Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 37

Ðề tài: TỪ 1 PHẬT TỬ TRỞ THÀNH GIÁM MỤC

  1. #1

    Smile TỪ 1 PHẬT TỬ TRỞ THÀNH GIÁM MỤC

    Từ 1 Phật tử trở thành Giám Mục
    http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_...ticle?mid=1525

    LTS. Tác giả sinh trưởng trong một gia đình Phật tử tại Bangkok, Thái Lan ngày 11-6-1916. Năm 1969, ngài được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI chọn làm Giám mục giáo phận Ratchaburi. Năm 1972, ngài được Hội đồng Giám Mục Thái Lan cử làm Ðại Diện tại Thượng Hội Ðồng Giám Mục tại Rôma.

    Giám Mục Ratna đã viết hơn 20 cuốn sách bằng tiếng Thái Lan. Khi được rửa tội, ngài chọn tên thánh là Robert.

    Sau đây là tự truyện kể về cuộc đời của ngài từ khi còn nhỏ cho đến ngày lãnh chức linh mục năm 1949.

    "Có đời nào mà thằng Ratna rửa tội theo đạo."

    Ðó là nhận xét của một số bạn bè sau khi cùng theo học với tôi tại Học viện Wan Yan do các cha Dòng Tên điều hành.

    Trong suốt thời gian ba năm này, tôi là một học sinh được coi là lạnh nhạt với đạo Công Giáo, tôi không bao giờ đặt chân vào nhà nguyện hay bàn về vấn đề đạo nghĩa. Mặc dù tôi phải theo học các giờ Giáo lý, nhưng đó là chương trình các học sinh phải học, tôi coi môn Giáo lý cũng như môn Toán hay môn Sử hay có khi còn kém các môn đó nữa. Giả như tôi chống đạo đi, có lẽ sẽ có các học sinh Công Giáo đến để bàn luận tranh cãi với tôi về vấn đề đạo giáo, nhưng không, tôi thờ ơ lạnh nhạt với đạo giống như một mảnh xương khô trong sa mạc.

    Lời nhận xét trên được nói với tôi vào buổi tối cuối cùng trước khi chúng tôi rời Học viện Wan Yan để nhập Viện Ðại học Hồng Kông vì chúng tôi vừa tốt nghiệp Trung học.

    Nhưng một việc lạ lùng đã xảy ra, chỉ vài ngày sau khi rời Học viện Wan Yan, một buổi lễ rửa tội tại nhà nguyện Ricci được cử hành cách rất âm thầm và người được rửa tội chính là tôi.

    Tại sao tôi theo đạo Công Giáo?

    Một điều tôi có thể quả quyết đó là: không phải do sự hấp dẫn của chân lý đạo, cũng chẳng phải do lý lẽ hợp lý của lý luận của đạo Công Giáo. Giờ đây tôi có thể nhìn lại quá khứ và kiểm điểm một vài biến cố từ thuở ấu thơ qua chín năm học tiểu học tại trường Mông Triệu ( Assumption College ) của các thầy òng Thánh Gabriel tại Bangkok và ba năm tại Học viện Wan Yan, Hồng Kông của các cha Dòng Tên.

    Tôi không nhớ nổi có một giây phút nào tôi đã được soi sáng bởi chân lý Kitô Giáo hay qua một lần tranh luận nào đó mà tôi đã bị thuyết phục đến nỗi phải tự nhủ mình rằng: "Ừ! Ðây là chân lý phải chấp nhận và ta phải theo đạo".

    Diễn tiến của sự việc như sau:

    Tôi được rửa tội năm 1937 lúc 21 tuổi. Vào buổi tối trước ngày khai giảng niên học tại Viện Ðại học Hồng Kông. Một thanh niên có trình độ Ðại học như tôi lúc đó có đủ lý do để tự hào, nhất là tôi lại có biệt tài về tranh luận. Tôi là hội viên của nhóm tranh luận tại Học viện Wan Yan. Tôi thường tranh luận trong đủ mọi vấn đề, trừ vấn đề tôn giáo.

    Tôi nhận thấy ngay từ cha tôi, một Phật tử thuần thành, đã gián tiếp gieo vào tâm hồn tôi hạt giống của giáo thuyết Công Giáo. Ðời sống tự nhiên của ông toát ra những nhân đức đáng trọng: Ông không bao giờ hút thuốc hay uống rượu; khi làm việc ông rất cần mẫn, chăm chỉ; thật thà trong việc tiếp xúc; nhân ái, rộng rãi với bạn bè hàng xóm; thành kính với tôn giáo và không bao giờ thù oán với ai. Bạn bè rất kính trọng ông. Ông không bao giờ có ác cảm với Công Giáo. Khi một người bạn Công Giáo qua đời, ông hăng say giúp đỡ trong vòng lễ nghi tôn giáo. Mặc dù chẳng có ai tôn ông là thánh, nhưng qua đời sống đạo đức và tốt lành của ông, ai cũng kính trọng ông. Mỗi buổi sáng, ông ngồi ở cổng nhà để phân phát thức ăn cho các vị sư khất thực, ông giữ thói quen này cho đến lúc tuổi cao không còn đủ sức khỏe nhất là sau khi bị liệt một phần cơ thể.

    Ông giáo dục con cái thật nghiêm khắc trong vòng lễ giáo. Hướng dẫn con cái phải chăm chỉ và cẩn thận dù khi làm việc nhỏ hay việc lớn. Kết quả của lề lối giáo dục đó là tôi không hút thuốc, không uống rượu và trong túi lúc nào cũng chỉ có một số tiền nhỏ. Tôi được sai làm việc chung với các đầy tớ trong nhà và khi nhà có khách, tôi lúc nào cũng đóng vai hầu bàn. Tất cả những điều này trở thành thói quen trong đời sống tôi sau này.

    Bà nội tôi là người đã dạy tôi học Kinh Phật và chỉ dẫn cho tôi cách phân phát thức ăn cho các vị sư khất thực. Mặc dù cha tôi cầu nguyện mỗi ngày nhưng không bao giờ bắt các con làm giống như thế. Chỉ vào mỗi dịp Tết Nguyên đán, ba tôi muốn tất cả các nghi thức phải được hoàn tất nghiêm chỉnh. Có thể nói, tôi sinh trưởng trong một gia đình Phật tử trung lưu sống bằng nghề buôn bán.

    Năm lên bảy tuổi, theo chân các anh tôi, tôi được gởi vào trường Mông Triệu do các thầy Dòng người Pháp điều hành. Tôi theo học tại đây chín năm. Trong suốt chín năm trời ròng rã, chưa bao giờ tôi cảm thấy bị hấp dẫn hay để ý về vấn đề tôn giáo. Tôi nghĩ Công Giáo cũng chỉ là một trong các tôn giáo. Ngoại trừ một vài lần tham dự lễ an táng, tôi chẳng bao giờ bước chân vào nhà thờ.

    Tuy nhiên, tôi còn nhớ có hai việc xảy ra trong thời gian này: Vào một buổi sang, khi đang chơi đùa với các bạn trong sân trường, Thầy Giám đốc Martin de Tour thình lình đến gặp tôi và nói chuyện với tôi về giáo lý. Mặc dù tôi lắng nghe một cách nghiêm chỉnh nhưng sau đó lại chạy đi tiếp tục nô giỡn, không một mảy may xúc động về những điều thầy đã nói. Lần thứ hai xảy ra vào những năm cuối của tôi tại trường Mông Triệu: Chúng tôi học về triết lý Công Giáo, thầy dạy môn học này đã chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng lý luận của khoa học, dù lắng nghe, nhưng tôi không hề chú ý, chẳng từ chối cũng chẳng chấp nhận. Trong đầu óc tôi không có một tư tưởng nào hướng về Công giáo, không chấp nhận cũng không chối từ: hoàn toàn lạnh nhạt và thờ ơ.

    Tôi rời trường Mông Triệu năm 1932 với những kỷ niệm đầy ắp trong tâm hồn, với sự thán phục lề lối giáo dục của trường và lòng kính mến các thầy dòng cũng như các giáo sư tại đây.

    Vài tháng sau đó tôi lên đường đi Hồng Kông để nhập Học viện Wan Yan, ở đây, anh tôi đã bắt đầu vào năm học trước đó.

    Tại Học viện Wan Yan, thái độ dửng dưng của tôi đối với đạo Công Giáo không thay đổi. Dĩ nhiên tôi cũng phải học môn Giáo lý, nhưng chỉ vì chương trình bao gồm môn học này, thế thôi. Giáo lý Công Giáo hoàn toàn không tạo cho tôi một chú ý nào, có một lần nọ vào dịp lễ Giáng Sinh, tôi vào nhà nguyện của trường để nghe cha Giám đốc Gallagher giảng: hoàn toàn xa lạ, tôi vào nhà nguyện chỉ vì anh tôi muốn tôi vào.

    Anh tôi lên đường về nhà sau một năm học chung trường với tôi.

    Tại Học viện Wan Yan, tôi rất thích đọc sách truyện. Cha Bourke thường chuyển sách cho tôi đọc. Tôi rất kính mến và biết ơn ngài, nhưng không bao giờ tôi để cha có dịp nói chuyện với tôi về tôn giáo. Cha Ryan nữa, ngài muốn tôi cộng tác với tờ báo The Rock của ngài trong mục thiết kế các bản đồ.

    Một ngày nọ, cha Ryan đến phòng tôi nhờ tôi vẽ một bản đồ, bất chợt ngài lên tiếng hỏi tôi: "Ratna, có bao giờ con chú ý đến tôn giáo không?" Câu trả lời của tôi ngắn gọn, chấm dứt câu chuyện một cách khô khan và cũng bất chợt như câu hỏi: "Thưa cha không."

    Cha giáo sư Martin thường mỗi tuần dẫn chúng tôi đến các bãi biển, hay đi thăm các đồi núi. Tôi rất thích cảnh đẹp của Hồng Kông và tận hưởng những giây phút thoải mái này, nhưng không bao giờ tôi nói chuyện với ngài về tôn giáo. Tôi sinh hoạt tất cả các sinh hoạt của trường, ngoại trừ những sinh hoạt về tôn giáo.

    Nhưng rồi chuyện xảy ra ...

    Vào năm cuối cùng của Học viện Wan Yan, khi chúng tôi sắp sửa thi kỳ thi tốt nghiệp trung học, cha Donnelly đã tổ chức một buổi cấm phòng cho chúng tôi.

    Cha nói: "Trước khi rời trường, cha nghĩ các con nên có một buổi cấm phòng." (Nay hay gọi là Tĩnh Tâm, nhưng riêng Dòng Tên thì có tên gọi là Linh Thao, ai tham dự Linh Thao về cũng thấy tâm hồn và đời sống mình được đổi mới ít nhiều)

    Các học sinh Công Giáo cũng như không Công Giáo đều tỏ vẻ vui thích về buổi cấm phòng này. Riêng tôi, không muốn bầu không khí sôi động của lớp học chi phối quyết định của mình nên không có ý kiến gì cả. Sau đó, mặc dù tôi cũng quyết định tham dự buổi cấm phòng nhưng với một ý hướng khác: Tham dự thử xem cấm phòng ra làm sao.

    Kỳ cấm phòng được tổ chức tại một ngôi trường cũ vùng Koowloon. Ngôi trường thật lặng lẽ, toàn phòng là phòng với một khu vườn phía sau để đi dạo. Ai làm sao tôi làm y như vậy trong suốt kỳ cấm phòng. Chỉ có một điều tôi còn nhớ đó là trong thời gian cấm phòng này, tôi đã tự kềm chế, tôi giữ im lặng thật khắt khe. Tuy nhiên chẳng có một thị kiến hay một tia sáng lạ lùng nào tôi đã xảy đến với tôi.

    Trong thời gian cấm phòng, theo như đã định trước, cha Donnelly gặp riêng mỗi người tham dự. Ngài cũng đã gặp cả tôi nữa:

    Ngài hỏi: “Con thấy cấm phòng thế nào, Ratna?”
    Tôi trả lời: “Thưa cha tốt lắm!”
    Ngài lại hỏi: “Con nghĩ thế nào về đạo Công Giáo?”

    Tôi đã trả lời ngài rằng tôi có một vài điểm nghi ngờ về Thiên Chúa. Ngài giảng giải cho tôi, tôi gật đầu và rồi ra về không một chút bận tâm.

    Cho đến lúc đó, tôi vẫn cảm thấy thờ ơ, lạnh nhạt như trước, không hề có một động lực nhỏ nhoi nào có thể khiến tôi kết luận rằng tôi đang nghĩ đến việc gia nhập đạo Công Giáo.

    Rồi tôi thay đổi:

    Sau kỳ cấm phòng, một người bạn nọ gặp tôi và cho biết có một vài người cho rằng cách sống của tôi đổi thay nhiều sau kỳ cấm phòng. Tôi suy nghĩ về việc này và thật sự tôi cảm thấy có một niềm vui, một tia sáng phát xuất từ tâm tư mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm thấy. Tôi cười và cười thật to với một hạnh phúc dường như đầy ắp trong tâm hồn, tôi nhận thức được rằng có một ân sủng thiêng liêng đang bao phủ tôi, không trách gì một vài người bạn tinh ý đã nhận ra điều này.

    Một nguồn ân sủng thiêng liêng đã ào đến làm trôi đi sự lạnh nhạt thờ ơ trong tâm hồn tôi, làm đã sự khao khát chân lý và hạnh phúc tự nhiên trong đời sống. Những màu sắc tươi vui đã xuất hiện trên sự héo úa của linh hồn tôi. Mảnh xương khô trong sa mạc nay đã có dấu hiệu của sự sống.

    Tất cả những điều này phát khởi và kết tụ trong linh hồn tôi một cách lặng lẽ, âm thầm đến nỗi chính tôi cũng chẳng mảy may hay biết.

    Như bị lôi cuốn bởi một sức mạnh ân sủng không thể cưỡng chế nổi, con tàu linh hồn tôi đang chuẩn bị bỏ neo tại một hải cảng thánh thiện: Giáo Hội Công Giáo. Ðêm đã rút lui, nhường không gian cho ánh sáng ban ngày. Sương mù đã tan biến cho con mắt linh hồn tôi chiêm ngưỡng thế giới thiêng liêng. Bàn tay thần linh đã đụng đến tim tôi và sự tiếp xúc đem đến một nguồn sáng, một lẽ sống cho linh hồn tôi.

    Giờ chỉ còn chờ cơ hội thuận tiện để nguồn ánh sáng bí mật kỳ diệu kia lộ dạng cho tôi và cho những người chung quanh chiêm ngưỡng.

    Sau kỳ cấm phòng, ở phong cách bên ngoài, tôi vẫn sống như tôi của ngày nào, nhưng bên trong thì đã có nhiều thay đổi.

    Sau khi tốt nghiệp Trung học, tôi trở lại Học viện Wan Yan và tạm trú tại hội trường Ricci. Tôi đến gặp cha Bourke, Giám đốc của nhà trường lần cuối cùng để chào ngài đồng thời trang trải số học phí còn thiếu lại. Cha Bourke tỏ vẻ buồn vì trong suốt thời gian ba năm dưới sự chăm sóc hướng dẫn của ngài, tôi chẳng có một dấu hiệu nào chứng tỏ là đã thấm nhuần đạo giáo.

    Ngài nói: “Ratna, cha nghĩ có thể con đã khá hơn nhiều nếu con là người Công Giáo!”

    Tôi trả lời: “Thưa cha con cũng nghĩ như thế.”

    Rồi tôi kể cho ngài nghe những gì đã xảy ra.

    Có lẽ cha Bourke chưa bao giờ ngạc nhiên như thế trong đời ngài.

    Sự thuần phục thoát ra từ tiềm thức như dòng nước lũ chảy xiết bật tung bờ đê của trạng thái thờ ơ lạnh nhạt và cuốn nó trôi đi mất hút. Một sức nặng nặng nề nào đó từ lâu đè nén trong lồng ngực như vừa được vứt bỏ, tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thơ thới.

    Vài ngày sau đó, tôi được rửa tội tại hội trường Ricci, cha Ryan làm chủ tế, Chevalier J.M. Alves là cha đỡ đầu của tôi.

    Tôi không xứng đáng để được gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo, chỉ là hồng ân của Chúa dẫn đưa tôi tới ngài: “Gratia Dei ego sum id quod sum” (Hiện tôi là gì là bởi ơn Thiên Chúa) (Cor.15, 10). Tôi chối từ mọi cố gắng của những người đến thuyết phục tôi nhưng tôi đã đầu hàng trước ân sủng của Chúa.

    Thật là rõ ràng nhận thấy sự hết lòng trong việc tổ chức một hệ thống giáo dục toàn hảo của các thầy Dòng Thánh Gabriel và các cha Dòng Tên đã chuẩn bị mảnh vườn tâm hồn tôi sẵn sàng cho hạt giống đức tin nảy nở.

    Vấn đề quan trọng đối với tôi lúc đó không phải là “làm sao” và “làm thế nào” tôi đã theo đạo, nhưng là ”làm sao” và ”làm thế nào” để tôi giữ được đạo. Tôi biết có một vài người bạn một thời gian sau khi rửa tội rồi họ không sống đức tin nữa. Tôi cũng hiểu những khó khăn đã đưa họ đến việc không tiếp tục, nhưng trong thâm tâm, tôi tự nhủ tôi sẽ gìn giữ đức tin và tiếp tục sống đạo cho đến hết đời tôi.

    Những ý nghĩ này làm đời sống tôi thay đổi sau ngày tôi được rửa tội.

    Từ sự lạnh nhạt thờ ơ trước kia, giờ đây trở thành sự nóng lòng muốn tìm hiểu mọi điều về Giáo Hội. Tôi không muốn có một sự nghi ngờ dù nhỏ mọn trong đầu. Tôi không muốn có một thắc mắc nào còn vương vấn trong trí. Tôi dồn hết cố gắng để hiểu thấu những giáo huấn của Giáo Hội. Tôi muốn đức tin của tôi phải được xây chắc chắn trên sự vững chãi của suy tư và lý luận. Tôi đọc nhiều lần các cuốn sách “Apologetics”, “Radio Replies” của Sheehan và Ripley. Tôi đọc các sách Ethics của Ignatius với sự hướng dẫn của cha Byrne. Các tác giả như Chesterton, Belloc và Maurice Baring làm tôi say mê. Các sách tôi đọc giờ đây hoàn toàn là sách về tôn giáo: “Chúa Kitô, Lẽ Sống của Linh Hồn” của Marmion; “Một Tâm Hồn” của Thánh Nữ Têrêsa; “Những vị Thánh cho Kẻ Tội Lỗi” của Goodier, “Người phong cùi tên Damien” của John Farrow trở thành những cuốn sách tu đức của tôi. Tôi trở thành hội viên của Phong trào Hộ Giáo và trong năm 1941, chúng tôi đoạt giải trong một cuộc tranh luận với Hội Thánh Joan of Arc.

    Càng tìm hiểu về Giáo Hội, tôi càng cảm thấy ngưỡng mộ sự hoàn hảo trong cách thế giải quyết các vấn nạn của đời sống. Ðối với tôi, giáo lý của Giáo Hội Công Giáo là nguồn của tất cả các lãnh vực của kiến thức. Tôi hân hoan nhận thấy sự hài hoà giữa khoa học và Giáo Hội. Tôi sững sờ khám phá ra rằng Kinh Thánh là chìa khóa mở cánh cửa lịch sử của nhân loại. Tôi thán phục cách thế Giáo Hội giúp giải quyết các vấn đề xã hội. Tôi ngưỡng mộ cách thế Giáo Hội bảo vệ luân lý và sự trinh khiết.

    Càng tìm hiểu về những chống đối Giáo Hội, tôi càng khám phá ra sự toàn bích, toàn mỹ hơn nữa. Nếu giáo huấn của Giáo Hội khiếm khuyết cách này hay cách khác mà tôi có thể nhận ra được có lẽ tôi đã không giữ đạo cho đến hôm nay.

    Dự lễ và rước lễ mỗi ngày, gia nhập vào Hiệp Hội Thiếu Niên Thánh Nữ Maria tháng 05 năm 1938, tôi giúp lễ và cảm thấy sung sướng khi đến với Mẹ Maria vào tháng năm mỗi năm. Tôi trở thành hội viên của Hội Thánh Vincent de Paul, đi xin quần áo cũ cho người nghèo. Tôi xúc động về đời sống của Thánh Têrêsa Hài Ðồng và cố bắt chước đời sống của Thánh Nữ.

    Thật là kỳ diệu sự biến đổi trong tôi từ một người thờ ơ lạnh nhạt với Giáo Hội trong suốt mười hai năm dài dù sống trong nôi của Giáo hội. Ân sủng tràn ngập dồi dào trong tôi. Tôi báo cho cha tôi biết về việc tôi được rửa tội, cha tôi không chống đối, có lẽ ông cũng chẳng biết đời sống đạo của tôi mãnh liệt đến thế.

    Tôi tốt nghiệp Ðại học Hồng Kông tháng 05 năm 1941, tương lai đang chờ đợi tôi với đầy tràn hứa hẹn của thành công, nhưng tôi quyết định sẽ đi tu làm linh mục.

    Trở về nhà với hy vọng là cha tôi sẽ đồng ý cho tôi đi tu, nhưng ngược lại cha tôi đã không đồng ý mà còn tìm cách cho tôi bỏ đạo. Ông ngạc nhiên và rồi từ ngạc nhiên đến nổi giận về việc tôi sùng đạo đến như thế.

    Qua thời gian với cuộc chiến tranh Pháp vùng Ðông Dương, xã hội và cả Giáo Hội trải qua một thời gian khó khăn. Cha tôi nhân đó cho rằng việc tôi vào đạo và sống đạo đã đưa đến những rủi ro cho gia đình. Ông không hiểu được rằng người Công Giáo rất “cứng cổ” trong việc tin đạo và sống đạo.

    Tôi cũng nhận thấy rằng việc sống đạo của tôi là nguồn gốc cho những xáo trộn của gia đình và không biết làm sao cho mọi người trong gia đình hiểu được. Tôi phải đương đầu đối diện với những biến động của đời sống. Tôi phải chọn một trong hai: Thiên Chúa hay thế gian.

    Ðược thêm sức bởi Bí tích Thánh Thể tôi rước vào tâm hồn trong một Thánh lễ tại Dòng Carmelite. Vào một buổi sáng, tôi quyết định rời xa gia đình. Không báo tin cho một ai hay, cũng không để lại một địa chỉ hay một lời từ biệt nào, tôi nhập chủng viện tại Bank Nok Khuek, Ratburi, ngay trước thời gian chiến tranh thật sự bùng nổ tại vùng Viễn Á.

    Trong lúc chiến tranh tràn lan khắp nơi, từ góc nhỏ lặng lẽ của một vườn dừa dầy đặc, lâu lâu một vài tiếng bom nổ từ xa vọng lại, một nhóm các chủng sinh, trong đó có tôi, đang âm thầm trau dồi các môn Triết học và Thần học.

    Tôi thụ phong linh mục vào lễ Thánh Gioan Boscô 31/01/1949.

    +GM Ratna
    - Bishop Robert Ratna Bamrungtrakul http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/bbamr.html (1916 - 2000)

    Đúng là ý Chúa nhiệm màu phải k các bạn CG?
    Last edited by abbachaoi; 17-01-2012 at 11:52 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Một chứng từ nữa của 1 LM dòng Đaminh.
    Khi Thiên Chúa đã gọi, con người k thể k theo.
    (K biết chừng có ng đã và đang vào đây "chém" Chúa và hội thánh Người sẽ trở nên chứng nhân đức tin cho Chúa! Vì ý Chúa nhiệm màu!)


    Hành trình cuộc đời tôi

    http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_...ticle?mid=1320
    [copy from camxatamlinh'sblog]

    Tác giả của bài viết này là Giáo sư Triết học của Viện Đại Học Sài Gòn, Việt nam. Ngài là hậu duệ của các Vua Triều Minh Mạng, Tự Đức. Dưới những triều đại này, Giáo Hội Công giáo đã bị cấm cách và sát hại gắt gao vào khoảng thế kỷ 19. Hiện tại, Ngài là một Linh mục Dòng Đaminh. Ngài là Phó Giám tỉnh của Dòng và là Chủ tịch của Tổ chức các Dòng tu tại Việt nam. Bài này được viết trong chuyến du hành sang Pháp trên tàu André Lebon vào năm 1935, bảy năm sau ngày Ngài Rửa tội theo Giáo Hội Công giáo và năm năm trước ngày Ngài được phong chức Linh mục. Ngài sang Pháp du học và lãnh nhận Thánh chức Linh mục.


    Tôi rời Huế vào ngày 24 tháng 10 năm 1935. Nơi đầu tiên tôi sẽ đến là Nha Trang để thăm cha tôi hiện đang làm tỉnh trưởng tại đây.

    Thường thường chuyến xe lửa khởi hành từ Hà nội đến rất đúng giờ, nhưng hôm nay không hiểu vì sao nó lại trễ mất một giờ đồng hồ. Tôi đã đến ga thật sớm và vì thế phải chờ đợi. Nhà ga vào buổi sáng gió rất mạnh. Cái lạnh thấm vào da thịt tôi và những người cùng đi tiễn chân tôi. Cho đến hôm nay, khi ngồi nhớ lại cái giây phút chia ly đó, tôi cầu xin Chúa trả công bội hậu cho tất cả những ai đã vì lòng bác ái bảo bọc, nâng đỡ cho những người hiến thân cho Chúa trên đường tu hành.

    Tôi vẫn thường có những cuộc hành trình tương tự lúc còn nhỏ, khi tôi chưa ý thức được sự việc chung quanh và chưa lo lắng về đời sống vật chất. Hôm nay, trong chuyến đi này, với một sự thanh thản cố hữu, tôi sẽ vượt qua các đồng bằng, những con đường ngoằn nghèo dốc núi. Theo đuổi những vô tư không phải vì không biết lo lắng, nhưng là vì muốn thực hành những nhân đức trong đời sống con người. Tôi yêu đời và tôi muốn sống hết cho tình yêu này, nhưng giờ đây, cũng với tình yêu ấy, tôi muốn nó được hòa nhịp với chân lý cao vời.

    Như thế, với cùng một tuyến đường, với cùng những quang cảnh quen thuộc, những núi non, những sông ngòi, cũng nói chuyện dông dài với những người bên cạnh, tôi vẫn là tôi, vẫn là con người cũ. Vẫn là con người cũ nhưng bên trong đã có thật nhiều thay đổi. Cảm nhận được niềm hạnh phúc đang dâng lên, nghĩ tới những hạnh phúc sẽ đến. Tôi hối tiếc quá, hai mươi năm trời của đời sống đã qua trong đời mình với những lầm lỗi, thiếu sót và vô tâm. Làm sao tôi có thể được sống lại một lần nữa những ngày tháng đó? Rồi tôi tự hỏi không biết những người trẻ khác có lầm lỗi, thiếu sót và vô tâm như thế không? Và sau một thời gian dài hoang phí tuổi trẻ liệu họ có được một tiếng gọi thần linh nào đánh động không?

    Tạ ơn Chúa vì Ngài đã thương đến con và tôi cầu nguyện cho những người khác.

    Vô tình trong chuyến đi, tôi gặp S., anh là một người rất thông minh, đa năng, đa tài. Anh biết đánh đàn Tây-ban-cầm, anh biết đánh cờ, anh biết làm thơ và cả hội họa nữa (Một người có đủ tài Cầm, Kỳ, Thi, Họa). Anh cũng bỏ mất thời tuổi trẻ như thế. Tất cả những cố gắng trong suốt những năm học trường nhà Dòng với các Sư Huynh chỉ đưa đến một kết quả duy nhất là anh có được các cấp bằng cao hơn để tiến thân. Những khủng hoảng tinh thần đã xảy đến, nhưng niềm tin (hay niềm-không-tin) của anh đã không thay đổi, một niềm tin không có Chúa cũng chẳng có Phật.

    Anh thật sự yêu mến và bênh vực Giáo Hội Công giáo. Anh nhớ hầu hết giáo lý đã học tại trường nhà Dòng. Anh cho đó là sự thật, nhưng điều lạ lùng là: Tại sao anh ta lại không có Đức Tin? Phải chăng vì anh ta chưa nhận được ơn Chúa? Hay là vì anh ta còn quyến luyến vật chất thế trần đến độ không nghe được tiếng gọi của Chúa? Hỏi, mà tôi không trả lời được một câu nào cả, nhưng đó là vấn đề của riêng anh ta với Thiên Chúa, chỉ có Chúa và anh ta có câu trả lời.

    Theo nhận định của tôi, không có một hướng đi nào rõ ràng cho linh hồn của anh, Có thể nói anh là biểu tượng cho đại đa số tuổi trẻ Việt nam, nhưng anh đã giúp tôi trên cuộc hành trình tôi đã đi qua từ Phật đến Chúa, chắc anh ta sẽ ngạc nhiên nếu tôi cho anh biết rằng anh đã giúp tôi nhận ra Chúa. Nhưng thưa anh kính mến, tôi xin anh đừng hãnh diện vội và kết luận rằng anh đã đưa tôi đến với Chúa, anh hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã lưu tâm đến anh, hướng dẫn anh đạt được kết quả này qua những việc làm anh không ngờ, đã không nghĩ và lưu tâm tới.

    Việc gặp gỡ anh S. trên chuyến xe lửa đó đã giúp tôi nhìn lại con đường thiêng liêng tôi đã đi qua.

    Trước kia, tôi rất ghét Kitô giáo và như thế tôi không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các Linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý đến nỗi mỗi khi nhìn thấy chữ "Thiên Chúa" tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sẽ sửa thành chữ "Trời". Trong lớp học dạy cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ "Thiên Chúa". Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.

    Lạy Chúa! Xin tha thứ cho con! Xin tha cho con mối ác cảm điên loạn ấy! Con biết rằng Chúa hiểu con, với một tâm hồn ngay thật con đã lạc lối, chạy theo những dự tưởng sai lầm và rồi quá trớn...

    Trong suốt năm học cuối cùng sửa soạn cho việc thi tốt nghiệp trung học, anh S. đến trọ tại nhà chúng tôi. Chúng tôi học cùng năm nhưng khác trường, anh học tại trường nhà Dòng của các Sư huynh, còn tôi học tại trường công lập của Chính phủ. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất hợp qua các đề tài học hành và giải trí, nhưng khi vô tình đề cập đến vấn đề tôn giáo hay đức tin, chúng tôi không tránh được việc cãi cọ. "Cãi cọ" có lẽ không đúng lắm, vì thường tôi đáp trả bằng những lời lẽ khá nặng nề và anh không chống cự vì anh đang ở trọ tại nhà tôi. Để đối lại với những tấn công nặng nề của tôi, anh chỉ đáp lại một cách cầm chừng và sau đó lại làm hoà với nhau. Anh không tự mình bênh vực, anh chỉ lập lại những chân lý đã nghe từ các Sư huynh trong trường.

    Rất ít khi chúng tôi nói chuyện với nhau về tôn giáo. Cũng chẳng lạ gì vì môi trường chúng tôi sống là một môi trường ngoại giáo, những vấn đề như Đức tin hay tôn giáo chúng tôi nghĩ chỉ làm mất thì giờ mà chẳng có lợi ích gì.

    Hiếm hoi bàn luận về tôn giáo như thế, thế mà trong thời gian này có một vài mẫu chuyện cũng đã khiến tôi phải suy nghĩ. Ngay đến lúc này, tôi còn nhứ như in một câu chuyện như sau:

    Câu chuyện xảy ra vào một buổi tối, khi chúng tôi đang ngồi ngắm trăng trong bầu khí mát mẻ trước hiên nhà bên bờ sông. Chúng tôi nói đủ mọi thứ chuyện. Như những thanh thiếu niên nói chuyện trong lúc nhàn rỗi. Chúng tôi đề cập đến đủ mọi thứ đề tài, trừ đề tài tôn giáo và nhân đức. Rồi chẳng biết từ đâu, vấn đề tôn giáo chen vào, hình như bắt nguồn từ câu chuyện nói về những người coi tử vi và bói toán mà chúng tôi đã tìm gặp để nhờ xem về kết quả kỳ thi cuối năm. Có lẽ liên can đến việc này mà vấn đề tôn giáo và đức tin được đề cập đến.

    Tôi mở đầu: "Mặc dù thuyết nhà Phật đã được quảng bá rất sâu rộng nhưng Đức Phật không phải là Đấng Sáng tạo. Chúng ta tin rằng Trời đã tạo nên và nuôi dưỡng chúng ta, nhưng chúng ta lại không thờ Trời. Chúng ta chỉ dâng lễ vật lên bàn thờ Phật và rồi sống theo ý riêng mình, chúng ta cũng kính thờ Khổng tử và tin tưởng vào tử vi và bói toán. Con người thật lạ lùng.".

    Anh S. phản ứng ngay: "Người Kitô hữu không giống vậy. Họ tin Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và là Đấng Sáng tạo. Họ không tin thờ Thiên Chúa một cách vô lý như chúng ta. Giống như người Do Thái, nhưng người Do Thái vì giải thích Cựu Ước theo ý riêng của họ, nên họ vẫn còn đang mong đợi Đấng Cứu Thế trong khi người Kitô hữu tin Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế đã đến.

    Thật ra, nhiều thế kỷ trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, các Tiên tri trong thời Cựu Ước đã loan báo về thời gian và nơi chốn Ngài sẽ được sinh ra, họ còn nói chi tiết hơn cả về đời sống khó nghèo, sự đau khổ và cái chết bi thảm của Ngài. Người Do Thái tin những lời tiên này, nhưng họ từ chối không tin vào con người Giêsu.

    Những lời lẽ này khiến tôi suy nghĩ nghiều.

    Những câu chuyện không đầu không cuối như thế từ bạn bè, gia đình, những người quen qua một vài lần gặp gỡ như Bác sĩ D., Kỹ sư C.. Họ không chủ ý, nhưng họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa tôi trở lại đạo Công giáo. Có lẽ Chúa đã từ đó tỏ lộ cho tôi lòng quảng đại của Ngài, vì lòng oán ghét đạo của tôi, thay vì Chúa gởi đến những người có đạo để thuyết phục tôi, Ngài đã dùng những lương dân để đánh thức linh hồn tôi hướng về Ngài.

    Những lần nói chuyện như thế, dù tôi đã phải suy nghĩ nhiều về nó, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để phá vỡ cái hàng rào đang ngăn cách tôi với Kitô giáo. Chúa còn hướng dẫn tôi đến khám phá ra chân lý và sự kỳ diệu của tôn giáo qua sách vở, báo chí. Những lý lẽ của anh S. đã thật sự khiến tôi xiêu lòng, nhưng vì quá gần đến kỳ thi cuối năm, nên mọi việc đều phải gạt sang một bên, nhất là đó lại là vấn đề tôn giáo với tôi là một thiếu niên. Tôi vẫn sống với một tinh thần của một Phật tử và ác cảm với Kitô giáo.

    Ngày loan báo kết quả tôi đậu kỳ thi cuối năm, tôi ra phố và ghé lại tiệm bán sách Đắc Lập để mua một vài cuốn sách. Tự cho mình đã trưởng thành đã mãn nguyện về chuyện học hành, tôi có thể mua đọc vài cuốn sách dành cho người lớn. Tuy nhiên, khi nhìn những cuốn sách này, tôi thấy xấu hổ và thay vào đó, tôi đã mua hai cuốn sách của Chanteaubriand và Pascal đó là cuốn Le Génie du Christianisme và Pensées. Tôi mua những cuốn sách này chỉ vì ưa lối viết văn của Chanteaubriand và Pascal hơn là mua để đọc, vì tôi có thể đoán được nội dung của nó ca tụng Giáo hội Kitô giáo. Tôi không phải là đọc giả của những loại sách này.

    Những cuốn sách vô tội này đã phải chịu một số phận hẩm hiu trong một góc nhà không ai đụng tới cho mãi đến khi tôi thu dọn đồ đạc, sách vở đi Hà Nội để theo học Đại học tại đây. Khi đóng thùng những cuốn sách không cần thiết để bỏ lại nhà, vô tình tôi mở cuốn Pensées và đọc qua một vài hàng trong một trang nào đó. Tôi chú ý vì đoạn văn có nhiều ý nghĩa. Đồng thời, cùng lúc ấy có một sức mạnh lạ thường nào đó chen vào tâm hồn tôi, thế là tôi quyết định đem hai cuốn sách đó đi theo.

    Có vài lần khi đọc vài đoạn văn trong đó, tôi cảm thấy bối rối. Thật ra nó chỉ tạo trong tôi một chút tình cảm hơn là nó đã lôi kéo được tôi. Tình cảm này đã khiến tôi tìm hiểu nhiều hơn về vấn đề.

    Có những khoảng thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm liền.

    Những loại tâm trạng tương tự như thế từ buổi thiếu thời khi còn học tại trung học lại trở lại trong trí tôi: Những lần tôi không giải trí chung với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng sau khi nghe vài bản nhạc buồn, sau khi vẽ một vài nét trên tấm vải mới căng cho bức tranh lạ. Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: "Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?".

    Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng! Không bao giờ! Không bao giờ! Dù nó đúng, nó thật, nó hay...nhưng "ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn". Thật ra sự bướng bỉnh đã làm tôi hóa ra ngu đần: Câu tục ngữ trên áp dụng vào vấn đề tôn giáo không đem lại một ý nghĩa nào cả.

    Trong khi coi Kitô giáo như một tôn giáo của ngoại bang, tôi không để ý đến những vấn đề khác như Đức Phật của Phật giáo là người Ấn Độ, Đức Khổng Tử là người Trung Hoa và nhất là Chúa Giêsu mặc dù không phải là người Âu Châu nhưng Ngài được các quốc gia trong lục địa này tôn thờ. Họ tôn thờ không phải Ngài là người này hay người kia, nhưng chỉ vì họ tin Ngài là Chúa và họ tôn thờ Thiên Chúa.

    Thiên Chúa là Chúa của tất cả các quốc gia dân tộc, không dành riêng cho một quốc gia dân tộc riêng rẽ nào. Khi Ngài đến trần gian mặc lấy xác phàm, Ngài đã được sinh ra trong dân tộc Do Thái. Dân tộc Do Thái này vì thế đã được gọi là dân được tuyển chọn. Họ tôn thờ Thiên Chúa của họ, họ đã không bị chi phối bởi các nguồn đức tin khác từ Ấn Độ, từ Trung Hoa, từ Hy Lạp hay Rôma, mặc dù các quốc gia này đã có những nền văn minh tân tiến hơn so với họ.

    Dân tộc Do Thái qua thời gian vẫn trung thành với Đấng Sáng tạo, dĩ nhiên cũng có những trường hợp riêng lẻ cá nhân chạy theo niềm tin này khác, nhưng cách chung họ coi việc thờ phượng Thiên Chúa như một điều bắt buộc trong đời sống. Có lẽ đây chính là lý do tại sao Thiên Chúa đã tuyển chọn dân tộc này làm dân riêng của Ngài. Còn biết bao nhiêu những điều bí ẩn khác tôi chưa hiểu thấu.

    Chúa Kitô chính là Chúa của tất cả. Mọi người có nhiệm vụ phải tôn thờ Ngài, yêu mến Ngài, phục vụ Ngài, tuân giữ các giới răn của Ngài và vâng lời Ngài.

    Còn đối với con người, bất cứ ai ở bất cứ đâu đều có thể đưa ra một triết thuyết nào đó rồi chỉ dạy, hướng dẫn người khác và tin rằng điều đó có ích lợi cho nhân loại. Những người như thế, họ hy vọng sẽ đưa đến hạnh phúc cho con người. Về phía chúng ta, chúng ta nên kính trọng họ, không nên nhìn vào họ trong khía cạnh con người với những lầm lỗi và yếu đuối, chấp nhận những điểm tốt, hữu ích, đừng theo những điểm xấu, sai lầm, tránh những cố chấp và bần tiện. Trí óc con người không phải là ơn mạc khải, cũng không phải là ánh sáng của giáo huấn của Giáo Hội, nó chỉ là một mớ kiến thức được suy đi luận lại, thế mà nó muốn diễn tả những bí nhiệm của vũ trụ, nó muốn giải quyết vấn đề sinh tử. Làm sao tránh được những sai lầm phải có?

    Chúng ta không đề cập đến những người tự ái, ham danh vọng, cố chấp trong những sai lầm của họ để rồi khư khư nắm giữ những tà thuyết gây thiệt hại cho nhân loại. Chúng ta chỉ nói đến những vĩ nhân, những triết gia, những người khôn ngoan, những người đã sống trong những thời đại và vì hoàn cảnh chưa bao giờ họ được nghe nói tới một tôn giáo thật, họ không thể thay đổi để tiến đến một niềm tin thật. Đó không phải lỗi của họ. Họ là những anh hùng, đời sống đầy nhân đức có khả năng siêu phàm trong nhiều lãnh vực. Họ là những người đáng kính, nhưng chúng ta không thể đưa niềm kính trọng đó trở thành một nghi lễ thờ phượng, coi họ như thần thánh, đồng hóa họ với thần linh và Thiên Chúa đấng sáng tạo vũ trụ.

    Chúng ta phải ý thức, phải nhìn vào trật tự của vũ trụ và nhân loại, chúng ta phải phân biệt Đấng Toàn năng và con người, Đấng Sáng tạo và loài thụ tạo.

    Ngay cả những vĩ nhân danh tiếng như Socrates , Plato, Aristotle của Hy Lạp, Khổng Tử của Trung Hoa hay vị ẩn sư đã thành Phật tại Ấn Độ. Tất cả những Vị này đều cho biết rằng họ là con người đang đi tìm hiểu, học hỏi và sống những nhân đức để đạt đến cứu cánh của đời sống con người. Đức Khổng Tử đã nói: "Không phải ta sinh ra đã hiểu biết, nhưng như những người khôn ngoan và thánh thiện khác, ta đã bắt đầu học hỏi, nhận thức không ngừng, đó là tất cả những gì ta có thể nói với các con."...

    Chính Đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mouni) sau khi đã được kính trọng như Đức Phật, Ngài đã nói: "Tất cả mọi người đều có khả năng thành Phật". Như thế, tất cả chúng ta đều có thể thành Phật với điều kiện phải sống đời sống từ bỏ một cách thật sự những ước muốn riêng tư và tách mình ra khỏi thế gian tục lụy. Và một ngày nào đó, chúng ta sẽ đạt được trạng thái vô vi thoát tục. Nói một cách khác, sẽ được "giải thoát", có nghĩa là thành Phật. Phật, như thế chính là con người sau khi sống một đời sống nhân đức toàn vẹn đã được giải thoát. Họ không phải là thần linh.

    Với những người này chúng ta phải tôn kính, sự thờ phượng chỉ dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng đã dựng nên và yêu thương chúng ta. Nếu chúng ta không biết Ngài, không biết giáo huấn của Ngài, chúng ta phải đi tìm, phải học hỏi đế biết Ngài. Nếu chúng ta thờ ơ, chúng ta sẽ giống như những đứa con rơi không biết cha mẹ mình là ai. Một cách sống thờ ơ như thế sẽ đưa đến tội lỗi và là dấu chỉ của sự vô ơn.

    Những điều này dù sao tôi cũng chỉ mới nghĩ đến trong những năm gần đây. Trước kia, sự thù oán và những tư tưởng vô lý khiến tôi mù lòa không nhìn thấy, không chấp nhận Kitô giáo. Tệ hại hơn nữa, nó còn lấn át đi cả tiếng gọi nội tâm không ngừng kêu mời tôi đến học hỏi, tìm tòi về chân lý thật sự ấy.

    Đọc lại những dòng tư tưởng trên, tôi mỉm cười tự hỏi sao một người đã là tôi lại có thể viết được những điều này...Thật vậy! Lạy Chúa! Ngài yêu con biết bao. Dù con đã ngỗ nghịch, Ngài vẫn âm thầm tiếp tục dìu dắt con trở lại với Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài nơi con đó là Ngài muốn con thoát khỏi án phạt đời đời và trao cho con một hạnh phúc bất diệt.

    Càng ngày, tôi càng tin tưởng hơn vào chân lý nơi Giáo Hội Công giáo, nhưng tôi không nghĩ đến việc sẽ rửa tội. Mỗi lần ý nghĩ rửa tội xuất hiện là mỗi lần tôi vội xua đuổi nó ngay. Mỗi lần tôi nhìn những người Công giáo Việt nam, tôi có cảm tưởng họ đang theo một tôn giáo của ngoại bang, nó xa lạ và khác thường với phong tục tập quán dân tộc, nó có vẻ "Tây" quá. Nhìn vào cách ăn nói, các nghi lễ, hình dáng nhà thờ... nó có vẻ Âu tây hơn là một màu sắc quốc tế. Đối với tôi, yêu mến văn hóa Khổng Tử, kính trọng đời sống kham khổ của các tu sĩ Phật giáo là những ngăn trở khiến tôi khó đến với Công giáo. Đời sống tự do của người Công giáo và ngay cả các Linh mục khó cho tôi có thể nghĩ rằng họ là những người tin Chúa và là tôi tớ của Chúa.

    Một ngày nọ, khi đến thăm ông nội tôi, tôi gặp một Tu sĩ Phật giáo đang ở nhà ông tôi. Vị tu sĩ không ngớt lời ca ngợi những Thày tu Dòng khổ hạnh truyền giáo (Cistercians) tại một ngôi nhà mới lập gần Huế. Đời sống của các Tu sĩ này đã ảnh hưởng tôi thật nhiều. Sự tìm hiểu của tôi về đời sống của họ đưa tôi đến sự khâm phục và cuối cùng dẫn tôi đến việc quyết định gia nhập Giáo hội Công giáo.

    Tôi trình bày đời sống và niềm tin của tôi với Linh mục Bề trên nhà Dòng và chính Ngài đã Rửa tội cho tôi ngày 15 tháng Tám năm 1928.

    Linh mục Bửu Dưỡng, O.P.
    Last edited by abbachaoi; 18-01-2012 at 12:22 AM.

  3. #3

    Mặc định

    Bà nội tôi là người đã dạy tôi học Kinh Phật và chỉ dẫn cho tôi cách phân phát thức ăn cho các vị sư khất thực. Mặc dù cha tôi cầu nguyện mỗi ngày nhưng không bao giờ bắt các con làm giống như thế. Chỉ vào mỗi dịp Tết Nguyên đán, ba tôi muốn tất cả các nghi thức phải được hoàn tất nghiêm chỉnh. Có thể nói, tôi sinh trưởng trong một gia đình Phật tử trung lưu sống bằng nghề buôn bán.
    Khi một người bạn Công Giáo qua đời, ông hăng say giúp đỡ trong vòng lễ nghi tôn giáo. Mặc dù chẳng có ai tôn ông là thánh, nhưng qua đời sống đạo đức và tốt lành của ông, ai cũng kính trọng ông. Mỗi buổi sáng, ông ngồi ở cổng nhà để phân phát thức ăn cho các vị sư khất thực, ông giữ thói quen này cho đến lúc tuổi cao không còn đủ sức khỏe nhất là sau khi bị liệt một phần cơ thể.
    Asmita chỉ nhận định ngắn gọn rằng, người con đã không có duyên với giải thoát. Từ người cha là phật tử, nhưng không hiểu một chút gì về lời của phật dẫn đến người con đã không dám tự dựa vào mình mà phải tìm một cột trụ khác. Khổ thay

  4. #4

    Mặc định

    Bạn là 1 Phật tử ôn hòa, mình cảm ơn bạn và tạ ơn Chúa về điều đó. Chúc bạn luôn an lạc nhé!

    Vâng, bạn cảm thấy ng ấy khổ.

    Nhưng chính ng ấy cảm thấy hạnh phúc.

    Ng Kito hữu hay được nhìn bằng ánh mắt nếu k là khinh bỉ thì là thương hại.

    Nhưng 1 ng Kito hữu đích thực sẽ hạnh phúc bất chấp ng khác nhìn họ như thế nào.

    Vì họ có Thiên Chúa là cùng đích của cuộc đời họ, họ k cậy dựa vào sức mình, mà luôn tín thác vào Cha Trên Trời.

    Con ng là gì trong cuộc đời này? là gì trong vũ trụ này?

    Phận ng yếu đuối mỏng giòn "1 con gió thoảng đủ làm nó biến đi"

  5. #5
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hyuugaasmita Xem Bài Gởi
    Asmita chỉ nhận định ngắn gọn rằng, người con đã không có duyên với giải thoát. Từ người cha là phật tử, nhưng không hiểu một chút gì về lời của phật dẫn đến người con đã không dám tự dựa vào mình mà phải tìm một cột trụ khác. Khổ thay
    mấy tỷ dân TCG ngày nay đều là con cháu của người ngoại đạo,mấy triệu dân CG VN đều là con cháu PHật Gia,Đạo Gia,Nho Giáo,...
    trong số chúng tôi,còn có nhiều gia phả của nhiều người nói về tổ tiên từng là Phật Tử,Quan Triều Đình,... Thậm chí có thể là Vua.
    có ai biết đến con cháu của triều đại Trần?
    họ có đủ bằng chứng cũng như có tên trong gia phả để tự hào,có một phần là người CG,... Và mỗi mùa xuân,họ vẫn lên núi Yên Tử để thăm viếng tổ Trần Nhân Tông và gặp gỡ những anh em khác.
    mình hiểu cảm nhận của bạn,nhưng đừng lóa mắt vì số đông những người CG cũng như TCG. Phần lớn trong chúng tôi đã quên mất mình sẽ sống như thế nào,phải làm những gì,cầu nguyện những gì,dạy con cái thế nào thay vì ép buộc chúng đi lễ mà không dạy dỗ gì về đạo lý,không bao giờ chạm tay vào cuốn Kinh Thánh,thậm chí còn không biết chút gì cả.
    Last edited by kiếp mù lòa; 18-01-2012 at 02:20 AM.
    haiz...........................

  6. #6

    Wink

    chị abba ơi, chị sắp tạo nên 1 cơn bão lớn đấy :hee_hee:

    nhân đọc về việc cải đạo, em muốn 8 về vấn đề này 1 chút xíu nha chị :party:1

    đối với suy nghĩ của nhiều người về việc cải đạo sang Công giáo thì những người cải đạo phần lớn đều bị ép buộc hoặc là bị dụ dỗ dưới nhiều chiêu bài, nhiều hình thức khác nhau: như là trong hôn nhân, người nam hay người nữ thuộc đạo khác, muốn kết hôn với người theo đạo thì họ phải cải đạo , phải đi học đạo, nếu không thì đừng có mơ cưới được người yêu của mình. Còn với trường hợp những người nghèo, người ở vùng sâu vùng xa, họ cải đạo là phần lớn do họ không có đủ điều kiện kinh tế, và nếu họ đến với Chúa Giêsu thì họ được bảo trợ tiền bạc, thế là họ theo. Động cơ mà họ đến với đạo là tiền bạc chứ không phải là vì tín ngưỡng :straight_face:

    Hoạt động của hội thánh Tin Lành nói thật em không biết, và vì vậy cũng không có bàn luận gì về việc truyền giáo của họ. là một Kitô hữu trong Hội Thánh Công giáo,em chắc chắn Hội Thánh không chủ trương truyền giáo bằng tiền bạc vật chất mà truyền đức tin nơi Chúa Kitô bằng chính cách sống của mình, bằng việc làm bác ái, bằng tinh thần Kitô không bao giờ tàn lụi trong tâm hồn.

    em nghĩ rằng có thể một số hệ phái của Tin Lành cải đạo bằng vật chất, cho tiền bạc để theo đạo, và em không tán thành. Nhưng nhìn ở 1 khía cạnh khác, có thể họ muốn giúp đỡ những người khác chưa biết Chúa, và nghèo cả về vật chất lẫn tinh thần, và họ biết Chúa rồi thì tự nguyện theo thì sao? Hơn nữa, cũng không nên nhìn 2 chữ"truyền giáo" hay "cải đạo" với con mắt tiêu cực. Bởi lẽ Hội Thánh Chúa, không kể là Tin Lành hay Công giáo, đều muốn truyền chân lý nơi Thiên Chúa cho người khác, giống như truyền 1 bó đuốc sáng trong giữa đêm đen vậy. em tin như thế,và cũng muốn người khác biết về Chúa. Còn việc họ có đón nhận hay không là tự do của họ. Không có vị linh mục hay mục sư nào hăm dọa lôi kéo cả. Những người cải đạo có 1 thiểu số có thể bị "dụ" khị bởi tiền bạc chứ không vì lòng mến CHúa. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều những người vì muốn tìm biết chân lý thật nơi Chúa, nên theo. Tại sao lại phải xét nét họ? Như vậy không phải là chính những ngừoi đó cũng đang vi phạm tự do tôn giáo sao?
    Last edited by satyaa; 18-01-2012 at 01:46 PM.

  7. #7
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi satyaa Xem Bài Gởi
    chị abba ơi, chị sắp tạo nên 1 cơn bão lớn đấy :hee_hee:

    nhân đọc về việc cải đạo, em muốn 8 về vấn đề này 1 chút xíu nha chị :party:1

    đối với suy nghĩ của nhiều người về việc cải đạo sang Công giáo thì những người cải đạo phần lớn đều bị ép buộc hoặc là bị dụ dỗ dưới nhiều chiêu bài, nhiều hình thức khác nhau: như là trong hôn nhân, người nam hay người nữ thuộc đạo khác, muốn kết hôn với người theo đạo thì họ phải cải đạo , phải đi học đạo, nếu không thì đừng có mơ cưới được người yêu của mình. Còn với trường hợp những người nghèo, người ở vùng sâu vùng xa, họ cải đạo là phần lớn do họ không có đủ điều kiện kinh tế, và nếu họ đến với Chúa Giêsu thì họ được bảo trợ tiền bạc, thế là họ theo. Động cơ mà họ đến với đạo là tiền bạc chứ không phải là vì kính ngưỡng :straight_face:

    Hoạt động của hội thánh Tin Lành nói thật em không biết, và vì vậy cũng không có bàn luận gì về việc truyền giáo của họ. là một Kitô hữu trong Hội Thánh Công giáo,em chắc chắn Hội Thánh không chủ trương truyền giáo bằng tiền bạc vật chất mà truyền đức tin nơi Chúa Kitô bằng chính cách sống của mình, bằng việc làm bác ái, bằng tinh thần Kitô không bao giờ tàn lụi trong tâm hồn.

    em nghĩ rằng có thể một số hệ phái của Tin Lành cải đạo bằng vật chất, cho tiền bạc để theo đạo, và em không tán thành. Nhưng nhìn ở 1 khía cạnh khác, có thể họ muốn giúp đỡ những người khác chưa biết Chúa, và nghèo cả về vật chất lẫn tinh thần, và họ biết Chúa rồi thì tự nguyện theo thì sao? Hơn nữa, cũng không nên nhìn 2 chữ"truyền giáo" hay "cải đạo" với con mắt tiêu cực. Bởi lẽ Hội Thánh Chúa, không kể là Tin Lành hay Công giáo, đều muốn truyền chân lý nơi Thiên Chúa cho người khác, giống như truyền 1 bó đuốc sáng trong giữa đêm đen vậy. em tin như thế,và cũng muốn người khác biết về Chúa. Còn việc họ có đón nhận hay không là tự do của họ. Không có vị linh mục hay mục sư nào hăm dọa lôi kéo cả. Những người cải đạo có 1 thiểu số có thể bị "dụ" khị bởi tiền bạc chứ không vì lòng mến CHúa. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều những người vì muốn tìm biết chân lý thật nơi Chúa, nên theo. Tại sao lại phải xét nét họ? Như vậy không phải là chính những ngừoi đó cũng đang vi phạm tự do tôn giáo sao?
    không hiểu sao ngày nay ít có những vị tu sĩ lang bạt truyền bá Đạo Công Giáo. Nhưng Đạo Công Giáo không bao giờ tán thành chuyện dùng thuốc men hay vật chất để người nghèo theo,vì Tin Lành không có Đức Giáo Hoàng nên một số cá nhân mới làm chuyện tức cười như vậy. Còn chuyện cả GX giúp đỡ một gia đình mới theo cũng như đã theo lâu thì chỉ là do tính bác ái yêu mến những người trong Giáo Xứ mà thôi,việc làm này luôn được kín đáo,ít ai biết người nào giúp nhiều nhất,vì mỗi người sẽ gửi những bì thư,hoặc bỏ vào thùng tiền quyên góp cách bí mật nhất có thể,...
    những GX vẫn thường giúp người ngoại đạo gần mình,ai xin thì phải cho,đó là Giáo Lý CG. Và người được nhận nào cũng phải được điều tra kỹ về hoàn cảnh,đạo đức,nhân cách,... Tất nhiên là không ép theo Đạo.
    Last edited by kiếp mù lòa; 18-01-2012 at 01:36 AM.
    haiz...........................

  8. #8
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    có thể sẽ có lúc tôi sẽ không có mặt trong diễn đàn này nữa,...
    cám ơn về những gì mà các Tín Hữu và tất cả các Vị đã làm cho tôi và chúng tôi.
    Last edited by kiếp mù lòa; 18-01-2012 at 02:39 AM.
    haiz...........................

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kiếp mù lòa Xem Bài Gởi
    có thể sẽ có lúc tôi sẽ không có mặt trong diễn đàn này nữa,...
    cám ơn về những gì mà các Tín Hữu và tất cả các Vị đã làm cho tôi và chúng tôi.
    Đi đâu thế bác ???

  10. #10

    Mặc định

    @Nicholas268: Bạn KML về với Chúa sau một kiếp mù lòa.
    Trời chẳng diệt người là do người tự diệt, trời chẳng hại người mà do người tự hại...Nhân quả báo ứng thật là không thể tránh khỏi

  11. #11

    Mặc định

    Thực ra thì mình cũng k thích chuyện ép nhau cải đạo khi lập gia đình với ng khác đạo.

    Mình thích hôn nhân cùng đạo hơn.

    Nhưng nếu lỡ yêu ng khác đạo thì sao nhỉ?
    Thì sẽ có lời khuyến khích nhưng nếu họ tự nguyện thì tốt mà k thì thôi, có lẽ đạo ai nấy giữ vậy. Tất nhiên sẽ có những bất tiện tỷong đời sống chung, nhưng còn con cái thì sao? Đây là vấn đề mình lo lắng nhất. Nếu để đến lúc chúng 18t mới quyết định thì hơn 50% chúng sẽ theo chủ nghĩa thế tục. mà chủ nghĩa thế tục rất gần với giáo phái nào thì chúng ta biết rồi đấy.

    Kinh nghiệm cho thấy có những ng tự nguyện theo nhưng sau khi vợ có thai sắp sinh bé trai là bỏ k đi lễ nữa và bắt bé trai k được rửa tội, phải để thờ cúng ông bà. (CG cũng k thờ cúng nhưng thảo kính ông bà cũng rất nhiệt tình đấy chứ). Rồi mọi chuyện rắc rối bất hòa xảy ra, thậm chí có trường hợp cấm vợ k cho đi lễ luôn, vợ giận bỏ về nhà ngoại, anh này đem cô khác về sống chung, gia đình tan vỡ, ai khổ?

    Vậy nên nếu có thể tránh được những đau khổ đã được báo trước trong 1 cuộc hôn nhân khác đạo, tại sao chúng ta k cố hết sức tránh?
    Dangbao đã sáng suốt khi quyết định k quen 2 ng bạn gái CG nữa.

    Nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, ng đạo theo còn siêng năng đạo đức hơn, trở thành gương sáng trong đời sống đạo cho ng vợ (chồng) đạo gốc và các con cùng bà con hàng xóm.

    Có trường hợp bố chồng cũng theo đạo qua đời sống chứng nhân của cô con dâu.

    Có trường hợp đạo ai nấy giữ nhưng con cái vẫn đi tu làm sr, làm LM, và sau đó thì ng cha được ơn và theo Chúa.

    Trong cuộc đời này k nói trước được điều gì, vì ý Chúa nhiệm màu. Khi nào con người bó tay thì Ngài ra tay

  12. #12

    Mặc định

    Từ giã Anh giáo, theo Phật giáo 20, rồi theo Công giáo

    Chàng thanh niên Paul William, người Anh quốc, vốn theo Anh giáo như tôn giáo của cha ông. Tuy nhiên như nhiều thanh niên cùng thời, chàng say sưa tìm hiểu thuyết Phật giáo, vì chàng thấy trong Phật giáo có những điều thỏa mãn tâm trí chàng hơn bên Anh giáo.

    Paul cho rằng Kitô giáo đề xướng một đức tin bất hợp lý, những tín điều vô lý, loại bỏ lý trí.Phật giáo phù hợp và đi đôi với những tri thức của khoa học tự nhiên tân thời. Phật giáo có thể kiểm chứng được qua sự phân tích triết học, và qua sự suy niệm thực hành.
    Paul đã thành thạo đạo lí Phật và trở thành giáo sư về môn học Phật tại đại học University of Bristol. Ngoài ra, anh còn là chủ tịch của Hội nghiên cứu Phật giáo của nước Anh trong một thời gian dài.

    Năm 1978, Paul Williams trình luận án tiến sĩ và cũng chính năm đó anh đã chính thức gia nhập Phật giáo. Tại nước Anh, Paul là Phật tử nổi danh, hăng hái truyền bá giáo lý giải thoát của Phật giáo, tức la giáo lí "Tự giác giác tha" (biết và giúp người khác cũng biết).
    Sau 20 năm sống như một Phật tử nhiệt thành, Paul Williams đã bắt đầu nghi ngờ về cuộc sống Phật giáo của mình: Sự vô lý của thuyết luân hồi, cũng như lối sống đạo đức được phát sinh từ thuyết luân hồi.
    Paul đã gặp được sách thần học của thánh Thôma Aquinô, chàng say mê nghiên cứu các sách vở của ngài và suy tư tìm hiểu quan điểm triết học của thánh nhân về Kitô giáo. Paul đã nhận ra được rằng đức tin vào Thiên Chúa hoàn toàn không hề phản lại lý trí như chàng nghĩ trước.

    Thoạt nhìn qua, người ta nhận thấy rằng xét về phương diện luân lý thực hành, giữa Phật giáo và Kitô giáo có những điểm tương đồng:
    Phật giáo thì Từ bi / Công giáo thì bác ái.
    Phật giáo Lấy ân báo oán, hỉ xả / Công giáo Không hận thù, nhưng tha thứ và chúc phúc cho kẻ làm hại mình.
    Phật giáo Đáp trả lại bạo động bằng sự nhẫn nhục/ Công giáo đáp trả bằng nhẫn nhục và yêu thương.
    Phật giáo không tham sân si/ Công Không để lòng mình dính bén vào các sự vật chóng qua đời này. Nhưng có nhiều điểm khác biệt cơ bản hoàn toàn trong tín lý:

    Kitô giáo là một tôn giáo hữu thần và độc thần.
    Phật giáo không chấp nhận thần linh, nói cách khác, PG là một tôn giáo vô thần; đúng hơn nữa,
    Phật giáo là một nền triết học duy linh, một siêu hình học mà thôi.
    Kitô giáo tin có một Thiên Chúa duy nhất, và là Đấng Tạo Hóa toàn năng, đã dựng nên và điều khiển toàn thể vũ trụ hữu hình và vô hình.
    Phật giáo hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chính Đức Dalai Lama, Giáo chủ Phật giáo Tây Tạng, đã tuyên bố: "Trong Phật giáo không có vấn đề đức tin".
    Kitô giáo có một nền thần học phong phú.
    Phật giáo chỉ khai triển các suy tư tín ngưỡng của mình theo triết học.
    Kitô giáo tin rằng mỗi người có linh hồn bất tử.
    Phật giáo lại chối bỏ sự hiện hữu của bản ngã mỗi người: Mọi sự đều "sắc - không", nên không được chấp ngã và chấp ngoại.
    Kitô giáo tin rằng mỗi người phải chịu trách nhiệm trước tòa Thiên Chúa về mọi hành động thiện ác trong cuộc sống trần gian của mình với sự thưởng phạt công minh.

    Phật giáo lại chủ trương tình trạng «quả báo» hay «nghiệp chướng» sẽ phải kéo dài trong một chuỗi luân hồi vô tận. Nhưng người ta tự hỏi: Quyền lực tối cao nào đã thiết lập và rồi giám sát luật quả báo hay nghiệp chướng kia? Câu trả lời vẫn bị bỏ ngõ!
    Qua đó chúng ta nhận thấy rằng khi một Kitô hữu muốn trở thành một người Phật tử, thì người đó phải đảo lộn toàn bộ cuộc sống của mình để xây dựng nó lại trên một nền tảng hoàn toàn xa lạ khác. Và ngược lại, khi một Phật tử từ bỏ Phật giáo để gia nhập Kitô giáo, thì người đó phải làm một cuộc thay đổi tuyệt căn trong mọi nhận thức và tư duy nội tại của mình. Nghĩa là người đó phải trải qua một cuộc hành trình nội tâm đầy vất vả: Từ chỗ trống rỗng vô thần bước sang ngưỡng cửa hữu thần; từ cõi hư không vô chủ tuyệt đối bước vào trong vũ trụ đầy ắp sự hiện hữu của Thiên Chúa Tạo Hóa; và sau cùng, từ vô ngã bước vào cõi hữu ngã; nói cách khác: Tôi không phải là cái gì vô hữu, hiện hữu mà thực ra không hiện hữu, chỉ hợp rồi lại tan; nhưng là một nhân vị hiện hữu thực sự. Chẳng những thế, tôi còn được thông phần vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, được gọi Người là Cha. Giữa Thiên Chúa và tôi luôn có một sự tương quan mật thiết.

    Hơn thế nữa, nay Paul Williams còn quả quyết là hình ảnh con người trong quan niệm Phật giáo rất lẻ loi và tiêu cực, trái lại hình ảnh con người trong Kitô giáo hoàn toàn tích cực. Paul Williams viết: «Nếu giả như Phật giáo là chân thực… thì cuối cùng đối với hầu như tất cả chúng ta, cuộc sống cực khổ hiện tại cũng chỉ là hư không, hoàn toàn vô giá trị… Nhưng nếu đức tin Kitô giáo là chân thực, thì bấy giờ cuộc sống chúng ta – cuộc sống cá nhân của chúng ta – có một giá trị vô tận và tất cả chúng ta - xét như những nhân vị - sẽ có được khả năng có thể đạt tới được sự hoàn thiện viên mãn.»

    Trong niềm hy vọng đó, Paul Williams đã quay trở về với đức tin Kitô giáo. Tuy nhiên, Paul Williams không trở lại với Giáo Hội Anh giáo mà trước kia ông đã được rửa tội, nhưng là gia nhập Giáo Hội Công Giáo với tất cả sự xác tín. Trong ngày Lễ Phục Sinh năm 2000, Paul Williams đã được gia nhập Giáo Hội Công Giáo tại nhà thờ chính tòa Bristol.
    Ông viết: «So sánh với đức tin Công Giáo, tôi nhận thấy rằng tất cả truyền thống Tin Lành, nhiều hay ít, chỉ biểu lộ một sự nghèo nàn sâu xa trong lãnh vực tinh thần và tâm lý.»

    Trong thời gian quay trở về với Kitô giáo, Paul Williams đã viết một loạt bài suy tư triết học mà ông đặt cho cái tên là «Những suy niệm phân tích.» Trước hết, qua những suy tư đó, Paul Williams chỉ muốn tự trần thuật lại sự sám hối của mình mà thôi. Nhưng khi các bạn hữu Phật tử của ông phê bình và chỉ trích sự trở lại Công Giáo của ông, Williams đã cho xuất bản tập tùy bút như «Apologia và Confessio», như sự bào chữa và tuyên xưng đức tin đó thành một cuốn sách, tựa đề là: «The Unexpected Way: On Converting from Buddhism to Catholicism» by Paul William, xuất bản năm 2002 tại T &T Clark, Edinburgh, New York. (sách dày 264 pp, giá $29.95
    (Nội dung cuốn sách này là sự ghi nhận những cảm xúc mang tính cách cá nhân của tác giả. Nhưng những tư tưởng được trình bày trong đó còn mang một ý nghĩa đặc biệt, vì chúng phân tích và đánh giá niềm tin Kitô giáo trong tương quan với Phật giáo.
    Những suy tư và nhận định của tác giả hoàn toàn được khoanh tròn trong chính sự việc; nói cách khác, sự phê bình Phật giáo của tác giả trước hết được nhấn mạnh trong:

    • Vấn đề về một vũ trụ quan vô thần và mang tính cách máy móc của Phật giáo;
    • Một nền đạo đức thiếu hợp lý, vì một đàng Phật giáo chủ trương thuyết nhân quả hay nghiệp chướng, tức có sự báo oán đền bù; nhưng một đàng khác Phật giáo lại phủ nhận bản ngã của tác nhân.
    Trong khi đó qua giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, đức tin Kitô giáo được trình bày một cách rõ ràng. Còn đối với những luồng tư tưởng thuần lý của một nền thần học mới, tác giả kết luận rằng:
    • Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là là một thực tại có tính cách lịch sử, chứ không chỉ là mã số cho việc tồn tại của sứ điệp của Người.
    • Sự hiện diện thực tiễn của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể và sự đồng trinh của Đức Maria chỉ có vẻ như nghịch lý. Thật ra, để làm cho niềm tin Kitô giáo thêm phần khả tín, thì việc suy tư về những điều lạ thường và những điều huyền nhiệm là một việc cần thiết.

    Tiếp đến, một câu hỏi được đặt ra là sự diễn tiến nội tại của đời sống tâm linh con người như thế nào, điều mà Phật giáo vẫn chủ trương là hành vi của chủ thể, tức sự tự giác? Paul Williams cảnh cáo rằng đối với người Kitô hữu, mục đích sau cùng của cảm nghiệm tôn giáo là sự tương quan tình yêu với Thiên Chúa, điều mà người Phật tử hoàn toàn phủ nhận. Williams viết: «Bởi vậy, người Kitô hữu cần phải cẩn thận, chứ không thể dễ dàng chấp nhận lối "ngồi thiền" của Phật giáo một cách vô điều kiện.»

    Lm Nguyễn Hữu Thy (VietCatholic)

  13. #13

    Mặc định

    Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và Biến Cố Đời Tôi
    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...uj7Zs4OmMXpiag

    (Kinh nghiệm của một người ngoài Công Giáo)

    Huỳnh Thị Quang
    Boston, Massachusetts

    Có lẽ không biến cố nào lớn hơn trong đời tôi bằng những ngày bỏ quê hương để trốn đi, trong đó tôi nhìn thấy ơn Đức Mẹ đã che chở tôi và gia đình. Tôi xin kể lại để một lần được công khai cảm tạ người Mẹ đã hằng nâng đỡ và cứu vớt chúng tôi.

    Kế hoạch của chúng tôi định vượt trạm công an biên phòng tại cửa Gành Hào không được chu đáo và an toàn, nên chuyện quyết định ra ghe vào tháng ba năm 1981 đã đình lại để chờ sự liên lạc của Tùng, vì Tùng là người chuyên môn làm môi giới cho tàu vượt biên ra cửa biển từ bấy lâu nay.

    Thời gian chờ đợi và liên lạc thấm thoát cũng gần 5 tháng. Sau cùng vào ngày rằm tháng 8 năm đó thì chồng tôi được lệnh cho ghe di chuyển từ Hộ Phòng đến Cà Mau, và ra đến cửa sông Ông Đốc. Trên ghe có vợ chồng chủ ghe và đứa con trai nhỏ cùng với vợ chồng tôi và cháu gái đầu lòng của chúng tôi, lúc đó cháu vừa được 4 tuổi.

    Trong ghe chúng tôi chở mấy ngàn cây mía để ngụy trang là ghe buôn bán. Khi ghe ra đến bến tàu, nơi toán đưa rước ra cửa qui định, thì mấy ngàn cây mía được hủy bỏ lên bờ, và người từ hai bên bìa rừng đổ lên ghe tấp nập. Lúc đó không đếm nổi là bao nhiêu người. Ghe không còn chỗ để duỗi chân, người chêm ép nhau như mắm. Tôi nghe Tùng nói chuyện với anh bạn chủ ghe và chồng tôi là: “Không kiếm được tài công và thợ máy. Các anh tính sao, có đi hay không?” Lúc ấy trời tối đen như mực, chung quanh toàn là rừng. Trước chiếc ghe chở người vượt biên chúng tôi, là môt chiếc xuồng máy đôi tôm nhỏ dẫn đuờng, trên đó có dăm ba người mang súng đạn.

    Tôi biết đã vào đường này ắt phải đi, dầu không có tài công và thợ máy. Thế là chồng tôi lên chức tài công bất đắc dĩ, và anh bạn chủ ghe phải tiếp chồng tôi châm dầu nhớt máy, nên cũng gọi là thợ máy luôn.

    Hừng sáng hôm ấy, con tàu của chúng tôi lọt ra cửa biển. Bọn đưa rước quay xuồng máy trở vào bờ. Từ phía chân trời, mầu hồng lợt bắt đầu xuất hiện, báo hiệu bình minh đã sang. Không khí tự do và trong lành như chưa bao giờ có trong cuộc sống tôi kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi phải hít thở không khí này vào cho thật đầy buồng phổi, rồi chuyện gì hãy tính sau, như là cuộc đời đi về đâu, hay là chuyện gì sẽ xảy ra cho cuộc sống mai này?

    Suốt một buổi sáng biển đẹp và lặng yên như tờ, nhìn chung quanh ai cùng hớn hở ra mặt. Tôi nghe nhiều người tâm sự với nhau thật vui vẻ. Có anh bạn bảo rằng anh đã đi vượt biên mấy lần rồi, lúc thì bị bắt nằm tù mấy tháng, nhờ lo lót, chạy chọt đúng chỗ mới ra được. Khi thì tổ chức bị bể dọc đường, may mắn mới trốn thoát được. Có chị xúc động đến rơm rớm nước mắt, chị nói, chuyến này may mắn thiệt, chắc chắn chuyến này tôi sẽ gặp chồng tôi rồi. Anh là lính Hải Quân cũ, theo tàu qua Mỹ từ năm1975…” Ôi thôi, biết bao câu chuyện vui khác mà tôi được nghe. Tuy con tàu vượt biên này mới đưa chúng tôi rời cửa biển được có một chặng đường ngắn, vì rặng cây xanh trong bờ của cửa sông Ông Đốc vẫ còn lờ mờ đó, thế mà nỗi vui mừng và không khí tự do đả tràn đầy trong lòng chúng tôi. Chắc chắn là không một ai còn lo đến ông tổ trưởng gọi chiều nay phải đi họp công tác thủy lợi; không còn lo ông công an khu vực bảo ghi lại lý lịch cá nhân cho rõ ràng vì có dính dấp tới ngụy quân, ngụy quyền khi đi xin việc làm nuôi sống bản thân v..v. Bây giờ tất cả chỉ còn là màu xanh của trời, của nước, màu hy vọng tuyêt vời của lòng... Đây là giờ phút được xổ lồng khỏi sự kìm kẹp, để thấy được trọn vẹn cái nghĩa của hai chữ “tự do” trong cuộc sống mà chính mình bị cướp mất.

    Niềm vui thì ai cũng muốn kéo dài vô tận, nhưng chẳng ai được toại nguyện cả. Sóng gió lại bắt đầu đến với cuộc đời, vì sau một buổi sáng tuyệt đẹp, biển lặng như tờ đó thì trưa đến, gió bắt đầu thổi mạnh, mây đen từ đâu ùn ùn kéo về bao phủ cả góc trời. Sóng trắng xoá, từng lượn bỏ vòi lên cao nghệu nhưmuốn nuốt trửng con tàu bé nhỏ của chúng tôi. Nước tràn lênh láng vào tàu. Những người trên tàu bắt đầu hoảng sợ, xôn xao hỗn loạn ầm lên. Tiếng la khóc của trẻ nhỏ, tiếng người lớn la lối cãi vã nhau vì dành những thùng đựng xăng dầu đễ làm phao cấp cứu cho cá nhân họ.

    Trên tàu có khoảng một trăm người, mà thùng đựng dầu chỉ có hơn chục cái thôi, ai có ai không bây giờ? chắc chắn sẽ có một trận xô xát giật giành. Nước vào tàu thì không ai lo tát ra, mà cứ định ôm thùng nhảy xuống biển. Trong cảnh hỗn loạn như vậy, tôi nghe tiếng chồng tôi la lớn từ phòng lái vọng vào: “Đừng có sợ, hãy lo tát nước ra đi. Các anh liệu ôm thùng nhảy xuống biển là sẽ sống đuợc hay sao?”

    Tiếng la lớn của chồng tôi đã làm mọi người lấy lại bình tĩnh, nên họ đã cùng nhau lo tát nước ra khỏi tàu. Cám ơn trời đất đã làm cho họ biết chia sẻ trong lúc khốn khó này. Chồng tôi không biết lúc đó như thế nào, khi một mình phải lèo lái con thuyền trong cơn phong ba bão táp như thế, một tài công bất dĩ, chỉ biết đem con tàu từ Hộ Phòng đến Cà Mau bằng đường sông, bây giờ trở thành tài công ra biển cả. Khoảng vài ba phút sau đó, tôi lại nghe tiếng chồng hỏi tôi vọng vào:

    - “Xin hỏi dùm, ai là người lớn tuổi trong ghe, đạo gì? Hãy đọc kinh dùm”

    Giọng chồng tôi lúc đó thật là nghiêm trọng, đã làm cho tôi phải rùng mình, nổi da gà hết cả người. Rồi ai nấy đều tụng niệm. Kẻ đạo Phật, người đạo Chúa, tất cả đều cầu nguyện cho được bình yên, tai qua nạn khỏi…Không biết có phải nhờ thế mà con tàu nhỏ xíu này chở cả trăm người đã tự dưng biết nương theo sóng gió mà ra khơi, phút chốc đã mất hút bến bờ, giống hệt như những chiếc tàu lớn chuyên nghiệp vượt biển, mặc dù trời đang giông bão dữ dội.

    Lúc đó, chắc ít ai nghĩ đến sự linh thiêng cuả lời cầu nguyện. Tất cả đọc kinh để trấn an lòng mình, để khỏi phải suy nghĩ mông lung, để quên đi bão táp. Có người lạy cả chồng tôi xin cứu giùm mạng sống mọi người trên tàu, vì cứ tưỏng là đã gặp được tài công thứ kinh nghiêm nhà nghề rồi.

    Đến nửa đêm đó thì hệ thống bơm nưóc để giải nhiệt máy bị hư, mọi người phải thay nhau múc nước đổ vào máy thay bơm. Sóng gió và sợ hãi làm mọi người quá mệt mỏi nên không còn nghe tiếng cười nói nữa. Cơn lạnh và đói bắt đầu hoành hành. Có người biết lo xa, họ mang theo kẹo bánh chanh đường v.v… còn như chúng tôi thì bận rộn, chạy đôn chạy đáo lo cho chuyến vượt biên, phần thì ỷ y đã có mấy ngàn cây mía trên ghe, lại còn gạo thóc, soong nồi mang theo. Nhưng mía thì bị thảy lên bờ để chở người, và gạo củi soong nồi thì giờ đã bị sóng nước biển làm ướt hết rồi. Cũng may còn vài chục cây mía lúc ra cửa sông dùng đề lót chỗ ngồi, thế là chia nhau mỗi người một khúc ngậm lấy nước ngọt mà cầm cự đôi ba ngày. Phần chồng tôi, sau một đêm đứng chịu sóng gió một mình đã thấm mệt. Nhưng chẳng có ai thế giùm để nghỉ ngơi giây lát, vì mỗi khi có người thay tay lái thì chiếc tàu tròng chành như muốn lật úp. Sợ qúa, mấy người trên tàu phải năn nỉ chồng tôi trở lại tay lái. Trong lúc đó cũng có một số khách cuả Tùng gởi đi lúc ra cửa sông, cứ tưởng là chồng tôi đã lấy tiền vàng để làm tài công cho tàu này, nên họ hăm he sẽ thảy chồng tôi xuống biển, nếu không chịu cầm lái con tàu này đến bến bờ.

    Thế thì dù có mệt mỏi đến đâu, chồng tôi cũng phải đứng chịu tay lái, vì tình ngay mà lý gian. Cũng để cho sóng gió đừng lôi ông tài công tài giỏi này xuống biển bỏ họ. Anh em trên tàu đã chia phiên nhau giữ hộ hai bên cánh tay chồng tôi để khỏi bị té và kiệt lực. Họ còn dùng dây cột bàn chân của chồng tôi vào cây điều khiển bánh lái tàu để khỏi vuột sút ra. Cứ như thế tàu nương theo sóng gió mà đi.

    Đến ngày thứ năm thì trên tàu xảy ra chuyện chẳng may. Bắt đầu là ống quần của một anh trên tàu bị máy buộc vào và đập nát ống xương chân. Thật là đau đớn. Anh kêu la suốt ngày, qua hôm sau đứa con của anh lại bị chết vì đói khát. Đến ngày thứ 7 lênh đênh trên biển, một cơn mưa kéo đến. Mọi người tự dùng miếng nylon nhỏ của mình để hứng nước. Tôi cũng cố đứng dậy để kiếm ít nước mưa cho con, thì thình lình một cơn sóng đập mạnh vào mạng tàu trong lúc tôi chưa kịp giữ thăng bằng nên đã ngã té. Thế là thai bị chấn động, và sau đó tôi chuyển bụng sinh một cháu trai, trong khi tàu đang lênh đênh giữa biển khơi này. Cháu ra đời và anh bạn là lính quân y cũ biết chút căn bản về sinh đẻ, đã dùng miếng kiếng bể thay dao, cắt dây nhau rún cho cháu, Thằng con trai tôi khóc chào đời chẳng bao lâu thì đứa con gái đầu lòng của tôi lại trút hơi thở cuối cùng. Rồi vài tiếng đồng hồ sau khi chào đời, không một mảnh vải che thân, không sữa bú, và có lẽ vì bị nhiễm trùng, vì cắt nhau bằng kiếng, nên cháu đã bị kinh phong giật rồi chết. Tôi chưa kịp đặt tên cháu thì cháu đã ra đi theo chị của cháu rồi!

    Vài người lớn tuổi trên tàu đề nghị với vợ chồng tôi nên đặt tên cho cháu trước khi thả thi hài xuống biển. Chúng tôi nghe và đặt tên cho cháu là Lý Bửu Long. Tôi đau xót nhìn người ta thả xác hai con xuống biển, và âm thầm khấn xin hai con là Lý Tú Anh và Lý Bửu Long phù hộ cho cha mẹ cũng như mọi người trên tàu được đến bến bờ bình an.

    Tôi không bao giờ quên được hình ảnh đau thương tột cùng đó trong quãng đời còn lại này, quãng đời mang nặng tâm tình người mẹ luôn dành hết tấm lòng, hết tình thương cho con, lúc nào cũng yêu thương những khúc ruột mang nặng đẻ đau của mình. Tôi có thể chết để cho con tôi được sống, tôi có thể đói để cho con tôi được no, tôi có thể khổ để cho con tôi được sướng, thế mà bây giờ tôi chịu bó tay nhìn con chết và nhìn thi hài con lênh đênh trên biển cả. Lúc ấy chỉ có trời đất mới thấm thía và hiểu được lòng tôi xót xa như thế nào! Tôi sống như xác không hồn, chẳng còn vui sướng nào trên thế gian này làm tôi quên đi hai đứa con đã chết đó.

    Rồi khoảng nửa giờ sau thì chiếc tàu của chúng tôi cũng chết máy luôn. Tay lái tàu đành cột lại cẩn thận để mặc cho sóng gió muốn đưa con tàu về đâu cũng được. Nhờ vậy mà chồng tôi được nghỉ ngơi chút ít, chứ không làm sao sống nổi? khi thân xác chỉ còn da bọc xương, sức khoẻ gần như kiệt quệ. Tôi nhớ ngoài những người hiểu lầm, quyết làm khó dễ chồng tôi, còn chị Lý Diêm Ken là vợ của anh chủ tàu, đã không ngần ngại nói sự thật để đính chính và bênh vực chồng tôi. Khi biết rõ ràng vợ chồng tôi cũng phải bỏ tiền ra để đi và phải làm tài công bất đắc dĩ thì mọi ngươì đều xin lỗi và thương chia sự bất hãnh của hai cháu qua đời. Tôi hết lòng biết ơn chị Ken, đã không sợ sệt để nói ra sự thật. Nhưng chúng tôi cũng rất buồn vì một số bạn bè đã im hơi lặng tiếng vì sợ liên lụy, có vài người lại a dua theo đám khách hiểu lầm để gây thêm áp lực xấu, bắt chồng tôi phải sống chết theo tay lái tàu.

    Sau khi tàu chết máy vài hôm, thì chị Ken và cháu Cảo-Kía cũng qua đời vì kiệt lực, và vài ba người nữa cũng đã chết. Tình trạng sức khỏe của tôi cũng quá yếu. Tôi lúc tỉnh lúc mê, vì sinh nở đã ba bốn hôm mà chẳng thuốc men, và chẳng ăn uống gì, tệ hơn nữa là nhau vẫn còn nằm trong bụng. Có người kể lại là tôi đã mê man mấy ngày liền.

    Sau cùng trong cơn mê dài này, tôi đã thấy một người phụ nữ bận đồ trắng, dùng tay xoa lên ngực tôi và đánh thức tôi dậy.

    Khi tỉnh lại, tôi thấy có vật gì nằng nặng đè lên ngực. Sờ thử thì thấy là một xâu chuỗi hạt màu xanh lá mạ với tượng một người phụ nữ. Lúc đó gia đình tôi chưa vào đạo nên tôi chỉ biết xâu chuỗi của người công giáo mà thôi. Tôi thều thào hỏi: “Cái này của ai làm rớt?” Không ai trả lời. tôi nhờ một anh bên cạnh truyền tay mọi người trên tàu coi của ai đánh rớt. Nhưng chẳng ai nhận và họ hoàn trả lại tôi. Tôi nghĩ xâu chuỗi này là của một trong những người có đạo trên tàu, thấy hoàn cảnh sinh nở và khốn khó của tôi, đã để xâu chuỗi trên ngực tôi trong lúc tôi mê man, mong người phụ nữ trong xâu chuỗi giúp đỡ cho tôi. Cuối cùng tôi đeo xâu chuỗi vào cổ mình. Khoãng vài ba phút sau, tôi nghe trong bụng như có gì dồn lên, tôi dùng tay đè nó xuống. Thế là nhau còn ứ trong ngưòi tôi tự động tuôn ra ngoài. Tôi cảm thấy khoẻ lại thật nhiều. Có thể nhờ xâu chuỗi mà sự may mắn này đến với tôi chăng? Nâng niu và ngắm nhìn người phụ nữ trên xâu chuỗi, tôi thấy bà có nét dịu hiền dễ thương. Tuy chưa biết bà là ai, tên gì, mà tôi được may mắn. Bây giờ tôi thực sự xin bà hãy đưa dẫn chúng tôi đến bến bờ bình an.

    Tôi đeo xâu chuỗi vào cổ, rồi lại mê man thiếp đi. Rồi ai lay tôi tỉnh dậy. Mở mắt ra tôi thấy mọi người xung quanh đang hớn hở xôn xao. Một chiếc thang giây và chiếc băng ca đang thòng xuống trước mặt để chuẩn bị đưa tôi qua tàu lớn. Thế là chúng tôi đang được tàu lớn vớt sau 15 ngày lênh đênh trên biển cả. Tôi là người đầu tiên được đưa qua tàu bằng băng ca. Tất cả có 61 người còn sống sót, 8 người đã chết và được thủy táng. Chiếc tàu tuần dương này của Mỹ mang tên Southern Cross. Vị hạm trưởng là người công giáo. Ông nói rằng trước đây mấy ngày, ông luôn thấy bồn chồn khó chịu trong người. Đáng lẽ tàu phải đi công tác xa, nhưng ông đã ra lệnh cho ở lại và tuần rảo quanh vùng biển xem thế nào. Rồi ông đã thấy con tàu nhỏ bé của chùng tôi đang gặp nạn nên ra lệnh vớt chúng tôi. Bây giờ lòng ông không nóng nảy bồn chồn nữa, mà cảm thấy bình an vui vẻ trở lại. Ông cho biết cơn bão tháng này đã đưa chúng tôi trôi dạt vào hải phận Phi Luật Tân, nước này cũng có trại tỵ nạn cho người Việt Nam, nhưng sức khỏe mọi người đã hoàn toàn kiệt quệ nên ông quyết định quay mũi hướng về Singapore, vì theo ông nơi đó có trại tỵ nạn tốt đủ thuốc men điều trị hơn.

    Thế là suốt hai ngày đêm tôi được nằm trong phòng có máy điều hòa không khí trên tuần dương hạm, được chăm sóc rất tận tình chu đáo. Rồi đến Singapore phải dời tàu vào bệnh viện cấp cứu. Vị hạm trưởng tặng anh em chúng tôi mỗi người một cái áo thun có tên tàu để làm kỷ niệm. Chúng tôi đều rất xúc động và cám ơn tình cảm chân thành của hạm trưởng và thủy thủ đoàn trên chiếc tuần dương hạm này.

    Vì tình trạng tôi quá yếu nên phải nằm ở phòng cấp cứu cuả bệnh viện tại Singapore hơn hai tuần lễ liền. Nhân viên phòng cấp cứu sơ tôi bị nhiễm trùng bởi xâu chuỗi đang đeo, nên buộc lòng tôi phải tháo bỏ phần chuỗi và chỉ xin giữ lại phần tượng để làm kỷ niệm. Sau đó, tôi được xuất viện để trở qua trại tỵ nạn. Trại tỵ nạn tuy nhỏ, nhưng rất khang trang, sạch sẽ. Tôi vẫn còn yếu sức, tinh thần thì sụp đổ vì đã mất mát hoàn toàn, nhất là mất hai đứa con trên biển cả. Thấy tôi thẫn thờ như người mất hồn, các bác sĩ y tá của Hội Hồng Thập tự Quốc tế làm việc thiện nguyện tại đây đã hết lòng an ủi và chăm sóc tôi rất kỹ. Trong số các bác sĩ có bà bác sĩ người Úc tên là Margaret bà nghe nhiều người kể lại về chiếc tàu vượt biển bé nhỏ của chúng tôi đã lênh đênh trên biển suốt 15 ngày đêm không thức ăn, không nước uống, có người chết và sinh nở trên tàu, nên bà đã tìm gặp tôi để an ủi và nói chuyện. Bà bảo: nếu không thấy tận mắt, không nghe tận tai và không nói chuyện với tôi thì bà hoàn toàn không tin là có một người đàn bà sinh nở trên biển, không thuốc men, không ăn uống, nhau còn trong bụng 4-5 ngày mà vẫn còn sống. Bà hỏi phép lạ nào đã giữ được mạng sống tôi như thế? Tôi thuật lại mọi chuyện và đưa cho bà coi tượng người phụ nữ mà tôi nhặt đực trên ngực của tôi lúc tôi hôn mê. Sau khi xem tượng, bà bác sĩ làm dấu thánh giá, và cho tôi biết: Đây là tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bà quả quyết chỉ có tình thương của Mẹ mới cứu sống tôi trong cảnh ngặt nghèo như vậy thôi. Rồi bà bảo, khi trở về Úc, bà sẽ viết lại câu truyện về “phép lạ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã cứu một người ngoại đạo” để đăng lên báo chí và tôn vinh Mẹ giúp cho tôi.

    Bà còn hỏi: hiện tại tôi cần bà giúp điều gì? Tô xin bà thưa lại với phái đoàn Cao Ủy là cho tôi được ở lại trại tỵ nạn Syngapore để giúp đỡ những người tỵ nạn khác. Hiểu ý tôi vì quá thương hai con đã mất và thủy táng ở vùng biển nước này, nên chỉ muốn đươc sống quanh quẩn bên vong linh hai trẻ: bà khuyên tôi nên nghĩ lại, trước là phấn đấu cho sức khoẻ thể xác, sau là được bình an trong tâm hồn, rồi phải đi dịnh cư cho tương lai cá nhân mình, để còn lo cho cha mẹ, anh em còn lại tại Việt Nam.

    Sau đó vợ chồng được di chuyển qua trại Galang II và được định cư tại Mỹ vào tháng 10 năm 1982.

    Bước chân vào cuộc sống mới, cái gì cũng lạ cái gì cũng phải học hỏi. Sau ba tháng tôi sinh được môt cháu gái. Cảnh sống bận rộn khó khăn làm cho tôi quên mất Mẹ, quên những thời gian đau khổ được được Mẹ đoái thương. Tôi đã gói tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp này cất kỹ vào tủ. Đến tháng 4 năm 1984, tôi sinh thêm một cháu trai. Vài tháng sau nhà tôi bị cháy, con cái lại gặp cảnh nheo nhóc khổ sở, buồn rầu. Một đêm ngủ tôi mơ thấy người phụ nữ ba năm về trước. Bà đến bên tôi, đi bên cạnh là đứa con gái đầu lòng 4 tuổi của tôi đã chết trên tàu vượt biên. Bà an ủi và bảo tôi rằng: “Con đừng sợ, khi nào con đau khổ thì đều có Ta bên cạnh để giúp cho.” Rồi bà dùng tay vuốt từ đầu đến ngực tôi. Tôi giựt mình thức giấc. Phần thì sợ giấc mơ kỳ lạ gặp lại người phụ nữ xưa, phần thấy lại đứa con gái đầu lòng của mình mà con nó lại làm ngơ như xa lạ, không nhìn mình, nên tôi rất buồn và khóc rất nhiều. Chồng tôi đã an ủi và trấn an tôi, cho đó là những điều mộng mỵ mà thôi.

    Rồi những khó khăn về cuộc sống cũng qua, nhà cửa tôi dần dần ổn định lại. Một lần nữa tôi lại bỏ quên mẹ vì bận rộn mưu sinh và chăm sóc hai đứa nhỏ. Đến năm 1988 tôi sinh thêm một cháu trai nữa. Chồng tôi theo đạo Phật nên năm đó gia đình tôi thỉnh một tượng Phật Bà Quan Âm về thờ. Từ đó tôi càng quên Mẹ nhiều hơn. Mãi đến năm 1994, khi đứa con gái lớn sinh tại Mỹ chuẩn bị vào trung học đệ nhất cấp thì vợ chồng tôi bắt đầu lo trường ốc, vì chúng tôi nghe rất nhiều tin tức tệ hại xảy ra ở học đường. Chúng tôi không kinh nghiệm nhiều về hệ thống giáo dục ở Mỹ, không biết trường nào tốt, trường nào xấu. Nhưng khi nhớ lời Mẹ nói trong giấc mơ bị cháy nhà, tôi lại đem tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ra mà cầu xin giúp đỡ và chỉ bảo cho tôi tìm được trường tốt cho con vào học. Chẳng bao lâu tôi lại nằm mơ thấy Mẹ trở lại với đứa con gái đầu lòng đã chết của tôi. Lần này tôi đi theo bà đến góc sân của một trường học, nơi đó tôi nhìn thấy đám học trò nhỏ mặc đồng phục chơi đùa vui vẻ lắm. Sáng ra tôi kể cho chồng tôi nghe về giấc mơ lạ và gợi ý đi tìm trường cho con vào mùa tới.

    Cuối cùng, tôi đã tìm được tìm được trường. Đó là một trường công giáo tên là Sacred Heart, thành phố Quincy, MA. Tôi mạnh dạn đến bấm chuông văn phòng của trường, tuy hôm ấy đang là ngày bãi trường vì vào mùa hè. Tôi may mắn gặp ngay Soeur hiệu trưởng để hỏi han về trường học. Tiền bạc thì chúng tôi chẳng dư giả gì, mà đơn từ thì chưa điền để giữ chỗ, thế mà nhờcầu nguyện thiết tha với Mẹ Hằng Cứu Giúp mà con tôi được nhận vào học trường này ngay trong mùa sau đó. Rồi cả ba đứa con đều học trường này, còn tôi thì phụ nhà trường bán Bingo mỗi tháng vào ngày thứ Hai.

    Sau 5 năm theo học ở trường công giáo, ba đứa con đã xin vợ chồng chúng tôi cho theo đạo. Việc này khiến chúng tôi lo sợ sẽ mất con, vì tụi nhỏ khi theo đạo Thiên Chúa thì sẽ quên mất nguồn gốc, tổ tiên ông bà cha mẹ, ai là người thờ phượng tông đường đây. Lúc ấy tôi chưa hiểu điều răn thứ bốn cuả đạo Công Giáo rất quan trọng và nghiêm ngặt nên mới nghĩ như vậy. Tôi đã từ chối các con bằng cách bảo rằng "đạo nào cũng tốt, mình sống ăn ngay ở lành là căn bản", các con còn nhỏ, lo ăn học trước đã, đến khi lớn 18 tuổi đủ trí khôn, nếu còn muốn theo đạo thì hãy tính. Nhưng từ đó, có một sức mạnh thiêng liêng tác động, khiến chúng tôi bắt đầu để ý tìm hiểu về đạo.

    Mùa Chay năm đó, cả ba đứa con xin phép vợ chồng tôi kiêng thịt ngày thứ sáu và cũng thuyết phục chúng tôi bớt chất thịt và mỡ trong những ngày chay. Điều này cũng lợi cho sức khoẻ vì đã bác sĩ bảo chồng tôi bị cao mỡ trong máu. Tôi cảm thấy gia đình có một chút gì đổi mới, nề nếp hơn, vui tươi hơn. Khi được những người bạn mời dự lễ rửa tội cho con họ, tôi có dịp quan sát kỹ. Tôi thấy những bộ quần áo trắng tinh, tươm tất chỉnh tề, bao khuôn mặt ngây thơ dễ thương ẩn chứa niềm tin yêu sáng ngời; tôi thấy cha dâng lễ, giảng thuyết, lời lẽ ôn tồn, êm dịu chứa đầy khoan dung, nhân ái, che chở, luôn mưu cầu hạnh phúc, bình an cho đàn chiên mình. Đặc biệt trong buổi lễ rửa tội hôm ấy, dường như Đức Mẹ đã tỏ ý bằng lòng về sự nhận xét đầu tiên của tôi về đạo Chúa, nên bức tượng Mẹ bên trái nhà thờ đã phản chiếu ánh đèn hay ánh nắng khiến thêm rực rỡ và lộng lẫy khác thường. Không kềm được lòng và không suy tính hay chờ đợi cho con tôi lớn lên đủ 18 tuổi nữa, tôi đã ngỏ lời với chị ngồi bên cạnh nhờ chị giúp cho con tôi cũng được vô đạo và rửa tội giống như con của chị.

    Cuối cùng, chúng tôi ghi danh vào khóa dự tòng để tìm hiểu và học hỏi giáo lý tại nhà thờ St. Peter do cha Đoàn Quang Báu giảng dạy. Thật là “có đến xem mới thấy, có đến nghe mới hiểu…”

    Thế là gia đình chúng tôi đã chọn Mười Điều Răn của Chúa Giêsu Kytô để làm rào cho cuộc sống, để có được bình an và hạnh phúc trong cuộc đời. Từ đó, mọi phiền hà và lo lắng trong gia đình chúng tôi đã có Mẹ, có Cha, có Thày mà phó thác, gánh âu lo bây giờ không còn nặng nề nữa, vì đã có người cùng ghé vai vào…

    Tôi muốn chia sẽ thêm về tình yêu của Mẹ Maria nơi đây. Chẳng phải Mẹ chỉ nhìn đến và giúp đỡ, chở che những người chưa biết Mẹ và Chúa, hầu dẫn dắt họ trở về cùng Chúa, mà tôi nghĩ: khi tôi càng yêu, càng tin, càng phó thác cuộc sống của tôi cho Mẹ thì Mẹ cũng càng yêu càng lo cho tôi nhiều hơn nữa.

    Tôi xin kể thêm để chúng ta cùng tôn vinh Mẹ. Đó là chuyện về đứa con trai út của tôi. Cháu thường bị nhiễm trùng trong hai lỗ tai. Bác Sĩ khám nghiệm thấy trong hai màng nhĩ có lỗ hổng, mỗi lần tắm mà sơ ý để nước lọt vào thì sẽ bị nhiễm trùng làm mủ, lên cơn sốt dữ dội, thật là tội nghiệp! vào năm 1993, Bác Sĩ quyết định mổ và vá lỗ tai bên phải cho cháu trước. Cuộc giải phẫu kéo dài 4 tiếng đồng hồ. Ngồi ngoài chờ đợi và lo cho con, tôi đã ngất xỉu và được đi cấp cứu. Sau đó vài tháng thì tai bên phải đã lành, còn tai bên trái thì lỗ hổng nhỏ hơn, bác sĩ bảo dung thuốc nhỏ vào và chờ thời gian xem có tự lành lại được không. Chờ đợi và nhỏ rất nhiều loại thuốc khác nhau trong hơn 6 năm mà vẫn không lành, năm nào cũng bị nhiễm trùng cả chục bận, đến nỗi bác sĩ trực phòng cấp cứu phải đề nghị đem cháu đến bác sỉ chuyên khoa về tai để giải phẫu mới được, nếu để lâu sẽ rất nguy hiểm vì cò thể ảnh hưởng đến bộ phân trí não của cháu. Không còn cách nào khác,tháng 5 năm 1999, tôi phải lấy hẹn để gặp bác sĩ chuyên khoa. Trong khi chờ đợi đến ngày hẹn khám tai, đêm nào tôi cũng chạy đến Mẹ, năn nỉ Mẹ giúp, vì tôi thương và tội nghiệp thằng út này quá, trong người mang đủ chứng bệnh, mà giờ phải mổ tới mổ lui nữa.

    Rồi ngày hẹn đến, bác sĩ chuyên khoa quyết định thêm hai tuần dung thuốc nhỏ vô lỗ tai như trưóc thử xem, nếu không có gì thay đổ thì phải mổ, vì sau khi ông khám về thính giác thì thấy màng nhĩ còn hoạt động rất tốt. Trong hai tuần lễ ngắn ngủi đó, ngày nào tôi cũng chạy đến níu tay Mẹ. Tôi cầu xin Mẹ khẩn thiết hơn. Vì lo sợ quá nên ngày nào tôi cũng cố vạch xem tai của cháu có gì thay đổi không. Rồi qua một tuần nhỏ thuốc và cầu nguyện quyết liệt hơn, không biết Mẹ nhận lời thế nào mà phần ở sâu trong lỗ tai đó lòi ra ngoài nhiều đến nỗi với mắt thường của người không chuyên như tôi cũng đã nhìn thấy rất rõ, đó là một lỗ tròn to hun hút trông dễ sợ. Tôi nghĩ Mẹ cho mình thấy lỗ to như vậy, thì làm sao nó tự lành được đây, chắc phải mổ nữa rồi! Nhưng sau đó vài ngày thì không còn nhìn thấy gì nữa.

    Ngày hẹn sau hai tuần đến thật nhanh. Tôi dẫn cháu trở lại để chuẩn bị cho cuộc giải phẫu. Nhưng còn nước còn tát, nghĩa là còn cầu nguyện. Tôi nói rất chân thành với Mẹ là: “Con sợ quá Mẹ ơi! tội nghiệp con của con quá, Mẹ ơi! Xin giúp con, chắc con không chịu nổi đâu!” Rồi bác sĩ dẫn cháu vào phòng khám lại trước khi lên bàn giải phẫu. Nhưng sau đó, họ báo cho tôi biết là không phải giải phẫu nữa, vì cháu đã hoàn toàn lành rồi. Cả ba ông bác sĩ lắc đầu cười và nói “Lạ quá, không biết cái lỗ hổng to trong lỗ tai tại sao biến mất như thế!”

    Thế là mẹ con tôi trở về nhà. Hôm đó thằng con trai út tôi cười nói huyên thuyên, còn tôi thì âm thầm cúi đầu tạ ơn Mẹ Hằng Cứu Giúp thật nhiều…
    Last edited by abbachaoi; 18-01-2012 at 10:06 AM.

  14. #14

    Mặc định

    Mình biết câu chuyện này cũng khá lâu, nay lại tìm được trên mạng. Tạ ơn Chúa!
    Xin chia sẻ cùng các bạn. Nếu bạn nào có may mắn gặp được cha Chung thì cho mình gửi lời thăm cha, chúc Cha luôn an vui trong tình Chúa tình người.

    LM Nguyễn Viết Chung và tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ

    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...4nPTU0oXW-cTfQ


    Một con người lặng lẽ.

    Tháng 04 năm 2002, linh mục Nguyễn Ngọc Sơn phối hợp với Viện Y Học Dân Tộc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một khóa huấn luyện cho những người thiện chí xung phong chăm sóc người nghiện ma túy. Tôi để ý đến một người trung niên khắc khổ, lặng lẽ theo dõi chăm chú và cặm cụi ghi chép những bài học về lý thuyết và chữa trị theo phương pháp cổ truyền do các bác sĩ đông y của Viện Y Học giảng dạy. Tôi hỏi một nữ tu trong ban tổ chức xem người ấy là ai. Câu trả lời làm tôi ngỡ ngàng: Đó là bác sĩ tây y Nguyễn Viết Chung, một chuyên viên về ký sinh trùng và da liễu.

    Hai tháng sau, cũng tại Viện Y Học Dân Tộc, cha Sơn tổ chức một khóa cai nghiện mang tên là Khóa Phục Sinh. Các bác sĩ của Viện phụ trách phần chữa trị thể lý. Các linh mục, tu sĩ và một vài giáo dân đến giúp phần củng cố tâm linh. Một hôm, tôi đến dự giờ cầu nguyện buổi tối do một nữ giáo dân hướng dẫn. Sau phần trình bày lý thuyết, vị ấy yêu cầu những ai thấy cần được đặt tay cầu nguyện thì hãy bước lên. Bác sĩ Chung cũng là một người theo giúp khóa ấy. Ông bước đến đầu tiên, quì xuống trước mặt người giáo dân kia, xin đặt tay cầu nguyện cho mình. Cử chỉ khiêm nhường này làm cho nữ tu phụ trách nhóm cai nghiện cảm động nói với tôi: Thầy Chung là phó tế sắp được thụ phong trong một ngày gần đây.

    Cuối năm 2002, tôi được dòng Vinh Sơn mời đến dạy tiếng Pháp cho một số thầy chuẩn bị đi học thần học ở nước ngoài. Tại đây tôi gặp lại thầy phó tế bác sĩ Chung. Thế rồi qua những chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy chân tình, tôi biết được chiều kích cao vời của một con người mờ nhạt, thậm chí điên rồ, nếu ta nhìn với cặp mắt của xã hội ngày nay. Sau đây là hành trình của một tâm hồn qua những chặng đường hiếm thấy.

    Hoàn cảnh và ước mơ.

    Khi nói về cuộc di cư năm 1954, người ta nghĩ đến gần một triệu tín hữu công giáo đành rời quê cha đất tổ để đi vào Nam với hai bàn tay trắng hầu tìm một nơi có thể tự do biểu lộ đức tin của mình. Thanh niên Nguyễn Viết Chương vào Nam không vì lý do ấy. Anh không phải là Kitô hữu, và tôn giáo không bao giờ là một vấn đề đối với anh. Như mọi người thuộc giai cấp nông dân thất học và nghèo xơ nghèo xác trong làng mình, anh Chương chỉ có một cái đạo duy nhất, ấy là ‘đạo làm người’ theo truyền thống Việt Nam. Nếu ai hỏi anh theo đạo nào, anh bảo rằng anh theo đạo ông bà, mà không thắc mắc xem ‘đạo ông bà’ có nghĩa là gì một cách cụ thể: đấy có thể là đạo mà ông bà đã theo và truyền lại, hoặc đấy cũng có thể là đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. Năm 26 tuổi, nhân biến cố 1954, anh Chương rời thôn Ngô Xá, huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Định, dẫn vợ con đi theo bà cô vào Nam với hy vọng tìm một con đường thoát ra cảnh nghèo túng, cái túng thiếu cơ cực khiến cho chị Chương phải mất đi đứa con thứ hai và thứ ba khi chúng mới chào đời. Anh cảm thấy hài lòng khi được nhận làm một bình nhì trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù bị chuyển lên vùng cao nguyên để đóng quân tại Trạm Hành, nơi vòng đai Dalat, cách trung tâm thị trấn 12 cây số. Năm 1955, người con thứ tư ra đời tại đây. Anh đặt cho con một cái tên gần giống như tên mình: Nguyễn Viết Chung.

    Chung không còn nhớ gì về miền núi nơi mình sinh ra, vì năm 1960 cha cậu đã chuyển về Saigon để phục vụ trong một đơn vị không tác chiến. Khi vừa có trí khôn, cậu bé Chung phải đối diện ngay với thảm cảnh của một gia đình nghèo. Đồng lương của một quân nhân cấp hạ sĩ chỉ vừa đủ cho hai vợ chồng và bốn đứa con sống lây lất qua ngày chứ không thể nào có một cuộc sống cho ra sống. Bà Chương là một người phụ nữ bình dân mù chữ, hằng ngày chỉ biết thắp nhang lên bàn thờ van vái ơn trên phù hộ cho chồng cho con. Ông Chương là một người sống rất đúng với đạo đức truyền thống và tôn trọng các phẩm chất trung nghĩa lễ trí tín. Tuy nhiên cái nghèo đã khiến ông trở nên một người cộc cằn, vì thế không ít lần ông đã trút những trận lôi đình xuống vợ con mình. Hình ảnh về ‘mái ấm gia đình’ còn lưu lại trong ký ức tuổi thơ của Chung là nỗi sợ đến khiếp đảm khi phải đứng trong xó nhà chứng kiến cảnh mẹ mình trở thành nạn nhân cho các cơn thịnh nộ của cha. Từ thuở còn là học sinh tiểu học, Chung mơ hồ nghĩ rằng mình sẽ không lập gia đình, vì gia đình đối với cậu là một cái gì khủng khiếp. Cậu sợ gia đình, sợ phải tạo thêm một gia đình bất hạnh.

    Sống trong hoàn cảnh này, trí óc non nớt của cậu nảy sinh một ước mơ kèm theo một quyết tâm: phải học cho thật giỏi để cứu gia đình thoát khỏi cảnh nghèo. Thế là cậu cắm cúi học tập trong những trường công lập hạng 2 ở Saigon. Niên khóa 1970-1971, cậu là một học sinh xuất sắc lớp đệ tứ trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp, cậu quyết định học ngay lớp đệ nhị mà không theo học đệ tam. Cậu phải làm học bạ giả và ra trường tư mà học. Tuy nhảy lớp nhưng Chung vẫn học giỏi ở lớp đệ nhị và đệ nhất. Cậu đậu tú tài toàn phần năm 1973.

    “Khi nhìn lại quá khứ, tôi thấy chương trình của Chúa thật huyền diệu. Nhờ học nhảy lớp đệ tam mà tôi không bị nhập ngũ theo lệnh tổng động viên 1973, sau ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’. Nhờ những cơn thịnh nộ của cha mà đến năm 39 tuổi tôi vẫn còn độc thân để tự do đáp lại tiếng gọi triệt để của Thiên Chúa”.

    Tiếng gọi của cái Mỹ.

    Với bằng tú tài trong tay, con đường tương lai bắt đầu hé mở cho cậu thanh niên 18 tuổi Nguyễn Viết Chung. Một ngày mùa hè năm 1973, cậu tình cờ đọc bản tin trên tờ Chính Luận: một giám mục người Pháp vừa qua đời tại trại cùi Di Linh. Vị giám mục ấy là Jean Cassaigne, mà người công giáo gọi với cái tên quen thuộc là Đức Cha Sanh. Ở trang trong, tờ Chính Luận thuật lại vắn gọn cuộc đời của vị giám mục tuyệt vời ấy. Từ thập niên 40, khi được gửi sang Việt Nam, linh mục trẻ Cassaigne chọn một vùng truyền giáo miền núi của dân tộc ít người, khu Djiring hẻo lánh (hiện nay là thị trấn Di Linh) cách xa trung tâm Dalat 80 cây số. Qua những lần viếng thăm mục vụ, cha nhận thấy rằng những ‘người cùi’ thường bị loại ra khỏi làng để sống dở chết dở trong những cánh rừng lân cận, vì thế cha đã thành lập một ngôi làng cho họ và mời các Nữ Tử Bác Ái lên chăm sóc. Làng phung Kala ở Djiring suốt đời sẽ ở trong trái tim cha. Khi giáo phận Việt Nam tách khỏi Cao Miên, cha Cassaigne được tấn phong giám mục tiên khởi địa phận Sàigòn. Năm 1960, khi Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập, ngài trao tòa giám mục Sàigòn lại cho Đức Cha Simon Hòa Hiền rồi trở về sống với anh em của mình là những người phung hủi ở làng Kala. Ngài yêu thương người phung đến độ chia sẻ mọi sự với họ, và để yêu thương đến cùng, ngài chia sẻ cả bệnh tật của họ để chết dần chết mòn trong thân thể đớn đau của một người đã nhiễm bệnh phung.

    Đọc tiểu sử cố giám mục Cassaigne, Chung không để ý đến chức vị của ngài, mà chỉ thấy tấm lòng mênh mông của một mẫu người tuyệt đẹp. Tuổi 18 là tuổi say mê các thần tượng và gửi gắm vào đấy những ước mơ thầm kín chực chấp cánh bay cao. Cái Đẹp trong cuộc sống đức cha Sanh đã biến ngài thành thần tượng của anh. Những thanh niên khác mơ đến tiền tài danh vọng để tìm ra hạnh phúc, còn Chung thì mong tìm hạnh phúc bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa và chết đi cho những người bất hạnh theo gương của thần tượng mình. Anh quyết định thi vào y khoa: đấy là một nghề có thu nhập cao giúp anh có thể đưa gia đình ra khỏi cảnh túng thiếu, nhưng đồng thời cũng là phương tiện để anh chăm sóc người cùi noi bước đức cha Sanh.

    Tiếng gọi của cái Thiện.

    Sau một năm SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles = Lý Hóa Vạn Vật), Chung thấy ước mơ của mình trở thành viển vông. Việc thi vào y khoa nằm ngoài tầm tay của những người thuộc giai cấp cùng đinh như anh. Anh thấy rõ điều này khi nạp đơn thi tuyển. Hầu hết các sinh viên thi vào y khoa đều là con cháu của các bậc có chức có quyền hay của các doanh nhân giàu sụ. Đa số đã tốt nghiệp từ một trường trung học Pháp hay một trường công lập nổi danh. Xuất thân từ một gia đình mà người cha là trung sĩ nhất, với kiến thức học được từ một trường tư thục vô danh, Chung thấy mình toan làm chuyện đội đá vá trời. Gia đình anh nghĩ rằng anh chạy theo một mục tiêu vượt quá sức mình nên khuyên anh bỏ ý định thi vào y khoa. Thế nhưng anh vẫn kiên trì học ngày học đêm mà trong lòng cứ lo sợ miên man. Nhìn thấy mẹ ngày ngày cầu khẩn những người đã khuất phù hộ cho gia đình, anh bỗng tin vào những điều huyền diệu. Anh lên Lăng Ông Bà Chiểu, thắp nhang khấn vái với cụ Lê Văn Duyệt. Anh thầm mặc cả với cụ: “Xin giúp con đậu vào y khoa. Để đáp lại, con hứa, sau khi trở thành bác sĩ, sẽ phục vụ cho người cùi”. Thế rồi anh đậu vào y khoa ngay lần đầu tiên đi thi, năm 1974. Đối với nhiều người khác, thứ hạng 181/213 hẳn không có gì đáng nói, nhưng đối với bản thân anh và đối với gia đình, đấy là một ảo tưởng đã biến thành sự thật một cách thần kỳ.

    Ngày 04-11-1974, Chung nhập học tại Đại Học Y Khoa, lúc bấy giờ còn mang tên là Trung Tâm Giáo Dục Y khoa Sàigon. Trong những ngày đầu ngỡ ngàng, anh bị thu hút ngay bởi một người Bỉ, giáo sư Marcel Lichtenberger, dạy môn Mô Phôi Học (histologie et embryologie). Ngoài kiến thức uyên bác, giáo sư Lichtenberger còn tỏa ra tư cách của một người thầy khiêm tốn và tận tụy, cứ như thể ông muốn dạy cho học trò mình một cái gì đó vượt lên hẳn những kiến thức y khoa. Chung tìm được lời giải đáp cho những thắc mắc của mình khi tất cả sinh viên năm thứ nhất, dù công giáo hay không, đều được mời dự một thánh lễ gọi là Maccabée tại nhà thờ Jeanne d’Arc, để cầu nguyện hay tỏ lòng nhớ ơn những người hiến xác cho sinh viên thực tập giải phẫu. Chung hiểu được vì sao giáo sư Lichtenberger luôn toát ra một cái gì thanh thoát: linh mục cử hành thánh lễ ngày hôm ấy chính là vị giáo sư khả kính của mình. Mãi sau này Chung mới biết rằng vị giáo sư ấy là một linh mục từng phục vụ ở Trung Hoa rất nhiều năm và gần gũi với những người bệnh mà không ai cứu chữa. Mang con tim nhạy cảm trước các nỗi bất hạnh, linh mục Lichtenberger, với kiến thức y khoa của một y công, đã phải mổ hàng trăm ca mà không có một bằng cấp nào; để rồi năm 44 tuổi, ngài mới về Bỉ học cho hết chương trình bác sĩ trong vòng 4 năm, thay vì 8 năm như mọi sinh viên y khoa khác. Tấm lòng của vị linh mục đã buộc ngài trở thành một bác sĩ thực thụ năm 48 tuổi. Chung chưa hề biết đến điều đó khi ngồi trên ghế đại học y khoa, nhưng nhìn thấy cha Lichtenberger trong áo lễ màu tím xuất thần cầu nguyện trên bàn thờ, Chung cảm nhận rằng thần tượng thứ hai của mình cũng đã đặt nền móng cho cuộc đời ông trên cùng một cội nguồn như thần tượng thứ nhất. Từ cái Mỹ mà anh đọc qua cuộc đời Đức Cha Cassaigne, chàng sinh viên Chung đã nghe được tiếng gọi của cái Thiện xuất phát từ tâm hồn của vị thầy tốt lành này.

    Cái Thiện ấy rất gần mà cũng rất xa đối với anh. Có lần giáo sư Lichtenberger yêu cầu sinh viên điền vào tờ khai báo lý lịch trong đó có một ô ghi: nguyện vọng tương lai của anh (chị). Chung điền vào mọi ô khác một cách nhanh chóng rồi ngồi mãi trước ô ‘nguyện vọng tương lai’ mà không biết phải viết làm sao. Đối với các bạn khác thì không có gì phải suy nghĩ. Khi bước vào y khoa, họ đã có những hoài bão rõ ràng cho ngày mai rồi: trở thành một bác sĩ giỏi, theo học cao hơn ở nước ngoài, có một nơi làm việc xứng đáng, tìm cơ hội để thăng tiến trong nghiệp vụ và trong xã hội con người… Khi hết giờ, Chung nộp tờ khai mà ô nguyện vọng vẫn còn để trống. “Tôi xấu hổ không dám thổ lộ cho giáo sư Lichtenberger biết rằng nguyện vọng tương lai của mình là làm sao trở nên giống như giáo sư”.

    Những tháng ngày ray rứt.

    Con đường học vấn tưởng chừng đã êm ả thì biến cố 1975 đến đảo lộn mọi sự. Trường Y Khoa là một trong những trường mở cửa lại sớm nhất sau ngày 30 tháng 04, tuy nhiên đối với Chung, điều kiện tài chính ít ỏi để học tập đã biến mất. Cha anh là một trung sĩ nhất trong chế độ cũ nên không phải đi học tập, nhưng người anh cả từng là trung úy thì đang ở trong trại tập trung cải tạo. Chung không thể nào đang tâm nhìn cha hằng ngày đạp chiếc xích lô vắng khách để nuôi nấng năm đứa con đang lớn như thổi ở nhà. Anh thấy mình vừa có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng với cha vừa phải tiếp tục đi học. Hàng đêm, anh thay cha đạp xích lô từ 7 giờ đến 11 giờ khuya. Sau một thời gian, anh không còn sức lực để vừa đi học ban ngày vừa đạp xích lô ban đêm, nên đành phải chấp nhận để cha và em trai mình tìm kế sinh nhai cho cả nhà, còn anh thì theo học để mong tìm một lối ra cho gia đình vào những năm về sau. Ý thức sự thiếu hụt của mọi người, Chung không đòi hỏi một điều gì cả. Đêm đêm, anh xin vào trực bệnh viện mong có cơ hội thực tập qua các trường hợp cấp cứu. Có những đêm phải thức trắng rồi sáng hôm sau không có một đồng dính túi để điểm tâm, anh vào lớp học mà mắt cứ hoa lên vì buồn ngủ và vì đói.

    “Phải trung thành với ý nguyện ban đầu, bằng bất cứ giá nào”… Với quyết tâm ấy, chàng thanh niên Chung mỗi năm lên một lớp cho đến 1978. Bước vào năm thứ năm, mọi sinh viên phải theo một chuyên khoa. Các sinh viên trình lên một bản gồm 3 nguyện vọng. Nhớ ơn người mẹ đã cơ cực qua 9 lần sinh con, mà mỗi lần là một biến cố thập tử nhất sinh, Chung chọn ngành ‘sản khoa’ ở nguyện vọng 1. Trong niên khóa ấy, giáo sư Đạt, một bác sĩ chuyên về nội thần kinh, đã làm cho anh thích thú môn học này, vì thế anh ghi ‘nội thần kinh’ ở nguyện vọng 2. Còn nguyện vọng 3, anh đành ghi ‘da liễu’ để có thể trả lời với cụ Lê Văn Duyệt rằng mình không thất hứa. Ngày nghe tuyên bố về chuyên khoa của mình, Chung hụt hẫng. Anh bị phân vào chuyên khoa ‘ký sinh trùng sốt rét’. Anh chẳng vào được khoa nào trong ba nguyện vọng anh ghi. Suốt hai năm còn lại tại trường Y Khoa, anh sống với tâm trạng đằn vặt của một người thất tín thất trung. Anh tự trách: “Vì mình không trung thành với lời hứa phục vụ người cùi, nên đấng bề trên chuyển mình sang khoa ký sinh trùng để xử phạt về tội bội tín!”

    Trả món nợ lương tâm...

    Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến Phân Viện Sốt Rét TPHCM. Quá chán nản với công tác này, anh bỏ nhiệm sở mà về gia đình hành nghề chui, với tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa trị. Ít ra, anh cũng thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia. Tuy không có phòng mạch như bao nhiêu bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ mến, mát tay và nhận thù lao tương đối hạ, nên thu nhập cũng tạm đủ để giúp gia đình thoát khỏi cảnh túng thiếu trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô. Các em anh có phương tiện học hành hay thực hiện những mong ước của mình. Thế nhưng tự đáy lòng, tiếng trách móc của lương tâm không ngừng dày xéo anh: “Mày là một tên thất trung thất tín!” Năm 1984, sau khi cưới vợ gả chồng cho các em, cũng như giúp họ ổn định cuộc sống, Chung quyết định trả cho xong món nợ lương tâm bằng cách bỏ lại mọi sự mà đi chăm sóc cho bệnh nhân cùi. Ý nghĩ đầu tiên là phải phục vụ tại Di Linh, nơi mà thần tượng thứ nhất của anh đã thành lập, đã sống, đã chết và hiện nay mộ phần ngài vẫn còn nằm tại đấy, trơ gan cùng tuế nguyệt như một chứng tích tình yêu. Anh lên trại phong Di Linh xin nữ tu phụ trách cho phép anh làm việc ở đấy. Các nữ tu rất trân trọng ý định của anh nhưng không thể đáp ứng yêu cầu, vì Trại Phong lúc bấy giờ đã trở thành một cơ sở của Nhà Nước mà các nữ tu không có quyền tuyển dụng nhân viên. Anh trở về Trường Y Khoa xin chuyển lên Di Linh. Về mặt hành chánh, nhà trường không thể bổ nhiệm anh vào trại phong mà chỉ có thể chuyển anh lên Sở Y Tế Lâm Đồng. Cầm giấy tờ trong tay, anh trình diện với vị trưởng phòng tổ chức Sở Y Tế và nói lên nguyện vọng được về Trại Phong Di Linh. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:

    -Anh có điên không? Hay là anh bị cùi?
    -Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi. Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.

    -Anh sẽ nhận việc tại trạm sốt rét, vì chuyên khoa của anh là ‘ký sinh trùng sốt rét’ chứ không phải là ‘da liễu’.

    -Tôi lên đây vì muốn phục vụ tại trại phong Di Linh. Nếu bà không cho phép thì tôi về lại TP Hồ Chí Minh chứ không làm việc ở bất cứ nơi nào khác.

    Về lại Saigon, anh tìm cách thực hiện lời hứa cho bằng được. Không thể nào phục vụ người phong nếu thiếu chuyên khoa da liễu, nên anh xin làm một nơi gần Saigon để có cơ hội bổ túc về chuyên khoa. Ngày 01-07-1986, anh bắt đầu nhận việc tại Trạm Sốt Rét Đồng Nai, trong khi chờ đợi cơ hội. Sau 3 năm làm việc tại đấy, cơ hội đã đưa anh đến Bệnh Viện Da Liễu TP Hồ Chí Minh. Tại đấy, anh vừa phục vụ vừa học chuyên khoa với điều kiện sau này phải chăm sóc người phong của Thành Phố, nghĩa là làm việc tại trại phong Bến Sắn.

    Tiếng gọi của cái Chân.

    Năm 1992, anh xuống Bến Sắn để nhận nhiệm sở mới. Thế là mãn nguyện. Ước mơ tuổi thanh niên đã trở thành hiện thực. Từ sáng thứ hai đến trưa thứ sáu, anh làm việc tại trại phong Bến Sắn để bước cùng nhịp với các thần tượng hầu trung thành với lời hứa của mình. Từ tối thứ sáu đến chiều chủ nhật, anh về Saigon làm bác sĩ tại gia để tìm một ít thu nhập cho cha mẹ sống qua tuần. Cuộc đời anh dường như đã tới đích, anh không còn ước mơ gì nữa.
    Thế nhưng anh lại phải đối diện với những vấn đề mới của cuộc sống. Tại trại phong, anh thấy mình sống ở giữa hai nhóm người hoàn toàn trái ngược trong thái độ hành xử. Nhóm thứ nhất gồm những người thiện chí, mà đa số là các Nữ Tử Bác Ái, chỉ sống tất cả cho bệnh nhân; nhóm thứ hai gồm một số người nghĩ đến tư lợi của mình nhiều hơn là lợi ích người bệnh. Với tư cách là trưởng phòng y vụ, bác sĩ Chung được nhóm thứ hai săn đón để lôi kéo về phe mình, nhưng anh lại bị cuốn hút bởi nhóm thứ nhất, vì qua họ anh hầu như chạm được cái Chân tiềm tàng nơi những người mà anh từng đặt làm khuôn mẫu cho cuộc đời mình: Giám mục Cassaigne và linh mục Lichtenberger. Chính các nữ tu này đã khiến cuộc đời anh dứt khoát rẽ qua một bước ngoặt triệt để.

    “Tôi còn nhớ sự kiện sau đây. Có lần hai anh em người Pháp đều là linh mục đưa một bác sĩ cũng quốc tịch Pháp đến cưa chân cho một số bệnh nhân tại trại phong Bến Sắn. Vết thương của một người bị nhiễm trùng, nên anh đã lớn tiếng với tôi: “Ông dùng tôi làm con vật thí nghiệm!”. Tôi quá tức giận nên đã nặng lời với anh. Một xơ cao niên chứng kiến cảnh này mà không nói một lời nào. Vài ngày sau, khi mọi chuyện đã êm, xơ nhẹ nhàng bảo tôi:

    Bác sĩ Chung à, bệnh nhân đau chứ bác sĩ có đau đâu! Anh ấy bị cưa chân chứ bác sĩ có bị cưa chân đâu! Những gì bác sĩ làm cho bệnh nhân, bác sĩ đừng cho là nhiều rồi. Những điều bác sĩ làm cho họ không đền bù được nỗi đau cả đời của họ đâu!

    Tôi bỗng thấy nơi xơ cao niên ấy một sức mạnh tinh thần họa hiếm. Ai đã giúp cho xơ có được lòng quảng đại thanh thản như thế? Chắc là Chúa của xơ. Nếu Chúa của xơ có thể ban cho xơ một sức mạnh như thế, thì Ngài cũng phải là Chúa của tôi!”

    Ý nghĩ rằng Chúa của các Nữ Tử Bác Ái cũng có thể là Chúa của mình vừa làm cho anh vui, vừa làm anh e ngại. Lời dặn dò của mẹ, từ thuở anh còn là một cậu bé tiểu học cư ngụ trong xóm đạo, cứ văng vẳng bên tai: “Chung không được đi đạo nhé. Người công giáo kỳ cục lắm, cứ dụ người ta theo đạo. Đạo ai nấy giữ chứ!”.

    Quả là những người công giáo ở đây thật kỳ cục. Nhất là nữ tu công giáo. Nhưng kỳ cục không phải vì họ dụ dỗ anh theo đạo, mà vì họ sống trên đời nhưng không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Một trong các nữ tu mà anh có cơ may cộng tác một thời gian ngắn là xơ Maria Phạm Thị Ngọc Loan, được mọi người trong trại gọi với cái tên thân thương là Dì Hai. Khi bác sĩ Chung về trại phong, Dì Hai đang ở đấy với hai tư cách: Phó Giám Đốc trại phong và Xơ Phục Vụ (soeur servante = dì bề trên) cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái Bến Sắn. Anh nghe kể lại rằng Dì Hai về đây năm 1976, lúc mà chế độ chăm sóc các bệnh nhân phong hầu như không có gì, trong khi những nhân viên mới đổi tới lấy hết cái này đến cái nọ trong trại về làm của riêng. Dì đã phải đứng ra bảo vệ cho bệnh nhân và cỡi chiếc gắn máy tồi tàn chạy bằng xăng pha dầu lửa về thành phố Hồ Chí Minh mỗi tuần nhiều lần hầu tìm nguồn lương thực cho họ, đồng thời kêu gọi và đưa về Bến Sắn những bệnh nhân bỏ trại lên sống vất va vất vưởng trên vỉa hè Sàigòn. Tim của Dì đập theo từng nhịp của con tim bệnh nhân trong vòng 17 năm trường, để rồi ngưng lại khi người ta phát hiện quá muộn bệnh ung thư trong hình hài của Dì. Dì sợ rằng cho biết sớm thì nhà dòng sẽ cấm dì tiếp tục phục vụ bệnh nhân phong: Dì đã hy sinh mạng sống mình cho họ, theo nghĩa đen.

    “Hôm ấy chúng tôi sắp đi công tác từ TP Hồ Chí Minh. Biết rằng Dì Hai đang ở vào những giờ phút cuối đời, tôi ghé lại 36 Tú Xương để chào từ biệt. Tôi nói:

    Dì Hai à, chút xíu nữa đây, con với bác sĩ Quang và chị Bích Vân sẽ lên trại phong Di Linh mổ mắt cho bệnh nhân trên ấy.

    Nghe tôi nói, đôi môi héo hắt của Dì Hai thoáng nở một nụ cười. Tôi bước ra ngoài chờ xe. Xe chậm đến. Nghĩ rằng đây có lẽ là lần cuối cùng còn gặp mặt Dì Hai, nên tôi luyến tiếc trở lại một vài phút cạnh Dì. Nghe tiếng chân tôi vào, Dì Hai hé mở mắt, nhìn thấy tôi, mấp máy đôi môi để nói lên một điều gì. Xơ chăm sóc ghé tai vào miệng Dì lắng nghe, rồi lặp lại cho tôi: “Chung - Dì Hai hỏi - tại sao chưa đi?” Thế đấy! Đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, Dì Hai vẫn không nghĩ gì đến mình, mà chỉ nghĩ đến bệnh nhân. Không chỉ là bệnh nhân tại Bến Sắn mà còn cả bệnh nhân tại Di Linh nữa!”

    Một bước ngoặt triệt để.

    Chung! Tại sao chưa đi? Vâng, đã đến lúc bác sĩ Chung quyết định đi đạo, đi theo con đường mà Dì Hai Loan đã từng đi. Sau đám tang của Dì Hai, anh đến gặp Dì Camille Hạnh, giám tỉnh dòng Nữ Tử Bác Ái, và trình lên ý nguyện đi tu để sống trọn vẹn cho bệnh nhân giống như các dì. Dì Hạnh thông cảm từ thâm sâu mong ước của anh, vì dì cũng từng là một người chịu phép rửa vào tuổi trưởng thành trước khi dâng hiến trọn đời mình cho Chúa với tư cách nữ tu. Trong thời gian này, cha bề trên tổng quyền Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn đang có mặt tại Saigon (Thánh Vinh Sơn Phaolô cũng là vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái), nên Dì Hạnh đã đứng ra bảo lãnh và xin ngài nhận anh vào dòng Truyền Giáo. Cha tổng quyền chấp thuận nhưng bảo rằng chỉ nhận vào dòng sau khi anh học đạo và chịu bí tích thánh tẩy. Lúc bấy giờ anh chưa có khái niệm gì rõ ràng về Thiên Chúa. Điều duy nhất anh biết: Ngài phải là cội nguổn của Chân Thiện Mỹ, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của những con người sống cuộc đời chân thật, tốt lành và tuyệt đẹp. Vì thế, anh không do dự mảy may: Chúa của Đức Cha Cassaigne, của Cha Lichtenberger, của Dì Hai Loan, sẽ là Chúa của anh. Chỉ còn một vướng mắc nhỏ: cha mẹ anh nghĩ sao? Anh trình với song thân và hai vị bảo: “Con đã lớn nên toàn quyền chọn con đường có ý nghĩa nhất cho đời mình; các em con cũng đã lớn, chúng có thể chăm sóc cha mẹ, con đừng lo.”

    Ngày 28-08-1993, hai mươi năm sau bài báo của Chính Luận, bác sĩ Chung đến dòng Tên tại Bình Dương gặp cha Hoàng Văn Đạt xin học giáo lý tân tòng. Cha vui mừng báo anh hay rằng ngày hôm ấy Giáo Hội mừng lễ thánh Âu Tinh, một người đã chịu phép rửa khi đang là một giáo sư lỗi lạc tại Rôma, để rồi trở thành một linh mục và một giám mục thánh thiện và uyên bác tại Hippone, một thành phố Châu Phi. Để đánh dấu cho bước ngoặt đáng ghi nhớ này, anh chọn thánh Âu Tinh làm quan thầy mình. Âu Tinh Nguyễn Viết Chung lãnh nhận bí tích thanh tẩy từ tay cha chính xứ Bến Sắn, linh mục Trần Thế Thuận, ngày 15-05-1994, tại nhà nguyện Trại Phong Bến Sắn.

    Ngày 15-09-1994, anh trở lên Đalat, nhưng lần này không phải đến Sở Y Tế xin phục vụ người phong, mà đến 40 Trần Phú, trụ sở dòng Truyền Giáo Vinh Sơn, để khởi sự tập luyện cuộc sống quên mình trọn vẹn. Muốn thời gian tìm hiểu không gây trở ngại cho tương lai của bác sĩ Chung, nếu ơn gọi linh mục không phải là con đường Chúa dành cho anh, bề trên Tu Hội Truyền Giáo tại Việt Nam đề nghị anh làm quen với nếp sống tu trì tại Túc Trưng. Suốt một năm ròng, mỗi tháng bác sĩ Chung làm việc 3 tuần liên tục ở Bến Sắn, và dành trọn tuần thứ tư để sống tại nhà dòng Túc Trưng. Trong thời gian thử thách này, anh đã chu toàn đúng mức hai vai trò trái ngược của mình: Bác sĩ trưởng tại Trại Phong và em út trong cộng đoàn Vinh Sơn. Sau một năm, bề trên thấy rằng đã đến lúc anh bỏ vai trưởng để chỉ còn sống trong vai út. Anh xin nghỉ việc tại Trại Phong Bến Sắn và chính thức gia nhập Tu Hội Truyền Giáo ngày 01-06-1995.

    Thời gian nhà tập hẳn không dễ dàng gì cho một người đã công thành danh toại rồi một sớm một chiều trở nên ‘lính mới’ phải vâng phục mọi người, trong số đó có những thầy bằng nửa số tuổi của anh. Thế nhưng bác sĩ Chung biểu hiện tư cách của một con người đã thực sự tự hủy theo gương Chúa Kitô. Các thầy cùng thời với anh chân thành thổ lộ: “Anh Chung luôn là một mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng em.”

    Nhà dòng cho phép tu sĩ Chung học dồn chương trình triết học trong vòng một năm, để rồi khởi sự 4 năm thần học kể từ năm 1997. Ngày 25-03-2003, Giáo Hội trao thừa tác vụ linh mục cho thầy Âu Tinh Nguyễn Viết Chung, qua lễ đặt tay của Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống, tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp TP Hồ Chí Minh.

    Hành trình của một cuộc đời.

    Hành trình của một cậu bé sợ hãi trong xó nhà đã kết thúc nơi bàn thánh. Một người khởi hành trong cái nghèo khó bị áp đặt, đi cả một vòng đời, rồi đến đích trong sự khó nghèo tự nguyện. Một người đi từ nỗi bất hạnh vì phải nghèo đến niềm hạnh phúc được sống nghèo. Một người suốt đời mang trong mình tiếng gọi: Phải trung thành! Và nhờ lòng trung thành ấy mà linh mục Nguyễn Viết Chung nhận được Tin Mừng Cứu Độ, không phải qua những lời rao giảng, mà qua hành động cụ thể của những con người, để rồi từng buớc nghe được cái Mỹ, thấy được cái Thiện, chạm được cái Chân xuất phát từ Chúa Kitô, Đấng Tình Yêu muôn đời tận hiến.

    “Nếu tôi có một lời để nhắn nhủ với người trẻ hôm nay, thì tôi chỉ nói với họ điều này: Khi bạn phải sống trong hoàn cảnh của một người nghèo, bạn cần nỗ lực ban đầu để vượt qua, nhưng hãy nhớ rằng mình luôn có những vấp váp. Rồi một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng tiền không phải là trên hết. Điều làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa, ấy là phải trung thành. Tôi đã từng bất trung. Và đã phải thông qua những kinh nghiệm chua chát.”

    “...Tôi còn nhớ hôm cha tổng quyền chấp thuận cho tôi nhập dòng Vinh Sơn là ngày thứ bảy. Qua hôm sau, ngày chúa nhật, các cha Dòng Camillo mở diễn đàn kêu gọi các thanh niên dâng hiến đời mình với tư cách là bác sĩ linh mục. Đây là đặc sủng của dòng ấy, và lời kêu gọi này rất phù hợp với tôi. Thế nhưng tôi đã trốn không tham dự, vì muốn trung thành với Tu Hội Vinh Sơn. Tôi đã biết thế nào là giá phải trả cho sự bất trung rồi.”

    Con đường của bác sĩ Chung tưởng chừng như kết thúc tại cung thánh khi lãnh nhận chức linh mục. Tuy nhiên, từ nơi ấy lại khởi đầu cho một hành trình mới. Bác sĩ Chung trở lại với những bệnh nhân Aids ở Mai Hòa, với những người nghiện ma túy ở nhiều tổ chức và trung tâm khác nhau... Nhưng lần này, qua việc chữa trị thân xác, linh mục Chung còn đem lại cho họ bình an tâm hồn, một niềm bình an xuất phát từ Thiên Chúa của những người mình ngưỡng mộ và cảm phục, mà giờ đây đã trở thành Thiên Chúa của chính mình. Với chức linh mục, bác sĩ Chung làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng nghiệp vụ và tác vụ, mà còn bằng cả đời sống của bản thân mình.

    Nhìn lại con đường đã qua, bác sĩ Chung thường xuyên lặp lại phương châm mình đã chọn cho ngày thụ phong:

    “Tạ ơn Chúa, Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”

    Và nhìn vào ngày mai, linh mục Chung không ngừng trung thành cam kết:

    “Điều khấn hứa cùng Ngài, con xin giữ trọn.”

    Con đường Chúa đã dẫn đi...

    Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian, Nguyễn Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan... đấy là chưa kể đến nhiều người khác, trong đó có thân mẫu của mình, một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa.
    Giữa các gương mặt ấy, có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác Sĩ Marcel Lichtenberger.

    Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau.

    Năm 25 tuổi, cha Lichtenberger bị tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa; và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bệnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành một bác sĩ năm 48 tuổi.

    Ngược lại, Nguyễn Viết Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi vì muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bệnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chịu đóng đinh trong những con người bất hạnh, và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành linh mục của Chúa vào tuổi 48.

    Một linh mục trở thành bác sĩ đã là đèn soi cho một bác sĩ trở thành linh mục. Hành trình trái ngược của hai linh mục bác sĩ này bộc lộ cho chúng ta một chân lý. Ai đến với Thiên Chúa một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ liên đới với những con người bất hạnh. Và ai liên đới với người cùng khổ một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ gặp được Thiên Chúa từ nơi thâm sâu của lòng mình.

    GS Trần Duy Nhiên
    Last edited by abbachaoi; 18-01-2012 at 10:28 AM.

  15. #15

    Mặc định

    những chủ đề thế này rất dễ gây tranh cãi vô bờ bến
    từ Chúa sang Phật hay Phật sang Chúa đều có hết
    mỗi người có tự do ý chí , ai thấy cái nào hợp với mình thì theo

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kiếp mù lòa Xem Bài Gởi
    không hiểu sao ngày nay ít có những vị tu sĩ lang bạt truyền bá Đạo Công Giáo. Nhưng Đạo Công Giáo không bao giờ tán thành chuyện dùng thuốc men hay vật chất để người nghèo theo,vì Tin Lành không có Đức Giáo Hoàng nên một số cá nhân mới làm chuyện tức cười như vậy. Còn chuyện cả GX giúp đỡ một gia đình mới theo cũng như đã theo lâu thì chỉ là do tính bác ái yêu mến những người trong Giáo Xứ mà thôi,việc làm này luôn được kín đáo,ít ai biết người nào giúp nhiều nhất,vì mỗi người sẽ gửi những bì thư,hoặc bỏ vào thùng tiền quyên góp cách bí mật nhất có thể,...
    những GX vẫn thường giúp người ngoại đạo gần mình,ai xin thì phải cho,đó là Giáo Lý CG. Và người được nhận nào cũng phải được điều tra kỹ về hoàn cảnh,đạo đức,nhân cách,... Tất nhiên là không ép theo Đạo.
    Có đấy, nhưng k lang bạt nữa mà cắm lều, trồng rau nuôi gà, đan chổi, để sống cùng sống với những ng nghèo hèn. Sống chứng nhân Kito hữu, giúp đỡ ng khác những gì họ cần mà mình có thể giúp được cách vô vị lợi, chỉ với mục đích sống giới răn mến Chúa yêu người và làm cho họ nhận thấy "tôi sống nhưng k phải là tôi sống mà là Đức Kito sống trong tôi" nơi mình. Khi đó thì họ sẽ tự theo Chúa chứ k cần phải dụ dỗ gì như nhiều ng lầm tưởng.

    Nhưng mình thấy cách truyền giáo của anh chị em TL cũng có cái hay. Họ rất nhiệt tình, k chút gì e ngại và rất là kiên trì nữa. Nói về Chúa cho ng khác nghe là niềm vui, là phước hạnh của họ. Có gì đó liên quan đến vật chất thì cũng là do tấm lòng của mọi người trong hội thánh. Người có công ăn việc làm sẽ đóng góp (hình như 10% thu nhập?) cho hội thánh. Số tiền đó sẽ dùng để lo phát triển hội thánh Ngài bằng cách giúp đỡ những nhu cầu tối thiểu cho ng khó khăn, giúp tiền ăn học cho sinh viên học văn hóa hay học nghề. Nói đúng ra đó là 1 hình thức tương trợ nhau, điều đó chẳng tốt đẹp sao? Chúa ban cho ta rùi ta lại chia sẻ cho ng khác, đó là cách tạ ơn Chúa cách thiết thực đó.
    Bên ngoài nhìn vào thấy có vẻ như họ bị dụ theo đạo, bị cưỡng ép. Nhưng thực tế thì hãy hỏi những ng TL xem, họ sẽ nói về Phước Hạnh được làm con Chúa, được đón nhận Tin Lành cho chúng ta nghe cả ngày, nghe từ ngày này qua ngày khác mà k biết chán. Đó chẳng phải là họ đang hạnh phúc sao? Đó chẳng phải là Chúa đang sống trong họ sao?
    Nếu bị dụ thì đến 1 ngày nào đó ng ta sẽ tìm cách quay trở về đời sống tâm linh cũ, quay ra nói xấu TL nhưng chúng ta chưa thấy ai, nếu có thì là qua CG thôi, vẫn là con Chúa thôi.

    K biết bạn đọc Nhật ký truyền giáo của LM Pio Ngô Phúc Hậu chưa? Ngài truyền giáo cách âm thầm bình dị ở miền tây. Nếu chưa thì đọc nha, hay lắm. biết đâu đọc xong bạn lại muốn lên đường truyền giáo?
    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...X5bmoda_ETR-0Q
    (tên các chương ở list bên phía trái nhé)

    À, ở Vn cũng có hình thức này nhưng k phổ biến lắm, nhưng bên nước ngoài là phổ biến: Có những gia đình truyền giáo. 1 năm có vài chục ngàn (hay vài trăm ngàn m k nhớ lắm) lên đường truyền giáo. Cả gđ vợ chồng con cái sẽ sống chứng nhân Kito hữu ở 1 quốc gia khác. Ở VN thì ở các vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên có vài gđ truyền giáo trong các làng theo hình thức này.

  17. #17

    Mặc định

    KML Xem Nhật ký truyền giáo của 1 lm VN ở Thái Lan nha

    lê nhân tâm

    Gần đây tôi phát hiện ra mình rất hiện đại và rất theo kịp với trào lưu thế giới, mặc dầu nơi tôi ở và làm việc truyền giáo là một vùng tương đối xa xôi, không phải là một thành phố hiện đại như những nơi khác. Ngoài việc có một blog cá nhân, tôi còn có một trang Facebook, với rất nhiều người bạn, mặc dầu phải thừa nhận là đa số những người bạn đó chẳng bao giờ nói gì với tôi cả. Trên trang Facebook của mình, tôi trao đổi với người này người nọ bằng ba thứ tiếng, Anh, Việt và Thái. Ngoài ra tôi còn là linh mục cố vấn thường trực cho một diễn đàn Công giáo dành cho người Thái. Nhờ kỹ thuật hiện đại mà cho dầu tôi sống ở một tỉnh lẻ khá xa xôi trên đất Thái, nhưng tôi vẫn cảm thấy như mình được nối kết với khắp nơi trên thế giới, và nhất là “sân chơi” của tôi không chỉ là cái tỉnh nhỏ bé nơi tôi làm việc, mà cánh đồng truyền giáo của tôi trở nên thật bao la rộng lớn. Có thể nói qua những phương tiện này mà đời sống truyền giáo trở nên thật thú vị và phong phú, mang lại cho tôi những câu chuyện đặc biệt, đáng ghi lại trong bài chia sẻ về kinh nghiệm truyền giáo của tôi.

    Một trong những điều thú vị nhất là những email và nhắn tin mà tôi đã nhận được từ rất nhiều bạn trẻ trên khắp nước Thái để xin lời khuyên và tư vấn về đời sống đức tin. Cách đây không lâu, tôi nhận được email từ một bạn trẻ tên Ni. Ni năm nay 14 tuổi và hiện đang sống tại miền nam nước Thái. Em chia sẻ với tôi rằng, em rất buồn vì gần đây mẹ em phát hiện ra em đang sở hửu một cuốn sách Kinh Thánh, làm cho bà rất giận và buồn. Bà không thèm nói chuyện với em nữa. Lý do bà ta phản ứng mạnh như thế là vì trong dòng tộc ai nấy đều theo Phật giáo. Giờ em lại muốn đi theo Kitô giáo thì gia đình không thể nào chấp nhận được. Nỉ nói với tôi rằng em chưa bao giờ được đến nhà thờ Công giáo nào cả. Em cũng không biết ở gần nhà em có nhà thờ nào không. Nhưng trong thâm tâm em muốn trở nên người Công giáo. Và vì không có điều kiện đi nhà thờ hoặc học giáo lý, nên em chỉ có thể tìm hiểu về đạo Công giáo bằng cách tham khảo qua mạng, đặc biệt những gì trên diễn đàn mà tôi đang cộng tác.

    Thật ra chuyện của Ni không phải cá biệt. Từ ngày lên mạng cho đến nay, tôi đã nhận được hàng chục email và lời chia sẻ đến từ các bạn trên khắp nước Thái với những vấn đề tương tự. Chuyện các bạn muốn theo đạo nhưng cha mẹ không chấp nhận rất phổ biến. Đối với các bạn nam thì đặc biệt gây cấn vì theo truyền thống của người Phật giáo tại Thái Lan, thì con trai trước khi bước vào tuổi hai mốt thì phải đi vào chùa tu một lần để lấy phúc cho cha mẹ của mình. Việc họ đi tu một thời gian, có thể một hai tháng hoặc lâu hơn là việc báo hiếu cha mẹ và là yếu tố quan trọng cho việc cha mẹ của họ được lên “thiên đường” sau khi chết. Người Thái tin rằng, khi họ chết họ có thể nhờ vào chiếc áo tu của con mình để lên thiên đàng. Vì thế nhiều cha mẹ không đồng ý cho con theo đạo Công giáo với lý do rằng, “Mày đi theo đạo Kitô giáo thì ai đi tu báo hiếu cho tao?”

    Có bậc cha mẹ có con đã theo đạo Công giáo nhiều năm rồi mà vẫn kèo nài con mình phải đi tu cho bằng được. Đó là trường hợp của một bạn trẻ tên Joe, người con trai duy nhất trong một gia đình người Thái gốc Hoa. Joe kể cho tôi nghe, em đã theo đạo từ năm 15 tuổi. Thời gian đầu thật khó khăn. Mỗi lần đi nhà thờ về là bị cha mẹ la mắng, nhiều khi buồn quá không biết làm gì, chỉ biết khóc. Nhưng vì lòng sùng đạo mà em đã giữ vững đức tin. Em rất kính mến Đức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Trong nhà Joe, mặc dầu cha mẹ phản đối, nhưng em vẫn có những tưởng ảnh Chúa Mẹ mà em đã mua từ nơi này nơi khác. Joe nói với tôi, trong nhà, lầu một là nơi làm kinh tế của gia đình. Lầu hai là của bố mẹ, nên họ chưng những hình ảnh về Phật giáo. Còn lầu ba là của em, em chỉ trưng bày hình ảnh Công giáo, không có tượng ảnh nào của Phật. Bây giờ cha mẹ của Joe không la mắng khi em đi lễ nữa, và chấp nhận cho em có tượng ảnh Chúa trong nhà, nhưng có một điều làm em rất khổ tâm. Đó là đến bây giờ mà mẹ Joe vẫn kèo nài mãi, muốn em vào chùa tu để lấy phúc cho bà ta. Joe tâm sự, “Em không tin thì làm sao có thể vào chùa được? Em nghĩ có lẽ khi vào chùa, thay vì tụng kinh, em sẽ đem chuổi Mân Côi theo để lần hạt hằng ngày.”

    Trường hợp của Cap, một sinh viên đại học tại tỉnh Mahasarakham, vùng đông bắc Thái Lan thì có hậu hơn. Cap kể cho tôi nghe, em bắt đầu làm quen với đạo Kitô giáo từ năm học lớp sáu, và cũng bắt đầu học giáo lý từ đó. Thoạt đầu, cha mẹ rất tức giận khi biết con mình làm điều đó, đặc biệt cả hai ông bà đều là cán bộ nhà nước trong một quốc gia mà Phật giáo được xem là quốc giáo. Không chỉ bị la mắng, cha mẹ Cap còn đe doa trừng phạt bằng cách này cách khác. Nhưng Cap vẫn không chịu bỏ học giáo lý và tiếp tục tham gia vào các sinh hoạt giới trẻ trong nhà thờ. Thế rồi sự trung tín của Cap cũng đã mang lại niềm hạnh phúc sâu xa cho em khi tháng 5 vừa qua, ở tuổi 20, em đã được rửa tội và chính thức trở nên người con của Chúa. Cap chia sẻ tại sao em phải chờ thật lâu mới được rửa tội. “Có hai lý do em chờ tới tuổi 20 để rửa tội. Điều thứ nhất là em muốn chứng minh cho cha mẹ em hiểu rằng, việc em theo đạo Công giáo không phải là bị dụ dỗ, hay là chuyện thiếu ý thức. Em phải thực sự tin em mới dám chờ cho đến bây giờ. Lý do thứ hai là em sẽ vào chùa tu một tháng để làm tròn bổn phận làm con của em trước khi em lãnh nhận bí tích rửa tội.” Thế là hai tháng trước khi lãnh nhận bí tích rửa tội, Cap đã vào chùa, xuống tóc để làm thầy chùa trong thời gian một tháng.

    Cứ thế từ ngày hòa nhập vào xã hội mạng, tôi phát hiện ra sứ mệnh truyền giáo của mình mang thêm nhiều chiều kích thú vì mà chính tôi cũng không ngờ được. Ai cũng biết mạng internet rất phức tạp và quá nhiều người trẻ xử dụng mạng cho những việc thiếu bổ ích và thậm chí tội lỗi. Nhưng bản chất của các phương tiện thông tin đại chúng thì chẳng có gì sai trái cả. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã kêu gọi chúng ta hãy thổi linh hồn vào hệ thống internet để nó trở nên một dụng cụ cho việc rao giảng Tin Mừng và loán báo những giá trị Nước Trời.

    Bản thân tôi cảm thấy vô cùng may mắn khi nhờ có mạng xã hội mà tôi đã làm quen được với rất nhiều người. Cho dù vẫn biết thế giới internet thì rất nông cạn và nhiều khi dã dối. Đằng sau những ký hiệu như mặt cười (J), mặt buồn (L), trái tim (♥), v.v. là những con người thực sự như thế nào không ai biết được. Nhưng một điều ta có thể tin được, đó là những người viết những dòng chữ hoặc gõ những ký hiệu đó không phải là những con robot không có quá khứ và hoàn toàn vô cảm, mà là những con người thật. Họ cũng đang tìm hạnh phúc, đang tìm cho mình một lối đi trong đời. Nhiều người cũng đang lúng túng, đang cô đơn, đang buồn chán, cần được chấp nhận, khuyến khích và nâng đỡ. Kinh nghiện “truyền giáo qua mạng” của tôi đã dẫn tôi đến thật nhiều người thú vị, với những câu chuyện thật cảm động, và đã mở ra cho tôi một viễn tưởng thật to lớn và phong phú về sứ mệnh truyền giáo của mình.
    http://nhatkytruyengiao5.blogspot.co...tren-mang.html

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Thiên Phủ Xem Bài Gởi
    những chủ đề thế này rất dễ gây tranh cãi vô bờ bến
    từ Chúa sang Phật hay Phật sang Chúa đều có hết
    mỗi người có tự do ý chí , ai thấy cái nào hợp với mình thì theo
    Vâng, mình đồng ý với bạn từ Chúa sang Phật hay Phật sang Chúa đều có hết
    mỗi người có tự do ý chí , ai thấy cái nào hợp với mình thì theo


    Mình lập topic này k có ý gây tranh cãi!
    Bài chỉ mang tính tham khảo cho các bạn CG. Mình đã đọc được trước đây, nay tìm được lại thì muốn cho chia sẻ với các bạn.
    Nếu muốn gây tranh cãi thì mình phải post bên box ĐP chứ?

    Gây tranh cãi hay k là do tâm mỗi ng bạn ạ.

    Mình k có ý gây tranh cãi, nên nhưng ai có ý gây tranh cãi xin k comt.

    Các bạn cũng có thể comt trong topic này các tài liệu về ng CG chuyển sang tin Phật, hay theo đạo Hồi, theo TL, Cao Đài, ... tất cả chỉ để tham khảo chứ k được gây chia rẽ.
    Và tài liệu phải tôn trọng sự thật.

    Mình mới đọc được 1 tài liệu về 1 ng Ấn Độ đã tin nhận Chúa theo hệ phái Tin Lành và mong muốn rao truyền về Chúa cho dân tộc mình nhận biết theo cách của ng Ấn Độ chứ k phải theo cách của các nhà truyền giáo Âu Mỹ. Sẽ post lên riêng 1 topic vì nó khá dài. Mình đọc thấy cảm động, thấy rằng ý Chúa thật nhiệm màu, đối với Ngài thì k gì là k thể. Nhưng ý muốn của Ngài k phải là ý muốn của con người.

    Qua các tài liệu đó chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn và k còn định kiến với những ng đã cải đạo nữa, vì đối với họ họ đã tìm được chân lý và bước theo chân lý cách an bình. Và nhìn lại bản thân chúng ta, Chân Lý thấy rồi nhưng đã mạnh dạn bước theo chưa hay còn bị cản trở bởi nhiều thứ.
    Last edited by abbachaoi; 18-01-2012 at 11:41 AM.

  19. #19
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi abbachaoi Xem Bài Gởi
    Có đấy, nhưng k lang bạt nữa mà cắm lều, trồng rau nuôi gà, đan chổi, để sống cùng sống với những ng nghèo hèn. Sống chứng nhân Kito hữu, giúp đỡ ng khác những gì họ cần mà mình có thể giúp được cách vô vị lợi, chỉ với mục đích sống giới răn mến Chúa yêu người và làm cho họ nhận thấy "tôi sống nhưng k phải là tôi sống mà là Đức Kito sống trong tôi" nơi mình. Khi đó thì họ sẽ tự theo Chúa chứ k cần phải dụ dỗ gì như nhiều ng lầm tưởng.

    Nhưng mình thấy cách truyền giáo của anh chị em TL cũng có cái hay. Họ rất nhiệt tình, k chút gì e ngại và rất là kiên trì nữa. Nói về Chúa cho ng khác nghe là niềm vui, là phước hạnh của họ. Có gì đó liên quan đến vật chất thì cũng là do tấm lòng của mọi người trong hội thánh. Người có công ăn việc làm sẽ đóng góp (hình như 10% thu nhập?) cho hội thánh. Số tiền đó sẽ dùng để lo phát triển hội thánh Ngài bằng cách giúp đỡ những nhu cầu tối thiểu cho ng khó khăn, giúp tiền ăn học cho sinh viên học văn hóa hay học nghề. Nói đúng ra đó là 1 hình thức tương trợ nhau, điều đó chẳng tốt đẹp sao? Chúa ban cho ta rùi ta lại chia sẻ cho ng khác, đó là cách tạ ơn Chúa cách thiết thực đó.
    Bên ngoài nhìn vào thấy có vẻ như họ bị dụ theo đạo, bị cưỡng ép. Nhưng thực tế thì hãy hỏi những ng TL xem, họ sẽ nói về Phước Hạnh được làm con Chúa, được đón nhận Tin Lành cho chúng ta nghe cả ngày, nghe từ ngày này qua ngày khác mà k biết chán. Đó chẳng phải là họ đang hạnh phúc sao? Đó chẳng phải là Chúa đang sống trong họ sao?
    Nếu bị dụ thì đến 1 ngày nào đó ng ta sẽ tìm cách quay trở về đời sống tâm linh cũ, quay ra nói xấu TL nhưng chúng ta chưa thấy ai, nếu có thì là qua CG thôi, vẫn là con Chúa thôi.

    K biết bạn đọc Nhật ký truyền giáo của LM Pio Ngô Phúc Hậu chưa? Ngài truyền giáo cách âm thầm bình dị ở miền tây. Nếu chưa thì đọc nha, hay lắm. biết đâu đọc xong bạn lại muốn lên đường truyền giáo?
    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...X5bmoda_ETR-0Q
    (tên các chương ở list bên phía trái nhé)

    À, ở Vn cũng có hình thức này nhưng k phổ biến lắm, nhưng bên nước ngoài là phổ biến: Có những gia đình truyền giáo. 1 năm có vài chục ngàn (hay vài trăm ngàn m k nhớ lắm) lên đường truyền giáo. Cả gđ vợ chồng con cái sẽ sống chứng nhân Kito hữu ở 1 quốc gia khác. Ở VN thì ở các vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên có vài gđ truyền giáo trong các làng theo hình thức này.
    ai cũng biết trên hình thức bác ái yêu thương đó là tốt,nhưng tiếc có nhiều kẻ hám tiền hám ăn mà lợi dụng điều này của họ,thậm chí ngay cả một số người CG cũng theo TL rất nhiều,theo TL có nhiều cái rất lợi như là đỡ bị thất nghiệp - vì họ sống rất đoàn kết với nhau,đỡ cảnh nợ nần,thậm chí là được bảo lãnh qua nước ngoài.
    haiz...........................

  20. #20

    Mặc định

    uh, lợi dụng như vậy là k tốt. Nhưng nếu đã tin Chúa thì mình nghĩ CG hay TL cũng phải sống cho xứng đáng là con cái Chúa

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Kinh Vô Lượng Thọ Phật !
    By kinhdich in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 04:26 PM
  2. Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận
    By Lien Nguyen in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 19-10-2011, 12:48 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-09-2011, 11:38 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •