Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 23

Ðề tài: Lúc Niệm Phật Hào Quang Sẽ Tỏa Sáng __(((())))__

  1. #1
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định Lúc Niệm Phật Hào Quang Sẽ Tỏa Sáng __(((())))__

    Hào Quang Tỏa Sáng Khi Niệm Phật






    Có 2 vị Lạt-Ma là Ajo và Reto cùng theo học 1 thầy. Reto là 1 học giả tinh thông Kinh điển, có thể giảng giải, trích dẫn hầu như tất cả sách vở 1 cách dễ dàng, trong khi Ajo chỉ chuyên tâm Lễ Bái và Thiền Định.
    Lạt Ma Reto ghi danh vào Đại Học Drepung, tốt nghiệp thủ khoa, trở nên 1 Pháp Sư nổi tiếng của Tây Tạng, trong khi Lạt Ma Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi.


    Sau nhiều năm không gặp nhau, 1 hôm Pháp Sư Reto có dịp công du qua làng cũ. Nhớ đến người huynh đệ đồng môn, ông ghé lại ngôi chùa xưa thăm hỏi. Gặp nhau cả 2 đều mừng rỡ chuyện trò vui vẻ, Reto bèn hỏi Ajo đã tu học đến đâu. Lạt Ma Ajo thành thật thưa rằng: “Bao năm nay chỉ chuyên tụng 1 bộ Kinh A Di Đà mà thôi”. Pháp Sư Reto lắc đầu than cho chú em quê mùa hủ lậu, Kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ đọc tụng có 1 bộ Kinh tầm thường mà gần như ai cũng biết. Reto bèn giảng giải cho Ajo một hồi về những pháp môn cao siêu cho đến tận khuya mới đi ngủ.


    Vừa chợp mắt ít lâu, ông đã giật mình tỉnh giấc vì thấy ánh sáng ở đâu chói loà cả 1 vùng. Ánh sáng này phát ra từ phía chánh điện ngôi chùa nên ông ngạc nhiên rời trú phòng bước ra xem thế nào.


    Ông thấy Lạt Ma Ajo đang chắp tay đảnh lễ, trì tụng Hồng Danh Đức Phật A Di Đà nhưng quanh ông này hào quang sáng rực cả chánh điện. Ông thấy trong hào quang đó có 1 ao sen lớn bằng các thứ ngọc báu với những lâu đài, dinh thự toàn bằng vàng. Ngoài ra, còn có những giống chim lạ cất tấu lên những điệu nhạc hoà nhã, vi diệu nghe như tiếng giảng Kinh, rồi trời đổ mưa hoa, những bông Mạn Đà La rơi xuống ao báu toả ánh sáng khắp nơi.

    Pháp sư Reto nín thở theo dõi cho đến khi Lạt Ma Ajo trì tụng xong bộ Kinh A Di Đà thì linh ảnh đó mới biến mất. Quá xúc động, Reto vội bước vào hỏi làm sao Ajo lại có được thần thông như vậy. Lạt Ma Ajo cho biết ông không hề có thần thông gì cả mà chỉ chuyên tâm trì tụng 6 chữ Hồng Danh mà thôi.
    Lạt Ma Reto lại hỏi: “Nhưng ta thấy hào quang sáng ngời trong chánh điện mà những linh ảnh lạ lùng. Chắc chắn chú phải có những phương pháp tu luyện gì nữa chứ?”
    Lạt Ma Ajo cho biết không hề áp dụng 1 phương pháp gì ngoài việc gìn giữ Thân-Khẩu-Ý cho thật thanh tịnh, trang nghiêm để trì tụng Hồng Danh Phật A Di Đà mà thôi.
    - Làm sao có thể như vậy được? Như ta đây làu thông Kinh điển, tu tập bao năm nay mà đâu đã có kết quả gì? Lạt Ma Reto thắc mắc.
    - Có lẽ huynh chỉ đọc văn giải nghĩa để thoả mãn trình độ trí thức giỏi biện luận như 1 nhà thông thái mà thiếu hành trì, không chí thành cung kính, đọc Kinh còn nghi ngờ, chỉ trọng về Lý Tánh mà không chuộng sự tu dưỡng Thân-Tâm chăng? Như em đây thì chuyên tâm tin tưởng vào lời khuyên dạy của Chư Phật, tin rằng có cõi Tây Phương Cực Lạc, tin vào Đại Nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài, rồi chí thành nguyện cầu sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc (Tín-Nguyện-Hạnh).


    Pháp Sư Reto bừng tỉnh vội vã chắp tay đảnh lễ người em đã khai ngộ cho mình. Ông trở về Lhassa trình bày sự việc cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, rồi xin từ chức Pháp Sư về nhập thất tu Thiền trong dãy Tuyết Sơn.
    Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền lệnh cho xây 1 ngôi Chùa nguy nga rộng lớn để xứng đáng với công đức tu hành của 1 vị Cao Tăng và phong cho Lạt Ma Ajo chức Hoà Thượng (Rinpoche). Tuy nhiên, Hoà Thượng Ajo không thích việc có 1 ngôi chùa riêng như vậy, ông chỉ muốn tiếp tục sống trong ngôi chùa nhỏ bé nơi thung lũng Chumbi mà thôi. Vị quan trông coi việc xây cất lấy làm lạ bèn hỏi tại sao, thì Ngài cho biết dù chùa cao to đẹp đẽ, dù cung vàng điện ngọc cũng chỉ là hình thức bên ngoài, hữu sinh hữu hoại, nay còn mai mất, không thể so sánh với cảnh giới của cõi Cực Lạc được.
    Sau cùng, người ta đành mời Ngài về trụ trì Chùa Tse Cholin, 1 ngôi chùa lớn trong vùng, vì vị trụ trì tại đây đã qua đời trước đó ít lâu. Hoà Thượng Ajo nhận lời quản trị ngôi chùa này nhưng vẫn tiếp tục sống tại ngôi nhỉ bé cũ gần đó, vì ông biết rằng vị trụ trì Tse Cholin sẽ Hoá Thân trở lại đây trong 1 thời gian không lâu nữa.
    Theo Hoà Thượng Ajo, thì Đức Phật đã chỉ dẫn rất nhiều Pháp môn khác nhau, các đệ tử tuỳ theo căn cơ trình độ lãnh hội mà tu hành được giải thoát. Tuy nhiên vì biết vào thời Mạt Pháp (Kali Yuga), chúng sanh nghiệp sâu, trí mỏng khó có thể trông cậy vào tự lực cá nhân mà giải thoát, nên Đức Phật đã truyền dạy riêng 1 phương pháp giản dị là Pháp môn Niệm Phật cầu Vãng Sanh. Pháp môn này giản dị mà công năng vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì, vì ngay như Đức Di Lặc chỉ còn 1 Kiếp nữa sẽ thành Phật mà Ngày Đêm 6 thời còn đảnh lễ, trì niệm Hồng Danh Chư Phật.


    Theo Hoà Thượng Ajo, thì cách trì tụng Hồng Danh phải đặt căn bản trên sự chí thành, khẩn thiết thì mới được Cảm Ứng. Dù làm đúng các Nghi thức nhưng tâm không thành thì khó có kết quả gì, tóm lại vấn đề trọng yếu vẫn là ở TÂM. Ngài chỉ phương pháp Quán Tưởng, là lúc nào cũng giữ trong Tâm hình ảnh của Đức Phật A Di Đà và cảnh giới cõi Cực Lạc mà trong đó bất cứ thứ gì cũng phát ra hào quang sáng chói, nơi mà tiếng gió thổi, chim hót, lá cây rụng cũng phát ra những Diệu Âm. Ngài cho biết làm sao để lúc Đi-Đứng-Nằm-Ngồi cũng đều chú tâm vào hình ảnh Đức Phật A Di Đà cho đến lúc thật thuần thục, không thấy có mình là Người Niệm Phật và Phật là 1 Vị mà mình đang Niệm, chỉ có 1 ánh sáng vô tận, vô lượng chiếu soi. Niệm đến chỗ Vô Niệm, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn, thì sẽ được cảnh giới bất khả tư nghì.
    Hoà Thượng Ajo cho biết 6 chữ Hồng Danh A Di Đà Phật có 1 oai lực vô cùng rộng lớn với những Mật nghĩa sâu xa, mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cùng tận mà thôi. Phật A Di Đà là Pháp giới tàng thân, bao nhiêu công đức của Chư Phật trong 10 phương pháp giới, nơi 1 Đức Phật A Di Đà đều đầy đủ cả. A Di Đà có nghĩa là nguồn sáng vô tận (Vô Lượng Quang), tuổi thọ vô lượng (Vô Lượng Thọ); hay nói theo nghĩa khác là bao gồm toàn thể không gian (ánh sáng) và thời gian (tuổi thọ) tượng trưng cho chân lý tuyệt đối bất khả tư nghì.
    Trích Đường Mây Qua Xứ Tuyết
    của Lama Anagarika Govinda
    Việt văn của Nguyên Phong


    ( theo duongvecoitinh.com)
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  2. #2
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Cho nên, người niệm Phật với tâm thành kính và tâm thanh tịnh thì thường phát hào quang mà không hay biết. Vì phát hào quang cho nên chúng ma khó lại gần mà nhiễu hại.

    Chính vì lẽ đó, cứ niệm Phật đi thì mọi chướng duyên sẽ qua và oan gia trái chủ không dám lại gần!

    Quan trọng là tinh tấn và dùng tâm thanh tịnh không chút hoài nghi mà niệm. Thời chúng ma tránh xa vạn dặm.
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  3. #3
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    (SỰ) THÀNH TỰU (CỦA) CÔNG ĐỨC (VỀ) QUYẾN THUỘC LÀ DO KỆ RẰNG: “NHƯ LAI TỊNH HOA CHÚNG, HÓA SINH HOA CHÍNH GIÁC”.



    Sinh (vào) thế giới Cực Lạc là do hoa mà sinh [hóa sinh]. Song hóa sinh có nhiều loại, các cõi trời và địa ngục đều là (hóa sinh). Nay hóa sinh này là mượn thai sen mà sinh. Hoa sen có đức tính khác thường, tự bùn ra mà không nhiễm. Quyến thuộc (ở) Cực Lạc hóa sinh như vậy ví cho ý nghĩa từ đời ác năm truợc sinh về (cõi) kia mà không nhiễm, nên gọi là “Như Lai tịnh hoa chúng”. Vì bất kể cả người có tội, như “đái nghiệp vãng sinh” (1), các độc bệnh phiền não của họ đều một lúc lắng xuống hết, như bệnh sốt rét do thuốc thang mà trấn áp xuống. Nên cái “tịnh” của An Dưỡng [quốc] chính là phiền não đã yên rồi mà chưa đoạn. Nghiệp được mang theo về (cõi này) cũng không phát sinh tác dụng (2). Nay chúng tịnh hoa từ đâu mà ra? Thế nào mới được vào thai sen? Chính là con cái của chính giác [Phật] từ hoa sen mà hóa sinh (3), giống như chúng sinh vốn do cha mẹ sinh vậy, nên đều thành quyến thuộc của A Di Đà Phật.

    http://adidaphat.net/Displays/kinhsa...aspx?BookID=31
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  4. #4
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Con người ở trong thế gian chẳng thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử đều là vì vọng niệm gây nên. Nay trong lúc niệm Phật, liền nghĩ như chính mình đã chết, chưa được vãng sanh, trong mỗi một niệm đều gác bỏ tất cả hết thảy tình niệm thế gian ra ngoài. Trừ một câu Phật hiệu ra, không có một niệm nào để được! Làm thế nào để niệm được như thế? Là vì ta đã chết rồi, tất cả hết thảy vọng niệm đều chẳng vướng mắc nữa. Niệm được như thế ắt sẽ có lợi ích lớn lao. Những kẻ tri kiến nhỏ nhoi hiện thời hễ hơi có một chút cảnh giới tốt đẹp bèn tự mãn, tự cho là đủ, tưởng mình đã đắc tam-muội rồi! Hạng người ấy mười người hết chín kẻ đều bị ma dựa phát cuồng vì tâm niệm cách ngăn với Phật, phù hợp với ma, cho nên thành ra như vậy.

    (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 1, Thư trả lời cư sĩ Châu Trọng Hoa - thư thứ 2)
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  5. #5
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Thế nào mới gọi là "Xả"?

    Nếu hiểu Xả có nghĩa là chuyện gì cũng chẳng làm, chỉ chuyên tâm niệm Phật thì đã hiểu sai hoàn toàn ý nghĩa của Xả. Chuyện gì cũng đều làm, lại còn làm tích cực, viên mãn hơn người khác. Tích công, lũy đức, nhưng trong tâm thì thứ gì cũng chẳng có, chỉ có một câu A Di Đà Phật. Trừ Phật hiệu ra, tất cả chấp trước, vướng mắc, lo sầu đều chẳng có. Đấy mới được tính là “xả đến mức rốt ráo”. Cái tâm cầu giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới phải mạnh mẽ tột bậc, chỉ có Tây Phương thế giới, chỉ có một đức Phật A Di Đà. Cổ đức bảo như vậy là “có Tịnh Độ" (1). Sách Diệu Tông Sao chép: “Nếu lấy bỏ đến mức cùng cực thì cũng chẳng khác gì không lấy, không bỏ”.

    (1)
    Đây là từ ngữ “có Tịnh Độ" trong bài Tứ Liệu Giản của tổ Vĩnh Minh Diên Thọ: “Có Thiền, có Tịnh Độ, ví như cọp đội sừng, đời này làm thầy người. Đời sau làm Phật, Tổ. Không Thiền, có Tịnh Độ. Vạn tu, vạn người về, nếu được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ”.
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  6. #6

    Mặc định

    @pucaquynhnga: cảm ơn bạn về topic rất hay

  7. #7
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Kinh Vô Lượng Thọ là một trong 3 bộ kinh cốt yếu lập thành tông Tịnh Ðộ là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Ðà và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Luận này dựa vào kinh Vô Lượng Thọ lập nghĩa nên được gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Luận. Vô Lượng Thọ là hồng danh của Ðức Phậ, tiếng Phạn là AMITABHA, dịch âm là A Di Ðà có nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, nhưng chủ yếu là Vô Lượng Thọ, nên hầu hết các kinh đều dịch Vô Lượng Thọ..


    Chữ Vô có nghĩa là Không, chữ Lượng có nghĩa là số lượng. Riêng về chữ Lượng có 4 loại:


    1. Không gian lượng là chỉ thể tích trong không gian, những vật có chiều rộng, dài, cao chiếm một khoảng trong không gian. Toán Kỷ Hà Học đã tính được lượng này.

    2. Thời lượng: Tính bằng thời gian lấy sát na làm đơn vị đến giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm…gọi là thời lượng.

    3. Trọng lượng: Tính sức nặng đơn vị nó là lượng, cân, ký, tấn…

    4. Số lượng: Tính từ số 1 đế A Tăng Kỳ số. Thế nào gọi là vô lượng? Phàm cái gì có thể dùng lời mà nói được, dùng ý thức có thể suy nghĩ đều thuộc về 4 lượng tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết tất cả tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết tất cả tướng nói năng, lìa hết tướng tâm có thể duyên. Thực mà nói: Dứt cả lời nói, tâm làm đều tịch diệt, tình cảnh không thể nghĩ bàn gọi là Vô Lượng.

    Thọ là sống lâu. Nếu lấy trăm ngàn tuổi tính đến kiếp số của sự thọ mạng, bất cứ cái gì còn tính được đều không thể gọi là vô lượng. Cái gì không thể tính lấy ngôn ngữ, tư tưởng có thể suy gọi là vô lượng.

    VÃNG SANH TỊNH-ÐỘ LUẬN GIẢNG YẾU

    ---o0o---

    Trước tác: Bồ Tát THIÊN THÂN
    Giảng yếu: Ðại Sư THÁI HƯ
    Dịch Việt: HỒNG NHƠN

    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  8. #8
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC

    Thích Huệ Cảnh, người Truy Châu, xuất gia tu ở chùa Ngộ Chân. Sau khi thế phát, Sư gắng công khai giới khổ hạnh. Lòng mến cảnh Tịnh độ, Sư tạo hai tượng Thích ca và Di đà, hằng lễ bái cúng dường.
    Đến lúc sáu mươi bảy tuổi, ngày rằm tháng giêng, Huệ Cảnh nằm mộng thấy một vị Sa môn thân sắc vàng ròng, bảo rằng:
    - Ngươi muốn thấy Phật và cảnh Tịnh độ chăng?
    Đáp:
    - Thưa, từ lâu tôi rất ước mong được chiêm ngưỡng!
    Sa môn trao bát cho và bảo:
    - Hãy nhìn vào trong bát!
    Huệ Cảnh tiếp lấy và nhìn vào, bỗng như lạc đến cõi khác, thấy cảnh Tịnh độ rộng rãi trang nghiêm, các thứ báu đẹp lạ. Đất toàn bằng vàng ròng, đường sá có dây vàng làm ranh giới. Cung điện lầu các trùng điệp không cùng tận, trong đó các thiên đồng vui vẻ nhàn du. Chúng Bồ tát, Thanh văn đông như mây, rộng như biển, hội lại vây quanh đức Thế Tôn nghe thuyết pháp.
    Lúc đó, Huệ Cảnh thấy vị Sa môn đi trước, mình nối gót theo sau, lần tới chỗ Phật. Đến nơi, vị Sa môn bỗng biến mất. Huệ Cảnh chắp tay đứng trước kim dung, bỗng nghe Phật hỏi:
    - Ngươi có biết vị Sa môn dẫn đường đó chăng?
    Đáp:
    - Bạch Thế Tôn! Con không được biết.
    Đấng Từ Tôn bảo:
    - Đó là Phật Thích ca Mâu ni, còn ta là Phật A di đà, hai vị mà người đã tạo tượng. Phật Thích ca như ông cha, ta như bà mẹ, chúng sinh ở thế giới Ta bà như con khờ dại thơ ngây, lầm rớt xuống bùn lầy. Cha vào nơi bùn sâu bồng con lên, để trên bờ cao ráo sạch sẽ, mẹ lại ôm con nuôi nấng, dạy bảo đừng nên trở lại chốn bùn nhơ. Chúng ta cũng như thế. Phật Thích ca dạy dỗ chúng sinh mê tối trược ác ở cõi Ta bà, làm vị mở đường dẫn lối về nơi Tịnh độ. Còn ta ở cõi Tịnh độ còn bổn phận nhiếp hóa, khiến cho các chúng sinh ấy không còn luân hồi thối chuyển.
    Huệ Cảnh nghe nói vui mừng khấp khởi, muốn đến gần tham bái đức Thế Tôn, nhưng cảnh tượng bỗng biến mất.
    Tỉnh giấc, Sư cảm thấy thân tâm an vui, như vào thiền định. Từ đó, Sư càng tin tưởng sự cúng lễ tượng hai đức Như Lai.
    Một hôm, Huệ Cảnh lại mộng thấy vị Sa môn khi trước bảo:
    - Hai mươi năm sau, ngươi sẽ sinh về Tịnh độ.
    Nghe lời ấy, ngày đêm Sư lại thêm tinh tấn tu hành, không khi nào biếng trễ. Đến năm tám mươi chín tuổi, một hôm nọ, Huệ Cảnh từ giã đại chúng, rồi an nhiên vãng sinh. Đang lúc ấy, có vị tăng ở phòng bên, nằm mộng thấy trăm ngàn Thánh chúng từ phương Tây đến rước Sư đi. Trên hư không, tiếng âm nhạc dìu dặt rồi xa nhỏ lần, nhiều người khác cũng được nghe biết.
    (Trích lục: Tân Lục)

    http://tinhdo.net/cacbaivietlienquan...phatadida.html
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  9. #9
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Ấn Quang Đại Sư Dạy:



    Chớ người tu tịnh độ trường trai 24 tháng, niệm Di Ðà đủ 30 vạn câu, người giỏi nữa niệm thêm 30 biến vãng sanh, thời có Phật ở trên đầu phò hộ. Quả vị cao, tòa sen lớn, giữ theo công-quá-cách chừa dữ làm lành. Mỗi tháng nhớ ngày giờ sám hối cầu nguyện. Mỗi ban mai tụng nhựt khóa hoặc thập niệm lúc không rảnh. Thời lâm chung biết ngày giờ Phật sẽ rước mình. Nếu ai làm phước bố thí nhiều, thời không bịnh hoạn, ngồi chắp tay day mặt về hướng Tây mà xuất hồn. Ai có công khuyên độ nhiều người về Cực lạc trước, khi Phật rước hồn, nghe tiếng nhạc hoặc có mùi thơm lạ. Nếu phước lớn, thấy hào quang chiếu sáng. Như vậy làm cho đời thấy nhãn tiền tin chắc tu theo.


    Chừng vãng sanh về Tây phương, học đủ lục thông (6 phép thần thông) làm Phật La Hán, xin phép Phật đi độ ông bà và cha mẹ về Cực lạc để báo ân như Phật La Hán Mục Kiền Liên đi cứu bà mẹ là Thanh Ðề vậy.
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  10. #10
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Trí Không Thể Nghĩ Bàn


    Viết bởi Đàm Loan Đại Sư


    TRÍ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

    Pháp Sư Đàm Loan


    Hành giả nghi rằng: Nhớ niệm Phật A Di Đà, không chắc được vãng sanh về An Lạc.


    Vì sao? Trong kinh nói: "Đạo lý của nghiệp như quả cân bên nào nặng sẽ kéo nghiêng về bên đó".


    Vì sao có người trọn đời, hoặc trăm năm, hoặc 10 năm, hoặc một tháng không có ác nào không tạo, chỉ nhờ có 10 niệm liên tục, liền được vãng sanh, liền vào chánh định tụ, cứu kính không thối chuyển, cùng các khổ của ba đường ác cách xa vĩnh viễn.


    Nếu như thế cái nghĩa phía nặng kéo về làm sao có thể tin. Lại nữa, từ vô lượng kiếp đến nay, tạo đủ các pháp hữu lậu, bị ràng buộc vào ba cõi, vì sao không cắt đứt kiết hoặc của ba cõi, chỉ trong thời gian rất ngắn niệm Phật A Di Đà liền được ra khỏi ba cõi. Như thế nghĩa bị nghiệp trói buộc làm sao giải thích được? Đối trị với điều nghi này nên Phật dạy: Trí không thể nghĩ bàn.


    Trí không thể nghĩ bàn là năng lực của Phật trí. Năng lực này có thể lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy gần làm xa, lấy xa làm gần, lấy nhẹ làm nặng lấy nặng làm nhẹ, lấy dài làm ngắn lấy ngắn làm dài. Phật trí như thế vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Ví như, có trăm người, suốt trăm năm đốn củi, chứa đống cao ngàn trượng, chỉ cần cho một mồi lửa, nửa ngày là cháy sạch. Đâu có thế nói rằng đống củi trăm năm mà đốt nửa ngày không cháy hết.


    Lại như có người què được lên thuyền gặp gió thuận buồm căng, một ngày vượt xa ngàn dặm, đâu có thể nói người què một ngày không đến nơi cách xa ngàn dặm ư! Lại như có một người nghèo hèn, nhặt được vật quý của nhà vua, nhà vua mừng tìm được lại vật cũ, liền thêm trọng thưởng, người ấy chỉ trong khoảnh khắc giàu sang đầy dẫy. Đâu có thể nói người muốn được vua ban phải mười năm đèn sách khó nhọc còn không đạt được, huống hồ người kia chỉ có chút việc mà có được giàu sang như thế.


    Lại có người yếu đuối, gắng sức leo lên con lừa còn không nổi, được lên xe chuyển luân Thánh vương, liền bay trên hư không, bay lượn tự nhiên. Đâu có thể nói người yếu đuối sức leo lên con lừa còn không nổi kia không thể bay được trên hư không ư! Lại như có một sợi dây thừng trói mười dũng sĩ, không làm sao dùng sức thoát khỏi, chỉ cần một đứa trẻ con dùng thanh gươm bén chém một nhát là dây đứt làm hai đoạn.


    Đâu thể nói sức chú nhỏ không thể cắt được sợi dây thừng kia sao? Tất cả muôn pháp đều có tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp. Nghìn mở muôn đóng vô lượng vô biên, đâu có thể đem chỗ hiểu biết có trở ngại của mình mà nghi pháp vô ngại của người kia.


    Lại nữa, trong năm thứ không thể nghĩ bàn, Phật pháp là pháp không thể nghĩ bàn hạng nhất. Chúng ta không thể cho làm ác trăm năm là nặng, lại nghi mười niệm niệm Phật là nhẹ không được vãng sanh về thế giới An Lạc, vào chánh định tụ việc ấy hoàn toàn không đúng.


    http://www.tayphuongtinhdo.com/vs/in...d=49&Itemid=95

    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  11. #11
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Hỏi: Chúng sanh từ vô thỉ đến giờ tạo vô lượng tội; đời nay lúc bé đến già, do không gặp thiện tri thức, lại gây thêm nhiều nghiệp ác. Như thế làm sao lại bảo: "Khi lâm chung mười niệm thành tựu liền được vãng sanh?". Và cái lý "vượt qua kiết nghiệp ba cõi" làm sao giải thích cho thông?




    Đáp: Những nghiệp chủng lành dữ của chúng sanh từ kiếp vô thỉ đến nay, hoặc ít hoặc nhiều, hoặc yếu hoặc mạnh thật ra vẫn khó biết. Nhưng nếu người nào khi lâm chung gặp thiện tri thức và thành tựu mười niệm, tất kẻ ấy đã có túc thiện nghiệp. Nếu chẳng thế thì thiện tri thức còn không được gặp, huống chi là thành tựu mười niệm? Như ông cho rằng ác nghiệp từ vô thỉ là nặng, mười niệm khi lâm chung là nhẹ; tôi xin đem ba đạo lý để giải thích sự vãng sanh ấy không thuộc về trường hợp khinh trọng, không phải tại công hạnh nhiều ít hay thời gian lâu mau. Ba đạo ấy là: Do bởi tâm, do bởi duyên, và do bởi quyết định.



    * Do bởi tâm, là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi vọng niệm điên đảo mà sanh, còn lúc niệm Phật lại từ nơi nghe danh hiệu công đức chân thật của Phật A Di Đà mà khởi; một bên hư một bên thật đâu thể sánh nhau! Ví như một gian thạch thất đóng kín để tối muôn năm, nếu được người mở ra cho ánh sáng mặt trời soi vào, sự tối ấy liền mất; đâu phải vì do tối tăm đã lâu mà không được sáng ư? Người tạo ra tội nhiều kiếp, khi lâm chung thành tựu mười niệm được vãng sanh cũng lại như vậy.



    * Do bởi duyên, là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi vọng niệm tối tăm điên đảo, duyên theo cảnh giới hư huyễn mà sanh; lúc niệm Phật lại từ nơi nghe danh hiệu công đức chân thật thanh tịnh của Phật Di Đà duyên theo Bồ Đề tâm mà khởi. Như thế, một bên chân một bên ngụy, đâu thể sánh nhau! Ví như có người bị trúng tên độc, tên ghim sâu sức độc mạnh, xương thịt nhiễm trọng thương, nếu được nghe tiếng trống thần dược, thì tên tự bắn ra, độc tiêu tan hết; đâu phải vì do tên sâu độc nặng, mà không được an lành ư? Người tạo tội nhiều kiếp, khi lâm chung thành tựu mười niệm mà được vãng sanh cũng lại như vậy.



    * Do bởi quyết định, là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi gián tâm hoặc hậu tâm; lúc lâm chung niệm Phật lại không có hai tâm đó, mà từ nơi một niệm mãnh liệt trì danh rồi xả mạng, nên được siêu thoát. Ví như sợi dây cực to, cả ngàn người bứt không đứt, nếu có đứa bé cầm gươm Thái A mà chém, dây liền đứt đoạn. Lại như đống củi rất lớn chứa góp từ cả ngàn năm, nếu có người dùng một đốm lửa mà đốt, củi liền cháy hết. Và như có người trọn đời tu mười nghiệp lành ưng được sanh về cõi trời, nhưng khi lâm chung kẻ ấy khởi một niệm tà kiến mạnh mẽ, liền bị đọa vào A Tỳ địa ngục. Nghiệp ác vẫn hư vọng, mà do bởi tâm niệm quyết liệt, còn có thể lấn lướt nghiệp lành một đời, khiến cho chúng sanh bị đọa vào ác đạo; huống chi sự niệm Phật là nghiệp lành chân thật, có người khi lâm chung dùng tâm mãnh liệt trì danh, lại không thể lấn áp ác nghiệp từ vô thỉ ư? Cho nên người tạo tội nhiều kiếp, khi lâm chung dùng tâm mãnh liệt thành tựu mười niệm mà không được vãng sanh, quyết không có lý đó!



    Kinh nói: "Chí tâm niệm một câu A Di Đà, sẽ tiêu diệt được tội nặng nơi đường sanh tử trong tám mươi ức kiếp". Sỡ dĩ có sự kiện đó, vì hành giả niệm Phật dùng tâm mãnh liệt nên mới phục diệt được ác nghiệp; nếu khi lâm chung dùng tâm ấy niệm Phật, quyết định sẽ vãng sanh, không còn nghi ngờ chi nữa! Tổ truyền phán định mười niệm khi lâm chung hoàn toàn thuộc về biệt thời ý (ý nói túc nhân). Lý ấy không đúng. Tại sao thế? Vì trong Nhiếp Luận nói: "Nếu chỉ là biệt thời, thì duy phát nguyện, toàn không có hạnh". Tạp Tập Luận nói: "Nếu nguyện vãng sanh về Cực Lạc liền được vãng sanh, nếu nghe danh hiệu Phật Vô Cấu liền chứng được quả Vô Thượng chánh giác, đó mới là biệt thời nhân". Riêng về người khi lâm chung thành tựu mười niệm, là do duyên lành nên được gặp thiện tri thức dạy bảo, lại cũng do tự mình chí tâm thật hành pháp niệm Phật, mới có kết quả; nếu chỉ định cho hoàn toàn thuộc về túc nhân, thật đã sai lầm! Nguyện các hành giả nghĩ sâu lý nầy tự sanh lòng kiên cố đừng tin theo dị kiến ma để lạc lối mê.

    (Trích Tịnh Độ Thập Nghi Luận)
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  12. #12
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Một chủ thể muốn đi đến một điểm nào đó mà không có la bàn chỉ dẫn hoặc không có định hướng cụ thể thì biết đi như thế nào. Do vậy, khi mình quỳ trước tôn tượng Đức Phật A Di Đà và nguyện rằng: “Con nguyện làm tất cả những việc lành, tinh tấn niệm Phật và hồi hướng công đức ấy cho con được về Tây phương cực lạc, tiếp tục tu hành cho đến ngày thành tựu ngôi vị chánh đẳng chánh giác và trở lại hóa độ cõi Diêm Phù Đề, để ai cũng biết, cũng đi tới con đường giải thoát như con”, thì cũng đừng nghĩ là mình tham lam, mình mong cầu. Bởi lời nguyện ấy thực chất là một định hướng để phóng mình đi. Đi đâu? Đi về quốc độ Tây phương cực lạc của Đức Phật A Di Đà.

    (Trích từ http://phathoc.net/phat-phap/tinh-do...ay_phuong.aspx)
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  13. #13

    Mặc định

    pháp môn niệm phật là pháp môn rất viên đốn , tuy nhiên nếu không hiểu đúng ... chỉ ngại còn thua cả tiểu thừa ... hic hic
    Vô vi nhi vô bất vi !

  14. #14

    Mặc định

    Tông chỉ của tông này chỉ gồm trong một bài kệ:

    Thật vì sanh tử
    Phát tâm Bồ đề
    Dùng tín nguyện sâu
    Trì danh Hiệu Phật


    Đơn giản 4 câu mà hành trì cả một đời.
    ..Nam Mô A Di Đa bà Dạ, Đa Tha Dà Đa Dạ...:wave:

  15. #15
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Đức Bổn sư của chúng ta biết rằng: “Nếu chúng sanh chỉ dùng tự lực để liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập Thánh thời rất khó đặng”. Nên ngoài vô lượng pháp môn chỉ thuộc tự lực, Ngài dạy một pháp môn tự lực nương tha lực rất viên đốn, rất huyền diệu, dễ thực hành mà thành công cao, dùng sức ít mà mau có hiệu quả, tất cả căn cơ đều hạp, tất cả Thánh phàm đồng tu. Chính là pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh vậy.

    Đức Phật A-di-đà có thệ nguyện nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật. Nên người dùng tín nguyện mà niệm Phật (tự lực) thời cảm thông với nguyện lực của Phật. Nương nguyện lực của Phật nhiếp thủ (tha lực), liền đặng siêu thoát sanh tử luân hồi mà sanh về Cực lạc Tịnh độ. Đã được vãng sanh tức là cao thăng vào bậc Thánh lưu Bất thối, nên gọi là rất viên đốn, rất huyền diệu và thành công cao.


    Nơi pháp môn này, phương pháp thực hành rất giản tiện, mọi người đều có thể tùy phần tùy sức mà hành đạo. Chỉ cần chỗ tu cho đúng pháp thì chắc chắn sẽ thành tựu, nên gọi là dùng sức ít, dễ thực hành và mau có hiệu quả. Tổ Thiện Đạo cho rằng, nghìn người tu không sót một. Vĩnh Minh đại sư công nhận là mười người tu, được cả mười…


    Với pháp môn Tịnh độ này, không luận là trí hay ngu, không luận là Tăng hay tục, không luận là giàu sang hay nghèo hèn, không luận là già trẻ nam nữ, không luận là sĩ, nông, công, thương… tất cả các giới trong xã hội đều có thể tu tập và thành tựu.


    Văn-thù Bồ-tát nói: “Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.



    Đức Quán Thế Âm bảo: “Tịnh độ pháp môn hơn tất cả hạnh khác”.
    Mã Minh đại sĩ bảo rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng của đức Như Lai”.


    Long Thọ tôn giả nói: “Niệm Phật Tam-muội có đại trí huệ, đại phước đức, hay đoạn trừ tất cả phiền não, hay độ được tất cả chúng sanh. Niệm Phật Tam-muội hay sanh vô lượng Tam-muội, cho đến Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội”.
    Giác Minh Diệu Hạnh Bồ tát nói: “Pháp môn niệm Phật là tâm tông của chư Phật, là con đường giải thoát tắt nhất của mọi loài”.




    Ấn Quang đại sư từng nói: “Vì nương Phật lực nên tất cả mọi người, không kể là nghiệp hoặc nhiều hay ít, cũng không kể công phu hành đạo cạn hay sâu, miễn tin cho chắc, nguyện cho thiết, thời quyết muôn người tu muôn người vãng sanh không sót một. Còn nếu là bậc đã đoạn hoặc chứng chơn mà cầu vãng sanh, thời đốn siêu Thập địa; bậc Thập địa mà cầu sanh thời mau viên Phật quả. Vì thế, nên Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v… các đại Bồ tát đều nguyện vãng sanh. Đến như những kẻ tạo ác cả đời sắp đọa địa ngục, hồi tâm niệm Phật cũng được giải thoát, như các ông Trương Thiện Hòa, Trương Chung Húc, Hùng Thuấn, Duy Cung v.v…”.

    Hạng người phạm tội ác ấy mà còn thành tựu được thay, huống là những người chưa quá ác, huống là những người lành!


    Do đây nên thấy rằng, pháp môn Tịnh độ này nhiếp cả Thánh phàm, nhiếp cả thiện ác, nhiếp cả chúng sanh, như biển lớn gồm thâu muôn dòng vậy.
    Vì pháp môn Tịnh độ với chúng sanh có sự lợi ích rộng lớn như thế, nên muôn kinh vạn luận luôn luôn nhắc đến, chư Thánh chư Hiền đều nguyện cùng về.


    Thật là: “Cửu giới chúng sanh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả. Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp quần sanh”.


    Trong kinh Đại Tập, đức Phật có lời huyền ký:Thời mạt pháp, muôn ức người tu hành, khó có một người được giải thoát. Chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà được thoát khỏi luân hồi”.


    Đó là Phật bảo chúng ta phải tín hướng và thực hành theo pháp môn Tịnh độ này vậy. Chúng ta há chẳng phải là người thời mạt pháp đó ư!
    Vì những lẽ như trên mà biết rằng: Ngoài môn niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, quyết định chúng ta hiện đời không thể siêu sanh thoát tử được. Còn đúng theo pháp môn niệm Phật cầu sanh này mà tu, chắc chắn một đời này chúng ta đặng vãng sanh Cực lạc, và đảm bảo trên đường thành Phật.
    Thế nào là tu đúng pháp?
    Tổng quát rằng: “Thật vì sanh tử phát Bồ đề tâm, dùng tin sâu và nguyện thiết mà chuyên trì hồng danh A-di-đà Phật”. Đây là tông thú chủ chánh của pháp môn Tịnh độ này. Tâm hạnh đúng theo đây gọi là tu đúng pháp.


    Khi được nghe giáo pháp của đức Phật dạy về pháp môn Tịnh độ, chúng ta tự nghĩ rằng: “Cõi Ta-bà là chốn ngũ trược ác thế, Tam giới như là lửa, cõi Dục mà chúng ta hiện ở đây khác nào một cái hố sâu đầy sình. Ta và mọi người cho đến muôn loại, hiện tại cũng như dĩ vãng, nhiều đời nhiều kiếp mang lấy không biết bao nhiêu là sự thống khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Ngày nay, ta được thân người, lại được nghe biết pháp môn giải thoát mau tắt siêu thắng, ta phải kíp quyết chí y pháp tu hành, để mình và mọi người đồng thoát ly sanh tử khổ, đồng chứng chơn thường lạc”. Đây là thật vì sanh tử mà phát Bồ-đề vậy.
    Rồi ta tự nhận rằng: “Thân cùng cảnh ở Ta-bà này đủ điều chướng đạo, như dễ sanh phiền não, dễ đắm nhiễm, dễ gây ác nghiệp. Nội những sự già, bệnh, chết, vô thường thiên biến cũng đủ ngăn trở con đường giải thoát của ta. Còn thân cùng cảnh ở Cực lạc rất là lợi đạo, thường được thấy Phật, luôn nghe pháp âm, nên tâm thanh tịnh và định huệ thành; ở chung với chư đại Bồ tát thượng thiện nhơn thời Thánh nghiệp ngày tăng, chánh hạnh ngày tấn; không già, không bệnh, thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, nên nội một đời, một thân thẳng lên đến bậc Đẳng giác Bổ xứ thành Phật”.
    Ta lại nhận định: “Nguyện lực của đức Từ phụ A-di-đà rộng lớn bất tư nghị. Nay ta đúng theo pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ mà tu, quyết đặng Phật nhiếp thọ, quyết đặng vãng sanh. Đã đặng vãng sanh tức là trụ bậc Bất thối, mau thành Phật đạo. Chỉ có nguyện lực của Phật là chiếc thuyền từ có thể đưa ta ra khỏi biển khổ thôi. Chỉ có cõi Cực lạc là Đại học đường có thể đem ta đến bờ Đại giác”.
    Tự nhận như thế rồi, bền chặt một lòng nguyện thoát ly Ta bà ác trược, như người tù muốn ra khỏi ngục tối không chút quyến luyến; nguyện về Cực lạc thanh tịnh, dường như trẻ thơ đi lạc mong mỏi được về nhà không chút dần dà.
    Nhận định như vậy, lập nguyện như vậy, đó là “Tin sâu cùng nguyện thiết”.
    Bắt đầu từ đây cho đến trọn đời, tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh, tùy sức tùy phần, chí tâm trì niệm sáu chữ hồng danh Nam mô A-di-đà Phật, coi đó như một công vụ hết sức khẩn yếu phải tận lực mà làm. Nếu là người rảnh rang vô sự thì ngày cũng như đêm, lúc đi đứng cũng như lúc ngồi nằm, giữ chặt chánh niệm. Phật không rời tâm, tâm không rời Phật. Hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, nhiếp cả sáu căn, Phật hiệu nối luôn. Đây là tương tục chấp trì. Niệm như vậy lâu ngày sẽ tự chứng Tam muội: Hiện tiền thấy Phật thọ ký, lâm chung cao thăng Thượng phẩm. Còn nếu là người đa đoan công việc, như việc nước, việc nhà v.v... không nhiều giờ rảnh, thời nên tối và sáng sớm, thực hành phương pháp “Thập niệm”, giữ mãi trọn đời không sót, không bỏ cũng được vãng sanh. Vì đức Từ phụ có bổn nguyện: “Chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu tôi rồi chí tâm tin muốn, nguyện sanh về cõi nước tôi nhẫn đến mười niệm mà không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác”.
    Ngoài ra, những người nào ở vào trường hợp chặng giữa, thời châm chước phân thời định khóa mà thọ trì. Tất cả đều phải cung kính, chí tâm, kỹ chắc trong lúc trì niệm, là điều kiện khẩn yếu. Hành trì như vậy gọi là chuyên trì hồng danh A-di-đà Phật, và đây là chánh hạnh.
    Người niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc còn cần phải làm những điều lành, như có lòng từ bi, giới sát hộ sanh, bố thí cứu tế, trì trai, giữ giới, hiếu thảo cha mẹ, kính thờ sư trưởng, phò trì Tam bảo, lợi mình lợi người, dẹp lòng ngã mạn tham sân, thêm lớn hòa vui nhẫn nhục, tin sâu nhơn quả, mở mang chánh kiến… dùng đây làm trợ hạnh.
    Tín nguyện đã có, chánh trợ đã đủ, đến lúc lâm chung, chắc chắn được đức Từ phụ cùng Thánh chúng thừa bổn nguyện lực, đích thân đến tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.
    Tín, Nguyện và Hạnh phải được cả ba mới được vãng sanh, như cái đảnh ba chân, thiếu một thời ngã. Nhưng nên hiểu thêm rằng: “Được vãng sanh là do lòng tin sâu chắc, chí nguyện tha thiết để cảm thông với nguyện lực của Phật”. Còn nơi công hạnh ít thời quả thấp, nhiều thời phẩm cao. Do vì công hạnh không hạn cuộc mà chú trọng nơi tín và nguyện như vậy, nên đoạn trước có nói, tất cả người trong tất cả các giới ở xã hội đều có thể thực hành và đều có thể thành tựu được cả. Vì tin sâu và nguyện thiết, hạng người nào cũng có thể lập được; thập niệm niệm Phật, ở trường hợp nào cũng đều thực hành được.
    Theo: Tạp chí DPNN
    http://phathoc.net/phat-phap/tinh-do...a_nhu_lai.aspx
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  16. #16
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định



    6.- Hỏi: Hàng cụ phược phàm phu được sanh về cõi Cực Lạc, giả sử phiền não ác kiến thường nổi lên, thì làm sao được gọi là: "vượt hơn ba cõi, lên ngôi bất thối?"




    Ðáp: Người được sanh về Tây Phương, dù là hàng cụ phược phàm phu, cũng không khi nàokhởi phiền não ác kiến và không được lên ngôi bất thối; bởi có năm nhân duyên:



    a. Do nguyện lực đại bi của Phật nhiếp trì.


    b. Ánh sáng của Phật thường soi đến thân, nên lòng Bồ Đề của chư thiên nhơn luôn luôn tăng tiến.


    c. Chim, nước, rừng, cây gió, âm nhạc thường phát ra tiếng pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã; hành giả nghe rồi sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.


    d. Chúng sanh được sanh về Cực Lạc, thì bạn lành toàn là bậc Bồ Tát thượng thiện, tuyệt tất cả chướng nạn, ác duyên, lại không ngoại đạo tà ma, nên tâm thường an tịnh.


    e. Đã được sanh về cõi ấy thì thọ lượng vô cùng, đồng với Phật và Bồ Tát, an nhiên tu tập trải qua vô biên A tăng kỳ kiếp.


    Do năm nhân duyên trên nên chúng sanh sanh về Cực Lạc tất được bất thối chuyển và không khi nào khởi phiền não ác kiến. Còn chúng hữu tình ở cõi ác trược nầy, thọ số ngắn ngủi, ác duyên chướng nạn dẫy đầy, nên rất khó được bất thối chuyển, lý ấy đã hiển nhiên, không còn chi phải nghi ngờ.



    (Tịnh Độ Thập Nghi Luận)
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  17. #17

    Mặc định

    Phát hào quang là chuyện rất bình thường .Lúc trước LL từng được 1 người dùng tư tưởng phóng đến tâm và đọc suy nghĩ thâý xung quanh người LL phát hào quang ra .
    Tâm không vạn sự đều không,
    Tâm chơn vạn Pháp cũng đều quy chơn...

  18. #18
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Lưu Ly Xem Bài Gởi
    Phát hào quang là chuyện rất bình thường .Lúc trước LL từng được 1 người dùng tư tưởng phóng đến tâm và đọc suy nghĩ thâý xung quanh người LL phát hào quang ra .
    Ừ, người niệm Phật phát hào quang nhưng mắt thường khó mà nhìn thấy được. Chỉ trừ một số trường hợp đặc biệt.

    Người niệm Phật, ma quỷ không dám lại gần.
    Cũng như những người có tư tưởng đen tối, tà tâm thì khế hợp với ma, cho nên hay bị quấy phá.

    Một số trường hợp là do nghiệp.
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  19. #19
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    SỰ CHUYÊN NHẤT VÀ TÂM ÁI?


    Phàm niệm Phật chính là làm cho cái tâm của mình chuyên nhất. Cần phải khẩn thiết trì danh, chuyên tâm bất loạn. Còn như có chí nguyện mà không thường niệm, niệm nhưng không chuyên nhất, thì chẳng khác nào bị tình ái dẫn đi. Hễ làm cho tâm ái nhẹ đi tức là loại trừ được vọng tưởng, chặt đứt được tình căn, thoát ra khỏi lưới Ái. Còn như niệm nhưng không thể quên, quên nhưng không quên hết, thì chẳng khác nào tâm không được chuyên nhất. Ta bà còn một niệm Ái nặng, thì khi lâm chung bị niệm Ái này dẫn dắt, huống gì là nhiều tâm Ái ư? Cực Lạc còn một niệm không chuyên nhất, thì khi lâm chung bị niệm này lưu chuyển, huống gì còn nhiều niệm ư?
    Ái có nhẹ, có nặng, có mỏng, có dày, có chánh báo, có y báo. Đơn cử trước mắt như: Cha mẹ, vợ con, anh em bè bạn, công danh phú quý, văn chương thi phú, đạo thuật nghề nghiệp, ăn uống, áo quần, nhà cửa vườn ruộng, suối rừng hoa cỏ, của cải bạc vàng, nhiều không kể xiết. Hễ còn nhớ nghĩ một vật tức là còn tâm Ái tức niệm không chuyên nhất. Hễ còn một niệm không chuyên nhất thì không được vãng sanh. Ôi! Hai câu Ái không nặng thì không sanh Tà bà, niệm không nhất thì không sanh Cực Lạc” thật là kim vàng chữa bịnh mờ mắt, là Thánh dược trị bịnh nan y. Nhưng người có chí nguyện cầu sanh Cực Lạc, nên viết trên vách, khắc trong xương, ngày ngày cung kính đọc tụng, niệm niệm cần phải khắc ghi. Ái của Ta bà ngày càng nhẹ, niệm của Cực Lạc ngày một chuyên, thì đó lại đã nhẹ lại càng nhẹ hơn để đạt đến vô niệm; đã chuyên nhất lại càng chuyên nhất để đạt dần đến chỗ cùng tột. Dù chưa ra khỏi Uế độ nhưng không phải là khách ở mãi trong Ta bà, tuy chưa sanh trong Bảo sở nhưng đã là tân khách ở Cực Lạc. Lâm chung chánh niệm hiện tiền thì chắc chắn vãng sanh Cực Lạc.

    Có người hỏi rằng: Phải chăng là làm cho Ái được nhẹ?

    Đáp: Làm cho Ái được nhẹ đâu bằng làm cho niệm chuyên nhất.

    Hỏi: Vậy thì làm cho niệm chuyên nhất là đúng ư?

    Đáp: Làm cho niệm chuyên nhất đâu bằng làm cho Ái được nhẹ.

    Có người mỉa mai rằng: Sư nói kiểu chuột có hai đầu, người học không biết phải theo đầu nào mới đúng đây.

    Sư đáp: Đó không phải là hai đầu, mà muốn nói đến Nhất niệm. Bởi vì, sở dĩ niệm không chuyên nhất là do tán tâm chạy theo duyên mà ra. Tán tâm chạy theo duyên là do loạn tưởng chạy theo cảnh mà có. Ta bà có một cảnh thì chúng sanh có một tâm, chúng sanh có một tâm thì Ta bà có một cảnh. Muôn duyên náo động bên trong nên rong ruổi tìm cầu ở bên ngoài. Tâm và cảnh theo nhau, thì Ái giống như trần sa. Cho nên muốn làm nhẹ tâm Ái đó thì gì bằng đoạn cái tâm duyên theo cảnh đó. Muôn cảnh đều định, vạn duyên đều tịnh thì Nhất niệm tự thành. Nhất niệm mà thành thì Ái duyên đều đứt. Cho nên nói: “Muốn làm chuyên nhất cái niệm của mình thì không gì hơn làm nhẹ cái tâm Ái của mình. Muốn làm nhẹ tâm Ái của mình thì không gì hơn làm chuyên nhất cái niệm. Cái thế của Ái và Niệm không cùng tồn tại, giống như tướng sáng và tối đối nghịch nhau”.




    Trích từ “Tịnh Độ Tùng Thư” của Đại sư U Khê
    Việt dịch: Đồng Ngộ
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  20. #20
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Đức Phật Vô Lượng Quang và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài

    Một tâm đầy đủ niềm tin nơi Đức Phật Vô Lượng Quang
    Thì chắc chắn tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc siêu phàm.
    Một tâm tỉnh thức với những phẩm tính-Phật
    Đều được hợp nhất với Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, bất kể nó ở đâu.


    Vũ trụ học đạo Phật chứa đựng vô số hệ thống thế giới bao la không thể tưởng vượt khỏi thế gian của chúng ta. Bên ngoài thế giới phàm tục, sáu cõi của luân hồi, hiện hữu vô số cõi tịnh độ trải rộng khắp mười phương của vũ trụ (tám điểm chính của la bàn, điểm cao nhất, và điểm thấp nhất). Những thiên đường thanh tịnh này là nơi an trụ của những đấng cao cả, bao gồm chư Phật và các đại bồ tát của cõi trời.

    Giữa vô số cõi tịnh độ này, một số đặc biệt quan trọng, bao gồm cõi tịnh độ của Phật Vairochana, Vajrasattva, Avalokiteshvara, Tara, Maitreya, và Guru Padmasambhava. Cõi tốt nhất được biết là Sukhavati, Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, tọa lạc ở hướng Tây, vượt trên rất nhiều vũ trụ. Thế giới lý tưởng này là nơi an trụ của Đức Phật Vô Lượng Quang, Ngài chủ trì trên vô số người tìm cầu giác ngộ, tu khổ hạnh, và những đệ tử khác. Vì ánh sáng thân Ngài tràn đầy mọi cõi Phật tịnh độ khác không chướng ngại, danh hiệu Ngài là Amitabha trong tiếng Phạn, có nghĩa Vô Lượng Quang.

    Amitabha là trọng tâm của truyền thống sùng kính được biết như Cõi Tịnh Độ của Phật giáo trở nên rất phổ biến ở Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật bản. Ở Tây Tạng, Cõi Tịnh Độ Cực Lạc là đối tượng yêu thích của cầu nguyện và thiền quán, nhất là trong những nghi lễ cho người chết. Trong sutra, Đức Phật lịch sử, Thích Ca Mâu Ni, cam đoan với người sùng mộ rằng đây là tịnh dộ dễ dàng nhấtđể tái sanh, và là nơi hoan hỷ, hùng mạnh nhất để nâng cao đến giác ngộ. Bất kỳ ai thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc sẽ đạt được toàn giác, tối thiểu trong một kiếp, vì những phẩm tính của tịnh độ này, sự ban phước của Đức Phật Vô Lượng Quang, và công đức của chính họ.


    (viengiac.de)
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 162
    Bài mới gởi: 24-06-2012, 10:16 PM
  2. Ba bậc vãng sanh (bực thượng)
    By bachliencu in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 19-02-2012, 05:14 PM
  3. 48 Lời Nguyện của Đức Phật A Di Đà
    By ductri16580 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 25
    Bài mới gởi: 03-12-2011, 11:48 PM
  4. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM
  5. NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG -PHÁP MÔN THIỀN-TỊNH
    By linh_tinh_85 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 22-02-2011, 08:47 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •