Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 23

Ðề tài: Tổ chức xã hội của người âm

  1. #1

    Mặc định Tổ chức xã hội của người âm

    NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA TỪ HOẠT ĐỘNG TÂM LINH
    CỦA NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN TUẤN THANH

    TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƯỜI ÂM

    Khi làm các phép tiếp dẫn siêu thoát cho các linh hồn, ông Nguyễn Tuấn Thanh nhận thấy rằng có những linh hồn siêu thoát dễ dàng, nhưng cũng có những linh hồn không thể siêu thoát được.

    Những linh hồn dễ siêu thoát nhất là của các nhà tu hành, các tu sĩ, những người sùng đạo, họ sẽ được các vị Phật, Thánh phù độ để được về các cõi giới theo tôn giáo, môn phái của mình.

    Những linh hồn vô thần, trong cuộc đời không tu hành, hoặc chỉ có tín ngưỡng gia tiên, thì có những tổ chức xã hội của người Âm tiếp nhận, như: Thần Hoàng Bổn Cảnh (của các vị liệt thánh của địa phương cai quản), Băng Đảng Đại Càn (của các thủ lĩnh môn phái, các thủ lĩnh xã hội cai quản), và Tổ Chức Ngũ Hành (tổ chức bình đẳng tập hợp nhiều thành phần xã hội cai quản).v.v...

    Rất hiếm các linh hồn cô đơn, hồn đơn phách chiếc, nếu có thì sẽ rất khó tiếp dẫn siêu thoát.

    Trường hợp người có vong theo không phải là ít, và không phải hoàn toàn bất lợi. Bởi vì có những linh hồn của gia tiên luôn đi theo người thân để phù độ, trợ giúp trong những tình huống khó khăn.

    Những trường hợp người Dương bị người Âm quấy nhiễu, đeo bám, sinh bệnh tật, ngăn trở công việc v.v… thường là những ân oán của tiền kiếp, hoặc nghiệp quả, hoặc bị thư ếm v.v… Khi đó phải có phép hóa giải phù hợp, và thông thường là xin phép và gởi gắm cho các vị cai quản của các tổ chức xã hội của người Âm. Hầu hết các trường hợp do ông Nguyễn Tuấn Thanh thực hiện theo phương pháp này đã thành công.

    Không chỉ thành công trong nước, chúng tôi được biết ông Nguyễn Tuấn Thanh và một số nhà ngoại cảm đã nhận lời mời sang giúp nước bạn Campuchia, hóa giải siêu thoát cho hàng ngàn linh hồn nạn nhân của một trại tập trung, đã chết dưới thời Khơ Me đỏ.

    SỰ THỐNG NHẤT CỦA CÁC TÔN GIÁO

    Mỗi tôn giáo đều có những mục tiêu, tôn chỉ và hình thức tổ chức khác nhau. Tu sĩ của mỗi tôn giáo thường suốt đời phụng sự cho tôn giáo của mình, chứ chưa bao giờ có tu sĩ phụng sự cho hai tôn giáo cùng một lúc.
    Trường hợp của ông Nguyễn Tuấn Thanh, một nhà tâm linh theo Phật Pháp đã bước sang nghiên cứu Thánh kinh, có đức tin Kitô, và được hưởng hồng ân Thiên Chúa để cứu giúp các Giáo dân là một hiện tượng tâm linh lạ lùng nhất mà người viết từng gặp.

    Hai tôn giáo là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, tuy có hai hình thức, hai tổ chức, hai phương pháp, hai tư tưởng, hai thần tượng khác nhau, nhưng cuối cùng đã có một hiệu quả giống nhau. Điều này cho chúng ta một giả định: Phải chăng các tôn giáo trên thế giới đều có chung một quy luật? một nguồn gốc?

    Các tôn giáo có những đặc điểm chung như sau:

    1. Thần tượng tôn giáo xuất thân là con người:

    - Phật Thích ca sinh năm 566, mất năm 486 (trước Công nguyên)
    - Chúa Giê-su sinh năm 7 trước Công nguyên, mất năm 30 sau Công nguyên)
    - Thánh Allah Muhammad (570 – 632) (sau Công nguyên)

    2. Thần tượng tôn giáo có khả năng ngoại cảm

    Phật Thích ca nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, sau đó ngồi dưới gốc một cây Bồ-đề và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi, sau 49 ngày thiền định đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Thiền định được xem là một trong những phương pháp tu luyện ngoại cảm rất công hiệu.

    Có 70 môn đồ của Chúa Giê-su trong đó có Gia-cơ em của Chúa, Mark, Luca, Mary Magdalene..., những người này theo Chúa Giê-xu trong các chuyến du hành của Ngài và họ chứng kiến khi Ngài giảng dạy và làm nhiều phép màu. Sau khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh, các môn đồ chứng kiến Ngài đã sống lại từ cõi chết.

    Thánh Allah Muhammad là một nhà tiên tri, đã nhận được thông tin ngoại cảm để viết nên những lời giáo lý Hồi Giáo nổi tiếng, được gọi là Kinh Ko-ran.

    Các nhà ngoại cảm đã được giới thiệu trên TGBN đều có những nguyên nhân xuất hiện khả năng ngoại cảm tương tự như trên.

    3. Thần tượng tôn giáo là một người từ tâm

    Trong giáo lý và những lời dạy của các vị Phật, Chúa, Thánh Allah luôn luôn nhắc nhở việc tu nhân tích đức, làm từ thiện, và cứu giúp đồng loại. Chữ Tâm là nội dung được đề cao nhất trong mọi giáo lý.

    4. Thần tượng tôn giáo đều có Đấng Bề Trên cao hơn

    - Phật Thích ca vẫn xem Trời là bậc tối cao.
    - Chúa Giê-su là Đức Con, thừa hành quyền năng của bậc cao hơn là Đức Cha
    - Thánh Allah truyền lại lời sấm giảng từ Đấng Bề Trên

    Như vậy các thần tượng tôn giáo chúng ta tôn thờ hiện tại vẫn không vượt ra ngoài vũ trụ mà chúng ta hiện nay đang tồn tại, và vẫn tuân theo các quy luật vận động của vũ trụ, đó là quy luật Sinh, Hoại, Trụ, Diệt.

  2. #2

    Mặc định

    NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA TỪ HOẠT ĐỘNG TÂM LINH
    CỦA NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN TUẤN THANH (Phần cuối)

    ĐI TÌM ĐẤNG BỀ TRÊN CỦA MỌI TÔN GIÁO

    Các tu sĩ sùng đạo luôn bày tỏ tất cả sự kính trọng và dành hết tình cảm yêu thương cho Thần Tượng tôn giáo của mình, như vị tối cao tinh thần che chở cho mình. Sự kính trọng và tình cảm thiêng liêng sẽ mang lại niềm tin tôn giáo.

    Mọi người chúng ta hiện nay thường nhầm lẫn Đấng Bề Trên chính là Thần Tượng của tôn giáo mình như Phật Thích ca, hoặc Thiên Chúa, hoặc Thánh Allah …, nhưng chúng ta không biết rằng Thần Tượng tôn giáo cũng chỉ ra đời cách đây hơn 2500 năm mà thôi.

    Nếu ngược thời gian 4000 năm về trước, khi Phật, Chúa, Thánh Allah còn chưa sinh ra, thời kỳ của các Vua Hùng dựng nước, thời kỳ của Lạc Long Quân và Âu Cơ mới yêu nhau, thì Đấng Bề Trên phù độ cho họ là ai?

    Nếu bạn hỏi rằng 4000 năm trước có linh hồn không? Có phong thủy không? Có thần chú không? Có tâm linh không? … Thì câu trả lời chắc chắn rằng có.

    Đấng Bề Trên của mọi tôn giáo đó không ai khác, chính là Vũ Trụ, được gọi với nhiều tên gọi khác như Đấng Tạo Hóa (the Creator), Mẹ Thiên Nhiên (Mother Nature), Thiên Địa, Trời Đất…

    Tham khảo:
    http://en.wikipedia.org/wiki/Mother_Nature

    Nếu chấp nhận Vũ Trụ là Đấng Bề Trên tối cao nhất, chúng ta có thể giải thích được rất nhiều câu hỏi:
    1. Ai sinh ra con người?
    2. Ai sắp đặt những quy luật của Trời, Đất, và các hành tinh?
    3. Ai quy định cá sống ở nước, chim bay ở trời, khỉ sống ở rừng núi, người sống ở đồng bằng?
    4. Ai quy định đời người chỉ sống 100 năm?
    5. Ai sinh ra ánh sáng, sóng điện từ, sóng nhân điện, …?
    6. Ai sinh ra nắng mưa, gió bão, sấm sét, động đất, lở núi, sóng thần, …?
    7. Ai quy định con người là cõi Dương, ma qủy là cõi Âm?
    8. Ai sinh ra long mạch?
    9. Ai làm ra bùa chú?

    Trả lời: tất cả là do tự nhiên, Vũ Trụ sinh ra.

    GIẢ THUYẾT VỀ ĐẠO VŨ TRỤ

    Thời còn là học sinh, khi học về cấu tạo cơ thể con người, chúng ta từng khen rằng con người có cấu tạo vô cùng tuyệt hảo, không có máy móc nào so sánh bằng. Đó là tác phẩm của Tự Nhiên.

    Khi trưởng thành, chúng ta ngây ngất trước nụ cười của nàng, lặng người với ánh mắt của nàng, để rồi phải ca ngợi đó là tuyệt tác của Thiên Nhiên.

    Bây giờ, chúng ta vô cùng ngạc nhiên về những điều thần kỳ của các nhà tâm linh, các nhà ngoại cảm đem đến, và chúng ta cũng rất ngưỡng mộ sự diệu kỳ của Tự Nhiên.

    Như vậy Vũ Trụ, hay Thiên Nhiên là đối tượng nghiên cứu chung của Khoa Học và của Tâm Linh.
    - Những điều chúng ta đã biết về vũ trụ: gọi là Khoa Học
    - Những điều chúng ta chưa biết về vũ trụ: gọi là Tâm Linh

    Tôn giáo thống nhất của mọi tôn giáo: đó chính là Đạo Vũ Trụ.

    Nếu chấp nhận giả thuyết về Đạo Vũ Trụ, chúng ta sẽ lý giải được câu hỏi: Ai là người phù độ cho Vua Hùng, cho người tiền sử. Và cũng giải thích tại sao những người ngoại đạo, và những người vô thần vẫn nhận được sự phù độ, nếu như sống bằng cái Tâm tốt.

    Như vậy giáo lý chung của mọi giáo lý chính là chữ Tâm.

    Có thể nói rằng, tất cả sự hấp dẫn của những phát minh Khoa Học, và sự mầu nhiệm của những nhà Tâm Linh, đều không phải do cá nhân những nhà Khoa Học, hoặc những nhà Tâm Linh tạo ra, mà tất cả chỉ là sự biểu diễn những điều kỳ diệu của Thiên Nhiên, của Vũ Trụ mà thôi.

  3. #3

    Mặc định

    Nhà ngoại cảm VÕ CÔNG PHƯƠNG

    CON NGƯỜI CỦA NGÀY MAI

    Nhà ngoại cảm Võ Công Phương là bộ đội xuất ngũ, khoảng 60 tuổi. Ông làm việc rất nhiệt tình, sáng chiều tối, không quen nghỉ trưa, thời gian đi công tác tại các tỉnh nhiều hơn có mặt ở nhà. Tính ông rất ít nói, dường như đôi mắt sáng và rất thiện cảm của ông đã nói ra hết suy nghĩ của ông rồi, và khi vui cũng chỉ cười mỉm chi thôi. Có lẽ tính cách này là do công việc trước đây của ông bắt buộc như vậy. Ông nguyên là một chiến sĩ biệt động tình báo, chuyên làm nhiệm vụ trinh sát mục tiêu mặt đất (mục tiêu trên bộ), trang phục công tác khi ấy chỉ có chiếc quần cụt bó sát người, một khẩu súng ngắn và chiếc mũ ngụy trang.

    Quá trình công tác, ông đã 2 lần bị bắt sống, phải chịu án tù. Sau khi được trả tự do, ông quay về đơn vị tiếp tục hoạt động. Đã có ít nhất 5 lần ông thoát khỏi cái chết một cách bí ẩn, như có sức mạnh nào che chở cho ông.

    Một lần, ông nhận nhiệm vụ trinh sát đồn lính quân đội Sài Gòn, sau khi vượt qua hàng rào vòng ngoài, chuẩn bị vượt hàng rào bên trong chỉ cách lính gác chừng 20m, chưa kịp đặt chân xuống ông cảm thấy lạnh toát và rùng mình, linh cảm có chuyện, ông nhẹ nhàng rà tay trên mặt đất và … một bãi mìn Playmore ngay dưới chân!

    Lần thứ hai, trong trận đánh mục tiêu, nhóm trinh sát của ông bị quân đội Sài Gòn phát hiện vị trí hầm trú ẩn và bị bắt sống, toàn bộ đồng đội của ông bị bắn ngay tại chỗ, khi nòng súng chĩa vào người ông thì viên Trung úy chỉ huy cản không cho bắn, ông bị trói tay và đưa lên trực thăng về hậu cứ khai thác thông tin, viên Trung Úy thấy ông có nước da trắng, đoán là người chỉ huy nên may mắn ông đã thoát khỏi nòng súng định mệnh. Cùng lúc đó, du kích bắt được người cha của Trưởng ty Cảnh sát làm con tin, và điều kiện hai bên đưa ra sẽ trao đổi tù binh. Đúng kế hoạch đã thỏa thuận, lính cai tù dắt ông ra thả tại bờ sông, nơi có nữ du kích chèo đò đang đứng chờ sẵn, ông được đưa về đơn vị an toàn.

    Có lẽ trong chiến tranh sinh tử, số mạng ông chưa thể kết thúc sớm, bởi vì sứ mạng thực hành tâm linh giúp đời khi hòa bình vẫn còn chờ đợi ông thực hiện.

    CON ĐƯỜNG DẪN DẮT ĐẾN TÂM LINH

    Xuất thân là một sĩ quan quân đội, không biết thờ cúng, không nhang khói, không dị đoan, nhưng cơ duyên dẫn dắt ông tham dự khóa học Chính trị Cao cấp, vào năm 1985, chương trình có nghiên cứu triết học tôn giáo, do một vị Thượng tọa cao niên của Viện Phật học TpHCM đến giảng. Ông thắc mắc tại sao vị Thượng tọa đã 92 tuổi nhưng rất khoẻ mạnh, hoạt bát, minh mẫn, và thầy có truyền đạt bí quyết là nhờ công phu Thiền tập.

    Trong lớp học có một giáo sư người Pháp thường sử dụng một con lắc cảm xạ để xác nhận sự đúng sai của bài giảng. Phương pháp kỳ lạ này để lại nhiều trăn trở cho ông Phương, nhiều năm làm nghề tình báo, luôn suy nghĩ phán đoán, nhưng ông chưa bao giờ biết phương pháp đo suy nghĩ con người đơn giản hơn thế.

    Hai điều bí ẩn đó đã thúc giục ông bắt đầu nghiên cứu sự kỳ diệu của nho, y, lý, số, kinh dịch, cảm xạ học, khí công, bùa ngải, khai nhãn, khai thị v.v… bởi vì tất cả thế giới tâm linh rất mới lạ và huyền bí, ông đang rất muốn khám phá sự bí ẩn đó.

    Năm 1990 ông tham dự khóa học cảm xạ đầu tiên, có thể nhắm mắt phân biệt màu sắc, ông đã nhận biết đúng 8/10 tấm màu. Người giỏi nhất lớp lúc đó phân biệt được 10/10 tấm màu. Nhờ công phu học hỏi, ông tốt nghiệp thủ khoa, và được cấp Chứng chỉ của UIA. Trong khi người giỏi nhất lớp trước đây chỉ phân biệt được 4/10 tấm màu mà thôi.

    TRỞ THÀNH NHÀ NGOẠI CẢM UY TÍN

    Ông Võ Công Phương là một trong số rất ít nhà ngoại cảm có khả năng nhìn hình ảnh từ xa với độ chính xác đến … vị trí số nhà. Khi cần tìm một người thất lạc hay một vật bị mất trộm, ông chỉ ra được vị trí xã, phường, khu phố và số nhà, đồng thời biết rõ tình trạng hiện tại của người hoặc vật thất lạc, không giới hạn khoảng cách, nếu như còn trên lãnh thổ Việt Nam!

    Khi làm việc, ông Võ Công Phương có một trợ lý đắc lực luôn đi theo cùng với ông, đó là cậu bé Phạm Văn Sơn 13 tuổi, cùng quê với ông ở tỉnh Bến Tre. Khả năng của Sơn là nhìn thấy rõ hình dạng, màu sắc, hình ảnh đồ vật hoặc con người trong bán kính 100 m. Nhưng ưu điểm của Sơn là nhìn thấy và nói chuyện được với linh hồn giống như khả năng của Phan Thị Bích Hằng. Vì vậy Sơn giúp ông Phương kiểm chứng để xác định mức độ chính xác khi đến hiện trường tìm kiếm.

    Khả năng nhìn từ xa:

    1. Chị H., học trò của ông Phương bị giật túi xách, mất giấy tờ, tiền bạc và hai chiếc điện thoại trong túi xách. Rất may nhờ ông Phương nhìn ra được hai chiếc điện thoại đang ở trong căn nhà không số ở Khu phố 3, Phường Tân Phú, Quận 9.

    2. Thầy giáo T. ở Long An là bạn ông Phương, nhân dịp ghé nhà chơi thầy T. có nhờ ông Phương một việc: cạnh nhà thầy T. có một người phụ nữ 42 tuổi, bỏ đi xa không rõ tin tức. Ông Phương nhìn thầy T. cười và nói rằng: ông là bạn của tôi, chắc ông muốn thử khả năng của tôi, người phụ nữ đó là người mà ông đang rất thương, cô ấy hiện giờ đang ở Phường 1, Quận 5, TpHCM, tại nhà bà con đang bán hủ tiếu.

    3. Một phụ nữ học lớp khí công với ông Phương tại sân Tao Đàn, biết ông Phương có khả năng chữa bệnh đến chữa bệnh đau dạ dày, ông Phương xác định bệnh do vong khu trú làm loét bao tử. Nhân dịp cô ấy cũng nhờ ông Phương tư vấn chuyện riêng, hiện nay cô đang quan hệ tình cảm với một Việt kiều, chồng cô chết đã lâu, cô chỉ có một đứa con đang sống với cô. Ông Phương nhìn cô ta một lúc và cười, nói rằng xin đính chính 3 điều:
    - Một là người tình của cô không phải Việt kiều, đang học chung lớp khí công
    - Hai là chồng cô chưa chết, chỉ ly dị nhau mà thôi
    - Ba là cô có 3 người con, người con gái sống với cô, người con trai đang sống với chồng cô và một đứa con chết do cô nạo phá thai trước đây (chính là vong nhập vào người cô)

    Khả năng chữa bệnh:

    1. Một bệnh nhân bị tâm thần là Trương Thúy H., 17 tuổi, con gái vị lãnh đạo huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu, do người giới thiệu, nhờ ông Võ Công Phương giúp chữa bệnh. Cuối tháng 6/2007, ông Phương đi Điện Biên, kiểm tra thấy bệnh nhân H. đang có 4 nguyên nhân cần phải hóa giải: do vong nhập, bị phong thủy, bị bùa ngải và vấn đề mồ mả của ông bà nội không được chăm sóc. Ông Phương đã hóa giải 4 nguyên nhân đó trong một tuần, sức khoẻ em H. đã trở lại bình thường.

    2. Chị Diệu H., 28 tuổi ở thị xã Phan Thiết, bị tâm thần từ 13 tuổi. Tháng 07/2007 vừa qua, khi ông Phương xuất hiện chị H. biết trước đến bắt chị đi, nên phản ứng, lớn tiếng, bỏ chạy. Nhờ người nhà thuyết phục, và ông Phương trực tiếp tâm sự, ân cần hỏi thăm, chị H. ngoan ngoãn đến ngồi bên cạnh, ông Phương tranh thủ bắt ấn với 9 cây nhang, niệm phép và có một luồng khí xanh hình quả cầu bay ra cửa sổ biến mất. Gia đình mới đây đưa chị H. vào thăm ông Phương, chị H. vui vẻ như mọi người bình thường, nhận ra ngay ông Phương và nói lời cảm ơn.

    Khả năng tìm mộ:

    1. Tháng 5/2004, ông Quốc S., là người bạn sĩ quan quân đội, nhờ ông Phương tìm giúp mộ em gái là liệt sĩ Võ Thị Bảy, hy sinh 17 tuổi chưa xác định mộ. Ông Phương tìm thấy mộ liệt sĩ Võ Thị Bảy hiện trong nghĩa trang tỉnh Bến Tre, vị trí tại hàng cuối cùng phía trong.

    Kiểm chứng ngay vị trí mộ, bé Sơn nhìn thấy cô Võ Thị Bảy đứng bên cạnh mộ, có đeo đôi bông tai màu vàng, tóc cắt ngắn ngang vai, tất cả chi tiết này được ông Quốc S. xác nhận chính xác như ngày cô Bảy còn sống.
    Sau đó, ông Quốc S. còn nhờ ông Võ Công Phương xác định được thêm 3 mộ liệt sĩ thất lạc của bên vợ ông Quốc S.

    2. Anh Nguyễn Quang C. ở Tân Phú, TpHCM tìm mộ cha hy sinh tại xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Trước đây gia đình đã đi tìm nhiều lần nhưng chưa có kết quả. Ngoài ra anh C. cũng hy vọng nếu thành công, sau đó sẽ tìm tiếp mộ thất lạc của hai liệt sĩ trong gia đình nữa là cô ruột và chú ruột.

    Ngày 27/07/2006 anh Cảnh nhờ ông Võ Công Phương tìm mộ. Ông Phương xác định mộ hiện nay nằm dưới Văn phòng UBND xã Phổ Thuận, cùng với 2 mộ khác.

    Gia đình anh C. mời ông Phương trực tiếp đến Văn phòng xã Phổ Thuận, xác định đúng có 3 mộ. Đã đề nghị UBND xã cho khai quật hài cốt, nhưng UBND xã nghi ngờ, không đồng ý, lý do UBND không quen biết ông Phương và cũng chẳng có bằng chứng nào xác nhận lời nói của ông Phương là đúng. Gia đình anh C. phải thuyết phục chính quyền xã, nói rằng ông Võ Công Phương là một sĩ quan trưởng thành từ quân đội, nay có khả năng ngoại cảm đã chỉ dẫn tìm được nhiều mộ, và cam kết sẽ bồi thường cho UBND xã nếu không tìm được hài cốt. Sau đó UBND xã cho khai quật, tìm được 3 bộ hài cốt gần nhau.

    Dựa vào những hiện vật kèm theo khi khai quật, và theo lời các nhân chứng kể lại, gia đình đã xác định được hai bộ hài cốt còn lại chính là của cô và chú anh C.. Trong một chuyến tìm mộ, ông Phương đã giúp gia đình anh C. xác định được mộ thất lạc của 3 liệt sĩ: cha Nguyễn Quang Phương sinh năm 1919, chú Nguyễn Quang Thanh sinh năm 1923, và cô Nguyễn Thị Ái sinh năm 1918.

    3. Tìm mộ liệt sĩ Đoàn Viết Mão, ngày 20/07/2007
    Liệt sĩ Đoàn Viết Mão, giấy báo tử ghi hy sinh năm 1974 tại Quảng Ngãi, không xác định mộ. Người đề nghị đi tìm mộ là chị Đoàn Thị Hồng V. em gái của liệt sĩ Mão, ở tỉnh Hà Tĩnh.

    Trước ngày đi tìm mộ, một buổi hội ý do Bộ môn Ngoại cảm phía Nam tổ chức với 5 nhà ngoại cảm cùng tham dự, đã đưa ra nhận định mộ liệt sĩ Đoàn Viết Mão chưa đưa vào nghĩa trang, đang nằm tại một khu đất cạnh sân bay Chu Lai về hướng Tây Nam, nơi có 3 phiến đá hình chữ nhật, vị trí mộ có một cây gãy ngang thân, có bụi hoa vàng, khi đến tìm mộ sẽ có chuồn chuồn bay đến đậu ngay vị trí mộ. Nội dung buổi họp đã được ông Nguyễn Tư quay làm phim tư liệu.

    Ngày 20/07/2007 chị Đoàn Thị Hồng V. đón các nhà tìm mộ do ông Võ Công Phương trực tiếp chỉ dẫn công việc tìm mộ, có mặt tại Quảng Ngãi, dừng chân tại nhà một đồng đội cũ của liệt sĩ Mão gần sân bay Chu Lai. Sau khi lập bàn thờ khấn nguyện vong linh liệt sĩ Mão hướng dẫn cho chuyến tìm mộ, ông Phương nhìn thấy hình ảnh liệt sĩ Đoàn Viết Mão xuất hiện tại vị trí mộ, bên cạnh còn có 3 liệt sĩ khác nữa, và ông Phương khẳng định tại vị trí mộ sẽ có 4 hài cốt liệt sĩ.

    Ngày 25/07/2007 bắt đầu công việc đào tìm mộ, khi đến vị trí mộ theo hướng dẫn, ông Phương thấy 3 phiến đá hình chữ nhật như dự báo thực ra là 3 nền nhà xi măng bỏ trống, nhanh chóng tìm được cây bị gãy ngang thân, trong lúc đào đúng là có một con chuồn chuồn màu đỏ bay đến đậu gần vị trí đào. Từ vị trí của chuồn chuồn đậu, ông Phương nhìn xuống thấy rất nhiều hoa cúc dại nhụy màu vàng, cánh hoa màu trắng xoè chung quanh, nên bắt đầu tiến hành đào từ vị trí đó.

    Công việc tìm đào vất vả dưới cái nắng miền Trung mùa hè, và đất đá lâu ngày kết chặt, khi đào đến khoảng 1 giờ chiều, mọi người nhìn thấy 4 vệt đất đen, hình dạng người nằm đủ tư thế sát bên nhau, nhưng không tìm được một mảnh xương nào. Ngay lập tức ông Phương điện thoại về TpHCM, được các nhà ngoại cảm ở nhà cho biết nhìn thấy một ngọn lửa đỏ tại vị trí mộ. Ông Phương nhận định vậy là bốn hài cốt liệt sĩ tại đây bị đốt cháy, và cho bốc hết hài cốt lên. Trong lúc bốc hài cốt, liệt sĩ Mão xuất hiện, và chỉ tay vào bộ hài cốt lấy lên sau cùng là của mình.

    Ba bộ hài cốt được giao cho địa phương, hài cốt của liệt sĩ Đoàn Viết Mão được gia đình liệt sĩ tiếp nhận. Đoàn tìm mộ quay trở về nhà nghỉ ngơi.

    Ngay buổi tối cùng ngày, một nhà ngoại cảm chuyên giao tiếp vong linh là cô Nguyễn Thị Hường (Quảng Bình) được mời đã có mặt. Thông qua cô Hường, liệt sĩ Đoàn Viết Mão bày tỏ rất xúc động khi em gái Hồng V. đã không quản xa xôi, từ quê nhà Hà Tĩnh vào Quảng Ngãi tìm anh, ngày anh lên đường nhập ngũ em gái mới 3 tuổi (chị Hồng V. xác nhận chính xác). Liệt sĩ Mão vui mừng nhắc tên những người em khác của mình là em gái Hồng D., em trai Viết Q., nhưng chị Hồng V. thưa rằng các em phải ở lại quê nhà không đi được. Liệt sĩ Mão kể lại những giây phút cuối đời như sau: anh là người chỉ huy, bị thương do đạp trúng mìn, máu ra nhiều, đồng đội phía sau dìu anh ra trạm cứu thương, dọc đường bị địch phục kích và bị bắt sống. Anh bị đưa về căn cứ tại sân bay Chu Lai tra tấn, lấy cung cùng với 3 người khác. Vì đã bị mất nhiều máu, nay bị tra tấn dã man suốt 2 tiếng đồng hồ, anh Mão kiệt sức và chết sau đó. Sau khi tra tấn, địch đưa xác anh ra khu đất trống gần sân bay, cùng với 3 người khác đơn vị, cũng bị tra tấn trước đó 18-19 ngày. Địch đào một hố dài khoảng 2,5 mét, cho bốn người xuống và tưới xăng đốt xác. Liệt sĩ Mão nói rằng đã hóa thân trong con chuồn chuồn đậu tại mộ để xem mọi người làm việc, anh còn nhắc lại vì rất mong chờ được trở về quê nhà, nên tuần trước đã về báo mộng cho chị Hồng V. (chị Hồng V. đã kể chuyện này trước ngày tìm mộ), ngoài ra liệt sĩ Mão cho biết đã hóa thân vào một trong hai đèn cầy, làm cho ánh sáng màu trắng vàng (ông Nguyễn Tư có quay phim).

  4. #4

    Mặc định

    Nhà ngoại cảm HỒ VĂN DŨ

    LỬA NHIỆT TÌNH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ ĐOÀN

    Hiện nay trong CLB Tiềm Năng Con Người phía Nam thì nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ là người đang giữ nhiều cái nhất: nhiệt tình nhất, đẹp trai nhất, làm việc lâu năm nhất (10 năm), tìm được nhiều mộ thất lạc nhất (5000 mộ), làm từ thiện hiệu quả nhất.

    Ít ai tiếp xúc với anh mà nghĩ rằng anh đã bước vào tuổi ngũ tuần, bởi vì ở anh toát lên một cảm giác thân thiện tuyệt vời, rất dễ gây thiện cảm cho người lần đầu tiếp xúc. Phẩm chất đó có được là quá trình rèn luyện và trưởng thành từ thời anh là cán bộ Đoàn trong trường học.

    MƯỜI NĂM LÀ NHÀ NGOẠI CẢM

    Khả năng ngoại cảm tự nhiên đến khi anh 40 tuổi. Sau đó anh được khai mở bởi một người thầy cũng là một nhà ngoại cảm nổi tiếng. Công lực của anh Hồ Văn Dũ được đánh giá đang ở thời kỳ mạnh nhất hiện nay. Hàng ngày anh tiếp khoảng 10 cuộc điện thoại từ mọi miền đất nước gọi đến nhờ tìm kiếm mộ, hài cốt thất lạc hoặc người thân mất tích. Từ Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Nam, Đak Lak, và miền Đông, miền Tây Nam bộ, kể cả nước bạn Campuchia. Anh đã trải nghiệm tất cả các dạng thất lạc mộ, trên biển, trên sông và trên vùng núi cao. Mộ lâu năm nhất bị thất lạc trên 100 năm.

    Đặc điểm trong phương pháp tìm mộ của nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ là khả năng nhìn thấy các vật làm dấu từ xa rất chính xác, biết được địa danh, tên người cần liên hệ nơi đến tìm mộ, ngoài ra còn có khả năng đặc biệt tương tác với vong linh để điều khiển các con vật, côn trùng đến chỉ dẫn như: chuồn chuồn, bướm, chim, sâu bọ, và kể cả gia súc như chó, mèo, trâu bò.

    Nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ đã tổng kết muốn tìm được mộ, hài cốt người thân thì cần chú ý một số điều sau đây:

    - Điều kiện số một là người thân phải thành tâm, có niềm tin quyết tâm đi tìm mộ
    - Người đi tìm mộ có huyết thống càng gần gũi với vong linh càng có cơ may thành công
    - Người tìm mộ có nhiều thông tin về vong linh như ngày tháng năm sinh, năm mất, địa điểm, tên tuổi, …

    Cũng giống như các nhà ngoại cảm khác, ngoài khả năng nổi trội về tìm mộ, anh Dũ cũng có nhiều khả năng đặc biệt khác như chữa bệnh tâm linh, hóa giải vong, hóa giải bùa ngải, thư ếm, tìm người và đồ vật thất lạc, hóa giải phong thủy.

    NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐI TÌM MỘ
    (Trích từ Thư Cảm Ơn của các gia đình gởi cho Nhà ngoại cảm)

    1. Chị Vũ Thúy Nh. (đường Phan Đình Phùng, Phú Nhuận, TpHCM), đi tìm mộ cha, mất trước năm 1945, mộ bị thất lạc.

    Chị Nh. được giới thiệu và liên lạc với nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ, chỉ qua điện thoại với thông tin: Mộ ở một gò đất ở quê Thái Bình, đến gò đất thấy bụi cây khô, gần đó có mảnh vỏ cây khô, có vũng nước dấu chân bò, có bia đá nghiêng cách mộ 3,5 m, sẽ có một con bướm trắng, một con chuồn chuồn ớt bay đến đậu lên mộ. Được thông tin đó chị Nh. về quê Thái Bình đi tìm mộ đúng như cách anh Dũ chỉ dẫn. Thử nghiệm bằng quả trứng trên đầu đũa, đứng vững một tiếng đồng hồ giữa cánh đồng gió mạnh.

    2. Anh Nguyễn Tự Ph. (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc), tìm mộ bố là liệt sĩ Nguyễn Tự Toại, nhập ngũ năm 1967, hy sinh năm 1970 tại xã Đăng Phước, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang chưa xác định được mộ. Tuy nhiên may mắn cho gia đình, gần đây gặp được bác Hợp cùng quê, là đồng đội cũ và chính là người chôn cất liệt sĩ Nguyễn Tự Toại, bác Hợp kể lại ngày ấy liệt sĩ Toại là bộ đội trinh sát, ban ngày nằm hầm, ban đêm chui ra ngoài làm nhiệm vụ trinh sát, tháo gỡ mìn và lựu đạn của địch, bị phục kích và bị trúng đạn. Bác Hợp cho biết khi chôn cất liệt sĩ Toại có ghi tên và quê quán cho vào bao nylông bỏ vào túi áo ngực. Đây sẽ là di vật giúp tìm được mộ của bố tôi.

    Sau khi liên lạc với nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ được hướng dẫn như sau: mộ liệt sĩ Nguyễn Tự Toại hiện nay nằm ở Nghĩa trang huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, vị trí mộ số 9 bên phải, hàng số 5 khu mộ vô danh, đặc điểm có một vết nứt ngang ở đầu mộ, có một vết nứt dọc ở cuối mộ, có một con bướm chết dưới chân mộ, khi cúng tại mộ sẽ thấy xuất hiện một vệt màu trên mộ.

    Ngày 14/06/2006 gia đình bắt đầu đi tìm mộ, đã tìm thấy đúng những dấu vết như anh Dũ chỉ dẫn, khi gia đình thắp nhang khấn thì mọi người cùng nhìn thấy trên mộ hiện lên một vệt màu đỏ như sơn, sờ không dính tay, chỉ trong 15 phút không còn nhìn thấy nữa. Khi gia đình bốc hài cốt lên, chúng tôi đã tìm lại được có một túi nylông tại vị trí lồng ngực, nhưng mảnh giấy bên trong đã mủn nát.

    3. Ông Nguyễn Phước Đ., thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, đi tìm hài cốt của người anh Nguyễn Phước Đây, chết mất tích từ năm 1968 tại Mỹ Tho.

    Tôi đã gặp nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ, anh Dũ đã có thông tin như sau: đến thành phố Mỹ Tho, lấy điểm mốc là chiếc Cầu Quay tại trung tâm thành phố, qua sông Tiền, đi thẳng vào trong 300m gặp một miếu nhỏ, hỏi thăm gặp ông Tiến, hỏi tiếp nhà bà Liên, có chòi lá lụp xụp, sau nhà có 2 con mương, cách chòi lá 2 m thấy có cái võng mục cột giữa hai cây khô, là vị trí mộ.

    Ngày 11/04/2007 gia đình chúng tôi đi tìm mộ, xác định được đúng vị trí, đến nơi đã gặp đúng người tên Tiến và hỏi được nhà bà Liên, lúc này có khoảng 50 người dân đến xem. Chúng tôi điện thoại báo về TpHCM cho anh Dũ, anh cho biết thêm thông tin: hãy thắp nhang khấn, sẽ thấy một con chuồn chuồn to đậu lên cành cây, và 3 con bướm khác lượn vòng tròn trên vị trí mộ, chỉ có con bướm màu vàng sẽ đậu lên cây mai cách đó 2m. Những chi tiết này chúng tôi xác nhận đã xảy ra. Anh Dũ hướng dẫn đào xuống, sẽ thấy nhiều mảnh sành vỡ. Chúng tôi đào đến 12 giờ trưa, chưa tìm thấy xương cốt, liên lạc với anh Dũ và anh hỏi đã gặp một chiếc lu chưa, chúng tôi đào thêm thì gặp một chiếc lu, và hài cốt nằm ngay bên cạnh chiếc lu đó. Sau khi bốc hết phần xương cốt lên, định lấp hố đào trả lại hiện trạng cho chủ nhà, chúng tôi báo tin cho anh Dũ biết, anh cho biết còn sót xương dưới đáy lu. Chúng tôi mò tìm thì thêm được một xương sườn. Mọi người đứng xem rất ngạc nhiên và thán phục sự chỉ dẫn từ TpHCM đến Tiền Giang rất chính xác của anh Hồ Văn Dũ.

    4. Ông Nguyễn Văn C., Giám đốc Công An tỉnh, tìm mộ cha là liệt sĩ Nguyễn Văn Đô, hoạt động cách mạng, bị địch thủ tiêu không tìm thấy xác từ năm 1968 đến nay.

    Theo hướng dẫn của anh Hồ Văn Dũ, ngày 22/01/2006 gia đình lên đường tìm hài cốt liệt sĩ tại một xóm nhỏ, ở tỉnh Đồng Nai. Khi ra đến ngã ba Vũng Tàu, đi về hướng Long Thành được 6km, rẽ phải vào con đường đất 2,5km hỏi thăm, nhưng người dân nói không thấy có ngôi mộ nào. Chúng tôi điện thoại liên lạc với anh Dũ, anh cho biết đã đi xa rồi, ngược trở ra 200m sẽ có người đến hướng dẫn tiếp. Đúng vậy, chỉ 15 phút sau có ông cụ khoảng 70 tuổi đến, cho biết trước đây có nhìn thấy một ngôi mộ nhưng không nhớ rõ ở chỗ nào, ông chỉ cho chúng tôi một khu đất có nhiều cây và bụi rậm. Điện thoại lần nữa cho anh Dũ, anh nói đã đến đúng vị trí, ngồi chờ tại đó khi nào thấy một con bướm bay tới, đậu ngay tại vị trí mộ. Chỉ vài phút, bỗng đâu có một con bướm đậu cách chỗ chúng tôi ngồi hơn 1m. Anh Dũ chỉ tiếp tại đó có hai cục đá là vị trí của đầu mộ, đào hướng đông-tây 2,5m, chiều ngang 2m, sâu xuống 1,5m sẽ gặp một thanh sắt bắc ngang, đào từ từ xuống sẽ thấy hài cốt. Chúng tôi đã gặp hiện vật đúng như vậy, hài cốt gồm xương và một phần đất đen. Gia đình đã nhận được hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Đô và đưa về Nghĩa trang liệt sĩ Tỉnh Tiền Giang. Theo nhận định, cây sắt chôn theo xác có thể là vật dụng mà địch dùng tra tấn liệt sĩ cho tới chết và bỏ xuống hố chôn theo.

    5. Anh Trần Văn T. (đường Hồ Thị Kỷ, Quận 10, TpHCM), đi tìm mộ bà nội Võ Thị Mực, sống vào thế kỷ XIX, mất năm 1926 không còn di ảnh, không còn dấu vết mộ.

    Theo ước vọng của gia đình, mong muốn tìm lại mộ của cụ bà đã thất lạc 80 năm qua. Gia đình đã gặp anh Hồ Văn Dũ, anh cho biết mộ cụ hiện nay trong khu vực nghĩa trang phường Thạnh Lộc, Quận 12, gần đình Quới An, ngôi mộ cách lối mòn đi vào khu mộ 60m, có một hố nhỏ cách mộ 2m, tìm thấy một gốc cây mục cạnh mộ, và gần đó nửa mét có cục đá, chú ý sẽ thấy một con chim lông màu đen bay đến.

    Ngày 10/09/2005 gia đình lên đường đi tìm mộ. Sau 3 giờ đồng hồ xác định vị trí, có đầy đủ những dấu hiệu như anh Dũ hướng dẫn, cục đá chính là nửa viên gạch bốn lỗ trong xây dựng, và được anh Dũ điện thoại từ xa điều chỉnh vị trí, cho biết thêm trước mộ có một cây thấp (thực tế là cây hoa mai), chếch sang phía bắc có một cây tán xoè (thực tế là cây bàng). Do mải nói chuyện, không ai chú ý đến con chim bay tới, đến khi có ba tiếng hót và chim bay đi mọi người kịp nhìn thấy đúng là lông màu đen sẫm.

    Gia đình đã tìm được ngôi mộ của bà nội, nằm lọt giữa những ngôi mộ mới cất gần đây, phần đất lâu ngày đã lún trũng xuống, không ai chăm sóc, cỏ dại mọc che khuất không còn nhìn rõ hình dạng.

    6. Ông Mai Hoàng D., cưu chiến binh (huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre), tìm mộ liệt sĩ Mai Văn Cẩm, sinh năm 1945, Thượng sĩ Y tá, hy sinh trong trận đánh Tết Mậu Thân 1968 tại Sài Gòn. Đơn vị chôn dấu xác tại chỗ, không mang ra ngoài được.

    Sau năm 1975 gia đình đi tìm nhiều lần nhưng không có thông tin nào cho việc tìm mộ của liệt sĩ Cẩm.

    Sau khi được giới thiệu đến gặp nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ, được hướng dẫn hài cốt liệt Mai Văn Cẩm hiện nay nằm trên lề đường phía ngoài tường rào Trường Mầm Non Rạng Đông 13, Quận 6, đối diện chợ Phú Lâm.

    Vị trí hài cốt nằm ngay khu vực thành phố, đông dân, nên việc khai quật cần phải đầy đủ giấy phép, gia đình phải xin các loại giấy phép như:
    - Giấy phép bốc mộ (do Đội Y tế Dự phòng Quận 6 cấp)
    - Giấy phép đào đường (do UBND Quận 6 cấp)

    Ngày 13/04/2007 gia đình đến tại vị trí theo hướng dẫn của anh Dũ, nơi đây được sửa sang thành vỉa hè thoáng đãng, sạch sẽ, không ai có thể ngờ được bên dưới là nơi chôn cất hài cốt của em tôi. Kết quả khai quật, đã tìm thấy đúng bộ hài cốt bên dưới, và gia đình đã đưa về quê hương chăm sóc, cha tôi cũng là một cựu chiến binh, năm nay 87 tuổi, lặn lội từ tỉnh Cà Mau về nhìn lại lần cuối hài cốt đứa con mình trở về.

    7. Tìm mộ Lãnh Binh Cẩn, tức Hòa Thượng Minh Mai, chết cách đây hơn 100 năm.

    Hòa thượng Minh Mai, tên thật là Nguyễn Văn Cẩn, sinh năm 1815, quê quán tỉnh Mỹ Tho. Ông tham gia kháng Pháp, được gọi là Lãnh Binh Cẩn, cùng với Đốc Binh Kiều là hai vị tướng tài của Thiên hộ Võ Duy Dương.

    Sau khi bị Pháp đánh chiếm căn cứ kháng chiến, Đốc Binh Kiều tử trận, Thiên Hộ Dương chạy về Tân An, được một năm thì hy sinh. Chỉ còn Lãnh Binh Cẩn chạy về Hồng Ngự, bị truy đuổi phải về ẩn cư tại Núi Sập, Châu Đốc, tu hành.

    Pháp danh Minh Mai do Hòa Thượng Tiên Giác Hải Tịnh cùa tổ đình Giác Lâm đặt cho, cùng lúc với pháp danh Minh Quyên đặt cho Phật thầy Tây An.

    Mặc dù ẩn danh tu hành và đi nhiều nơi, nhưng vẫn bị mật thám lùng bắt, Hòa thượng lánh về tu tại chùa Cổ Tháp (tỉnh Đồng Tháp), và viên tịch năm 1902.

    Qua bao nhiêu thăng trầm, biến đổi của lịch sử, không ai còn nhớ được phần mộ của Hòa thượng Minh Mai, tức Lãnh Binh Cẩn ở đâu.

    Nhờ duyên may được sự giúp đỡ của nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ, đã có thông tin: phần mộ Hòa thượng Minh Mai ở vùng Gò Tháp, tỉnh Đồng Tháp, chỗ có mảnh bia lật nằm ngang, mộ có một cây bông nở duy nhất một bông, gần mộ có một mảnh chén vỡ, đầu mộ có một lỗ thủng, sẽ có con bướm đậu gần cành cây gác chéo chữ X. Đào lên sẽ gặp rễ cây băng ngang, và thấy một cây sắt.

    Ngày 20/10/2005 các vị tăng ni đến nơi tìm được đúng những dấu chỉ do anh Dũ hướng dẫn. Hài cốt của Hòa thượng Minh Mai đã được hỏa táng tại chỗ, đưa phần cốt về chùa Tháp Linh (chùa Cổ Tháp cũ) thờ cúng.

    CÔNG ĐỨC TỪ THIỆN VÔ LƯỢNG

    Nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ tổ chức 5 đợt công tác từ thiện đi năm tỉnh, khám chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho những người nghèo, cụ thể như sau:
    - Xã Sông Thao, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai: giúp 300 bệnh nhân.
    - Xã An Bình Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre: giúp 300 bệnh nhân.
    - Xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long: giúp 250 bệnh nhân.
    - Xã Vĩnh Phú Tây, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu: giúp 300 bệnh nhân.
    - Thị trấn Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp: giúp 250 bệnh nhân.

    Đoàn y bác sĩ đi khám bệnh từ thiện đứng đầu là Bác sĩ Mỹ Anh, Trưởng khoa của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và một số bác sĩ quen biết khác, vận động đi làm từ thiện. Trong đoàn còn có Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Bạch, Nghệ sĩ Hoài Linh và các nghệ sĩ khác cùng đi làm từ thiện, góp vui văn nghệ tổng cộng 4 đợt, kết hợp với Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Dân tộc cùng tổ chức thực hiện.

    Ngoài 5 đợt tổ chức đoàn làm từ thiện nói trên, anh Hồ Văn Dũ còn hỗ trợ cho các trường hợp khác như sau:
    - Em học sinh Nguyễn Thị Th., xã An Bình Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, bị tai nạn giao thông bị thương tật, hỗ trợ quà và xe lắc tay.
    - Ông Lê Văn Nh., 66 tuổi, ấp An Bình, xã An Hòa Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, bị mù lòa, không có người nương tựa, hỗ trợ 500.000 đồng.
    - Ủng hộ 10 triệu đồng cho trẻ em nghèo hiếu học tại xã An bình Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
    - Xây dựng 49 căn nhà tình thương ở Bến Tre sau cơn bão, mỗi căn trị giá 7 triệu đồng (tổng cộng 343 triệu đồng).
    - Giúp cho học sinh Trường cấp I xã Hiệp Phú, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang 150 bộ bàn ghế.
    - Giúp cho Trường Tiểu học thị trấn Ba Tri, tỉnh Bến Tre 150 bộ bàn ghế.
    - Giúp cho UBND thị trấn Ba Tri, tỉnh Bến Tre 60 bộ bàn ghế.

    Số tiền đóng góp nói trên từ những gia đình đã nhờ anh Dũ giúp trước đây, và các nhà mạnh thường quân có lòng hảo tâm, từ thiện, gởi về CLB Tiềm năng Con người ở phía Nam.



    Nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ.




    Hình ảnh một lần đi tìm hài cốt liệt sĩ tại khuôn viên Trường Đại học Hồng Bàng, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2005. Theo yêu cầu của Hiệu trưởng Trường ĐH Hồng Bàng Nguyễn Mạnh Hùng, nhờ nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ xác định hài cốt trong khuôn viên nhà trường trước khi khởi công xây dựng, dưới sự chứng kiến của Ban Giám hiệu nhà trường, UBND Thị trấn, và Ban Quản lý Nghĩa trang Tỉnh, đã tìm được 52 hài cốt liệt sĩ trong một hố chôn tập thể.

    Nhà ngoại cảm Hồ Văn Dũ trong trang phục nón tai bèo, chân đi dép Trường Sơn, bên hông mang dụng cụ như la bàn, ống ngắm định vị, máy đo địa từ trường, máy ảnh, đang ngồi bên cạnh một hài cốt còn đầy đủ xương.

  5. #5

    Mặc định

    Theo các bài viết về Hồi giáo mà tôi đã được đọc . Thì Allah là Thượng Đế, và cũng chính là God của Thiên Chúa Giáo chứ không phải là Thánh Allah theo như Việt Nam hay dịch từ các sách truyện của nước Âu Tây, thường có cái nhìn méo mó về Hồi Giáo . Còn Muhammed thì lại là một giáo chủ, một đấng tiên tri của đạo Hồi chứ chẳng phải là thánh thần gì cả . Ngoài ra, không có thánh nào của Hồi giáo có tên Allah Muhammed hết cả .
    Đạo Hồi, đạo Thiên Chúa Giáo và đạo Do Thái (Judaism), đều thờ chung một đấng Thượng Đế Toàn Năng (Đức Chúa Trời) . Nhưng đạo Do Thái không tin rằng Jesus là con của đức chúa Trời . Đạo Hồi thì chỉ tin vào kinh Quran và cho rằng Jesus chỉ là một đấng tiên tri .

    Trích dẫn Nguyên văn bởi rosea Xem Bài Gởi
    NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA TỪ HOẠT ĐỘNG TÂM LINH
    CỦA NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN TUẤN THANH

    TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƯỜI ÂM

    Khi làm các phép tiếp dẫn siêu thoát cho các linh hồn, ông Nguyễn Tuấn Thanh nhận thấy rằng có những linh hồn siêu thoát dễ dàng, nhưng cũng có những linh hồn không thể siêu thoát được.

    Những linh hồn dễ siêu thoát nhất là của các nhà tu hành, các tu sĩ, những người sùng đạo, họ sẽ được các vị Phật, Thánh phù độ để được về các cõi giới theo tôn giáo, môn phái của mình.

    Những linh hồn vô thần, trong cuộc đời không tu hành, hoặc chỉ có tín ngưỡng gia tiên, thì có những tổ chức xã hội của người Âm tiếp nhận, như: Thần Hoàng Bổn Cảnh (của các vị liệt thánh của địa phương cai quản), Băng Đảng Đại Càn (của các thủ lĩnh môn phái, các thủ lĩnh xã hội cai quản), và Tổ Chức Ngũ Hành (tổ chức bình đẳng tập hợp nhiều thành phần xã hội cai quản).v.v...

    Rất hiếm các linh hồn cô đơn, hồn đơn phách chiếc, nếu có thì sẽ rất khó tiếp dẫn siêu thoát.

    Trường hợp người có vong theo không phải là ít, và không phải hoàn toàn bất lợi. Bởi vì có những linh hồn của gia tiên luôn đi theo người thân để phù độ, trợ giúp trong những tình huống khó khăn.

    Những trường hợp người Dương bị người Âm quấy nhiễu, đeo bám, sinh bệnh tật, ngăn trở công việc v.v… thường là những ân oán của tiền kiếp, hoặc nghiệp quả, hoặc bị thư ếm v.v… Khi đó phải có phép hóa giải phù hợp, và thông thường là xin phép và gởi gắm cho các vị cai quản của các tổ chức xã hội của người Âm. Hầu hết các trường hợp do ông Nguyễn Tuấn Thanh thực hiện theo phương pháp này đã thành công.

    Không chỉ thành công trong nước, chúng tôi được biết ông Nguyễn Tuấn Thanh và một số nhà ngoại cảm đã nhận lời mời sang giúp nước bạn Campuchia, hóa giải siêu thoát cho hàng ngàn linh hồn nạn nhân của một trại tập trung, đã chết dưới thời Khơ Me đỏ.

    SỰ THỐNG NHẤT CỦA CÁC TÔN GIÁO

    Mỗi tôn giáo đều có những mục tiêu, tôn chỉ và hình thức tổ chức khác nhau. Tu sĩ của mỗi tôn giáo thường suốt đời phụng sự cho tôn giáo của mình, chứ chưa bao giờ có tu sĩ phụng sự cho hai tôn giáo cùng một lúc.
    Trường hợp của ông Nguyễn Tuấn Thanh, một nhà tâm linh theo Phật Pháp đã bước sang nghiên cứu Thánh kinh, có đức tin Kitô, và được hưởng hồng ân Thiên Chúa để cứu giúp các Giáo dân là một hiện tượng tâm linh lạ lùng nhất mà người viết từng gặp.

    Hai tôn giáo là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, tuy có hai hình thức, hai tổ chức, hai phương pháp, hai tư tưởng, hai thần tượng khác nhau, nhưng cuối cùng đã có một hiệu quả giống nhau. Điều này cho chúng ta một giả định: Phải chăng các tôn giáo trên thế giới đều có chung một quy luật? một nguồn gốc?

    Các tôn giáo có những đặc điểm chung như sau:

    1. Thần tượng tôn giáo xuất thân là con người:

    - Phật Thích ca sinh năm 566, mất năm 486 (trước Công nguyên)
    - Chúa Giê-su sinh năm 7 trước Công nguyên, mất năm 30 sau Công nguyên)
    - Thánh Allah Muhammad (570 – 632) (sau Công nguyên)

    2. Thần tượng tôn giáo có khả năng ngoại cảm

    Phật Thích ca nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, sau đó ngồi dưới gốc một cây Bồ-đề và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi, sau 49 ngày thiền định đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Thiền định được xem là một trong những phương pháp tu luyện ngoại cảm rất công hiệu.

    Có 70 môn đồ của Chúa Giê-su trong đó có Gia-cơ em của Chúa, Mark, Luca, Mary Magdalene..., những người này theo Chúa Giê-xu trong các chuyến du hành của Ngài và họ chứng kiến khi Ngài giảng dạy và làm nhiều phép màu. Sau khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh, các môn đồ chứng kiến Ngài đã sống lại từ cõi chết.

    Thánh Allah Muhammad là một nhà tiên tri, đã nhận được thông tin ngoại cảm để viết nên những lời giáo lý Hồi Giáo nổi tiếng, được gọi là Kinh Ko-ran.

    Các nhà ngoại cảm đã được giới thiệu trên TGBN đều có những nguyên nhân xuất hiện khả năng ngoại cảm tương tự như trên.

    3. Thần tượng tôn giáo là một người từ tâm

    Trong giáo lý và những lời dạy của các vị Phật, Chúa, Thánh Allah luôn luôn nhắc nhở việc tu nhân tích đức, làm từ thiện, và cứu giúp đồng loại. Chữ Tâm là nội dung được đề cao nhất trong mọi giáo lý.

    4. Thần tượng tôn giáo đều có Đấng Bề Trên cao hơn

    - Phật Thích ca vẫn xem Trời là bậc tối cao.
    - Chúa Giê-su là Đức Con, thừa hành quyền năng của bậc cao hơn là Đức Cha
    - Thánh Allah truyền lại lời sấm giảng từ Đấng Bề Trên

    Như vậy các thần tượng tôn giáo chúng ta tôn thờ hiện tại vẫn không vượt ra ngoài vũ trụ mà chúng ta hiện nay đang tồn tại, và vẫn tuân theo các quy luật vận động của vũ trụ, đó là quy luật Sinh, Hoại, Trụ, Diệt.

  6. #6

    Mặc định

    - Phật Thích ca vẫn xem Trời là bậc tối cao.

    Xin Huynh ROSEA vui lòng cho biết dựa trên tài liệu kinh điển nào mà huynh đã viết như trên - toàn bài viết rất hay nhưng câu trên như một hạt sạn gây phản cảm cho những người nghiên cứu Phật học như tôi -
    Câu trên các phái như Pháp Luân Công, các tôn giáo như Cao Đài. Tin Lành rất thường hay nói nhưng quả thật trái ngược hoàn toàn với giáo lý nhà Phật...
    Kính chào Huynh!

  7. #7

    Mặc định

    HOANGANTHI: Phật Thích ca vẫn xem Trời là bậc tối cao.
    Xin Huynh ROSEA vui lòng cho biết dựa trên tài liệu kinh điển nào mà huynh đã viết như trên - toàn bài viết rất hay nhưng câu trên như một hạt sạn gây phản cảm cho những người nghiên cứu Phật học như tôi -
    Câu trên các phái như Pháp Luân Công, các tôn giáo như Cao Đài. Tin Lành rất thường hay nói nhưng quả thật trái ngược hoàn toàn với giáo lý nhà Phật...
    Kính chào Huynh!


    --------------------
    Xin mời huynh HOANGANTHI nghiên cứu lời dạy của Phật Thích Ca sau đây để hiểu quan điểm của Phật khi nói về Thiên.
    --------------------

    PHẬT NÓI KINH TRAI GIỚI
    Hán dịch: Ðời Ngô, nước Nguyệt Thị, cư sĩ Chi Khiêm
    Việt dịch: Thích Chánh Lạc

    Một thời Phật ở tại cung điện nhà của Thừa tướng, phía đông thành Xá Vệ. Mẹ của Thừa tướng tên là Duy Da, sáng sớm thức dậy tắm rửa, mặc áo tơ năm sắc, cùng các con, vợ đi ra để lạy dưới chân đức Phật rồi ngồi qua một bên. Ðức Phật bảo Duy Da:

    Ngày trai giới nên tu tập năm điều nhớ nghĩ. Những gì là năm?

    1. Niệm Như Lai, bậc Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, là Thiện Thệ, cha của thế gian, Vô Thượng Sĩ, Kinh Pháp Ngự, Thầy của trời, người.

    2. Niệm Pháp, Phật nói pháp ba mươi bảy phẩm, đầy đủ không hoại, nhớ nghĩ không quên, nên biết pháp này là ánh sáng của thế gian.

    3. Niệm chúng Tăng, cung kính thân cận, y chỉ, thọ trì sự dạy dỗ trí huệ.

    4. Niệm Giới: thân thọ giới của Phật phải một lòng phụng trì, không khuyết, không phạm, không động, không quên, khéo léo an lập, cẩn thận giữ gìn, nêu cao trí tuệ.

    5. Niệm Thiên: Tứ Thiên Vương, Ðao Lợi Thiên, Diêm Thiên, Ðâu Thuật Thiên, Bất Kiêu Lạc Thiên, Hóa Ứng Thanh Thiên. Cần phải tự niệm: “Ta đã có Tín, có Giới, có Văn, có Thí, có Trí, đến lúc thân chết, tinh thần lên trời, mong ta đừng mất tín, giới, văn, thí trí này. Ðó là nhờ niệm Thiên nên tập quán sân hận, ác ý ngu si đều trừ sạch, tâm hoan hỷ tự sanh, ưa thích các nghiệp của Thiên, giống như ngọc báu thường được trong sáng. Người trai giới niệm Thiên, tâm thanh tịnh như vậy, phụng trì tám giới cấm, thực tập năm điều nhớ nghĩ, là trai giới theo Phật pháp, cùng chư thiên tu đức, diệt ác tu thiện, về sau sanh lên trời, cuối cùng đắc quả Nê hoàn. Cho nên người trí tự nỗ lực tu hành, phát tâm làm phước.

    Như vậy, này Duy Da, phước đức từ việc trai giới tiếng tăm xa rộng rõ ràng, thí như mười sáu nước lớn ở trong thiên hạ, trong mười sáu nước này dẫy đầy của báu không sao kể hết, cũng không bằng một ngày thọ trì trai giới của Phật pháp. Phước đức như vậy to lớn đến nỗi của báu của mười sáu nước dồn lại chỉ bằng một hạt đậu mà thôi. Sự rộng lớn ở trên trời không thể nói được, nay đây nhân gian năm mươi năm thì ở cõi trời thứ nhất mới một ngày một đêm.

    + Tuổi thọ ở trên cõi Tứ Thiên thứ nhất là năm trăm tuổi, so với nhân gian là chín trăm vạn năm. Người trai giới của Phật pháp được sanh cõi trời ấy.

    + Nhân gian một trăm năm thì cõi trời Ðao Lợi chỉ có một ngày một đêm, mà tuổi thọ ở trên cõi trời Ðao Lợi là một ngàn tuổi, so với nhân gian là ba ngàn sáu trăm vạn tuổi.

    + Nhân gian hai trăm năm thì ở cõi trời Diêm Thiên chỉ có một ngày một đêm, mà tuổi thọ ở cõi Diêm Thiên là hai ngàn năm, so với nhân gian phải trải qua một ức năm ngàn hai trăm vạn năm.

    + Nhân gian bốn trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm trên cõi trời Ðâu Thuật Thiên. Tuổi thọ ở cõi Ðâu Thuật Thiên là bốn ngàn năm, vậy ở nhân gian phải trải qua sáu ức tám trăm vạn năm.

    + Nhân gian tám trăm năm thì chỉ bằng một ngày một đêm ở trên cõi trời Bất Kiêu Lạc. Tuổi thọ ở cõi trời Bất Kiêu Lạc là tám ngàn tuổi, so với nhân gian phải trải qua hai mươi ba ức bốn ngàn vạn năm.

    + Nhân gian một ngàn sáu trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Hóa Ứng Thanh. Tuổi thọ ở cõi trời Hóa Ứng Thanh là một vạn sáu ngàn năm. Vậy nhân gian phải mất chín mươi hai ức một ngàn sáu trăm vạn năm.

    Nếu ai có Tín, có Giới, có Văn, có Thí, có Trí phụng trì trai pháp của Phật, ngay khi mạng chung, tinh thần đều được sanh lên sáu cõi trời này, được an ổn khoái lạc. Theo đó, thiện pháp rất nhiều, ta chỉ nói rất ít. Hễ ai làm thiện thì quỷ thần, thiên thượng thọ phước vô lượng.

    Duy Da nghe lời đức Phật dạy, hoan hỷ nói: Lành thay! Lành thay! Thưa Thế Tôn, phước đức của trai pháp thật là sung sướng vô lượng. Mong cho con được thọ giới của Phật. Từ nay về sau, cứ mỗi tháng con thọ sáu ngày trai giới, nỗ lực làm phước cho đến chết.

    Ðức Phật nói kinh này xong, tất cả đều hoan hỷ thọ giáo.

    (quangduc.com)

  8. #8

    Mặc định

    Cảm ơn Huynh Love_Tamlinh đã giới thiệu bản kinh - nhưng như thế là chưa cụ thể - vì sao ? phàm là người học Phật ai mà không biết giáo pháp của Đức Như Lai có đủ Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa ,Bồ tát thừa v.v.v.. Mỗi mỗi là do căn tánh của chúng sinh mà tùy nghi phương tiện thuyết ra để dẫn dắt - Do vậy có kinh văn thuyết ra chỉ cho người làm lành lánh dữ, có kinh văn thuyết ra để hàng phục vọng chấp của ngoại đạo, có kinh văn thuyết ra cho hàng trưởng lão tu hành nhưng còn vướng mắc ...Nhưng rút lại cho cùng kinh văn nào diễn ý cho người tu thể nhập chân lý giải thoát sinh tử luân hồi mới là kinh Liễu Nghĩa đúng như tôn chỉ nhà Phật-( kinh nào không diễn ý trên là phương tiện kinh )
    Thế nên mới có câu : " Y KINH LIỄU NGHĨA BẤT Y KINH VỊ LIỄU NGHĨA "
    Thế mà nay - y theo tinh thần bản kinh của huynh post lên thì chỉ thấy :" làm thiện để được phước báo nhân thiên "- với một bản kinh phương tiện như thế -không đưa về tôn chỉ Giác Ngộ của nhà Phật như vậy mà Huynh lấy làm dẫn chứng đại diện quan điểm cho Phật giáo thì tôi thấy sao mà phiến diện một chiều quá mức.
    Trân trọng ! Kính chào

  9. #9

    Mặc định

    Em cũng có ý kiến giống như huynh hoanganthi: em không nghĩ Phật Thích ca xem "Trời là bậc tối cao". EM nghĩ các tôn giáo thần quyền hay dùng lý luận tương tự để truyền đạo của họ sang những tín đồ đạo Phật.
    Theo em biết thì Phật thừa nhận có những chúng sinh 'cao cấp' hơn loài người (về mặt quả báo) nhưng nếu xem những chúng sinh đó là "tối cao", hay 'đấng sáng tạo', 'có quyền tối cao trong ban phước giáng họa' thì như vậy là trái với nhân quả.
    Phật có nói 'Nhân quả là qui luật có từ ngàn xưa' (theo bản dịch của hòa thương Thích Minh Châu). Nhưng việc Phật nói về 1 thượng đế (cho dù Brahmann không hẳn là thượng đế như cách hiểu của các tôn giáo thần quyền) như 1 năng lực tối thương thì em không nghĩ là có.
    NNC Nguyễn Tuấn Thanh có thực tập các pháp môn của Thiên Chúa Giáo La mã nên ông quan niệm như vậy (Phật giáo thừa nhận thượng đế !?!?) có lẽ là quan niệm riêng của ông.
    Huynh Love_TamLinh đưa ra dẫn chứng này, theo em chỉ chứng tỏ Phật có nói về các chúng sinh cõi cao cấp hơn loài người (Hình như tiếng Pali dịch là Devata có nghĩa là 'những chúng sinh có hào quang' em nhớ loáng thoáng là thế) chứ không nói về vấn đề ...thượng đế như thắc mắc.

  10. #10
    KhôngĐượcNhìn
    Guest

    Mặc định

    Mấy thầy bàn luận làm tui cười bể bụng

  11. #11

    Mặc định

    Huynh KhôngĐượcNhìn có cao kiến gì sao không chỉ bày cho anh em mở mắt mà lại cười như vậy ? Có Ngài Di Lặc Bồ Tát cũng hay cười nhưng cái cười của Ngài không Nhân không Ngã thế thì cái cười của KhôngĐượcNhìn như thế nào ?
    Nếu không được như vậy chớ nên cười vì sai cái hạnh Thường Bất Khinh Bồ Tát đi!

  12. #12
    KhôngĐượcNhìn
    Guest

    Mặc định

    Gỏ 1 cái lên đầu rồi nói:"Biết nói không biết đừng nói".

  13. #13

    Mặc định

    HOANGANTHI: Với một bản kinh phương tiện như thế - không đưa về tôn chỉ Giác Ngộ của nhà Phật như vậy mà Huynh lấy làm dẫn chứng đại diện quan điểm cho Phật giáo thì tôi thấy sao mà phiến diện một chiều quá mức. Trân trọng ! Kính chào.

    Kính huynh HOANGANTHI đã chia sẻ ý kiến về các bản kinh Phật.

    Love_Tamlinh cũng đang còn học hỏi nhiều tư tưởng nhà Phật mà thôi, và thấy rất thích thú vì rất nhiều luận điểm của Phật rất gần gũi và phù hợp với tinh thần khoa học.

    Tuy nhiên Love_Tamlinh học hỏi tất cả bài kinh Phật mà không có ý đề cao bài kinh này, không đề cao bài kinh khác của Phật, dù kinh đó Phật dạy cho ai thì quan điểm của Phật cũng chỉ là một mà thôi.

    Kính huynh,

  14. #14

    Mặc định

    Đệ xem bài các huynh viết cảm thấy kiến thức bản thân mình như con kiến giữa trời đất mênh mông ,thành thật xin bái phục tất cả hiểu biết của chư vị vô cùng.Kính xin chư huynh vui lòng cho đệ biết" câu lạc bộ Tiềm năng con người phía Nam " địa chỉ liên lạc , số điện thoại và nhà ngoại cảm Hồ văn Dũ muốn liên hệ gặp mặt có khó không? ngoài nhà ngoại cảm trên còn có thêm vị nào khác ở tại miền Nam để khi cần có thể giới thiệu cho những ai có nhu cầu thì chỉ giúp ,nếu cần đệ sẽ giới thiệu cho người Dì tu ở chùa bị qủi phá xem có giúp đươc giảm bớt sự xấu nào chăng?
    Kính chào các chư Huynh,
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH ! :)

  15. #15

    Mặc định

    TINHNGUYEN: Kính xin chư huynh vui lòng cho đệ biết" câu lạc bộ Tiềm năng con người phía Nam " địa chỉ liên lạc , số điện thoại và nhà ngoại cảm Hồ văn Dũ muốn liên hệ gặp mặt có khó không?
    Kính chào các chư Huynh


    Huynh TINHNGUYEN tham khảo thông tin tại đây:
    http://www.thegioivohinh.com/showthr...p?t=694&page=3

    Chúc huynh vạn sự an lành.

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi KhôngĐượcNhìn Xem Bài Gởi
    Mấy thầy bàn luận làm tui cười bể bụng
    Gỏ 1 cái lên đầu rồi nói:"Biết nói không biết đừng nói".

    Ngã mạn - kiêu căng như thế này mà bàn chuyện đạo được sao ? Biển học vô bờ hôm nay là thầy mai đã là trò và ngược lại -thế thì tự hào kiêu mạn bởi lý do gì ? Tôi chắc mấy thầy trên diễn đàn nghe lối nói của huynh nhưng chẳng chấp mà chi nhưng không nói thì huynh còn gây nghiệp nữa...Nghe hay không là tùy.

  17. #17

    Mặc định

    Mô phật, dù ngài nhập diệt rồi nhưng con cũng phải cố đi tìm ngài để hỏi tại sao ngài tu luyện để trở thành NHÀ NGOẠI CẢM như con dân của ngài đang quảng bá không.

    Ngoài ra theo họ ngài cũng có nguồn gốc từ một đấng tạo hóa, ngài cũng là con dân của Thượng đế mà thôi. Than ôi, vậy mà kinh sách của ngài dám nói là ĐẤNG TẠO HÓA tức ĐẠI PHẠM THIÊN đã từng đến đảnh lễ ngài khi ngài mới thành đạo.

  18. #18

    Mặc định

    Ngoại cảm là gì, ngoại cảm là các vị thích quan hệ trò chuyện với các linh hồn cấp thấp, băng tần thấp như ma quỷ, vong, cao lắm là đến Thần. Do vậy cái nhìn của họ cũng chỉ đến vậy thôi. Họ thích quan niệm Phật Chúa theo quan nhiệm của họ, và có lẽ đôi khi họ cũng coi Phật, Chúa là các VONG mà thôi.
    Thay vì giác ngộ các linh hồn đó để họ đi siêu thoát thì lại thuận theo quan điểm của các linh hồn đó, ờ, ông thích xe máy hả để tôi đốt cho, thích nhà lầu, mỹ nữ chứ gì, tôi đốt cho, mai báo cho tôi con đề nhé. Ặc. Mình là người, có đầy đủ điều kiện để tu tập vượt lên các cõi tại sao lại cứ tìm cách phụ thuộc vào những cõi đó.

  19. #19

    Mặc định

    Hóa ra Huynh quangquy nghiên cứu Phật Pháp đã nhiều nên mới có ý kiến như thế -Huynh nói rất chuẩn xác nhưng sao nghe chạnh lòng quá. Chào huynh

  20. #20

    Mặc định

    K biết bác KHÔNGNHINDUOC có giống vói tâm tính bác k mà trong diễn đàn này mọi nguòi cùng nhau thảo luận ,bác cuòi ngạo mạn.Thật là k phải nguòi theo đạo Phật,nên bác dùng tên bác rất đúng là bác

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •