Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 22

Ðề tài: Đạt ma quán tâm luận, huyết mạch luận

  1. #1

    Mặc định Đạt ma quán tâm luận, huyết mạch luận



    Huyết mạch luận




    Những gì khởi lên trong ba cõi tam đồ này đều từ do tâm mà ra. Vì vậy những vị Phật đời trước và đời sau này đều lấy tâm để truyền tâm, mà không dùng đến ngôn từ để diễn giảng.




    Nhưng nếu không dùng ngôn từ, làm sao biết được tâm là gì?


    Ngươi hỏi, đó là tâm của ngươi. Ta trả lời, đó là tâm của ta. Nếu ta không có tâm, làm sao trả lời được? Nếu ngươi không có tâm, làm sao hỏi được? Cái gì làm cho ngươi hỏi đó là tâm. Qua vô lượng a tăng tì kiếp từ vô thủy đến nay, bất cứ ngươi làm gì, bất cứ ngươi ở đâu, cũng là do cái gốc tâm của ngươi (bản tâm), do gốc phật trong ngươi (bản phật). Tâm này tức là Phật vậy. Ngoài tâm này sẽ không thể tìm thấy Phật được. Ði tìm sự giác ngộ hay Niết bàn ở ngoài tâm là chuyện không thể có được. Cái sự hiện hữu của tự tánh chân thật, không nhân, không quả, đó là ý nghĩa của tâm vậy. Tâm là Niết bàn. Nếu ngươi nghĩ rằng có thể lìa tâm mà giác ngộ hay chứng được Phật ở ngoài, thì không làm gì có điều đó được.


    Cố công đi tìm Phật hay sự giác ngộ ở ngoài tâm cũng giống như muốn nắm giữ lấy không gian vậy. Không gian có tên nhưng không có tướng-- không thể bắt lấy hay buông ra được -- không phải là một cái gì có thể nắm giữ được. Cũng vậy lìa tâm sẽ không thể thấy được Phật. Phật là do tâm tạo thành. Sao lìa tâm mà đi tìm Phật được?


    Phật trong quá khứ và tương lai đều chỉ nói về tâm. Tâm là phật, và phật là tâm. Ngoài tâm không có phật, ngoài phật không có tâm. Nếu nói rằng phật ở ngoài tâm, vậy phật ở đâu? Nếu đã không có phật ngoài tâm, sao lại còn phải vọng tưởng đến phật nào? Chừng nào ngươi còn bị lôi cuốn bởi những giả tướng ,còn bưng bít u mê thì còn chưa được giải thoát. Phật không có lầm lỗi, Nhưng chúng sanh lại si mê không biết đến phật ngay ở tâm mình. Nếu không họ đã chẳng đi tìm phật ở ngoài tâm.


    Phật không cứu độ cho Phật. Nếu dùng tâm để đi tìm phật, ngươi sẽ không thấy được phật. Chừng nào ngươi còn đi tìm phật ở một nơi chốn nào ngoài tâm, ngươi sẽ chẳng thấy được phật chính là tâm. Ðừng lấy phật để cầu phật. Và cũng đừng lấy phật để niệm phật. Phật không tụng kinh -- phật không giữ giới -- và phật không phá giới. Phật không giữ, cũng không phạm -- không làm thiện, cũng không làm ác.


    Muốn tìm Phật, phải thấy tánh của mình. Kiến tánh tức là phật. Nếu không thấy tánh, dù có tụng kinh, niệm phật, trì giới, cúng dường, tất cả cũng đều vô ích. Niệm phật sẽ được quả lành, tụng kinh được trí tuệ, trì giới được tái sinh lên cõi an lành, và cúng dường sẽ được nhiều phước báu.. nhưng không đạt được quả phật.


    Nếu tự mình không thấu hiểu được, phải tìm thiện tri thức để được khai ngộ cho biết căn nguyên của sự sinh tử. Nhưng chỉ người nào đã kiến tánh mới có thể gọi là thiện tri thức được. Nếu không, dù cho có thuộc cả 12 bộ kinh, họ cũng chưa thoát được sinh tử luân hồi. Họ vẫn phải chịu đau khổ trong ba cõi tam đồ mà không có hi vọng gì được giải thoát.


    Xưa kia, có thầy Thiện Tinh thuộc lầu cả 12 bộ kinh, nhưng vì không thấy được tánh nên ông vẫn không thoát được luân hồi sinh tử. Thiện Tinh thời xưa đã như vậy, huống gì người đời nay chỉ thuộc được vài ba bộ kinh đã cho là mình thông hiểu phật pháp thì thật là ngu muội. Không thấy tánh, có tụng bao nhiêu kinh cũng là vô ích.


    Muốn tìm phật chỉ cần thấy được Tánh của mình. Tánh tức là Phật. Phật là người tự tại, vô sự, vô tác. Nếu không thấy tánh nơi mình mà cứ mải mông lung tìm kiếm ở ngoài, sẽ chẳng bao giờ thấy được phật. Sự thực là, không có cái gì để tìm kiếm cả. Nhưng muốn hiểu được điều đó cần phải có thầy khai thị cho và tự mình phải nỗ lực công phu để đạt lý. Chuyện sinh tử là quan trọng. Ðừng sống cuộc đời đau khổ một cách vô ích. Nhắm mắt tự phỉnh gạt mình không có lợi gì. Ví như có cả một núi vàng ngọc châu báu và kẻ hầu người hạ nhiều như cát sông Hằng, thì cũng phải mở mắt ra mới thấy được. Còn nếu nhắm mắt lại thì có thấy gì đâu? Bởi vậy, phải biết là những gì hiện ra trước mắt chỉ là mộng ảo.


    Nếu không sớm tìm thầy học đạo, ngươi sẽ sống đời sống này một cách uổng phí vô ích. Con người ta thật sự là có sẵn phật tính, nhưng nếu không có thầy khai thị cho sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó. Trong cả triệu người đã giác ngộ, họa may chỉ có được một người là không nhờ đến thầy.


    Nếu vì những cơ duyên nào sẵn có mà có người thông hiểu được ý Phật, người ấy sẽ không cần có thầy. Họ đã có một trí tuệ tự nhiên vượt lên trên cả những giáo lý kinh điển. Còn nếu không có phước được như vậy , phải nỗ lực tu tập, và nhờ phương tiện giáo hóa để được khai ngộ.


    Có những kẻ không hiểu biết gì, không học hỏi lại tưởng mình tinh thông, thật chẳng khác đám người u mê không biết phân biệt đen trắng là gì. Ðem Phật pháp ra diễn giảng càn, họ làm như vậy là phỉ báng Ðức Phật và làm ô danh đạo pháp. Những người ấy nói pháp như mưa. Nhưng những lời họ nói là lời nói của ma, không phải của Phật. Thầy của họ là Ma vương, đệ tử của họ là ma dân. Những kẻ si mê đi tin theo những lời giảng như vậy sẽ chỉ chìm đắm sâu hơn vào biển sinh tử luân hồi.


    Trừ khi họ thấy Tánh của mình, làm sao những người đó tự gọi mình là Phật (là giác) được? Họ là những kẻ láo lếu lường gạt người khác đi vào con đường mê của ma giới. Nếu không thấy được tự tánh, có giảng cả 12 bộ kinh cũng vẫn chỉ là những lời nói của ma. Họ là tay sai của Ma vương, không phải là đệ tử của Phật. Không biết phân biệt trắng đen, làm sao họ có thể thoát vòng sinh tử được?

    Người nào thấy được Tánh tức là phật; không thấy được Tánh là chúng sanh. Nhưng nếu cho là tánh phật xa cách hẳn với tánh chúng sanh, vậy thì nó ỏ đâu? Tánh chúng sanh của chúng ta chính là tánh phật. Lìa tánh này ra không thể có phật được. Phật tức là tánh. Không có phật nào ở ngoài tánh, Và không có tánh nào ở ngoài phật.




    Nhưng nếu không thấy tánh, có thể nào đắc đạo bằng cách tụng kinh, niêm phật, cúng dường, tinh tấn, trì giới, hay làm việc phước thiện được không?


    Không thể được.


    Vì sao?


    Vì nếu có đắc được gì thì đó cũng chỉ là pháp hữu vi, còn thọ báo, nhân quả, còn ở trong vòng luân hồi; chừng nào còn phải chịu sự chi phối của sinh và tử, thì sẽ không thể thành phật được. Trừ khi ngộ được tự tánh, có nói gì về nhân quả cũng chỉ là những pháp ngoại đạo (hướng ra ngoài tìm đạo). Phật không tập những pháp ngoại đạo. Phật là người không còn nghiệp, không còn nhân quả. Nếu nói là người ấy đã đắc thành cái gì thì cũng như là đã phỉ báng phật. Có cái gì để đắc thành ? Phật không nhắm vào sở đắc nào của một tâm, một quyền năng, một lý giải , hay một tri kiến. Phật không có đối đãi. Bản chất của tâm phật vốn là không, không nhơ cũng không sạch. Phật không tu cũng không chứng. Phật không nhân cũng không quả.


    Phật không giữ giới. Không làm thiện hay làm ác. Phật không siêng năng cũng không biếng nhác. Phật là người vô tác, không làm gì kể cả hướng tâm về nơi phật. Phật chẳng phải là phật. Ðừng nghĩ gì về phật . Nếu ngươi không hiểu được ý này, người sẽ không thể biết rõ được tâm mình.


    Có những người không thấy tánh mà tưởng rằng mình có thể đạt được sự vô tác trong mọi lúc có tâm niệm rỗng không là những kẻ nói láo và ngông cuồng. Họ rơi vào trong vô ký. Như người say rượu, họ không biết được đâu là tốt đâu là xấu. Muốn vô tác, trước hết phải thấy tánh rồi sẽ dứt được mọi suy luận. Không thấy tánh, không thể nào thành phật đạo . Có những kẻ bác bỏ nhân quả, gây đủ mọi tội ác. Họ lý luận rằng tất cả vốn là không nên có làm điều ác cũng không có gì xấu. Những người như vậy sẽ phải đọa vào địa ngục tối tăm vô tận, không thể thoát ra được. Người có trí tuệ không có kiến giải như vậy.



    Nhưng nếu những động tác, hành động trong mọi lúc đều là do bản tâm, sao tôi không thấy được bản tâm khi sắc thân này không còn nữa?


    Bản tâm luôn luôn hiện tiền. Người không thấy đó thôi.


    Nhưng nếu tâm hiện tiền, sao tôi không thấy được?


    Ngươi có nằm mơ không?


    Dĩ nhiên là có.


    Khi ngươi nằm mơ, người trong mộng đó có phải là ngươi không?


    Có, thật là tôi.


    Và những gì ngươi làm và nói trong đó có khác với ngươi không?


    Không khác.


    Nếu không khác thì cái thân ấy chính là thể tánh chân thật, tức là pháp thân của ngươi. Và pháp thân ấy chính là bản tâm của ngươi. Tâm ấy, từ vô thủy, qua bao vô số kiếp vẫn không hề thay đổi. Nó không có sống chết, không sinh không tử, không thêm cũng không bớt. Nó không sạch cũng không nhơ, không có thiện ác, không có quá khứ hay tương lai. Nó không phải cũng không trái, không nam cũng không nữ, không hiện tướng tu sĩ hay cư sĩ, già hay trẻ, thánh hay phàm, phật hay chúng sanh. Nó không cần phải làm gì để chứng ngộ và nó không mang nghiệp quả. Nó không có sức lực hay tướng mạo. Nó giống như hư không, không giữ lấy được cũng không thể bỏ đi được, núi, sông, tường đá không ngăn trở được; năng lực thần thông tự tại của nó có thể xuyên qua núi ngũ uẩn, vượt khỏi giòng sông của tử sanh. Pháp thân này không ở trong vòng kiềm tỏa của nghiệp quả. Nhưng tâm này thật là vi diệu khó thấy được. Nó không giống như cái sắc tâm bình thường. Ai cũng muốn thấy được tâm này, và con người từ trong ánh sáng quang minh của tâm ấy mà hành động, vận chuyển chân tay, sự ứng dụng nhiều như Hằng hà sa số, nhưng khi hỏi tới thì không ai biết được. Thật chẳng khác gì như những hình nhân, thường thọ dụng tâm mình mà không hề thấy biết nó.


    Ðức Phật nói chúng sanh si mê nên tạo nghiệp mà rơi vào trong giòng sông sinh tử vô tận. Và khi họ muốn thoát ra, họ lại chìm đắm sâu hơn. Ðó là bởi vì họ không thấy được tánh của mình. Nếu không mê, sao lại đi hỏi chuyện ở ngay trước mắt mình? Chân bước, tay cử động mà không hiểu vì đâu. Chúng sanh si mê không tự biết mình. Nhưng Phật thì không sai lầm. Chỉ có Phật, và không ai khác mới có thể thấu hiểu được một điều sâu xa khôn lường như vậy. Chỉ có thánh nhân mới biết được tâm này, còn gọi là tâm pháp tánh, tâm giải thoát. Không có sự sống nào, sự chết nào có thể giới hạn được tâm này. Không một cái gì có thể giới hạn nó được, cho nên mới gọi là Tự tại vương Như lai, là Bất tư nghì, là Thánh thể, là Trường sanh Bất tử, là Ðại tiên. Nhiều tên gọi khác nhau nhưng bản chất chỉ là một. Phật và thánh nhân cũng có nhiều loại, nhưng tất cả đều không ai xa rời tự tâm.


    Khả năng của tâm là vô hạn, và sự ứng dụng của tâm là không cùng. Mắt trông thấy hình tướng, tai nghe tiếng động, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm các vị, mọi động tác hay trạng thái đều từ tâm mà ứng dụng vào. Và khi tới chỗ không còn lời gì để nói, bất cứ lúc nào, thì đó chính là tự tâm hiển hiện vậy.


    Kinh nói: "Sắc tướng như lai là không cùng. Tánh giác như lai cũng như vậy." Sự biến hóa của mọi sắc tướng là do tự tâm mà ra. Cái khả năng của tâm thức phân biệt được mọi vật, trong bất kỳ mọi hình thái hay mọi động tác nào, là cái tánh giác của tâm. Nhưng tâm không có hình tướng và tánh giác của nó là không cùng. Vì thế mới nói là: "Sắc tướng như lai là không cùng. Tánh giác như lai cũng như vậy."


    Sắc thân tứ đại là phiền não. Xác thân vật chất là có sanh tử. Nhưng pháp thân của chúng ta là luôn luôn thường trú, mà không trú ở đâu cả, vì pháp thân như lai không bao giờ thay đổi. Kinh nói rằng: "Chúng sanh phải nhận ra rằng phật tánh luôn luôn có sẵn nơi họ." Nhưng chỉ có Ka diếp mới ngộ được điều đó.


    Bản tánh tức là tâm. Và tâm tức là tánh. Tánh này cũng giống như tâm của chư phật. Ngoài tâm này không thể ngộ được phật. Nhưng chúng sanh điên đảo lại không biết tự tâm mình là phật. Họ cứ mải tìm kiếm bên ngoài, không ngừng khấn cầu, lễ lậy phật, phật tại nơi đâu? Ðừng nên có cái kiến chấp như vậy. Chỉ cần biết được tự tâm của mình. Ngoài tự tâm ra, quyết không có phật nào khác. Kinh nói rằng: " Phàm cái gì có hình tướng cũng đều là hư vọng." Lại nói rằng, "Ta ở đâu tức là phật có ở đó." Tâm ta chính là phật. Ðừng đem phật mà lễ lậy phật.


    Ngay cả khi nào có một vị phật hay bồ tát hiện tướng ngay trước mặt, cũng không nên kính cẩn lễ lậy. Tâm ta vốn rỗng không, không hề có hình tướng như vậy. Người nào chấp vào những hình tướng như vậy là đi vào con đường của tà ma. Sao lại đi lễ lậy những ảo tưởng do chính tâm mình dấy khởi lên? Lễ lậy như vậy tức là không biết, mà biết thì không lễ lậy. Càu khẩn lễ lậy là đã bị ma lực chi phối. Sợ ngươi không biết đến điều đó nên ta phải chỉ rõ ra nơi đây. Cái bản tánh như lai không có hình tướng như vậy. Hãy ghi nhớ điều đó, để khi thấy tướng lạ không bị mắc vào đó mà kính nể, sợ sệt, phải tin tưởng không nghi ngờ rằng tâm mình vốn tự là thanh tịnh, làm sao có thể có những sắc tướng như vậy được? Cho dù có sự hiển hiện của những loài thiên long, dạ xoa, quỷ thần, đế thích, phạm vương, cũng không nên mang một ý tưởng kính trọng hay sợ hãi nào trong tâm. Tâm ta vốn tự nó là không lặng. Mọi hình tướng đều là hư vọng. Ðừng chấp thủ vào hình tướng.


    Nếu có khởi lên những vọng cầu được thấy phật, thấy pháp, thấy bồ tát mà đem lòng kính trọng đối với họ, thì đó là đã đặt mình vào cõi giới của chúng sanh. Còn nếu muốn ngộ được đạo , thì đừng chấp thủ vào bất cứ một hiện tướng nào. Ta không còn lời khuyên nào khác. Kinh nói rằng: "Mọi hiện tướng đều là hư vọng. Chúng không có hiện hữu lâu dài, không có thực thể nhất định, và chúng là vô thường. Ðừng chấp vào hình tướng thì sẽ hiểu được ý phật." Kinh lại nói rằng: "Lìa tất cả mọi tướng ấy là phật."



    Nhưng tại sao chúng ta lại không nên lễ lậy chư phật và bồ tát?


    Các loài thiên ma ba tuần, loài a tu la có năng lực thần thông, có thể biến hóa ra đủ loại tướng bồ tát. Nhưng tất cả đều là giả, không có phật ở trong đó. Phật chính là tâm mình. Ðừng lễ lậy vào nơi sai lạc.


    Phật là tiếng phạn, có nghĩa là tánh giác, là linh giác. Những tiếp xúc, cảm nhận, nhướng mày, chớp mắt, cử động chân tay, thẩy đều do linh giác ứng vào. Và tánh tức là tâm. Tâm tức là phật. Phật tức là Ðạo. Ðạo tức là Thiền. Nhưng nói đến chữ Thiền, cả thánh lẫn phàm nhân cũng đều khó suy lường được. Thấy tánh tức là thiền. Không thấy tánh, tức không phải thiền.


    Dù cho có tài biện luận, thuyết giảng cả ngàn bộ kinh, mà không thấy được tánh cũng chỉ là những lời giảng của một phàm nhân, không phải của phật. Ðạo cả thâm sâu, không thể dùng ngôn từ để diễn đạt. Giáo lý kinh điển dựa vào đâu để nói? Nhưng nếu có người kiến tánh thấy được Ðạo, dù cho họ có không biết đọc chữ nào, cũng vẫn là phật. Thân phật vốn sẵn thanh tịnh, không dính nhiễm, và từ tâm ấy mà khởi dụng ra những ngôn từ. Nhưng ngôn từ là bất cập, không thể nào nói lên được tánh không vốn sẵn có , nên làm sao có thể đắc được phật ở nơi 12 bộ kinh kia?


    Phật đạo tự nó viên thành, không cần phải tu phải chứng đắc. Ðạo không có thanh không có sắc, vi diệu khó thấy biết được. Cũng giống như khi uống nước, nước nóng hay lạnh như thế nào, ta chỉ biết được mà đâu thể diễn tả cho người khác cái nóng lạnh ấy. Ðiều Như lai biết, không trời hay người nào có thể biết được. Cái hiểu biết của phàm nhân là bất cập, nên mới chấp vào những hình tướng, họ không biết rằng tâm vốn tự nó là không lặng. Và vì những chấp mê theo hình tướng mà họ đi ra ngoài con đường Ðạo.


    Nên biết rằng mọi pháp đều do tâm mà ra, vậy hãy đừng có chấp trước. Chấp trước thì không còn thấy biết được. Nhưng khi đã thấy được tánh, kinh điển giáo lý cũng chỉ là chữ nghĩa suông mà thôi. Cả ngàn vạn kinh luận là để cho người được sáng tâm. Nhưng nếu chưa nói dứt lời đã hiểu rồi, giáo lý còn dùng đến để làm gì?


    Chân lý tuyệt đỉnh không thể dùng lời nói mà giảng được. Giáo lý chỉ là lời nói, không phải là Ðạo. Ðạo vốn không lời. Lời nói chỉ là vọng, là hư ảo. Chúng không khác gì những hình ảnh hiện ra trong giấc ngủ về đêm, nào cung điện xe pháo, công viên núi rừng, nào những nhà mát bên hồ.. Ðừng bị hấp dẫn bởi những điều đó. Chúng chỉ là cái nôi cho sinh tử luân hồi. Hãy nhớ kỹ điều này để khi lâm chung, đừng mắc vào những hiện tướng thì sẽ được giải thoát. Chỉ cần một giây phút lưỡng lự cũng đủ để bị ma lôi cuốn đi. Thể tánh chân thật của ta là thanh tịnh và không dính nhiễm. Nhưng bởi vì si mê nên chúng sanh không biết đến nó, và cứ trầm luân mãi trong nghiệp thọ báo vô tận. Một khi có hỷ lạc là cũng có những hệ lụy. Nhưng khi đã thức tỉnh mà ngộ được gốc tâm, gốc thân của mình thì sẽ được tự tại an nhiên.


    Chúng sanh là người bỏ thánh theo phàm. Thánh nhân là người tự do không vướng mắc trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch, có năng lực tự tại không bị nghiệp quả vây hãm, và dù cho có nghiệp nào đi nữa họ cũng có thể chuyển được nghiệp. Ðối với họ, thiên đường hay địa ngục cũng không nghĩa lý gì. Phàm nhân thần trí mê mờ, không sánh được với trí tuệ của thánh nhân thường sáng tỏ thấu suốt trong ngoài.


    Nếu (sau khi chết) chưa chắc chắn điều gì, không nên làm gì cả. Vì làm rồi thì sẽ rơi vào sanh tử và cứ luẩn quẩn loanh quanh trong đó, sau này có hối tiếc cũng không kịp. Cũng bởi thần thức theo vọng tưởng sai lầm mà sanh nơi nghèo hèn khốn khổ. Muốn hiểu được tâm này phải khuyên nhau mà tập "vô tác nhi tác", tức là không làm mà làm (không làm với tâm vọng tưởng, nhưng vẫn làm những việc cần làm), như vậy sẽ có thể ngộ được cái thấy biết của phật (ngộ tri kiến phật).


    Trong những bước đầu vào đạo, thần trí còn chưa được an định, có thể thấy những cảnh lạ kỳ hiện ra như ở trong mơ. Phải biết rằng những cảnh ấy đều do tự tâm dấy khởi lên chứ không đâu khác.


    Nếu ở trong giấc mộng có thấy ánh sáng quang minh hơn cả mặt trời , thì đó là những tập khí đã đến lúc hóa giải. Nhưng điều ấy chỉ có đương sự mới biết được, không thể diễn giải lại cho người khác.


    Hoặc giả, đang khi đi, đứng, nằm, ngồi trong rừng cây, bỗng thấy có ánh sáng chói hoặc mờ, đừng nói cho người khác biết và cũng đừng chú mục vào đó. Ðó chính là ánh sánh của tự tánh phát ra.


    Hoặc giả, đang khi đi, đứng, nằm, ngồi trong đêm thâu tĩnh mịch, mọi thứ tự nhiên sáng chưng như ban ngày, đừng có sợ hãi. Ðó chính là tự tâm đang hiển lộ.


    Hoặc giả, trong giấc mộng ban đêm, bỗng thấy trăng sao sáng tỏ phân minh, có nghĩa là tâm đã tuyệt dứt vọng cầu. Nhưng đừng nói cho ai biết. Và nếu giấc mộng lộn xộn không rõ ràng, như người đang đi trong đêm tối, đó là bởi vì tâm còn đang nhiều chướng ngại. Ðiều này cũng chỉ có người ấy mới biết được.


    Nếu đã thấy được tánh, không cần phải tụng kinh niệm phật. Biết nhiều, học rộng không ích gì mà còn làm cản trở thêm cho sự giác ngộ. Giáo lý là phương tiện để làm cho sáng tâm. Tâm đã sáng tỏ rồi, cần gì phải chấp vào giáo lý nữa?


    Muốn chuyển từ phàm qua thánh, phải dứt hết các nghiệp, dưỡng tâm nuôi thần, và chấp nhận mọi việc đến trong đời mình. Nếu tính hay nóng giận, thì đó là làm cho con người của mình đi theo hướng nghịch lại với đạo. Sống u mê không có ích lợi gì. Thánh nhân ra vào sinh tử tự tại, đi và đến tuỳ ý không cần phải định trước. Họ không bị nghiệp quả trói buộc, họ khuất phục được tà ma.


    Chúng sanh khi thấy được tánh rồi, mọi tập khí xưa nay đều tiêu trừ, thần trí không còn mê muội, và sự nhận thức ấy phải đến ngay tức khắc, và ngay lúc đó. Nếu thực muốn tìm Ðạo, đừng chấp thủ vào một pháp nào hết. Một khi đã dứt được nghiệp và nuôi dưỡng thần thức của mình, những tập khí cũng tan biến và sự hiểu biết sáng suốt sẽ đến tự nhiên. Không cần phải dụng công hay nỗ lực. Nhưng những kẻ tu theo ngoại đạo không hiểu được ý phật, họ dụng công tối đa, càng cố gắng nhiều lại càng đi xa ý nghĩa của lẽ đạo. Suốt ngày họ chỉ lo tụng kinh niệm phật, không biết gì đến tánh giác hằng có nơi mình, và như thế họ không sao thoát khỏi vòng quay của bánh xe luân hồi.


    Phật là người an nhàn . Phật không cần phải chạy quanh để cầu danh cầu lợi, vì nhiên hậu những thứ đó có ích gì đâu? Người không thấy tánh chỉ lo tụng kinh, niệm phật, tu học tinh chuyên, đêm ngày hành đạo, không dám nằm xuống nghỉ ngơi, cố công học cho rộng, nghe cho nhiều, tưởng đó là pháp phật. Nhưng thực sự ra là họ đã phỉ báng pháp phật. Các vị phật đời trước và đời sau đều chỉ nói đến kiến tánh. Tất cả mọi pháp hành đạo đều là vô thường. Trừ khi thấy được tánh, kẻ nào tuyên bố đã đạt được chánh đẳng chánh giác chỉ là kẻ dối gạt.


    Trong 10 đại đệ tử của Ðức Phật Thích Ca, có ngài A-nan là con người uyên bác nhất, nhưng lại không thấy được phật tánh nơi mình, chỉ có lo học nhiều, nhớ nhiều. Hàng nhị thừa thanh văn, duyên giác, ngoại đạo không biết đến phật, chỉ lo tu để chứng đắc, nên họ bị vướng vào nhân quả, chịu nghiệp báo chúng sanh, không thoát được vòng sinh tử. Như vậy là họ đã đi nghịch lại ý Phật, có khác gì phỉ báng Phật. Kinh nói rằng: " Người xiển đề (kẻ vô đạo) không có lương tâm, không có lòng tin, có giết họ cũng không đắc tội; còn người có phát tâm tức là đã ở trong địa vị Phật."


    (Xiển đề (Icchantikas), chỉ cho hạng người chỉ biết thỏa mãn chính mình, không có niềm tin đạo lý nào nơi họ. Họ phạm giới mà không biết ăn năn hối hận. Theo bản chữ Hán xưa kia của kinh Niết bàn, hạng người này không có phật tánh, và giới luật chỉ ngăn cấm giết hại chúng sanh có tánh phật, nên giết hại xiển đề, trên lý thuyết, là không đắc tội. Nhưng sau này kinh Niết bàn được hiệu đính lại đã sửa lại ý trên, cho rằng xiển đề cũng có phật tánh.)


    Chưa kiến tánh được, không nên đi chỉ trích những cái tốt của người khác. Sống mê muội nào có ích gì. Thiện ác là tự nhiên thấy rõ, nhân quả là phân minh, thiên đường địa ngục là ngay trước mắt. Nhưng kẻ ngu si không có lòng tin tưởng nơi đâu, rơi ngay vào địa ngục đen tối mà không hay biết. Ðó là bởi vì nghiệp chướng của họ quá nặng nề, nên họ như người bị mù mắt, không thể tin là có ánh sáng. Dù cho có giải thích đến mấy họ cũng vẫn không tin, bởi vì họ có thấy gì đâu. Làm sao họ có thể nhận biết được ánh sáng mặt trời?


    Cũng giống như những kẻ ngu si đã bị đọa làm súc sinh đủ loại, hay làm người sống đời cùng khổ, ti tiện bị khinh khi; họ sống không xong, chết cũng chẳng được. Nhưng dù khốn khổ như vậy, nếu hỏi đến là họ vẫn vui vẻ yêu đời như là đang ở trên thiên đường vậy. Thế mới biết, chúng sanh là si mê, dù họ có ở hoàn cảnh tốt xấu gì cũng vậy. Bởi vì nghiệp chướng của họ quá nặng nề nên không phát tâm tín ngưỡng được và không thể được giải thoát.


    Người thấy được tánh tức là phật, đâu cần phải cạo đầu. Hàng cư sĩ tại gia cũng là phật. Nếu không thấy tánh, kẻ cạo đầu cũng chỉ là người ngoại đạo.




    Hàng cư sĩ có vợ con, không bỏ tính dục, như vậy làm sao thành phật được?


    Ta chỉ nói đến thấy tánh, không nói đến tính dục, bởi vì ngươi chưa thấy được tánh. Nếu thấy tánh rồi, sẽ thấy tính dục vốn cũng chỉ là không. Khi không còn thấy hứng thú thì nó cũng mất theo. Dù cho có còn vương lại một vài thói quen, thì cũng chẳng hại gì, vì tuy ở trong sắc thân ngũ uẩn, nhưng tự tánh vẫn hằng thanh tịnh, không thể bị ô nhiễm được. Pháp thân bản lai là không dính nhiễm, không có cảm giác, không biết đói khát, nóng lạnh, không có bệnh tật, không ân ái ràng buộc, không vui không khổ, không có tốt xấu, dài ngắn, mạnh yếu . Bản lai chính là không, không có gì thụ đắc được. Bởi vì chấp vào sắc thân vật chất này nên mới thấy đói khát, nóng lạnh, và bệnh tật. Còn nếu không chấp thủ và buông xả mọi thứ thì được tự do tự tại ngay ở trong sinh tử , chuyển hóa được mọi sự , có năng lực thông suốt vô ngại, an định trong mọi lúc. Nếu nghi ngờ điều đó sẽ không bao giờ có thể thấy rõ được; và tốt hơn là không nên tạo tác gì, vì tạo tác rồi sẽ không thoát được vòng sinh tử luân hồi. Còn nếu thấy tánh rồi thì đồ tể cũng thành phật được.




    Nhưng đồ tể giết hại sinh vật, tạo nên nghiệp xấu, làm sao thành phật được?


    Ta chỉ nói đến thấy tánh, không nói đến nghiệp quả. Dù có gây ra những nghiệp khác nhau như thế nào, nghiệp quả cũng không ràng buộc được chúng ta. Trải qua vô số kiếp từ vô thủy đến nay, chúng sanh chỉ vì không thấy tánh nên mới đọa địa ngục. Con người tác nghiệp nên mới phải luân hồi sinh tử. Nhưng khi đã ngộ được tự tánh rồi thì không tạo nghiệp nữa. Nếu không thấy tánh, có niệm phật cũng không thoát được nghiệp quả, huống gì lại còn làm đồ tể sát sanh. Nhưng khi thấy tánh rồi thì mọi nghi ngờ tan biến, dù cho có nghiệp quả đồ tể cũng đâu thành vấn đề nữa?


    Ở Tây Thiên (Ấn độ) xưa kia, 27 vị tổ sư chỉ có truyền tâm ấn mà nối đuốc lại cho nhau. Ta ngày nay tới xứ này (Trung hoa) cũng là để truyền lại pháp đốn ngộ Ðại thừa. Tâm này chính là Phật. Ta không nói đến trì giới, tinh tấn hay những pháp tu khổ hạnh như là dầm mình trong nước và lửa, lăn mình qua bánh xe dao, ăn chỉ một lần trong ngày, hay không bao giờ ngủ nghỉ. Ðó là những pháp hữu vi của ngoại đạo. Một khi nhận thức được cái bản tính linh động, linh mẫn của tánh giác, thì tâm đó chính là tâm phật. Cảc vị phật trước và sau này chỉ nói đến tâm truyền tâm, và không dậy điều gì khác. Nếu hiểu được điều này, kẻ phàm phu dù không biết một chữ cũng vẫn thành phật. Còn nếu không biết được tính linh giác của chính mình, dù cho có đem thân này ra phân tích, phá tan ra thành từng hạt nguyên tử cũng vẫn không thấy được phật.


    Phật chính là pháp thân, là thân thật, là cái tâm nguyên thủy (bản tâm). Tâm này không có hình tướng , không có nhân quả, không gân cốt, tựa như hư không, không thể nắm giữ được. Nó không đồng với cái tâm chấp vật, cái tâm ngoại đạo. Chỉ có Như Lai, và không ai khác -- không có chúng sanh nào, hay những kẻ si mê nào -- có thể thấu rõ được tâm ấy.


    Nhưng tâm này không có ở đâu khác ngoài sắc thân tứ đại này. Không có tâm này chúng ta không vận dụng được. Thân không có tâm là vô tri vô giác. Thân không có tánh có khác gì cây cỏ, sỏi đá. Vậy làm sao thân vận dụng được? Chính là vì tâm chuyển động vậy.


    Cho đến ngôn ngữ, hành vi, kiến thức là đều do cái dụng của tâm động mà ra. Ðộng tức là tâm động. Ðộng tức là dụng. Tâm không ở ngoài động, và động không ở ngoài tâm. Nhưng động không là tâm, Và tâm không là động. Ðộng vốn là không tâm. Và tâm vốn là không động.Nhưng động không thể lìa tâm. Và tâm không thể lìa động. Ðộng là cái dụng của tâm, và dụng tức là tâm động. Tuy nhiên, tâm vốn chẳng động chẳng dụng, vì bản chất của dụng là không và tánh không bản chất là không động. Ðộng cũng là đồng với tâm. Và tâm vốn là không động.


    Do đó kinh nói chúng ta động mà không động, suốt ngày đi đi về về mà như không có đi đi về về, thấy mà như không thấy, cười mà như không cười, nghe mà như không nghe, biết mà như không biết, vui mà như không vui, đi mà như không đi, đứng mà như không đứng. Kinh lại nói: "Bặt đường ngôn ngữ, tuyệt ý nghĩ suy." (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt). Những cái thấy, cái nghe, cái kiến quan bản chất vốn là không tịch, cho đến những giận hờn, vui sướng , đau khổ cũng vậy, có cố công kiếm tìm, cũng không thấy dấu vết gì.


    Theo kinh, những nghiệp ác sẽ đem đến sự đau khổ và nghiệp lành là đem nhiều phước báu. Tánh sân giận đưa con người đến địa ngục và hỉ xả khiến được sanh cõi trời. Nhưng khi biết được rằng bản chất của sân giận cũng như hỉ xả tức là không và như vậy không chấp vào đó nữa thì sẽ thoát khỏi mọi nghiệp. Nếu không thấy được tự tánh, có nói kinh cũng chẳng ích gì.


    Bài kinh này chỉ nêu ra những yếu lược về lẽ chánh tà như vậy thôi.



    theo chánh đạo cho an toàn, mún tu mật mà chưa được quán đảnh thì chỉ nên tụng chú đại bi, ko được triệu thỉnh, ko hàng phục hại người

  2. #2

    Mặc định Phá tướng luận



    Phá tướng luận




    Nếu có người chí tâm cầu đạo giải thoát, phải tu pháp nào cho có hiệu nghiệm nhất?


    Chỉ một pháp quán tâm là bao gồm mọi pháp, cũng là pháp hiệu nghiệm nhất.



    Nhưng làm sao một pháp lại bao gồm mọi pháp được?


    Tâm là căn bản của vạn pháp. Tất cả mọi pháp đều từ do tâm mà sanh. Nếu hiểu được tâm , tức vạn pháp đều đầy đủ. Cũng như một cây lớn có cành lá xum xê, kết hoa kết trái, nhưng tất cả đều phải tuỳ thuộc vào rễ cây; nếu nuôi dưỡng cây ở ngay gốc rễ sẽ mọc thêm cây con, đâm chồi nẩy lộc, nhưng nếu chặt gốc đi, tất cây sẽ phải chết. Cũng vậy, tâm là gốc rễ; hiểu được tâm, đường tu sẽ dễ thành , không phải tốn nhiều công sức. Không hiểu được tâm thì có nỗ lực nhiều cũng phí công vô ích. Tất cả mọi sự xấu tốt đều từ do tâm mà ra. Tìm cầu cái gì xa xôi ở ngoài tâm là không thể có được.




    Nhưng tại sao quán tâm lại có thể hiểu được hết?


    Bồ tát khi quán chiếu thâm sâu bát nhã ba la mật đa, thấy rằng tứ đại và ngũ uẩn đều vốn là không và vô ngã, và thấy rõ những khởi dụng đã chia tâm thành hai mặt sai biệt với nhau, đó là tâm trong sạch và tâm dính nhiễm. Hai loại tâm ấy vốn tự nhiên sẵn có, và chúng theo tùy theo những giả duyên hợp thành mà làm nhân đối đãi cho nhau . Tâm thanh tịnh gieo nhân lành nên an lạc. Tâm dính nhiễm tạo nhân cho ác nghiệp nên thường lo lắng suy tư. Người không vướng nhiễm được coi như là bậc thánh, xa lìa mọi đau khổ, đạt được cái an lạc của niết bàn. Còn nếu tâm dính nhiễm, cứ vướng mắc trong nghiệp mình tạo ra, thì đó gọi là phàm, mãi phải trầm luân trong tam giới, chịu đủ mọi thứ đau khổ, chỉ vì tâm dính nhiễm đã ngăn trở, che lấp cái bản thể chân như thanh tịnh. Kinh Thập địa nói: "Trong thân của chúng sinh có phật tánh như kim cương, ví như hào quang ánh mặt trời, tròn đầy viên mãn, nhưng khi có đám mây dầy đặc của ngữ ấm bao phủ thì hào quang kia bị khuất lấp, chẳng khác gì ánh đèn bị giam hãm trong cái lọ." Kinh Niết bàn nói: " Tất cả mọi chúng sanh đều có tánh phật, nhưng vì bị vô minh che lấp nên không giải thoát được. Phật tánh tức là tánh giác vậy. Nhận thức được tánh giác của mình và làm cho người khác cũng được giác ngộ, tự giác giác tha, sự hiểu biết hoàn toàn sáng tỏ (giác tri minh liễu), đó gọi là giải thoát. " Nên biết rằng mọi sự lành đều gốc từ giác mà ra, và từ cái gốc giác ấy mà kết thành cây công đức, ra quả niết bàn, là nhân cho sự thành đạo. Quán tâm được như vậy tức là liễu ngộ vậy.




    Ở trên nói rằng chân như phật tánh và hết thẩy mọi công đức đều lấy giác làm gốc. Vậy cái gì là gốc của vô minh?


    Tâm vô minh với muôn vạn phiền não , chất chứa bao tình tự ham muốn , với hằng hà sa số những điều ác, tất cả đều lấy gốc ở nơi tam độc. Tam độc tức là tham sân si vậy. Tâm tam độc ấy tự nó đã đầy đủ bao nhiêu giống ác, tựa như một cây lớn chỉ có một rễ mà sinh ra biết bao nhiêu cành lá nhiều không đếm xuể. Cái gốc tam độc ấy từ trong mỗi gốc lại sinh ra muôn vạn ức nghiệp dữ gấp bao nhiêu lần, chẳng thể đem cây lớn ra để so sánh được.


    Từ trong bản thể của tâm tam độc ứng hiện ra nơi sáu căn cái gọi là lục tặc (sáu tên giặc), tức là sáu thức vậy. Gọi là lục tặc vì chúng ra vào các căn, tham muốn mọi điều, tạo nên nghiệp dữ, ngăn che bản thể chân như. Chúng sanh do lục tặc tam độc này mà bị mê hoặc, rối loạn tâm thân, chìm đắm trong sanh tử, lang thang quanh sáu nẻo luân hồi, chịu biết bao khổ não. Những khổ não này tựa như giòng sông đi từ những con suối nhỏ chẩy mãi vô tận, và rồi dần dần thành sông lớn chẩy cuồn cuộn qua bao nhiêu vạn lý; nhưng nếu có ai ngăn chặn được tận nguồn, thì mọi con suối kia cũng sẽ bị cắt đứt và khô cạn. Cũng vậy, nếu có người cầu giải thoát mà chuyển được tam độc thành giới định tuệ, chuyển lục tặc thành sáu ba la mật, thì người ấy sẽ tự nhiên xa rời vĩnh viễn khỏi những đau khổ.




    Nhưng luân hồi sáu đường ba cõi là bao la không cùng, làm sao chỉ quán tâm mà lìa xa được những đau khổ vô tận?


    Nghiệp báo trong ba cõi giới đều chỉ do tâm mà sanh. Nếu tâm vốn là không ở ba cõi giới, tức là đã lìa được ba cõi ấy vậy. Ba cõi giới ấy chính là tam độc tham sân si: tham là dục giới, sân là sắc giới, và si là vô sắc giới, nên gọi đó là ba cõi giới. Và vì tam độc gây ra những nghiệp nặng nhẹ khác nhau, nên sự thọ báo cũng khác nhau và phân chia thành sáu đường luân hồi.




    Sáu đường luân hồi này nặng nhẹ khác nhau như thế nào?


    Chúng sanh không hiểu rõ được đâu là nhân chính, si mê chỉ lo tu nghiệp thiện, nên không thoát được ba cõi giới, sanh vào ba đường luân hồi nhẹ . Ba đường luân hồi nhẹ đó là gì? Người mê tu thập thiện, vọng cầu sự khoái lạc vui sướng nên chưa thoát được cõi tham, được sinh vào cõi trời. Người mê giữ năm giới, tâm khởi những thương ghét, chưa thoát được cõi sân, nên sinh ra nơi cõi người. Người mê chấp hữu vi, tin theo tà cầu lấy phước, chưa thoát được cõi si, nên sinh ở cõi a tu la. Ba cõi đó được gọi là ba đường luân hồi nhẹ.


    Ba đường luân hồi nặng là gì? Những kẻ chỉ biết buông thả tâm theo tam độc, gây tạo nghiệp ác sẽ theo nghiệp mà bị đọa vào ba cõi này. Nghiệp tham nặng thì sanh vào ngạ quỷ. Nghiệp sân nặng thì đọa cõi địa ngục. Nghiệp si nặng thì sanh làm súc sinh. Ba đường luân hồi nặng này cùng với ba đường nhẹ hợp thành sáu đuờng luân hồi. Thế mới biết, tất cả mọi khổ nghiệp đều tự do tâm mà sinh ra. Nếu có thể nhiếp tâm, lìa khỏi mọi tà ác, thì mọi sự khổ đau nơi ba cõi sáu đường luân hồi này sẽ tự nhiên dứt tuyệt; và khi không còn khổ tức là được giải thoát.




    Như Ðức Phật nói: "Ta đã trải qua ba đại a tăng kì kiếp, vượt biết bao nhiêu vô lượng gian khổ mới thành được phật đạo" , cớ sao bây giờ chỉ nói quán tâm và chế phục tam độc đã gọi là được giải thoát?


    Những lời Phật nói đều không sai. Ba đại a tăng kì kiếp ở đây có nghĩa là tâm tam độc vậy. A tăng kì (asankhya, tiếng Phạn) có nghĩa là vô số kể. Trong tâm tam độc có vô số những ác niệm. Và trong mỗi niệm ấy lại là một kiếp, nhiều không xiết kể như cát sông Hằng, vì vậy nên nói là ba đại a tăng kì.


    Tánh chân như bị ba độc làm khuất lấp , nếu không vượt thắng được cái tâm nhiễm hằng hà sa độc ấy thì làm sao có thể giải thoát được? Nhưng nay nếu có thể chuyển tam độc tham sân si thành ba giải thoát, thì đó gọi là đã trải qua ba đại a tăng kì kiếp vậy. Chúng sanh trong thời mạt kiếp này căn độn ngu si, không hiểu được ý thâm sâu của Như lai khi nói a tăng kì kiếp, mà tưởng rằng chỉ có thể thành phật được sau vô lượng số kiếp, vì thế mà khiến cho người ta nghi ngờ, thoái tâm trên con đường đạo.




    Nhưng các bậc bồ tát do trì ba tu tịnh giới , hành sáu ba la mật mới thành phật đạo được. Nay nói người học đạo chỉ cần quán tâm, không tu giới hạnh, làm sao có thể thành phật được?


    Ba tu tịnh giới là để chế phục cái tâm tam độc. Chế phục được tâm tam độc là cũng thành được như đã tu vô lượng giới thiện vậy. "Tu" tức là "hội", vô lượng thiện pháp hội lại nơi tâm , nên mới nói là ba tu tịnh giới. Sáu ba la mật tức là để làm cho sáu căn thanh tịnh. Ba la mật (paramitas, tiếng Phạn) có nghĩa là bờ bên kia. Sáu căn được thanh tịnh, không nhiễm sáu trần, tức là đã độ qua được sông phiền não, đến được bến bồ đề, nên gọi đó là sáu ba la mật.




    Theo như kinh nói, ba tu tịnh giới là: thề dứt mọi điều ác, thề tu mọi điều thiện, thề độ mọi chúng sanh. Nay nếu nói là chỉ cần chế ngự tam độc, há không phải là đi ngược lại với nghĩa kinh sao?


    Lời Phật nói đều là đúng. Trong thời quá khứ trước đây, bậc đại bồ tát nhân khi tu hành muốn thắng được tam độc nên mới phát ba lời thệ nguyện rằng: 1) Thề đoạn hết mọi điều ác, để đối lại với cái độc của tham, nên thường trì giới tịnh. 2) Thề tu mọi điều lành, để đối lại với cái độc của sân, nên thường giữ tâm định. 3) Thề độ mọi chúng sanh, để đối lại với cái độc của si, nên thường thắp sáng trí huệ. Do hành trì ba tịnh pháp giới định huệ ấy nên mới vượt thắng được tam độc mà thành phật đạo vậy. Chế phục được tam độc tất mọi điều ác đều tiêu trừ, nên gọi là đoạn. Giữ được ba tu tịnh giới tất mọi điều thiện đều đầy đủ, nên gọi là tu. Ðoạn ác tu thiện được tất muôn vạn hạnh đều thành tựu, lợi mình lợi người, tế độ quần sanh, nên gọi là giải thoát.


    Nên biết rằng tu giới hạnh không lìa tâm. Nếu tâm thanh tịnh, mọi đất phật cũng đều thanh tịnh. Vì vậy kinh nói rằng: "Tâm vẩn đục, tất chúng sanh vẩn đục. Tâm thanh tịnh tất chúng sanh thanh tịnh", và "Muốn đến nước phật, phải tịnh tâm mới được. Tâm tịnh rồi là đất phật tịnh." Cho nên nếu có thể chế phục được tam độc, tất ba giới tu tịnh tự nhiên thành tựu được.




    Kinh nói sáu ba la mật , còn gọi là sáu độ, gồm có bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí huệ. Nay nói sáu căn thanh tịnh tức là ba la mật, làm sao kết hợp được hai điều ấy? Còn sáu độ là nghĩa như thế nào?


    Muốn tu sáu độ, phải giữ cho sáu căn thanh tịnh, hàng phục sáu tên lục tặc. Xả được tên giặc mắt, không bị lôi cuốn theo cảnh sắc, đó gọi là bố thí. Ngăn được tên giặc tai, không buông thả theo tiếng, đó gọi là trì giới. Chận được tên giặc mũi, tự tại thản nhiên với các mùi, đó gọi là nhẫn nhục. Kiềm chế được tên giặc lưỡi miệng, không tham những vị ngon, không ca tụng hay phô trương , đó gọi là tinh tấn. Khắc phục được tên giặc thân, an nhiên bất động trước những cảm giác nơi thân, đó gọi là thiền định. Ðiều ngự được tên giặc ý, không buông theo vô minh, thường hay niệm tỉnh giác, đó gọi là trí huệ, Ðộ là vận, là chở đi. Sáu ba la mật cũng như là con thuyền đưa chúng sinh qua được bờ bên kia giải thoát, nên gọi là sáu độ.




    Kinh nói Ðức Thích ca Như lai khi còn là bồ tát đã uống ba đấu, sáu thăng sữa tinh chế rồi mới thành phật đạo. Vì uống sữa rồi mới thành phật được, như vậy làm sao chỉ quán tâm mà được giải thoát?


    Lời nói đó về việc Phật nhân uống sữa mà thành đạo quả thực là không sai. Nhưng nói là uống sữa rồi mới thành phật, phải phân biệt là sữa có hai loại. Sữa Phật uống không phải thứ sữa bất tịnh của thế gian, mà là sữa pháp, là pháp nhũ thanh tịnh. Ba đấu tức là ba tu tịnh giới. Sáu thăng chính là sáu ba la mật. Ðức Thích ca thành phật là do ngài đã uống thứ pháp nhũ thanh tịnh ấy nên chứng được đạo quả. Nếu nói Như Lai uống thứ sữa bò sữa dê hỗn hợp tanh hôi của thế gian, thì đó chẳng phải là thậm phỉ báng đó sao? Thể chân như tự nó như kim cương bất hoại, là vô lậu pháp thân, xa rời mọi đau khổ trên thế gian, đâu phải xác thân vật chất tầm thường mà phải cần đến thứ sữa bất tịnh như vậy để đỡ cơn đói khát sao?


    Kinh nói rằng: "Bò này không ở vùng cao nguyên, cũng không ở thung lũng, không ăn thứ lúa thóc ô hợp, và nó cũng không chung bầy với các đoàn bò khác. Bò này thân nó có một mầu vàng tía óng ả." Bò này chính là nói đến Ðức Phật Tì lô Giá na, do lòng bi mẫn thương xót hết thẩy chúng sinh mà từ trong pháp thể thanh tịnh xuất ra thứ pháp nhũ vi diệu là ba tu tịnh giới, sáu ba la mật, nuôi dưỡng tất cả những người cầu giải thoát. Thứ sữa thanh tịnh của loại bò chân tịnh ấy , không những Như Lai uống xong thành đạo, mà tất cả chúng sanh uống được thứ sữa ấy cũng có thể đắc a nậu đa tam muội tam bồ đề (đắc vô thượng giác).




    Trong kinh nói Phật bảo chúng sanh phải tu bằng cách xây cất chùa chiền, tạc hình đúc tượng, thắp hương trải hoa, đốt đèn, đêm ngày sáu thời hành đạo, đi nhiễu quanh tháp , trì trai lễ bái, làm biết bao nhiêu công đức mới có thể thành phật đạo. Nếu chỉ quán tâm mà bao hàm được mọi hạnh khác, thì những pháp tu như thế kia hóa ra là dư thừa sao?


    Phật khi nói kinh dùng vô số phương tiện, vì chúng sinh căn cơ thấp kém, nông cạn, không hiểu được ý nghĩa thâm sâu nên mới lấy cái hữu vi để ẩn dụ cho cái vô vi. Nếu không tu hạnh ở trong chính mình, mà chỉ hướng ra ngoài cầu phước, mong thánh thì không thể nào có được.


    Trong tiếng Phạn của Tây quốc (Ấn độ) chữ sangharama phiên âm sang tiếng Trung hoa là già lam (chùa chiền), có nghĩa là đất thanh tịnh. Nếu có người trừ dứt được tam độc, giữ sáu căn trong sáng, thân tâm yên tịnh, trong ngoài đều tĩnh lặng, thì đó là người ấy đã xây dựng già lam vậy.


    Ðúc tạc hình tượng tức là mọi chúng sinh muốn cầu phật đạo phải huân tu các hạnh để được tỉnh giác . Chân dung diệu tướng của như lai có lẽ nào có thể lấy kim loại bằng sắt bằng đồng mà đúc tạc được ư? Cho nên cầu giải thoát phải lấy thân làm lò rèn, lấy Pháp làm lửa, lấy trí huệ làm công khéo, lấy ba tu tịnh giới , sáu ba la mật làm khuôn đúc, nấu chẩy , tôi luyện chân như phật tánh cho tràn đầy vào trong tất cả các khuôn khổ của giới luật. Cứ tuân theo lời dậy mà tu hành không sai sót, hình tượng của chân dung sẽ tự nhiên thành tựu. Hình tượng đó là sắc thân vi diệu vẫn thường trú, không phải là pháp hữu vi bại hoại. Người cầu đạo nếu không hiểu được nghĩa lý này của việc đúc tạc chân dung , làm sao có thể nói là có công đức được?


    Còn nói về thắp hương, hương ấy không phải là hương của thế gian, mà là hương của chánh pháp vô vi, có thể hóa giải, tiêu trừ được những cấu uế của vô minh và ác nghiệp. Hương chánh pháp ấy có năm loại. Một là giới hương, nghĩa là đoạn trừ mọi điều ác, tu mọi điều lành. Hai là định hương, nghĩa là tin tưởng thâm sâu nơi pháp đại thừa, không thối tâm nản chí. Ba là huệ hương, nghĩa là thường hay quán sát trong ngoài thân tâm. Bốn là hương giải thoát, nghĩa là đoạn trừ những ràng buộc của vô minh. Năm là giải thoát tri kiến hương, nghĩa là thường soi chiếu sáng tỏ, thông suốt vô ngại. Năm loại hương ấy gọi là hương tối thượng, không gì trên thế gian có thể so sánh được.


    Khi Phật còn tại thế, ngài bảo các đệ tử lấy lửa trí huệ mà đốt thứ hương trân bảo vô giá ấy cúng dường chư phật mười phương. Ngày nay chúng sinh không hiểu được nghĩa lý lời nói như lai, lại lấy lửa ở ngoài mà đốt lên những hương làm bằng các loại gỗ trầm, hi vọng được hưởng quả phước, nhưng điều ấy làm sao có được.


    Trải hoa cũng có ý nghĩa như thế, tức là thường hay giảng nói chánh pháp, gieo rắc hoa công đức cho thấm nhuần khắp tất cả, làm lợi ích cho chúng sanh hữu tình và làm trang nghiêm cho tính chân như. Hoa công đức này được Phật ngợi khen, luôn luôn thường trú và không bao giờ héo tàn. Nếu có người gieo rắc được thứ hoa như thế, sẽ được vô lượng phước báu. Nếu nói là Phật bảo chúng sinh đi bẻ cành, cắt nhánh làm thương tổn đến cây cối để lấy hoa cúng phật, thì điều ấy không hề có. Người tu trì tịnh giới không nên xâm phạm đến các loại cây cỏ thực vật thiên hình vạn trạng trong trời đất , nếu vô tình mà phạm đến chúng đã là mang tội nặng, huống gì lại còn cố ý phá giới, tổn thương đến vạn vật để cầu lấy phước báu, như vậy thay vì có lợi ích lại khiến cho hao tổn đi, sao có thể làm vậy được?


    Ngọn đèn thắp sáng lâu dài mãi mãi đó là tượng trưng cho tâm chánh giác. Ngọn đèn được ví như tánh giác sáng tỏ toàn vẹn. Người cầu giải thoát lấy thân làm đèn, lấy tâm làm tim đèn, lấy giới hạnh làm dầu thắp, lấy trí huệ làm ánh sáng. Ngọn đèn như vậy là đèn chân chánh giác, ánh sáng đèn này chiếu lên phá tan được mọi tối ám vô minh. Nếu có thể truyền được Pháp mà khai thị cho người khác, đó là truyền ánh sáng từ một ngọn đèn qua cả trăm ngàn ngọn đèn khác, và như vậy tất cả đều chiếu sáng vô tận.


    Trong thời quá khứ xa xưa, có một vị phật lấy tên là Nhiên Ðăng là do nghĩa lý như vậy. Nhưng chúng sanh ngu si không hiểu được lời nói phương tiện của Như Lai, chỉ lo làm chuyện hư dối, chấp trước nơi pháp hữu vi; họ thắp ngọn đèn dầu thế gian , tưởng rằng chiếu sáng không gian trong phòng là đã y theo lời Phật dậy. Thật sai lầm biết bao! Phật phóng hào quang từ giữa đôi mày ra chiếu soi được tám vạn bốn ngàn thế giới, ngọn đèn dầu làm sao có ích lợi như vậy được; xét cái lý ấy, sẽ thấy điều đó tự nhiên là không được!


    Ðêm ngày sáu thời hành đạo, có nghĩa là trong tất cả mọi lúc đều thường hành phật đạo nơi sáu căn, giữ các giác hạnh , thường soi tỏ các căn không lúc nào lơi lỏng, đó gọi là sáu thời hành đạo.


    Ði nhiễu quanh tháp , tháp đây chính là nói đến thân tâm chúng ta. Khi giác huệ thường bao quanh thân và tâm , không lúc nào ngơi nghỉ, thì đó gọi là đi nhiễu tháp. Các vị thánh thời xưa đều theo con đường ấy mà tới được niết bàn. Nhưng người đời ngày nay không hiểu được lý này, chẳng lo tu ở trong , chỉ chấp tìm cầu ở ngoài, họ dùng xác thân vật chất của mình đi nhiễu quanh tháp thế gian, ngày đêm lòng vòng , hao tổn sức lực mà không được lợi ích gì cho chân tánh cả.


    Trì trai (ăn chay) cũng vậy, cần phải nên hiểu rõ, nếu không đạt được lý mà cứ làm theo thì không lợi ích gì. Trai ở đây có nghĩa là điều hòa thân tâm cho được ngay thẳng , không để cho bị rối loạn. Trì có nghĩa là hộ trì , giữ gìn giới hạnh theo chánh pháp, như vậy tất bên ngoài ngăn chận được sáu tình, trong chế ngự được tam độc, chuyên cần cảnh giác, thì thân tâm được thanh tịnh. Ðó mới là đúng nghĩa trì trai. Người trì trai có năm loại thức ăn: Một là pháp hỉ thực, tức là tuân theo chánh pháp, vui vẻ mà hành trì. Hai là thiền duyệt thực, tức là trong ngoài đều trong sáng, thân tâm an lạc. Ba là niệm thực, tức là thường hay tưởng đến phật, tâm khẩu đều tương ứng. Bốn là nguyện thực, tức là đang khi đi đứng nằm ngồi luôn luôn phát những nguyện lành. Năm là giải thoát thực, tức là tâm thường thanh tịnh, không nhiễm bụi trần. Năm loại thức ăn ấy gọi là thức ăn trai tịnh. Nếu có người nào không ăn năm loại trai tịnh ấy mà cứ nói là mình trì trai, thì không thể có được.


    Ðã dứt được những thức ăn vô minh mà chạm đến lại, thì đó gọi là phá trai; một khi đã phá rồi, làm sao có thể được phước nữa? Thế gian này có những người mê, không hiểu được lý, buông thả thân tâm theo những cái xấu ác, tham dục phóng tình, không hề biết hổ thẹn. Khi không ăn mặn nữa thì họ tự nhận là trì trai, điều ấy không thể có được.


    Lễ bái cũng theo một lối diễn giải như vậy, tức là trong thì minh lý, hiểu rõ nghĩa lý ở trong, ngoài thì đạt sự, biết tùy nghi mà quyền biến. Lý có cái ẩn ở trong (tàng) và cái thực dụng (hành). Hiểu được nghĩa đó gọi là y pháp (theo pháp).


    Lễ tức là Kính, Bái tức là Phục; lễ bái có nghĩa là kính trọng chân tánh, khuất phục vô minh. Nếu có thể tuyệt diệt được những ác tình, luôn luôn giữ niệm lành, tuy không hiện tướng ra ngoài, cũng gọi là lễ bái. Tướng ấy chính là pháp tướng vậy.


    Ðức Thế tôn muốn người thế tục biết lễ bái để tỏ lòng khiêm cung, cho nên bên ngoài phủ phục xuống là để biểu thị cho sự tôn kính bên trong, ngoài đưa tay chắp thì trong sáng tỏ, tướng và tính đều tương ứng với nhau. Nếu không hiểu được lý này mà chỉ chấp cầu ở ngoài, trong buông thả theo sân si, hay làm nghiệp ác, ngoài thì lậy lục nhọc nhằn, ra vẻ uy nghi, không biết thẹn với thánh, lại dối gạt với phàm, rồi cũng chẳng thoát được luân hồi, làm sao nói chuyện thành công đức được?




    Kinh Ôn thất (nhà tắm) nói: cung cấp vật liệu tắm rửa chư tăng sẽ được phúc đức vô lượng, cứ như theo pháp ấy thì nhờ việc làm bên ngoài mà thành được công đức, điều ấy có thể nào tương ứng được với quán tâm pháp?


    Ý nghĩa tắm rửa chư tăng không phải là tắm rửa cái hữu vi của thế gian. Thế tôn khi nói kinh Ôn thất, muốn cho các đệ tử thọ trì pháp Tiễn dục (tắm rửa), nên đem một việc thường ngày ra để làm ẩn dụ khi ngài giải thích cái nghĩa công đức cúng dường của bẩy sự vật. Bẩy sự vật ấy là, nước sạch, lửa, xà bông, dương chi (nhánh cây dương liễu), bột phấn tro, dầu thoa, và quần áo lót mình. Ngài đem bẩy vật ấy ra để làm ví dụ cho bẩy pháp; mọi chúng sanh nhờ bẩy pháp ấy mà tự tẩy lọc và được trang nghiêm, đoạn trừ được những cấu uế của vô minh trong một tâm nhiễm độc.


    Pháp thứ nhất là tịnh giới, rửa sạch những cái thừa thãi , giống như nước sạch rửa đi những đất bẩn bám vào. Thứ hai là trí huệ, thường quán sát trong ngoài, giống như lửa đun nước sôi vậy. Thứ ba là phân biệt, trừ bỏ đi những cái xấu ác, giống như xà bông làm sạch đi những cái dơ bẩn. Thứ tư là chân thực, đoạn trừ những vọng tưởng, giống như nhánh dương chi có thể làm sạch trong miệng. Thứ năm là chánh tín, có quyết tâm không nghi ngại, giống như sát bột phấn tro vào người có thể phòng được cảm gió vậy. Thứ sáu là nhu hòa nhẫn nhục, giống như dầu thoa có thể làm da dẻ tươi nhuận. Thứ bẩy là hổ thẹn, hối cải những nghiệp ác, giống như quần áo trong che đậy thân thể. Khi Như Lai giảng thuyết kinh này, ngài cốt nói cái ý nghĩa thâm sâu trong ấy cho những bậc thượng căn đại thừa, chứ không phải cho những kẻ hạ trí phàm phu , vì thế người ngày nay không hiểu được kinh này.


    Ôn thất (nhà tắm) chính là thân ta. Ngọn lửa trí tuệ được đốt lên sẽ đun nóng nước trong của tịnh giới và rửa sạch cấu uế bao phủ tính chân như có sẵn trong thân. Nếu thọ trì pháp này thì tự mình sẽ được trang nghiêm. Các đệ tử của Phật thời ấy là bậc thượng trí, họ đều hiểu được thánh ý mà y theo đó tu hành, thành tựu công đức và đạt tới quả phật. Nhưng chúng sanh thời nay không hiểu được nghĩa sâu xa đó, nên lấy nước thế gian thường tình mà rửa cái xác thân vật chất, cho là đã làm theo lời kinh dậy, nhưng thực sự là họ đã hiểu sai lầm.


    Chân như phật tánh không có cái hình thể phàm tình. Những bụi dơ của phiền não vốn cũng không có tướng. Làm sao có thể lấy thể chất nước thường mà rửa được một thân vô hình vô tướng , như vậy là sự việc không ăn khớp với nhau (sự bất tương ứng). Khi nào người ta mới tỉnh ngộ ra được? Muốn rửa sạch bụi bậm che lấp thân ấy, trước hết phải quán xét nội tâm, để thấy rằng cội nguồn của mọi bất tịnh là do lòng tham dục mà ra, và từ đó mà những cấu uế càng ngày càng gia tăng gấp bội cho đến khi chúng tràn ngập khắp trong ngoài ; và dù cho có cọ rửa đến tận cùng cũng không thể làm sạch thân ấy được, suy nghiệm như vậy sẽ thấy được rằng ý Phật nói không phải là rửa cái hình tướng bên ngoài.





    Kinh nói người nào chí tâm niệm Phật (A di đà) tất sẽ được vãng sanh nơi Tây phương tịnh độ, chỉ cần một pháp môn đó thôi cũng đủ để thành phật đạo, hà tất phải quán tâm cầu giải thoát làm gì?


    Phàm niệm phật phải biết giữ chánh niệm. Hiểu rõ nghĩa là chánh, không hiểu rõ nghĩa là tà. Có chánh niệm tất sẽ được vãng sinh, còn nếu tà niệm thì làm sao đạt đến chốn đó được.


    Phật có nghĩa là Giác, là luôn luôn tỉnh giác quán sát thân tâm, không cho ác niệm khởi dậy. Niệm là Ức (tưởng nhớ), luôn luôn nhớ giữ giới hạnh, tinh tấn chuyên cần không quên lãng, đó mới gọi là niệm. Vì thế niệm là từ nơi tâm, không ở nơi lời nói. Dùng mồi để bắt cá, được cá rồi thì quên mồi đi; cũng vậy dùng lời để cầu lấy ý, được ý rồi thì quên lời đi.


    Khi niệm danh phật, cần phải hiểu cái đạo niệm phật. Nếu tâm không thực thì lời nói ngoài miệng chỉ là trống rỗng; khi tâm bị che lấp bởi vô minh, còn đầy tam độc tham sân si, còn cái "tôi' của nhân ngã, thì còn chưa thể thấy phật được, có làm gì cũng phí công. Tụng và niệm nghĩa lý khác nhau xa lắm. Tụng là ở nơi miệng. Niệm là ở nơi tâm. Mới biết, niệm theo tâm mà khởi lên, nên gọi là cửa của giác hạnh . Tụng là ở nơi miệng nên chỉ là tướng của âm thanh. Nếu chỉ chấp vào tướng mà cầu lấy lý đạo thì không thể nào có được. Cho nên những bậc thánh nhân đời xưa tu không phải nơi lời nói bên ngoài , mà chỉ suy ở nơi tâm.


    Tâm là cội nguồn của mọi sự lành. Tâm là chủ của muôn vạn công đức. Sự an lạc bất tuyệt của niết bàn là do tâm mà sinh. Luân hồi trong ba cõi cũng theo tâm mà khởi. Tâm là cửa ngõ của mỗi thế giới , và tâm là bến ải của giải thoát. Ðã biết được cửa ngõ, đâu còn sợ khó thành ? Ðã biết được bến vào , đâu cần lo không tới?


    Người thời nay thật thiển cận. Họ chỉ biết cầu công đức nơi hình tướng, phung phí của cải, làm tổn hại đến những vật trên bộ và dưới nước. Họ chỉ lo đắp tượng dựng tháp, huy động người chất gỗ xây gạch, tô xanh vẽ lục , mệt thân khổ trí, làm hao tổn bản thân và đến những người khác, mà không hiểu biết đủ để thấy hổ thẹn. Chừng nào họ mới có thể giác ngộ được? Hễ thấy cái gì hữu vi là ưa thích ngay, còn nếu nói về vô vi thì ngẩn ngơ như mê hồn trận. Tham lam những cái phúc nhỏ nhoi của thế gian, họ làm sao biết được cái khổ lớn lao đang đến. Những người ấy tự làm nhọc mình vô ích; bỏ chánh theo tà, chỉ vọng nói đến thu hoạch quả phước.


    Nếu nhiếp tâm được và tỉnh giác mà quán sát , thì bên trong được soi chiếu , bên ngoài cũng sáng tỏ , tuyệt dứt được tam độc, ngăn cấm được sáu lục tặc không cho quấy nhiễu. Và tự nhiên sẽ đạt được công đức vô biên như cát sông Hằng, trang nghiêm mọi bề và mọi pháp môn nhất nhất đều thành tựu. Từ phàm vượt lên được đến thánh, thấy được những điều cao siêu , chỉ trong một nháy mắt là có thể ngộ được. Ðâu cần phải lo bạc đầu? Nhưng cửa chân lý là bí ẩn, làm sao có thể nói rành rẽ ra được; ở đây ta chỉ lược thuật đôi phần về quán tâm vậy thôi.
    theo chánh đạo cho an toàn, mún tu mật mà chưa được quán đảnh thì chỉ nên tụng chú đại bi, ko được triệu thỉnh, ko hàng phục hại người

  3. #3

    Mặc định Ngộ tánh luận



    Ngộ tánh luận



    Bản chất của Ðạo là không tịch. Và tôn chỉ của người tu là lìa khỏi tướng. Kinh nói rằng: "Tịch diệt là bồ đề, bởi vì nó diệt hết mọi tướng." Phật có nghĩa là Giác. Người có được tâm giác là đạt được đạo bồ đề, cho nên gọi là phật . Kinh nói rằng: " Những ai lìa được mọi tướng tức gọi là chư phật." Phải biết rằng tướng có cái không tướng trong cái hữu tướng, điều ấy mắt thường không thể thấy được mà chỉ được nhận biết bằng trí tuệ. Ai nghe thấy mà phát lòng tin tưởng điều này là đã vào được pháp đại thừa, vượt lên trên khỏi ba cõi giới.


    Ba cõi giới không gì khác hơn là tham sân si. Vượt khỏi ba cõi giới có nghĩa là chuyển hướng tham sân si trở về giới định tuệ. Tham sân si đúng ra không có thực chất , nhưng chúng được gọi như vậy cũng bởi vì do chúng sanh mà ra. Nếu quán chiếu được tới cùng, sẽ thấy rằng bản tánh của tham sân si cũng đồng với tánh phật. Tánh phật không ở ngoài tánh của tham sân si. Kinh nói: "Chư phật từ trước tới nay vẫn thường ở nơi tam độc và từ đó nuôi dưỡng tịnh pháp cho lớn mạnh mà trở thành phật, thế tôn." Tam độc đó tức là tham sân si vậy.


    Ðại thừa là pháp tối thượng thừa, vì nó là cái xe chuyển vận của chư bồ tát Nhưng đã là bồ tát thì không có gì là thừa, mà cũng không có gì là không thừa cả. Suốt ngày bồ tát hằng thừa nhưng cũng là không thừa, nên gọi là phật thừa. Vì vậy kinh nói rằng: " Vô thừa chính là phật thừa vậy."


    Người nào nhận thức được sáu căn là không thực, năm uẩn là giả dối, rằng những cái ấy tìm khắp nơi thân cũng không thể nào kiếm được ở đâu, tức là đã hiểu được ngôn ngữ của phật. Kinh nói: "Hang động của ngũ uẩn chính là thiền viện . Soi chiếu bên trong được sáng tỏ là cửa đại thừa." Còn gì rõ hơn thế nữa?


    Không nhớ không chứa chấp một pháp nào hết gọi là thiền. Biết như thế thì đi, đứng, nằm, ngồi tất cả đều là thiền. Biết tâm là không tức là đã thấy được phật. Mười phương chư phật thẩy đều vô tâm. Không thấy tâm tức là thấy phật vậy.


    Xả thân mình không chút hối tiếc là đại bố thí. Lìa hết mọi động cũng như định là đại tọa thiền. Phàm phu lúc nào cũng hướng động, hàng tiểu thừa lúc nào cũng hướng định. Nhưng đại tọa thiền là vượt lên trên cả cái động của phàm phu và cái định của tiểu thừa. Người hiểu được điều ấy không cần phải cầu mà cũng tự lìa tướng được, không cần phải trị mà bệnh cũng tự dứt trừ, đó là nhờ cái định lực của đại thiền vậy.


    Ðem tâm cầu pháp thì đó là mê. Không đem tâm cầu pháp thì đó là ngộ. Không mắc vào chữ nghĩa văn tự gọi là giải thoát. Không nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp. Rời bỏ sanh tử gọi là xuất gia. Ðắc vô sanh gọi là đắc đạo. Chẳng sinh vọng tưởng gọi là niết bàn. Không ở trong vô minh gọi là đại trí tuệ. Không ở trong phiền não gọi là bát niết bàn .Tâm không thấy tướng gọi là bờ bên kia.


    Khi mê thì thấy có bờ bên này. Ngộ rồi thì không thấy bờ bên này nữa. Phàm phu đều trú ở bờ bên này. Nhưng người đã đạt tối thượng thừa thì không ở bờ bên này cũng không ở bờ bên kia. Họ lìa cả hai bờ. Còn thấy bờ bên này khác bờ bên kia tức là còn chưa hiểu được thiền vậy.


    Còn ở trong phiền não là còn chúng sanh. Giác ngộ rồi là bồ đề. Chúng sanh và bồ đề tuy không đồng là một, nhưng không khác biệt nhau. Bởi vì con người ta thường hay phân biệt mê và ngộ nên mới thấy khác. Khi mê thấy có cả một thế gian để vượt thoát ra ngoài, khi ngộ rồi, không thấy thế gian nào để thoát ra cả.


    Trong pháp bình đẳng, phàm nhân và thánh nhân đều được thấy như nhau. Kinh nói rằng: "Pháp bình đẳng là điều phàm nhân không thể nhập vào được, thánh nhân không thể hành được." Pháp này chỉ có bậc đại bồ tát và chư phật mới hành được mà thôi. Nếu có cái nhìn phân biệt sống và chết, động và tịnh khác nhau, đó tức là bất bình đẳng. Bình đẳng tức là thấy phiền não không khác với niết bàn, vì bản tánh của chúng đều là không cả. Hàng tiểu thừa thường vọng cầu đoạn dứt phiền não, vọng nhập niết bàn, nên rốt cuộc là kẹt ở nơi niết bàn. Nhưng bậc bồ tát biết phiền não bản tính là không, nên không lìa tánh không mà luôn ở trong niết bàn. Niết có nghĩa lả không sanh, Bàn có nghĩa là không tử. Vượt ngoài sanh tử gọi là bát niết bàn. Khi tâm không còn động, tức là đã nhập niết bàn. Niết bàn có nghĩa là tâm không lặng. Khi tâm dứt trừ vọng tưởng là chư phật nhập niết bàn. Khi phiền não đoạn diệt là bồ tát nhập đạo tràng.


    Chỗ không lặng là nơi không có tham, sân , si. Tham là cõi dục giới, sân là cõi sắc giới, si là cõi vô sắc giới. Một niệm sanh tức là nhập vào ba cõi giới đó. Một niệm diệt tức là ra khỏi ba cõi giới. Cho nên sự sanh và diệt của ba cõi giới, sự hiện hữu hay không hiện hữu của vạn pháp, tất cả đều do tâm mà ra. Phàm nói một pháp là cũng như phá vào những vật vô tình như gạch ngói, gỗ đá vậy.


    Nếu biết rằng tâm chỉ là giả danh, không có thực chất thì sẽ hiểu rằng tâm không phải là có mà cũng không phải là không có. Phàm nhân thường hay sanh tâm, nên chấp tâm là có. Hàng tiểu thừa thường muốn diệt tâm nên chấp tâm là không. Nhưng bậc bồ tát và chư phật thì không hề sanh tâm, cũng không hề diệt tâm. Vì vậy mới nói là "tâm chẳng phải có cũng chẳng phải không có." Cái tâm chẳng phải có cũng chẳng phải không có ấy gọi là Trung đạo.


    Nếu dùng tâm để học pháp, sẽ không hiểu được cả pháp lẫn tâm. Nếu không dùng tâm để học pháp, sẽ hiểu được cả tâm lẫn pháp. Người mê là mê ở nơi ngộ . Người ngộ là ngộ ở nơi mê. Khi không còn ở trong mê và ngộ nữa thì gọi là có chánh giác, chánh kiến.


    Có chánh kiến thì thấy rằng sắc không tự nó là sắc, bởi vì sắc do tâm mà ra. Tâm cũng không tự nó là tâm, vì tâm do sắc mà có. Sắc và tâm đều tương sanh, tương diệt lẫn nhau. Cái có là có do nơi cái không. Cái không là không do nơi cái có. Thấy như vậy mới là đúng thực. Có được cái thấy biết như vậy thì không có gì là thấy mà cũng không có gì là không thấy; thấy khắp mười phương mà cũng là không thấy: bởi vì không có gì để thấy cả, bởi vì thấy cái không thấy, bởi vì thấy không phải là thấy vậy. Cái thấy của phàm nhân là hư vọng. Cái thấy tịch diệt (cái thấy không lặng) là không có thấy, đó mới là cái thấy đúng thực.


    Tâm và cảnh là đối nhau, và từ trong cái đối đãi ấy mà cái thấy phát sinh. Nếu trong tâm chẳng khởi động thì ở ngoài làm gì có sanh cảnh. Khi tâm và cảnh đều tĩnh lặng thì đó mới là cái thấy đúng thực (chân kiến). Và khi hiểu được như vậy tức là đã có chánh kiến.


    Không thấy một pháp nào gọi là đắc đạo; không hiểu một pháp nào tức là hiểu pháp, bởi vì thấy không phải là thấy mà cũng chẳng phải là không thấy, hiểu không phải là hiểu mà cũng chẳng phải là không hiểu. Thấy cái không thấy mới là cái thấy đúng thực. Hỉểu cái không hiểu mới là cái hiểu đúng thực.


    Cái thấy đúng thực không phải là cái thấy đối đãi, mà là thấy ở nơi cái không thấy. Và cái hiểu đúng thực không phải là cái hiểu đối đãi, mà là hiểu ở nơi cái không hiểu. Nói là có cái để hiểu tức gọi là không hiểu. Không còn cái để hiểu mới đúng thực là hiểu. Hiểu chẳng phải là hiểu cũng chẳng phải là không hiểu vậy.


    Kinh nói rằng: "Không biết buông xả trí huệ tức là ngu si." Khi không chấp tâm thì hiểu hay không hiểu đều đúng cả. Chấp tâm thì hiểu hay không hiểu đều là hư vọng.


    Khi hiểu rồi thì pháp đều theo người. Khi không hiểu thì người theo pháp. Pháp theo người thì cái không pháp cũng trở thành pháp. Người theo pháp thì mọi pháp đều trở thành hư vọng. Pháp theo người thì mọi pháp đều trở thành đúng thực. Do đó mà thánh nhân không đem tâm để cầu pháp, cũng không lấy pháp để cầu tâm, hay lấy tâm để cầu tâm, lấy pháp để cầu pháp. Vì vậy mà tâm không sanh pháp, pháp không sanh tâm, tâm và pháp đều tĩnh lặng , cho nên thường được an định.


    Khi tâm chúng sanh khởi thì pháp phật diệt. Tâm chúng sanh diệt thì pháp phật sanh. Tâm sanh là chân pháp diệt. Tâm diệt là chân pháp sanh. Nếu biết được rằng mọi pháp không cái nào thuộc về nhau (không có trong đối đãi) là đã biết được đạo. Và biết rằng tâm không thuộc (không dính mắc theo) một pháp nào tức là đã thường ở nơi đạo tràng.


    Khi mê thì còn thấy tội. Hiểu rồi thì không thấy tội nữa. Ðó là vì tội bản chất là không. Khi mê thì không tội cũng nhìn ra là tội. Hiểu rồi thì tội chẳng phải là tội, vì tội không tìm thấy ở nơi đâu cả. Kinh nói: "Mọi pháp đều tự nó là vô tánh", dùng pháp không nên có nghi hoặc . Nghi là thành ra có tội. Tội là sanh ra từ nghi hoặc . Khi hiểu được như vậy rồi thì những nghiệp tội trong quá khứ đều tiêu trừ. Khi mê thì sáu căn và năm ấm đều là pháp của phiền não sinh tử. Ngộ rồi thì sáu căn và năm ấm trở thành pháp niết bàn không sanh tử.


    Người tu không hướng ngoại để cầu đạo, bởi vì họ biết tâm tức là đạo. Nhưng khi đã đạt tới tâm thì thấy không có tâm nào để đạt được cả. Và khi đắc đạo rồi mới biết không có đạo nào để mà đắc. Nếu nói là có thể đem tâm ra cầu đạo, thì đó gọi là tà kiến. Khi mê thì thấy có Phật, có pháp. Ngộ rồi không còn thấy pháp, thấy Phật. Ðó là bởi vì ngộ chính là pháp Phật vậy.


    Người tu đạo chỉ khi nào xả được thân mới có thể tìm được đạo, tựa như là cây tróc vỏ ra vậy. Thân thọ nghiệp này là vô thường, biến đổi theo từng sát na; nó không có cái gì nhất định cả. Hãy thường hay soi chiếu những niệm của mình. Ðừng ghét sanh tử, cũng đừng yêu sanh tử. Lúc nào cũng giữ tâm niệm tỉnh thức để đừng chạy theo vọng tưởng , như vậy khi sống cũng ngộ nhập được niết bàn, mà khi chết thì được vô sanh.


    Khi mắt nhìn thấy sắc mà không bị nhiễm sắc, tai nghe thanh âm mà không bị nhiễm thanh âm, thì đó tức là giải thoát. Mắt không vướng mắc nơi sắc là cửa Thiền; tai không vướng mắc nơi thanh âm cũng là cửa Thiền. Nói tóm lại, trông sắc mà thấy được tánh của sắc và không bị nhiễm vào đó là giải thoát. Còn nếu chỉ nhìn thấy cái hình tướng bên ngoài của sắc mà vướng mắc vào đó thì sẽ bị trói buộc. Không bị phiền não trói buộc là giải thoát , và không còn có sự giải thoát nào khác. Nếu có cái nhìn đúng nơi sắc, thì sắc không làm cho tâm động, sắc không sanh tâm, tâm không sanh sắc; tâm và sắc tự nó đều thanh tịnh.


    Khi không có vọng tưởng, tâm là nước Phật. Khi vọng tưởng sanh, tâm là địa ngục. Chúng sanh tạo tác vọng tưởng, lấy tâm sanh tâm, nên thường ở trong địa ngục. Bồ tát quán sát vọng tưởng, chẳng lấy tâm sanh tâm, nên thường ở nước Phật. Nếu không lấy tâm sanh tâm, mọi tâm đều trở thành không, mọi niệm thành thanh tịnh, từ đó mà đi hết nước phật này sang nước phật khác. Còn nếu lấy tâm sanh tâm, mọi tâm đều bất tịnh, mọi niệm khởi động, từ đó mà đi hết địa ngục này sang địa ngục khác. Khi một niệm khởi lên là có nghiệp thiện nghiệp ác, có thiên đường địa ngục. Khi không có niệm khởi thì không có nghiệp thiện nghiệp ác, thiên đường hay địa ngục nữa. Thể của thiên đàng địa ngục không phải có, cũng không phải không. Phàm nhân thấy có, thánh nhân thấy không; vì tâm thánh nhân vốn không lặng, nên thường rỗng rang bao la như bầu trời.




    Sau đây là những gì chứng được nơi hàng đại đạo trung thừa ; hàng tiểu thừa, phàm phu không thể nào có được cảnh giới như vậy.


    Khi tâm đạt niết bàn, thì không còn thấy có niết bàn nữa, vì chính niết bàn là tâm. Nếu thấy có niết bàn ở ngoài tâm, thì đó là tà kiến vậy.


    Mọi phiền não đều là hạt giống của như lai, bởi vì sự đau khổ phiền não khiến cho con người đi tìm sự hiểu biết của trí huệ. Nhưng chỉ nói rằng phiền não sanh như lai, chứ không thể nói phiền não là như lai được. Tâm thân này là ruộng điền, phiền não là hạt giống, trí huệ là cái mầm nẩy lộc, và như lai là lúa thóc thu hoạch được.


    Phật ở trong tâm giống như hương ở nơi thảo mộc. Tâm không còn phiền não thì phật hiển lộ, tựa như cây không mục nát thì hương tự phát ra. Không có hương nào ở ngoài cây , và không có phật nào ở ngoài tâm. Nếu có hương ở ngoài cây, tức đó là một hương khác. Nếu có phật nào ở ngoài tâm, tức đó là phật khác.


    Khi tam độc có trong tâm, đó gọi là quốc độ (đất) ô uế bất tịnh. Khi tam độc không có trong tâm, đó gọi là quốc độ thanh tịnh. Kinh nói: "Nếu quốc độ tràn ngập những ô uế bất tịnh thì không thể có chư phật thế tôn xuất ra từ đó được." Ô uế bất tịnh đó là vô minh và tam độc. Chư phật thế tôn đó là tâm giác ngộ thanh tịnh vậy.


    Trong mọi lời nói không có gì là không có pháp phật. Nếu không có chỗ để chấp vào thì nói suốt ngày cũng vẫn là Ðạo. Còn nếu có chỗ chấp thì dù suốt ngày im lặng cũng vẫn không là Ðạo. Cho nên như lai nói không phải ở nơi im lặng, im lặng không phải ở nơi nói; nói hợp với im lặng , nếu ngộ được ý nghĩa thì nói và im lặng đều ở trong tam muội (đều được chánh định). Nếu hiểu mà nói thì lời nói ấy là giải thoát. Không hiểu mà im lặng, sự im lặng cũng là ràng buộc. Cho nên lời nói mà lìa tướng thì lời nói ấy là giải thoát. Còn im lặng mà dính mắc nơi tướng thì im lặng ấy cũng là ràng buộc. Chữ nghĩa vốn là giải thoát, tự nó không ràng buộc , mà chính người ta đã đem ràng buộc vào chữ nghĩa.


    Pháp không có cao thấp. Nếu thấy có cao thấp thì không phải là pháp. Cái bè tự nó không phải là pháp. Nhưng cái bè đưa người qua sông thì đó là pháp. Dùng cái không phải pháp để độ qua sông được, thì đó là pháp vậy.


    Thế gian có nam có nữ, có người giầu kẻ nghèo. Nhưng Ðạo thì không phân biệt nam nữ, giầu nghèo. Một thiên nữ ngộ đạo không cần cởi bỏ tướng nữ của mình; một xa nặc ( người đánh xe) hiểu được lý đạo cũng không cần thay đổi thân phận xa nặc. Bất luận nam hay nữ, sang hay hèn, họ đều có đồng một tướng . Thiên nữ có bỏ ra 12 năm cầu thấy tướng nữ cũng chẳng được (theo kinh Duy ma Cật), mà có bỏ ra 12 năm cầu thấy tướng nam cũng khó thành. 12 năm là tượng trưng cho thập nhị nhập (sáu căn và sáu trần).


    Lìa tâm là không có phật. Lìa phật là không có tâm. Cũng tựa như nước và băng đá vậy. Lìa nước tất không có băng đá, và lìa băng đá tất không có nước. Nói lìa tâm không có nghĩa là đi xa rời tâm, mà là không dính mắc vào tướng của tâm. Kinh nói: "Không thấy tướng tức là thấy phật", có nghĩa là lìa tướng của tâm vậy.


    Lìa tâm không có phật có nghĩa là phật phát xuất từ tâm mà ra. Tâm có thể sanh phật, nên phật theo tâm mà sanh, nhưng phật không từng sanh tâm bao giờ. Cũng giống như cá và nước, cá sanh ra từ nước, nhưng nước không sanh ra từ cá. Nếu muốn thấy cá thì phải thấy nước trước rồi mới thấy cá được. Cũng vậy, muốn thấy phật phải thấy tâm trước rồi mới thấy phật. Khi thấy cá rồi thì quên nước , cũng như thấy phật rồi quên tâm. Nếu không quên được tâm, sẽ vì tâm mà bị lầm lạc. Cũng như nếu không quên được nước, sẽ vì nước mà bị mê hoặc.


    Chúng sinh và bồ đề cũng như nước với đá băng. Bị tam độc đốt cháy gọi là chúng sanh. Giải thoát được tam độc tức là bồ đề. Mùa đông thì đóng lại thành băng, mùa hè nóng chẩy ra thành nước, tất cả là một thể giống nhau. Bỏ băng đá đi sẽ không còn nước. Bỏ chúng sanh sẽ không còn bồ đề. Tánh của băng đá chính là tánh của nước, cũng như tánh của chúng sanh chính là tánh bồ đề. Chúng sanh và bồ đề đều cùng chung một tánh, không khác gì ô đầu và phụ tử (2 vị thuốc) đều cùng chung một rễ mà ra, nhưng vì do thời tiết mà có khác biệt với nhau. Vì mê ở trong cảnh khác với ngộ nên mới gọi là chúng sanh và bồ đề. Một con rắn hóa rồng không cần phải thay vẩy, cũng vậy, phàm trở thành thánh cũng không đổi mặt, mà nhờ trí huệ bên trong chiếu soi nên tâm được sáng tỏ, mà thân thì tự đã giữ giới.


    Chúng sanh độ phật và phật độ chúng sanh, đó là bình đẳng. Chúng sanh độ phật bởi vì phiền não khiến con người sinh ra giác ngộ. Phật độ chúng sanh vì giác ngộ làm tiêu trừ phiền não. Nếu không có phiền não thì không có gì để làm giác ngộ sanh được. Cũng như không có giác ngộ thì không có gì làm tiêu trừ phiền não. Khi mê thì phật độ chúng sanh. Khi ngộ thì chúng sanh độ phật. Phật không phải tự thành được, mà do chúng sanh độ mà ra. Phật xem vô minh là cha, tham ái là mẹ. Vô minh và tham ái là tên gọi khác của chúng sanh mà thôi. Chúng sanh và vô minh cũng như cánh tay phải và cánh tay trái vậy, không có gì khác.


    Khi mê thì ở bờ bên này. Ngộ rồi thì ở bờ bên kia. Nhưng khi đã biết tâm là không thì không còn thấy tướng, ra khỏi cả mê lẫn ngộ. Và khi đã ra khỏi mê lẫn ngộ rồi thì không còn bờ bên kia nữa. Như Lai không ở bờ bên này, cũng không ở bờ bên kia, và cũng không ở giữa giòng. Hàng tiểu thừa là ở giữa giòng; phàm phu là ở bờ bên này, và bồ tát là ở bờ bên kia vậy.


    Phật có ba thân: hóa thân, báo thân và pháp thân. Hóa thân cũng gọi là ứng thân. Khi chúng sanh tạo những việc lành thì hóa thân hiện; khi tu trí huệ thì báo thân hiện, và khi giác ngộ vô vi thì pháp thân hiện. Bay khắp mười phương, tùy nghi mà cứu độ chúng sinh là hóa thân vậy. Dứt trừ nghi hoặc, thành đạo nơi núi tuyết là báo thân vậy. Không nói, không làm, không được, yên lặng thường trụ là pháp thân vậy. Nhưng xét cho cùng thì một phật cũng còn không có, huống hồ là ba . Nói đến ba thân phật là dựa vào cái trí con người có thượng, trung và hạ căn. Kẻ hạ trí chỉ vọng cầu lấy phước, chỉ mong thấy được hóa thân phật. Kẻ trung trí vọng cầu dứt đoạn phiền não, chỉ mong thấy được báo thân phật. Người thượng trí vọng chứng bồ đề, mong thấy pháp thân phật. Người thượng thượng trí bên trong sáng tỏ vắng lặng, tâm sáng tức là phật, không đợi tâm mà phật quả vẫn thành. Mới biết ba thân cũng như mọi pháp khác, đều không lấy được, cũng không thể nói ra được; đó tức là tâm giải thoát rồi thì tự thành đại đạo. Kinh nói: "Phật không thuyết pháp, không độ chúng sanh, và cũng chẳng chứng bồ đề," tức là ý nghĩa đó vậy .


    Chúng sanh tạo nghiệp, nghiệp lại dẫn chúng sanh. Kiếp này tạo nghiệp, kiếp sau thọ báo, chẳng thể nào thoát khỏi được. Chỉ có người đã đạt được sự hiểu biết tuy còn ở trong thân này nhưng không tạo nghiệp nên không phải thọ báo. Kinh nói: "Không tạo nghiệp thì tự nhiên được đạo", đó không phải là lời nói rỗng vậy. Người tạo ra nghiệp nhưng nghiệp không hay tạo ra người. Khi tạo ra nghiệp rồi thì sẽ sinh ra cùng với nghiệp. Nếu không tạo nghiệp thì nghiệp với người cũng tiêu diệt. Cho nên, nghiệp do người tạo, người do nghiệp mà sanh . Nếu người không tạo nghiệp, tức nghiệp không do đó mà sanh người. Cũng như thế, "người có thể làm lớn đạo, đạo không thể làm lớn người".


    Phàm phu không ngừng tạo nghiệp, lại còn nói càn là không có nghiệp báo. Nhưng họ có thể chối bỏ được sự đau khổ không? Tâm trước tạo, tâm sau báo, điều ấy có lúc nào mà thoát được ? Nếu tâm trước không tạo, thì tâm sau không báo, làm sao còn thấy nghiệp báo được? Kinh nói: "Tin là có phật, nhưng lại nói rằng phật khổ hạnh, thì đó là tà kiến. Còn nếu tin có phật, nhưng nói phật thọ báo nên được giầu hay nghèo, thì đó là xiển đề, không thể có chánh tín."


    Người hiểu được pháp của thánh gọi là thánh nhân. Người hiểu pháp phàm gọi là phàm nhân. Phàm phu bỏ pháp phàm mà theo được pháp thánh thì đó là phàm phu thành thánh nhân vậy. Nhưng những kẻ ngu si chỉ muốn cầu thánh nhân ở những nơi xa xôi, họ không tin rằng cái tâm hiểu biết nơi chính họ là thánh nhân vậy. Kinh nói: " Ðối với người vô tri, đừng nói kinh này." Lại nói, "Tâm tức là pháp vậy." Người vô tri không tin ở nơi tâm họ, không tin rằng hiểu pháp này sẽ làm cho họ trở thành thánh nhân được, mà chỉ vọng cầu xa xôi , tìm học ở ngoài, ái mộ những hình tượng phật trống rỗng, với ánh sáng hào quang, hương sắc đủ loại, vì vậy mà dễ đọa vào nơi tà kiến, mất tâm cuồng trí.


    Kinh nói: "Nếu thấy mọi tướng không phải là tướng, tức là đã thấy được như lai." Tám vạn bốn ngàn pháp môn thẩy đều từ do tâm mà ra. Nếu trong tâm tướng tĩnh lặng, giống như hư không, tức là đã ra khỏi được tám vạn bốn ngàn phiền não trong tâm thân.


    Bệnh tật vốn là do khổ não mà ra. Phàm phu đang sống thì sợ chết, đang no thì lo đói, đó là đại mê hoặc. Cho nên thánh nhân không ngẫm đến việc trước , chẳng lo đến việc sau, cũng không vướng mắc đến việc hiện tại, mọi niệm đều trở về đạo. Nếu chưa ngộ được lý đạo, hãy mau tìm thiện tri thức nơi cõi trời người, đừng để mất lỡ cả hai đường.
    theo chánh đạo cho an toàn, mún tu mật mà chưa được quán đảnh thì chỉ nên tụng chú đại bi, ko được triệu thỉnh, ko hàng phục hại người

  4. #4

    Mặc định

    thuốc trợ tim thì không được dùng lung tung, vì tuy nó là thuốc nhưng cũng là một loại độc dược.
    không tùy căn tánh trình độ mà giảng pháp thì chẳng khác bưng thuốc độc cho người
    Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ.

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    thuốc trợ tim thì không được dùng lung tung, vì tuy nó là thuốc nhưng cũng là một loại độc dược.
    không tùy căn tánh trình độ mà giảng pháp thì chẳng khác bưng thuốc độc cho người
    ----------------------
    thuốc trợ tim thì có rất nhiều người bệnh tim uống ,cần uống,còn nếu có thuốc mà cứ sợ không đem ra thì mấy người bệnh lấy gì uống?và chỉ có người đúng bệnh đọc mới hiểu còn khác bệnh đọc không hiểu,,,không hiểu thì sau này từ từ họ sẽ hiểu,chứ đâu phải độc dược đâu mà chết chứ thày
    --câu chuyện
    mẹ:ong thầy kia khuyen nhỏ đó làm gì ,nó lì lắm khong nghe đâu
    con :bây giờ cô gái khong nghe ,nhưng saU KHI CHẾT mang tội đầy mình,đọa đày địa ngục,có lẽ cô gái nhớ đến lời thày mà niệm phật tu hành trong cõi giới địa ngục,sẽ mau sớm dc siêu sanh ,và khi dc sanh làm người cô gái ấy sẽ tu hành tinh tấn ,con tin là vậy,một đứa con mới mấy tuổi đầu phân tích cho người mẹ già nua nghe,vậy khong có gì là khong lợi ích cả.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhutri Xem Bài Gởi
    ----------------------
    thuốc trợ tim thì có rất nhiều người bệnh tim uống ,cần uống,còn nếu có thuốc mà cứ sợ không đem ra thì mấy người bệnh lấy gì uống?và chỉ có người đúng bệnh đọc mới hiểu còn khác bệnh đọc không hiểu,,,không hiểu thì sau này từ từ họ sẽ hiểu,chứ đâu phải độc dược đâu mà chết chứ thày
    --câu chuyện
    mẹ:ong thầy kia khuyen nhỏ đó làm gì ,nó lì lắm khong nghe đâu
    con :bây giờ cô gái khong nghe ,nhưng saU KHI CHẾT mang tội đầy mình,đọa đày địa ngục,có lẽ cô gái nhớ đến lời thày mà niệm phật tu hành trong cõi giới địa ngục,sẽ mau sớm dc siêu sanh ,và khi dc sanh làm người cô gái ấy sẽ tu hành tinh tấn ,con tin là vậy,một đứa con mới mấy tuổi đầu phân tích cho người mẹ già nua nghe,vậy khong có gì là khong lợi ích cả.
    biết là lửa đó mà bốc tay vào, nếu là trẻ con thì người ta còn nó vô tri không hiểu, nếu là người muốn chơi ngông mà bốc than đỏ mà chơi giỡn dẫn đến họa thiêu thân thì người đời cho đó là kẻ ngu đần
    Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ.

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    biết là lửa đó mà bốc tay vào, nếu là trẻ con thì người ta còn nó vô tri không hiểu, nếu là người muốn chơi ngông mà bốc than đỏ mà chơi giỡn dẫn đến họa thiêu thân thì người đời cho đó là kẻ ngu đần
    -------------------
    thầy nói cao siêu quá ,tôi không hiểu chút xíu gì ?
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  8. #8

    Mặc định

    có tới nỗi thế ko, tôi xem ý nghĩa cũng hay mà
    theo chánh đạo cho an toàn, mún tu mật mà chưa được quán đảnh thì chỉ nên tụng chú đại bi, ko được triệu thỉnh, ko hàng phục hại người

  9. #9

    Mặc định

    vậy hình như đạo hữu đã quên 2 nguyên tắc khế lý và khế cơ chăng?
    Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ.

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi khoatin Xem Bài Gởi
    có tới nỗi thế ko, tôi xem ý nghĩa cũng hay mà
    -------------------
    chỉ những người đau tim uống mới hết,cái thấy của dbn có nhưng khong rõ,
    -ý mình chỉ những người gần thấy dc tự tánh ,hay tâm thuần khiết ,khong chấp mới hiểu dc những gì của bài viết trên ,còn không thì họ sẽ rơi vào đọc chấp -không-,u mê tiếp u ám ,thế thôi.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  11. #11

    Mặc định

    bài viêt này nói rất rõ ràng ,thật hay
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  12. #12

    Mặc định

    Bài này em đọc cũng hiểu được chút ít. Nhưng văn phong dường như rất hùng hồn, đọc thấy thích :D

  13. #13

    Mặc định

    rất tuyệt vời ,phải may mắn lắm mới đọc dc bài này,phải trí tuệ lắm mới hành theo pháp này ,với sự an nhiên và thành thục.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

  14. #14

    Mặc định

    Lại nhớ đến chuyện con Khỉ họ Tôn lại được ông thầy dạy 72 phép thần thông :p

    vote 1 phiếu :)

  15. #15
    Nhị Đẳng Avatar của Ma ba tuần
    Gia nhập
    Sep 2011
    Nơi cư ngụ
    Nhà của Ta
    Bài gởi
    2,145

    Mặc định

    @minh thái :đạo phật khác xa tây du kí nhiều ,hình như bạn hình dung đạo phật giống tây du kí nhỉ

    có những điểm nó viết sai hoàn toàn về tông chỉ PG , nói chung tây du kí rất là hiểu nông cạn về phật giáo mặc dù cốt truyện của nó thì ok.
    Người đi trong mộng....

  16. #16

    Mặc định

    mt thấy Tây du ký có nhiều triết lý hay thôi, áp dụng vào đâu cũng đc, cũng ko cần phân biệt nó nói về tôn giáo hay ko tôn giáo :)
    Ví dụ như tưởng con khỉ là dốt nhất trong đám học trò toàn người, ăn uống chẳng khác người thường, đi đâu cũng bị cười chế diễu, chữ chắc là nó cũng chẳng biết để đọc sách nghiên cứu,về sau lại đắc đạo :D

  17. #17
    Nhị Đẳng Avatar của Ma ba tuần
    Gia nhập
    Sep 2011
    Nơi cư ngụ
    Nhà của Ta
    Bài gởi
    2,145

    Mặc định

    đọc sách thuốc có khi nào khỏi bệnh

    phải uống thuốc chứ
    Người đi trong mộng....

  18. #18

    Mặc định

    Huyết Mạch , Phá Tướng , Ngộ Tánh , khá khen hành giả , cố tri nhé .....

  19. #19

    Mặc định

    Mấy thầy giỏi quá, tôi nhìn vô chóng mặt, tối tăm mặt mũi, chẳng thấy trời trăng mây nước gì cả, hichic.

  20. #20

    Mặc định

    quán tâm khong nhưng khong chấp không ,đã là vô pháp ,phá chấp tướng thân, hành ,ý,vôphap ,còn chọc tiểu bôi làm gì chứ,hả.
    VẤN TÂM VÔ HẬN

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Xin được chia sẻ và học hỏi về Đạo và Đời - II
    By Richardhieu05 in forum Đạo Học - Học Đạo
    Trả lời: 1724
    Bài mới gởi: 21-04-2016, 09:53 AM
  2. TU TẬP THIỀN QUÁN để DIỆT TRỪ TÂM DÂM DỤC
    By Nicholas268 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-11-2011, 03:08 PM
  3. Ý nghĩa và Quan niệm về MA trong Phật Giáo
    By scorpio_89 in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 8
    Bài mới gởi: 13-04-2011, 10:13 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •