Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 31

Ðề tài: nguyên tắc công tác phong thủy

  1. #1

    Mặc định nguyên tắc công tác phong thủy

    Kính chào các bậc cao nhân trên diễn đàn, và đông đảo bạn đọc quan tâm vấn đề này.
    Là một người làm công tác phong thủy chưa lâu, nhưng cũng không phải là mới, trải qua gần 20 năm đèn sách miệt mài, trải nghiệm thực tế,bản thân đã thu được nhiều kết quả khả quan, nay tâm huyết chia sẻ cùng bạn đọc xa gần, mong góp chút sức lực, gom góp trí tuệ của cổ nhân cho mọi người hiểu được những nguyên tắc khái quát khi làm công tác phong thủy, tâm linh.
    Trước hết phải nói rằng: Không ai trên trái đất này có thể tự hào rằng: Mình là người giỏi phong thủy cả, bởi lẽ: Nó quá huyền diệu. Bản thân Phong thủy là một học thuyết, một khi đã là học thuyết thì nó phải cấu trúc nhiều tầng, nhiều lớp, từ cơ bản đến phức tạp, từ thấp lên cao, từ nông đến sâu..vv. Nhưng nói như thế không phải ta không hiểu được những vấn đề căn bản có tính nguyên tắc.
    Thật đáng thương thay cho những người vì bát cơm manh áo, hay vì một lý do nào khác, mới đọc được vài ba cuốn sách sơ đẳng không rõ nguồn gốc, không hiểu căn nguyên, đã đi làm "Thầy" để cho thiên hạ phải chịu quá nhiều đau khổ, tang thương, đúng như cổ nhân đã từng dạy, nôm na là:
    Mạc vị cơ hàn, hành đạo thuật
    Tối lân tổ đức họa do thâm.
    Hoặc là:
    Bình sinh hành thiện, Thiên gia phúc
    Nhược thị ngu ngoan thụ họa ương
    Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
    Cao phi, viễn tẩu dã nan tàng
    Phần giải thích tường tận mấy câu trên xin nhờ các bậc giỏi hán nôm, tôi không dám múa rìu qua mắt thợ, đại để là:
    Con người ta làm nhiều việc thiện, thì sẽ được trời ban phúc ấm
    Con người làm điều ác, sẽ có quả báo. Lưới trần dày nhưng dễ lọt, lưới âm tuy thưa mà khó lọt, dù cao chạy xa bay, mà làm điều ác cũng khó lòng tẩu thoát.
    Bài viết sẽ chia làm 3 phần, cụ thể:
    Phàn một: Nguyên tắc khái quát công tác phong thủy
    Phần hai: Nguyên tắc của Âm phần
    Phần ba: Nguyên tắc của Dương trạch
    (Tiếp theo)
    Phần một
    Nguyên tắc công tác phong thủy
    Nguyên tắc công tác phong thủy không ngoài 16 chữ:
    Thiên quang hạ lâm
    Địa đức thượng tái
    Tàng thần hợp sóc
    Đón thần tránh quỉ
    Đọc qua thấy đơn giản, nhưng thực hiện được không dễ chút nào. Nay tôi tóm lược đại ý như sau:
    Làm phong thủy là làm thế nào để hội tụ được: Khí Thiên gáng xuống, khí Địa thăng lên, Thiên Địa giao hòa, mới sinh khí Thiêng. Còn một khi, khí Thiên vãn ở trên cao, Khí Địa chưa thăng lên để Thiên Địa hợp nhau thì làm gì có Khí Thiêng
    Tàng thần: Chúng ta cần biết thu Linh khí tiềm tàng trong đất.
    Hợp sóc là Dùng Thái Dương, Thái Âm hợp chiếu ở ngày mồng 1 và ngày rằm, lấy ví dụ thế,tức ý nói là dùng phép Độn Giáp để biết thời gian và phương hướng Tam kỳ, Lộc, Mã đến sơn, đến hướng mà tạo táng thì tự nhiên cát khánh.
    Chỗ tương hợp với Thái Tuế là cát, tương xung tương khắc với Thái Tuế là hung.bởi Thái Tuế như Vua, ta là Thần dân, Vua khắc dân là kém, nhưng còn tạm chấp nhận được, còn dân khắc Vua là phạm thượng, chắc chắn là xấu.
    Đón thần tránh quỉ tức là đón những khí tốt, tránh những khí xấu.
    Đạo của tuyển chọn Phong thủy có Thể có Dụng.
    Long, sơn, phương hướng là cố định, đó là "Thể".
    Năm tháng ngày giờ , chủ nhân là bất định (có thể thay đổi) Đó là "Dụng"
    Việc con người tính toán để tìm cách bổ cho Long mạnh lên, phù trợ cho Sơn, chế hung trợ cát, tức là đem cái vô định phù trợ cho cái hữu định, từ đó để phù trì cho "Chủ nhân" Phúc lộc dồi dào, nghĩa là "Dụng" bổ trợ cho ".Thể" vậy.
    Muốn làm được như thế chúng ta cần nắm được những điều cốt tử nào ? Đó là mục đích tôi thấy cần phân tích kỹ những điều mà cổ nhân đã nêu vắn tắt từ xưa.
    Theo thiển nghĩ của bản thân, sau thời gian đủ nhiều để đem hết tâm sức ra nghiên cứu về các môn khoa học Dịch lý Đông Phương, tôi ngộ ra rằng: Tất cả mọi việc ở trên đời đều dựa vào "Dịch lý". Không tinh thông "Dịch lý" thời không thể có sơ sở để luận bàn về kiến thức âm dương. Càng không thể vận dụng được tốt để phục vụ hữu ích cho cuộc sống đương thời và cả cho mai sau.
    Không có một sách nào viết để rập khuôn vào sử dụng đúng 100% cả. Bởi tất cả những sách vở suy cho cùng là tổng kết cho ta những nguyên tắc cơ bản, còn khi vận dụng những nguyên tắc đó, trong cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải biết sáng tạo linh hoạt, nhưng hết sức tuân thủ nguyên tắc.
    Thực tiễn là tiêu chuẩn tối cao để kiểm nghiệm chân lý.
    Vì vậy hơn bao giờ hết, khi ta đặt bút ghi những dòng nội dung cần thực hiện về mặt Âm Dương Phong thủy thời phải hết sức thận trọng, tuyệt đối không thể làm qua loa đại khái, và cũng không thể vì một áp lực nào chi phối.
    (Còn nữa)
    Last edited by dauvanphung; 14-01-2012 at 10:39 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Phần hai
    BÀN VỀ TẠO TÁNG
    Tạo Dương trạch và Táng Âm phần là hai việc hệ trọng
    Tạo Dương trạch lấy Phù chủ, sơn hướng làm trọng, còn bổ long là thứ.
    Táng Âm phần lấy bổ Long là chủ, phù chủ và sơn hướng là thứ yếu.
    Táng cần Tiếp thừa sinh khí, sinh khí vượng là "Thể" tự ấm. còn sơn và vong mệnh không hoàn toàn lợi cũng không ngại.
    Còn tu tạo dương cơ, thì búa rìu chấn động nhiều, thời gian thi công lại kéo dài, nên cần coi trọng mệnh chủ và sơn hướng. Vì vậy nên cần thận trọng.

    TRƯỚC HẾT BÀN VỀ CHÍNH NGŨ HÀNH SINH VƯỢNG
    Ngũ hành, mỗi cái đều có thời kỳ thịnh suy của nó. Duy Thổ có 3 dạng: Âm thổ, Dương thổ và Bán âm dương.
    Cụ thể: Cấn thổ thuộc dương, Khôn thổ thuộc âm, Thìn Tuất Sửu Mùi ghi vào cung trung, Thìn Tuất thuộc bán dương, Sửu Mùi thuộc bán âm.
    Trước lập Xuân Cấn vượng, sau Lập Thu Khôn vượng. Tứ mộ vượng ở 18 ngày cuối Tứ Quí. Mộ của Thổ như thế đấy.
    Mộc
    Nói chung vượng về mùa Xuân, cụ thể chi tiết chỉ vượng 72 ngày, còn 18 ngày cuối Quí là Thìn thổ vượng.
    Lại lấy từ Đông chí là nhất dương sinh mà bàn thì
    Từ Đông chí đến Lập xuân là Khí tiến lên, gọi là Hướng lệnh.
    Từ Lập xuân đến Xuân phân là Chính khí, gọi là Đắc lệnh.
    Từ Xuân phân đến Thanh minh, là khí vượng gọi là Hóa lệnh.
    Hỏa
    Hỏa sơn vượng vào mùa Hạ.
    Từ Lập xuân đến kinh trập là khí tiến, Hướng lệnh.
    Từ Kinh trập đến Lập Hạ là chính khí, Đắc lệnh.
    Từ Tiểu mãn đến Hạ chí là khí vượng, Hóa khí.
    Sau Hạ chí Hỏa Táo, Kim tử. Vật cực tắc phản, nên không thể dùng, vậy Hỏa sơn không nên dùng sau Đại thử
    Kim sơn mùa Thu vượng,
    Từ Mang chủng đến Hạ chí là khí tiến, Hướng lệnh.
    Từ Hạ chí đến Lập Thu là chính khí, Đắc lệnh.
    Từ Xử thử đến Thu phân là khí vượng, Hóa lệnh.
    Phàm hóa lệnh là thời kỳ các sơn khác tiến khí. Cốt là khí tiến, cốt là lấy Tài Lộc bồi đắp cho gốc rễ, nhằm đạt được trung hòa là quí nhất. Do đó, khi Long đã vượng, nếu lấy thêm vượng vào là là xấu, là nguy.
    Phép dùng này: Hướng lệnh dùng Sinh khí của nó, Đắc lệnh dùng Thai khí của nó, hóa khí dùng Tài nguyên, làm như thế mới đúng Dịch lý.
    Như mùa Xuân, Từ Xuân phân đến Thanh minh, là khí vượng gọi là Hóa lệnh, nên có thể chọn Dần sơn là hóa lệnh, chọn ngày Giáp để dùng, vì Giáp Lộc tại Dần. Nên thời điểm: Xuân phân -Thanh minh Dần Sơn thuộc mộc hóa Lộc cho chủ nhân tuổi Giáp.
    Tài của Tuổi Giáp là Thổ. Nên nếu muốn dùng Tài, cần chọn trong khoảng thời gian trước Lập Hạ 18 ngày đến lập Hạ, thời gian này Cấn Thổ mới thực sự vượng.
    Lại còn hướng lệnh và đắc lệnh dùng cũng không giống nhau, tiến khí và hóa lệnh cũng có khác. Như mùa Xuân - Chấn sơn, dùng Giáp ất phụ vào, Giáp hướng Đông chí mà sinh vượng, Chấn (Mão) đến Xuân phân mới chính vượng, Ất hướng Thanh minh mới hóa vượng. Phép chọn khắc chế dùng hóa của nó bổ cho Tài Lộc, chính vượng bồi cho căn nguyên, hướng vượng ích cho Thai tức. Phù trợ cho sự tổn thất được Trung hòa, đó là Trinh, là Cát vậy.

    BÀN VỀ BỔ LONG KHI TẠO TÁNG
    Gốc của họa phúc tóm lại ở Long, chọn ngày theo phong thủy mà không bổ long, hà tất phải chọn. Do đó cần biết được phép bổ Long.
    Phàm Long ở xa, không luận riêng rẽ, lấy tiểu mạch khi đến huyệt làm chủ ( Long tích ) Lấy Ngũ hành bàn Chính châm để luận sinh khắc. Ngày giờ Tứ trụ sinh phù thời cát, khắc tiết thời hung.
    (Thật trớ trêu thay cho một số người cứ giở sách ra thấy ngày Hoàng Đạo là tốt, thấy hắc đạo là xấu, chẳng cần đếm xỉa đến Long Tích ra sao, Chủ Mệnh thế naò v v)
    1.Dương trạch cũng như Âm phần, đến chỗ huyệt kết tất có một tuyến tiểu mạch, cặn kẽ xét định, dùng La kinh để tuyển chọn, xác định cẩn thận.
    Phàm: Long thuộc Mộc thì dùng Hợi Mão Mùi.
    Long thuộc Hỏa thì dùng Dần Ngọ Tuất.
    Long thuộc Thủy thì dùng Thân Tý Thìn.
    Long thuộc Kim thì dùng Tị Dậu Sửu.
    Long hòa hoãn nên dùng Ấn cục, long đái sát nên dùng Tài, Quan cục.
    Phàm ở thành phố: Hướng Bính Ngọ Đinh tất là Long Nhâm Tý Quí.
    Thích hợp với cục thủy Thân Tý Thìn.Đại để vì không thể biết chính xác Long mạch thuộc ngũ hành nào, nên phải dùng Bổ Sơn vậy, tức là táng thừa sinh khí của một tuyến.
    Suy vượng của Long khí, phải xem ở thời Lệnh Tháng. Vì vậy bổ Long tất ở tháng tam hợp, hay tháng Lâm quan, tháng mộ cũng là tháng vượng, không phải là tháng suy, bệnh, tử vậy. Đại để cung Sửu có tàngTân kim, cung Mùi có tàng Ất mộc, cung Thìn có tàng Quí thủy, cung Tuất có tàng Đinh hỏa.
    Phàm bổ Long toàn bổ tại Địa chi của Tứ trụ. Đại để do Thiên can là Thiên nguyên, Địa chi là Địa nguyên, bổ Long là Bổ Địa, nên dùng Địa chi hay hơn Thiên can. Cần dùng Địa chi nhất khí để bổ. Như Mão Long dùng 4 Mão để bổ, kết quả cực tốt đẹp, nhưng khó dùng, phải hơn 10 năm mới gặp một lần, mà còn hoặc là Nguyệt khắc sơn gia, hay Nhật khắc sơn gia, muốn làm tốt cần hiểu sâu phép chế hóa. Còn Tam hợp cục chỉ cần có tam hợp cục trong tháng, tháng Sinh, tháng Vượng, Tháng Mộ đều có thể làm được. Nếu 3 tháng đó, hung thần chiếm phương, thì tháng Lâm quan có thể làm được, gọi là Tam hợp cục kiêm địa chi Lâm quan nhất khí. Hay dùng tứ sinh, tứ vượng, không dùng tứ mộ. Chỉ cần có 2 chữ trong tam hợp là đủ.
    Hết thảy 12 Âm Long nên dùng Âm khóa, 12 Dương long nên dùng Dương khóa. Tuy vậy cách cổ khóa cũng không bó buộc nhất thiết phải như thế.
    Tứ trụ mà cổ nhân dùng cho tạo táng, phần nhiều lấy Địa chi bổ Long, Thiên can bổ "Chủ mệnh", hoặc tựa vai với mệnh nhất khí, hoặc hợp Quan, hợp Tài, hoặc hợp Lộc Mã Quí nhân. Lại hoặc Thiên can hợp mệnh, mà Lộc Mã Quí nhân đến sơn, còn địa chi bổ Long đều là thượng cục, cát vậy.
    Cũng có thể lấy nạp âm Tứ trụ để bổ Long, như các thiền sư đời Đường, đời Tống: Phép này không luận nạp âm của bản Long, mà ở trên Mộ của bản long, luận sinh khắc: Như năm Canh, làm hướng Tuất.
    Tuất Long chính ngũ hành thuộc thổ. Thủy Thổ mộ ở Thìn, dùng ngũ hổ độn, được Canh Thìn là nạp âm kim, thời tứ trụ dùng nạp âm Âm thổ là cát.
    Phàm lấy Tam hợp cục thủy để bổ thủy Long, lấy mộc cục bổ mộc Long, là cục vượng, thượng cát. Lấy Ấn cục sinh Long là thứ cát: Như Tam hợp cục Hỏa sinh Thổ long, con dùng Tài , Quan cục thì theo nguyên lý vẫn cát.


    CỔ KHÓA VỀ BỔ LONG
    (Lấy chính ngũ hành để luận).
    Thế nào là lấy chính ngũ hành để luận ?
    Khi điểm huyệt, chúng ta phải lấy Trung châm nhân bàn để Khai sơn lập hướng, nhằm thu được Linh khí của trời đất. Tại sao khai sơn lập hướng dùng Nhân bàn mới thu được Linh khí "Long" của trời đất ? Vì rằng tầng Chính châm là Chất của ngũ hành, tầng Trung châm nhân bàn là Khí của Ngũ hành. Mà điều ta đang cần là Thu linh khí của ngũ hành để nuôi dưỡng linh hồn của "Cố nhân" .chúng ta. Đó là điểm mà lâu nay sách chưa nêu rõ.
    Việc bổ Long, tức là ta phải bổ Chất của ngũ hành cho Long mạch. Cho nên ta phải dùng Tầng Chính châm của La kinh, cụ thể như sau:
    Các Long: Hợi, Nhâm Tý Quí thuộc Thủy long
    Các Long: Cấn Khôn Thìn Thuất Sửu Mùi thuộc Thổ long
    Các long: Tị Bính Ngọ Đinh thuộc Hỏa long.
    Các long: Dần Giáp Mão Ât Tốn thuộc Mộc long
    Các long: Canh Thân Tân Dậu Kiền thuộc Kim long.
    Nghĩa là ta lấy ngũ hành của 24 sơn hướng tầng Chính châm.
    Tóm lại: Khai sơn lập hướng dùng Nhân bàn. Bổ long dùng Địa bàn chính châm.
    Nguyên tắc Bổ Long.
    Long mạch chạy trong đất, dưới tầm nhìn phong thủy phải nhận định được Long mạnh hay yếu ? Long yếu gọi là Long hòa hoãn, Long cấp gọi là Long Đái sát.
    Long hòa hoãn thường xuất hiện vùng đồng bằng, bình địa.Thường dùng Ấn cục Tựa vai để bổ long.
    Long cấp thường xuất hiện tại vùng núi cao, trùng điệp. Thường dùng Tài, Quan cục để bổ long, thực chất là gia giảm để Long đạt trung hòa.
    Tất cả đều phải dựa vào Địa hình Thực tế để phân biệt
    Phương pháp bổ long như thế nào ?
    Cổ nhân nói vấn đề này khá khó hiểu nay tôi qui nạp lại như sau:
    1. Cách bổ Mộc long: Có 6 huyệt Bảo châu

    Tọa sơn Hướng Long
    1 Nhâm Dần Mậu Thân Dần
    2 Kỷ Mão Ât Dậu Giáp
    3 Quí Mão Kỷ Dậu Mão
    4 Canh Thìn Bính Tuất Ất
    6 Tân Tị Đinh Hợi Tốn

    • Nhật chủ dùng Giáp Ất.
    • Dùng tháng Dần Mão Thìn (1) Hợi
    • Dùng các địa chi (Thân) Tý Thìn tạo thành cục Thủy để sinh cho Mộc
    • Các địa chi tam hợp, lục hợp, hội cục đều tụ cho Mộc vượng.

    2. Cách bổ Hỏa long: Có 4 huyệt Bảo châu
    Tọa sơn Hướng Long
    1 Ất Tị Tân Hợi Tị
    2 Nhâm Ngọ Bính Tý Bính
    3 Bính Ngọ Canh Tý Ngọ
    4 Quí Mùi Đinh Sửu Đinh

    • Nhật chủ dùng Bính Đinh (Mậu Quí).
    • Dùng tháng Tị Ngọ Mùi (1)
    • Các địa chi tam hợp, lục hợp, hội cục đều tụ cho Hỏa vượng
    • Tứ trụ mộc hỏa nhiều

    3.Cách bổ Thổ long: có 6 huyệt Bảo châu
    • Nhật chủ dùng (Thìn Tuất Sửu Mùi) .
    • Dùng tháng (Thìn Tuất sửu Mùi) (2)
    • Các địa chi , thiên can đều hội cho Thổ vượng
    Có 3 kho
    • Không có Giáp Dần Ất Mão

    Tọa sơn Hướng Long
    1 Giáp Thìn Canh Tuất Thìn
    2 Canh Tuất Giáp Thìn Tuất
    3 Tân Sửu Đinh Mùi Sửu
    4 Đinh Mùi Tân Sửu Mùi
    5 Mậu Dần Giáp Thân Cấn
    6 Giáp Thân Mậu Dần Khôn


    4.Cách bổ Kim long: Có 5 huyệt Bảo Châu
    • Nhật chủ dùng Canh Tân Thân Dậu.(Tị Dậu Sửu)
    • Dùng tháng Thân Dậu Tuất (1)
    • Các địa chi tam hợp, lục hợp, hội cục đều tụ cho Kim vượng
    • Không có Bính Đinh Ngọ (Tị)

    Tọa sơn Hướng Long
    1 Mậu Thân Nhâm Dần Thân
    2 Ất Dậu Kỷ Mão Canh
    3 Kỷ Dậu Quí Mão Dậu
    4 Binh Tuất Canh Thìn Tân
    5 Đinh Hợi Tân Tị Kiền

    5.Cách bổ Thủy long: Có 4 huyệt Bảo châu
    • Nhật chủ dùng Nhâm Quí Tý Hợi .(Thân Tý Thìn)
    • Dùng tháng Hợi Tý Sửu (1)
    • Các địa chi tam hợp, lục hợp, hội cục đều tụ cho Thủy vượng
    • Không có Mậu Kỷ Thìn Tuất Mùi

    Tọa sơn Hướng Long
    1 Tân Hợi Ất Tị Hợi
    2 Bính Tý Nhâm Ngọ Nhâm
    3 Canh Tý Bính Ngọ Tý
    4 Đinh Sửu Quí Mùi Quí
    Last edited by dauvanphung; 14-01-2012 at 11:46 PM.

  3. #3

    Mặc định

    Cám ơn nhiều
    Khai sơn lập hướng Dương trạch
    Khi khai sơn lập hướng dương trạch, cần nhất là Bổ long-Phù chủ, đón cát, tránh hung, nghĩa là tuyển chọn năm, tháng, ngày giờ phải phải bổ long Mạch, phù trợ được chủ nhân, có nhiều cát tinh khống chế, hoá giải được hung tinh.
    Chữ Bổ Long thông thường có 3 nghĩa:
    Khi long hoà hoãn thì bồi bổ thật sự
    Khi Long Đái sát thì phải trừ khử
    Khi Long xung sát thì phải Thông quan.
    Lý giải về mấy ý này không dễ chút nào, đại lược là : Phải tuỳ tình hình cụ thể vào Địa hình, Địa vật khu vực lập dương cơ để quyết định dùng ý nào trong 3 ý nói trên. Thông thường ở đồng bằng Long thường hoà hoãn, nên cần bổ long thật sự, ở địa hình núi hiểm trở thường là long đái sát, nên trừ khử để giảm uy lực của long, khi long mạch thất thường thì cần Thông quan. Tất cả đều lấ “Trung hoà “ làm trọng.
    Phù chủ, tức là phải chọn năm, tháng , ngày, giờ tương hợp, tương sinh với chủ, tuyệt nhiên không được Hình, Xung chủ
    Có nhiều cát tinh khống chế, hoá giải được hung tinh: Phần này nên nghiên cứu kỹ tích chất của các tinh tú.
    Thí dụ cùng dương trạch Toạ Ngọ- hướng Tý
    Một nhà ở địa thế đồng bằng (Tức long hoà hoãn) thì ta chỉ có thể dúng năm, tháng ngày giờ Dần- Ngọ- Tuất thuộc Hoả cục, hay Dần Mão Thìn: Tam hội cục hoả, hay Hợi Mão Mùi Mộc cục để sinh hoả
    Nhà thứ hai nếu ở miền rừng núi (Long đái sát thì ta có thể dùng : Năm thang ngày giờ Thân Thìn (Tuyệt đối không dùng Tý): Tam hợp cục thuỷ, để chế ngự hoả long, gọi là Quan cục, cũng có thể dùng năm tháng ngày giờ Tị Dậu Sửu kim cục tức là Tài cục.
    Nhà thư ba ở vùng trung du hay ven núi mà Long không liền mạch thì dùng Thông quan cục như Hoả cũng mạnh mà Thuỷ cũng mạnh thì dùng Mộc cục để thông quan giữa Thuỷ và Hoả
    Tóm lại: Mục tiêu cuối cùng là phải làm trung hoà long mạch, tức là làm cho long mạch bề vững, như thế mới tạo nên phúc ấm cho chủ nhân.Nên đòi hởi người làm công tác Phong thuỷ phải hết sức tinh thông Dịch lý về lý thuyết, và vận dụng vào thực tế hết sức nhuần nhuyễn mới mong có kết quả mỹ mãn.
    Phù Chủ: Phải luôn bổ trợ cho chủ như hợp Tài, hợp Lộc, hợp Quan.
    Ví dụ: Người tuổi Đinh dùng Năm Tháng Ngày giờ Nhâm là hợp Quan
    Người tuổi Giáp dùng Năm tháng, Ngày giờ Kỷ là hợp Tài.
    Người tuổi Giáp dùng Năm Tháng Ngày Giờ Dần là hơp Lộc v v
    Đón cát tránh hung: Như dùng giờ Thiên ất quí nhân, hay tam ký: Ất Bính Đinh, hay Định cục bốn giờ Đại cát v v
    Ba yếu tố trên liên quan hữu cơ với nhau như môi với răng, như hình với bóng.
    Mấy dòng mộc mạc chân tình, thu lượm ý của cổ nhân xin bày tỏ, nếu có gì sơ suất mong các vị cao nhân chỉ giáo.

  4. #4

    Mặc định

    Cảm ơn bác dauvanphung đã có tâm huyết phổ biến những kinh nghiệm quý báu, giúp ích cho đời. Đó là những nguyên tắc cơ bản tương đối vắn tắt và khó hiểu.
    Mong bác có nhiều thời gian hơn nữa để đi sâu vào các vấn đề chi tiết và có ví dụ cụ thể để những người yêu thích môn phong thủy có được sự định hướng trong học tập và nghiên cứu.
    Vũ Hữu Khôi - www.khoi.name.vn

  5. #5

    Mặc định

    Chào bác DAUVANPHUNG ...!!! Tôi có đôi chút thắc mắc mong bác giải đáp cho ...
    - Khi chọn Tứ Trụ năm tháng ngày giờ để bổ sơn bổ long thì chưa thấy bác nêu ra qui luật Thái Âm hệ , Thái Dương hệ phối hợp với qui luật Ngũ Hành ( hay còn gọi là Thất Tinh hệ ) ?
    - Khi đến khảo sát một Địa Cuộc Dương Trạch nào đó thì ta làm cách nào để chào hỏi , giao tiếp với các bậc Thần Linh ?
    - Khi đến khảo sát một Địa Cuộc Âm Phần nào đó thì ta làm cách để chào hỏi , giao tiếp với các bậc Thần Linh ?

    Chân thành cảm ơn bác ...!!!
    Last edited by NGHI_PhapSu; 02-02-2012 at 12:13 PM.

  6. #6

    Mặc định

    Trả lời ông "Nghi Pháp sư"
    - Khi chọn Tứ Trụ năm tháng ngày giờ để bổ sơn bổ long thì chưa thấy bác nêu ra qui luật Thái Âm hệ , Thái Dương hệ phối hợp với qui luật Ngũ Hành ( hay còn gọi là Thất Tinh hệ ) ?
    - Khi đến khảo sát một Địa Cuộc Dương Trạch nào đó thì ta làm cách nào để chào hỏi , giao tiếp với các bậc Thần Linh ?
    - Khi đến khảo sát một Địa Cuộc Âm Phần nào đó thì ta làm cách để chào hỏi , giao tiếp với các bậc Thần Linh ?
    Câu hỏi của ông, tôi trả lời cơ bản như sau:
    Về qui luật tìm các sao tốt, xấu miễn diễn giải ở đây, còn qui tắc dùng của Thái Dương, hay Thái Âm hệ (Những sao tốt) dứt khoat phải là tam hợp, hay lục hợp với Long
    Khi khảo sát với Địa cuộc Âm trạch hay Dương trạch, chúng ta phải khảo sát thật kỹ địa hình để có dự thảo phương án tối ưu. Còn muốn giao tiếp với Thần linh, thì mỗi người có một sở trường, sở đoản khác nhau, nghĩa là tùy vào mức độ giao cảm tâm linh từng người. Còn tôi thì thường thông qua 2 con đường: Dùng Chu dịch để khảo sát cơ bản trước, sau đó nhờ Sơn Thần Bản thổ trực tiếp mách bảo những vấn đề mà chưa tường tận. Nhưng luôn nhớ cho: Những gì thuộc bí mật của Thiên cơ, thì Bản thổ hay cả Vong linh cũng không bao giờ cho ta biết. Việc này tôi đã được chiêm nghiệm rất nhiều trường hợp.
    Thân ái.

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi dauvanphung Xem Bài Gởi
    Trả lời ông "Nghi Pháp sư"
    - Khi chọn Tứ Trụ năm tháng ngày giờ để bổ sơn bổ long thì chưa thấy bác nêu ra qui luật Thái Âm hệ , Thái Dương hệ phối hợp với qui luật Ngũ Hành ( hay còn gọi là Thất Tinh hệ ) ?
    - Khi đến khảo sát một Địa Cuộc Dương Trạch nào đó thì ta làm cách nào để chào hỏi , giao tiếp với các bậc Thần Linh ?
    - Khi đến khảo sát một Địa Cuộc Âm Phần nào đó thì ta làm cách để chào hỏi , giao tiếp với các bậc Thần Linh ?
    Câu hỏi của ông, tôi trả lời cơ bản như sau:
    Về qui luật tìm các sao tốt, xấu miễn diễn giải ở đây, còn qui tắc dùng của Thái Dương, hay Thái Âm hệ (Những sao tốt) dứt khoat phải là tam hợp, hay lục hợp với Long
    Khi khảo sát với Địa cuộc Âm trạch hay Dương trạch, chúng ta phải khảo sát thật kỹ địa hình để có dự thảo phương án tối ưu. Còn muốn giao tiếp với Thần linh, thì mỗi người có một sở trường, sở đoản khác nhau, nghĩa là tùy vào mức độ giao cảm tâm linh từng người. Còn tôi thì thường thông qua 2 con đường: Dùng Chu dịch để khảo sát cơ bản trước, sau đó nhờ Sơn Thần Bản thổ trực tiếp mách bảo những vấn đề mà chưa tường tận. Nhưng luôn nhớ cho: Những gì thuộc bí mật của Thiên cơ, thì Bản thổ hay cả Vong linh cũng không bao giờ cho ta biết. Việc này tôi đã được chiêm nghiệm rất nhiều trường hợp.
    Thân ái.
    Chân thành cảm ơn bác đã trả lời các câu hỏi của tôi nêu ra .
    Theo thiển ý của tôi nếu chỉ giao tiếp với Sơn Thần Bổn Thổ thì đúng là sẽ không có được " Thiên Cơ " mà chúng ta nên giao tiếp với các bậc Thần Linh cao hơn có chức trách quản hành , điều tiết các Linh Địa , Kỳ Địa ... giống như khi làm giấy phép xây dựng nhà cửa ta phải xin phép nhiều cấp khác nhau vậy . Vì nếu không có được " kỳ lệnh " của các bậc Thần Linh này khi ta phân kim lập hướng cho Dương Trạch cũng như Âm Phần thì kết quả chỉ được đôi phần mà thôi . Rồi đôi khi không hiểu rõ qui luật của Thiên Địa một cách tương đối thì các đời sau con cháu ta sẽ gánh lấy hậu quả khôn lường .

    Mong bác giải đáp cho tôi các thắc mắc sau đây :
    - Trong Thuật PHONG THỦY có các phương pháp lập ra Trận Đồ Phong Thủy cho Dương Trạch và Âm Phần hay không ?
    - Trong các phương pháp chọn Tứ Trụ năm tháng ngày giờ nhằm bổ Long , bổ Sơn tôi có nghe nói đến bộ khóa Quí Nhân Đăng Thiên Môn hay không ?

    Tôi xin chân thành cảm ơn bác ...!!!
    Last edited by NGHI_PhapSu; 02-02-2012 at 08:38 PM.

  8. #8

    Mặc định

    Trả lời:
    Thực tế hiện nay làm một cuộc phong thủy cho âm phần rất khó, Dương cơ cũng chẳng dễ hơn là bao nhiêu, bởi lẽ: Đất đai đã bị tư nhân hóa, quốc hữu hóa, rất tiếc đôi khi đi ngang qua đã thấy có huyệt kết rất tốt (Tiểu địa) nhưng đành bó tay nuối tiếc.
    Còn các bậc Thần linh không mách bảo cho ta biết thiên cơ cũng phải đạo thôi, tất nhiên có nhiều nguyên nhân như tâm đức của chủ nhân, phúc phận của chủ nhân v v. Riêng về phong thủy tôi mới hiểu cơ bản, không dám nhận là tinh thông, việc lập trận đồ âm phần hay dương trạch, tôi chưa từng làm và cũng không đủ điều kiện để làm. Điều kiện ở đây có nhiều điểm như tiềm năng kinh phí, địa hình, vv và vv. Thực tế tôi chỉ là người thường đi giúp những bầu bạn thân quen, trên cơ sở cái vốn có của chủ nhân, như trong vùng nhỏ của khuôn viên đất đó, có thể đặt mộ của người thân nên đặt chỗ nào thì khả dĩ nhất, thời gian nào hợp lý nhất, độ sâu bao nhiêu thì vừa tầm, tọa sơn nào thì có lợi nhất. Mục tiêu cuối cùng là sau khi lập được Âm phần của một cá nhân hay một dòng họ, kết quả cá nhân hay dòng họ đó Bình an, ăn nên làm ra, thăng quan tiến chức đoàng hoàng là tôi thấy hạnh phúc của họ, mà cũng là hạnh phúc cho bản thân tôi.Khi cần thiết lắm tôi mới hướng dẫn cho chủ nhân bổ sung những thứ thật cần thiết cho Âm cuộc (Vì tôi sợ chủ nhân tốn tiền bạc)
    Và như tôi đã trao đổi với bác là Thần Bản thổ chỉ có thể mách bảo cho ta biết những việc thông thường, nhưng nhiều khi cũng hết sức quan trọng, như khi cát táng, thì việc hiểu rõ phần hài cốt còn nhiều hay ít, tốt hay xấu, cần tiến hành những thủ tục nghi lễ cụ thể gì thì rất khó. Trong trường hợp này tôi thường có 2 bước làm có bản:
    Dùng Chu Dịch lắc quẻ để xác định sự tốt xấu cơ bản của vong linh trước, các lượng thông tin trong quẻ cho ta xác định được một cách rất vững vàng về tình hình khái quát, còn đi vào chi tiết như Vong linh khi cát táng họ cần nhu cầu gì, số lượng bao nhiêu thì tôi đành nhờ bản thổ mách bảo (đương nhiên phải thắp hương thỉnh bản thổ)
    Theo ý tưởng của tôi là công tác phong thủy cho âm phần không thể có 70% hay 90%, mà chỉ có thể là Đúng hay sai.
    Thí dụ: Muốn xem ngôi mộ đó kết hay không kết, chi có một câu trả lời là có kết hay không kết. Cũng như xem ngôi mộ có yên hay không yên, cũng phải trả lời dứt khoát, rõ trắng rõ đen. Néu kết cần làm thêm thủ tục gì ? cụ thể thế nào để bổ trợ cho vong linh. Nếu không yên thì cần phải là thêm động tác gì , cúng bái ra sao để cho người ta yên ổn
    Tất cả những điều đó trước hết bản thân mình phải chịu trách nhiệm trước tiên, coi như việc của gia đính mình. Mình làm sai, mình phải chịu, mình không gánh được thì con cháu mình phải gánh lấy hậu quả....
    Phần Dương trạch tuy có dễ hơn chút ít, nhưng cũng không phải là không khó, khó ở chỗ: Đất chật, người đông, đồng tiền bát gạo của chủ nhân có hạn, làm thế nào đây để đạt được nhà cửa xây xong rồi mà chủ nhân bình yên, con cháu học hành chăm ngoan, có hiếu. Tôi thường gặp là khi làm nhà có quá nhiều người thầy chẳng ra thầy mà lại thánh tướng, làm cho chủ nhân không biết đường nào mà theo. Nói thật, nói đúng thì không nghe, nói phét thì nghe rầm rầm, nhất là các phu nhân. Nhưng kết quả cuối cùng sự thật vẫn là chân lý.
    Vấn đề bổ khóa "Thiên ất" chắc chắn là không có, nhân đây tôi chép thêm bảng giờ thên ất cho bác tham khảo. Bảng này tôi đã tưnlaapj theo nguyên tắc của giờ Thiên ất và đã rà soát lại rồi, bác vẫn cứ nên soát lại cho chắc ăn. Lâu nay tôi vẫn dùng bảng này.
    Cụ thể như sau:
    Ngày:

    Đêm:

    Tóm lại tôi không dám làm việc gì quá sức mình, khi chưa đảm bảo điều đó chắc thắng, chắc đúng. Chỉ lấy việc làm phúc là trọng.
    Last edited by dauvanphung; 05-02-2012 at 04:45 PM. Lý do: bổ sung bảng

  9. #9

    Mặc định

    Cám ơn bác đã có bài trả lời . Tôi đang đi tìm công thức Quí Nhân Đăng Thiên Môn liên quan đến Nhị Thập Bát Tú , Tam Bát Ngũ Kinh mà vẫn chưa tìm được ..... không biết bác DAUVANPHUNG có tài liệu này không , nếu bác có thì cho tôi xin tài liệu này ? Chân thành cảm ơn bác trước .....!!!!!
    Last edited by NGHI_PhapSu; 06-02-2012 at 06:36 PM.

  10. #10

    Mặc định

    Xin hỏi bác dauvanphung là ở bảng tra giờ Quý nhân đăng thiên môn so sánh với sách Hiệp kỷ biện phương thư thấy có khác. Cụ thể trong sách đó khí tiểu mãn ngày bính thì giờ quý nhân là Tuất... còn vài chỗ khác nữa. Vậy không biết là sách có bị sai sót không đây.
    Vũ Hữu Khôi - www.khoi.name.vn

  11. #11

    Mặc định

    trả lời: ông Khoi
    Tôi đã nói rồi, là bảng quí nhấn đăng thiên môn trong sách hiệp kỷ tôi thấy thiếu sót, nên đã chỉnh lý rồi, nếu bạn thấy chưa yên tâm thì kiểm tra lại, còn tôi dùng thấy chưa bao giờ sai, nghĩa là rất linh nghiệm.
    Thân

  12. #12

    Mặc định

    Tôi có một câu hỏi ngắn với bác dauvanphung nữa là: Thời gian chuyển tiếp năm cũ, năm mới trong việc đặt mộ. Một số người cho rằng sau Đông Chí sẽ tính là đã sang thời điểm của năm sau. Như vậy có đúng không.
    Vũ Hữu Khôi - www.khoi.name.vn

  13. #13
    Thành viên tích cực SPAM Avatar của hcthinh
    Gia nhập
    Apr 2010
    Bài gởi
    38,281

    Mặc định

    các bác chỉ cho em cách sử dụng bảng quý nhân đăng thiên môn với ạ...chẳng hiểu cái cột khí với nguyệt tướng là gì hết...
    Hoàng Đế Spam
    Chủ Tịch Hội Đồng KHOA HỌC HUYỀN BÍ - TÂM LINH - HUYỀN THUẬT.

  14. #14

    Mặc định

    Tôi có một câu hỏi ngắn với bác dauvanphung nữa là: Thời gian chuyển tiếp năm cũ, năm mới trong việc đặt mộ. Một số người cho rằng sau Đông Chí sẽ tính là đã sang thời điểm của năm sau. Như vậy có đúng không.
    Trả lời ông Khôi:
    Sau Đông chí năm cũ đã tính thời điểm của năm mới là không đúng . Vì nó chẳng hề có cơ sở Dịch lý nào hết. Phải tính từ tiết lệnh Lập Xuân của năm mới, mới thực sự là năm mới. Thí dụ: Năm 2012 Nhâm Thìn, ngày 13 tháng giêng là ngày Lập Xuân (Ngày Ất Mùi). Theo nguyên tắc siêu thần tiếp khí , thì ngày 12 tháng giêng là ngày Giáp Ngọ. mới đúng là ngày Lập Xuân của năm 2012. Ông xem lại phần Siêu thần tiếp khí thì sẽ vững tâm thôi.
    Thân ái.

  15. #15

    Mặc định

    Trả lời ông hctinh:
    các bác chỉ cho em cách sử dụng bảng quý nhân đăng thiên môn với ạ...chẳng hiểu cái cột khí với nguyệt tướng là gì hết...
    Trả lời: Tôi nêu ví dụ cụ thể:
    20/03 – Là ngày Canh Thìn- ngày Xuân phân, trong khoảng thời gian này ta có việc cần dùng cho người tuổi Dậu, (hay Tị, Sửu)
    Ta có thể dung ngay Ất Dậu ( 25/3) bởi theo Bảng Quí nhân Đăng Thiên Môn (Đêm) Tiết Xuân phân Ngày Ất có Quí Nhân tại Dậu và dùng giờ Dậu lại thêm tốt nữa. Đại loại nguyên lý là thế. Tất nhiên tuổi Dậu, Tị, Sửu tam hợp với Thiên ất mới tốt, còn tuổi Mão thì chẳng thể tốt được. Tuổi Thìn vẫn tốt, vì Thìn với Dậu lục hợp.

  16. #16
    Thành viên tích cực SPAM Avatar của hcthinh
    Gia nhập
    Apr 2010
    Bài gởi
    38,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi dauvanphung Xem Bài Gởi
    Trả lời ông hctinh:
    các bác chỉ cho em cách sử dụng bảng quý nhân đăng thiên môn với ạ...chẳng hiểu cái cột khí với nguyệt tướng là gì hết...
    Trả lời: Tôi nêu ví dụ cụ thể:
    20/03 – Là ngày Canh Thìn- ngày Xuân phân, trong khoảng thời gian này ta có việc cần dùng cho người tuổi Dậu, (hay Tị, Sửu)
    Ta có thể dung ngay Ất Dậu ( 25/3) bởi theo Bảng Quí nhân Đăng Thiên Môn (Đêm) Tiết Xuân phân Ngày Ất có Quí Nhân tại Dậu và dùng giờ Dậu lại thêm tốt nữa. Đại loại nguyên lý là thế. Tất nhiên tuổi Dậu, Tị, Sửu tam hợp với Thiên ất mới tốt, còn tuổi Mão thì chẳng thể tốt được. Tuổi Thìn vẫn tốt, vì Thìn với Dậu lục hợp.
    Cám ơn bác ạ...em lờ mờ hiểu ra được phần nào rồi ạ...có điều:

    a. muốn biết ngày xuân phân hay ngày gì thì tra ở đâu ạ.?
    b. khi nào thì tra giờ Dương , khi nào thì tra giờ Âm Quí Nhân ạ ?
    c. còn nguyệt tướng là gì ạ ??

    mong các bác dạy bảo thêm ạ...
    Hoàng Đế Spam
    Chủ Tịch Hội Đồng KHOA HỌC HUYỀN BÍ - TÂM LINH - HUYỀN THUẬT.

  17. #17

    Mặc định

    ôi giời cái bác dauvanphung này kiến thức uyên thăm nhĩ . nhưng mình cũng có chút kiến thức xin góp ý thế này . muốn giỏi phong thủy,tướng số ,bùa chú,trấn yểm ...đầu tiên giỏi tiếng hoa sau đó biết chút tiếng ấn và chút lão giáo với phật giáo . sau đó học tứ trụ (thiệu vĩ hoa ,Tử bình..) , bát quái cửu cung (81 thiên xích) tham khảo Lý Cư Minh . kế đến Ma Y là được rồi. cuối cùng là chu dịch . dù cho bạn giỏi chu dịch tới đâu mà không thông tứ trụ và cửu cung thì cầm cái la bàn như cầm khúc gỗ mà thôi . còn các bác ở trên không thông tứ trụ mới cần tới QUI NHÂN ĐĂNG THIÊN MÔN và ...gì đó mấy cái đó trật lất ah học chi cho uổng . không tin cứ áp dụng thử xem . bác dauvanphung nè không phải lúc nào cũng xài tam hợp và lục hợp đâu nha nói thế người ta cười bảo mình mê tín đấy nhá . thầy tôi có dạy tôi 1 nguyên tắc duy nhất là cân bằng với tự nhiên là tồn tại (tổn hữu dư bổ bất túc ) quá vượng thì phải khắc chế (gọi là tả) quá suy thì bổ . học bao lâu không quan trọng bằng mình có được gì sao bao nhiêu năm đó hay ta chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài của 1 nhà phong thủy đi theo lối mòn rồi sẽ cố chấp -----> 0

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phamphuongphong Xem Bài Gởi
    ôi giời cái bác dauvanphung này kiến thức uyên thăm nhĩ . nhưng mình cũng có chút kiến thức xin góp ý thế này . muốn giỏi phong thủy,tướng số ,bùa chú,trấn yểm ...đầu tiên giỏi tiếng hoa sau đó biết chút tiếng ấn và chút lão giáo với phật giáo . sau đó học tứ trụ (thiệu vĩ hoa ,Tử bình..) , bát quái cửu cung (81 thiên xích) tham khảo Lý Cư Minh . kế đến Ma Y là được rồi. cuối cùng là chu dịch . dù cho bạn giỏi chu dịch tới đâu mà không thông tứ trụ và cửu cung thì cầm cái la bàn như cầm khúc gỗ mà thôi . còn các bác ở trên không thông tứ trụ mới cần tới QUI NHÂN ĐĂNG THIÊN MÔN và ...gì đó mấy cái đó trật lất ah học chi cho uổng . không tin cứ áp dụng thử xem . bác dauvanphung nè không phải lúc nào cũng xài tam hợp và lục hợp đâu nha nói thế người ta cười bảo mình mê tín đấy nhá . thầy tôi có dạy tôi 1 nguyên tắc duy nhất là cân bằng với tự nhiên là tồn tại (tổn hữu dư bổ bất túc ) quá vượng thì phải khắc chế (gọi là tả) quá suy thì bổ . học bao lâu không quan trọng bằng mình có được gì sao bao nhiêu năm đó hay ta chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài của 1 nhà phong thủy đi theo lối mòn rồi sẽ cố chấp -----> 0
    Học làm gì lắm bạn. Chỉ cần tinh thông 1 thứ là được. Mà kể cũng lạ khi bạn xếp chu dịch sau cùng.
    Vũ Hữu Khôi - www.khoi.name.vn

  19. #19

    Mặc định

    học dịch trước là đi mò kim đáy biển đó :D không tin hỏi mấy cao thủ xem

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phamphuongphong Xem Bài Gởi
    ôi giời cái bác dauvanphung này kiến thức uyên thăm nhĩ . nhưng mình cũng có chút kiến thức xin góp ý thế này . muốn giỏi phong thủy,tướng số ,bùa chú,trấn yểm ...đầu tiên giỏi tiếng hoa sau đó biết chút tiếng ấn và chút lão giáo với phật giáo . sau đó học tứ trụ (thiệu vĩ hoa ,Tử bình..) , bát quái cửu cung (81 thiên xích) tham khảo Lý Cư Minh . kế đến Ma Y là được rồi. cuối cùng là chu dịch . dù cho bạn giỏi chu dịch tới đâu mà không thông tứ trụ và cửu cung thì cầm cái la bàn như cầm khúc gỗ mà thôi . còn các bác ở trên không thông tứ trụ mới cần tới QUI NHÂN ĐĂNG THIÊN MÔN và ...gì đó mấy cái đó trật lất ah học chi cho uổng . không tin cứ áp dụng thử xem . bác dauvanphung nè không phải lúc nào cũng xài tam hợp và lục hợp đâu nha nói thế người ta cười bảo mình mê tín đấy nhá . thầy tôi có dạy tôi 1 nguyên tắc duy nhất là cân bằng với tự nhiên là tồn tại (tổn hữu dư bổ bất túc ) quá vượng thì phải khắc chế (gọi là tả) quá suy thì bổ . học bao lâu không quan trọng bằng mình có được gì sao bao nhiêu năm đó hay ta chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài của 1 nhà phong thủy đi theo lối mòn rồi sẽ cố chấp -----> 0
    ây za ây za ... ngộ hỏi nị :
    - Thiên Nguyên Nhất Khí , Địa Nguyên Nhất Khí là gì hà ?
    - Chu kỳ Thái Âm trong tứ trụ là gì hà ?
    - Tứ tung ngũ hành của Thái Thượng Lão Quân áp dụng trong Dương Trạch là gì hà ?
    Last edited by NGHI_PhapSu; 27-02-2012 at 09:23 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 32
    Bài mới gởi: 08-11-2012, 08:16 AM
  2. Ý nghĩa của 64 quẻ và 384 hào
    By Bin571 in forum Dịch Học
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 08-07-2012, 04:04 PM
  3. Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
    By dc_bac in forum Sưu Tập Khác...
    Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 10-08-2011, 12:16 AM
  4. Hỏi về "vị", xác định nguyên khí trong phong thủy
    By phongthuygia1 in forum Hỏi Đáp PT của thành viên
    Trả lời: 25
    Bài mới gởi: 04-08-2011, 02:00 AM
  5. Trích Thiên Tủy (nguồn từ tuvilyso.net)
    By mars_mars in forum Tử Bình, Tướng, Số, Khác...
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 12-05-2011, 02:42 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •