Tuy Chúa Thánh Thần đã tác động trong vũ trụ và trong Giáo hội từ lâu lắm rồi, nhưng Ngài ít được thần học (cách riêng trong Giáo hội la tinh) nói đến, trừ khi bàn về bí tích Thêm sức và bảy ơn ban cho các tín hữu. Từ những năm sau công đồng Vaticano II, nhờ đối thoại với thần học Đông phương cũng như nhờ phong trào canh tân Thánh Linh, một thiên trong thần học đã được khai trương, gọi là Pneumatologia, để học hỏi về Thánh Linh trong tương quan giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như về tác động của Ngài trong lịch sử. Ta có thể coi thông điệp Domium et Vivificantem của Đức Gioan Phaolo II (18-5-1986) như một mốc đánh dấu sự tiến triển đó. Trước đó 5 năm, Đức Thánh Cha đã thúc đẩy tổ chức một Hội nghị Thần học quốc tế quy tụ các học giả Công giáo, Chính thống, Tin lành tại Vatican (từ ngày 22-26/3/1982) để kỷ niệm 1600 năm công đồng Constatinopoli đã tuyên xưng Đức Chúa Thánh Thần “là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”.
Bài này sẽ tìm hiểu Thánh Kinh đã nói gì về Chúa Thánh Thần, tiếp đó, là sự tiến triển của đức tin của Hội thánh về Thánh Thần, và sau cùng, là những nét suy tư chính về Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi.
A. CÁC BẢN VĂN KINH THÁNH
Cần lưu ý về cách sử dụng từ ngữ. Cách đây không lâu lắm, trong các sách kinh có danh xưng “đức Phiritô Săngtô”; chắc rằng các thừa sai ngoại quốc đã cảm thấy khó tìm ra một từ ngữ chính xác để dịch. Nhiều Kitô hữu đã chẳng lầm lẫn “thiên thần” với “Thánh Thần” đó ư, phương chi là người ngoài Công giáo? Hiện nay có tới ba danh từ để dịch Spiritus Sanctus: Thánh Thần, Thánh Linh, Thần khí. Tuy nhiên, khi mà chữ Spiritus không còn viết hoa nữa thì lại được dịch là “tinh thần”; còn tĩnh từ Spiritualis được dịch là “thiêng liêng, tâm linh”. Thực ra, trong các tiếng Do thái, Hy lạp, Latinh, những tư tưởng vừa nói đều có liên hệ rất mật thiết với nhau. Trong bài này, xin tạm dùng tiếng “Thánh Thần” vì đã quen thuộc tuy biết rằng nó không chính xác lắm.
I. Cựu ước
Trong Việt ngữ có nhiều danh từ khác nhau để dịch “Spiritus Sanctus”. Thực ra, sự đa dạng ấy không phải chỉ vì tiếng Việt còn thiếu sót từ ngữ thần học chuyên môn, cho bằng tại vì chính bản chất mầu nhiệm của thực tại mà chúng ta đang nghiên cứu. Không ai thấy được hình thú của Thánh Thần ra sao cả! Ngài được ví như “gió”, bởi vì chúng ta chỉ nhận thấy được qua hậu quả tác động (tựa như cành lá rung, hoặc cảm giác mát mẻ) chứ không ai thấy được hình thù của gió như thế nào! Vì lý do, Kinh thánh dùng rất nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả Thánh Thần, hay tiếng Do thái của Cựu ước, một danh từ phổ thông hơn hết là ruah (378 lần), được dùng trong ba bối cảnh như sau:
- trong khung cảnh thiên nhiên, ruah có nghĩa là gió, khí;
- trong khung cảnh của đời sống con người, ruah có nghĩa là hơi thở;
- sau cùng, ruah cũng được áp dụng cho chính Thiên Chúa.
1) Trong khung cảnh thiên nhiên, “ruah” có nghĩa là gió, một thực tại khá huyền bí, bởi vì không những nó chỉ đem cơn mát dịu khi trời oi ả, nhưng khi gắn với cuồng phong bão tố, nó còn được coi như khí cụ nằm trong tay Chúa (Tv 104,4; 135,7; Gb 10,13), được Thiên Chúa dùng để cứu vớt dân Ngài (như làn gió chắn nước khi Israel vượt qua biển đỏ: Xh 14,21; Ds 11,31; Is 63,11-14), hay để trừng phạt dân (Ed 13,11). Chính vì thế, gió được coi như biểu tượng của việc Thiên Chúa xuất hiện bày tỏ oai phong của Ngài (Ed 1,4; 1V 19,9; Đn 7,2). Vũ trụ này được tạo dựng nên nhờ làn gió của Ngài (St 1,2; Tv 33,6); nhất là con người sống được là cũng là nhờ hơi gió mà Ngài thổi vào (St 2,7; Tv 104,29-30; Gb 33,4; Gv 12,7).
2) Trong con người, “ruah” ám chỉ ba thực thể:
a/ hơi thở, sinh khí (Tv 31,6; 78,39; 146,4; Gb 9,18; 12,10) 17,1; 19,17; Gv 3,21). Dĩ nhiên sinh khí là do Chúa ban; nếu Chúa rút lại là con người chết (Tv 104, 29-30).
b/ Theo nghĩa tâm lý, ruah có nghĩa là: chí khí, tinh thần (Cn 16,18; 29,23).
c/ Theo nghĩa thiêng liêng, ruah ám chỉ trung tâm nơi mà con người quyết định mọi tư tưởng hành vi; ta có thể tạm dịch là: tâm thần, thần trí, lòng dạ. Kinh thánh cũng dùng một từ ngữ tương đương là “con tim” (Ed 18,31; 36,26). Việc canh tân trở lại với Chúa hệ tại việc thay lòng đổi dạ qua việc phú ban thần trí mới (Tv 51,12-14).
3) Từ khung cảnh thiên nhiên và nhân sinh vừa nói, chúng ta thấy rằng sức sống của vũ trụ và của con người được coi như là tác động của Thiên Chúa. Vì thế, việc biểu thị Thiên Chúa như ruah, (làn gió, hơi thở) xem ra khá tự nhiên. Và đây là khung cảnh thứ ba: ruah Yahweh, được dịch là “Thần Khí”. Tác động của Ngài không chỉ giới hạn vào sức sống tự nhiên ban cho vạn vật và cho con người, nhưng còn được áp dụng cách riêng vào lịch sử cứu rỗi của Israel. Trên đây chúng ta đã nói tới việc Thiên Chúa ra tay cứu Israel nhờ làn gió rẽ nước trên Biển Đỏ. Ngài còn can thiệp vào lịch sử của dân Israel khi “thổi dậy” các vị cứu tinh dân tộc từ các thủ lãnh Maisen (Ds 11,16.25). Giosuê (Ds 27,27.18), các anh hùng (thí dụ: Is 30,1; Mk 3,8; Ed 3,12; 8,3; 11,1.24). Ngoài ra, các ngôn sứ cũng loan báo thời cánh chung như là thời của thần khí: thần khí Chúa không những sẽ đáp xuống vị Cứu tinh tương lai (Is 11,2), thánh hiến người đầy tớ trung tín của Giavê (Is 42,1-7; 61,1-3), nhưng mà toàn dân Chúa cũng sẽ được tràn đổ thần khí Chúa (Ed 36,26; Gioel 3,1-2), nhờ đó họ sẽ sống thân mật với Chúa (Gr 31,31-34).
II. Tân ước
Các bản văn Tân ước được viết bằng tiếng Hylạp. Danh từ “ruah” trong tiếng Do thái được dịch ra là pneuma, Tuy nhiên, ý nghĩa của riêng pneuma vẫn còn được duy trì theo lối nói của tư tưởng Do thái (hơi thở, sức sống do Chúa ban), chứ không phải là theo tư tưởng triết học Hy lạp (quan niệm “pneuma” là cái gì thiêng liêng, không có hình tượng đối nghịch với vật chất hữu hình). “Pneuma” cũng được xét tới trong những khung cảnh khác nhau: hoặc trong cuộc đời tại thế của đức Giêsu hay là sau biến cố Phục sinh; lúc thì xét tới tác động nơi con người khi thì xét từ phía Thiên Chúa. Nói chung, mỗi tác giả Tân ước trình bày một khía cạnh khác nhau của Pneuma: Phúc âm nhất lãm nói nhiều tới tác động của Thánh Thần trong sứ mạng ngôn sứ và cứu tinh của đức Giêsu khi còn tại thế; còn Gioan, Phaolô và Tông đồ công vụ sẽ nhấn mạnh nhiều hơn tới Thánh Thần như hồng ân được ban cho Hội thánh và các tín hữu do hậu quả của mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh của đức Kitô.
1. Phúc âm nhất lãm
1) Ngay từ chương 1. Marcô muốn làm nêu bật sự hiện diện của Thánh Thần nơi tác vụ của đức Giêsu nói lời giảng cũng như việc làm (1,8.10.12): Thánh Thần hướng dẫn đức Giêsu trong cuộc giao tranh với ma quỷ (3,22-30) và giúp các môn đệ khi gặp thử thách.
2) Matthêo thì nói tới việc Thánh Thần can thiệp ngay từ khi đức Giêsu thụ thai trong lòng đức Maria (1,18-20). Đức Giêsu là vị cứu tinh đầy tràn Thánh Thần (12,18t), như Isaia (42,1) đã báo. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà đức Giêsu đánh đuổi Satan (12,28), và sai các môn đệ rao giảng Tin mừng cho muôn dân (28, 19).
3) Luca là tác giả nói nhiều hơn cả đến Thánh Thần trong cuộc đời của đức Giêsu, từ khi thụ thai (1,35), cũng như trong suốt cuộc đời. Bài giảng ra mắt tại hội đường Nadareth (4,14) cho thấy lời Is 61 được ứng nghiệm nơi đức Giêsu: “Ngài được Thánh Thần tấn phong sao đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo”. Ngoài tác động của Thánh Thần được biểu lộ qua việc trừ quỷ. Luca còn nói tới Thánh Thần tác động trong lời cầu nguyện (10,21) và chính đức Giêsu khuyên các môn đệ khi cầu nguyện thì hãy xin Cha trên trời ban Thánh Thần cho (11,13). Ngoài ra Thánh Thần được hứa ban để trợ giúp cho các môn đệ khi phải làm chứng cho đức Kitô (12,12). Luca sẽ tiếp tục đề tài này trong Tông đồ công vụ.
4) Ngoài những đặc trưng của mỗi thánh sử. Phúc âm nhất lãm còn có những điểm trùng hợp khi nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời của đức Giêsu vào những khung cảnh sau đây:
- Khi đức Giêsu lãnh phép rửa ở Hòa Giang, Thánh Thần đáp xuống trên Ngài (Mc 1,10; Cv 10,38), chứng tỏ vai trò của vị cứu tinh và tôi tớ mà các ngôn sứ đã tiên báo (Is 11,2; 42,1): Ngài được xức dầu và được sai đi để mang tin mừng giải phóng cho người nghèo.
- Thánh Thần dẫn đức Giêsu lên hoang địa để đương đầu với thần dữ (Mc 12; Mt 4,1; Lc 4,1). Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, lật ngược lại tình thế ban đầu khi mà tổ phụ Adong đã bị ma quỷ lường gạt. Từ cuộc chiến thắng trên hoang địa, nhờ sức mạnh của Thánh Thần, đức Giêsu tiếp tục cuộc chiến đấu chống lại sự đô hộ của Satan trên thế giới, nhất là nơi con người (Mc 1,27; Mt 4,10; 12,28; 16,23; Lc 11,20). Luca cũng cho biết là ma quỷ chuyên rình rập để tung ra cuộc giao chiến quyết tử vào hồi tử nạn (Lc 22,53).
- Thánh Thần hướng dẫn tất cả sứ mạng của đức Giêsu truyền giảng Tin mừng (Lc 4,16-30); đức Giêsu quả thực là ngôn sứ bởi vì lời giảng của Ngài có uy lực (Mc 1,22.27). Luca còn nói tới tác động của Thánh Thần trong việc cầu nguyện của đức Kitô (3,21-22; 10,21) và trở thành đối tượng của lời cầu mai sau của các môn đệ.
2. Gioan
Gioan một đàng nói tới Thánh Thần như hồng ân được ban từ Thập giá của đức Kitô, đàng khác cũng nói tới Thánh Thần như Trạng Sư, Đấng an ủi từ Cha đến.
1/ Thánh Thần như ơn ban từ Thập giá và sự phục sinh của đức Kitô
Vào lúc đức Giêsu chịu phép rửa ở Hòa Giang, Gioan đã mô tả rằng Thánh Thần từ trời đáp xuống và ngự lại trên Ngài giống như trong đền thờ (1,32; x. Ds 14,10); hơn thế nữa đức Giêsu lại có thể ban phát Thánh Thần cách dồi dào (1,34), bởi vì Ngài trở nên nguồn mạch Thánh Thần (7,37-38). Điều này được thực hiện vào giờ Thập giá (19,30.34) và vào lúc Phục sinh (20,28). Thực vậy, vào lúc đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Mc 17,37: ễpnéuen). Gioan mô tả như là “trao ban thần khí” (paredoken to pneuma, 19.30). Tiếp theo đó, một người lính đã thọc thủng vào cạnh sườn của đức Giêsu, lập tức máu và nước chảy ra (19,34). Chính lúc đó “mọi sự đã hoàn tất”, nghĩa là Thánh Thần, nước hằng sống được ban cho nhân loại từ Thập giá (7,37-39). Điều này được bộc lộ qua cử điệu của đức Kitô Phục sinh đã hà hơi trên các tông đồ: Ngài trút ban Thánh Thần cho họ để tha tội (20,22-23), tương tự như Thiên Chúa đã hà hơi và tạo dựng vũ trụ lúc khai nguyên (St 2,7). Gioan muốn trình bày Thánh Thần như là “Hồng ân” (Donum), được đức Kitô trao tặng cho các môn đệ, để ở lại với họ và trong họ (14,17.20).
2/ Thánh Thần Đấng An ủi
Trong cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với các môn đệ tại nhà Tiệc ly, ở các chương 14-16, Gioan đã trình bày tỉ mỉ hơn vai trò của Thánh Thần nơi các tín hữu, cũng như mối liên hệ giữa Thánh Thần với Chúa Cha và với đức Kitô.
a) Đặc biệt, không những Thánh Thần được gọi là “Thần khí thánh thiện” (Spiritus Sanctus: 14.26) mà còn là “Thần khí của chân lý” (Spiritus veritatis: 14,17; 15,26; 16,13; x.1Ga 4,6). Ngài được gọi là thần khí của chân lý, bởi vì thần khí là chân lý (1Ga 5,6; x. 4,23.24); Ngài đến giúp cho chúng ta tin nhận đức Kitô là chân lý (Ga 14,16), hướng dẫn các môn đệ đào sâu hơn lời của đức Kitô. Thánh Thần sẽ không dạy chân lý nào khác những gì đức Kitô đã dạy, nhưng sẽ giúp cho các môn đệ nhớ lại lời của đức Kitô, nghiền ngẫm thấm thía hơn(16,12-15). Một danh hiệu khác của Thánh Thần là Paraclitus (có nghĩa là: trạng sư, bầu cử). Vai trò của Thánh Thần sẽ là biện hộ cho đức Kitô trước tòa án thế gian khi họ kết tội Ngài cách oan uổng phải chết trên thập giá, hay khi họ từ chối không chấp nhận tin Ngài (16,8). Dĩ nhiên Thánh Thần cũng sẽ đứng bên cạnh các môn đệ trong công cuộc làm chứng tá cho đức Kitô (Ga 15,26-27; 16,27).
b) Thánh Thần được đức Giêsu sai đến với các môn đệ để tiếp tục sứ mạng của mình. Như vậy Thánh Thần là một vị khác việt với đứ Kitô, cũng như khác biệt với Chúa Cha (Thánh Thần xuất phát từ Cha: Ga 15,26).
3. Tông đồ công vụ
Trong sách Tông đồ công vụ, Luca đã trình bày vai trò của Thánh Thần trong đời sống của Hội thánh với những nét tương tự như tác động của Thánh Thần trong đời sống của Đức Giêsu trong Phúc âm. Cũng như trước đây Thánh Thần đã đáp xuống đức Giêsu vào lúc chịu phép rửa (Lc 3,21-22) để sai đi rao giảng Tin mừng cho hết mọi dân (Lc 4,16.25-27); nay Thánh Thần cũng đáp xuống Hội thánh vào dịp lễ ngũ tuần (Cv 2,1-4) để rao giảng Tin mừng dành cho hết mọi dân (Cv 2,14.39). Đối với người Do thái, lễ ngũ tuần tưởng niệm giao ước là chính Thánh Thần được ban trong khung cảnh không kém uy nghi như trên núi Sinai (chớp sáng và lưỡi lửa Cv 2,2-3, gợi lại cảnh sấm chớp mô tả ở Xuất hành chương 19-20). Thánh Thần được ban như hồng ân của đức Kitô phục sinh (Cv2,33, nhằm hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa (Cv 1,4; Lc 24,49). Thánh Thần được ban khi các môn đệ họp nhau cầu nguyện (Cv 1,14; 2,1). Sách Công vụ còn nói tới nhiều lần Thánh Thần đã đến vào lúc cộng đồng đang cầu nguyện (4,31; 10,44-47).
Thánh Thần không những chỉ được ban vào lúc khai sinh cộng đoàn Hội thánh tại Giêrusalem, tại Êphêsô (19,5-6) và các nơi khác, nhưng Ngài còn đi kèm Hội thánh trong cuộc sống, khi hướng dẫn những bước đường truyền giáo (8,29.39) mở rộng tới biên cương mới (ch. 10; 15,28; 16,6), đặc biệt là những chuyến hành trình truyền giáo của Phaolô (13,2.4; 16,6; 20,22.23.28; 21,4.11); Thánh Thần hỗ trợ Hội thánh để làm chứng cho đức Kitô bất chấp những đe loi, bắt bớ (1,8; 4,31; 5,32; 15,8; 28,31).
4. Phaolô
Trong các tác giả Tân ước, Phaolô là người nói nhiều nhất về Thánh Thần, với những khía cạnh cũng rất độc đáo. Thực vậy, một đàng Phaolô đã gắn liền Thánh Thần với đức Kitô phục sinh; đàng khác, Phaolô đã đề cập rất nhiều tới vai trò của Thánh Thần trong đời sống của Hội thánh và của các Kitô hữu.
1/ Thánh Thần với đức Kitô.
Phaolô nhiều lần nói tới Thánh Thần (hay thần khí) của đức Kitô (Rm 8,9; Pl 1,19). Từ ngữ ấy có nghĩa là gì: phải chăng là tinh thần của đức Kitô? hay là Đức Kitô cũng là Thần khí (Đức Kitô với Thánh Thần cũng là một)? Theo các nhà chú giải, cần phải trở về với bối cảnh của Cựu ước đã có từ ngữ “Thần khí của Thiên Chúa” để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi. Thánh Phaolô đã nhìn thấy sự can thiệp của Thần khí Chúa cách đặc biệt vào lúc Thiên Chúa cho đức Kitô phục sinh (Rm 8,11; 14,1; 1Cr 15,45), nhờ đó đức Kitô có thể ban thần khí cho ta. Nói khác đi, chính nhờ sự phục sinh, đức Kitô đã nhận lãnh được thần khí của Chúa để ban cho ta, nhờ đó ta có thể sống trong đức Kitô, đang khi chờ đợi sẽ được sinh giống như đức Kitô.
2/ Thánh Thần với Hội thánh
Như đã thấy trong Tông đồ công vụ, Phaolô đã được Thánh Thần hướng dẫn trong suốt cuộc hành trình truyền giảng Tin mừng. Phaolô đã nhìn nhận như vậy trong các thư gửi cho các giáo đoàn: lời lẽ của Phaolô không văn hóa bóng bẩy dựa theo thuật hùng biện nhưng là dựa trên quyền năng của Thánh Thần (1 Tx 1,5; 1Cr 2,4-5). Hơn thế nữa, Thánh Thần không những chỉ đi kèm theo lời giảng của Phaolô nhưng Thánh Thần còn đến với những người đón nhận Tin mừng mà Phaolô rao giảng. Nói cách khác Thánh Thần cũng tác động nơi các cộng đồng Kitô hữu nữa. Sự hiện diện sinh động của Thánh Thần được thể hiện qua các linh ân và đặc sủng, được Phaolô mô tả chi tiết trong những chương 12-14 của thư thứ nhất gửi Corintô.
Tuy nhiên Thánh Thần không những chỉ tác động trong Hội thánh qua những đặc ân phi thường mà thôi. Thực ra, như Phaolô đã nói rõ, những đặc sủng được Thánh Thần ban cho Hội thánh với mục tiêu là xây dựng cộng đoàn (1 Cr 12,7). Thánh Thần là nguyên ủy của sự thông hiệp trong Hội thánh: Ngài kiến tạo Hội thánh để trở thành một đền thờ (1 Cr 3,16), cung điện cho Thiên Chúa ngự (Ep 2,22); Ngài kết hợp hết mọi phần tử thành một thân thể trong đức Kitô của Ngài không phải chỉ phát lộ qua những đặc ân ngoạn mục, nhưng còn qua những công tác sâu đậm tác dụng trong thâm tâm của mỗi tín hữu.
3/ Thánh Thần với các Kitô hữu
Thực vậy, Thánh Thần đến với các tín hữu để canh cải họ ngay từ con tim, khi Ngài biến đổi họ từ thân phận nô lệ (Gl 4,7) sang tình trạng tự do của con cái Chúa (Gl 5,1), nhờ thế họ không còn phải sợ hãi trước mặt Chúa nữa; trái lại, tràn đầy tin tưởng họ có thể thốt lên: Abba, cha ơi (Rm 8,15; Gl 4,6). Thánh Thần đến giúp ta cầu nguyện cho xứng đáng (Rm 8,26-27). Thánh Thần trở nên một nguyên ủy mới tác động trong cuộc đời của ta, biến ta thành thụ tạo mới (Gl 6,15; 1 Cr 5,25) khiến ta đi theo Thánh Thần chứ không hành động theo xác thịt nữa (Gl 5,18-21). Đời sống mới được biểu lộ qua bác ái yêu thương (Gl 5,13) và những hoa trái của Thánh Thần: vui vẻ, bằng an, nhẫn nại, từ thiện, nhân hậu, trung tín, hiền lành, tự chủ. Như vậy, toàn thể đời ta sẽ trở thành một cuộc phụng thờ Thiên Chúa (Pl 3,3). Thánh Thần ngự trong ta là bảo chứng cho ơn cứu rỗi toàn diện, tức là ơn phục sinh mai hậu (Rm 8,23; 2Cr 5.5: Ep 1,14).
Kết luận
Có thể nói không dễ gì mà tìnm được một danh hiệu duy nhất có thể cô đọng tất cả những đặc tính của Thánh Thần. Tuy nhiên, Tân ước khẳng định một số danh hiệu mà sau này Hội thánh lấy lại, trong các tín biểu.
- Ngài là thần khí ban sự sống (x. Ga 6,63; Rm 8,2), vì là tác nhân ban sinh lực cho vũ trụ và cho con người ngay từ hồi tạo dựng. Hơn thế nữa, sức sống mà Ngài mang lại không chỉ giới hạn vào lãnh vực tự nhiên; sức sống ấy còn khơi dậy các ngôn sứ để loan báo tin mừng, giải phóng con người khỏi hết quyền lực của tối tăm, tội lỗi, sự chết.
- Ngài là thần khí của sự thánh thiện, tức là “Thánh Thần”, vì ban cho con người sự thánh thiện của Chúa, nguyên ủy thánh hóa nhân loại.
- Ngài là thần khí của tình yêu và hợp nhất, vì đã đổ tràn tình yêu xuống tâm hồn ta, ghi khắc giao ước vào thâm tâm con người, giúp cho con người hiểu biết Chúa hơn. Ngài là nguyên ủy hợp nhất trong các cộng đoàn Hội thánh, liên kết các tín hữu nên một với đức Kitô.
- Ngài cũng là thần khí của tự do và chân lý, vì đã giải thoát con người khỏi hết mọi ách nô lệ hay sợ hãi: tội lỗi, đau khổ, chết chóc.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)


Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này


“đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài”; b) trong Is 63:10-11: “họ đã nổi loạn, đã làm phiền Thần Khí Thánh của Người... Đâu rồi, Đấng đã đặt nơi ông Thần Khí Thánh của Người?”; và c) trong bản Bảy Mươi, Kn 1
“Thần Khí Thánh là thầy dạy dỗ...”, hoặc trong 9
“Ý định của Chúa, ai nào biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn ngoan, chẳng gửi Thần Khí Thánh?”
“Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn, Thần Khí mưu lược và dũng mãnh, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.”
ở đây, Chúa Thánh Thần được đặt ngang hàng với Cha và Con: “làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” Như trong phép rửa của Đức Giêsu, Ba Ngôi được mạc khải, thì trong phép rửa kitô, các tân tòng cũng được đóng ấn với quyền năng của Thánh Thần.
sau khi dùng danh từ pneuma – Thần Khí – là một từ trung tính, Gioan đã dùng đại từ ekeinos – Người – chỉ giống đực. Thần Khí được Cha sai đến nhờ danh Đức Giêsu (14:26), bởi Đức Giêsu đã xin Cha Ngài món quà ấy (14: 16); giáo huấn này có thể tóm kết như sau: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (15:26). Cha là nguồn tuyệt đối trong Thiên Chúa, từ đó Con và Thánh Thần phát xuất, trong những cách thế khác nhau, như thần học về sau sẽ cắt nghĩa, song Con và Thánh Thần đều hiệp nhất mật thiết với nhau trong nguồn gốc và trong sứ vụ. Thực tế, Thần Khí được sai đến để làm chứng cho Đức Kitô (15:26tt), và để giúp cho các tông đồ hiểu rõ hơn mạc khải về Đức Kitô (16:12-15); và bằng cách đó, Người sẽ tôn vinh Đấng Phục sinh (16:14). Tác vụ của Chúa Thánh Thần đối với các tông đồ là, trước hết, hiện diện với họ (14:17), và tiếp theo, là giúp họ nhớ lại những lời của Đức Giêsu (14:26), rồi hướng dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16:13). Còn đối với thế gian, Thần Khí sẽ là như một cái gai đâm vào mắt, chống đối lại các giá trị của nó (14:17); Người sẽ lên án những sai lầm và tội lỗi của nó (16:8-11).
“Sinh khí [Ruah=Khí] của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.” Còn đối với văn đoạn St 1:2, dù nó mang ý nghĩa nước đôi, nhưng truyền thống Giáo hội và thần học kitô cũng đã nhìn thấy ở đó hoạt động của Thần Khí, trong tư cách vừa là “ngón tay của Thiên Chúa” – tức là “tiếp điểm” giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với các vật thụ tạo – vừa là tình yêu, bởi Thiên Chúa thực hiện mọi sự vì tình yêu. Bằng cặp mắt đức tin, người kitô có thể “nhìn ra” sự hiện diện của Thánh Thần trong hết thảy những gì đang tồn tại; nhờ Người, mọi thụ tạo được hiện hữu và trở nên sống động, cũng như mặc lấy vẻ đẹp rực rỡ, huy hoàng. Danh hiệu Thần Khí Sáng Tạo luôn đi đôi với các ý niệm về quyền năng và sự sống.
“anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em; bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy...” (x. 10:38; Tv 92:11). Sau nữa, việc xức dầu còn mang ý nghĩa chữa lành, tựa như lúc thân thể Đức Kitô làm như phát ra một năng lực chữa lành (x. Lc 6:19; 8:46). Có thể đọc thấy trong thư thứ nhất của thánh Gio¬an, sự việc các tín hữu lãnh nhận được dầu, do tự Đấng Thánh,[22] và thứ dầu đó vẫn lưu tồn mãi trong họ; kết quả là, họ có được ơn hiểu biết, bởi vì “dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự, mà dầu ấy dạy sự thật, chứ không phải sự dối trá” (2:20.27). Đức Gioan Phaolô II đã giải thích điều đó như sau: “Như thế, Thần Khí chính là nguồn ban ơn thâm hiểu và minh luận, là sức năng thiết yếu giúp làm chứng cho chân lý thần thiêng. Thần Khí cũng chính là nguồn xuất phát của cảm thức đức tin (sensus fi-dei), một thứ bản năng siêu nhiên mà công đồng Vatican II đã coi như là di sản của Dân Thiên Chúa” (LG 12).[23] Trong suốt đời mình, người kitô được xức dầu nhiều lần: trong phép Rửa tội, trong phép Thêm sức, trong phép Truyền chức thánh đối với các linh mục, trong phép Xức dầu bệnh nhân; điều này nêu bật sự việc Thần Khí, Đấng Bảo Trợ, luôn đồng hành với người kitô từ thuở họ còn nằm nôi cho đến lúc họ nghỉ yên trong mộ phần vĩnh viễn. Tiến trình đồng hành thiêng liêng đó giúp đem lại niềm hoan hỷ trải dài suốt cuộc đời dương thế của người kitô; đó là ý nghĩa của “dầu thơm hoan lạc” mà Tv 45:8 muốn ám chỉ.
‘một năng lực tự nơi Người phát ra’). Là một Ngôi Vị, Người mang trong mình một tác vụ đặc thù thuộc tư cách cá vị. Quả thế, ngỏ lời với các Tông đồ về Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã phát biểu như sau: ‘Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều...’ (14: 26); ‘Người sẽ làm chứng về Thầy’ (15:26); ‘Người sẽ loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến’ (16:13)...”[36]
“Tôi phát xuất từ Thiên Chúa,” từ exporeuetai được dùng trong Ga 15
“Đấng Bảo Trợ... xuất phát từ Chúa Cha”; thần học Hy lạp quy gán cho hai động từ vừa nói những ý nghĩa khác nhau. Cần hiểu là Thánh Thần được “nhiệm xuy” bởi vì Người được phát xuất qua hành động “thổi hơi,” như đọc thấy trong Ga 20
lúc hiện ra với các môn đệ, Đấng Phục sinh đã “thổi hơi (Latinh dùng từ spirare) vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’.” Lúc Đức Giêsu trút hơi thở (Latinh: exspirare) trên thập giá, Người trao Thần Khí (x. 19: 30). Hành động thổi hơi (spirare) là cách thức làm cho Thần Khí, hay gió, chuyển động. Tổng hợp các cách diễn tả đó, các thần học gia đã cho ra đời thuật ngữ spiratio. Như thế, việc dùng từ nhiệm xuy là để biểu đạt về cách thức Thánh Thần phát xuất. Do bởi các nguồn gốc trong Ba Ngôi đều phát xuất từ các mối tương quan, nên thực trạng nhiệm xuy phải được hiểu là bao hàm cả hai khía cạnh: chủ xuy, tức tác động thần linh làm phát xuất ra Thần Khí, và thụ xuy, tức hành vi thụ nhận tác động thần linh từ phía Thần Khí; đây chính là mấu điểm dẫn đến hai cung cách hiểu khác nhau giữa Đông và Tây. Kinh Tin kính của Công¬xtăng¬¬ti¬nốp trình bày: Chúa Thánh Thần phát xuất từ nơi Cha; và phía Hy lạp hiểu là: phát xuất từ một mình Cha; còn phía Latinh lại hiểu là: phát xuất từ Cha và Con.
Bookmarks