát ngay bên trái của Thầy (hay Thầy ngồi bên trái của con). Con chỉ ngồi bình thường, không có nằm.
Những Đạo hữu bên nhóm của mẹ con cũng có thân tướng tràn ngập trong ánh sáng, chỉ có mẹ con và 1 Đạo hữu nữ (mà con sẽ nói sau) là rõ ràng nhất thôi.
Thầy nằm ở vị trí xa nhất như là ĐỂ QUAN SÁT TẤT CẢ MỌI NGƯỜI.
HÌnh Minh Họa
Theo con, các hình tướng trên có vẻ mang các ý nghĩa sau:
Ø Khu vườn ngập tràn ánh sáng, cảnh quang đẹp đó có lẽ tượng trưng cho cõi Tây Phương Cực Lạc, còn căn phòng là Thế giới Ta Bà chăng?
Ø Cảm giác giống cả nhà Thầy và nhà con cho thấy đó là cõi ta thường hướng tâm đến, Thầy thì đã vãng sanh Thánh cảnh, con thì “thân trụ Ta Bà thức trời Tây” nên không có cảm giác xa lạ chăng?
Ø Thầy nằm ở vị trí xa nhất căn phòng để thường đưa mắt nhìn tất cả mọi người, ý nói Thầy tuy thị tịch nhưng vẫn thường dõi theo mọi người, thường quan sát và biết hết rõ về mọi người, chẳng phải thật sự mất hẳn. Nhất là trong 49 ngày này, hay nếu Thầy quả đã về cõi Cực Lạc, nhập vào dòng Thánh, thường nương Phật lực thì chuyện Thầy dõi theo đệ tử không chỉ là trong 49 ngày mà sẽ là mãi mãi!
Ø Các Đạo hữu thân tướng không rõ, ngập tràn ánh sáng, nằm ngang hàng với Thầy và sát lan can có thể là Thánh chúng cõi Tây Phương theo Thầy đến chơi chăng? Điều này phù hợp lời 1 nữ đạo hữu nói đã vãng sanh Cực Lạc mà chưa về báo như con sẽ nói sau.
Ø Nếu quả như vậy và như điều đầu tiên thì có thể lấy cái lan can giữa căn phòng và khu vườn như ranh giới giữa 2 nơi, mà Thầy và các Đạo hữu nằm ngay gần ranh giới đó chứng tỏ các vị không thật là người cõi Ta Bà này mà chỉ là Thánh chúng đến dạo chơi theo Thầy thôi. Điều này cũng phù hợp với vị trí ngồi của con và mẹ con, nằm xa lan can hơn Thầy và các Thánh chúng đó, chứng tỏ tuy con và mẹ chí quyết vãng sanh nhưng hiện vẫn là người cõi Ta Bà, chưa vãng sanh Tịnh độ nên chưa ngồi đồng hàng Thánh nhân Cực Lạc vậy.
Ø Ánh sáng từ thân Thầy hay các Đạo hữu phát ra là vì tất cả đều đã hóa sanh trong Liên đài, được thân Kim Cang bất hoại, đồng như hàng Đại thánh chăng? Hay là ánh sáng đó không thật của các vị mà là do từ khu vườn tràn vào bao phủ, tựa như Thánh nhân cõi Cực Lạc chưa triệt chứng Pháp thân mà nương Thánh cảnh và Phật lực mà có sự thọ dụng đồng như chư Thánh, không khởi phiền não ác kiến, như trong kinh, luận nói là “Như người ướp hương” chăng?
Lúc đó, con thấy có 1 nhóm Đạo hữu, dẫn đầu là chú Từ Nghiêm, còn cô Diệu Huỳnh thì hình như mang máng chứ không rõ. Nhóm người này đến trước bàn thờ, hình như thờ Phật ở trên và hình Thầy ở dưới, bắt đầu gõ khánh và chuông mõ để tụng (kinh, sám hối,…) cho Thầy. Tức ngay lúc đó con đã biết Thầy đã mất rồi nên mới tụng hồi hướng cho Thầy, nhưng lạ là lại không thấy cảm giác âm dương cách biệt mà Thầy gần gũi và tràn đầy sức sống đến lạ kỳ. Cũng không thắc mắc tại sao 1 người đã chết lại ngồi ngay trong phòng này, nhìn mọi người, cử động, nói chuyện bình thường như người sống, mà không thấy lạ!
Thầy thấy những người đó bắt đầu dẫn chúng tụng thì NGĂN LẠI HỎI:
“TẠI SAO LÚC TÔI CÒN SỐNG DẶN RÕ TRONG DI CHÚC LÀ TỚI NGÀY HÔM NAY NGHỈ TỤNG CHO TÔI KHỎE, CHỈ NGỒI CHƠI QUAN SÁT, MÀ HÔM NAY LẠI TỤNG?”
Chú thích: Con không hiểu rõ thâm ý của Thầy lắm, chỉ thấy nói rất rõ và nhấn mạnh mấy từ “TRONG DI CHÚC” và “NGÀY HÔM NAY”. Dù con cũng không rõ (lúc trong mơ) “hôm nay” là ngày gì, chỉ có cảm giác rất quan trọng, đến bây giờ tỉnh dậy mới nhớ là ngày thất thứ 03 của Thầy và đang tổ chức cúng rất lớn trên chùa Thường Chiếu!
Người đầu nhóm (hình như là chú Từ Nghiêm, không có xưng tên nhưng con cảm giác vậy!) đứng ra (thật ra là tách khỏi nhóm đang đứng mà đi từ trước bàn Phật đến chỗ Thầy đang nằm) nói với Thầy, dù con lúc đó nghe rất, rất rõ nhưng bây giờ không nhớ kỹ nguyên văn, đại ý là:
“CHÚNG CON BIẾT LÀ SAI Ý THẦY NHƯNG VÌ TẠO CÔNG ĐỨC CHO THẦY NÊN MỚI TỤNG SAI DI CHÚC NHƯ VẬY! Mong thầy thông cảm!”
Sau khi nghe chú Từ Nghiêm trình bày, THẦY CŨNG HOAN HỶ CHẤP NHẬN CHO TỤNG, nhưng con cảm nhận hình như Thầy có chút không bằng lòng nhưng vì THẤY ĐÓ CŨNG LÀ ĐIỀU TỐT VÀ HỢP LÝ NÊN ĐÃ ĐỒNG Ý.
Lời bình: Theo con thì sự việc “Tụng hồi hướng” này chỉ là 1 hình ảnh ẩn dụ, cốt chỉ cho 1 việc làm của Đạo tràng mà ĐI SAI VỚI DI CHÚC CỦA THẦY.
Hình ảnh chú Từ Nghiêm cũng có thể là chỉ bản thân chú vì chú đang quyết định vài vấn đề của Đạo tràng, hay chỉ là để chỉ những người đứng đầu của Đạo tràng vì Thầy dùng hình ảnh “khóa tụng” để ví dụ thì ai cũng biết chú Từ Nghiêm là người thường dẫn chúng trong Đạo tràng, đó chỉ là những suy nghĩ của con về những hình ảnh đó.
Con nghĩ ý Thầy muốn nói có những người đang làm những chuyện sai, ngược với di chúc của Thầy, ban đầu Thầy không vui nhưng về sau cũng chấp nhận vì thấy họ nói có lý và cũng là điều tốt.
Sau đó thì con ngồi nói chuyện riêng với Thầy, đây mới là phần chính và quan trọng nhất của giấc mơ. Con không thấy nhóm người trước nữa, có thể họ đang tụng hay chuẩn bị để tụng trong lúc con đang tiếp chuyện với Thầy chăng?
Con thấy con có chào hỏi Thầy và nói với Thầy, dù nhớ không rõ nguyên văn, nhưng là 1 trong 2 câu nói sau:
“THẦY CÓ NHỚ NHỮNG GÌ CON VÀ THẦY NÓI CHUYỆN KHÔNG?”
Hay: “THẦY CÓ NHỚ CÁI CHỖ CON TRUYỀN (tặng) CHO THẦY KHÔNG?”Ý của con muốn hỏi Thầy có nhớ những gì con từng tâm sự với Thầy về Pháp môn Tịnh độ, hay là những lời lẽ mà con đã đốc hết tâm huyết tha thiết khuyên Thầy phát tâm tín, nguyện niệm Phật cầu sanh Cực Lạc trong lúc 8 giờ sau khi Thầy mất và lúc đưa tang Thầy và cả trong suốt 49 ngày nay hay là không.
Chổ này tuy biết từ “TRUYỀN” có hơi nặng, nhưng đó là những gì con nhớ được từ giấc mơ thì phải dùng từ cho đúng, không dám ghi sai. Xét ra cũng là hợp lý vì con đã tha thiết mong Thầy thấy chỗ chẳng chướng ngại với Thiền tông và sự thù thắng vi diệu và an toàn tu tiến của Pháp môn Tịnh độ. Cũng như con mong Thầy dùng Tha tâm thông nếu đang là Trung ấm thân mà đọc được những kiến thức về Thiền và Tịnh trong tâm con, con đọc 1 quyển sách cũng không phải đọc cho con mà đang nghĩ là đọc để Thầy xem các ảnh tượng của nó trong tâm con mà quy chỉ Tịnh độ vậy.
Thầy nghe con hỏi xong thì liền trả lời là “CÓ!”
Lúc đó, con muốn biểu lộ mình vừa thân mật với Thầy vừa để nhấn mạnh chỗ con muốn nhắc Thầy nên miệng cười còn tay thì đưa ra lay và bóp nhẹ vai phải của Thầy (nằm ở bên phải theo hướng của con, tức thật ra là vai trái của Thầy). Cảm giác lúc chạm vào người Thầy (thấy Thầy vẫn rất ốm) và áo của Thầy (mỏng, nhẹ, rộng rãi) RẤT, RẤT THỰC TRÊN TỪNG NGÓN TAY CON, cũng như con đang mujốn nói với Thầy về cái thể Thường Giác bao trùm toàn thân mà phàm Thánh, Thầy và con đều trọn đủ vậy.
Con nói tiếp, như để gạn lại chữ “CÓ” của Thầy:
“CON BIẾT LÀ THẦY CÓ CÁI KIA RỒI, NHƯNG Ý CON KHÔNG PHẢI VẬY, MÀ LÀ HỎI THẦY CHỖ KIA KIA ĐÓ!”
Trong đầu con lúc nói câu đó TỰ BIẾT ĐANG Ở TRONG ĐẠO TRÀNG THIỀN, nên dù muốn nhắc Thầy có biết TIN VÀ NGUYỆN VÃNG SANH DI ĐÀ TỊNH ĐỘ không mà không dám nói thẳng, chỉ dám nói bóng gió, nhìn thẳng vào mặt Thầy và hình như hơi nháy mắt ra hiệu với Thầy.
Lời bình: Chỗ “THẦY CÓ CÁI KIA RỒI” là con muốn chỉ rằng không chỉ con biết về lý tất cả chúng sanh đều trọn đủ Phật tánh, ở phàm chẳng giảm ở Thánh chẳng tăng, là cái thể biết sáng lòa muốn nắm chẳng được muốn bỏ chẳng xong như trong kinh điển ghi. Mà con như TỰ BIẾT THẦY VẪN ĐANG AN TRỤ TRONG CÁI CHÂN TÂM TRỌN ĐỦ ĐÓ, chẳng phải chỉ nói suông trên kiến giải.
Nhưng đó dẫu có thật là đang an trụ vẫn chẳng phải là “CHỖ KIA KIA ĐÓ” mà con muốn nhắc Thầy, tức con muốn chỉ dẫu có thật thấy Chân tánh và thậm chí là có phần thực sống, thực an trụ thì cũng không thể nào bằng lợi ích của việc TÍN NGUYỆN CẦU VÃNG SANH CỰC LẠC, vì chỉ có về đó mới thường sống được trong Pháp thân, chẳng bị ngoại duyên tà ác nhiễm ô quấy phá, lại nương thuận duyên tối thù thắng linh diệu mà tu tập thì sẽ rất, rất nhanh chứng nhập Vô sanh, đầy đủ dũng lực cỡi thuyền Bát Nhã dạo biển tử sanh cứu khổ vạn thế, trên sớm viên thành Phật đạo, chứng nhập Phật trí, dưới sớm đem mưa pháp ban rải khắp mười phương, phá tà hiển chánh!
Thầy nghe xong liền cười và đáp (dù con không nhớ nguyên văn câu này):
“THẦY BIẾT CHỨ, CON ĐỪNG LO!”
Nghe Thầy xác nhận như vậy, con thật đã quá mừng!
Một lát sau, chắc chừng chỉ vài giây ngừng, Thầy nói tiếp như vừa để khẳng định cho thật rõ chỗ Thầy vừa nói, chỗ Thầy tin và hành, vừa như để báo tin cho con mừng. Điều này theo con thật là mầu nhiệm, vì Thầy nói HOÀN TOÀN RÕ RÀNG TỪNG CÂU TỪNG CHỮ, RẤT RÕ NGHĨA, không như những giấc mơ trước đây của con đã từng hộ niệm cho 2 người quen trong 49 ngày mà họ đã vãng sanh và quay về báo mộng nhưng lại dùng các câu nói, hình ảnh ẩn dụ chứ chưa có ai nói thẳng và rõ như Thầy:
“THẦY THẬT RA ĐÃ VÃNG SANH (TỪ LÂU) RỒI, THẦY Ở PHẨM TRUNG TRUNG”
Lời bình:
Hai chữ “TỪ LÂU” con có nghe, nhưng không dám chắc chắn 100% nên phải để trong ngoặc. Nếu có thì 2 chữ này có thể có nghĩa là: Thầy không phải đợi đến lúc này, ngày hôm nay mới nghe theo lời khuyên nhắc của con mà phát tâm Chân tín, Thiết nguyện, niệm Phật cầu vãng sanh mà được vãng sanh Cực Lạc, mà kỳ thật Thầy đã tự phát tâm trước đó, có thể từ trước lúc Thầy mất cách đây 3 tuần nên mới có giờ phút lâm chung kỳ lạ như vậy. Hay cũng có thể là Thầy đã vãng sanh chỉ trong 8 giờ được chúng con hộ niệm niệm Phật cho Thầy, hay theo lời khuyên của con trong vài ngày sau chăng?
Ba chữ “PHẨM TRUNG TRUNG” cũng là văn của Thầy, chứ nếu con nói thì sẽ nói là: “TRUNG PHẨM TRUNG SANH” chứ không có nói vậy. Điều này xét ra là hợp lý, vì đó là văn phong và cách nói của người xưa, thật ra là cách nói tắt, như con đã đọc được trong quyển Tịnh độ Thập nghi luận, đại ý theo như con còn nhớ là:
“Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ là bậc Long Tượng trong Thiền môn, thấu suốt môn Thiền Trực chỉ của Tổ Đạt Ma, ẩm thọ môn học đơn truyền của Thiều Quốc Sư ở Thiên Thai, lại là đích tôn của Ngài Pháp Nhãn, biện tài cơ trí dường như gió cuốn sấm vang, hải nội Thiền lâm đều kính xưng là bậc Đại Tông Tượng. Vậy mà Ngài lại tự chuyên tu Tịnh độ, khuyên người niệm Phật, viết sách rộng truyền môn ấy ở đời. Ngài đã nương Tự tánh thường chân mà GỬI CHẤT NƠI PHẨM SEN THƯỢNG THƯỢNG!”
Phẩm sen Thượng Thượng có nghĩa là Thượng phẩm Thượng sanh, thì nay chữ “PHẨM TRUNG TRUNG” của Thầy quả thật đã chỉ thẳng cho “TRUNG PHẨM TRUNG SANH” là hoàn toàn chính xác vậy!
Còn về lý do Thầy chỉ dừng trụ nơi phẩm Trung Trung, hay trà tỳ không có xá lợi, thì theo con có khá nhiều: Quả thật Thầy là người ngộ đạt Tự tánh thanh tịnh, công phu hoằng pháp lợi sanh cao cả vô biên, lòng từ bi nhiệt tâm với Đạo khó ai có thể sánh bằng, lại có tới 20 năm công phu niệm Phật trong quá khứ, lúc chưa gặp Thiền tông, đến độ đạt Nhất tâm Bất loạn trong 1 thời gian dài. Nhưng Thầy lại không phát được đại tâm Chân tín, Thiết nguyện cầu vãng sanh, hay nếu có thì tâm tín, nguyện chưa sâu, chưa vững nên khi gặp Thiền tông vi diệu liền bỏ Tịnh theo Thiền, tự phế bỏ cả câu niệm Phật mà mình đã đạt đến Nhất tâm bất loạn, tức chưa được như lời Tổ sư nói: “Dẫu cho Tổ Đạt Ma hay Phật Thích Ca có hiện ra khuyên bảo bỏ Tịnh về Thiền cũng từ tạ mà nói với Phật, Tổ rằng: con đã nguyện trọn đời tu tập cầu vãng sanh, nguyện không đời đổi”. Tuy không công kích mà vẫn xác nhận Pháp môn Tịnh độ là đúng, nhưng Thầy lại tự quay lưng với Phật Di Đà. Đến tận lúc gần lâm chung, Thầy gặp con và Trọng khuyên Thầy nên noi gương vô số Tổ sư Thiền tông, Thiền sư, Cao tăng, Thánh tăng,… từ cả Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam mà phát nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc thì Thầy mới phát tâm tin hướng Thù thắng Pháp môn Tịnh độ này. Nhưng thời gian tin hướng chưa lâu, công phu chưa thuần, lại bị bệnh khổ bức bách, dù Thầy cũng đã có 1 giờ phút lâm chung kỳ đặc.
Lại nữa, Thầy tuy có phát Đại tâm cầu vãng sanh Cực Lạc, công đức lại vô lượng vô biên nên đã lên thẳng phẩm Trung Trung, nhưng lại không có nhiều người hộ niệm niệm Phật cho Thầy, mà đa số vẫn chỉ tụng Bát Nhã, sám hối,… Lại trong suốt quá trình chư Tăng, Ni đến dự đám tang Thầy thảy đều quy chỉ Thiền môn, không ai nhắc nhở về Tịnh độ hay niệm được 1 câu Di Đà. Dù con không nói đó là sai nhưng rất uổng! Sức lực của những người tin Tịnh độ thật tâm niệm Phật cho Thầy thì có hạn, nên Thầy thiếu duyên tha lực của đồ chúng hộ trì nên phẩm vị không thể quá cao như nó đáng phải thế!
Nhưng dù sao, nhập vào Trung phẩm Trung sanh cũng đã là quá quý hóa, đã nhập Thánh vị khá cao, an tâm tu tiến Tối thượng thừa rồi!
Nhưng sau đó, Thầy như sợ đang ở giữa đạo tràng Thiền nói Tịnh độ không nên nên Thầy đã nói lại, dùng hình tượng bóng gió, MIỆNG VỪA NÓI VỪA CƯỜI:
“THẦY LÀ TRUNG CẤP PHÚ HỘ!”
Sau đó, con còn nghe Thầy nói thêm từ gì như “TRUNG ĐIỀN”, từ “Điền” như chỉ từ “điền chủ”, tức người giàu có có vườn ruộng thời xưa. Con nhớ hình như gồm có 3 từ, giữa chữ “Trung” và chữ “Điền” có 1 từ nữa, nhưng nhớ không rõ nên không ghi lại.
Lời bình:
Hình ảnh Phú hộ và điền chủ mà Thầy sử dụng cho thấy Thầy dùng các danh từ của người xưa nhiều, cũng như ám chỉ Thầy là người giàu có nên an nhàn, thanh thản, vui vẻ, thoải mái, là đặc tính của Thánh nhân cõi Cực Lạc. Còn “trung cấp” là nói đến phẩm vị Trung phẩm Trung sanh của Thầy. Vậy là THẦY ĐÃ TRỰC TIẾP KHẲNG ĐỊNH ĐẾN 3 LẦN RẰNG MÌNH ĐÃ VÃNG SANH, VÀ CHỈ THẲNG PHẨM VỊ MÌNH ĐẠT ĐƯỢC để con cũng như các Đạo hữu an tâm và mừng cho Thầy.
Trong mơ, con mừng quá sức, nghĩ Thầy thật may mắn đã được vãng sanh cõi Tịnh Độ như nguyện ước của con, mà chính mình cũng thật may khi được Thầy báo rõ ràng đến mức đó! (Thật ra trước đó con cũng đã từng có 1 giấc mơ rõ và nói rõ như vậy, khi bà nội của con, 1 người cả đời làm lành lánh dữ, làm rất nhiều việc Phật sự nhưng chưa biết tu hành có chánh kiến, đã báo mộng cho con và khẳng định đang ở tầng trời thứ 11 và vẫn thường niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh vì thấy con cháu thường niệm).
Con liền chạy qua báo tin cho mẹ biết. Mẹ con đang ở nhóm kia với các đạo hữu, nghe xong thì mẹ và tất cả đều rất mừng cho Thầy.
Đặc biệt, ngồi kế mẹ con có 1 cô tướng rất tốt, nhân hậu, nghe xong liền nói:
“THẦY HAY QUÁ CHỨ TÔI CŨNG VÃNG SANH MÀ CÓ VỀ BÁO ĐƯỢC VỚI MỌI NGƯỜI ĐÂU!”
Lời bình:
Lúc đang sắp viết, con nhớ lầm câu nói đó là: “CÓ NGƯỜI THÂN VÃNG SANH MÀ KHÔNG THẤY VỀ BÁO” nên có liên tưởng đến cô Tĩnh Hoa trong Đạo Tràng có mẹ có thoại ứng vãng sanh, nhưng bây giờ nhớ rõ thì phải viết cho đúng, người đó nói CHÍNH CÔ TA ĐÃ VÃNG SANH! Tức là, trường hợp cô Đạo hữu đó cũng đã là Thánh chúng cõi Cực Lạc như Thầy, nay về cùng với Thầy và có duyên nên ngồi nói chuyện với mẹ con, để đến lúc này mới khẳng định như vậy!
Nhưng đến giờ con vẫn không biết đó là ai. Có lẽ nào đó là 1 trong 2 trường hợp gia đình chúng con hộ niệm vãng sanh chăng, nhưng nếu vậy thì đã có về báo rồi, sao lại nói không? Hay là đó là trường hợp bà cố ngoại của con, bà nội của mẹ con, đã tự tại an nhiên vãng sanh nhưng không báo mộng được? Hay là người đó có ý nhắc khéo cho ai đó trong Đạo tràng Tuệ Tâm khi con trưng ra bằng chứng này để người đó biết tin tức của thân nhân chăng?
Từ đó về sau, con không còn thấy Thầy nữa, nhưng từ đầu giấc mơ đã tràn đầy cảm xúc hoan hỷ, nay gặp Thầy và nghe chính Thầy BA LẦN KHẲNG ĐỊNH RÕ RÀNG ĐÃ VÃNG SINH TRUNG PHẨM TRUNG SANH rồi thì lòng vui vô hạn!
Ngay sau đó, con lại thấy mình cùng các Đạo hữu đứng tụng thời khóa cho Thầy, đương nhiên là chú Từ Nghiêm dẫn chúng. (Chỗ này cũng là 1 nghi vấn, vì lúc trước con thấy Thầy đã đồng ý cho chú Từ Nghiêm cho đạo tràng tụng, nhưng đến lúc này mới thấy tụng thật nên không biết là 1 hay 2 lần tụng? nếu cùng 1 lần thì cuộc nói chuyện của con với Thầy và mẹ chỉ là là trong thời gian chứ và đạo tràng chuẩn bị tụng thôi chăng?)
Khi sắp tụng, trong đầu con nổi lên 1 nghi vấn, không biết Thầy đang ngồi đằng kia xem đạo tràng tụng mà CHỈ TỤNG VỀ KINH, SÁM HỐI BÊN THIỀN, KHÔNG LIÊN QUAN ĐẾN TỊNH ĐỘ, thì Thầy có thoái thất tâm với Tịnh độ không?
Lời bình:
Chỗ này cũng chính là lo lắng của con từ lúc Thầy thị tịch đến giờ:
Dù trong 8 tiếng sau khi Thầy lâm chung, con, mẹ con, cô Tĩnh Hoa, Trọng,… cố gắng niệm Phật chí thành tha thiết cho Thầy, dù phút lâm chung Thầy có tướng lành kỳ đặc, dù trước đó có rất nhiều bằng chứng Thầy chuyển tâm tín, nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc, nhưng trong 8 tiếng sau khi Thầy tịch thì cả đạo tràng đa số đều đọc kinh Bát Nhã, lời nguyện về Thiền, đối với việc niệm Phật nhiều người tỏ ra không hoan hỷ. Lại, khi lên Thường Chiếu, chư Tăng, Ni chỉ quy chỉ bên Thiền mà khai thị và phát nguyện hồi hướng công đức tụng niệm cho Thầy, chẳng những tuyệt chẳng có chút gì về Tịnh độ mà còn có những câu như: “Thường trụ Niết Bàn chẳng lìa Uế Độ, thị hiện nơi cõi Ta Bà mà thường ở cảnh Thường Chân”,… trái ngược hoàn toàn với Đại nguyện Vãng sanh cho Thầy, thì liệu có kích động làm Thầy quên mất hay chuyển hướng cầu sanh không? Lời khuyên của con, dù con được Thầy thương và con dốc hết tâm huyết lời lời chữ chữ tha thiết khuyên Thầy về Cực Lạc, nhưng vẫn là đơn lẻ và sự gắn bó với Thầy chưa sâu, liệu có bằng tình cảm của Thầy với cả Đạo tràng, bằng cả tình cảm lẫn sự tôn kính của Thầy với Quý Tăng, Ni các Thiền viện không? Nếu vì 1 phút Thầy chuyển tâm mà mất phần thù thắng vãng sinh Tịnh độ, lợi ích Đạo pháp và sự an vui vô lượng kiếp của Thầy bị phá hỏng, thì thật tội cho vị Thầy đáng kính của con biết bao!
Nhưng, ngay khi vừa khởi tâm lo lắng đó, thì trong đầu con ĐÃ TỰ CÓ CÂU TRẢ LỜI, hay có thể là do chính Thầy đã khéo dạy và chỉ ra cho con thấy:
“THẦY ĐÃ CHẮC CHẮN VÃNG SANH TRUNG PHẨM TRUNG SANH Ở CÕI CỰC LẠC RỒI THÌ KHÔNG THỂ NÀO CÒN CÓ CHUYỆN THẦY THỐI THẤT TÂM MÀ MẤT PHẦN TỊNH CẢNH NỮA, NÊN KHÔNG ĐÁNG LO!”
Thật ra thì con cũng từng hy vọng điều này khi thấy trước lúc tịch Thầy toàn hướng tâm về Tịnh độ, Thầy có sự lâm chung an lành khác thường (nằm thế kiết tường, an ổn mà tịch), con, mẹ con lại cùng Trọng và Đạo hữu hộ niệm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc cho Thầy rất nhiều trong 8 tiếng sau khi tịch và cả mấy ngày sau. Lại, Thầy có nhiều ứng nghiệm thần diệu có duyên với 2 mẹ con con. Nên từ trước thì con đã tin Thầy đã CHẮC CHẮN VÃNG SANH rồi, chỉ là chưa có được sự xác nhận cụ thể, rõ ràng như hôm nay thôi!
Sau đó, trong giấc mơ, tuy còn vài cảnh nữa nhưng không có Thầy (con chỉ cảm giác lúc trước khi tụng, chứ không có thấy cảnh tụng và âm thanh tụng trong giấc mơ). Những đoạn sau có nhiều chỗ con nhớ rất rõ, nhưng toàn là Thầy khéo léo nhắc nhở con tu hành, như giữ giới làm lành, hay giải vài thắc mắc của con (về việc có nên phân định tà chánh, xiển dương Chánh pháp Đại thừa hay không), nhưng vì xét thấy không liên quan đến chuyện Thầy vãng sanh nữa (dù rõ là Thầy hiển Thánh mới dùng giấc mơ mà khéo dạy con như vậy) nên không nêu ra chi tiết ở đây.
SAU KHI TỈNH:
Sau đó thì con sực tỉnh, không hề có tiếng ồn hay tác nhân nào cả, con cũng chỉ mới ngủ được không lâu, cụ thể tất cả chỉ diễn ra từ 11h30’ lúc bắt đầu ngủ đến 12h51’ khi tỉnh dậy thôi, tức không hề là do ngủ đủ giấc mà tự tỉnh mà như có ai đó làm cho tỉnh.
Như đã nói, sau khi tỉnh thì con tỉnh táo kỳ lạ, nhớ rất rõ về giấc mơ, lòng mừng vô hạn. Con nằm trên giường, nhắm mắt tưởng thầm cám ơn Thầy đã báo tin và làm vững niềm tin về Cực Lạc cho con, chắc cũng là do Phật Di Đà và Thánh chúng từ bi gia hộ cho con có được giấc mơ này chăng?
Con thầm niệm liên tục Thánh hiệu: “NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI, ĐẠI TỪ ĐẠI BI, TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT” để hồi hướng cho Thầy và cảm ơn Phật.
Con thoáng có ý nghĩ chạy ngay xuống lầu dưới để kể cho mẹ nghe để mẹ mừng, nhưng xem lại đồng hồ thì thấy chưa đến 1h khuya nên đành thôi vì sợ đánh thức ba mẹ.
Con lại dự tính lên bàn thờ Phật Di Đà thắp nhang niệm Phật tụng kinh, vừa để cảm tạ vừa hồi hướng công đức cho Thầy. Hay lấy Bồ đoàn ngồi Thiền niệm Phật. Nhưng vì thấy còn quá khuya nên thôi, dự tính đến sáng mai, đúng rằm tháng 04 sẽ làm.
Nghĩ xong, con dự tính niệm Phật thầm rồi ngủ tiếp, mai dậy tính tiếp. Nhưng như có ai đó thúc giục con ngồi dậy viết lại giấc mơ này ngay, với lý luận: sợ ngủ sẽ quên mất, hay sáng ra niệm Phật thì câu Phật hiệu chiếm đầy tâm trí, sợ sẽ quên, nên phải nhanh chóng viết ra. Bây giờ mới thấy đó là quyết định đúng để nhớ được nhiều chi tiết nhất, chân thực nhất vậy.
Con bắt đầu thức dậy lúc 12h51’ sáng, sáng ngày 31/5/07, tức ngày 15/4 năm Đinh Hợi này, ngay ngày thất thứ 3 của Thầy Tuệ Tâm.
Con bắt đầu viết lúc 12h57’, sau vài phút niệm Phật, cố gắng viết thật nhanh sợ sẽ dễ quên nên chữ xấu, câu văn không trau chuốt. Cho đến lúc này đã được tổng cộng 10 trang giấy (viết tay). Bây giờ là 3h07’ sáng, tức con đã viết được hơn 02 giờ liên tục [chưa kể các phần “lời bình” mới được thêm vào sau này, khi đánh máy tờ giấy này], tay tê mỏi nhưng phải cố gắng viết ngay vì sợ quên mà lãng phí cơ hội kỳ diệu này!
Con cam đoan tất cả đều rất chân thực, vì con tu hành cả Thiền và Tịnh, theo Chánh pháp của Phật, không đời nào dám nói dối về Pháp, nhất là về Thầy Tuệ Tâm, vị Thầy con thường kính trọng, dù mới chỉ có duyên gặp gỡ vài tháng ngắn ngủi. Chỉ trừ những chỗ con nhớ lại không rõ thì con đã có ghi lại, cũng như có lúc nguyên văn câu nói có thể thiếu 1, 2 từ, tất cả chỉ là do nhớ không trọn vẹn được 100%, kính xin Phật A Di Đà, chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ sư chứng giám cho lòng chân thật này!
03h16’ sáng ngày 31/05/07, THIENTINH82 kết thư.
PHỤ CHÚ VỀ NHỮNG ĐIỀM LINH DIỆU CỦA GIẤC MƠ:
1/ Khi vừa chuẩn bị viết, con tính đi tìm 1 cây bút để viết thì đã có sẵn cây bút tự bao giờ để cạnh quyển tập. Đến khi viết xong, con dự tính phải chạy xuống tận tầng trệt để tìm đồ bấm kim, nhưng thoáng nghĩ có khi có 1 cái ở trên bàn máy tính ở tàng dưới nên đã chạy xuống tìm thử, đang chuẩn bị tìm thì lạ thay nó hiện lù lù ngay trước mặt! Cứ như có ai đó sắp đặt sẵn vậy!
2/ Khi viết xong, con đi uống nước ở tầng dưới và lên phòng nằm nghỉ, thì lạ lùng thay: Bây giờ, 3h26’ sáng, tức chỉ cách chừng 10 phút sau khi con viết xong, thì hình ảnh giấc mơ liền mờ đi rất nhanh chóng, đến khoảng 70-80%! Trong khi trước đó, con nhớ rất, rất rõ đến độ giống như giấc mơ là bức tranh ngay trước mặt, con chỉ có việc ngồi tả lại thôi! Rõ ràng là như có ai đó (có lẽ là Thầy và chư Phật, chư Thánh chúng chăng) giữ cho con nhớ được giấc mơ này trong thời gian trước. Mà kỳ thật trong lúc viết con cũng thầm nguyện Thầy và chư Phật gia hộ cho con đừng quên, để có thể viết chân thực nhất, đầy đủ nhất về giấc mơ kỳ lạ này, vì con rất lo trong suốt thời gian dài viết ra (cụ thể là hơn 2 giờ liền) có quên gì không? Tóm lại, chuyện này thật là kỳ lạ!
3/ Và đây là điềm khẳng định rõ nhất Thầy vãng sanh ngay trong đời thực:
Khoảng 4h30’, con xuống phòng mẹ kể cho mẹ nghe câu chuyện giấc mơ này, mẹ con rất mừng và cũng rất tin tưởng Thầy đã thật vãng sanh. Nhưng mẹ con lại hỏi: “SAO MẸ CŨNG NIỆM PHẬT VÀ HỒI HƯỚNG CHO THẦY MÀ THẦY KHÔNG BÁO MỘNG CHO MẸ?”. Con giải thích với mẹ rằng trước đó con thường dùng tâm tha thiết hướng đến Thầy, cũng như lúc Thầy còn sống con và Thầy có tình cảm tốt, nên có lẽ vì vậy mà con được Thầy ứng hiện báo mộng, còn mẹ thì không.
Mẹ con rất mừng, liền lên bàn thờ Phật để tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho Thầy, lúc này không còn cầu cho Thầy vãng sanh nữa mà là mong trong 49 ngày này Thầy sẽ được tăng cao phẩm vị nơi Liên Đài để sớm thành Phật, sớm độ chúng sanh, vì mẹ đã biết chắc chắn Thầy đã vãng sanh rồi!
Mẹ con có khởi niệm nghĩ: “Nếu Thầy quả thật đã vãng sanh thì xin Thầy cho con thấy 1 bằng chứng gì đó, như nhang cong chẳng hạn”.
Thì ngay lúc đó CÓ 1 CÂY NHANG TỪ TỪ CONG DẦN TRƯỚC MẮT MẸ!
Mẹ con rất vui và nghĩ là Thầy đã ứng hiện cho thấy bằng chứng, mẹ tự nghĩ dẫu cây nhang có rụng mất phần đã cong cũng đã là có bằng chứng rồi, mẹ đã rất tin rồi!
Ngờ đâu CÂY NHANG LIÊN TỤC CONG VÀ BỀN, TỚI TẬN ĐẾN LÚC CHÁY HẾT CẢ CÂY NHANG VẪN CÒN CONG!
Mẹ con niệm Phật xong xuống liền báo tin vui cho con rằng không chỉ trong giấc mơ mà THẦY ĐÃ 1 LẦN NỮA KHẲNG ĐỊNH THẦY ĐÃ VÃNG SANH NGAY TRONG LÚC MẸ ĐANG THỨC!
Đến tận trưa hôm đó, con lên phòng thờ xem thử, thì thấy CÂY NHANG CONG VẪN CÒN VÀ RẤT ĐẸP, CONG HÌNH XOẮN ỐC RẤT LẠ! Con liền lấy máy ra chụp rất nhiều tấm ảnh để lưu lại sự kỳ đặc này!
Mà về sau, mẹ và con xem kỹ lại thì mới phát hiện 1 điều cực kỳ linh diệu nữa là:
CÂY NHANG LEN LỎI BÊN TRONG CÁC CHÂN NHANG KHÁC TRONG LƯ NHANG ĐỂ MÀ CONG CHO TỚI TẬN LÚC HẾT! Trong khi đó, chỉ cần chạm nhẹ vào 1 cây là toàn bộ cây nhang sẽ rất dễ gãy!
CỨ NHƯ CÓ PHÉP MÀU LÀM CHO CÂY NHANG RŨ XUỐNG MÀ BIẾT LEN LỎI NẰM TRONG CÁC KHOẢNG TRỐNG HIẾM HOI GIỮA RỪNG CHÂN NHANG VẬY!
Nếu không phải là sự xác chứng của Thầy hay của Phật Di Đà thì không thể nào có chuyện như vậy xảy ra!
Đến tận vài ngày sau, cây nhang này vẫn còn nguyên dạng, và rất may là con ĐÃ CÓ CHỤP NHIỀU TẤM HÌNH LÀM BẰNG CHỨNG VỀ SAU!Cũng do những tấm hình này mà khi nghe mẹ nói mẹ thấy các cây nhang cong len vào các chân nhang khác thì con đã có thể lấy ra kiểm chứng và thật kinh ngạc, con đã chỉ cho Trọng thấy sự mầu nhiệm này, cũng như mong đây sẽ là vật chứng cho các Đạo hữu tăng trưởng tín tâm!
CHÚ THÍCH:
Cho đến tận lúc này, tổng cộng con đã có đến 4 giấc mơ về Thiền và Tịnh, trong đó có 2 giấc mơ TRỰC TIẾP CÓ THẦY THÍCH TUỆ TÂM, nhưng vì thời gian có hạn nên con chỉ tập trung nêu ra phần giấc mơ chính này trước. Hẹn sẽ viết phần còn lại sau.
Con cũng sẽ nêu ra những bằng chứng chứng minh Thầy Tuệ Tâm có nhiều dấu hiệu vãng sanh Cực Lạc ra sao, sau khi mất Thầy có những hiển linh như thế nào,…
Kính mong sao sau khi đọc được bài viết này, sẽ có nhiều Đạo hữu phát được tín tâm mà cùng với chúng con niệm Phật cho Thầy và theo đúng lời mà ta đã viết trước linh cữu của Thầy: “Phật tử Đạo tràng Tuệ Tâm nguyện theo dấu chân Thầy”!
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI A DI ĐÀ PHẬT.
Hình ảnh cây nhang cong kỳ lạ làm bằng chứng:
Hình phòng thờ ngay lúc có cây nhang cong, ngay trước tượng Phật A Di Đà:
![]()
BA GIẤC MƠ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN
THẦY TUỆ TÂM
I/ GIẤC MƠ THỨ NHẤT:
Thời điểm:
Trước giấc mơ Thầy Tuệ Tâm báo vãng sanh Cực Lạc vài ngày, khoảng chừng trong thất thứ 2 của Thầy.
Nội dung giấc mơ:
Con đang băn khoăn nhiều ngày rất mong có thể nói về lợi ích thù thắng của Pháp môn Tịnh độ cho Đạo tràng để nếu người nào có duyên tin nhận thì cùng hợp sức với chúng con hộ niệm cho Thầy trong 49 ngày quan trọng này, nhưng sợ tội phá đạo tràng vì đây là đạo tràng Thiền chứ không phải Tịnh độ, lại là đạo tràng đi đúng Chánh pháp Thiền Đốn ngộ nên nếu có thì tội sẽ rất lớn. Hay ít nhất thì con sợ trong 49 ngày này thì Thầy sẽ không vui khi thấy con hướng Đạo tràng từ tu Thiền sang Tịnh độ.
Thì bất chợt cách ngày Thầy báo mộng vãng sanh vài ngày thì con nằm mơ nghe 1 giọng nói rất rõ ràng chỉ dạy rất nhiều lần, ít nhất cũng 4-5 lần, theo như con nhớ là lặp đi lặp lại cùng 1 câu nói, nhưng không thấy người nói. Nguyên văn câu nói không dám chắc, vì đã quá lâu, nhưng đại ý là:
“TRƯỚC TIÊN PHẢI CHỈ RA CHỖ CHÂN THỰC CỦA CHÂN TÂM, RỒI NƯƠNG ĐÓ PHÁT KHỞI ĐẠI DỤNG LÀ LỤC TỰ DI ĐÀ VÀ VIỆC CẦU VÃNG SANH CỰC LẠC”
Con đã có nói chuyện này cho nhiều Đạo hữu trong Đạo tràng biết.
Theo con, đây chắc chỉ có thể là lời dạy của Thầy Thích Tuệ Tâm. Lúc đầu con chỉ bán tín bán nghi nhưng đến giờ này, khi có quá nhiều bằng chứng chứng minh Thầy đã vãng sanh thì điều này hầu như chắc chắn 100% chỉ có thể là do Thầy chỉ dạy, vì tâm con tha thiết vì Chánh pháp của Phật, vì lợi ích vãng sanh và tăng cao phẩm vị của Thầy.
Theo con nghĩ, lời dạy này có các điểm chính:
Ø Không nên mới đầu đưa thẳng Pháp môn Tịnh độ vào, mà nên nói và tán dương về Thiền tâm đã. Đó cũng là để chứng minh Thiền tức là Tịnh, Tịnh tức là Thiền, vãng sanh Cực Lạc cũng chỉ để viên mãn Phật tâm thôi vậy.
Ø Nương Chân thể thanh tịnh đó mà phát khởi nên Diệu dụng là câu niệm Phật, vì thể thường khởi dụng, thể dụng không hai, nên nếu người hiểu Thiền hiểu Đạo phải biết từng niệm niệm Phật, từng chữ từng âm đều bổn tánh là không tịch, chẳng có chút gì trái với Chân tâm, mà càng niệm Chân tâm càng hiển bày vì Thể Dụng song đôi, chẳng riêng phế dụng mà trụ thể mà thành chấp không vậy.
Ø Không chỉ câu niệm Phật là Diệu dụng tự tâm mà cả việc Vãng sanh Cực Lạc cũng là Đại dụng phát khởi từ Chân tánh. Nên kẻ chỉ chấp nhận câu niệm Phật là hiển tâm mà chối bỏ chuyện vãng sanh thì hoàn toàn là điên đảo, vì Chân thể Vô sanh thường sanh các pháp, như Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền sư từng nói: “Ai không niệm, ai không sanh. Nếu thật không sanh, không chẳng sanh”. Hay như Trí Giả Đại Sư, Tổ lập Tông Thiên Thai viết trong Tịnh độ Thập nghi luận: “Sanh đã chẳng chướng vô sanh, thì vô sanh há lại ngại gì sanh?”. Người trí cầu sanh Tịnh độ biết rõ Chân thể không sanh mà thường hóa hiện sự sanh, tức là “sanh thực tướng” như lời Lục tổ, là sanh trong chính Bổn tâm mình, là như lời Cổ đức nói: “Sanh thì quyết định sanh, về thì không thật về”, vì trọn là sanh trong Tự tâm linh diệu cùng khắp vũ trụ của ta vậy. Tự tâm đó đã không có biên giới thì ngại gì hóa hiện thành cõi nước Cực Lạc, thành sen báu, thành sự vãng sanh, thậm chí thành thân tướng Phật Di Đà? Người nào phế bỏ sự sanh để cầu vô sanh tức chẳng hiểu Vô sanh và đi sai lệch với Vô sanh vậy!
II/ GIẤC MƠ THỨ HAI:
Thời điểm:
Vào buổi tối và sáng sớm ngày 07/06/2007, nhằm ngày 22/4 năm Đinh Hợi, tức ngay ngày thất thứ 04 của Thầy Thích Tuệ Tâm.
Ban đầu con gặp giấc mơ này mà không có chú ý gì đến thời gian, chỉ đến khi gặp cả 2 giấc mơ, tức qua đến trưa ngày hôm sau mới sực tỉnh thì ra cả 2 giấc mơ đều diễn ra NGAY NGÀY THẤT THỨ 4 CỦA THẦY TUỆ TÂM!
Cũng trong thời gian này, như đã nói, sáng hôm 07/06 đó thì cây nhang cong đặc biệt từ thất thứ 03 khi Thầy báo mộng cho con là đã vãng sanh Cực Lạc đã bất ngờ rụng đi, tức nó tồn tại vừa đúng 1 tuần, từ ngày thất thứ 3 đến thất thứ 4!
Nội dung giấc mơ:
Trong lúc đang mơ thì con thấy RẤT, RẤT RÕ, nhưng khi tỉnh lại thì đã quên đi khá nhiều, lại để đến tận hôm nay, khi viết bài này chung với giấc mơ cuối cùng (hôm nay là ngày 13/6/07, tức đến 6 ngày sau) nên đã quên rất nhiều chi tiết, chỉ nhớ đại ý thôi. Vì lúc đó con tuy thấy giấc mơ rất hay và lạ nhưng lại quên viết lại, phần cũng vì không nhớ được tính chất đặc biệt của ngày hôm đó nên đã để lỡ cơ hội này, thật đáng tiếc!
Nay con chỉ còn nhớ những chi tiết sau:
Con thấy đang vào 1 ngôi chùa và trò chuyện với 2 vị xuất gia, 1 vị Tăng và 1 vị Ni. Con nhớ vị Tăng hình như mặc áo nâu, còn vị Ni lại mặc áo vàng.
Con thấy con đang đem vấn đề Thiền và Tịnh độ ra bàn luận, trong đó 2 vị Tăng, Ni đang là người chấp Thiền nên con đang khéo đưa ra các lý luận để chứng minh chỗ cao sâu mầu nhiệm của Tịnh độ và chỗ Tịnh độ dung nạp Thiền chứ chẳng chướng gì Thiền. Theo con nhớ thì dù là giấc mơ nhưng những lời lẽ, phân tích khá sâu sắc, chặt chẽ, nên ngay trong mơ mà 2 vị Tăng, Ni đó đã được thuyết phục mà không dám xem thường Pháp môn Tịnh độ nữa.
Con lại nhớ con từng phân tích rằng Thiền muốn đạt được lợi ích chân chính phải thời thời bất biến an trụ nơi Pháp thân Thanh tịnh, không khi nào quên sót, không phải chỉ trong 1 thời gian ngắn mà phải trong hàng chục, hàng trăm năm, từ đời này đến đời khác mới có phần lợi ích chân chính. Nhưng ĐÓ CHỈ LÀ CẢNH GIỚI CỦA HÀNG PHÁP THÂN ĐẠI SĨ, tức bậc Thập Địa, Đẳng Giác hay Diệu Giác mới có phần. Còn nếu không thì chỉ hưởng vài an lạc nhỏ nhiệm, kiểu TU GIEO NHÂN, chứ tuyệt nhiên không có phần an nhiên tự tại hoàn toàn trước mọi cảnh duyên trong Luân hồi sanh tử! (đừng nói các khổ Địa Ngục, Ngạ quỷ,… mà chỉ nói những nỗi khổ cùng tột của chính loài người, loài súc sanh còn chưa chắc khi gặp đã giữ nổi Chánh niệm nữa là!)
Nên con thấy mình từng nói là: NGAY CHÍNH SƯ ÔNG THÍCH THANH TỪ CŨNG CHƯA CHẮC CÓ PHẦN CHỨNG NHƯ VẬY huống hồ những đệ tử ở dưới!
Con thấy ngay đó cả 2 vị đều đồng ý, và vị Ni sư đó có khẳng định:
“NGAY CHÍNH SƯ ÔNG THÍCH THANH TỪ CŨNG TU NIỆM PHẬT” (hay TU TỊNH ĐỘ, con nhớ không rõ).
Và vị này dẫn ra trong thời tụng khóa của Thầy Thanh Từ có nhắc đến Hồng danh A Di Đà Phật, nhưng khi con nhìn vào quyển sách của vị Ni sư đó đưa thì không thấy chữ “Di Đà” mà lại thấy chữ “HI HA”, nhưng TRONG TÂM LẠI HIỂU LÀ THẦY THANH TỪ ĐÃ NÓI TRẠI SANG CHỨ Ý THÌ VẪN LÀ NIỆM PHẬT DI ĐÀ, thật lạ!
Tuy nhiên, trong thái độ của vị Tăng, Ni đó thì con thấy hình như vì đã gặp điều hợp lý nên không thể phản bác Pháp môn Tịnh độ mà bất đắc dĩ nói ra như vậy chứ không thật tâm tin hướng Tịnh độ!
Lời bình:
Trong giấc mơ nói Thầy Thanh Từ có tu Tịnh độ thì chuyện đó chắc chỉ mỗi mình Sư ông là biết! Nếu quả thực như vậy thì đáng quý biết bao, vì một người đã thông Thiền môn mà còn chỉ quy Tịnh độ nữa thì như lời trong Tứ Liệu Giảng của Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói: “Có Thiền có Tịnh độ; Như hổ mọc thêm sừng; Hiện đời làm thầy người; Đời sau làm Phật, Tổ”! Những bậc như vậy chắc chắn sẽ vãng sanh phẩm vị rất cao mà còn mau chóng thường an trụ tâm Thiền, viên tu viên chứng nữa! Mà thực cũng rất hy vọng như vậy, nhất là khi không chỉ Thiền sư, Tổ sư mà chính Thầy của Sư Ông lại cả đời chuyên tu niệm Phật, tha thiết cầu vãng sanh. Hy vọng như vậy lắm thay!
Nhưng còn nghi vấn chỗ danh tự “Di Đà” lại biến thành “Hi Ha”, như âm thanh 1 “lời cười nhạo” thì ý nghĩa là gì, con không rõ nên không dám bàn!
Cũng cần nói rõ chỗ này, con đã từng đọc các lời văn đọc trong các lúc như thọ trai,… của Thiền viện Thường Chiếu hay các nhánh của Thầy Thanh Từ trên mạng Internet, thì lúc đó con cũng thấy lạ là lại vẫn có đọc Hồng danh Di Đà, nhưng chỉ vỏn vẹn đúng 1 lần, hình như là trong phần “Cúng dường Thanh tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật …….. Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật”.
Chỗ này con nhớ không rõ, vì đã đọc quá lâu, nhưng rõ là có nhắc đến Phật A Di Đà, có lẽ đó là điều liên quan đến giấc mơ này chăng? Nhưng sao trong mơ không thấy cả chữ Nam Mô, hay Cực Lạc Thế giới gì cả, mà chỉ thấy rõ nhất là 2 chữ “Hi Ha”?
Nếu thật là có ý chỉ sự cười nhạo thì sao trong mơ tâm con vẫn nghĩ đó là Thầy Thanh Từ cố ý ám chỉ câu Di Đà và con lại mừng rỡ hoan hỷ vì Thầy đã tin niệm Phật? Mà Thầy niệm Phật chứ có thật tin, thật tu Tịnh độ không? Hay là vì có ý muốn nói người niệm Vạn đức Hồng danh Di Đà mà không có tâm tín nguyện mà chỉ niệm suông (kiểu định tâm như bên Thiền) tức đã đem câu niệm Phật ea mà đùa bỡn, cười nhạo chăng? Vì không rõ nghĩa nên đây chắc phải ghi ra như là 1 dạng nghi vấn vậy!
Sau đó, con thấy trong mơ con định kể với vị Ni đó về giấc mơ Thầy Tuệ Tâm vãng sanh Cực Lạc để tăng thêm tín tâm với vị Ni đó thì thấy cô ta chạy đi không chịu nghe nữa, dù con có gọi với theo, còn vị Tăng thì vẫn ngồi đó. Con nói với vị Tăng vài câu nữa thì chợt thức giấc. Lúc đó là sáng ngày 07/6/07, tức ngày thất thứ 4 của Thầy.
Lý do quan trọng:
Con gộp giấc mơ này vào những giấc mơ liên quan đến Thầy Thích Tuệ Tâm vì:
Ø Thứ nhất: nó nói đến tương quan giữa Thiền và Tịnh độ, giữa những cái nghi sai lầm của Thiền mà bài bác Tịnh độ, giữa chuyện giải những cái nghi đó mà sanh khởi tín tâm chân thiết hội Thiền quy Tịnh nên con thấy nó hoàn toàn tương xứng với nội dung chính của cả 3 giấc mơ kia của Thầy Tuệ Tâm là liên quan đến Thiền và Tịnh.
Ø Thứ hai: Giấc mơ liên quan đến chuyện giải nghi Thiền - Tịnh, tức sự băn khoăn của con về chuyện phá nghi Thiền Tịnh như con dự tính làm trong Đạo tràng Tuệ Tâm và trong quyển sách “DI ĐÀ TỊNH ĐỘ GIẢI NGHI TẬP” mà con đang viết dở dang nên đó có thể là 1 lời dạy của Thầy ứng hiện chăng?
Ø Thứ ba: Giấc mơ này có chung đặc điểm với 3 giấc mơ kia là rất, rất rõ đến kỳ lạ. Thậm chí trong các giấc mơ kia con chỉ nhìn thấy, nghe thấy và thuật lại là chính, mà nay trong mơ con lại luận bàn Phật lý, dùng lý luận Phật pháp nữa, thậm chí trong mơ mà muốn nói về giấc mơ của Thầy Tuệ Tâm để tăng trưởng tín tâm của vị Ni đó nữa, rất lạ!
Ø Thứ tư: Thời điểm giấc mơ diễn ra rất lạ, tức đầu ngày Thất thứ 4 của Thầy Tuệ Tâm, giống hệt giấc mơ Thầy báo đã vãng sanh vào thất thứ 3.
Tóm lại, theo con, tất cả điểm trên cho thấy rất nhiều khả năng đây lại là 1 ứng hiện nữa của Thầy Tuệ Tâm nhằm 1 mục đích gì đó, nên con mới đưa vào đây.
III/ GIẤC MƠ THỨ 3:
Thời điểm:
Khuya ngày 07/06/2007, tức ngày thất thứ 04 của Thầy, đến sáng ngày 08/06/2007. Tỉnh giấc và bắt đầu ghi lại ngay vào khoảng 5h26’ sáng.
Tình trạng chung:
Giấy mơ này cũng có nhiều đoạn rất rõ như lần Thầy Tuệ Tâm báo vãng sanh Cực Lạc, dù cũng có vài đoạn nhỏ hơi mờ. Đặc biệt, ĐÂY LÀ LẦN THỨ HAI THẦY TUỆ TÂM ỨNG HIỆN RÕ THÂN TƯỚNG TRONG GIẤC MƠ.
Nội dung cụ thể của giấc mơ:
Đoạn trước có thể có mơ nhưng không rõ, chỉ nhớ bắt đầu từ lúc viết. Cũng như nhớ thì rất nhiều và chi tiết, ghi lại cũng rất nhiều, nhưng vì quá dài nên phải lược bớt 1 số điểm, nếu ai cần có thể xem thêm bản gốc viết tay của con ghi trong đúng lúc đó.
Con (Thi-Thientinh82) thấy cùng 1 nhóm người như là các bạn học cũ vào tham quan 1 thắng cảnh, trong đó phần chủ yếu là 1 ngọn núi đá to lớn, có hang động bên trong. Để vào động, chúng con đã chọn con đường tắt để đi, nhưng càm giác ngay lúc đó tuy rất rõ ràng nhưng nay nhớ lại thì lần đi đầu tiên không nhớ rõ lắm để kể lại chi tiết, có thể do nó bắt đầu từ đầu giấc mơ nên khi tỉnh dậy dễ quên hơn. Chỉ có lần vào thứ 2, tức gần lúc thức dậy thì con mới nhớ từng chi tiết nhỏ, nhưng cả giấc mơ đều có trạng thái sáng suốt rõ ràng, rõ cả những dằn vặt suy nghĩ của chính mình, rõ từng bước chân, đường đi, chỉ có là bây giờ nhớ hay không nhớ để thuật lại thôi.
Con và nhóm bạn theo đường tắt vào được trong động, thấy giống cảnh chùa nhưng lại giống cảm giác ở trong 1 lớp học hay trường học hơn. Cảnh quan chi tiết trong động cũng như đã nói gì, làm gì, học gì, thì lúc đó thì rõ, bây giờ, lúc ghi lại, đã mờ rất nhiều, chỉ còn nhớ cảm giác chung. Còn vị Thầy thì không nhớ rõ lúc đó là Tăng hay tục.
Sau 1 thời gian tham quan và học tập khá lâu, con và các bạn ra về, nhưng đi đường khác với con đường khi vào động. Con đường này lại như là 1 bãi giữ xe, lại có tầng lớp từ trên đi lần xuống dưới, như các tầng của 1 tòa tháp, nhưng cảnh quan đều bằng đá đen cả, tức cả ngọn núi như 1 toà tháp lớn bằng đá.
Trên đường dắt xe ra về thì con nhớ mình bỏ quên cặp học trong hang động (tức lúc này nhớ rõ là đi học), nên phân vân vì:
Ø Không biết nên bỏ cặp hay bỏ xe giữa đường xuống động (vì vẫn còn trong phạm vi của núi đá) mà đi lấy cặp, vì con thấy xe đang dắt không khóa lại được, nếu bỏ xe giữa đường rất dễ mất xe.
Ø Có nên bỏ xe ngay chỗ đang đứng không, vì chỗ đó là giữa đường dắt xe của người khác, bãi xe lại đông, sẽ choáng đường người khác, còn nếu đát ra hết động thì nặng và chậm nên chậm lấy cặp.
Con thấy mình không thể theo đường cũ đã ra để vào lại được, mà phải quay ra khỏi núi đá rồi vào trở lại bằng con đường tắt ban đầu. Cuối cùng, con đã quyết định bỏ xe giữa đường để đi tiếp ra đến hết động đá.
Nhưng đang đi thì con nghe tiếng đám bạn phía sau đang đi ra, con liền dừng lại hỏi xem họ có thấy chiếc cặp của con không, thì họ nói có thấy nhưng không mang ra, lại mang theo cặp của 1 người bạn khác nhờ con giữ giùm. Con đã nhận lời giữ cái cặp đó.
Nhưng trong lúc quay lại để gặp nhóm bạn, con thấy chiếc xe mình để ngay lối đi lạ thay đã được dựng ngăn nắp để không choáng đường, dù không có nhân viên giữ xe và con cũng không xếp xe như vậy.
Lúc này, khi các bạn đã ra về, con quyết định một mình quay vào động để lấy chiếc cặp của mình, mà vẫn mang theo cái cặp của người bạn. Tức con đi ra khỏi phạm vi núi đá rồi quay ngược vào lối vào cũ.
Lời bình:
Đó là toàn bộ những sự thật của giấc mơ, dù thấy không có ý nghĩa gì nhiều nhưng vì nhớ rõ vậy nên phải thuật lại cho đúng, cũng có thể nó có hàm ý gì chăng? Như về sau con thấy cảnh giới trong động như là cảnh Tây Phương, nên “lối tắt đi vào động” có thể chính là Tín, Nguyện niệm Phật cầu vãng sanh mà được sanh về, còn lối ra để lấy xe (phương tiện) mà ra (hóa sanh) thì không thể đi ngược lại được, vì nếu sau khi học xong (đã chứng nhập Vô sanh Pháp nhẫn, tùy nguyện tái lai) thì con đường thọ sanh là từ cõi Cực Lạc đi xuống phàm trần, còn muốn trở về phải dùng lại con đường ban đầu, là Tín, Nguyện cầu sanh chăng? Đó chỉ là suy diễn của con.
Lần trước vào núi con không nhớ rõ, nhưng lần này lại rất rõ: Con thấy mình chui dưới 2 bức tượng rất lớn bằng đá hay thạch cao màu trắng, hình như là tượng 2 Bồ Tát (chắc là Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí). Con thấy mình chui giữa 2 cánh tay của 2 Ngài mà vào 1 lỗ lớn trên thân núi như cánh cửa đá dẫn vào 1 lối đi. Con chui theo lối đi khá chật hẹp đó mà leo dần theo hướng lên trên có nhiều tảng đá lồi lõm xung quanh, lại phải mang theo cái cặp của người bạn nên cũng hơi vướng víu. Nhưng lạ là con lại không thấy mệt nhọc và quá khó khăn.
Sau một lúc, cũng khá nhanh, con đã vào đến khuôn viên “lớp học” bên trong động đá. Con nhìn từ trên xuống qua lỗ trống lớn giữa đường đi và khuôn viên thạch động, thì thấy đó là 1 khoảng không rất rộng lớn bên trong núi đá, con nhìn rõ cả những viên đá, khe đá dưới tầm mắt mình và cả hang động nữa.
Trong động có các ngọn đèn cầy thắp khá sáng. Nổi bật giữa động là 1 bức tượng Phật khổng lồ rất to lớn, toàn thân và đài sen đều vàng rực, thân tướng oai nghiêm mà từ bi. Đỡ bên dưới đài sen là 1 lớp mây cũng được làm màu vàng, hoa văn các đường nét của đám mây và đài sen đều rất tinh xảo đẹp đẽ. Đỡ bên dưới cấu trúc tượng gồm tượng Phật, đài sen và khối mây là tảng đá đen trong động. Tượng được đặt sát vách động đá. Con thấy rất rõ, nếu là họa sĩ hay nhà điêu khắc có thể sẽ vẽ, nặn lại được, thấy rõ đến không ngờ về bức tượng Phật này, đặc biệt là phần đài sen và đám mây.
Trong khuôn viên động có trang hoàng các đồ trang trí dùng trong nhà chùa, đặc biệt giống như trong Chánh điện (tràng phang, bảo cái,…). Phía trước tượng Phật có đặt 1 bàn thờ khá lớn và trang trọng, (sơ đồ phát thảo hình vẽ của thạch động và toàn cảnh khu vực có ghi rõ trong bản viết tay, vì vẽ không khéo nên không đưa vào đây).
Lời bình:
Theo con, cảnh quang trong động có thể dụ cho cõi Cực Lạc Tây Phương, vì:
- Không gian rộng, ngụ ý chỉ cõi Cực Lạc rộng rãi vô biên.
- Tượng Phật cực lớn bằng toàn thân sắc vàng, cả đài sen và vầng mây cũng màu vàng, có lẽ là chỉ cho Phật Di Đà với đặc điểm thân tướng rất lớn và toàn sắc vàng như trong Kinh thường nói.
Trước bàn thờ Phật là 1 vị Tăng y áo chỉnh tề đang tụng niệm. Con cảm nhận rõ vị Tăng này là THẦY THÍCH TUỆ TÂM, thân tướng và khuôn mặt cũng giống hoàn toàn. Nhưng lần này không như lần trước Thầy hiện tướng cư sĩ còn trẻ khi báo mộng vãng sanh, mà Thầy lại mang thân tướng Tăng sĩ nghiêm trang lễ tụng.
Con lần theo đường đá leo xuống đến nền của căn phòng đá lớn đó, cố không tác động đến Thầy đang lễ tụng. Trong lúc đang đi con nghe Thầy đang đọc MỘT BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN RẤT DÀI, PHÁT NGUYỆN CẢ VỀ THIỀN VÀ TỊNH ĐỘ, TỪNG CÂU TỪNG CHỮ RÕ RÀNG BÊN TAI, đến nay âm thanh như còn vang vọng! Con nghe rõ cả bài văn đến kỳ lạ!
Nhưng vì Thầy đọc dạng phát nguyện bằng thơ, lời văn quá dài, lời lẽ khúc chiết, từ ngữ sâu sắc, con lại mới chỉ nghe qua có 1 lần nên không tài nào nhớ rõ nguyên văn từng chữ, chỉ còn NHỚ RÕ CẢM GIÁC ÂM ĐIỆU RẤT HAY, NGHE RÕ TỬNG CHỮ, TÂM THA THIẾT CỦA THẦY khi đọc và lễ bái. Hiện nay con nhớ rõ nhất 2 ý:
1/ Thầy nói: “NGUYỆN HỒI HƯỚNG THÂN PHỤ CỰC LẠC TAM MUỘI”. Nguyên câu rất dài, con chỉ nhớ nổi mấy chữ trên. Lạ là Thầy không hồi hướng cho mình mà cho “thân phụ”, lại không dùng từ “vãng sanh Cực Lạc” hay “nhập niệm Phật Tam Muội” mà lại nói là “Cực Lạc Tam Muội”. Có lẽ Thầy ngụ ý Thầy đã được về Cực Lạc, đã nhập Tam Muội, đã ở chỗ yên ổn rồi nên không cần hồi hướng mà chuyên hồi hướng cho thân phụ để mong trả hiếu chăng? Và “thân phụ” này có thật là cha trong kiếp này của Thầy hay là ý muốn nói người học đạo luôn xem mười phương chúng sanh là cha mẹ nên Thầy luôn nhớ nghĩ đến chúng sanh chăng? Và còn từ “Cực Lạc Tam Muội”, phải chăng ý Thầy muốn nói “có về Cực Lạc mới đạt được, nhập được và sống được, an trụ được với Tam Muội” chăng?
2/ Sau đó, Thầy còn nguyện rất nhiều, nhưng con chỉ còn nhớ rõ 1 câu, 1 ý nữa:
“NGUYỆN CON THỰC HÀNH NIỆM PHẬT DI ĐÀ ĐẾN THUẦN THỤC”.
Ý là vậy, nguyên văn có thể có sai sót vài từ.
Lời bình: Đây là chỗ Thầy khẳng định Thầy đang tu theo Pháp môn niệm Phật, và Thầy vẫn mong và cố gắng tu tập cho đến thuần thục việc niệm Phật, tức câu niệm Phật không hề cạn, dễ như nhiều người lầm tưởng, mà như Ấn Quang Đại sư, Tổ thứ 13 Tịnh Độ tông Trung Hoa nói: “Pháp môn niệm Phật nói dễ thì cực dễ, nói khó thì cực khó”, vì dễ thì hàng phàm phu tội lỗi dẫy đầy niệm mười niệm cũng vãng sanh, niệm ít hay nhiều đều có an định. Còn khó thì đây là Diệu pháp nhiệm mầu của Như Lai, thâm nhập cực sâu vào Thực tướng, từng niệm hiển tâm tánh, từng niệm thành Phật đạo, từng niệm trụ Pháp thân, nếu xét ra như trong Kinh nói, ngay hàng Đại Bồ Tát cũng không hiểu hết nổi câu Lục tự Di Đà, CHỈ CÓ PHẬT VỚI PHẬT MỚI THẤU HIỂU TRỌN VẸN! Hay như 1 vị Thiền sư từng nói: “GIỮ MỘT CÂU NIỆM PHẬT THÌ THÀNH PHẬT CÒN CÓ DƯ!”. Xét ra những lời đó hoàn toàn phù hợp như Thầy nói!
Vì mục đích chính của con là đi lấy cái cặp (lúc này sao con không còn cảm nhận mình đang mang cái cặp của người bạn nữa) nên con nhẹ nhàng rón rén đi về hướng cái bàn hay kệ để sách và cặp, nằm bên phía phải của căn phòng, đặt vuông góc với bàn thờ Phật. Muốn đi đến đó phải đi qua trước bàn thờ và phải chen ngang giữa Thầy và bàn thờ vì sau lưng Thầy đã có 1 dãy bàn hay kệ gì đó nên không đi được.
Dù rất ngại làm phiền Thầy nhưng con buộc phải đi ngang trong lúc Thầy đang hành lễ. Nhưng con thấy Thầy đang đứng lễ bái thì liền lách người qua 1 bên về hướng cái bàn sau lưng đề con đi qua dễ dàng và không ngại ngùng, vừa như để Thầy không phải vì lạy Phật mà lạy nhầm vào con, con chỉ cảm giác vậy.
Con đến bên cái cặp của mình, kiểm tra 1 ít đồ đạt trong khi Thầy vẫn đang tụng niệm. Đến chừng con sắp ra về thì Thầy mới tụng xong.
Thầy thấy con có ý ra về liền đến phía sau lưng vỗ nhẹ vào vai phải và nói nhỏ:
“Con … con hãy đến lễ Phật đi!”
Hình như Thầy nói lễ Phật để làm gì đó, hay lễ Phật rồi nguyện ra sao đó, nay thì không nhớ rõ nên không dám nói, chỉ nhớ Thầy khuyên con lễ Phật thôi.
Con vừa đến trước bàn thờ chuẩn bị lễ Phật thì choàng tỉnh, tiếng Thầy phát nguyện như còn văng vẳng đâu đây….!
TÓM LẠI:
Cả 4 giấc mơ con nêu trên đầu rất lạ, và theo con thì có thể xem như đều có liên quan đến Thầy Tuệ Tâm và chuyện Thầy từ Thiền quy Tịnh, vì:
- Có 2 giấc mơ có đích xác hình ảnh Thầy Tuệ Tâm xuất hiện rõ ràng, nói chuyện và cử động trong mơ cũng đều rất thực, còn 2 giấc mơ kia thì có nhiều ý nghĩa quan trọng như những lời dạy của Thầy.
- Cả 4 giấc mơ đều có chung đặc tính là rõ ràng, chân thực đến độ kỳ lạ, trừ giấc mơ đầu tiên trước khi Thầy báo vãng sanh thì chỉ nghe tiếng nói nhưng lại nghe rất, rất rõ nhiều lần. Cứ như đó không phải là mơ!
- Các giấc mơ có thời điểm rất đặc biệt, đa số là các ngày thất của Thầy.
- Các giấc mơ có tính hợp lý cao trong khi đối chiếu với các dữ kiện trong đời sống thực như sẽ trình bày trong phần “Bằng chứng vãng sanh”, như trường hợp gặp giấc mơ Thầy báo vãng sanh là mẹ con thấy nhang cong, như chữ “Phẩm Trung Trung” phù hợp câu nói của Thầy lúc còn sống và phù hợp nội dung quyển Tịnh độ Hoặc vấn.
Có thể nói, không thể nào có những chuyện ly kỳ như vậy liên tiếp xảy ra và đều có ý nghĩa nhiệm màu, chắc đã quá đủ để chứng minh Thầy Tuệ Tâm tu Tịnh độ và đã vãng sanh là điều chắc chắn! Mong sao chúng ta đều sẽ gặp lại Thầy trên cõi Cực Lạc!
Phần lớn trong diễn đàn thường đưa ra những câu chuyện mập mờ. Riêng bài này thì văn phong rõ ràng, mạch lạc mà lại rất chân thật. Lại nữa, có ảnh chụp rõ ràng để chứng minh. Mục đích cao đẹp (Chỉ mong kẻ khác phát lòng tin pháp môn Niệm Phật thành Phật). Thật là đáng quý thay.
Cám ơn bạn nhiều. Nam mô A Di Đà Phật :023:
:yb663: Chớ nói nhiều. Niệm Phật đi. :yb663: :023:
Bỏ cõi tịnh độ của thích ca mà lên cõi tịnh độ của a di đà cũng được. Nhưng nếu biết di đà là tịnh thì chỉ cần tâm tịnh thì độ thoát tất cả chúng sinh. Vậy đâu cần lên đó làm chi nhỉ vì tâm đã tịnh rồi thì thế giới tịnh đâu nhất thiết là về cực lạc của a di đà là tịnh độ đâu.
Mà lên đó rồi thì cũng phải xuống thôi chứ có ở mãi trên đó đâu, thà rằng cứ an trú trong cái tâm tịnh đó mà hóa độ chúng sinh, khi nào thành tựu rồi thì có thể tự biến hiện ra cảnh giới tịnh độ của riêng mình đâu cần ở nhờ của ai.
.................................................. ..........
Bạn tedienthuongnhan thân mến :
Theo tôi, bạn nói chí phải. Nhưng nói đi thì xét lại, mấy ai trong Ta Bà này giữ tâm tịnh để thấy tịnh độ của riêng mình nhỉ?
Trước đây, các đại đệ tử của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, họ cũng ở Ta Bà, cùng nghe pháp của Phật, cùng có tâm tịnh, nếu nói như bạn thì họ cũng sẽ thấy tịnh độ của họ. Thế thì sao họ lại theo Phật làm gì nữa, họ tự thiết lập tinh độ của họ cho rồi. Họ theo Phật là vì họ muốn được nương oai thần của Phật mà kiến tạo dần dần cõi Tịnh Độ sau này của họ, muốn được Phật thọ ký. Mọi người tu tịnh độ cũng vậy, họ cũng có thể có tâm tịnh nhưng họ vẫn muốn về Tây Phương An Lạc vì họ cũng muốn được như vậy.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Này kẻ điên,
Tôi gọi ông là kẻ điên vì sao? Ông chẳng hiểu thế nào là Tịnh Độ? Chẳng hiểu thế nào là tâm tịnh? Tâm vốn Không thì lấy cái gì để tịnh nó?
Nếu tâm là có. Vậy ông đã tịnh tâm của ông chưa? Ông có thấy tịnh độ của ông chưa? Hố xí nhà ông cũng là tịnh độ của ông chăng?
Ông đã không biết lại cống cao ngã mạn. Ông không cần lên cõi Tịnh của A Di Đà Phật thì đó là việc của ông. Nhưng sao lại hỏi một câu ngu si: "Vậy đâu cần lên đó làm chi nhỉ...?" khiến cho người tu sơ phát tâm điên đảo, nghi hoặc khiến chẳng thể tu tập, lỡ mất cơ hội vãng sanh?
- Câu của ông: "Mà lên đó rồi thì cũng phải xuống thôi chứ có ở mãi trên đó đâu" Cho thấy ông ngu si, chẳng hiểu gì về Tịnh độ, cũng chưa từng đọc kinh hoặc luận của chư Tổ. Đã không biết thì nên thực tâm hỏi Đạo chứ không nên gieo họa từ cái miệng. Do đó tôi gọi ông là ngu si.
- Câu này nữa: "thà rằng cứ an trú trong cái tâm tịnh đó mà hóa độ chúng sinh, khi nào thành tựu rồi thì có thể tự biến hiện ra cảnh giới tịnh độ của riêng mình đâu cần ở nhờ của ai". Ông khiến kẻ khác nghi ngờ, cứ chấp vào lời của ông mà chẳng cần bền chí vãng sanh. Chỉ lo tu tâm để nhận cái quả báo nhỏ bé trong nhân thiên. Há chẳng phải sai lầm ư?
Lại nữa, theo câu nói của ông: "Tâm tịnh thì thế giới tịnh". Cho ông biết, đây chỉ là do ông lấy câu của người khác, kiến giải của người khác rồi tự nhận là của mình. Ông chỉ nói như máy. Vẫn chẳng hiểu mình nói gì.
Lời cho ông: nên đưa nhận định cẩn trọng và hãy lo niệm Phật.
:yb663: Chớ nói nhiều. Niệm Phật đi. :yb663: :023:
Trích Hư Không Tạng : Tâm vốn Không thì lấy cái gì để tịnh nó?
Nếu tâm là có. Vậy ông đã tịnh tâm của ông chưa? Ông có thấy tịnh độ của ông chưa? Hố xí nhà ông cũng là tịnh độ của ông chăng?
Ngã mạn quá mức - Lấy giáo nghĩa của Thiền Tông mà luận sang Tịnh Độ ...Ỷ có chút học hỏi mà ồn ào khoác lác ...Phải chăng đây là ngôn ngữ của người Tu ?
HƯ KHÔNG MÀ THẾ NÀY Ư ?
PHÁP BẢO ÐÀN KINH
Phẩm Nghi Vấn
Các bác đọc phẩm này rồi tự nhận định theo trí của riêng mình. Tất cả các pháp đều là phật pháp, nhưng đến được phập quả thì các phương pháp có nhanh chậm khác nhau điều này là do căn cơ của chúng sinh có sai biệt mà phật chế ra nhiều pháp môn để phù hợp với từng căn cơ chúng sinh.Sử Quân lại hỏi : Ðệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A Di Ðà, nguyện sanh Tây Phương, được vãng sanh chăng ? Xin Hoà Thượng chỉ thị để phá nghiế. Sư nói : Sử Quân hãy nghe đây : Lúc Thế Tôn ở trong thành Xá Vệ thuyết Kinh Dẫn Hoá Tây Phương, rõ ràng từ đây đến đó chẳng xa. Nếu nói theo tướng thuyết, tính theo số dặm thì có mười vạn tám ngàn, tức thập ác tám tà nơi thân; đó là nói xa. Nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì người thượng trí, người có hai loại, pháp chẳng hai thứ, do mê ngộ có khác nên thấy có nhanh chậm. Kẻ mê niệm Phật cầu sanh nơi khác, người ngộ tự tin nơi tâm. Cho nên Phật nói : Tùy nơi tâm tịnh (trong sạch) tức Phật độ tịnh. Sử Quân là người Ðông Phương, hễ tâm tịnh thì chẳng tạo tội, người Tây Phương tâm nếu chẳng tịnh cũng có lỗi. Người Ðông Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người Tây Phương tạo tội cầu sanh phương nào ? Kẻ mê chẳng rõ tự tánh, chẳng biết tịnh độ trong thân, cầu nguyện nơi Ðông nơi Tây, người ngộ thì ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói : Ở bất cứ nơi nào cũng đều an lạc vậy. Sử Quân nếu chẳng khởi ác niệm thì Tây Phương cách đây chẳng xa, nếu tâm thường khởi ác thì dẫu cho niệm Phật cũng khó mà vãng sanh. Nay khuyên thiện tri thức, trước nhất phải trừ thập ác, tức đã đi được mười vạn dặm, sau dứt tám tà, tức đã qua tám ngàn dặm vậy. Niệm niệm thấy tánh, thực hành bình đẳng và ngay thẳng, đến Tây Phương như búng ngón tay, liền thấy Di Ðà. Sử Quân chỉ cần tu thập thiện, đâu còn phải nguyện vãng sanh ! Nếu chẳng dứt thập ác tâm, Phật nào mà đến rước ? Nếu ngộ được pháp vốn VÔ SANH, thấy Tây Phương chỉ trong chốc lát, chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh xa xôi, làm sao đến được ! Nay Huệ Năng dời Tây Phương đến với các ngươi, chỉ cần trong sát na liền thấy trước mắt, các ngươi có muốn thấy chăng ? Ðại chúng đảnh lễ rằng : Nếu được thấy tại nơi đây, đâu cần cầu nguyện vãng sanh nữa, xin Hoà Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho cả thảy đều thấy.
Sư nói : Ðại chúng, cơ thể của các ngươi là thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý (ý căn), tâm là địa, tánh là vua. Vua ngụ nơi tâm địa, tánh còn tức vua còn, tánh đi vua chẳng còn, tánh còn thân tâm còn, tánh đi thân tâm hoại. Tìm Phật ở nơi tâm, chớ nên cầu bên ngoài. Tự tâm mê tức chúng sanh, tự tâm giác ngộ tức Phật, từ bi tức Quán Âm, hỉ xả tức Thế Chí, thanh tịnh tức Thích Ca, bình đẳng ngay thẳng tức Di Ðà, nhơn ngã là núi Tu Di, tà tâm là nước biển, phiền não là làn sóng, độc hại là rồng ác, hư vọng là quỷ thần, trần lao là cá trạch, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Thiện tri thức, thường hành thập thiện, thiên đàng liền đến, trừ được nhơn ngã, núi Tu Di sụp, phá được tà tâm thì nước biển cạn, chẳng sanh phiền não thì làn sóng lặn, quên bỏ độc hại thì cá rồng tuyệt. Tự tánh Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá hết lục dục chư thiên, tự tánh chiếu soi, bên trong liền trừ tam độc, các tội địa ngục nhất thời tan rã, trong ngoài sáng tỏ, chẳng khác Tây Phương, nếu chẳng tu như vậy, Tây Phương làm sao đến được ?
Theo lý thì từ khi phát tâm tu hành đến khi thành phật thì thời gian các pháp môn có chia như sau.
Tu theo nhẫn nhục thì phải mất 9 a tăng kỳ 100 đại kiếp mới thành phật
Tu theo đức tin thì phải mất 6 a tăng kỳ 100 đại kiếp mới thành phật
Tu theo thiền tông thì phải mất 3 a tăng kỳ 100 đại kiếp mới thành phật
Tu theo mật tông thì 1 đời thành phật
Please check
@HưKhôngTạng
Qua câu hỏi và trả lời là biết căn cơ trình độ rồi.:yb663::yb663::051::051:![]()
Last edited by tế điên thượng nhân; 02-01-2009 at 02:24 PM.
Vậy thời Đức Phật tu theo pháp môn gì mà có đến hàng trăm vị chứng ngộ (con số có thể hơn 500 vị a la hán kết tập kinh điển) trong tổng số khoảng 1200 đệ tử ?. Theo tại hạ họ cũng một đời tu thành Phật đó thôi.
Thần kiêm phục vọng diễn đàn, hữu thủ cầm chuột quang, tả thủ dở webcam chiếu mặt, triệu thỉnh thập loại nick name đồng lai tề tựu, cấp cấp như 3G phủ sóng, cấp cấp như S phone nối mạng.
Om mani padme hum.
Thôi đi mấy ông, Cực lạc ngay trước mắt mà các ông không thấy còn nói chuyện viển vông hoang đường làm gì ?
Làm gì có cái chỗ nào để cho các ông sau khi chết chui vào đó để hưởng sự khoái lạc vĩnh cửu. Kinh điển Phật chỉ là phương tiện của Phật thôi. Các ông cứ y theo nghĩa đen mà hiểu thì biết đến ngày nào mới hiểu ra chân lý mà Phật dạy được.
Nam mô a di đà phật !
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks