Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 25

Ðề tài: Thiền Nguyên Thủy?

  1. #1

    Mặc định Thiền Nguyên Thủy?

    Xin các Thầy các Bạn cho phattu hỏi chút.
    Thiền theo phật giáo nguyên thủy có phải là Thiền Minh Sát và Tứ Niệm Xứ không vậy? Thực sự khi mà đọc về mấy cái minh sát và tứ niệm xứ phattu thấy không hiểu chi cả, vậy làm sao mà nhảy vô tập được?
    phttu có xem qua trong cuốn "Thanh tịnh đạo" và "đức phật và phật pháp". Có nói về các đề mục tu như dùng: đất, nước, gió, lửa, xác chết... làm đề mục thiền quán.
    phattu thấy bây giờ có vẻ ít người thiền theo mấy cái đề mục này, không biết là vì sao hỷ?

  2. #2

    Mặc định thiền nguyên thủy

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    Xin các Thầy các Bạn cho phattu hỏi chút.
    Thiền theo phật giáo nguyên thủy có phải là Thiền Minh Sát và Tứ Niệm Xứ không vậy? Thực sự khi mà đọc về mấy cái minh sát và tứ niệm xứ phattu thấy không hiểu chi cả, vậy làm sao mà nhảy vô tập được?
    phttu có xem qua trong cuốn "Thanh tịnh đạo" và "đức phật và phật pháp". Có nói về các đề mục tu như dùng: đất, nước, gió, lửa, xác chết... làm đề mục thiền quán.
    phattu thấy bây giờ có vẻ ít người thiền theo mấy cái đề mục này, không biết là vì sao hỷ?
    Từ tứ chỉ rỏ ràng luôn nhe giờ nhìn sơ qua nhưng đang quá bận hẹn 22gio

    ngày hôm nay đánh máy tiếp

  3. #3
    Người Khăn Trắng
    Guest

    Mặc định

    Bạn quán hơi thở ra vào: "Thở vào tôi biết tôi đang thở vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra" Hãy để cho hơi thở hoạt động 1 cách tự nhiên (Ko đè nén) chỉ để ý và duy trì cái biết ra vào của hơi thở là được. Chúc bạn thành công

  4. #4

    Mặc định

    Xin chào Phattu, Thiền Tứ Niệm Xứ là phương pháp hành thiền do chính Ðức Phật khám phá ra, đã tự mình thực hành, và sau khi đạt được kết quả tốt đẹp, Ngài đã đem phương pháp này ra dạy dỗ trong suốt bốn mươi lăm năm. Trong suốt bốn mươi lăm năm này Ðức Phật đã giảng giải Kinh Ðại Niệm Xứ nhiều lần. Sau khi Ðức Phật niết bàn, phương pháp hành Thiền Minh Sát đã được chư tăng đọc tụng lại và sau đó đã được ghi lại bằng chữ viết và xếp vào Tạng Kinh. Những người hành Thiền Minh Sát một cách nghiêm túc phải dựa trên căn bản của đoạn kinh này hay dựa trên toàn thể Kinh Ðại Niệm Xứ để thực hành.
    4 niệm xứ đó là:
    -Quán sát thân trong thân
    -Quán sát thọ trong thọ
    -Quán sát tâm trong tâm
    -Quán sát pháp trong pháp

    Bạn hãy dành thời gian để xem quyển Đại Niệm Xứ của Thiền sư U Silananda, các khái niệm được giải thích rõ ràng, cách hành thiền...:
    http://www.buddhanet.net/budsas/uni/...xu/dnx-idx.htm

  5. #5

    Mặc định

    @ Phattu, bạn đã đọc Thanh tịnh đạo của ngài Phật Âm, chắc bản hiểu cơ bản pháp hành của Đạo Phật là Giới - Định - Tuệ. Tuy nhiên, trong Kinh Niệm xứ, chỉ có 2 yếu tố Định và Tuệ được nêu rõ, tức là có chỉquán.
    Trong phần quán thân trong thân của tứ niệm xứ có pháp quán hơi thở (như bạn Người Khăn Trắng đã hướng dẫn ở trên) là một yếu tố rất quan trọng để có được định tâm và đó là cơ sở để tuệ quán phát sinh.

    Tuy nhiên, Giới là yếu tố rất quan trọng để sinh Định, như ngài Phật Âm viết, Giới là mảnh đất (đất Giới) để cây Định mọc lên và ra quả Tuệ.
    Do đó, trước khi đi vào thực hành, bạn bắt buộc phải thọ Giới (5 giới, 8 giới hoặc 10 giới).

    Còn các đề mục thiền bạn đề cập ở trên là các cách khác nhau để có được định tâm cũng giống như pháp quán niệm hơi thở trong tứ niệm xứ mà thôi. Đó là 36 đề mục hữu sắc (trong đó có đề mục hơi thở) và 4 đề mục vô sắc. Tuy nhiên, không phải đề mục nào cũng đưa đến an định, ví dụ như đề các mục niệm ân đức Phật chỉ đưa đến cận định, các đề mục về kasiná như Đất Nước Gió Lửa, hơi thở đưa đến an định.

  6. #6

    Mặc định

    Cám ơn mọi người nha! phattu nghe nói nhiều đến cuốn "thanh tịnh đạo" cho nên thử mò vào đọc qua thì thấy các đề mục thiền là như thế thôi chứ đọc cuốn đó phattu hiểu không nổi nên cũng không đọc được nhiêu cả. Nhưng cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" của Ngài Narada có phần hướng dẫn thì khá dễ hiểu và dễ thực hiện.

    Có lẽ phép "quán hơi thở" là phổ biến và dễ áp dụng nhất nhưng chỉ quán hơi thở không thôi cũng đã có rất nhiều cách. Nhưng có lẽ cách mà huynh NguoiKhanTrang là gặp nhiều trong các Kinh Sách nhưng đã có ai đạt được các tầng Thiền khi áp dụng cái này chưa? Sao ta không dùng các đề mục hữu sắc kia trước hết để định tâm vững chắc đã?
    phattu có đọc qua các Kinh, Sách thấy rất nhiều sách nói phải trụ tâm vào 1 điểm nói rất gần với việc quán các đề mục hữu sắc kia.

    phattu nghĩ mình tập thế này mọi người xem có được không nha: Trước hết dùng các đề mục hữu sắc để giữ tâm tập trung vào một điểm, khi định lực mạnh rồi mới quán 4 niệm xứ....

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    phattu nghĩ mình tập thế này mọi người xem có được không nha: Trước hết dùng các đề mục hữu sắc để giữ tâm tập trung vào một điểm, khi định lực mạnh rồi mới quán 4 niệm xứ....
    Ủng hộ bạn! Bạn hãy hành để thực chứng.
    Tuy nhiên, căn tính của từng người phù hợp với từng đề mục chứ không phải đề mục nào cũng thử đâu.
    Ðối với các tâm tánh, mười đề mục về sự Bất Tịnh (ô trược) của thân và đề mục Niệm Thân", như 32 phần (của thân), là thích hợp với người có bẩm tánh tham ái.

    Ðề mục "Tứ Vô Lượng Tâm" và bốn kasiṇas màu thích hợp với những ai có bẩm tánh sân hận.

    Ðề mục Niệm Hơi Thở" thích hợp với những ai có bẩm tánh si mê và phóng dật.

    Sáu đề mục "Suy Niệm về Ðức Phật v.v..." thích hợp với những người bẩm tánh có nhiều đức tin; Suy niệm về "Sự Chết", về "Trạng Thái Thanh Bình An Lạc", "Quán Tưởng" (tánh cách ô trược của vật thực) và "Phân Tách" (Tứ Ðại) thích nghi với những người có chiều hướng thiên về trí thức; và tất cả những đề mục tu niệm còn lại thích hợp với tất cả mọi bẩm tánh.

    Về những kasiná, một hình tướng rộng lớn thích hợp với người có khuynh hướng si mê, hình tướng nhỏ thích hợp với người có bẩm tánh phóng dật.

    Theo cá nhân tôi, hơi thở là 1 đề mục rất dễ hành. Bất cứ ở đâu, chỗ nào mà không cần thiết phải là một trú xứ hoặc thời gian nhất định.

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    Xin các Thầy các Bạn cho phattu hỏi chút.
    Thiền theo phật giáo nguyên thủy có phải là Thiền Minh Sát và Tứ Niệm Xứ không vậy? Thực sự khi mà đọc về mấy cái minh sát và tứ niệm xứ phattu thấy không hiểu chi cả, vậy làm sao mà nhảy vô tập được?
    phttu có xem qua trong cuốn "Thanh tịnh đạo" và "đức phật và phật pháp". Có nói về các đề mục tu như dùng: đất, nước, gió, lửa, xác chết... làm đề mục thiền quán.
    phattu thấy bây giờ có vẻ ít người thiền theo mấy cái đề mục này, không biết là vì sao hỷ?
    Tóm lại: bạn chẳng cần theo pháp nào cả

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    Xin các Thầy các Bạn cho phattu hỏi chút.
    Thiền theo phật giáo nguyên thủy có phải là Thiền Minh Sát và Tứ Niệm Xứ không vậy? Thực sự khi mà đọc về mấy cái minh sát và tứ niệm xứ phattu thấy không hiểu chi cả, vậy làm sao mà nhảy vô tập được?
    phttu có xem qua trong cuốn "Thanh tịnh đạo" và "đức phật và phật pháp". Có nói về các đề mục tu như dùng: đất, nước, gió, lửa, xác chết... làm đề mục thiền quán.
    phattu thấy bây giờ có vẻ ít người thiền theo mấy cái đề mục này, không biết là vì sao hỷ?
    Để tu học thiền nguyên thủy bạn có thể tham gia đoàn thanh niên Phật Quang, thời gian và địa chỉ tu tập:
    18h30 thứ 5 hàng tuần tại chùa Cát Linh, ngõ 27 phố Cát Linh.
    7h00 CN hàng tuần tại chùa Phổ Linh nằm trên đường vào Phủ Tây Hồ.
    Web: http://thanhnienphathanh.org/forum/

  10. #10

    Mặc định

    Có một trang rất hay nữa là nguyenthuychonnhu.net

  11. #11

    Smile

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    Cám ơn mọi người nha! phattu nghe nói nhiều đến cuốn "thanh tịnh đạo" cho nên thử mò vào đọc qua thì thấy các đề mục thiền là như thế thôi chứ đọc cuốn đó phattu hiểu không nổi nên cũng không đọc được nhiêu cả. Nhưng cuốn "Đức Phật và Phật Pháp" của Ngài Narada có phần hướng dẫn thì khá dễ hiểu và dễ thực hiện.

    Có lẽ phép "quán hơi thở" là phổ biến và dễ áp dụng nhất nhưng chỉ quán hơi thở không thôi cũng đã có rất nhiều cách. Nhưng có lẽ cách mà huynh NguoiKhanTrang là gặp nhiều trong các Kinh Sách nhưng đã có ai đạt được các tầng Thiền khi áp dụng cái này chưa? Sao ta không dùng các đề mục hữu sắc kia trước hết để định tâm vững chắc đã?
    phattu có đọc qua các Kinh, Sách thấy rất nhiều sách nói phải trụ tâm vào 1 điểm nói rất gần với việc quán các đề mục hữu sắc kia.

    phattu nghĩ mình tập thế này mọi người xem có được không nha: Trước hết dùng các đề mục hữu sắc để giữ tâm tập trung vào một điểm, khi định lực mạnh rồi mới quán 4 niệm xứ....
    Thiền hơi thở thì dễ đi đến Minh Sát Quán và Minh Sát Tuệ.

    Các đề mục Kasina hữu sắc thì không dễ dẫn đến tuệ.

    Đó là lý do trong Kinh Tứ Niệm Xứ, Thế Tôn đề cập đến Thiền Hơi Thở mà không đề cập đến các loại Thiền khác.

  12. #12

    Mặc định

    thấy đạo hữu nhắc đến thiền nguyên thủy ! asmita nhớ có đọc một bài kinh về việc quán xác chết và nhiếp phục sợ hãi, xin được chia sẻ với các đạo hữu, bài kinh do sư Thích Minh Châu dịch.
    4. KINH SỢ HÃI KHIẾP ÐẢM
    (Bhayabherava Sutta)
    Như vầy tôi nghe.
    Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô
    Ðộc). Rồi Bà-la-môn Janussoni đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm
    với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
    xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni bạch Thế Tôn:
    -- Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử, vì lòng tin Tôn giả Gotama, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
    không gia đình. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Ðối với những vị này, Tôn giả
    Gotama giúp ích rất nhiều. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị khích lệ sách tấn. Các vị này
    chấp nhận tuân theo quan điểm của Tôn giả Gotama.
    -- Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, có những Thiện nam
    tử, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta là vị lãnh đạo của họ. Ta đã
    giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích lệ sách tấn cho họ. Và các vị này chấp nhận tuân theo quan
    điểm của Ta.
    -- Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn
    đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị
    Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
    -- Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn
    những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức
    đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
    Này Bà-la-môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ chánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát, Ta nghĩ như sau:
    "Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly!
    Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa
    chứng Thiền định!"
    Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh,
    sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không
    thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện
    khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
    vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với thân nghiệp thanh tịnh, sống tại
    các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn
    thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có
    khẩu nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có ý nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có mạng sống
    không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước
    mạng sống không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp
    đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có mạng sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
    rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với mạng sống thanh
    tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống
    hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham
    dục, có ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
    trước tham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
    hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng
    trong rừng núi hoang vu. Ta không có tham dục, Ta là một trong những bậc Thánh, không có tham dục,
    sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có tham
    dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm
    sân hận ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có tâm
    sân hận ác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện
    khởi lên. Ta không có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta có từ
    tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu".
    Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta có từ tâm như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
    sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn
    trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
    trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
    hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng,
    trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh không có
    hôn trầm thụy miên, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán
    sát Ta không có hôn trầm thụy miên như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống
    trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao
    động, tâm không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
    trước bị dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
    hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có dao động, tâm không phải không an tịnh, sống tại các trú
    xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có dao động, tâm được an tịnh. Ta là một trong những
    bậc Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu".
    Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta được an tịnh như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng
    hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi
    hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước nghi
    hoặc, do dự, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện
    khởi lên. Ta không có nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta diệt trừ
    được do dự. Ta là một trong những bậc Thánh diệt trừ được nghi hoặc, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
    rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được nghi hoặc như vậy, tự cảm thấy
    lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen
    mình, chê người sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước khen
    mình, chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất
    thiện khởi lên. Ta không có khen mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu.
    Ta không có khen mình, không có chê người, Ta là một trong những bậc Thánh không có khen mình,
    không có chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán
    sát tâm Ta không có khen mình, không có chê người như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng
    hơn, khi sống trong rừng núi.
    Kinh Trung Bộ Page 18 of 809
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy,
    sợ hãi sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy, sợ hãi,
    những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta
    không có run rẩy, sợ hãi, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có lông tóc
    dựng ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta
    không có lông tóc dựng ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng ngược như
    vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham
    muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên
    nhân nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
    ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi dưỡng, cung
    kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một
    trong những bậc Thánh ít dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta
    tự quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
    núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng
    nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước
    biếng nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp
    đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
    núi hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta là một trong những bậc Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại
    các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta siêng năng, tinh tấn
    như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất
    niệm, không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
    trước thất niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi,
    khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa
    vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm. Ta là một trong những bậc Thánh an trú niệm, sống tại
    các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự
    cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không
    định tĩnh, tâm bị tán loạn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm
    trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ
    hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán loạn sống tại các trú xứ xa vắng,
    trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu định tâm. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu định tâm,
    sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu định
    tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt tuệ,
    đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm trước liệt tuệ, đần
    độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên.
    Ta không có liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu trí tuệ.
    Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
    vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng
    hơn, khi sống trong rừng núi.
    Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Trong những đêm được biết đến, được xác
    định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng
    núi, tự miếu tại các cây cối, để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy". Này Bà-la-môn, sau một thời
    gian, trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi
    nữa tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược như vậy,
    như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong
    khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm
    rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: "Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!". Này Bà-la-môn, rồi Ta
    suy nghĩ: "Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi
    cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt sợ hãi khiếp đảm
    ấy".
    Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta
    không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh
    hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-lamôn,
    Ta không kinh hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy
    trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này
    Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp
    đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì
    này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi
    khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.
    Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống như
    ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ
    rằng đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau:
    "Vị hữu tình nào không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì
    lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói
    một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: "Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc
    cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc
    cho loài Trời và loài Người".
    Này Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn, không lười biếng. Ta an trú chánh niệm, không có loạn, thân được
    khinh an, không có dao động, tâm được định tĩnh, chuyên nhất.
    Này Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
    sanh, với tầm với tứ.
    Diệt tầm, diệt tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không
    tứ, nội tĩnh nhất tâm.
    Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta
    chứng và an trú Thiền thứ ba.
    Xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả
    niệm thanh tịnh.
    Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
    bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một
    đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi
    đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
    nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau
    khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này. Tại chỗ này, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế
    này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
    này. Sau khi chết tại chỗ này, Ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng
    với các nét đại cương và các chi tiết.
    Này Bà-la-môn, trong đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối
    diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
    Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
    bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh
    siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao
    sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng
    sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến,
    tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
    thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những
    thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến,
    tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các
    thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của
    chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may
    mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
    Này Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối
    diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
    Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
    bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: "Ðây là khổ", thắng tri
    như thật: "Ðây là nguyên nhân của khổ", thắng tri như thật: "Ðây là khổ diệt", thắng tri như thật: "Ðây là
    con đường đưa đến khổ diệt", thắng tri như thật: "Ðây là những lậu hoặc", thắng tri như thật: "Ðây là
    nguyên nhân các lậu hoặc", thắng tri như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", thắng tri như thật: "Ðây là con
    đường đưa đến các lậu hoặc diệt".
    Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
    minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri:
    "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
    Này Bà-la-môn trong đêm canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt,
    ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật nhiệt tâm tinh cần.
    Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: "Nay Sa-môn Gotama chưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ
    sân, chưa diệt trừ si, nên sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, chớ có
    hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu.
    Tự thấy sự hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai.
    -- Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh
    Ðẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Như người dựng
    đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc
    hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã
    được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con quy y Tôn giả Gotama, quy y
    Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi anhtudj Xem Bài Gởi
    Để tu học thiền nguyên thủy bạn có thể tham gia đoàn thanh niên Phật Quang, thời gian và địa chỉ tu tập:
    18h30 thứ 5 hàng tuần tại chùa Cát Linh, ngõ 27 phố Cát Linh.
    7h00 CN hàng tuần tại chùa Phổ Linh nằm trên đường vào Phủ Tây Hồ.
    Web: http://thanhnienphathanh.org/forum/
    cho mình hỏi sao thay vì đọc/ tụng kinh mà lại hát vậy? lạ quá, mình chưa thấy bao giờ, hay tại mình không biết gì về PG nên thấy vậy hả bạn?

  14. #14

    Mặc định

    Thiền nguyên thủy hay còn gọi là thiền Như Lai phải không mấy huynh...

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi california Xem Bài Gởi
    Thiền nguyên thủy hay còn gọi là thiền Như Lai phải không mấy huynh...
    Đúng vậy, thiền Như lai chính là thiền Nguyên thủy. Mời bạn xem bài của hòa thượng Minh Châu về vấn đề này.

    http://www.buddhanet.net/budsas/uni/1-bai/phap021.htm

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    Xin các Thầy các Bạn cho phattu hỏi chút.
    Thiền theo phật giáo nguyên thủy có phải là Thiền Minh Sát và Tứ Niệm Xứ không vậy? Thực sự khi mà đọc về mấy cái minh sát và tứ niệm xứ phattu thấy không hiểu chi cả, vậy làm sao mà nhảy vô tập được?
    phttu có xem qua trong cuốn "Thanh tịnh đạo" và "đức phật và phật pháp". Có nói về các đề mục tu như dùng: đất, nước, gió, lửa, xác chết... làm đề mục thiền quán.
    phattu thấy bây giờ có vẻ ít người thiền theo mấy cái đề mục này, không biết là vì sao hỷ?
    BẠN TÌM HỌC QUYỂN SƠ THIỀN TRƯỚC, THÀNH THỤC RỒI MỚI HỌC ĐẾN MINH SÁT, TỨ NIỆM XỨ. BAN ĐẦU MÀ BẠN ĐỌC PHẢI 2 CUỐN ĐÓ LÀ RẤT KHÓ HIỂU. ĐỨC PHẬT DẠY RỒI LẤY VÍ DỤ CỤ THỂ NÊN RẤT DỄ HIỂU, ĐẾN ĐỜI SAU CÁC VỊ CÀNG LUẬN , RỒI LUẬN , SÁCH VIẾT RẤT NHIỀU NHƯNG CÀNG LÀM NHIỀU NGƯỜI RỐI TRÍ KHÓ HIỂU.

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vothuy01 Xem Bài Gởi
    Tóm lại: bạn chẳng cần theo pháp nào cả
    không cần phải theo pháp nào thì phải "tu" thế nào đây Sư huynh? hay là "tu" mò?hi...

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguyentungson12345 Xem Bài Gởi

    Các đề mục Kasina hữu sắc thì không dễ dẫn đến tuệ.

    .
    Vậy nó dẫn mình đến cái gì hả Huynh?

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi trango Xem Bài Gởi
    cho mình hỏi sao thay vì đọc/ tụng kinh mà lại hát vậy? lạ quá, mình chưa thấy bao giờ, hay tại mình không biết gì về PG nên thấy vậy hả bạn?

    Bạn thân kính, quý ĐH thân kính,

    Có một câu chuyện trong thời Đức Phật. Một thanh niên sau khi cha anh ta mất, anh ta vội đến quỳ đảnh lễ Đức Phật và năn nỉ Ngài hãy làm điều gì đó để hương linh cha anh ấy có thể được lên thiên đàng, hay tái sanh ở một cõi cao.

    Đức Phật bèn bảo anh ấy đi mua 2 cái nồi đất, một cái đựng đầy đá, một cái đựng đầy những quả như những quả bưởi, đậy kín 2 cái nồi ấy lại rồi bỏ vào một cái giếng. Chàng thanh niên rất hoan hỉ làm theo những gì Đức Phật dặn dò đi mua ngay 2 cái nồi đất và những thứ khác với suy nghĩ Đức Phật sẽ làm một lễ gì đó để siêu độ cho cha anh ấy, đọc kinh, trì chú, lễ bái, thậm chí có lẻ sẽ làm phép nữa.

    Sau khi thả 2 cái nồi vào giếng, Đức Phật bảo anh chàng dùng một cái gậy dài chọt thẳng vào 2 cái nồi cho đến khi tất cả những thứ bên trong rớt ra. Tất nhiên, những hòn đá nặng trong nồi đựng đá bị chìm xuống đáy giếng. Còn những trái bưởi tự động nổi thẳng lên trên mặt nước.

    Đến đây, Đức Phật bèn bảo anh thanh niên:

    - Này người thanh niên, hãy đi tìm ngay những vị đạo sư, pháp sư, hòa thượng, hay đạo sĩ giỏi nhất có tiếng nhất. Rồi hãy nhờ những vị ấy lại nơi đây cùng nhau hợp sức lại. Ai có thể đọc kinh thì đọc kinh, ai trì chú thì trì chú, hát thì hát, kẻ thì cứ dùng phép. Nếu tất cả những cục đá dưới đáy giếng kia đều nổi lên cả mặt nước, và những trái bưởi đang nổi lên kia đều chìm xuống đáy giếng, thì ta chắc chắn cha ngươi sẽ được vãng sanh về một cõi cao, hoặc sẽ có một tái sanh tốt đẹp.

    Ban đầu chàng thanh niên hơi ngạc nhiên, nhưng sau một lúc suy nghĩ anh bèn cố gắng dịu giọng trả lời Đức Phật, vì nghĩ rằng sao Đức Phật có thể nghĩ ra cách thức "vô lý" như vậy:

    - Bạch Đức Phật, con nghĩ rằng không ai có thể làm điều đó ạ, dù cho là hòa thượng, tỳ kheo, hay bậc đạo sư pháp sư giỏi nhất nước cũng không thể dùng kinh gì, chú gì, dù là họ có đọc kinh cả năm, trì chú cả năm, hát cả năm cũng không thể làm cho những hòn đá kia nổi lên được ạ. Tại sao Ngài lại có thể nghĩ ra cách vô lý như thế ạ?

    Nghe tới đây, Đức Phật bèn từ tốn bảo chàng thanh niên:

    - Cũng vậy. Nếu trong lúc sống, cha ngươi là người không biết sống, làm những chuyện bất thiện không đạo đức, mất phẩm hạnh, thậm chí có thể làm nhiều chuyện ác thì cũng như những hòn đá kia. Cho dù ai cũng không thể làm cho nổi lên được.

    - Nhưng nếu trong lúc sống cha ngươi là một vị luôn có lòng từ tâm, đầy những phẩm hạnh tốt, luôn giúp người, giữ các giới đức trong sạch, lại luôn khéo tu tập các phẩm hạnh ấy luôn tiến triển tích cực, thì cho dù ai có trì chú hoặc làm phép như thế nào để muốn hại cha ngươi xuống địa ngục, cũng như những trái bưởi đang nổi lên kia, họ cũng sẽ không bao giờ làm cho những trái bưởi đó chìm xuống đáy giếng được, cha ngươi sẽ không bao giờ có thể xuống địa ngục.

    Nghe đến đây, chàng thanh niên ấy rất thông minh, bèn thức ngộ.

    === 00 () 00 ===

    Câu chuyện có lẻ cũng chỉ là câu chuyện thôi. Đức Phật đã tìm ra dhamma, pháp, rất huyền diệu để chửa bịnh cho chúng sanh.

    Thay vì đem toa thuốc và những phương cách chỉ dẫn làm thế nào để hết bịnh ấy về nghiên cứu, sau khi hiểu toa thuốc ấy như thế nào, thì nên hốt thuốc sắc thuốc để uống, hoặc thực hành theo những chỉ dẫn khác trong toa thuốc để có thể chửa bệnh của mình một cách thực tế, có người lại chỉ đem toa thuốc ấy về để lên bàn cao cùng với hình của vị bác sĩ, hàng ngày đốt 3 nén nhang, và lạy toa thuốc ấy một trăm lẻ tám lạy. Rồi đem toa thuốc ấy ra tụng tới tụng lui, tụng một trăm lẻ tám lần trước hình của vị bác sĩ cho toa thuốc ấy, quán tưởng về hình của vị bác sĩ và toa thuốc, với suy nghĩ rằng làm tất cả những chuyện như thế, bịnh của mình sẽ hết.

    Câu chuyện có lẻ cũng chỉ là câu chuyện thôi, nhưng thực tế có rất nhiều những câu chuyện tương tự như vậy xảy ra, mà chính chúng ta đôi khi trong lúc nào đó lại là chàng trai ấy, là những bịnh nhân không thực sự thực hành theo lời dạy của bác sĩ, không uống thuốc mà chỉ mãi mãi đọc tụng toa thuốc, chỉ đọc tới đọc lui thảo luận về toa thuốc ấy tốt xấu thế nào, từ ngữ thuật ngữ ra sao.

    ------------

    Kính chúc quý ĐH, các bạn tinh tấn, giác ngộ tự độ độ tha.

    Nguyện khắp chúng sinh đồng thoát khổ.

    Thân kính
    Last edited by giangvietson; 14-12-2011 at 11:35 PM.

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phattu Xem Bài Gởi
    Xin các Thầy các Bạn cho phattu hỏi chút.
    Thiền theo phật giáo nguyên thủy có phải là Thiền Minh Sát và Tứ Niệm Xứ không vậy? Thực sự khi mà đọc về mấy cái minh sát và tứ niệm xứ phattu thấy không hiểu chi cả, vậy làm sao mà nhảy vô tập được?
    phttu có xem qua trong cuốn "Thanh tịnh đạo" và "đức phật và phật pháp". Có nói về các đề mục tu như dùng: đất, nước, gió, lửa, xác chết... làm đề mục thiền quán.
    phattu thấy bây giờ có vẻ ít người thiền theo mấy cái đề mục này, không biết là vì sao hỷ?
    .

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vankhuc Xem Bài Gởi
    BẠN TÌM HỌC QUYỂN SƠ THIỀN TRƯỚC, THÀNH THỤC RỒI MỚI HỌC ĐẾN MINH SÁT, TỨ NIỆM XỨ. BAN ĐẦU MÀ BẠN ĐỌC PHẢI 2 CUỐN ĐÓ LÀ RẤT KHÓ HIỂU. ĐỨC PHẬT DẠY RỒI LẤY VÍ DỤ CỤ THỂ NÊN RẤT DỄ HIỂU, ĐẾN ĐỜI SAU CÁC VỊ CÀNG LUẬN , RỒI LUẬN , SÁCH VIẾT RẤT NHIỀU NHƯNG CÀNG LÀM NHIỀU NGƯỜI RỐI TRÍ KHÓ HIỂU.
    Cám ơn quý ĐH đã từ tâm hướng dẫn. Ngoài ra tốt nhất bạn nào chưa thực sự tham gia một khóa thiền chính thức, nên dành thời gian đến một trong những thiền viện để tham dự một khóa thiền tích cực về Vipassana, Tứ Niệm Xứ, để được sự chỉ dẫn chính thức từ những thiền sư.

    Có rất nhiều địa điểm khắp mọi nơi, hoặc các bạn có thể hỏi ĐH Delightdhamma, ĐH Vuive, hay những ĐH khác để cùng sách tấn.

    dưới đây là phần nói về Đạo Lộ Tu Tập từ trang nhà của Thiền Viện Nguyên Thủy:

    http://thienviennguyenthuy.wordpress...u-t%e1%ba%adp/

    Kính chúc các bạn và quý ĐH luôn tinh tấn.

    thân kính
    Last edited by giangvietson; 14-12-2011 at 11:51 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. GIÃI THOÁT CÓ KHÓ LẮM KHÔNG
    By nguoiconhukhong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 858
    Bài mới gởi: 30-08-2016, 12:58 AM
  2. Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 11-11-2012, 11:52 PM
  3. Trả lời: 32
    Bài mới gởi: 07-01-2012, 11:27 PM
  4. Thiền học
    By The_Sun in forum Thiền Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 03-09-2011, 08:52 AM
  5. Lý tưởng Bồ Tát trong Giáo Lý Phật Giáo Nguyên Thủy
    By delightdhamma in forum PHẬT GIÁO nguyên thủy
    Trả lời: 32
    Bài mới gởi: 27-05-2011, 01:43 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •