kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: Kho vàng Sầm Sơn

  1. #1

    Mặc định Kho vàng Sầm Sơn

    Kho vàng Sầm Sơn
    Lời nói đầu :


    Vào khoảng năm 1934, ở bãi Sơn Sơn tĩnh Thanh Hoá phía Bắc Trung Kỳ, nhà nước có khám phá được một kho vàng chìm đắm dưới đáy bể.
    Khi tài sản nghiệp lớn ấy lên mặt đất, người ta thấy có mấy trăm thoi vừa vàng vừa bạc, hình chữ nhất dài độ non gang, trên thoi nào cũng có khắc chữ (Ðức). Lại thấy rất nhiều tiền Cảnh Hưng và các thứ tiền Tầu, từ đời Vạn Lịch (Minh Thần Tôn) cho đến đời Càn Long (Thanh Cao Tôn).
    Thiên hạ nhao nhao bàn tán về gốc tích kho vàng ấy nhưng không ai biết rõ nguồn rễ nó từ đâu. Có kẻ bảo đó là vàng của hai anh em vua Thái Ðức nhà Tây Sơn lấy ở các kho trong thành Thăng Long rồi cho tải đi, trong khi kéo quân ở Bắc Hà về Nam. Vẫn biết rằng Nguyễn Nhạc lúc ở Thăng long về, có sai người lấy hết cả kho tàng nhà Lê đem đi; nhưng đoàn quân của Nhạc và Huệ lúc ấy có mấy vạn hùng binh, có voi ngựa xe pháo, tất họ phải chuyển về bằng đường bộ, bên mình họ cho chắc chắn; có lẽ nào lại dùng thuyền đi đường bể để đến nổi bị đắm ở Sầm Sơn?
    Xét trong lịch sử, khối vàng bạc kia ắt phải thuộc về đời Lê-mạt. Nếu trong thời Lê quí, sản nghiệp đó không phải của hai anh em Tây Sơn thì chỉ còn là của Hữu quân Ðô Ðốc Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh bị Nguyễn Nhạc theo lời gièm pha của rể là Võ Văn Nhậm, bỏ một mình ở lại Bắc Hà, nên ngày hôm sau sợ búa cho cả của cải lên thuyền, chạy theo về Nghệ. Chỉnh là người có mưu trí, không bao giờ đem vàng bạc ở bên người phần sợ thueyèn nặng khó đi nhạn, phần sợ bị cướp hại đến tính mạng. Thế tất Chỉnh phải giao tài sản cho con trông coi hộ, mình thì cưỡi thuyền nhẹ theo Nhạc về cho mau.
    Cứ xem như thế, kho vàng kia tất là của Nguyễn Hữu Chỉnh. Dựa vào lời phỏng đoán có nhiều phần đúng sự thực ấy, tôi viết bộ truyện ly kỳ này, một là để tưởng nhớ lại một thời oanh liệt đã qua, hai là để hiến các bạn một thể truyện lịch sử mới.
    Câu chuyện này hoàn toàn là một truyện dã sử, nhưng nó có liên lạc rất mật thiết với chính sử nước nhà. Có lắm đoạn, tôi phải chép gần đúng văn của ông Trần Trọng Kim, nhà làm sử cương trực và uyên bác đã soạn ra bộ “Việt Nam Sử lược”.
    Những vật liệu tôi góp nhặt để xây đắp câu chuyện “kho vàng” này, nó không đúng hẳn với các việc chép trong chính sử đâu: song le, dùng nó đúng hay không đúng tôi cũng không quản ngại: tôi chỉ muốn dựa vào lịch sử để tạo ra một tiểu thuyết, có phải muốn dùng tiểu thuyết ấy để làm sống một thời lịch sử đâu?
    Các bạn đọc truyện này, hãy nên lượng cho tôi chỗ đó. Cái cốt truyện hay, giãi bằng một thể văn không tẻ, đó là sở nguyện của tôi. Nếu bạn cho là tôi đã đạt được mục đích ấy, tôi tự lấy làm sung sướng lắm rồi. Một nhà văn còn đâu dám tự phụ mình cùng là một sử gia uyên bác?

    Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần
    TCHYA

    (Sưu tầm)

  2. #2

    Mặc định

    Kho vàng Sầm Sơn –
    Chương 1

    Bãi Sầm Sơn làm một hòn ngọc châu đặt trong địa giới một tỉnh đã làm trường thí nghiệm cho muôn ngàn cuộc hưng vong ghi chéo trong lịch sử.
    Một con đường đá trắng, một bãi cát mênh mông, hai dẫy phi lao đêm ngày vi vút dưới ngọn gió biển ào ào, một tấm thảm kim cương lóng lánh chiếu ánh nắng buổi tà dương... với ai đã biết Sầm Sơn, cảnh rực rỡ tươi vui của bờ bể kia tất đã để lại cho một kỷ niệm sâu xa, mà ngọn sóng quên của thời gian khó lòng chìm lấp đi được.
    Nhưng...
    Nếu ngày nay chốn mỹ nhân ra nghỉ mát nó êm dịu đẹp đẽ, trước đây một vài thế kỷ, nó đã làm một chốn điêu linh thảm khốc, nó đã thấy trong mờ sương bóng tối xiết bao tấn bi kịch hãi hùng. Bãi Sầm Sơn, chốn nghỉ chân của phường giặc Tàu Ô độc ác, tụ họp của lũ mẹ mình ranh mảnh, bãi Sầm Sơn, cũng như Ðồ Sơn đã làm mồ cho Bà Ðề, chứa trong làn nước thẳm không thiếu gì liệt nữ vô danh, không thiếu gì thuyền buôn bị bão hay bị cướp.
    Trong muôn nghìn dẫy thuyền buôn bị đắm đó, một thuyền có chứa một kho vàng.
    Kho vàng ấy hiện đã được tải ra ngoài mặt nước.
    Câu chuyện kho vàng, giờ đây tôi muốn ngả nó lên mặt giấy, hiến cho các anh em chị em một món quà dĩ vãng thiêng liêng. Mà cũng mới biết rõ chuyện kho vàng, tôi đã bị lao tâm, tổn lực, đã có len lỏi trong một lớp sóng người cũng như tôi, chạy theo vết bạc, cố tiến đi, đi mãi, đi tìm dấu vết của Ðồng tiền Vạn Lịch chữ vàng.
    Vì đồng tiền đó tức là chìa khoá mở cửa cho tôi thấy đường lối vào đời triệu phú.
    Vì đồng tiềng đó là đạo bùa giúp cho khách hữu duyên làm chủ một gia sản vô giá bị lấp chìm trong đáy nước Sầm Sơn.
    Cái ngày tôi đi tìm đồng tiền Vạn Lịch, riêng đối với tôi nó nhuộm nhiều vẻ lạ kỳ, huyền bí. Nó chứa chan, không đếm xiết được những kỹ niệm êm đềm mà rùn rợn, không tài nào quên được vẻ đẹp lộng lẫy của hoàn cảnh, tựa như đóa hoa tươi đua sắc trên cạm lá um tùm xanh biếc, và nhất là vẻ bí mật của những khuôn mặt tôi thấy này hôm đó, những khuôn mặt kín đáo, hoài nghi, trái ngược hẳn với cái vui vẻ nồng nàn của một nơi phồn hoa tấp nập.
    Ðộ ấy vào khoảng mùa hè năm 1933.
    Tôi nhân được nghỉ ba tháng hè, vội thu xếp ra Sầm Sơn hứng gió bể và dưỡng sức. Vừa chân ướt chân ráo bước lên mặt cát vùng hải ngoại, tôi đã bị ngay một phen kham khổ, bực mình. Các khách sạn đều chật ních những công tử, vương tôn, tôi phải dằn lòng trú ngụ trong lều tranh của một gia đình cài lưới. Nhưng cũng nhờ sự rủi ro vô lý ấy mà, giữa quãng đêm trường tịch mịch, trong một bầu trời sôi nổi những mưa cùng gió, dưới mái lều của ông già đánh cá, tôi được quen một người bạn trẻ phi thường; một người bạn mà hình ảnh sau này tôi khắc mãi tận đáy gầm ký ức.
    Anh chàng đó có một khổ mặt rắn rỏi lạ thường, hai con mắt sáng như đèn, một cái trán bướng bỉnh gồ ra, với một cái càm vuông quả quyết. Một sống mũi thẳng dọc dừa trên hai làn môi mỏng, đỏ thắm, làm khuôn cho một cái mồm rộng, mỗi khi cười gần sát tới mang tai. Một làn tóc dài và đen nháy càng làm tăng màu da trắng mịn; hắn thoạt trông thì ra vẻ thư sinh yếu ớt, mà trông lâu mới biết có hàm súc rất nhiều khí khái quật cường.
    Cũng vì sự tình cờ đó, tôi được biết khuôn khổ đồng tiền Vạn Lịch. Nó là một đồng tiền vàng dầy cũng có khía như đồng bạc hoa xòe ngày nay, nhưng giữa có lỗ vuông và bề to bằng miệng một cái chén tống. Trên dưới đều có dùi lỗ con để buộc tua và làm dây đỏ quàng cổ. Ai đã trông thấy một chiếc ngân tiền hay kim tiền của vua thủa xưa ban cho các quan, người ấy sẽ rõ đồng tiền Vạn Lịch nó như thế nào. Nó chỉ khác những đồng kim tiền của ta ở chỗ vành rìa nó to hơn và trên mặt nó một bên thì chạm rồng, một bên thì có bốn chữ rõ rệt: “Vạn Lịch thông bảo”.
    Anh chàng lạ mặt đến bờ bể sau tôi độ hai ba tiếng đồng hồ. Cũng bị cảnh thiếu chỗ ở như tôi, chàng phải đi một quãng xa tìm vào làng chài, xin trọ cùng tôi trong một túp lều xiêu vẹo.
    Tối hôm ấy, gió bỗng nổi lên, quay cuồng trong vũ trụ, làm cho nước kêu sóng réo ầm ầm. Rồi mưa trút xuống ào ào, đập chan chát vào cụm lá cành cây, nghe buồn rầu thảm đạm.
    Quân lối “sách đèn, đao kiếm”, tôi mở va ly lấy ra một bộ khay đèn. Xin mô mảnh chiếu rách, tôi tìm một chỗ ấm cúng nhất trong lều, điềm tỉnh ngả bàn thờ Phù Dung nằm hút. Chàng thiếu niên lạ mặt, thấy hay hay, cũng cởi áo lại nằm trước mặt tôi, bắt chuyện. Tôi nghiêng dọc tẩu mời chàng đến năm sáu lượt, chàng đều khiêm tốn chối từ. Mãi sau cùng, khi đêm đã quá khuya, khi hoàn cảnh bao bọc chúng tôi đã đã nhuộm một màu quá thê lương, buồn tẻ, bấy giờ chàng mới chịu bắt môi vào đầu dọc, lim dim nằm hút. Mừng được người bạn mới, tôi cố ép chàng hút mãi, chàng quen mùi, cứ điếu anh điếu chú, kéo hoài. Kéo đến nỗi say không trở được mình, phải nằm yên trầm tỉnh để mặt ả Phù Dung xoa vuốt một cách huyền ảo, tê mê, hết cả các tia gân, thớ thịt. Rồi cả một đêm hôm đó chàng không sao ngủ được. Thì ra chàng nếm mùi thuốc phiện một lần đầu!
    Khi mới nằm xuống khai đèn, thiếu niên có móc túi lấy ra một cái hộp gỗ vuông con, đặt ngay trước mặt. Chàng mở hộp đem ra ánh sáng đèn dầu lạc một đồng tiền vàng xinh xắn, ngắm đi ngắm lại lâu lắm, rồi đặt trên mặt hộp, nằm nhìn. Tôi thấy lạ, cứ chú ý ngắm những bộ điệu của chàng và đồng tiền vàng nằm tròn xoe trong khay khảm.
    Thấy tôi ra vẻ tò mò, nhìn đồng tiền không chớp, người trẻ tuổi ấy bỗng nhích mép cười mà tôi cho là mỉa mai hay kiêu hãnh, rồi bỗng nghiêm nghị, hờ hững, nhặt lấy đồng tiền bỏ vào hộp, lại cầm cái hội cho vào túi áo. Tôi tuy lấy làm lạ vì những cử chỉ ấy, nhưng không được phíp hỏi mà cũng không dám hỏi, đành ngậm miệng làm thinh, tìm những đầu đề bâng quơ nói chuyện với ông bạn kỳ dị kia cho đêm suông ở một chổ xa lạ vắng buồn không đến nỗi tẻ trơ vì im lặng.
    Cái đêm suông đó, may sao, lại là một đêm mưa rầm gió bấc, thành ra trong căn nhà tranh thấp, hẹp của ông già chài lưới, cả đêm chúng tôi được nghe tiếng rít của ngọn gió lùa vào khe đá, được nghe hơi thở mạnh mễ của làn nước tung lên hạ xuống và giọng rền rĩ âm thầm của mấy dẫy phi lao xào xạt suốt canh trường. Nếu không có ả Phù Dung làm bạn với hai chúng tôi, có nhẽ tôi buồn đến chết. Mà cũng bởi mãnh lực thiêng liêng của chất nhựa nâu nâu và dẻo quạnh, cũng bởi hoàn cảnh bao bọc chúng tôi như rủ rê kẻ yếu linh hồn mở phanh tâm sự mình ra cho nên, may thực là may, tôi không mất chút công nào, bỗng được lim dim đôi mắt, thưởng thức một câu chuyện vô song, tuyệt diệu, một chuyện ái tình não ruột, lâm ly.
    Rồi cũng bởi kết cục dị kỳ của chuyện lạ lùng tôi được biết, nên tôi mới lao tâm, tổn lực, cố len lỏi trong một lớp sóng người hoài nghi, nghiêm nghị, cố tiến đi, đi mài, đi tìm dấu vết của kho vàng chìm lấp trong làn nước bãi Sầm Sơn. Kho vàng ấy, số tôi không được hưởng: Nhà nước, một năm sau khi tôi bó tay chịu thua thiên mệnh, đã khai lên tải vào công khố mất rồi!
    Không được hạnh phúc trở nên một nhà triệu phú, tôi đã được hân hạnh biết nguồn gốc của sản nghiệp to lớn đó, một sản nghiệp cách đây độ 150 năm, đã vì ái tình mà bị chìm đắm vào lòng bể thẳm.
    Sản nghiệp đó, ngày nay, lại vì ái tình mà hoá ra vô chủ:
    Ái tình có cần đâu đến những kho vàng?...

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 2 :

    Ðộ ấy vào khoảng mùa thu năm Bính Ngọ (1786).
    Mùa thu ngoài xứ Bắc nó thường nhuộm vẻ tiêu sơ ảm đạm da trời một mầu vàng xạm, những tầu ba tiêu xơ xác vẽ lên nền u ám của buổi chiều tà hình ảnh sự buồn rầu.
    Trong một hoàn cảnh lạnh lẽo, đìu hiu, giũa vẽ im lặng nặng nề mà bóng tịch dương phủ lên sự vật, một đoàn kỵ mã làm náo loạn hẳn giấc ngủ thiu thiu của chốn đế đô nghiêm cấm, vừa mới tạm được êm tĩnh sau bao cơn binh lửa điêu tàn. Vó chiến mã gót tinh binh, làm cho mù trời, bụi cuốn; tiếng nhạc xen với tiếng trống khải khoàn ầm ỹ, át hẳn tiếng sênh tiền dập dềnh theo điệu trúc tơ.
    Ðến trước cửa Nam, loa nổi hiệu gọi trong thành mở ải. Hai tấm cửa lim bấy giờ từ từ quay trên bánh gỗ, đón mời đoàn binh mã vào thành. Vượt qua cầu vòng, năm ngàn quân Tây Sơn, hùng hổ, tiến vào kinh đô đất Bắc.
    Ði đầu, một võ quan mặc nhung phục, cầm loa đồng hô lệnh cho ba quân đi đứng, và báo trước cho dân gian trong thành được biết có quan Tiết chế, Bình Bắc Thượng tướng quân, ra Bắc Hà dẹp loạn giúp bản triều. Tiếp theo sau, dàn hai bên đường, một ngàn quân sĩ, nón sơn áo nẹp, sắp hàng tư đều răm rắp, hăng hái mãnh liệt tiến lên, bước theo nhịp trống khải hoàn vang động một góc trời. Năm trăm quân đi đầu đều cầm mỗi đứa một lá cờ ngũ hành có giải bay phấp phới; năm dẫy tinh kỳ xan xát lấp không trung xếp thành năm hàng tề chỉnh, mỗi hàng một sắc đặc biệt, lấy bốn màu trắng xanh đen đỏ chỉ bốn phương Ðông Tây Nam Bắc, còn mầu vàng thì dùng làm hiệu Trung ương.
    Theo hàng kỳ sĩ là một tốp quân tám đứa, mặc áo đỏ nẹp xanh, trịnh trọng khiêng trên vai một cái giá vuông, có đòn sơn son thếp vàng, trông tựa hồ một cái kiệu nhỏ không mui; trên giá cắm một cái cột hỗ lớn, bề rộng độ một gang, sơn đỏ chói, cao đến hơn hai trượng, ngất nga ngất ngưởng thẳng vút lên trời. Lưng chừng cột trụ đặt một tấm gỗ tròn sơn vàng, bốn bên có dây chão vững bền buộc chặt chẽ với bốn góc giá. Trên đầu cột lại trạm một cái mũi nhọn trông như đầu một lưỡi sang, nhưng tròn. Quãng giữa đầu cột và tấm gỗ tròn, một cán cờ nằm hơi chênh chếch, chuôi cán có dây buộc vào ván gỗ, đầu cán thì cắm một lá cờ vuông bằng vóc vàng, viền lụa hồng, ngù kim tuyến, giải nhiễu lam, trên thêu sáu chữ vàng chói lọi: “Bình Bắc Thượng tướng quân Nguyễn”. Ðó là lá cờ súy.
    Ði sau cờ súy là một đội quân năm trăm tên, lưng đeo gươm, vai vác mộc, tay cầm giáo trường sáng loáng chĩa lên trời. Rồi đến một cặp voi nặng nề mà rực rỡ, đủng đỉnh vừa vẫy đuôi vừa tiến theo lệnh hai viên quản tượng cầm búa cưỡi trên đầu. Ðôi vật chiến ấy cùng trang sức giống nhau: con nào cũng phủ bành vóc đỏ viền xanh, có tua dải phất phơ rủ xuống, lại có khấu tiền khấu hậu nạm vàng bạc và thủy tinh lóng lánh. Trên bành, một cỗ lầu son bọc lụa vàng đặt ngang lưng voi như một cái kiệu hoa thấp, và vững chãi. Cỗ lầu ấy giống một cái ghế rộng rãi, chỗ ngồi có gối thêu, chỗ dựa lưng, dựa tay có gấmphủ, trông rất gọn gàn hoa mỹ. Chính giữa lầu, mé sau, một cái tàn hồng nhô lên để che hẳn cho tướng ngồi trên mình voi; hai bên chiếc tàn, hai lá cờ đuôi nheo ngắn cán chĩa ra ngoài, tuôn bay theo chiều gió thổi. Trên lầu son ngồi hai viên tướng: một viên trông đã già nhưng còn quắc thước, mặc bào xanh giáp bạc gác ngang vai một thanh Yển Nguyệt long đao; một viên, trái lại, trông trẻ như măng non, đẹp như con gái, mình vận bào trắng, vai mang giáp mây đội mũ đâu mâu chỏm bạc, cầm ngang một thanh bảo kiếm “Lư hoàng”. Viêng tướng trẻ đó rất tuấn tú khôi ngô, nước da trắng nuột, hình hài nhỏ nhắn, đều đặn, bàn tay mềm mại như tay đàn bà; gia dĩ cặp mắt phượng đen nháy lại say sưa gợn ra những tia sáng nồng nàn, làn môi tươi đỏ như son lại toả ra những nụ cười đắm đuối khiến ai thoạt nhìn qua vị thiến niên anh kiệt đó, cũng phải bảo chàng là một giai nhân cải trang đi tòng chinh, hay một nữ tướng giã trai chen vào đám quân sĩ để theo chồng.
    Thực vậy, tướng trẻ tuổi đó quả là khuê môn nhi nữ, nhưng nàng mặc nhung phục nam tử chẳng phải để đi theo chồng; nàng chỉ nhân dịp có binh tướng ra Bắc Hà thì cũng xông pha cho biết đó, biết đây, nàng len lỏi trong mũi tên hòn đạn mà vẫn được che chở chiều chuộng như một vì công chúa. Bởi lẽ không là công chúa, nàng cũng là Quận chúa . Ông chú ngoại nàng là Tiết Chế Thượng tướng quân Nguyễn Huệ, mà cha nàng là Tả Ðô Ðốc Võ Văn Nhậm, rể vua Thái Ðức nhà Tây Sơn.
    Nàng tức là Võ Anh Trinh quận chúa. Còn viên tướng già đi cạnh nàng là tiên phong lão hổ Trần Quang Riệu người đã có công theo Bình Bắc Thượng tướng quân dẹp tan lũ Ðinh Tích Nhưỡng, Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền, hạ được thành Sơn Nam, để kéo đến Thăng Long.
    Tiếp theo cặp voi của Quang Riệu và quận chúa Anh Trinh, một đoàn giáp sĩ, hai mươi tên, đi hộ vệ cho quận chúa. Bọn giáp sĩ cùng mang gươm trần và hèo trượng, trông rất oai nghiêm tề chỉnh, sắp thành năm hàng, chia ra hai toán đi dàn hai bên đường.
    Bây giờ mới đến lượt đội quân âm nhạc. Ði trước, tăng thêm vẻ long trọng của cuộc hành trình, hai tên quân cầm trống tiểu cổ, cứ mỗi bước lại điểm một tiếng “tong tong”, xen lẫn vào tiếng nạo bạt mà một tên quân vừa đánh vừa nhẩy múa như một anh kép hát. Cũng nhảy múa như tên quân cầm nạo bạt, một lũ tám tên lính, áo xanh thắt lưng đỏ, dịp dàng vừa tiếng vừa gõ sênh tiền, hoà với tiếng trúc tơ mà phường bát âm nhã nhạc phía sau làm vang lừng tứ phía. Thôi thì nào kèn, nào nhị, nào đàn, một khúc hùng hồn giục lòng hăng hái của ba quân, phấn khởi tinh thần của quần chúng, khiến ai ai cũng thấy mình cường tráng, vui cười dõng dạc bước đều nhau, sắp thành hàng ngũ rất uy nghi nghiêm chỉnh.
    Càng làm cho binh tướng tự cường, tự khởi, mà thỉnh thoảng điểm vào điệu trúc tơ êm ái một nét mạnh mẽ oai hùng, là những tiếng mã la inh ỏi, hợp với tiếng trống cái ầm ầm, tiếng khánh ngọc sang sảng của hậu đội gióng lên từng quãng một.
    Nối gót phường đàn sáo, dàn một lớp hơn trăm binh vác cờ thêu, tàn, quạt, cùng mọi thứ binh khí trong thập bát ban. Gươm trần tuốt sáng ngời, giáo mác dựng tua tủa, tàn tán biển quạt đỏ ối trời; những phướn, những giải, những tua, những gnù, đủ mọi sắc rực rỡ, đủ mọi mầu choáng mắt, tất cả các khí giới bóng lộn, các tinh kỳ phất phơ, bao nhiêu những khí cụ có trộn lộn vẻ huê mỹ với năm ngàn bộ áo hung hung đỏ của quân sĩ, với làn da trời tẻ xám, để tạo thành một cảnh vật nửa oai vệ, nửa buồn rầu mà dịp trống dịp kèn càng làm cho thêm tôn nghiêm, dữ dội.
    Gióng dây cương lỏng lẻo, song song thúc ngựa đi sau lớp cờ quạt, tàn biển, một đoàn tùy tướng, đủ các tuổi, ăn mặc xuýt xoát giống nhau, thong thả mở lối cho một đội quân “Hổ oai” đi trước hộ vệ quan chủ soái. Ðoàn tùy tướng có mười người,c ùng đội mũ đâu mâu chỏm bạc, ngù đỏ, cùng mặc giáp đồng, thắt đai gấm, đi võ hài, cùng mang mỗi người một chiếc nõ quàng vai, một túi tên ngang lưng, cùng giơ gươm trường chỉa thẳng lên trời rất là trịnh trọng. Họ chỉ khác nhau ở chỗ ngựa không cùng sắc, bào không cùng mầu, tuổi không cùng trẻ nhưng ai nấy đều ngồi ngay thẳng trên mình chiến mã, đều có vẻ nghiêm nghị, đường đường, trông càng lẫm liệt.
    Ðoàn kiện nhi hộ vệ đi sau họ là một lũ mãnh hổ cứng cáp, rắn rỏi, nét mạt gân guốc, con mắt sáng ngời, cùng mặc áo trần ngực, đội mũ “xì mẩu”, lưng đeo mã tấu, tay cầm thước khảm, sắp thành mười hàng tư, hiên ngang tự đắc tiến đều răm rắp vào thành, như muốn tỏ mình là hạng người có giá trị đang thị oai cùng lũ binh non yếu, nhát gan và vô dụng của họ Trịnh xứ Bắc Hà.
    Bây giờ mới đến lượt Trung quân đại tướng. Trên mình hai con bảo câu sắc tía, cùng sóng ngang nhau, đạo mạo, một bên là Tả quân Ðô đốc Võ Văn Nhậm, phò mã rể vua Tây Sơn, một bên là Hữu quân Ðố đốc Nguyễn Hữ Chỉnh. Tả quân mặc áo vóc đại hồng, thắt đai gấm tía, đeo gươm “Thanh xương”, đi giầy mũi phượng; Hữu quân, áo bào mầu nguyệt bạch, nịt lưng bằng nhiễu Hồng đô sắc lam, mang võ hài bằng nhung thêu chỉ bạc cắp ngang một thanh siêu đao “Cổ đỉnh”. Cả đôi cùng theo lối nhung phục, mặc quần chẽn ống, bó sát vào cổ chân, lại cùng quấn một vành khăn đầu rìu bằng nhiễu Phú xuân mầu quan lục.
    Hai quan Ðô đốc cùng đeo sau lưng mỗi người hai lá cờ đuôi nheo bằng gấm, giải vàng, viền tía, trên để dấu hiệu của mình. Cờ hiệu của Võ Văn Nhậm một lá thêu bốn chữ nhung đen “Tả quân Ðô đốc”, một lá thêu ba chữ kim tuyến “Phò mã Võ”; còn của Nguyễn Hữ Chỉnh thì cũng tương tự như thế, một lá thêu chữ Lam “Hữu quân Ðô đốc”, một lá lóng lánh chữ vàng “Tướng quân Nguyễn Hữu.”
    Ði kèm sau hai Ðô đốc, lại một đội “Hổ oai” bốn mươi tên nữa, đàn trước đầu voi quan chủ súy.
    Cao chót vót trên bành, một ông “Quận công” trang sức toàn bằng vóc hiếm, gấm quí, mà khấu tiền, khấu hậu, cho đến cả đôi ngà cùng yên cương, cũng đều chói lọi những vàng bạc châu ngọc lóng lánh, ngồi trong lầu sơn son chất nặng những gối thêu rồng phượng, dưới một đôi tán vóc hồng, viền lam, với một đôi cờ hiệu vàng lượn bay trong gầm trời bát ngát, là một trang anh hùng trông vẻ hiên ngang, xuất chúng, gác bên đùi hai trái dùi tật lê sáng loáng, cử chỉ oai nghiêm chững chạc, nét mặt đẹp một vẻ cứng cỏi, cường dũng, rõ ràng một vị thiên thần. Vị thiên thần ấy, trang anh hùng ấy, tức là chủ soái đội quân ngày hôm đó tiến vào kinh đô đất Bắc: Bình bắc Thượng tướng quân Nguyễn Huệ, sung chức Tiết chế, vâng lệnh anh là vua Thái Ðức nhà Tây Sơn, ra Bắc Hà dẹp họ trịnh giúp Lê Triều.
    Ông Nguyễn Huệ mình cao một trượng, lưng rộng vai to, mắt sáng lóng lánh hào quang, mày dài và rậm, trán rộng và cao, tiếng nói sang sảng như chuông gióng. Trong người lực lượng chùm giời đất, khí dũng át ba quân, lẫm liệt, đường hoàng; vẻ bề ngoài đã khiến kẻ nhác trông cũng phải phục tòng và kính sợ. Ông mặc bộ áo chiến bào màu lục, hoa gấm, dùng một giải lụa xanh thắt chẽn ngang lưng. Chân ông mang một đôi võ hài bằng nhung, đế gai, có thêu kim tuyến; hai ống quần lụa trắng bó nịt lấy cổ chân rất chặt chẽ gọn gàng. Trên tất cả bộ y phục sặc sỡ ấy, lộ ra một khuân mặt tròn đầy đặn, có nhiều cương quyết mà phúc hậu, nước da trắng hồng càng rõ rệt dưới vành mũ trụ “Hoa khôi” chỏm vàng ngù tía. Trên đôi môi đỏ như son, hai làn râu mép nhỏ phăn điểm một nét tình tứ lẳng lơ, cho dung mạo khách anh hùng không đến nỗi quá tôn nghiêm, dữ dội.
    Trên đầu voi quan Tiết Chế, có một lão quản tượng khiến voi đi từng bước nhịp nhàng thong thả, không bao giờ để chủ súy bị hơi một chút ngả nghiêng. Sau chỗ thượng tướng ngồi, một tùy tướng cưỡi trên đít voi để giữ chặt lấy lầu soan cho đừng sộc lệch, và nhân tiện để bảo hộ thân thể quan Tiết Chế, ngõ hầu tránh những quân gian mưu hành thích mé sau lưng. Viên tùy tướng ấy vai đeo khiên, vai đeo nõ, lưng đeo túi tên giắt dao găm, tay lại cầm một thanh “Á phương bảo kiếm” chém sắt như bùn.
    Ði kèm hai bên voi “Quận công” là một toán bốn tên quân, hai tên cầm tàn, hai tên cầm lọng, che cho quan Tiết Chế. Rồi, sau lưng ngài, lại một đội thứ ba bốn mươi tên giáp sĩ đi sau hộ vệ, cộng với hai đội kia, tất cả là một trăm hai kiện sĩ được liệt vào hàng thị vệ “Hổ oai”.
    Hết hàng giáp sĩ này mới đến một dẫy bộ tướng, độ hơn hai chục, ăn mặc cũng giống hàng tùy tướng đi phía trên lũ lượt, xếp thành đội một, thúc ngựa từ từ nối gót theo chủ súy. Sau đoàn bộ tướng, hai mươi bốn tên quân khiêng một cái kiệu bát cống rất lớn, nhưng trong chẳng có ai ngồi. Y chừng đó là để dành cho quan thượng tướng khi ngài không muốn ngự voi, hoặc để vọng tưởng đến Thái Ðức hoàng đế, cho rằng vua Tây Sơn cũng có mặt trong ba quân. Nói la 2cỗ kiệu khiêng đi là ngôi của Nguyễn Nhạc, bởi lẽ hai bên kiệu có bốn tên lính cầm lọng vàng che phủ, và mé sau, một đoàn văn quan, áo mũ tề chỉnh, cầm hốt theo hầu.
    Ðến đây là hết đoàn Trung quân. Bây giờ mới đến hậu tập. Ði trước, một đôi voi, trang sức tương tự như đôi voi đi tiên phong. Rồi sau lưng cặp chiến tượng hậu quân, ta được thấy một sự rất lạ. Ấy là một hàng bốn khẩu súng đại bác bằng đồng, đặt trên bốn cỗ xe mà mười sáu tên lính kính cẩn đẩy đi, giữa hai tố quân tám đứa cầm cớ, bốn đứa đi trước, bốn đứa đi sau. Ðọc những chữ hiệu trên mặt cờ, mới biết bốn khẩu súng cổ lỗ ấy cũng có phẩm tước rất cao như mấy con chiến tượng. Hai cỗ tước Bình định Công, hai cỗ tước Phú xuân Hầu. Ði dưới hộ vệ cho bốn vị công hầu đó, một toán hai mươi giáp sĩ cầm giáo trường cùng mã tấu; rồi đến bọn trống cái, mã la cùng khánh, kiểng, theo đuôi.
    Một viên quản, tay cầm roi, tay phất lá cờ đào nhỏ, đốc thúc lũ quân đẩy Bình định Công và Phú xuân Hầu cho đi đều hàng ngũ. Bốn tên lính cầm lọng tiá che cho bốn cái trống cái, mã la, khánh và kiểng mà bốn tên quân khác, ăn mặc sặc sỡ như phường hát, quấn khăn đầu rìu thắt lưng đỏ, vừa nhảy lên vừa múa, mỗi khi chúng điểm một tiếng “tùng bôông”, hay “bu lu”... Cứ mỗi tiếng thùng thùng là tiếp một tiếng mã la định tai nhức óc, rồi một tiếng cồng inh ỏi lại xen vào một tiếng kiểng sang sảng vang lừng.
    Ði với đoàn hậu quân thực là một cái nợ phải váng đầu váng óc. Thế mà hơn ba ngàn quân nữa vẫn tự nhiên tiến theo dịp trống, hình như không lấy sự vang động làm quan tâm mà trái lại, còn vì sự vang động ấy mà phấn khởi.
    Ba ngàn quân đó chia ra làm mười dod65i, mỗi đội có một viên Chưởng quản đứng đầu. Mỗi hàng binh có bốn người,c ả đoàn hậu tập, theo vết tiền và trung quân, tiến vào Thăng long tựa như một con trường xả vương khúc, dài dằn dặc kể không biết mấy dặm đường.
    Sau cùng khóa chặt lớp binh cơ là một tướng quân còn trẻ, trạc hai mươi tuổi, sức vó c vạm vỡ, mặt trắng môi song, mài dài mắt sắc, rõ ràng có vẻ khí khái anh hùng. Thiếu niên võ tưóong ấy cũng là một kẻ xuất chúng, có công to trong khi diệt Trịnh phù Lê; chàng là con quan Hữu quân Ðô đốc Chỉnh, am2 cả hai thành Bình Ðịnh và Phú Xuân không ai không biết tiếng là một võ sĩ đại tài: Nguyễn Anh Tề công tử.
    Cả đoàn quân Tây Sơn theo quan Tiết Chế vào thành Thăng Long, đóng đồn ở phía Nam thành ấy (nay thuộc về địa phận Hàng Lọng). Bấy giờ là ngày mùng 2 tháng bẩy năm 46 đời Cảnh Hưng tức là năm Bính Ngọ (1786).

  3. #3

    Mặc định

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 3 :

    Lần đầu tiên đem quân thủy đi tiên phong vào cửa Ðại Anh để lên sông Vị Hà, Hữ quân Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh cũng muốn ra tay anh dũng cho Tiết chế Nguyễn Huệ phục tài mình. Phải, vì Huệ như có lòng nghi kỵ đối với chỉnh, phần ghét Chỉnh là người gian trá, xảo quyệt, phần sợ Chỉnh không thật lòng giúp cơ nghiệp nhà Tây Sơn. Bởi thế, muốn tỏ lòng tận tụy, trung thành, Chỉnh cần phải đánh dẹp một phen cho lẫy lừng để mua chuộc lòng Huệ.
    Lẫy lừng từ thuở còn học trò, Chỉnh đã là một nhân vật phi thường, xuất chúng. Mười sáu tuổi đổ hương cống. Chỉnh làm cho tất cả nhà nho huyện Châu Lộc, tỉnh Nghệ An (quê hương của Chỉnh) phục Chỉnh như một vị thần đồng, nhất là vì phú Quách Lịnh Công của Chỉnh lại là một tác phẩm rất tài tình, tuyệt diệu.
    Chỉnh bình sinh vốn tính hào hoa, phong nhã, đã lắm cơ trí lại nhiều can đảm, mà giỏi khoa biện bác vô cùng. Không những chỉ nức tiếng là một văn tài siêu việt, chàng còn tỏ mình sau này, là một võ tướng vô song.
    Tục truyền khi Chỉnữ hiệpmới lọt lòng mẹ cứ nằm ngửa khóc luôn sáu tháng không dứt; sau có một người thần nữ đến ru võng hát rằng:
    Rau răm một cụm ba đồng,
    Anh đi xứ Quảng xứ Ðông chưa về.
    Bao giờ rau mọc xanh rì,
    Anh ra đất Bắc gởi yếm đào về cho em.
    Nghe Thần nữ hát, từ đó, Chỉ không khóc nữa. Bốn câu ấy sau đúng với sự Chỉnh theo Hoàng Ngũ Phúc đánh giặc ở Xứ Ðông và xứ Quảng, mãi tới khi được vời ra phò vua Lê ở Bắc Hà mới lừng lẫy thanh danh.
    Năm Chỉnh lên chín, ngày tết, đến mừng thầy học, đốt một tràng pháo. Thấy lấy pháo làm đầu đề, bảo Chỉnh vịnh một bài thơ, Chỉnh ứng khẩu đọc rằng:
    Xác không vốn những cậy tay người,
    Khôn khéo làm sao cũng một đời;
    Kêu lắm lại càng tan xác lắm
    Thế nào cũng một tiếng mà thôi.
    Thầy khen khay, đoán biết Chỉnh tất sẽ làm quan to nhưng bạc hạnh, không ra gì.
    Về sau, khi Chỉnh bị mất chủ là Huy Quận Công, long đong trôi giạt vào Quảng. Chỉnh buồn rầu làm mấy bài thơ tự thán, có một bài rằng:
    Tóc chen hai thứ, chứ dành chi!
    Thân hỡi là thân, thi hỡi thi!
    Chửa trả, chửa đền, ân đệ tự,
    Thêm ngừng, thêm tủi chí nam nhi;
    Kẻ yêu, nên ít bề cao hạ,
    Người ghét càng nhiều tiếng thị phi;
    Tay bé khôn bưng vừa miệng thế,
    Giãi lòng ngay thảo cậy thiên tri.
    Xem khẩu khí, ai cũng biết Chỉnh có nhiều dục vọng.
    Buổi thiếu thời, theo tướng nhà Trịnh là Hoàng Ngũ PHúc đi đánh giặc bể và Quận He, Chỉnh đã được thiên hạ khen là một Thủy su đại tướng. Giặc bể sợ oai Chỉnh thường gọi chàng là “con chim dữ”. Không đứa nào dám mon men vào thủy trại, mỗi khi nghe có Chỉnh ở trong.
    Mãi tới khi Hoàng Ngũ Phúc lâm chung, Chỉnh phiêu giạt ít lâu rồi đi theo Huy Quận Công Hoàng Ðình Bảo. Tháng chín năm Nhâm Dần (1782), Tĩnh đô vương Trịnh Sâm tạ thế có để di mệnh lập con thú là Trịnh Cán làm chúa và Quận Huy làm phụ chính đại thần. Nguyên sinh thời, Tĩnh đông vương say đắm nàng Ðặng Thị Huệ, nên vì nàng bỏ con trưởng là Khải để lập con Ðặng Thị làm Thế tử. Trong phủ Liêu từ đó chia ra làm ahi bè đảng, một đảng phò Trịnh Cán, một đảng phò Trịnh Khải. Kịp đến khi Cán lên ngôi, thiên hạ không mấy người chịu phục, thành ra biến loạn, bởi lẽ Cán đã ít tuổi còn lắm bệnh tật, không giữ được uy tín và quyền hành.
    Trưởng tử là Trịnh Khải, lúc bấy giờ nhân dịp rối loạn, bèn mưu với bọn kiêu binh, xưa nay vẫn đắc thế, để tranh ngôi Chúa. Có tên biện lại thuộc đội Tiệp Bảo là Nguyễn trang, người Nghệ, đứng lên thủ xướng việc phế lập, vào phủ Liêu đánh ba hồi trống hiệu, rồi kiêu binh tứ phía kéo đến vây phủ Chúa, giết chết Trịnh Cán, Ðặng thị Huệ và nhân tình thì là Huy Quận Công Hoàng Ðình Bảo.
    Trịnh Khải nhờ đó, được lên ngôi chúa, tước phong làm Ðoan Nam Vương.
    Hoàng Ðình Bảo chết rồi, Nguyễn Hữu Chỉnh hoá ra bơ vơ vất vưởng, không chổ nương tựa. Chỉnh bè về quê, vào thăm quan trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao, xui Giao đứng lên tự lập ở đất Thuận Hoá. Giao rút rát không dám. Hữu Chỉnh chán ngán bỏ Giao vào với vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc.
    Nguyênn xưa kia theo Hoàng Ngũ Phúc, vào Quảng Nam đánh giặc, Chỉnh vốn đi lại quen thân với Nhạc, hoá nên vì thế, vua Tây Sơn đãi Chỉnh vào bực thượng tân.
    Vương đệ là Nguyễn Huệ thấy Chỉnh được trọng đãi, lại xem cách cử chỉ của Chỉnh, rõ là xảo quyệt, trí trá, nên, ngay tự lúc đầu đã có ý ghen ghét. Nhân Hữu Chỉnh đi đánh quân Chiêm Thành và quân Bồ Man lại được đại thắng trở về. Huệ đối với Chỉnh càng thêm hằn học khủng khỉnh như có vẻ e gại tài chiến thắng và mưu lược của Chỉnh sẽ có ngày làm lu mờ danh thướng tướng của mình.
    Trong một tiệc rượu, một hôm, Chỉnh hiến mưu tâu vua Tây Sơn cho đem quân ra đất Thuận Hoá rồi đi thẳng ra Bắc Hà. Vua Tây Sơn biết đất Thuận Hoá không có quân phòng bị mà quan trấn thủ đất ấy là Phạm Ngô Cầu vốn là người nhu nhược, đã biển lận lại vô mưu, nên giáng chỉ sai em là Huệ làm Tiết chế cùng rể là Võ Văn Nhậm và Chỉnh làm tả hữu quân đô đốc, đem bộ quân, thủy quân ra đánh Bắc Hà.
    Quân Tây Sơn đi đến đâu, sức mạnh như thác chảy, nhuệ khí và thanh thế lừng lẫy đến đấy. Vừa đến Thuận Hoá, thượng tướng Nguyễn Huệ đã bắt sống được quan trấn thủ Phạm Ngô Cầu cho giải về Qui Nhơn xử tử. Thấy khí thế ba quân đuơng độ hăng hái cường thịnh, Hữu đô đốc Chỉnh bèn khuyên Tiết chế Huệ xông thẳng ra Bắc Hà. Trong một buổi họp cả dưới trướng hổ để nghe thượng tướng truyền lệnh sửa sang đồn Ðồng Hới và định giữ địa thế cũ ở bờ sông La Hà, Chỉnh hùng hồn đứng dậy:
    - Bẩm quan Tiết chế, cứ như ngu ý thì bây giờ đang lúc thắng, ta chớ nên nề hà gì nữa, cứ kéo tuột quân ra đến Thăng Long. Phàm ở đời, nhứt là trong phép dùng binh thì một làthời , hai làthế , ba làcơ . Có ba điều ấy đánh đâu được đó. Hiện tình, ở xứ Bắc, tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không cương luật. Nếu Thượng công nhân uy thanh của mình mà đem binh ra đánh, thì quyết là không phải trở về không. Sao Thượng công bỏ cáithời cáithế và cáicơ hội ấy?
    Nguyễn Huệ sẽ cau đôi lông mày dài và rậm, đăm đăm nhìn vào mặt Chỉnh, nửa ra vẻ nghiêm nghị, nửa ra chiều giễu cợt:
    - Ở Bắc Hà lắm anh hùng tuấn kiệt, ông chớ nên coi thườn!
    - Ồ! Thượng công nói đùa sao vậy? Nhân tài đất Bắc, chỉ riêng có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi, theo hầu dưới trướng Thượng Công, thì còn ai đâu nữa! Xin Thượng công đừng ngại.
    Nói xong câu ấy, Hữu Chỉnh đắc ý cười ha hả, trong khi Nguyễn Huệ sẽ nghiêng đầu, nhếch mép, khoan thai vuốt râu mép, gật gù:
    - Ấy! Chính người khách thì không ai đáng sợ; chỉ đáng ngại duy có một mình ông đó thôi!
    Nguyễn Hữu Chỉnh đang vui cười tự đắc, bỗng xám xanh mặt lại, ngảnh nhìn Nguyễn Huệ bằng một đôi mắt hối hận, buồn rầu. Huệ trông vẻ kinh khủng của Chỉnh cũng thương tình, bèn chữa lời, dịu giọng:
    - Tôi nói đùa ông đó mà! Không phải sợ đất Bắc lắm người giỏi mà không dám đánh, chỉ tại nhà Lê làm vua đã lâu rồi, lòng dân đã chiếm được; nay nhất đán mình diệt đi thì ai phục mình?
    Hữu Chỉ bấy giờ mới hơi yên dạ:
    - Nhà Lê làm vua mà bị hiếp dưới quyền chúa Trịnh, đó là một sự cổ kim đại biến cả nước không ai phục. Nay Thượng công lấy đại nghĩa, phò Lê diệt Trịnh, thì trong gầm trời này, ai không cảm phục Thượng công?
    - Ðành vậy, nhưng tôi chỉ phụng mệnh Hoàng huynh đi đến đất Thuận Hoá mà thôi, ra đến Bắc Hà, can phạm tội kiểu mệnh thì làm thế nào?
    - Thượng công rõ câu nệ quá! Phàm giả anh hùng ở đời, hễ không bỏ được tiểu tiết thì toàn hỏng mất đại sự! Kiểu chiếu là tội nhỏ, đánh Trịnh là công to. Vả chăng làm tướng ở ngoài, có điều không cần phải theo mệnh vua, Thượng công nhẽ nào không biết?
    Nghe Hữu quân Ðô đốc nói có lý, Tiết chế Nguyễn Huệ cũng đành trái mệnh vua, đem quân thẳng tới Bắc Hà. Ông bèn sai Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Ðại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng, còn mình cùng Tả quân Võ Văn Nhậm và đại binh thì kéo đến sau, hẹn với Hữu quân đến sông Vị sẽ đốt lửa lên làm hiệu.
    Vì thế, ngày mùng sáu tháng sáu năm Bính Ngọ, từ cửa Luộc suốt một vùng trở lên, theo ven sông Vị Hoàng, một trận huyết chiến đã xẩy ra giữa hai đại đội quân sĩ Tây Sơn và quân sĩ Trịnh.
    *
    * *
    Hữu quân Ðô đốc Chỉnh đem binh tiên phong qua hai miền Nghệ An, Thanh Hoá, không bị ai ngăn trở cả. Quan trấn thủ hai tỉnh đó là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy không ông nào dám ra cự địch, đều mở cửa thành cho quân Chỉnh kéo qua. Khi ra tới sông Vị Hoàng quan coi đồn ở đấy sợ thế quân Tây Sơn mà thất đởm, vội vàng trốn chạy, bỏ cả lương thảo và kho tàng ở lại. Hữu Chỉnh thúc quân vào cướp phá, chiếm được hơn trăm vạn hộc lương, còn bao nhiêu các quí vật cùng vàng bạc châu báu thì sai đống ;hòm giấu kín đi một chỗ. Xong đâu đấy mới đốt lửa làm hiệu, cho đại quân của Nguyễn Huệ biết chỗ kéo đến hạ trại.
    Tin Nghệ, Thanh thất thủ do ngựa lưu tinh liên tiếp đưa về Liêu PHủ làm cho náo động Bắc thành. Trước kia khi thành Phú Xuân đã vỡ rồi, báo tin về đến Thăng Long thì các quan đều bàn tán, cho rằng xứ ấy vốn không phải đất nhà vua, có mất cũng không đáng ngại. Vì thế, Triều đình chỉ sai Thái đình hầu Trịnh Tự Quyền đem hai mươi bảy cơ binh giữ đất Nghệ An, rồi không ai thèm nghĩ đến sự phòng bị nữa. Quyền đủng đỉnh thu xếp hơn một tuần (10 ngày) mà vẫn chưa xong công việc; lúc bắt đầu ra đi, vừa tiến quân được non 30 dặm đã nghe đồn quâbn Tây Sơn ra đóng ở Vị Hoàng rồi. Quyền bèn đem quân xuống giữ mặt Kim Ðộng. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận thì đem quân phòng ngữ mặt bộ, đóng ở xã Phù Xa, huyện Ðông An. Còn tất cả bao nhiêu quân thủy thì do Liễn trung hầu Ðinh Tích Nhưỡng cai quản, đóng ở cửa Luộc để ngăn ngừa mặt thủy.
    Kể ra, binh xứ Bắc cũng nhiều, mà suốt một vùng dọc sông Vị đồn trại liên tiếp nhau đến mấy dặm đường, thanh thế cũng khá to; song le quân Trịnh toàn là một đám hỗn độn. ô hợp, rát như cày, lười biếng và phản trắc, không thể dùng được. Bởi thế, mặc dầu tài chinh chiến của lũ Liễn trung Hầu Ðinh Tích Nhưỡng và Bùi Thế Dận, mấy toà đồn trại men bờ sông Vị, sau này, chỉ là một đống tro tàn.
    Chỉ một trận, Bình bắc Thượng tướng quân Nguyễn Huệ đã làm cho quân tướng Bắc Hà phải kiếp đảm; chỉ một trận, em vua Tây Sơn đã hạ Sơn Nam như trở bàn tay.
    Tối hôm mùng sáu tháng sáu năm Bính Ngọ ấy, trong khi Liễn trung hầu đương thong dong ngồi uống rượu trong trướng, trên một chiếc chiến thuyền to nhứt dàn ở mé trung ương thủy trại quân Trịnh bỗng nghe tiếng mả la ầm ĩ, tiếng trống giục ầm ầm, chen với tiếng reo vang trời rậy đất.
    Nhìn ra ngoài trại, giữa vùng tăm tối và sóng nước, một dẫy chiến thuyền của bên địch đang thuận gió kéo tràng sang vun vút, trên thuyền muôn ngàn quân mặc áo đỏ chói, cầm giáo mác sáng lòe, đốt đèn đuốc rực rỡ, trông uy nghi, mãnh liệt vô cùng. Bấy giờ gió đông nam thổi mạnh, mặt nước cuồn cuộn nhô lên hạ xuống làm cho lũ chiến thuyền Tây Sơn khi ẩn khi hiện, khi sáng khi tối, lập lòe như ma chơi.
    Trong thủy trại quân Trịnh, một hồi trống hiệu từ hành doanh vẳng ra, làm kinh động cả một vùng cửa Luộc. Các chiến tướng vội vàng lo về hàng ngũ, nhưng xưa nay từng quan hỗn độn, hoá nên chậm mất đến nửa giờ mới tạm gọi là tề chỉnh để nghinh chiến quân Tây Sơn.
    Theo lịnh Liễn trung hầu, bao nhiêu thuyền trong trại đều kéo ồ ra, dàn thành hàng chữ nhất. Bao nhiêu đèn đuốc thắp lên sáng rực mà nhìn ra mé xa, cũng không được rõ ràng. Bóng tối trùng trùng điệp điệp đen dầy như mực. Chỉ xa xa thấy tiến lại phía quân Trịnh một đội 20, 30 chiến thuyền đầy lính tráng, tinh kỳ và khí giới, chỉ nghe thấy chiêng trống hò reo, huyên náo, mà không biết địch quân nhiều ít dường nào.
    Ðinh Tích Nhưỡng bèn sai lấy súng bắn ra một lượt. Mấy loạt thần công tiêp tiếp nhau xé không trung im lặng, đoành đoành bắn vào cõi tối mịt mùng. Trời nước bao la náo loạn, sóng cồn dào giạt tứ tung.
    Thế mà đội chiến thuyền Tây Sơn vẫn vùn vụt theo nước trôi tiến mãi. Tiến mãi giữa làn tên đạn bời bời.
    - Ồ! Một cái cháy! Ồ! Hai cái cháy rồi!
    - Ố! Cả đoàn thuyền bên địch cùng phát hoả rồi!
    - Thế mà sao chúng nó vẫn oai hùng tiến đến? Dũng cảm thật! Cả gan thật!
    Sóng to nước lớn, lớp chiến thuyền vùn vụt như bay. Cái nào cũng cháy bừng đỏ rực. Cách quãng lại nghe thấy thuốc súng nổ toả ra một làn khói lửa mù mịt lấp lóe như tia chớp loáng.
    Một dịp thần công bên thuyền Trịnh lại thị oai lần nữa. Nhưng, ôi thôi! Còn lần này thì thuốc đạn hết rồi! Mà sao thuyền Tây Sơn nó vẫn tiến mau gấp lại? Trời ơi! Chúng nó đến nơi rồi!
    Bao nhiêu quân Trịnh, bị đội hỏa thuyền đụng vào, áo quần đầu râu đều xém cháy cả. Các chiến thuyền Trịnh cái nào không bi lửa đốt cháy, thì mau chạy trốn, trốn vào quãng tối, giữa vùng gió cuốn nước gào. Cả thủy trại của Liễn trung hầu, phút chốc, bị đánh ta như đàn quạ bị cơn bão táp. Bao nhiêu quân sĩ đều bỏ thuyền bè, lẩn lên bờ ẩn núp, trốn cho xa, không còn dám quay đầu.
    Vì, trong quãng tối mịt vùng, giữa lớp sóng cồn dào giạt, lần này mới thực đại đội quân thuyền Tây Sơn kéo đến, vây các thuyền Liễn trung hầu như vây cá vào lưới, rồi súng thần công mới nổ tung ra tàn phá thuyền Trịnh cho tan tành.
    Ðoàn chiến thuyền trước kia chịu súng đạn của Liễn trung hầu chỉ toàn là một đoàn hoả thuyền chứa thuốc súng và người gỗ cầm khí giới và đuốc để thị lập cho uy nghi.
    Ðinh Tích Nhưỡng mới nhận ra rằng mình đã mắc mưu, mà trận cửa Luộc ngày nay, thực chẳng khác gì trận Xích Bích ngày xưa, khi Tào Tháo bị thất bại về tay Chu Công Cẩn.
    Nguyên nhân hai vụ bại trận, kim và cổ, có chăng, chỉ tại gió đông nam?
    Một trận hoả công ấy đã khiến Liễn trung hầu phải bỏ thuyền mà chạy, trong khi các thủy quân thủy tướng bị đánh thất điên bát đảo, trôi giạt mỗi người một xó, hoặc bị chìm đám hàng đàn hàng lũ xuống đáy trường giang...
    Ðinh Tích Nhưỡng cố sống cố chết tháo lấy một đường huyết lộ để lánh nạn, mong ở thế ỷ giốc của đám quân mặt bộ đến cứu mình trong lúc nguy nan. Nhưng, hỡi ôi! Vừa đổ bộ, Nhưỡng đã thấy quân Thái đình hầu Trịnh Tự Quyền và quân Sơn Nam trấn thủ Bùi Thế Dận bị phá tan tành, rời rạc, ôm đầu lủi thủi trốn đi. Cho đến Quyền và Dận, cũng người thúc ngựa, kẻ cưỡi voi, đương tìm đường thoát nạn.
    Thì ra toán quân Phù Xa và Kim Ðỗng cũng bị quân Tây Sơn đánh úp tự bao giờ!
    Thượng tướng quân Nguyễn Huệ, nhờ sức mãnh liệt của tướng sĩ, hạ ngay được thành Sơn Nam như trở bàn tay. Ðoàn Tây Sơn thắng trận, vui vẻ tiến vào thành, nhưng đã được lệnh của bề trên, không ai cướp bóc và phiền nhiễu dân gian cả.
    Ði tiên phong vào trước Hữu quân Ðô đốc Chỉnh vội cho lục lọi các khi tàng. Bao nhiêu châu báu bạc vàng, Chỉnh sai con trai là công tử Anh Tề thu nhận lấ, bỏ vào hòm kín, tải đi. Lúc đại quân vào được trong thành, thì đã thấy kho tàng trống rỗng mất hơn một nửa, mà các quí vật chẳng còn sót lại tí gì. Nguyễn Hữu Chỉnh cho phao lên rằng quan trấn thủ Sơn Nam đã đem vận tải vàng bạc tự lâu rồi, hoá nên kho tàng vì thế không còn sót lại một bảo vật nào đáng giá cả. Quân Tây Sơn, không rõ biết mưu gian của Chỉnh vẫn tin rằng lời nói phao kia đúng với sự thực, hoá không nghi ngờ gì cả.
    Hạ được thành Sơn Nam rồi, Tiết chế Nguyễn Huệ một mặt truyền hịch đi các nơi, nói cho thiên hạ biết rõ nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, một mặt thúc quân đi lấy thành Thăng Long.
    Trong thành Thăng Long, Ðoàn nam Vương Trịnh Khải ngày đêm lo lắng. Bởi, trong kinh thành, lúc bấy giờ, kiêu binh thì không dùng được mà nhạn tài có thể ra giúp nước thì không còn có người nào. Khải bèn cho lên Sơn Tây gọi lão tướng Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ về giúp sức. Quận Thạc đem tám người con trai về đóng bộ quân ở hồ Vạn Xuân còn thủy binh thì lên giữ mặt Tây Long để phòng quân địch.
    Nhưng, đã đắc thế, nhuệ khí của Tây Sơn mạnh lắm, quân Nguyễn Huệ tiến lên phá tan tành thủy quân của Trịnh, Hoàng PHùng Cơ phải thúc voi bỏ chạy, sau khi sáu người con của lão tướng vong thân giữa chốn chiến trường.
    Chúa Trịnh, lâm bước nguy, cũng mặc nhung phục lên mình voi tiến vào đánh quân địch. Song le, sức cô thế kém, đánh không thấy giặc núng chút nào, chúa Trịnh phải chạy lên Sơn Tây lánh nạn.
    Lòng Trời như không tựa nhà Trịnh nữa. Bởi lòng dân oán rủa họ Trịnh tự lâu rồi. Chạy đến làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, Trịnh Khải bị tên Nguyễn Trang đánh lừa đem nộp cho Tây Sơn. Tủi thân mình là một bực Vương giả, một sớm thất thế phải hoá ra cực khổ, lưu ly, chúa Trịnh, khi bị giãi về đến giữa đình làng Nhật Chiêu, bỗng nhânlúc quân canh nhãng ý, cầm gươm cắt họng từ trần.
    Ðến đấy kết liểu cuộc đời Trịnh Khải cũng như kết liễu, sau hai trăm mười sáu năm oanh liệt, cơ đồ họ Trịnh đã gây nên.
    Thượng tướng Nguyễn Huệ, thương tình, cho dùng vương lễ để tống táng thi hài chúa Trịnh. Nhân dân Bắc Hà, ai cũng cảm phục đại lượng và công đức của vị anh hùng.
    Dẹp xong mầm biến loạn từ mấy trăm năm nay làm náo động Lê triều, quan Tiết chế bèn cho dựng bản chiêu an, và ngày mùng 2 tháng bảy nắm Bính Ngọ, kéo quân toàn thắn gvui vẻ vào thành Thăng Long để lên đền VẠn Thọ làm lễ yến kiến Lê Cảnh Hưng Hoàng đế.
    Bởi thế, trong cảnh lặng lẽ đìu hiu của chốn đế đô nghiêm cấm, người ta mới được ngắm vẻ uy nghi lộng lẫy của cuộc diễn quân ngày hôm đó, cuộc hành trình của 58 cơ binh sĩ Tây Sơn, chỉnh tề đưa Chủ súy vào thành.

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 4 :

    Từ khi quân Tây Sơn ra giữ hộ trật tự cho xứ Bắc Hà, nhân dân thành Thăng Long được trải qua một buổi thái bình êm ái, một quãng đời sung sướng mà non hai thế kỷ rồi, họ không được biết mùi. Họ đã bị sống luôn luôn dưới quyền áp chế, nào của lũ tham quan dựa vào quyền Chúa Trịnh, nào của lũ ưu binh cậy thế cướp bóc nhà giầu và hãm hiếp đàn bà.
    Ðến lúc Tiết chế Nguyễn Huệ diệt tan nhà Trịnh nhất đán phế được các chế độ khốc liệt của Trịnh phủ gây nên, thì thiên hạ chiếm lại được một ít tự do, nhân dân khỏi bị đèn nén, lo ngại, khổ sở. Bởi thế nên trong thành Thăng Long, cho suốt cả đến một vùng mấy mươi dậm mé ngoài thành, ai ai cũng đều chúng tatụng công đức của Nguyễn Thượng công, nhất là khi được biết quan Nguyên soái đã ra lệnh cho ba quân không ai được phép quấy nhiễu các tư gia cả.
    Sau một cơn biến loạn điêu tàn thê thảm, lại được thấy ngày sáng suốt, được an cư lạc nghiệp không phải lo canh cánh bên lòng cái nạn cướp bóc; nhân dân vui mừng hể hả, mở tiệc ăn mừng mỗi khi hơi có hội hè. Rằm tháng bẩy ở Thăng Long, năm ấy, rất náo nhiệt. Gia dĩ trong buổi quân Tây Sơn đóng ở trong thành tạm nghỉ, người ta còn được mục kích nhiều cuộc vui lỗng lẫy chưa từng thấy tự ngày xưa. Những cuộc vui đó bắt đầu từ ngày mồng bẩy tháng bảy từ cái phút đường hoàng long trọng mà Tiết chế Bình bắc tướng quân vào yết kiến vua Cảnh Hưng.
    Khi quân sĩ Tây Sơn theo dịp trống khải hoàn, tiến vào thành Thăng Long, các quan văn võ trong triều sợ bị tội bèn rủ nhau trốn cả. Trậm chí xung quanh mình Cảnh Hưng hoàng đế chỉ có vài ba tên nội thị, không còn lấy ai ra mà khai trào để tiếp rước Nguyên Soái Tây Sơn.
    Hữu quân Ðô đốc Chỉnh thấy tình thế như vậy, lén ngay vào tâu vua Hiển Tôn giáng chỉ xuống phủ dụ và gọi các quan về. Ðược chiếu của vua họ mới lục tục kéo nhau về chịu mệnh, đến ba bốn ngày mói đủ mặt tại triều.
    Bởi vậy, ra từ hôm mồng hai, mãi đến hôm mồng bảy. Thượng tướng Nguyễn Huệ mới vào yết kiến Cảnh Hưng Hoàng đế.
    Ngày hôm mồng bảy, trên điện Kính Thiên, lần đầu tiên trong ngót một trăm năm nay, người ta mới thấy khai đại trào. Từ năm giờ sáng, lúc còn chưa đến bình minh, các quan đã áo đai mũ mãng tề chỉnh đứng hai bên điện chờ đợi. Một vẻ im lặng tôn nghiêm phủ lên sự vật, mà không một lời nói, không một tiếng cười làm náo loạn, dẫu rằng trong một khắc một giây. CÀng làm tăng vẻ uy nghi của sự tôn kính đế vương là những chiến tượng, chiến mã, trang sức cực kỳ rực rỡ, những tàn vàng, lọng tía, cùng binh khí sáng loáng sầy tua tủa trên các giá sơn son.
    Ðương lúc im phăng phắc, chìm đắm sự đợi chờ trong một gầm không khí buồn tẻ, bỗng đâu, một hồi trống long phượng ầm ầm làm náo loạn cấm điện, rồi tiếp theo ngay hồi trống, một hồi kiểng rung sang sảng gợn ra những tiếng ngân nga. Trúc tơ nhã nhạc cũng nổi dậy vang lừng tứ phía, đờn, sếnh, nhị, sáo, cùng nhịp nhàng tấu khúc “Triều Thiên”.
    Cá quan đều răm rắp, phủ phục xuống tung hô “Vạn tuế”, trong khi một hồi khánh ngọc leng keng báo hiệu đoàn nội giám đã vục vua ra ngự ở long sàng. Một viên ngự lâm quan kéo bức rèm châu phủ trước bệ rồng, Cảnh Hưng Hoàng đế hiện ra, ngồi nghiêng trên sập Chúa, dựa lưng vào gối cẩm la. Vua mặc long bào vàng, đội mũ miện mười hai tua ngọc. Ngài se mình nên không ngồi dậy được, hoá nên không ngự ngai vàng mà nằm trên sập rồng, chỗ xưa nay vẫn để dành cho Chúa Trịnh. Hoàng thưọong phần cảm tạ Thượng tướng Nguyễn Huệ đã cướp lại quyền hành và tự do cho đế thất, phần rất mến tài vị anh hùng nhà Tây Sơn nên dù đương mệt, cũng gắng gượng khai đại trào cho khỏi sai lời hẹn.
    Ngài vừa ngự ra chưa được nửa giờ, các thân thần, tôn thất cùng các vị công khanh mới làm lễ triều kiến vừa xong, trong khi các quan đương lặng yên túc trực cúi đầu, trên kỳ đài trước Ngọ môn bẩy phát pháo lệnh nổ liên thanh bẩy lượt, rồi loa đồng dõng dạc báo có quan Tiết chế, Bình bắc Thượng tướng quân Nguyễn, vào yết kiến Thánh hoàng.
    Văn võ bá quan đều đứng thẳng như tượng gỗ, soi vào hốt. Nhà vua cũng giơ tay sửa lại áo long bào. Hai con voi chầu hai bên điện cũng quỳ xuống.
    Một khắc mong đợi... Thời gian như đứng lại, không trôi.
    Hốt nhiên, những binh lính thị lập ngoài cửa điện cúi rạp cả một lượt. Rồi các quan, theo sau, đều răm rắp, nghiêng mình. Cảnh Hưng Hoàng đế, cố gượng ngồi ngay lên chút đỉnh.
    Từ trên đầu voi bước xuống, hiên ngang, lẫm liệt, một cái bóng vậm vỡ, thẳng giữa hai lớp rào người trùng trùng, điệp điệp, đường đường tiến lên bệ rồng. Trên mặt khác anh hùng, một vẻ nghiêm nghị, một nét cương quyết, làm cho những kẻ liếc nhìn phải tự nhiên kính sợ.
    Gần tới sập ngự, Nguyễn Huệ đứng lại, hai mắt đăm đăm nhìn Cảnh Hưng Hoàng đế, lóng lánh hào quang. rồi chàng tiến lại mé án son để trước ngai, toan làm lễ.
    Hoàng đế không để cho Nguyên soái nhà Tây Sơn phải khuất thân quỳ lạy, vì Nguyên soái mặc nhung trang không tiện bề làm lễ, lại muốn tránh cho Nguyên soái sự khó khăn trong khi xử trí, Ngài bèn giơ tay, tươi cười phủ dụ khách anh hùng:
    - Hiền khanh miễn lễ! Trẫm trong mình đau yếu tiếc rằng không tiếp được hiền khanh cho đúng phép Hoàng gia! Hiền khanh vị trẫm, cũng nên lượng tình cho nhé! Thái tử đâu! Con khá mau thỉnh tướng quân lại an vị trên giường nào, bên cạnh trẫm!
    Hoàng Tôn Duy Kỳ, vội vã lên điện cúi mời Nguyễn Huệ lại sập rồng. Huệ khiêm tốn chối từ ba lượt, mãi sau cùng mới xá Vua năm xá, vén áo bào nhũn nhặn ngồi ở một góc long sàng.
    Trong lúc ấy Tả, Hữu quân Ðô đốc cùng lũ Trần Quang Riệu đã theo ngồi thứ tự đứng dưới thềm túc trực. Nguyễn Huệ vừa an vị xong, Thái tử làm hiệu cho tấu nhã nhạc. Rồi trống long phượng cùng chuông khánh lại tưng bừng nổi d; ậy, bách quan lại, một lần thứ nhì phủ phục để tung hô “Vạn tuế” và chào mừng vị quí nhân đã giúp yên xã tắc lúc chênh vênh.
    Lễ yết kiến xong xuôi, Hiển Tôn Hoàng đế cầm tay Chủ soái quân Tây Sơn, ôn tồn trò chuyện, trong khi nội thị dâng trà.
    - Trẫm từng nghe danh lừng lẫy của Hiền khanh, vẫn mong mỏi gặp quí nhân mà mãi tới nay mới được phỉ lòng khát vọng. Thực là trẫm được vui vẽ không biết dường nào! Hiền khanh! Khanh thực là một nhân vật hiếm có trong đời; từ ngàn dặm không quản xa xôi đem binh tới để dẹp tan lũ loạn thần hộ trẫm, khiến ngôi trẫm đã lung lay sắp đổ, một buổi mai, lại được vững vàng. Công đức ấy, trẫm thâm khắc trong cốt tủy, mà khắp xứ Bắc Hà này, không họ nào không cảm phục Hiền khanh!
    - Bệ hạ quá ngợi khen ngoại thần này, thần rất lấy làm hổ thẹn. Thần là một kẻ quê mùa, mọi rợ, một kẻ áo vải ở Tây Sơn, có làm nên công cán gì mà Bệ hạ hậu đãi quá như vậy? Chẳng qua sự lăng bức Ðế vương mà Chuá Trịnh đã làm kia, nó là một cổ kim đại biến, đến Trời còn không dung thứ, nữa là người! Thấy sự tối vô lễ ấy, thần rất lấy làm chướng mắt nên phải thuận lòng trời mà xướng lên chủ nghĩa “Diệt Trịnh phù Lê”. Nay may công cuộc đã yên rồi, cũng là nhờ hồng phúc và uy đức của Bệ hạ đó.
    - Hiền khanh thực quá khiêm tốn. Ơn sâu của Hiền khanh dẫu đến đời sau, trẫm còn nhớ mãi, không quên. Trẫm hiện tình không biết lấy sự gì để đáp nghĩa Hiền khanh, bởi lẽ không có một vật gì có thể bì với công đức của Hiền khanh đuợc. Bạc vàng, tước lộc, đối với Hiền khanh thực chẳng có đặc sắc gì, Hiền khanh cũng có thừa rồi. Song le, theo tục lệ đãi thượng tân, trẫm gọi là tặng Khanh chút tước nhỏ mọn này, xin Khanh vui lòng nhận lấy, để khỏi phụ tình mến yêu của trẫm.
    Vua bèn sai quan Thái giám lấy bút vàng nghiên ngọc, rồi tự tay ngài thảo sắc phong Nguyễn Huệ làm Ðại Nguyên soái, Uy quốc công.
    Huệ đứng dậy vái tạ, nhận lấy chiếu chỉ, đoạn ngỏ lời cảm ơn vũ lộ:
    - Thần đức bạc, phận mỏng, thực không đáng để Bệ hạ phải tiếp đãi trọng thể thế này! Tâu Bệ hạ, thần vì đại nghĩa tôn phù Lê triều mà phải tới đây, thực không có ý gì khác nữa. Bệ hạ có lòng rộng dung cho yết kiến Long nhan, thế cũng đã là quá lắm. Thần có đâu dám kể công lao? Ðây, những văn võ quan cùng theo thần ra dẹp lũ tặc tử lăng loàn, họ cùng nối gót thần vào triều bái Bệ hạ; đây, sổ quân sĩ và dân đinh của đất Bắc, thần nhân ngày hôm nay vào lạy chào Bệ hạ để dâng lên Cửu trùng những sổ sách ấy; ngõ hầu tỏ rõ giữa thanh thiên bạch nhật cái chí “tôn phù nhất thống “ của thần. Một mai công việc yên rồi, thần xin bái biệt Long nhan để trở về Thuận Hoá.
    Huệ nói xong, vẫy Nguyễn Hữu Chỉnh đem giấy má lên điện, rồi nâng các sổ quân sĩ và dân đinh quỳ xuống dâng lên cho Hiển Tôn Hoàng đế. Hiển Tôn vội vàng sai Thái tử Duy Kỳ đỡ Huệ dậy, rồi vỗ vai Huệ, khóc mà nói rằng:
    - Trẫm vẫn rõ biết lòng chính đính quãng đại của Hiền khanh đã lâu rồi, trẫm may được gặp khanh, thực là đại hồng phúc cho nhà Lê ta đó! Trong 16 năm nay, trẫm tuy mang tiếng làm vua, mà thụuc chỉ ngồi làm vì trên bệ ngọc, không được dụ một tý gì vào việc đất nước của mình. Nay Hiền khanh tháo bỏ gông cùm cho trẫm chiếm lại cơ đồ của Liệt thánh, trẫm có lòng nào dám nghi kỵ Hiền khanh? Song le, nay trẫm tuổi đã già, cháu thì còn bé dại, nước nhà lại lắm nạn mà Hiền khanh không muốn giúp trẫm, nói đến chuyện về, trẫm nghĩ lấy làm lo lắm. Hiền khanh đã vì đại nghĩa tôn phù mà đến, Hiền khanh có thể ở ít lâu giúp trẫm thêm chút nữa, cho an định giang sơn cho ngôi bảo tộ của Liệt Thánh để lại cho trẫm ngày ngay không đến nỗi lung lay như thủa trước?
    Giọng nói run run của Cảnh Hưng Hoàng đế như cảm được lòng sắt đá của anh hùng. Nguyễn Huệ thấy nhà vua đem lòng thành thực đối đãi trung hậu với mình cũng không lòng nào đối lại một cách quyết liệt. Bèn nói:
    - Tâu Bệ hạ! Thần chỉ phụng mệnh Hoàng huynh ra đến địa giới Thuận Hoá mà thôi. Nay vì muốn đại ý chí tôn phù mà ra tận Thăng Long, đáng lẽ không ở lâu được. Song Bệ hạ đã rũ lòng quá thương thần mà muốn khiến thần ở lại, thần cũng không dám trái thánh ý, xin hoãn thời kỳ vĩnh biệt đến sau này.
    Một nụ cười hớn hở bỗng nở trên nét mặt dăn deo của vị lão quân. Ngài cảm động cầm tay Nguyễn Huệ:
    - Trẫm còn nó nhời này muốn nói, chẳng hay Hiền khanh có chịu nghe chăng?
    - Xin bệ hạ cứ truyền chỉ; hễ việc nào sức thần có thể đương được, không khi nào thần dám từ nan.
    - Trẫm không nhờ Hiền khanh việc gì cả! Chỉ có một vấn đề tâm sự muốn cùng khanh giải quyết mà thôi. Hiền khanh! Nay trẫm đã đúng bảy tuần rồi, chả còn sống được bao ngày nữa. Nhà trẫm kiệm bạc, không có bảo vật nào đáng giá để kính tặng Hiền khanh, phải gọi là theo lễ cổ biếu khanh một tước danh nhỏ mọn, tạm để tỏ bụng chân thành của trẫm đó mà thôi.
    Trẫm nghe Hiền khanh nhận nhời nán lại ít lâu trẫm rất đẹp ý. Nhưng sợ sau này, Hiền khanh lại trở về Nam, Thái tử thì còn non nớt, việc chính sự hệ trọng không còn biết cậy vào ai. Có lẽ nào cơ đồ nhờ Hiền khanh lấy giúp lại cho, mà một sớm để tan tành như thủa trước?
    Ngoài Bắc thành này, nhân tài xuất chúng như Hiền khanh không có mặt nào đương nổi việc định quốc. Phi Khanh ra, không còn ai giúp trẫm giữ yên được mãi cơ đồ. Vậy trẫm muốn cùng Khanh được kết dây thân ái về mai hậu, chả hay Khanh có thuận tình?
    Hai mắt đen sắc của anh hùng bấy giờ như mờ ám trông vào quãng không gian vô định. Hiển Tôn vẫn run run thủ thỉ nốt lời:
    - Trẫm có sáu vị công chúa. Trong sáu ngôi, không ngôi nào đáng nân khăn sửa túi cho Hiền khanh, chỉ có công chúa Ngọc Hân là đáng mặt làm nội trợ cho kẻ hào kiệt lỗi lạc như khanh đó. Ngọc Hân đủ mọi vẻ nết na thuần thục, lại tài hoa nhan sắc hơn người. Gả nó cho khanh, trẫm thưc có chết cũng không hối hận gì nữa. Hiền khanh! Khanh nghĩ thế nào? Chẳng hay dưới gối Khanh đã có ai hầu hạ chưa?
    Nguyễn Huệ lim dim đôi mắt. Chàng nửa mừng, nửa ngại, nửa băn khoan, không biết đáp thế nào. Chàng tự thấy cảm động vì lòng chân thành tử tế của Hiển Tôn, cũng toan ừ phắt ngay một tiếng để chiều ý vì lão quân đã có lòng yêu mến mình một cách sốt sắng. Song chàng lại sợ về nỗi bận rộn trong khi hành binh, sợ mang tiếng là một kẻ không chí khí.
    Hiển Tôn như rõ biết tâm lý chàng, vội rút trong tay áo một bức chân dung, tươi cười đưa cho Huệ:
    - Ðây là tiểu tượng Ngọc Hân đó. Hiền khanh thử nhìn qua xem cho biết mặt vị hôn thê.
    Ðức Vua nói xong vui cười hớn hở. Thượng tướng quân Nguyễn Huệ hai tay nâng đỡ lấy ảnh công chúa, ngắm nhìn hồi lâu, tâm thần như say đắm... Ôi! Giai nhân! Con người đâu có dung nhan kiều diễm thế này, hay bức ảnh vẻ tôn lên để mê hoặc lòng người ngắm? Nếu quả Ngọc Hân công chúa đẹp một vẻ thần tiên dường ấy, thì, dù cỏ cả công danh sự nghiệp, Huệ cũng cam đổi lấy để phi nguyền! Dưới lớp khăn vành dây, một khuôn mặt trái soan làm tăng vẻ khuynh thành của đôi mắt bồ câu tinh anh sắc sảo đẹp một vẻ đẹp phúc hậu, nhu mì, đôi mắt say sưa mà thùy mị, mơ màng dưới đôi mày lá liễu xinh thậm là xinh; rồi đến một cái tráng sáng của thông minh hiện dưới làn tóc mượt đen rẽ thành một đường ngôi lịch sự; rồi đến hai cái tai, ôi! Xiết bao đều đặn, một cái mũi thẳng đuột và ngay ngắn trên làm môi son không đầy không mỏng tỏa ra một nụ cười ong ả, thực có duyên, nhưng không hề tí chút lẳng lơ nào...
    Cái diện mạo ấy lại là của một hình hài yểu điệu, tha thướt, giấu dưới làn áo cẩm bào dài rộng, dưới nếp xiêm lĩnh xuề xòa, chỉ để lộ ra hai bàn tay nhỏ nhắn, mà dài: một tay mỹ nhân tài tử.
    Xem qua bức chân dung phác họa ấy, cũng đủ biết Ngọc Hân là một vì công chúa thiên kim. Gia dĩ từ thủa chưa đạp chân lên đất Bắc Hà, Huệ đã nghe Hữu quân Ðô đốc, nhiều phen, tán tụng về vẻ đẹp độc nhất vô song của thiếu nữ mà giờ đây, một nhời của chàng sẽ cho chàng được phép làm chủ cả đời, mãi mãi...
    Giấu kín vẻ xúc động của con tâm, Huệ vẫy Hữu Chỉnh lên thềm, trỏ Chỉnh tâu cùng Hiển Tôn Hoàng đế:
    - Tâu Bệ hạ! Quan Hữu quân Ðô đốc Chỉnh ngày xưa đã theo Huy quận công ăn lộc của triều đình Bệ hạ, ngày nay ắt hẳng hết lòng giúp nhà vua giữ vững sơn hà. Chỉnh cũng là người có tài không kém gì thần, thiết tưởng y sẽ là một tay an bang định quốc cho Lê Triều ta đó.
    Hiển Tôn nghe nói, tưởng Huệ có ý chối từ, nét mặt đương phớn phở bỗng trở lại buồn rầu. Ngài nặng nề ngả đầu xuống gối:
    - Trẫm có hỏi đâu Hiền khanh việc an bang , định quốc, chỉ cầu khanh cho biết một nhời rằng khanh có vui lòng cùng Ngọc Hân gá nghĩa hay không?
    Hiểu rõ chuyện tâm sự của vua Lê, Hữu Chỉnh sẵn khoa lém lĩnh tinh ranh, vội đỡ lời Nguyễn Huệ:
    - Tâu Bệ hạ, Bệ hạ đã rũ lòng thương, lấy tình thành thực đối với Thượng công của kẻ tiện thần này, chắc Thượng công của thần cũng không nỡ nào lấy lòng giả dối tạ lại Bệ hạ. Vã chăng, Ngọc Hân công chúa là một vì kim chi ngọc điệp, gồm đủ cả sắc lẫn tài, trên trần này thực chưa có giai nhân nào sánh kịp. Nay đem gả cho một trang anh hùng như Nguyên soái, thì thực đẹp đôi loan phụng, còn ai cân nhắc đúng hơn? Nguyên soái của hạ thần vừa đúng dịp, lại chưa có tề gia nội tướng...
    Chỉnh nói xong, quay lại nhìn Nguyễn Huệ:
    - Bẩm Thượng công! Thánh hoàng đã giáng chỉ ban cho Thượng công cái đặc ân ấy, tiểu tướng trộm phép khuyên Thượng công chớ khá nề hà. Xin bề trên cứ nhận lời. Nếu sau này tài sắc công chúa không đủ hài lòng đẹp ý Thượng công, bao nhiêu trách nhiệm Chỉnh này xin chịu cả!
    Nguyễn Huệ trong lòng đã chứa chan tình cảm, nhưng mặt ngoài còn làm ra bộ khiêm tốn, chửa vâng lời.
    - Thần đức mỏng, phúc bạc, không biết có đáng sánh vai cùng công chúa hay không! Bệ hạ đã rộng lượng cho thần được dụ vào hàng phò mã Ðông sàng, thần đâu dám không tuân theo Thánh ý. Nhưng xin cho thần đuợc phép một vài giờ suy nghĩ, có thế nào, sáng mai, Hữu quân Ðô đốc đây sẽ vào tâu Bệ hạ rõ. Xin Thánh thượng rộng xét. Thôi! Hôm nay triều bái Bệ hạ đã lâu rồi, làm cho Thánh thể đã vi hoà càng thêm mỏi mệt. Xin rước Thánh giá vào cung tĩnh dượng; thần tạm xin lui về nơi quân lữ, bất nhật thần sẽ vào chầu...
    Cảnh Hưng Hoàng đế cầm tay Huệ ngần ngừ không muốn rời ra. Vua tôi lưu luyến mãi. Khi Nguyễn Huệ bái từ về phủ, vua cha rầu rầu nét mặt, ứa lệ phán rằng:
    - Hiền khanh những lúc thanh nhà chớ nên bỏ trẫm một mình, mà cũng đừng nên phụ tình trẫm quí thương khanh nhé!
    Nguyễn Huệ bước xuống thềm về phủ, mà Hiển Tôn còn chống nạnh nhìn theo. Ngài sai bách quan tiễn vị anh hùng ra quá Ngọ môn, rồi truyền gióng trống bãi chầu.
    Ngày hôm sau, Nguyễn Hữu Chỉnh vào nội cung tâu vua rằng Nguyên soái đang sắm sửa trang hoàng Súy phủ để đợi ngày làm hôn lễ. Lại xin Vua quyết định ngày nào cho công chúa lên kiệu hoa xuất giá.
    Bởi thế, ngày tốt lành là ngày mười một tháng bẩy, vừa mới tan khói lủ, dân thành Thăng Long đã được xem một đám cưới rất linh đình, một cảnh tượng rực rỡ đệ nhất trong lịch sử: cuộc nghinh hôn Ngọc Hân công chúa đẹp duyên cùng đấng anh hùng danh tiếng nhất nước Nam: Nguyễn Huệ.

  4. #4

    Mặc định

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 5 :

    Từ ngày mùng hai tháng bẩy cho tới ngày 17 tháng tám, trong một tháng rưỡi trời đội quân Tây Sơn ở lại Bắc Hà để giúp cho nhà Lê vững ngôi bảo tộ, Quan Tiết chế lấy Trịnh phủ làm phủ Nguyên súy; còn các tướng sĩ theo ngài ra diệt Trịnh, thì chia nhau, mỗi người chiếm một cơ sở, đóng binh.
    Trong khoảng 45 ngày mà quân sĩ Tây Sơn đóng đại doanh ở đất Bắc, thiên hạ được mục kíck không biết bao nhiêu là cảnh long trọng rực rỡ, vui cũng như buồn.
    Thoạt đầu tiên, một cuộc diễn binh lộng lẫy, xong, đến đám ma Chúa Trịnh cử theo vương lễ, đám cưới Ngọc Hân công chúa lấy Uy quốc công, rồi sau này, đám tang Hoàng đế Cảnh Hưng cùng cuộc chào đón vua Thái Ðức khi ngài đem quân ra xứ Bắc. Năm cảnh trọng thể, hùng tráng, bi ai hay vui vẻ đó nối tiếp nhau, cứ cách vài ngày lại có. Thành ra rằm tháng bẩy năm Bính Ngọ ấy, vì sẵn có mấy cuộc tế lễ linh đình cùng cuộc tiếp rước uy nghi xẩy ra từ trước, cũng hoá ra náo nhiệt vô cùng.
    Trong khắp thành Thăng Long, không nhà nào không đèn hương tế lễ, làm chay, đốt mã, kỷ niệm ngày xá tội vong nhân. Giữa sân chùa Pháp hoa, ở phía Ðông Nam, các vị hoà thượng thiết đàn tràng rất to và tụng niệm cho chúng sinh được siêu sinh tịnh độ.
    Mập mờ bóng đèn chen bóng tối, lúc bây giờ đã gần tới canh hai. Thiên hạ nô nức đến vãn chùa nhân tiện xem các sư ông chạy đàn và phá ngục.
    Ngày hôm ấy trong các chùa làm chay to lắm, nào vàng hồ, nào áo giấy, nào cháo,nào bỏng, nào hương hoa lễ vật, nào đèn nến oản xôi, không biết bao nhiêu thứ bầy la liệt khắp nhà Tam bảo, trên P;hật điện, có khi đến cả sân chùa. Thôi th2i chỗ nào cũng xì xà xì xụp, chỗ nào cũng đốt mã cho vong nhân.
    Sau một cuộc chinh chiến điêu linh, không nhà nào không có tang, không nhà nào không khóc con, khóc chồng, khóc anh, khóc em, khóc chú, khóc cháu, khóc những kẻ khốn nạn mà, vì việc quân thứ, một sớm kia, đã vong mệnh chốn sa trường. Các nhà sư giầu lòng bác ái đều cầu nguyện cho những hồn oan tử sĩ, được siêu thăng tĩnh cảnh.
    Bởi lẽ ấy, ngày rằm tháng bẩy năm Bính Ngọ, ngoài Bắc Hà rộn rịp vô cùng. Chỗ nào cũng làm lễ cúng vong nhân, nhưng không đâu thiếp lập tuần chay to hơn chùa Pháp Hoa ở về phía Ðông Nam cả.
    Trong chùa, đèn nến thắp sáng trưng như ban ngày, khói hương toả xanh rờn cả một vùng không khí. Cảnh thập điện hiện ra trên mặt một cái nhà mã làm rất con phu tỉ mỉ, xung quanh có bầy các hình nhân, ngựa voi tàn quạt, bằng giấy cả. Một lát nữa, hoà thượng trong chùa sẽ cầm thiền trượng đi vòng quanh cái nhà mã ấy, vừa tụng kinh Ðịa Tạng vừa phá ngục, cứu cho các vong hồn được giải thoát ra ngoài. Khắp sân chùa cũng chật như nêm cối, rào mất cả đường đi của mấy sư ông, sư bác, luống cuống ra vào như bận rộn lắm, tiếp chỗ này, sủa chỗ kia, tất ta tất tưỡi, nét mặt vui hơn là buồn.
    Các binh tướng nhân cơ hội có tuần chay nao nhiệt rũ nhau từng đàn, từng lũ đến các chùa xem tế lễ, và đi lùng con gái lương dân. Trước cửa chùa Pháp Hoa, hai viên võ quan cầm tay nhau đi đi lại lại, tìm những chỗng bóng tối đứng đàm luận sự gì bí mật, hình như bàn về những vấn đề quan trọng của quốc gia. Hai viên võ quan ấy trông khôi ngô tuấn kiệt, tuổi độ vào khoảng hai mươi. Cùng mặt đồ nhung phục miền Nam, nghĩa là theo cách ăn vận của quân Tây Sơn, không giống lối nai nịt người Bắc. Lại gần, trông kỹ, ta sẽ thấy trong hai thiếu niên võ tướng, một người mặt vuông, trán gồ, lông mày rậm, mắt sáng, môi mỏng và mồm rộng, trông uy nghi lẫm liệt, rõ ràng ra vẻ con nòi. Không những thế, người đó còn lưng to, vai rộng, cười nói sang sảng, đi đứng hùng dũng, bề ngoài đủ mọi nét tỏ rằng chàng khí khái, ngang tàng. Người thứ nhì, nhìn bộ điệu và hình dung lại khác hẳng người vừa mới tả. Anh chàng này hình dáng bé nhỏ, mảnh dẻ, ăn nói thì nhủ nhỉ mà đi đứng lại có bề yểu điệu, nhu mì. Ðến khi trông rõ mặt, ai chả bảo là một thư sinh bạc nhược: Lông mày lá liễu kẽ vàng trên đôi mắt bồ câu dài nhỏ, đen lay láy; một chiếc mũi dọc dừa xinh xắn trên đôi môi đỏ chói như son; hai hàm răng trắng nuột như ngà, một khuôn mặt trái soan đều đặn mà làn da trắng bóc, hơi điểm hồng hai bên gò má, càng làm cho tươi tắn, mỹ miều.
    Hai trang anh tuấn thiếuniên kia, tựa như một đôi bạn chí thân chí thiết; họ cầm tay nhau chán thì bá cổ vịn vào nhau đi bách bộ trước chùa. Vừa đi vừa cười nói vui vẻ, to nhỏ cùng nhau những sự gì không rõ. Ðến khi trống điểm sang canh, cả đôi cùng dắt nhau theo một đường hẻm lần về dinh quan Ðô đốc.
    Rồi đêm nào cũng thế, hai viên tiểu tướng lại dìu nhau đi trò chuyện trước cửa chùa Pháp Hoa. Mãi đến tối ngày 18 tháng 8 giữa tiết Trung Thu, thì mói không thấy bóng dáng hai chàng đó nữa.
    Nhưgn đem hôm mười bẩy, cũng vào khoảng trống canh hai, những du khách tình cờ đi lại bên chùa Pháp Hoa, vẫn được mục kích họ bá cổ nhau, ngồi bàn luận trên tảng đá.
    Người mặt vuông to lớn bảo người mặt trái soan mảnh khảnh rằng:
    - Nay đã quá tiết Trung thu, mà quân ta vẫn không thấy nhổ trại trở về Thuận Hoá. Không biết bao giờ quan Nguyên soái mới truyền lệnh xuống? Phụ thân tôi càng ở ngày nào, càng bị tân khách quấy nhiễu ngày ấy, thực là tốn công tốn của mà chugn qui chẳng có ích lợi gì!
    Người mảnh dẻ khe khẻ gật đầu, không đáp. Mặt chàng mơ mộng nhìn quãng tối vắng thăm thẳm, hình như đang mải mê nghĩ ngợi sự gì. Bỗng chàng mở miệng, muốn nói, rồi lại ngập ngừng không nói nữa. Người to lớn không trông thấy về vẻ ngần ngừ ấy. Mãi hồi lâu, vụt một cái người bé nhỏ đứng phắt dậy, vỗ vai bạn:
    - Anh ạ, em có một lời quan trọng, muốn nói anh rõ. Nhưng... Khó xử quá! Em nghĩ đà nát óc, chẳng ra kế gì. Chỉ còn cách ch1ung ta phải tạm biết nhau là hơn cả, song le, biết bao giờ ta mới được trùng phùng?
    - Có chuyện gì, em cứ nói. Dẫu phải chết vì nhau, anh cũng không lấy làm ngại. Lời thề xưa dưới bóng trăng còn đó, có lẽ em quên mất rồi sao?
    - Không, quên thì chả khi nào quên được; chuyện này tuy đối với ta không có gì nguy đến mạng, nhưng muốn cho toàn vẹn, ắt ta phải tìm ngay một phương thoát thân cho gọn gàn! Mà làm thế nào cho bố mẹ chúng ta đừng vì thế uổng mất thanh danh của nhà võ tướng!
    - Em nói phải, nhưng mà... câu chuyện này nó quan trọng thế nào? Anh nóng ruột quá, chỉ muốn nghe ngay cho rõ.
    - Anh đừng vội. Chỗ này không phải là chỗ có thể giãi bầy tâm sự được. Anh nên theo em ra đây, em sẽ kể anh hiểu.
    Người bé nhỏ nói xong, dắt người to lớn đi qua mấy con đường hẻm, ra tới một cánh đồng bát ngát vắng tanh. Hai người cùng ngồi xuống bên bờ ruộng lúa.
    *
    * *
    Hữu quân Ðô đốc Nguyễn Hữ Chỉnh, mặc dầu đã hết sức làm đẹp lòng Uy quốc Công Nguyễn Huệ - nào huyện Huệ ra diệt Trịnh, nào tận tụy săn sóc đến đám cưới công chúa Ngọc Hân, - hình như khó thu được bụng ông chủ soái Tây Sơn, mà vẫn bị Huệ ghét cay ghét đắng. Chỉ tại tính Chỉnh không đường đường quân tử, chàng đã hay ô mị còn tham lam, giảo quyệt, khiến lòng cương trực Uy quốc công khó nỗi bao dong. Thì vừa mới hôm nào còn ở Thuận Hoá, nửa bỡn, nửa thật, Huệ đã làm cho Chỉnh phải kinh hồn.
    - Ấy, ai thì không ngại, duy chỉ ngại có ông đó thôi!
    Lại đến hôm Huệ lên chầu đức Hiển Tôn, Huệ tâu vua để một mình Chỉnh ở lại Bắc Hà, giúp nhà Lê đương thiếu kẻ hiền thần định quốc. Huệ trong lòng vẫn muốn trừ Chỉnh, nhưng vì công việc còn nhiều bề bộn nên phải dằn lòng dùng đến tài Chỉnh ít lâu. Huệ không bao giờ không rõ Chỉnh là người lỗi lạc, song không muốn cùng Chỉnh cộng sự là bởi sợ một mai, kẻ gian giảo kia sẽ có cơ làm hại đến mình.
    Ghét Hữu Chỉnh, không những chỉ một mình Nguyễn Huệ. Vốn sẵn tài hùng biện, Chỉnh là một tay nói khoác và tự phụ ít ai bì. Cho nên chàng bị vạ miệng, khôgn cách nào tránh được. Hồi vừa vào Bình Ðịnh, được vua Thái Ðức yêu phong làm tướng, Chỉnh có ý kinh tài Phò mã con rễ vua Tây Sơn, Võ Văn Nhậm, bởi cớ ấy, không bằng lòng Chỉnh. Nhậm là người Quảng, xuất thân là một tay cung, rồi dần dần lên đến hàng tướng, không có chữ nghĩa, đến khi được kén làm Phò mã, Nhậm lên mặt khinh bỉ Chỉnh là một kẻ đầu hàng. Trái lại, Chỉnh tự ỷ mình là một văn tài xuất thế, một thủy sư có tiếng vang lừng, một võ quan sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, nên khinh Nhậm là người vô học đắc thời lĩnh tước công khanh. Chỉnh, trước mặt Nhậ, nhiều khi mỉa mai ngâm mấy câu thơ của Ðặng Dung truyền lại:
    “Trời lai đồ điếu thành công dị”...
    Bởi mấy lẽ ấy, tuy cùng đồng triều, đồng sự, hai quan Ðô đốc ghét nhau như hai kẻ cựu thù. Hai nhà không bao giờ đi lại với nhau; dẫu có tết nhất, giỗ cưới cũng không biếu tặng nhau một chút quà nhỏ mọn.
    Kịp khi cả hai cùng ra đến bắc thành, sự hiềm khích đã chất chứa trong hai tâm hồn, vì những lẽ rất ngẫunhiên, càng ngày càng tăng mãi. Tình cờ dun dủi cho Tả quân và Hữu quân cùng ở chung một phủ. Nhậm giữ chái bên Ðông. Chỉnh ỏo mé bên Tây. Tuy cùng ở một nhà, hai quan Ðô đốc không bao giờ ghé tạt vào thăm hỏi nhau, trừ khi cùng hội diện trong súy phủ.
    Hữu quân Chỉnh thủa xưa vốn làm tướng thờ nhà Lê, ông đã theo quan Hiệp đồng Hoàng ngũ Phúc và Huy quận công Hoàng Ðình Bảo. Bởi vậy, lần này ra tới Thăng Long, thân bằng cố hữu kéo lại chào mừng rất đông, tiêp1 đãi từ sớm đến chiều mà không ngớt. Trước cửa dinh Ðô đốc, không ngày nào không rập rìu những xe cùng ngựa; người lui kẻ tới tấp nập như hội chợ; vương tôn quý khách ra vào chẳng thiếu mặt nào.
    Chỉnh trước đã ở lâu đất Bắc nên nói tiếng Thăng Long thất thạo, chỉ hơi lơ lớ đá một vài tiếng Nghệ mà thôi. Quan khách đều ngỡ Chỉnh là người bản xứ. Vả chẳng Hữu quân sẵn tài cao đàm hùng biện, tiếp đãi tân khách rất niềm nỡ lịch sự, hoá nên càng ngày thiên hạ kéo tới càng đông. Có lẽ bao nhiêu quý quan, bao nhiêu danh tướng, bao nhiêu đại gia, có ở trong thành Thăng Long không ai không đến tiếp kiến Chỉnh để nghe giảng thuyết và lý luận.
    Nhưng, phủ Ðô đốc tuy nhiều khách khứa, mà bên chái đông, tuyệt nhiên chẳng có bóng ma nào. Ðến chơi một vị ư? vị ấy đi rẽ sang chái tây, nhìn về phía đông một cách hững hờ lãmh đạm. Cái đó không lấy gì làm lạ. Tả quân Võ Văn Nhậm nguyên là người Quảng ra đến Bắc Hà xa lạ không có ai đi lại quen thân. Nhậm đã nói tiếng trọ trẹ khó nghe, lại không có học thức gì, tiếp khách buồn như chấu cắn. Ngoài sự mời trà, mời thuốc, Nhậm chỉ biế bàn những chuyện thông thường, hoặc giả một vài môn võ, còn ngoài ra, chả biết câu gì, chỉ ngồi ngẩn mặt vuốt râu, há mồm nghe diễn giải nhũng ý tưởng cao siêu thâm thúy.
    Bởi thế, ngoài một vài võ tướng đến thăm Tả quân, không còn ai vào dinh Ðô đốc mà đi sang viện phía đông hết cả.
    Hai cha con, Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Anh Tề cả ngày phải cặm cụi tiếp rước tân khách; cha đi vắng vào chầu trong phủ súy thì con ở nhà phải đưa đón thay cha. Bì chả với hai cha con Võ Văn Nhậm lúc nào cũng rỗi rãi an nhàn; Quận chúa An Trinh thì luôn luôn cải trang đi du ngoạn khắp phố phường trong khi Phò mã ở nhà đánh chén hay đánh giấc.
    Thỉnh thoáng cuốn rèm nhìn ra cổng chính, Phò mã lại buồn rầu tức bực thấy bên mái tây nô nức những người, khiến vẻ tẻ lạnh của toà dinh cơ phía đông càng thêm rõ rệt. Tựa hồ trong phủ Ðô đốc, chỉ mé bên kea có người ở; còn bên này thì rêu phủ cỏ phong, chả ai đoái hoài trông đến, coi như một chỗ bỏ hoang. Mình cũng đường đường một quan đô đốc, nào có kém gì kẻ kia, cớ sao lại có sự chênh lệch quá thiên như vậy?
    Nếu sự chênh lệch ấy chỉ thoảng qua một hai ngày, có lẽ Nhậm cũng không để ý. Nhưng đằng đẵng hơn một tháng trời, mà ngày nào cũng phải gượng gạo nhai nuốt sự bất công, Nhậm không thế nào chịu nổi. Mình đây ngang hàng với nó, vì lẽ gì thiên hạ lại về hùa với nó mà rẻ rúng mình? Ðầy một lòng hổ thẹn, tức bực, hgen ghét, Nhậm càng nuôi một mối tử thù đối với Chỉnh.
    Chỉnh xưa nay vốn là người khéo xử, thấy tình hình như vậy, biết ngay thế nào Nhậm cũng bẽ mặt với quan lại xứ Bắc Hà; ông bèn sai con trai cả là công tử Anh Têè cùng một đội gia nhân đứng ở Chính môn, hễ có khách thì đón một nửa sang trái đông để vào thăm hỏi Nhậm. Lần đầu tiên, một vài người lầm tưởng Hữu Ðô đốc cho đón vào, đi sang mé đông vào tiếp Phò mã Nhậm. Nhưng thấy Nhậm ăn nói rấm rẳn, đã không lịch sự lại có nhiều tự đắc, lần sau họ không để bị mắc mưu. Mặc dầu Anh Tề mời mọc lôi kéo họ sang trái bên đông, họ cứ tìm cách đi cả sang toà lầu Chỉnh ở. Người nào cũng thế, không ai bảo ai, màđều tránh mặt Nhậm, không muống phải chịu nỗi bực rọc ngồi nói chuyện với Tả quân. Một là tiếng phương Nam lơ lớ khó nghe, hai là Tả quân, thấy kháCảnh Hưngkhông vào chơi nhà mình, thì đâm ra ghét khách; hễ có ông nào vô phúc lò dò mò đến, là thế nào cũng bị Nhậm ban cho những câu lỗ mãng tục tằn. Gặp được người nào, Nhậm trút cả trên mặt người ấy những nỗi căm tức bấy lâu vẫn lèn trong đáy dạ. Rồi, ngày lại ngày, mối căm tức ấy bởi không tiêu đi được, hoá ngay thành mối đại thù đối với cha con Nguyễn Hữu Quân.
    Cha con Chỉnh tưởng đón rước hộ khách vào nhà Nhậm ắt làm cho Nhậm vui lòng; ngờ đâu, trái lại, Nhậm đã không cảm ơn còn đâm ra oán giận. Nhậm tưởng lầm Chỉnh có ý riễu cợt mình nên làm thế để mình hổ thẹn; lòng ghen tuông đố kỵ của Nhậm càng thêm sôi nổi, khiến sau này, vì những câu chuyện nhỏ nhặt không đâu ấy, vì sự hiểu lầm nhau ấy, biết bao tấn bi kịch xen vào gia đình họ Võ và họ Nguyễn, phá tan hạnh phúc của cả đôi, rồi khiến cả đôi cùng bị giết một cách thảm thương, khốc liệt.
    Thế mới biết đối những kẻ đầy lòng Trịnh Tùngtiểu, hay ghen ghét, hay thù vặt, sự nghiệp không bao giờ được vĩnh viễn vẹn toàn.
    Mối hiềm khích mà ngẫu nhĩ, không chú ý, Nguyễn Hữu Chỉnh đã gây cho Võ Văn Nhậm, mối thù ấy, dựa vào lắm việc nhỏ nhen, vô lý, càng ngày càng bành trướng dần dần. Nó thong thả, âm ỷ chiếm tâm hồn Nhậm, nung nấu tâm hồn ấy, rồi, một ngày kia, biến hẳn thành một ý nghĩ duy nhất trong óc Nhậm. ngày đêm cắn rứt Nhậm, bắt Nhậm phải luôn luôn hoài bão nỗi căm hờn.
    Mà, giữa lúc Tả quân Ðô đốc tâm tâm niệm niệm xây đấp trong tư tưởng những phương pháp báo thù cừu địch một cách hiểm độc sâu cay, giữa lúc ấy ông Hoá công tinh nghịch đã mưu sẵn một trò đùa ác nghiệt, tựa hồ muốn dùng trò đùa ấy để mai mỉa Chỉnh và Nhậm, dạy cho hai kẻ tiểu nhân một bài thí nghiệm đau đớn, cho bõ ghét thói ghen hờn.
    Thần Ái tình đã lướt qua, điểm một nét êm ái dịu dàng trên vẻ tối đen của sự oán thù đe hạ. Ðầy một lòng căm giận, Võ Văn Nhậm nào có hay đứa con gái bấy lâu nay một niềm yêu dấu, đứa con vô nghi vô phúc ấy, nó đã cùng con trai Nguyễn Hữu Chỉnh, thề sắt son sinh tử những bao giờ!...

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 6 :

    Thành Qui Nhơn năm Giáp Thìn (1784).
    Tiết Trung thu năm ấy, dân trong thành, được buổi trăng rằm rạng tỏ, mua vui mở một cuộc rước đèn múa sư tử tưng bừng. Ðám rước, đi đến đâu, khua chiêng trống mã la inh ỏi; nah2 nào có treo giải thì cho gọi đám sư tử vào giỡn cầu trước cửa cho vui.
    Về phía nam trong thành, trước cửa dinh quan Tiết chế, có hai đám rước, vì cùng tranh đua nhau một giải thưỏng đặc biệt, đâm ra gây lộn lẫn nhau. Kết cuộc là một sự ẩu đả mịt mùng túi bụi, người la trẻ khóc vang lừng. Giữa lớp sóng người tấp nập đi xem, bỗng đâu nhảy xổ ra một thiếu niên hùng dũng, chen vào đám rước can nhũng tay loạn đã ngông cuồng. Can mãi không được chàng tức tiận, múa quyền thưởng cho mấy kẻ ngang nghanh một bài thí nghiệm rõ rệt về sự hay cấu xé lẫn nhau. Quyền chàng xong vào đến đâu, lũ người đương hăm hở đấm đá đều dãn ra đến đấy; sau cùng, bao nhiêu tay hung hãn phải ngừng cả lại, đứng nhìn người tuổi trẻ nhẩy múa; chúng càng ngắm kỹ, càng đâm ra kính phục hãi hùng. Thì ra anh chàng vào cang đó có một môn quyền tuyệt diệu; nào khi lui, khi tới, nào lúc đá, lúc đấm, chàng hoành hành một cách rất ngoạn mục, biến hóa điệu bộ không biết đâu mà lường. Tuy chàn ghăng hái tiếng thẳng vào đám đông, như muốn đánh cho bọn vô lại một trận đòn dừ tử, kỳ thực chàng chẳng để ai đến nỗi bị thương cả, chỉ cốt làm cho mấy tên đầu xỏ hoa mắt lên vì ngoán võ chàng diễn, ngõ hầu chúng dừng tay lại, không đánh nhau kịch liệt nữa. Thành thử chỉ trong một thời khắc nhỏ, hai đám rước bỏ cuộc xung đột; nhũung kẻ rước đèn và những khách đi xem đều giãn lui ra hết, nhường chỗ cho thiếu niên tráng sĩ trổ tài.
    Tráng sĩ thấy sự can thiệp của mình đã có hiệu quả, vừa muống lủi vào đám đông để lẩn tránh ra về, thì thình lình như một tia chớp, một người bé nhỏ, mảnh khảnh nhẩy vụt đến trước mặt chàng vừa vươn tay đánh, vừa la lớn:
    - Ông đã phô tài, ta thử chơi nhau một keo!
    Tráng sĩ hết sức ngạc nhiên, song cũng định thần né mình sang một bên, lấy thế thủ, rồi chẳng nói chẳng rằng xông vào đánh người bé nhỏ. Hai bên vờn nhau như rồng tuôn, phượng múa; người ngoài xem chỉ thấy chân tay vùn vụt như gió đập, quần áo phấp phới như hoa bay, tịnh nhiên không biết ai thua, ai được. Công chúng đứng đờ ra ngắm nghía, lại reo hò vỗ tay trợ lực cả đôi bên. Hai người ganh sức nhau một lúc lâu, chẳng biết đến bao nhiêu hiệp; mãi saucùng, tráng sĩ thứ nhất mới dùng kế lùi ra ngoài, tránh cái đá song phi của bên địch. Anh chàng bé nhỏ đá hụt, bị tráng sĩ nằm rạp xuống ngáng chân, làm cho ngã xóng xoài trên mặt đất.
    Thiên hạ vui mắt, cười la rầm rĩ, khua chuông gõ trống om xòm. Khi tráng sĩ nhún mình trỗi dậy, thì không thấy bóng người bé nhỏ đâu nữa; người ấy hổ thẹn, đã phi thân trốn đi tự lúc nào rồi. Tráng sĩ đành rẽ đám đông lủi ra về, vừa đi vừa nói một mình, vừa tắc lưỡi:
    - Thực là một tay đối thủ!
    Tay đối thủ ấy, nào có phải ai xa lạ: chính là con quan phò mã, rễ vua Tây Sơn, Hổ oai tướng quân Võ Văn Nhậm đó! Mà người tráng sĩ xông vào can đám rưóc tình cờ đã muốn cho là con trưởng Phiêu Kỵ tướng quân Nguyễn Hữu Chỉnh: Công tử Nguyễn Anh Tề. Công tử Nguyễn Anh Tề mới theo cha vào ở Qui Nhơn, thành ra đấu võ với con Hổ oai tưóng quân mà chẳng biết tên biết mặt!
    Mãi sau này, gặp gỡ nhau trong một trường hợp lạ lùng ngẫu nhĩ, cậu Anh Tề mới được biết con quan Phà mã là một nàng quận chúa ngàn vàng. Một buổi chiều, trời êm ả, ngồi hoạ đàn thổi sáo trước cửa dinh cùng vài người bạn, công tử thấy đi vào phủ Phò mã một trang thiếu niên anh tuấn, sau lưng có đến năm sáu tên thị nữ theo hầu. Ngạc nhiên hỏi bạn, Anh Tề mới rõ thiếu niên anh tuấn kia, chính là một giai nhân giả dạng: Võ An Trinh quận chúa, con gái Phò mã Võ Văn Nhậm, Cháu ngoại yêu của Thái Ðúc hoàng đế, cháu quan Tiết chế Nguyễn Lữ cùng Long nhưỡng tướng quân Nguyễn Huệ, một trang anh thư tài sắc vẹn toàn.
    - Quận chúa vốn con nhà võ tướng, thân mẫu nàng, Thọ Huệ công chúa, cũng là tay nữ kiệt trong nghề cung binh đao. Mười lăm tuổi đã sành khoa phi ngựa, múa gươm; Võ Phò mã vì thế, đón một ông giáo sư Tầu có danh tiếng sang dạy nàng những ngón quyền đặc biệt, và thập bát môn võ nghệ cho tinh tường. Nàng bình sinh chỉ ưa ăn mặc giả trai, ưa thi quyền với nam nhi hào kiệt. Lại thường sử một đôi kim giản, múa đôi roi ấy như tuyết rủ, hoa bay. Thực là một mỹ nhân kỳ dị.
    Nghe bạn kể rõ lai lịch của An Trinh quận chúa, công tử Anh Tề mới nhớ rằng chàng đã cùng nàng , hôm rằm tháng tám, ganh đua hơn kém với nhau. Từ đó, chàng càng để tâm đến quận chúa.
    Dinh Phò mã cách dinh Phiên Kỵ tướng quân chỉ có một con đường, hoá nên những gịp Anh Tề được gặp An Trinh cũng không hiếm. Nhân đã từng biết nhau trong khi thí võ cả đôi bên chả mấy chốc quen nhau, rồi mến nhau vì sắc vì tài. Từ chỗ mến đến chỗ yêu mê khăng khít, nó chỉ xa nhau bằng một khoảng cỏn con. Lã gì những trai gái cùng loài tình chủng, ái tình chả tốn chút công nào cũng có thể len lỏi rất mau chóng vào đôi con tâm còn non nớt, bắt hai trái tim kia phải cùng nhau vỗ chung một nhịp nồng nàn. Yêu đương... yêu đương... quận chúa, một tháng sau khi biết tình lang, đã cùng công tử cắn ngón tay, thề thốt.
    Từ đấy, nguồn ân suối ái không ngày nào không âm thầm lai láng, hai linh hồn trong sạch đã hoà vào nhau đúc nên một chữ “chung tình”. Rồi dẫu thời gian, dẫu hoạn nạn, dẫu đến dâu bể đổi thay, không mãnh lực nào có thể tàn phá mối tơ duyên đã buộc kỹ đôi tráng sĩ anh thư và cạm bẫy ái tình thần trăng sẵn. Sức a;6u yếm của hai thiến niên bồng bột không sự gì đèn nén nỗi; nó chỉ càng ngày càng tăng mạnh, nhất là khi cả đôi phải thương yêu nhau giấu giếm, chưa được quyền công nhiên nên vợ nên chồng.
    Nên vợ chồng, một vấn đề khói giải quyết cho công tử Anh Tề và An Trinh quận chúa! Anh Tề không dám nói rõ lòng mình ước muốn cho phụ thân chàng biết, cũng như An Trinh cứ bo bo giữ rất bí mật chút bầu tâm sự của nàng. Cả hai, dẫu không hay đích xác rằng Phò mã cùng Phiêu kỵ tướng quân không ưa nhau lắm, nhưng vẫn có trực giác rằng, nếu hở cơ, sẽ chịu nhiều điều trắc trở, lo buồn. Vậy nên cùng kín miệng như bưng, chỉ cố tìm những dịp hẹn hò nhau ra tình tự giữa nơi hoang vắng.
    Những dịp hẹn hò không phải là hiế, bởi lẽ An Trinh quận chúa, nhờ cải trang, nhờ giỏi võ, thường được phép nhà trốn lầu khuê đi du ngoạn luôn luôn. Vả chăng Phò mã Võ Văn Nhậm, lại lấy thế làm đắc sách, tưởng như con gái mình sẽ ngang tàn bạo dạn hơn cả lũ nam nhi. Ði đến đâu, Nhậm cũng cho con gái mặc giả trai theo với lũ gia nhân, tùy tưóong: An Trinh quận chúa vì thế, được theo cha ra mãi Bắc Hà.
    Trong khoảng một tháng rưỡi mà quân Tây Sơn đóng ở Thăng Long, chả mấy khi quận chúa và công tử không gặp nhau trong bóng tối chập chùng trong sân chùa Pháp Hoa đầy cây cối um tùm xanh ngắt. Ngôi chùa thanh vắng ấy đã làm chỗ hẹn hò của cặp uyên ương tình tự, nó đã hiểu thấu tâm sự của đôi bên. Hai viên võ tướng thiếu niên thường đi vãn cảnh Phật, chính là Anh Tề cùng An Trinh đó.
    Tối ngày 17 tháng tám rạng ngày 18, An trinh kéo tình lang đi qua nhiều khúc đường hẻm, tới một nơi hoang vu tịch mịch, rồi cả hai cùng đến ngồi bên bờ ruộng lúa, tự tình.
    Công tử- Em vừa nói có chuyện gì bí hiểm, xsin mau mau kể lại cho anh nghe, anh nóng ruột quá.
    Quận chúa- Chuyện này không phải chuyện đùa đâu, anh đừng vội. Số mệnh hai Anh Tềở cả trong chút tâm sự này. Anh phải điềmt ĩnh lắng nghe, đừng làm nhộn lên nhỡ có kẻ lắng trộm được thì khốn. Anh có biết phụ thân anh và thầy em không bằng lòng nhau đó hay không?
    Công tử- Anh cũng mang máng thế.
    Quận chúa– Ai ngờ đâu hai nhà thù nhau rất hiểm, mà hai quan Ðô đốc cùng nhau bất cộng sự từ lâu. Thầy em... hình như ghét phụ thân anh lắm lắm...
    Công tử- Sao vậy?
    Quận chúa– Nào ai hiểu! Mãi hôm qua hỏi dò, hỏi gạn thầy em mới rõ. Thầy em lại cấm không được hở cơ cho ai biết đến sự tình. Cách đây ba bốn hôm, thầy em có lên thăm quan Nguyên soái, tâu kín rằng phụ thân anh là người nham hiểm, xảo quyệt, nên kéo kín quân về, bỏ một mình ông ở đất Bắc. Quan Nguyên soái nghe lời thầy em, đã ra mật hiệu cho tướng sĩ, nội đêm nay, lui quân về Thuận Hoá, không bảo cho Hữu quân Ðô đốc biết. Hiện bây giờ quân đã đi rồi, thầy em cũng đã về rồi.
    Công tử- Sao em chưa về?
    Quận chúa(cười) – Em ở nán lại đợi anh... Anh ạ, em không về được nữa: Nếu về... thì chả bao lâu... đôi Anh Tềsẽ minh dương chia rẽ, em phải ngậm hờn mà chết, anh thì ở lại một mình...
    Công tử- Em nói gì mà kỳ quặc vậy?
    Quận chúa(đau đón) – Nào có gì mà kỳ quặc? Em đây đã có mang rồi! Trở về, em sẽ khó lòng giấu kín được duyên nợ đôi Anh Tề, thầy em chả giết em cũng sẽ bắt em tự ải. Vì thế, trong khi quân sĩ sửa soạn trở về tấp nập, em đã thu dọn quần áo và những đồ châu bảo, rồi nhân lúc hở cơ, trốn biệt một nơi. Thầy em, tìm em mãi chả thấy đâu, nhưng sợ trái lệnh bề trên, phải đem binh tướng về ngay, không dám chậm trễ, bỏ mặc em ở lại. Thầy em tin rằng em có thể theo kịp ba quân trở về Phú Xuân, rồi sẽ cùng thầy em về Qui Nhơn một thể.
    Công tử(luống cuống) – Bây giờ thì làm thế nào?
    Quận chúa– Làm thế nào! Cái đó là tùy lòng phụ thân anh. Nếu phụ thân anh muốn về, thì nên thu xếp về ngay; mà muốn ở, thì cứ ở lại phù vua Mẫn Ðế, giữ non sông nhà Lê cho được vững vàng!
    Công tử- Còn hai ta?
    Quậnchúa– Hai ta, đã có kế. Em đây định sẵn cã rồi! Ví dù anh nghĩ đến ân tình, em sẽ theo anh về nhà, làm dâu họ Nguyễn. Anh sẽ giấu kỹ em là Quân chúa, chỉ phao lên rằng em là một thiếu nữ lương dân. Rồi sau này, em cứ việc đóng kín cửa ở trong phòng, cha mẹ em khó lòng mà nhận đước! Khi nào hai họ hết điều hiềm khích, bấy giờ ta sẽ lộ ra.
    Nếu thân phụ anh không cho phép đôi Anh Tềthành gia thất, mà liệt em vào hạng gái bất nghi, thì lúc đó, nhu anh quyết chẳng phụ em, Anh Tềnên bỏ hẳn cuộc vinh hoa, tìm một nơi cây xanh bóng mát, sống một cuộc đời thanh nhà sung sướng cùng cỏ cây bầu bạn đêm ngày.
    Ví bằng anh muốn theo đuội công danh, không nghĩ đến nhời thề thốt cũ, em sẽ chỉ còn một cách, một cách rất dễ, là đoạn tuyệt hẳn với cõi đời đa lụy, đi tìm sự thoát tục bằng một lưỡi gươm.
    Chẳng hay anh nghĩ thế nào, anh nên nói thẳng một lần, để em biết mà quyết định đời em cho ổn thoả! Em tin rằng lòng em đã yêu anh chan chứa, thì mối ái ân kia, không đời nào anh không trả lại cho em. Chúng ta, tuổi còn thơ, chỉ sống bởi ái tình, một khi ái tình đã nhỡ, mà một kẻ trong hai ta chẳng trong nguyền ước cũ, thì người bị rẻ rún gcó sống một mình để ngậm hờn nuốt tủi, quãng đời kia cũng chỉ là một quãng đời thừa.
    Công tử(cảm động) – An Trinh em ơi! Anh đã rõ lòng em cả. Em đã bỏ vinh hao phú quí, bỏ cả cha mẹ, thân danh, em đã không quản giá ngàn vàng, một chiều kia, hiến cả sinh mệnh cho anh, anh nỡ nào trong buổi em cùng khốn, bơ vơ, phụ tấm lòng em, không thẹn? Anh cũng như em cùng một giống hào hoa khí khái, trót đã thề thốt cùng sinh cùng tử, dẫu tử sinh anh đâu dám ngại vì tình?
    Em cứ an tâm. Sự bạc đãi, hất hủi em, anh chẳng khi nào nghĩ tới, nhưng việc đem về nhà cùng ở, quyết khó lòng ta được vẹn toàn. VẬy chỉ còn cách ta đem nhau cùng trốn biết tích là hơn; song le em phải nán đợi một hai ngày, để anh đủ thì giờ và mưu kế thoát thân cho vô sự. Bây giờ tuy em đã cải trang thành võ sĩ, nhưng cũng nên vẽ mặt cho khác hẳn; rồi em theo anh về dinh, anh sẽ giấu em trong phòng anh, không cho ai biết. Ðợi khi phụ thân anh tính xem nên về hay ở, bấy giờ ta sẽ thu hành trang đào tẩu phương xa. Chẳng hay như thế em có vui lòng ưng thuận?
    Quận chúa– Em hiện tình như quả trứng non nớt nằm lỏng lẻo trên bàn tay anh, anh muốn nâng niu thì quả trứng đó được nguyên lành, mà bỏ xuống đất thì nó vỡ ra lênh láng...

  5. #5

    Mặc định

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 7 :

    Ngày 13 tháng 8 năm Bính Ngọ.
    Nhân dân thành Thăng Long, từ ngày Uy quốc công cho dùng vương lễ để tống táng thi hài chúa Trịnh, được mục kích không biết bao cảnh tưng bừng rực rỡ, liên tiếp nhau bầy ra trong khoảng hơn nửa tháng trời.
    Mỗi khi anh mõ đi riễu phố này qua phố khác, vừa gỡ miếng sừng cóc cóc vừa lên giọng khàn khàn báo cáo cho dân gian phải trang hoàng nhà cửa và nghênh bái những đám rước tôn nghiêm long trọng sắp đi qua, thiên hạ lại nhau nhau sắm sửa để chào đón những cảnh vui mắt, mới lạ, mà từ xưa, họ chua từng được thấy. Rồi, đến ngày đã dự định, họ tụm năm tụm bẩy ở các ngã tư ngã ba, họ dắt nhau họp đông đúc trước cửa Ngọ môn, trước phủ Liêu hoặc trước đền Vạn Thọ, họ leo lên cây, lên gác, lên tường, ở ven những phố phường mà họ cho rằng thế nào đám rước cũng phải dàn qua.
    Ngày 13 ấy, tấp nập rộn rịp hơn mọi ngày, nhân dân thành Thăng Long kéo nhau đi xem hội. Họ bỏ cả nhà cả cửa, họ bồng bế xô đẩy nhau, họ bàn, họ tán, họ làm náo động cả một vùng. Thôi thì nào già nào trẻ, nào con gái, nào con trai, từ ngưòi giầu kẻ nghèo cho đến ni cô hoà thượng, tất cả bao nhiêu sinh mệnh nương náu trong thành, tất cả bao nhiêu thôn phu an cư ngoài thành, hôm ấy không ai rủ ai mà hình như đã hẹn sẵn với nhau từ trước, đều lũ lượt ùa cả ra một lúc, dầy như nêm cối.
    Lính tráng, từ sáng sớm, đã cầm roi quất vào những làn da dầy dạn, những manh áo rách bươm, những chiếc nón xộc lệnh, những cái dù ngất nga ngất ngưỡng lấp trời. Một đội quân Ngự lâm, mỏi tay, mỏi mồm, mới bắt được kẻ đi xem đứng theo lệ luật, không được lấp bờ đường, mà từng quãng, có cọc đóng và dây thừng chăng sẵn để làm giới hạn.
    Chính giữa đường từ cửa Nam đi thẳng suốt đến Ngọ môn đền Vạn thọ, một hàng chiếu cạp điều phủ trên mặt đất; rồi, cứ năm mươi bước một, lại một chiếc án thư bầy ngoài cạp chiếu, ven đường. Một chiếc tàn vóc hồng hoặc một chiếc lộng vàng che ánh nắng cho án thư mà trên mặt, bầy một đỉnh trầm hương nghi ngút, một đôi bình sứ cắm hoa, hoặc những đồ thất sự bằng đồng. Cách vài trăm bước, có chỗ lại thiết lập những cái thể môn chót vót kết bằng lá tươi và các thứ hoa đủ sắc, trên treo những bức nghi môn, bảo cái, lóng lánh chữ vàng. Dưới cổng hoa, mỗi bên cột lại có bầy chiêng bầy khánh; cảnh tượng trông uy nghi, trọng thể vô cùng.
    Lúc ấy vào khoảng giờ Sửu. Từ bạch nhật, thiên hạ đ4 mỏi lòng chờ đợi, các võ quan, binh sĩ, thị lập đễ giữ trật tự, cũng chán nản mệt mỏi, bưng mồm ngáp vặt hoặc vuôn vai. Người đi xem đã náo núc muốn về, đinh ninh rằng đám hội, chắc sai ngày, không có.
    Bỗng đâu, một viên kỵ mã lướt qua đường như bóng nhoáng; thiếu niên ngồi trên mình ngựa như không để ý đến nghie vệ lỗng lẫy dàn ra trước mắt, cứ xăm xăm ra roi chạy riết, làm cho vó ngựa xông pha trên dẫy chiếu cạp điều. Ngầy ấy mặc võ trang ngắn mà chẽn, trông y phục thì ra một tên tùy tướng, không hiểu sao hắng ngang tàng như vậy, mà cũng không hiểu vì sao hắn có một con tuấn mã chỉ nhìn sắc lông và kiểu chạy cũng rõ là một con vật quý vô ngần. Hỏi ra mới biết bảo vật ấy là ngựa “Lưu tinh” mà người cưỡi nó là một tên thám tử.
    Tên thám tử đi đến đâu cũng lấy tay ra hiệu và hô lớn, mỗi lần gặp bọn quan quân:
    - Sắp đến! Sắp đến!
    Như bị một mãnh lực gì tiêm vào gân cốt những mầm hùng dũng, khẳng khái, sau khi nghe hiệu “sắp đến”, các tên lính canh đều hết cả buồn ngủ, ngáp vặt, tên nào cũng đứng ngay thẳng, coi bộ linh lợi hoạt động lắm; rồi cuộc ra roi đập ô, đập nón, đập áo, đập vai, lại một lần lượn khắp mặt khách did xem, bắt họ phải đứng ngay ngắn, không được sát vào các dây chăng làm giới hạn ở bên đường. Bây giờ thì dân chúng không tấp tểnh muốn về nữa, họ đều hồi hộp, đèu tỉnh táo, đều bấm nhau sẽ nhủ thầm:
    - Sắp đến! Sắp đến!
    Quả nhiên, độ ít lâu, một hồi trống kiểng ầm ầm báo hiệu trước có ngựa xe đi tới. Tiếng nhã nhạc trúc tơ bắt đầu từ mé Ngọ môn đưa lại, lẫn với tiếng sênh tiền nhịp nhàng êm ái như ru. Chẳng mấy chốc, một cuộc biểu diễn của Hoàng gia bầy trước mắt khán quan không biết bao nhiêu sự rực rỡ uy nghi không bút nào tả được. Cũng gần như đám rước hôm nọ của đội quân Tây Sơn đại thắng đưa quan Tiết chế vào thành, đám rước hôm nay có quân lính đi một dẫy dài có tàn, quạt, cờ, voi, ngựa, súng. Có chiêng, có trống, có đàn sáo, sênh tiền. Có khí giới sáng loáng, có tinh kỳ rợp trời, có bào vàng giáp bạc, không một vẻ lộng lẫy nào kém những cuộc điểm binh buổi trước, chỉ kém bề hùng tráng mà thôi.
    Hôm nay còn có thêm cỗ loan xa vua ngự, bốn con ngựa “Hoa tôn” trắng kéo, chung quanh có bốn lọng vàng cùng các quan thái giám theo hầu. Lại có kiệu hoa của Phò mã Uy quốc công, và các mao vàng, việt bạc, nghi vệ của thiên tử đi dàn trên thánh giá.
    Ðám rước to lớn ấy từ Ngọ môn ra đến cửa Nam, rồi thẳng đường mãi tới Nam Giao thì đứng lại. Ðến Nam giao thì đứng lại. Ðến Nam Giao, vua Chiêu Thống (Nguyễn Huệ ra Bắc Hà chưa được bao lâu thì Lê Hiền Tôn, tức là Cảnh Hưng, Hoàng đế mất. Cháu nội Hiển Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, tức là Lê Mẫn Ðế, niên hiệu Chiêu Thống. Ông nầy sau chết ở bên Tầu) cùng bách quan và tướng sĩ đứng dàng cả hai bên đường để đón một vị qúi nhân sắp ra thăm đất Bắc.
    Vị quí nhân ấy nào có phải ai xa lạ: chính là Thái Ðức đế Nguyễn Nhạc, anh ruột Phò mã Uy quốc công. Nguyên trước kia, vua Tây Sơn không có ý ra đánh Bắc Hà, chỉ sai em là Nguyễn Huệ, rễ là Võ Văn Nhậm cùng tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, ra lấy Thuận Hoá mà thôi. Khi Ngài tiếp được thư Huệ nói sắp ra đánh họ Trịnh, Ngài vội vàng sai người ra Thuận Hoá ngăn Huệ. Nhưng sứ ra đến nơi thì muộn quá rồi: quan Tiết chế đã cử đại binh ra đất Bắc từ lâu lắm. Kịp đến khi vua Thái Ðức được tin quân Tây Sơn đã diệt Trịnh, đại tháng vào thành Thăng Long nhưng còn ở nán lại giúp nhà Lê, Ngài rất lo ngại. Thực tình Nhạc chỉ lo Huệ ở lâu ngoài Bắc thì sinh biến, nên vội vàng đem 500 quân ra Thuận Hoá, lấy thêm 2000 nữa ở đó, rồi, không quản ngày đêm, đi tuốt một mạch ra Bắc thành.
    Quân Tây Sơn ra tới đèo Tam Ðiệp, bốn chuyến ngựa “lưu tinh” liên tiếp nhau báo tin về chốn Triều đường. Vua Lê Mẫn Ðế bèn sai thiết lập các cỗng hoa rải chiếu khắp đường và bầy hương án để tiếp rước vua Thái Ðức. Hơn nữa, chịu ơn sâu Nguyễn Huệ, lại nghĩ mình còn trẻ tuổi, mới lên ngôi chưa được vững vàng trong một thời dường mối xã tắc đương đổ nát, vua Chiêu Thống chịu nhún mình đưa tam quân ra tận Nam Giao đón Nhạc, mong rằng sự khiêm tốn ấy sẽ cảm động vua Tây Sơn và chú dượng của mình là Huệ, ngõ hầu hai người ấy, từ đây, sẽ giúp mình giữ vững được sơn hà.
    Vua tôi nhà Lê đợi ngót một giờ, lúc ấy nẻo xe mới thấy bụi cuốn mịt mùng trắng xoá. Rồi phút chốc một đoàn binh tién lại nhanh vùn vụt, đi đầu một tướng mũ kim khôi, giáp lấp lánh những vàng. Tướng đó sức vóc vạm vỡ, mặt trông rắn chắc, mắt sáng như mắt diều hâu, mồm rộn, trán gồ, lông mày lưỡi mác; dưới cầm và trên mép có ba chòm râu huê râm, rủ xuống, càng làm tăng vẻ anh hùng. Chính là vua Thái Ðức nhà Tây Sơn đó. Vua Thái Ðức năm ấy đã gần sáu mươi tuổi, nhưng trông ngài còn quắc thước, tưởng chừng mới độ năm mươi. Ngài mặc võ phục giáp vàng, bào vàng, thắt lưng gấm, đi võ hài thêu rồng. Trên vai ngài lỏng lẻo treo một cái cung sơn son; hai bên sườn ngài, một bên buộc một túi tên bằng xích cẩm, một bên buông thõng một thanh gươm “Giốc chủy” mà võ nạm ngọc đụng leng keng vào dây xích vàng buộc bàn đạp với yên thêu.
    Ðàng sau vua Tây Sơn, hai viên đại tướng theo hầu, cai quản 500 tên dũng sĩ cùng 2000 hùng binh chia ra làm 5 đội. Xem hai lá cờ hiệu phất phới bay sau lưng hai tướng, vua quan nhà Lê mới nhận rõ một viên là Tư Mã Ngô Văn Sở, còn viên kia là Nội hầu Phan Văn Lân.
    Thái Ðức Hoàng đế vừa tới, vua Chiêu Thống cùng các quan tiến ra đón rước chào mừng. Nhạc cứ hiên ngang thúc ngựa đi thẳng, dẫn binh theo sau, cũng không thèm xuống yên, không thèm quay đầu, cứ giả vờ nhu không biết đó là vua tôi nhà Lê ra nghênh tiếp.
    Vào đến cửa Nam, Nhạc không cho ngựa đi qua đường rải chiếu lại giẽ cương sang lối tắt đi thẳng tuốt về phủ Liêu, tức là hành doanh của Uy quốc công Nguyễn Huệ.
    Trong lúc đó ngoài thành Nam giao, vua Lê vừa ngạc nhiên, vừa bẽ mặt, buồn rầu lên loan xa cùng các quan lủi thủi trở về. Nhưng trở về thì chiêng không đánh, kiểng không rung, đàn sáo bát âm không tấu. Một đoàn binh mã, trước kia hùng tráng, giờ đây uể oải phản hồi.
    Thấy anh củu chỉ một cách quá kiêu hãnh, lạ lùng, Nguyễn Huệ cũng ngượng ngùng khó chịu. Không đợi cho vua Lê re lệnh lui ngự binh vào nội. Huệ đã cùng gia tướng và quân bản bộ, phi vào thành để theo kịp vua Thái Ðức cùng bọn Ngô Văn Sở, Phan Như Lân.
    Huệ tiếp tất cả bọn ấy ở trong súy phủ, còn hai nghìn rưỡi quân thì giao cho Tả Ðô đốc Võ Văn Nhậm trông coi liệt cả vào hàng quân cũ.
    Ngày hôm sau, trong sân triều, ngoảnh mặt lên điện Kính Thiên và phủ ph5uc tung hô vạn tuế, một tên sứ giả của vua Thái Ðức vào bái kiến vua Chiêu Thống đệ lên Hoàng đế nhà Lê một bức thư vắn tắt có vài dòng:
    “Vua Tây Sơn là Thái Ðức gởi cho vua nhà Lê là Chiêu Thống đưọc rõ:
    “Chúng tôi ngày đêm vất vả ra Thăng Long để đón thằng em Huệ trở về, cuộc hành trình mệt nhọc khó khăn khiến cho khi đến nơi không còn sức lực và thì giờ yết kiến nhà vua, xin nhà vua lượng xét.
    Chúng tôi còn ở lại Kinh đô đất Bác vài ngày, vậy ngày khác xin cùng nhà vua tương hội.
    Ngày khác, tức là hôm 17 tháng tám năm Bính Ngọ đó. Hôm ấy, Nhạc cho mời vua Lê sang phủ đưòng, để vua Lê ngồi bên ta, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, còn mình thì chính thọa trên sập rồng. Các quan võ thì chia ngôi thứ tự tú trực đôi bên. Một hồi trống long phụng nổi lên, tiếp theo một hồi khánh ngọc. Các quan cùng làm lễ triều kiến cả ba người.
    Trong khi thị vệ dâng trà, Chiêu Thống thốt nhời cảm tạ hai anh em Thái Ðức:
    - Chúng tôi còn nhỏ dại, vâng mệnh tổ phụ lên giữ đường mối cho xã tắc nhà Lê, giữa buổi đường mối ấy đương bị nghiêng lệch. Xứ Bắc ngày nay loạn lạc, bốn phương giặc nổi như ong, bởi tại chính sách nhà Trịnh mà nên vậy. Cơ đồ Liệt Thánh để lại cho công tử hầu bị tan tành, suy bại, nếu không có lệnh đệ the ân ra giúp tổ phụ công tử. Nhờ thế mà quả nhân còn giữ được giang sơn, công đức ấy kể sao cho xiết. Nay nhà vua lại chiếu cố ra chơi đất Bắc, cho quả nhân được chiêm ngưỡng tôn nhan, thực lấy làm hân hạnh và cảm kích vô cùng.
    Nhà quả nhân đạm bạc, không có gì quý báu để tặng nhà vua; vậy gọi là lòng thành lễ mọn, xin biếu nhà vua mấy quận đất để khao quân, mong nhà vua không chê là ít quá, vui lòng nhận lấy cho, quả nhân được đội ơn nhiều lắm.
    Vua Chiêu Thống nghĩ tủi thân cố nén lòng để nước mắt khỏi trào ra, vừa nói vừa run, chỉ sợ rằng vua Tây Sơn nếu không có lượng bao dung thì sẽ hoàn toàn nhục nhã, mà không biết xử trí làm sao cho được.
    Nguyễn Nhạc, ngoài mặc dẫu khinh bĩ Lê Mẫn Ðế là một hậu sinh còn non nớt, nhưng trong lòng cũng ái ngại thay cho vị vương giả đương bị cơn thất thế đáng thương.
    Nhạc bèn làm ra vẻ đàn anh rộng lượng nghiêm sắc mặt lại, cố tỏa một nụ cười hiền hậu trên dung mạo dữ dội, liếc mắt nhì Huệ như để hỏi ý kiến, rồi đáp rằng:
    - Nhà vua đã có lượng muốn khao thưởng tam quân, chúng tôi xin cảm ta. Song le, nhà Trịnh bạo ngược lăng loàn khiến chúng tôi, phải thuận ý trời mà tuyệt diệt, đó chỉ là vì đại nghĩa chớ không phải vị tư tình. Nếu xứ Bắc Hà này là đất của Chúa, thì một thưóc chúng tôi không để lại; nhưng bhy hiện là đất của nha vua, thì một phân chúng tôi cũng không dám lấy. Xin nhà vua cố giữ lấy sơn hà cho vững, sửa sang nền chính trị cho dân gian được hưởng thái bình. Hễ có sự gì khó khăn xảy ra, chúng tôi sẽ đem binh đến giúp, nhà vua nên thận trọng giữ lấy quí thể và xã tắc, gắng sức làm việc để định an cõi đất, ngõ hầu đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đó!
    Trà nước xong, vua Lê từ tạ ra về. Bách quan đưa loan giá trở vào trong nội.
    Bấy giờ trong Súy phủ, chỉ còn hai anh em vua Thái Ðức ngự trên long ỷ, cùng các quan Tây Sơn đứng hầu hai dẫy giữa sân. Nguyễn Nhạc sai Ðô đốc Hữu Quân đem một toán binh tiễn vua về đền Vạn Thọ, còn mình và em, và các tướng thì bàn việc về Nam. Nhân lúc Hữu Chỉnh không có mặt ở Súy đường Phò mã Võ Văn Nhậm bèn tiến lên đại điện mật tấu cùng Thái Ðức:
    - Tấu lạy Phụ vương, Hữu Ðô đốc là một người rất phản trắc xảo quyệt. Con e rằng dùng y sẽ có một ngày sinh biến; âu là Bệ hạ nên để y một mình ở lại Bắc Hà. Y sẽ giúp vua Lê giữ yên ngôi bảo tộ, lại sẽ được ở đất nước trước kia y vẫn ở, gần các cố hữu thân bằng. Nếu Phụ vương không muốn để y ở lại Bắc thành thì chỉ còn cách là đem giết y đi, không nên để sống khỏi lo nhiều tai hoạ sau xảy đến. Lúc ấy có hối cũng không kịp nữa, mà Hữu Chỉnh sẽ là con cú dữ, được thời thì hoành hành đ1nh bạt hết các loài chim. Vả chăng, chính nó đã vì lợi riêng xui quan Tiết chế đánh Bắc Hà, tội kiểu mệnh là ở nó cả, tâu Phụ vương soi xét.
    Nguyễn Nhạc xưa nay vẫn biết Chỉnh là một Ngụy Diên tái thế. Nhưng một Nguỵ Diên thông minh, nhiều cơ trí, biện bác như nước chẩy, lại có dũng cảm ít ai bì. Song le Nhạc yêu Chỉnh, coi Chỉnh như một con ngựa hay có nhiều chứng tật, cỏn con. Trước kia, thủa vừa khởi nghĩa đánh với quân nhã Nguyễn, Nhạc bị một phen cùng khốn, mắc chẽn giữa đạo binh của quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống PHúc Hợp đóng ở Bình Khánh và đạo quân của họ Trịnh dàn ở Quảng Nam. Liệu thế chống không nổi, Nhạc phải xin hàng Hoàng Ngũ Phúc, chịu nộp đất và chịu sắc phong tước Tây Sơn hiệu trưởng của Chúa Trịnh ban cho. Sắc ấy so Nguyễn Hữu Chỉnh mang vào cho Nhạc, và nhân tiện giao cho Nhạc cờ và ấn kiếm của triều đình nhà Lê.
    Nhờ thế, không lo mặt Bắc, Nhạc mới có đủ lực chinh phục phía Nam, dựng nên cơ nghiệp. Trong khi theo Hoàng ngũ Phúc vào Quảng Nam. Chỉnh cũng đã có đi lại cùng Nhạc. Tài xu nịnh cùng khoa biện bác của Chỉnh khiến Chỉnh chiếm được lòng tin cậy của Nhạc, nhất là vì sự được Hoàng Ngũ Phúc thuận cho chúa Tây Sơn qui phục mà Nhạc cứ tưởng lầm là nhờ có Chỉnh mới xong. Từ buổi ấy, Nhạc đã có bụng dung Chỉnh. Thấy sự hục hặc giữa Chỉnh và em cùng rể mình, Nhạc rất lấy làm khó chịu. Ý Nhạc không muốn bỏ Chỉnh cũng như không muốn giết Chỉnh. Song le, mang Chỉnh về Nam ắt sau này khó tránh khỏi những sự xung đột trong hàng tướng tá. Nhạc phân vân khó xử. Biết rõ tâm anh không nỡ lìa Chỉnh, Huệ nhân dịp, cũng chêm vào một câu:
    - Phò mã nói chí phải! Nguyễn Hữu Chỉnh thực là một cái mầm hoạ lớn về sau! Vừa ra tới Thăng Long y đã lẻn ngay vào điện Kính Thiên ton hót với Cảnh Hưng; y sẵn tính tinh ranh giảo quyệt, không trừ trước đi thì chỉ tổ phải lo cho công việc tương lai. Vả chăng, để y ở Bắc Hà, cũng không thiệt hại gì cho y cả, mà mình thì trút được khối nặng chất bên lòng. Chỉnh trong một tháng rưỡi ở Thăng Long, không này nào trước cửa không ồn ào những khách, tất cả các hàng quan lại, tướng sĩ, đều quen y chả thiếu mặt nào. Thiết tưởng đất Bắc Hà này chính là đất nước của y, y ở đây thân bằng cố hữu đầy đàn, còn chẳng vui hơn thui thủi một thân trơ trọi ở miền Nam ru? Hoàng huynh không nên lưỡng lự bịn rịn như thường tình nhi nữ, phải có nghị lực mới phải!
    Tiếng sang sảng như chuông gióng, tia mắt sáng như điện quang của Huệ tựa hồ có một thứ mãnh liệt vô địch cảm haó tâm linh Nhạc; sau khi ngần ngừ một khắc, Nhạc cũng phải cho lời Huệ là chí lý, nên theo.
    Bởi thế, mật lệnh bèn truyền xuống cho tất cả hàng quân hàng tướng, định ngay tối này hôm đó thì phải sãn sàng hàng lý, phải đúng cơ ngũ để nhổ trại phản hồi.
    Chiều hôm ấy, Trần quang Riệu được chỉ vơ vét hết tiền của lương thực chất trong kho tàng của vua Lê và Chúa Trịnh. Trong kho có bao nhiêu lấy sạch, không còn để lại chút gì. Rồi đến cuối giờ Tuất, khi dân gian đã bắt đầu đi ngủ, khi đèn đước đã gần tắt cả, người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, đoàn quân Tây Sơn, như một dãy bóng ma ẩn hiện, im lặng lướt nhẹ nhàng trong quãng tối tăm mù mịt, dần dần ra khỏi bắc thành.
    Trước kia vào Thăng Long hùng hổ thế nào, bây giờ ra khỏi Thăng Long lại trái hẳn; lúc ra đường hoàng mạnh mẽ, khi về lẩn lút êm đềm. Vào thành ấy chính là Nguyễn Huệ, cử chỉ giữa thanh thiên bạch nhật; bỏ thành ấy thì là Nguyễn Nhạc, người chỉ quen kiêu hãnh, nhưng hành sự có bề xảo trá, ươn hèn.
    Nội đêm hôm ấy, vua Thái Ðức cùng em kéo quân về Thuận Hoá.


    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 8 :

    Rạng ngày 18 tháng tám năm Bính Ngọ, khi trời vừa mới bình minh, ba chiếc thuyến buôn to lớn, từ bãi cát bờ sông, nhổ neo rời bỏ thành Thăng Long, đi xuôi xuống biển. Trong ba chiếc thuyền đó, thuyền đầu chở quan Hữu quân Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh cùng các gia môn tỳ tướng, thuyền thứ nhì chở đầy khoang quần áo và đồ đạc quí giá, thuyền thứ ba chỉ chở có vào bốn hòm niêm phong khóa kín mà sáu người võ sĩ theo kèm.
    Quan Ðô đốc được tin công tử cấp báo quân Tây Sơn đã rút lui rồi, vội truyền lệnh cho thám tử đi dò xét thực hư của tin dữ dội ấy. Lúc đã rõ biết Nguyên soái Uy quốc công bỏ mình ở lại, Ðô đốc Chỉnh đâm ra lo sợ, luống cuống, kíp thâu đêm cho dọn đồ đạc châu báu, thuê thuyền buôn dùng đường thủy chạy theo quân sĩ Tây Sơn, Ðô đốc muốn vượt bể cho nhanh, đi chiếc thuyền nhẹ nhất, không hề đem bên mình một chút của cải nào sợ thêm bận bịu, chỉ dắt độ mười lăm viên dũng tướng để hộ vệ trong lúc hành trình. Thuyền thứ hai, rộng hơn, thì cho chứa các hành lý và những đồ quý vật, phó cho con thú là Nguyễn Anh Du và một tên người nhà tâm phúc trông coi. PHò nhị công tử Nguyễn Anh Du và tên người nhà ấy, dùng hai mươi tên quân tráng kiện.
    Hồi Ðô đốc theo Uy quốc công Nguyễn Huệ ra Bắc Hà, diệt Trịnh, có đem thủy binh vào cửa Ðại an, cướp được kho lương trăm vạn hộc ở ven sông Vị. Rồi khi hạ thành Sơn Nam, và kéo quân vào Thăng Long đều bị tướng nhà Tây Sơn thu cả, trong lúc hỗn độn, Nguyễn Hữu Chỉnh có vơ vét được nhiều của cải, ước ra đến mấy rương vàng. Giờ đây vội vàng thuê thuyền theo cho kịp chúa Tây Sơn, Ðô đốc không dám đem hết gia tài, phải để một phàn đồ đạc và ngựa xe ở lại. Còn bao nhiêu vàng bạc, ông sợ mang kèm bên mình thì e có nhiều điều hiểm trở, nhiều nỗi gian nguy, lại sợ khi tiết lộ, bị mang tiếng là người không liêm trực. Chỉnh bèn cho tải cả bốn năm hòm vàng bạc, tiền đồng và châu báu xuống chiếc thuyền vững chãi nhứt, rồi bắt con trai là công tử Anh Tề phải giải thuyền kia đến tận bến Nghệ An. Muốn cho khỏi sự nghi ngờ, trong thuyền Nguyễn Anh Tề chỉ có năm tên quân ăn mặc giả lái buôn hộ vệ.
    Trong năm tên ấy, một tên còn trẻ non, lại khôi ngô tuấn tú khác thường. Tên ấy, chính là An Trinh quận chúa cải trang theo tình lang đó.
    Ðược dịp phụ thân trao riêng cho một thuyền của cải, công tử Anh Tề lòng mừng hồi hộp, vội vàng mật báo người yêu. Rạng sáng hôm sau, cặp tài tử giai nhân đã nghiễm nhiên nhẩy nhót, ôm ấp nhau trong khoang, dưới tầm mắt ngạc nhiên của bốn tên quân theo hầu.
    Thuyền đi hơn một ngày ra tới biển đông. Ðộ ấy về tiết Trung thu, nước dâng to lắm. Hai con thuyền đi trước, nhân chở hành khách và hàng hoá không lấy gì làm nặng, và lại thuận theo chiều gió, tuồn tuột chạy nhanh, không tài nào theo kịp, bỏ lại thuyền chuyên vàng lẽo đẽo theo sau.
    Bể đông mù thu dông tố luôn luôn không ngớt, hết trận này sang trận nọ, khiến tầu bè kinh sợ không mấy khi dám đ1nh bạo ra khơi. Duy chỉ có lũ hải tặc “Tầu Ô” giỏi nghề bơi lặn, kiếm ăn trên mặt nước đã quen, lũ đó coi phong ba bão táp như không, cho thuyền lượn trên sóng bể như ngựa phi trên cạn. Bọn khách bán người, buôn lậu, cướp của, giết lương dân đó không mùa nào không lảng vảng trên vũng Bắc Kỳ để tìm mồi kiếm lợi. Cũng là vì sự chẳng lành dun dủi, đảng Tầu Ô kia chạm trán cùng công tử Nguyễn Anh Tề.
    Thuyền công tử đi được bốn ngày trời thì bị bơ vơ một mình trên làn nước thẳm. Một trận bão cuồng khấu đã đưa con thuyền ra tận mãi ngoài khơi. Công tử lo sợ, hoảng kinh, nhưng cũng chả biết thế nào chóng chọi với mệnh trời, đành cho chiếc thuyền nhỏ bình bồng trôi vào nơi vô định.
    Bỗng, đương cơn hoạn nạn, một đoàn hải tặc bơi xuồng ra vây chặn hẳn đường. Vô phúc lũ bọn Tầu Ô gặp phải tay Anh Tề và An trinh quận chúa; một trận đánh nhau kịch liệt khiến lũ giặc kia bị một phen táng đởm tiêu hồn.
    Những càng chết nhiều, càng thấy số chúng nó tăng bội mãi; thì ra một đại thuyền làm sào huyệt cho bọn đó, cắm neo đậu ở phương xe. Quận chúa, công tử cùng bốn tên gia binh phải gắng sức đến quá nửa ngày, mới trừ tiệt được bốn chiếc xuồng con chỏo hai mươi tên giặc bể.
    Thấy thế núng, cả đại đoàn ùa lại; trên mũi thuyền sắp hàng một lũ Tầu Ô đen chũi, đầu trọc, răng trắng nhởn, da bóng nhoáng và mặt mày dữ tợn vô cùng. Công tử xét thế cô, bèn nghĩ ra một diệu kế. Chàng lấy bút viết vào mảnh hao tiên một bức thơ chữ Hán, đại khái nói rằng thuyền chàng là thuyền của quân Tây Sơn sai ra Bắc Hà thám thính, không có đem tiền bạc, chỉ tải nhiều binh khí mà thôi. Chả may bị bạt phong, lưu lạc ra khơi, không biết đường về bờ bến. Nếu thuyền khách có thể giúp chàng đưa chàng về bãi Sầm Sơn hay bờ Nghệ Tỉnh, chàng sẽ xin ngay quan trên thưởng cho một vạn quan tiền. Bằng như muốn cùng chàng thử sức hơn thua chàng sẽ liều sống mái một phen cho biết ai là hảo hán.
    Bọn hải tặc dáng chừng đã trông rõ bản lĩnh cao siêu của Anh Tề công tử, hoá nên đành vui lòng nhận việc đưa thuyền chàng về tới bãi Sầm Sơn. Họ bèn vứt một sợi dây to sang buộc lấy mũi thuyền con, rồi mở lái giương buồm, tuốt một mạch chạy về miền Hải ngạn. Vùn vụt ba ngày, hai chiếc thuyền tới vùng Sầm Sơn đỗ lại. bây giờ công tử sai khiêng một rương tiền sang tạ lũ Tầu Ô. Nhưng công tử cũng hơi sơ ý: quân giặc thấy hòm tiền tự trong khoang đưa lại, đoán rằng chiếc thuyền con hẳn còn chứa lắm bạc vàng.
    Bởi thế, không đợi cho công tử và quận chúa kịp đề phòng cẩn thận, họ trói gô ngay bốn tên kiện nhi khiêng rương tiền vào thuyền họ, rồi sắp binh kéo ùa sang cướp phá chiếc thuyền con. Công tử Anh Tề, lâm thế cô, mất cả lũ gia binh, liệu sức mình cùng An Trinh quận chúa không thể giữ nổi gia tài cho họ Nguyễn, bèn cầm tay quận chúa nhủ rằng:
    - Lũ hải tặc nó đang reo hò, sắp sửa sang tới đây cướp của, anh em mình khó bảo hộ được mấy rương vàng này cho thoát. Âu là em soạn lấy những đồ chậu bảo giắt c3 vào mình, rồi mình đục thuyền cho nước chẫy vào, dìm cả xuống biển. Vứt cho nước thẳm còn hơn để về tay giặc, em nghĩ thế nào?
    An Trinh quận chúa gật đầu; công tử bèn lật ván lên, lấy búa bổ sàn thuyền, tan nát. Hai vợ chồng dắt nhau nhảy tùm xuống nước, lặn vào bờ, nhô lên. Thuyền nặng nước to, chả mấy chốc mấy rương vàng đã chìm lĩm giữa khơi để mặc lũ Tầu Ô sửng sốt, chửi rủa líu lô một lúc rồi kéo buồm đi mất.
    Bốn tên gia binh bị chúng phanh gan, mổ ruột, đều thiệt mạng trong một trường hợp buồn. Thế là sự bí mật của công tử Anh Tề và quận chúa An Trinh, ngẫu nhiên, trừ hai người biết với nhau, người ngoài không ai rõ nữa.
    Sở dĩ câu chuyện này lọt vào tai hậu thế, là bởi cặp uyên ương kia đã chép nó vào gia sử, gởi về cho hai nhà được biết rõ nguồn gốc của sự mất kho vàng.
    *
    * *
    Trong một làng nhỏ ven bờ bể, cách bãi Sầm Sơn chừng ba bốn dặm đường, dưới một dẫy tre mọc um tùm xanh ngắt, một chiếc nhà lá ba giang sạch sẽ làm chỗ cư trú cho một đôi thiến niên thanh nhã, đến chu đụng cùng dân chài lưới, phút chốc đã ba bốn tháng trời. Chiếc nhà lá kia vừa dựng lên được đúng trăm ngày, đôi thiếu niên kia hình như tự xa xôi đến ngụ, và trước khi lập thành cơ sở, họ ở trọ nhà một ông già đánh cá trong vùng.
    Hai vợ chồng người lạ mặt đó không hề nói đến lai lịch của mình bao giờ cả, cũng không ai biết rõ tung tích họ ra sao. Tuy nhiên chẳng ai muốn dò la cặn kẽ làm gì: cặp uyên ương đó được cả chồng lẫn vợ: họ vừa tử tế, nhũng nhặn vừa có nhân từ độ lượng, biết thương kẻ khó và cứu mạng giúp đỡ người nghèo.
    Dân trong hạt, chả mấy chốc, đều kính yêu cả hai người thiếu niên đó.
    Người chồng ăn mặc xuềnh xoàng như một nhà hàn sĩ; người vợ cũng quần nâu áo vải, cả ngày tảo tần khêu vá, không lộ ra vẻ gì đài các phong lưu. Như thế mặc dầu, người ngoài thoạt thấy dung nhan và dáng điệu cặp thiếu niên ấy, cũng biết ngay họ không thuộc về những gia đình tầm thường, mà họ tất xuất thân ở chốn lầu vàng gác ngọc. Bởi lẽ, từ lời ăn tiếng nói, từ cách tiếp đã các láng diềng, hoặc cách sinh nhai thường nhật, họ đều tỏ ra rằng họ đứng vào một từng giai cấp cao hơn. Tuy họ tuyệt nhiên không khi nào tự xưng là quí phái, nhưng thấy họ sống an nhàn sung sướng, chả bao giờ phải vay mượn ai một đồng tiền nhỏ, nhưng thấy họ một đôi khi nắng ráo, phơi vài mảnh quần áo cực kỳ hoa mỹ, sang trọng, thấy trên vách tường nhà họ có treo một đôi gươm rất quí, rất dài, lại có nhiều binh khí khác vứt ngổn ngang dưới gầm giường, gầm tủ, thiên hạ không khỏi không bàn ra tán vào nhiều lối, cho họ là một đôi dị nhân ra truyền bá một sự gì quan hệ, hay ra nghiên cứu ở bờ biển một ciệc gì bí mật, phi thường.
    Có kẻ đoán họ là dòng chúa Trịnh đi ẩn thân lánh nạn. Có kẻ bảo họ là nòi vua Lê, thấy trong nước nhiều giặc giã, chán việc đời, đi ẩn dật cho thảnh thơi.
    Thiên hạ còn đoán nhiều, nhiều nữa, song không ai dám hỏi cặp uyên ương kia con cái nhà ai, và ra ở bờ biển làm gì. Không dám hỏi mà cũng muốn hỏi, vì ai ai cũng biết rằng hỏi đã vô lý, mà càng thêm thiệt hại cho làng nước, nếu hai người khách lịch sự kia, vì phiền phức phải bỏ nơi trú ngụ mà đi. Vả chăng, hai vợ chồng người lạ mặt, đã không quấy quả và làm hại ai cả, lại chỉ nai lưng ra giup1 đỡ cho khắp mặt dân chúng trong vùng. Từ khi họ đến ở được hơn 10 ngày, thì ông chồng mở ngay một ngôi trường học. Rồi từ đấy, hôm nào ông cũng dạy trẻ con trong làng học tập, tuyệt nhiên không hề lấy của bố mẹ chúng một đồng tiền học phí bao giờ. Ðến tiền nhập môn, ông cũng không lấy, cho chí những lễ vật đưa đến tết, ông cũng gạt đi không khi nào thu nhận cho ai. Hình như ông đã có vốn sẵn để sinh nhai, không lấy của thiên hạ, dù là một đồng kẽm nhỏ. Nhà cửa ông bà đồ lúc nào cũng sạch sẽ tươm tất, ông bà ăn uống thường cơm tám cá tươi; ăn mặc cũng quần nâu áo vải như người; nhưng hình như trong cách sinh hoạt, ông bà vẫn có một vẻ đặc biệt, tỏ rằng cả hai cùng là người quí phái, tự hạ mình sống cái đời khổ sở của thường dân. Tuy bát đàn, đũa tre, mâm gỗ, mà bữa cơm nào cũng long trọng, vợ cúi nâng qua tầm mắt dâng chồng. Tuy quần áo thanh đạm sơ sài, mà lu6n luôn thơm tho tề chỉnh, không bẩn ngầu những đất bùn, những ghét, như đồ dùng của dân quê.
    Bởi thế, trong làng, ngoài xóm, không ai không kính trọng ông đồ. Ðánh được con cá tươi nào, nhà chày vội vàng đem biếu ông là đồ nhắm. Rượu ngÔn Nghi, mỗi khi có ai cất được, lại gánh vào nhà ông dâng cho ông xơi trước một vài chai. Rồi tôm tươi, rồi cua bấty, chả ngày nào mâm cơm ông không đầy chan chứa, mặc dầu ông đã mỏi mồm cấm bà con không được biếu quà ông.
    Kể sống như thế, ông bà đồ thực đã được an nhàn sung sướng. Bà đồ, dẫu không có vốn riêng đi nữa, cũng không phải lo đến gạo củi cùng các đồ ăn uống thường dùng. Bà, dưới bộ áo vải quê kệch, xuềnh xoàng, tuy không hề tô phấn điểm son, mà vẫn trẻ non trẻ nõn, trắng nuột trắng nà, đẹp một vẻ đẹp lỗng lẫy, thiêng liêng, không tài gì giấu kín được.. Bà đã hết sức sống theo lối dân quê chài lưới, nhưng bao giờ tư cách và bộ điệu của bà cũng là bà xa biệt lũ thôn dân. Bà chỉ ngày đêm chăm nom săn sóc đến chồng, thờ chồng hết bổn phận của một người hiền phụ. Chả thế mà ông đồ, không những yêu thương bà rất mực, còn quí trọng bà như quí trọng một bảo vật hiếm hoi. Ðối với bà, ông cũgn chắp tay lễ phép khi mời bà ăn uống, ông đáp lại bà bằng những “bẩm, thưa, vâng,dạ” ai nghe cũng phải lạ lùng. Về ban ngày, ai cũng chỉ biết rằng ông bà đồ xử với nhau như khách. Nhưng nếu ai đã, lúc đêm khuya, len lỏi, vào đời tư đôi uyên ương trẻ đẹp ấy, người ấy sẽ hiểu rằng ông bà đồ chỉ dùng vẻ ngoài lễ nghĩa để che lấp vẻ nồng nàn khăng khít của sự ái ân đằm thắm mà bề trong, ông bà vẫn tặng đãi nhau.
    Tối đến, khi ông đã làm xong bổn phận dạy học trò (sự dạy học của ông đây chỉ là một việc tiêu khiển cho qua ngày tháng), ông lại trở vào phòng cùng bà ngâm nga, chúng tavịnh, cùng bà đọc kinh ân ái bằng một giọng não nuột, thâm trầm. Ðêm nào cũng như đêm nào, nếu ông bà không cùng xem hoa đua nở, thì vịn vai nhau đứng đợi trăng lên, nếu không, gặp buổi mưa rầm âm ỷ tuôn rơi, một cuộc cờ hãm nước trà sen đã chìm đôi lứa vào một cảnh tiêu sầu cao thượng. Chưa từng thấy vợ chồng ai say mê nhau đến thế; ông bà đồ tự hồ như sinh ra để mến yêu nhau cho phỉ nguyện ba sinh. Thú văn hoa một đôi phen làm yếu ớt tính tình, vợ chồng nhà hàn nho lại diễn một trò kỳ dị. Họ tìm buổi trời tối đen như mực, ra giữa sân đấu kiếm múa quyền.
    Cũng vì sự đấu quyền, một tai nạn lớn lạo đã phá tan hạnh phúc của ông bà mất non hai tháng! Bà đồ quên rằng mình đang kỳ thai nghén, cùng chồng thử sức hơn thua.
    Nhân bà nhẩy múa quá mệt trong hồi lâu, cái thai nhỏ bà mang bị trụy, thoát ra ngoài, làm bà phát sốt mất năm ngày mới khỏi. Trong khi bà ốm, ông đồ chỉ dạy học mỗi ngày một buổi sáng, để buổi chiều săn sóc đến bà. Ông tỏ cho họ biết ái tình ông đối với bà không có mãnh lực gì kiềm chế được. Nhất là giữa cơn đau yếu, ông càng còn yêu bà hơn, cho bà vui lòng chóng lại sức lực người.
    Có nhẽ cũng vì thế nên chả mấy chốc bà đồ khỏi bệnh. Song thường thường, bà tựa hồ như buồn rầu, hối hận, bà thương tiếc cái thai vô tội vì bà mà không đưọc thành người, hoá nên nhiều khi bà không được vui vẽ sung sướng như xưa nữa.

  6. #6

    Mặc định

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 9 :

    Thắm thoát một năm trời đã lướt qua, kể từ lúc hai vợ chồng ông đồ đến nhập tịch làng chài lưới. Một hôm mùa đông rét lạnh, gần tới vụ tết Nguyên đán, ông đồ xách ô lên tỉnh có việc gì. Hình như ông đi sắm đồ dùng để ăn tết cho thanh thú. Trước ngày ấy độ ít lâu, nếu ai ngắm kỹ bà đồ, người đó sẽ nhận thấy một vẻ buồn rầu đau đớn in trên nét mặt rõ rệt, dẫu bà cố ý tươi cười cho ông chồng đừng căn vặn hỏi han.
    Ông đồ vừa đi buổi sáng thì buổi chiều ở nhà ông xảy ra một chuyện tối quan hệ, trong khoảnh khắc phá tan đạp đổ hết hạnh phúc mà, tốn biết bao nhiêu tâm cơ huyết lực, ông đã gầy nên trong một năm trường.
    Không hiểu bà đồ đưa mật thư đi khắp làng xóm tự bao giờ, mà chiều hôm đó, hầu hết các hào mục đinh tráng đến tụ họp la liệt ở nhà bà, ngồi ngổn ngang chật ních cả sân và nhà học.
    Mấy ông hào trưởng khăn thâm ái dài ngồi vắt vẻo trên cổ chiếu thượng, vừa vuốt bộ râu ba chòm đốm bạc vừa mở hầu bao lấy cối chầy ra giã trầu một cách nhọc nhằn. Xung quanh bộ phản mà mấy cụ an toạ kê ở giữ ahè. Lúc nhúc một đàn đinh tráng, kẻ ngồi xổm, người chóng nạnh, người đứng dựa cột, kẻ đi đi lại lại trong sân. Thôi thì sực nức khói thuốc lào, đỏ ối quết trầu nhổ tứ tung ở góc nhà xó sân, ngổn ngang bã trầu vứt rải rác trên mặt đất. Người phe phẩy chiếc quạt nan, kẻ kéo tà áo lau ghèn mắt hay mồ hôi trán, người nhai trầu bỏm ba bỏm bẻm; mấy ông cụ già thì vừa uống trà, vừa hơ miệng chén lên mắt để xông hơi nước vào đôi đồng tử nhấp nhem.
    Ai cũng như ai, họ đều ngạc nhiên, không biết bị gọi đến để mục kích sự gì quái lạ, rồi họ bàn ra tán vào không ngớt, đánh cuộc với nhau rằng hẳn ông bà đồ có sự vui vẻ nên mời làng đến đông đủ để tuyên bố cho làng biết, và nhân thể sẽ mời làng đánh chén một bữa linh đình. Họ hỏi nhau việc đại hỉ đó là việc gì, lại cố bắt bộ óc đần độn của họ nghĩ ngợi và làm việc để đoán cho đúng ngày họ sẽ được no say phè phỡn.
    Một vẽ ồn ào náo nhiệt làm vang động cả vùng thôn dã, tựa hồ như nhà ông bà đồ là một cái chợ giữa hôm có buổi chợ phiên. Thôi thì rộn rịp, tưng bừng; hơi mồ hôi trộn lộn với mùi quần áo lam lũ, tạo thành một bầu không khí nặng nề khen khét, nồng nực và khó thở.
    Thiên hạ đến tụ họp ở nhà bà đồ đã ngót nửa giờ mà chưa thấy chủ nhân ngỏ ý ra làm sao cả. Họ có ý sốt ruột muốn ra về. Nhưng, chưa kịp về, họ thấy một vị nữ lang mặc rất kỳ dị ở trong buồng đi ra; vị nữa lang ấy bước tới hiên vái chào các hào mục. Nhân dân đều lấy làm lạ quá khi thấy thiêú phụ đó là một mỹ nhân đẹp như tiên giáng thế; họ lại càng kinh khủng lúc nhận rõ vì tiên nga nào phải ai đâu xa lạ, mà lại chính là bà đồ. Nhưng bà đồ hôm nay ăn mặc một cách kỳ khôi khôn kể. Bà đội một cái hoa khôi bằng vàng nạm ngọc, mặc một bộ y phục chẽn bằng gấm huyền thêu phượng, thắt lưng bằng vóc mầu lam, đi võ hài trân châu giát kim tuyến. Bên sườn bà đeo một thanh bảo kiếm “long phương” chuôi ngà vỏ bạc, tay bà cầm một hộp nhỏ bằng trắc khảm với một gói nặng trĩu mà đặt nhẹ nhàng giữa phản, trước mặt mấy vị thân hào.
    Trong khi dân chúng đương ngớ ngẫn không rõ việc quan trọng gì, bà đồ ngoảnh mặt nhìn hết cả mọi người, rồi bằng một giọng nói hùng hồn, dõng dạc, nhưng trọ trẹ tiếng đường trong:
    - “Thưa làng, hôm nay tôi phiền làng tới đây, là bởi có một câu chuyện khẩn yếu, tối hệ trọng, muốn ngỏ cùng chư vị. từ khi hai vợ chồng tôi tới đây xin nhập tịch, chưa bao giờ chúng tôi kể rõ lai lịch cho làng biết.
    Vậy bây giờ chính là buổi tôi phải khai tông tích của phu quân tôi và tôi, xin làng chịu phiền lắng nghe tôi phân giãi một hai lời.
    “Phu quân tôi tên là Nguyễn Anh Tề, con trưởng quan Tây Sơn Hữu Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh, về sau này được triều Lê phong cho tước Ðại Tư đồ Bằng Trung công. Còn tôi... tôi là quận chúa Võ An Trinh, con gái quan Phò mã Tả Ðô đốc Võ Văn Nhậm, rể Thái Ðức Hoàng đế.
    “Hai vợ chồng tôi quá yêu nhau nên lấy nhau, không được cha mẹ hai bên cho phép. Bởi lẽ ấy nên phải dắt nhau ra ẩn nấp ở vùng này. Tôi những tưởng cùng Nguyễn lang thủ phận an bần, ăn ở với nhau cho đến buổi da mồi tóc trắng. Anào ngờ trời xanh ác nghiệ, khiến vộ chồng tôi khó long trọng tình tư mà không nghĩ đến thù nhà. Cha tôi vừa gây nên một mối oán ngàn thu cho dòng họ Nguyễn. Tôi không thể nào trông thấy mặt phu quân tôi nữa, phải buộc lòng mang mối ái tình cắt đoạn làm hai. Tôi sẽ chết.
    “Song le, khi theo chồng, tôi có đem ít nhiều của cải. Ngày nay tôi thác đi, chồng tôi cũng khó lòng sống để hưởng phong lưu phú quí một mình. Tuy biết trước như vậy, tôi cũng không thể sống được nữa. Gia sản của vợ chồng tôi thành ra vô chủ. Bởi vậy, tôi muốn đem chút của ấy phân phát cho dân trong hạt gọi là một chút vi thành. Hạt này có hơn trăm nóc nhà, toàn sống khốn khố về nghề chài lưới. Tôi muốn cho dân cư có chút đỉnh vốn để làm ăn, ngõ hầu chóng đưọoc phú cường, thịnh vượng. Chỗ vàng ngọc và châu báu này giá đáng tám ngàn lạng bạc, chư vị nên bán đi rồi chia rất đều cho lũ dân nghèo. Chư vị nên tư túi lấyphần, tôi chết đi tất thế nào cũng phù hộ cho người ngay, mà trừ bỏ những phường gian giảo. Chư vị không nên khuyên can tôi, vô ích! Trí tôi đã định rồi thì khó lòng ai chuyển cho lay... Tôi chỉ xin chư vị một điều: là giữ kín chuyện này cho tới lúc lang quân tôi mất hay bỏ hạt nầy đi biệt. Trước khi ấy, đừng nên nhỏ to bép xép, cho bề ngoài họ dị nghị lắm điều.
    Tôi lại xin làng ra ân cho một việc này: vợ chồng tôi chết đi sẽ không có ai nối dõi; vậy trong khoảng 50 năm, tôi xin làng nhớ đến ngày hôm nay làm giỗ cho hai vợ chồng tôi, thì hồn tôi sẽ được thoả mãn ở dưới chín suối mà bao giờ tôi cũng nhớ ơn làng. Vợ chồng tôi còn trẻ, chả may xấu số phải lìa rẽ nhau mà thác, vừa bất đắc chí, lại vừa bất đắc kỳ tử, tất thế nào cũng linh thiêng, làm thần phù hộ vùng nầy. Xin liệt vị chớ coi rẻ những lời tôi nói!
    Hào mục và dân làng nghe xong đều ngạc nhiên kinh sợ, không ai hiểu vì sao bỗng dưng lại có câu chuyện quá dị kỳ. Họ được rõ hai vợ chồng ông đồ là con các quan đại thần đi lánh nạn, thì càng tôn kính bà đồ; lại nghe nói bà ban cho dân làng sở tại những mấy muôn vàng, thì vừa mừng vừa sợ, chỉ nhìn nhau không biết nói thế nào cả.
    Quận chúa không đợi cho hào mục trả lời có ưng thuận hay không, nàng đã chỉ gói bạc vàng châu báu để ở giữa giường, rồi giơ hai tay trịnh trọng giao cho ông Tiên-chỉ hộp gỗ trắc khảm:
    - Tôi mời làng tới đây là để từ giã bà con và cám ơn làng đã có lòng yêu mến hai vợ chồng chúng tôi, coi những người hàng thôn chớ không phải người đến ngụ. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Vậy gọi là xin có chút báo đền, mong chư vị vui lòng nhận lấy.
    “Tôi ra đi, không bao giờ còn gặp các ngài nữa, nói ra đau đớn thế nào! Sau khi khuất mặt tôi rồi, chư vị sẽ vì tôi, giao cho phu quân tôi hộp gỗ nhỏ này, kỷ niệm cuối cùng của cuộc tình duyên của vợ chồng tôi đó!
    “Thôi xin chào các ngài ở lại!”
    Nói dứt lời, An Trinh quận chúa vái chào mấy ông hào mục. Rồi, trong khi dân chúng còn nhao nhao bàn tán, trong khi ông Tiên chỉ kinh hoàng chỉ ngồi đờ ra chả biết khuyên giải hay ngăn trở thế nào, quận chúa đã như một cái bóng, lẽ làng thoăn thoắt, phi thân nhảy vọt ra ngoài biến mất.
    Từ lúc đó, không ai biết nàng sống hay chết; nàng không để lại một tâm tích gì rõ rệt, tuyệt mù khuất hẳn bóng hồng. Thiên hạ chạy ùa ra bờ bể đứng xem, chỉ thấy bọt sóng tuôn cao nước cồn cuồn cuộn; xác người bạc mệnh có nhẽ, đã chìm sâu đáy biển, hoặc nữ anh hùng đã ro roi, quất ngựa, tếch lên ngàn...
    An Trinh chỉ để lại một mối ngậm ngùi thương tiếc, đèn nén lòng lũ thôn dân chất phác, hiện ra trên mí mắt họ trong những dòng lệ lóng lánh, chảy từ từ xuống mấy trăm gò má đen sì...
    Nguyễn Anh Tề về đến Sầm Sơn thì nhà cửa vắng teo, vắng ngắt, hỏi gia đinh mới biết vợ chàng yêu đã hoá người thiên cổ mất rồi. Ông Tiên chỉ cho cầm lại giả chàng hộp khảm nhỏ bằng gỗ trắc, chàng mở ra nhìn thấy vật kỷ niệm, càng vật mình lăn khóc, tâm can như bị mối thương đau vò cho tan nát rối nhầu. Trên án thư trong buồng, quận chúa để lại một bức thư vĩnh biệt; chàng vội vàng bóc ngay ra, đọc một lượt rất nhanh.
    Phu quân thân ái đích,
    Thiếp không thể nào cùng sống với chàng được nữa, xin cúi lạy chàng, khóc mà từ biệt, mong chàng nghĩ ân tình mấy trăng chăn gối tha tội cho thiếp, thiếp đội ơn muôn thủa cũng không quên.
    Ngày nay thiếp có ở lại trên đời cùng sống với lang quân, hai vợ chồng ta sẽ chỉ vì quá yêu nhau ma hối hận, rồi cùng chết cả. Nếu chúng ta không chết, trong hai người cũng sẽ có một người cắt bỏ mối tơ duyên. Âu là thiếp làm người ấy trước, cho khỏi phụ lòng chàng âu yếm thiếp mai xưa. Bởi lẽ gì, chàng cứ xem xong thì rõ.
    Hiện bây giờ chàng chưa biết căn nguyên việc quyên sinh của thiếp, chắc chàng trách thiếp bạc tình. Nhưng khi đã tỏ nguồn cơn, có lẽ chàng lại thương thiếp là người xấu số.
    Ngày cùng chàng ngẫu nhiên thành gia thất, thiếp có ngờ đâu rồi ra chúng ta phải ép lòng vĩnh quyết nhau đây! Thiếp những muốn cùng chang ngâm câu bạch đầu cho tới buổi mắt mờ răng rụng, trông mong ở tình trong sạch của đôi ta để cùng hưởng thú ái ân cho phỉ nguyện ba sinh. Có hay đâu, chàng ôi! Nửa đường gẫy cánh uyên ương, khiến trên gối phượng loan chàng phải ngậm sầu nuốt tủi!
    Chàng vẫn biết cha thiếp và phụ thân chàng không có tình đồng sự, mà hai họ chúng ta có hiềm khích với nhau. Bởi quên nỗi oán thù gá nghĩa cùng chàng, nên thiếp hằng ngày vẫn cầu khẩn Trời Phật vì đôi ta, làm cho mối nghi kỵ kia phải rã rời tiêu tán. Nhưng nhời thiếp nào được Hoàng thiên soi xét, hai họ nhà ta đã mỗi ngày thêm một mối oán hờn. thì vừa mới được mấy hôm nay, phụ thân thiếp đã bắt được ông thân sinh chàng đem về Thăng Long đó! Tà quân đã hành tội Hữu quân, dựng lên giữa đôi ta một bức tường thù oán không thứ ái ân nào đạp đổ.
    Vẫn biết chàng hết lòng yêu thiếp, nhưng thù cha, chàng há nỡ quên sao? Thiếp dù ở lại, đôi ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy nahu nữa. Mối thù kia đã xen vào phá tan hạnh phúc êm đềm mà chúng ta hết sức giữ gìn xây đắp bấy lâu. Dẫu thiếp còn chung sống với chàng, mà vì tình, chàng vẫn yêu thiếp nhu xưa thì chàng chỉ là một kẻ nam nhi hèn mạt, quá mê nhan sắc vợ quên cả đến thù cha, chàng sẽ không đáng mặt trượng phu làm chồng thiếp nữa.
    Còn thiếp, nếu thiếp không biết liêm sỉ, dùng các thủ đoạn nhi nữ để mê hoặc lòng chàng, khiến chàng vong hẳn phụ thù, thì thiếp cũNguyễn Nhạclà một con tiện tỳ dâm dật, há phải người để chàng quí mến, yêu đương?
    Vậy nên, không đợi chàng biết rõ tin tức đau đớn của gia đình, thiếp tự xử trước đi là hơn.
    Chàng đã thấu lòng cho thiếp, đã hiểu nỗi đau đớn và sự hy sinh của thiếp, thì tội thiếp nặng trăm phần, có lẽ chàng cũng giảm nhẹ đi cho. Thiếp thác đi, đem xuống dạ đài một mối hận ngàn thu không giải được. Xác thiếp sẽ nằm dưới đáy bể, bên cạnh kho vàng mà hai ta làm chìm đắm trong khi bị nạn Tầu Ô. Thiếp sẽ làm thần giữ kho vàng ấy đó!
    Thủa bình sinh hai ta có dùng hai đồng tiền Vạn Lịch để làm kỷ niệm cuộc tình duyên. Bao nhiêu châu báu trong nhà thiếp đã cho dân hạt này hết cả. Chỉ giữ lại cho thiếp đồng tiền bằng bạc, cho chàng đồng tiền bằng vàng. Ðồng tiền vàng ấy, thiếp gởi ông Tiên chỉ giao lại cho chàng đó. Chàng nên giữ nó trong người cẩn thận, gọi là còn chút tang vật của một cuộc chung tình ngắn ngủi, nhưng nồng nàn.
    Bức thư sau đây, thiếp xin chàng trao lại cho cha thiếp. Gặp cha thiếp, chàng dù muốn báo thù thì cứ báo, đó là tự lòng chàng, thiếp đâu dám cản ngăn.
    Rồi xin chàng cố gìn thân cho được mạnh khoẻ, quên hẳng thiếp đi, đừng nghĩ đến kẻ bạc mệnh này làm gì cho mệt. Chàng phải gắng lập công danh cho rạng rỡ gia tộc, rồi nối lại dây đàn để sau này có lấy mụn con trai.
    Trân trọng mấy lời, chúc chàng ở lại, thiếp cúi đầu lạy chàng xin vĩnh quyết, chàng nên vì tình tha cho tội bất nghì này.
    Võ An Trinh đốn thủ.
    Nguyễn Anh Tề đọc xong bức thư còn tưởng như mình mơ mộng; chàng giụi mắt đọc lại hai lần nữa; đọc bao nhiêu ruột càng như xé như bào. Một hồi, chàng ngây ra như tượng, hai mắt đăm đăm nhìn vào quãng vắn xa xôi. Một lúc rõ lâu bỗng chàng đứng dậy, cau mày, giậm chân xuống đất, vươn tay với thanh kiếm treo trên tường xuống, tuốt vỏ ra. Kiếm tuốt ra được nửa chừng, chàng lại chán nản tra nó vào vỏ, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu nức nở khóc như một người con gái.
    Chàng khóc không biết bao nhiêu thời khắc; khóc xong, lấy vạt áo chùi nước mắt, vùng đứng dây, chạy vào buồng. Chàng thay đổi y phục, mặt một bộ nhung trang ngắn, nai nịt gọn ghẽ, ngậm ngùi giắt hộp gỗ trắc vào lưng, đeo kiếm và dao găm bên cạnh sường. Xong xuôi, chàng ra ngoài dặn dò tên gia đinh Lộc giữ lấy nhà cửa, gọi tất cả đầy tớ phân phát cho chúng một ít tiền còn sót lại, cho phép đứa nào muốn về thời về, đứa nào muốn đi tìm chủ khác thì tìm; rồi chàng ứa lệ từ biệt chúng, quả quyết vùng đi ra đường, xăm xăm chạy về phía Bắc.
    Bóng chàng một ngày một xa, chàng đi khuất vào ngàn cây nội cỏ, rồi từ phút ấy, vùng Sầm Sơn không được biết tông tích chàng đâunữa.
    Câu chuyện ông đồ đến đây là hết. Bà đồ đã gieo mình xuống nước, còn ông đồ bỏ làng đi biệt, chẳng trở về. Dân làng, nhận được của cải, đem về phân phát cho nhau, và theo lời dặn của An Trinh, cứ ngày 26 tháng chạp, lại thiết bài vị ông đồ bà đồ tại đình làng, rồi mổ lợn mổ trâu, làm lễ long trọng cúng vong linh của hai người quí khách đó.
    Quả nhiên, cả hai cùng rất thiêng liêng, phù hộ cho dân bãi biển làm ăn thịnh vượng. Ðáng lẽ cứ đúng lời trối trăng của An Trinh quận chúa, thì sau 50 năm tế lễ, dân làng có thể bỏ tục làm giỗ cho quận chúa và công tử Nguyễn Anh Tề. Nhưng, vẫn nhóo ơn của hai vợ chồng ông đồ đã giúp dân và phù hộ dân một ngày một phát đạt thêm lên, các hào mục không bao giờ quên bổn phận đối với người đã chết, và hơn nữa, muốn cho vong hồn ân nhân được anh linh mãi mãi, họ bèn đem bài vị cả đôi thờ chung với thần vị Thánh Hoàng.

    Kho vàng Sầm Sơn
    Chương 10 :

    Hôm ấy vào mùa xuân năm Kỷ Dâu (1789). Mưa phùn rả rích đập tầu lá ba tiêu xiêu vẹo; gió bể ào ào làm rầu rĩ mấy dãy thông cao vút, lại phã vào mặt lữ khách những luồng gió vừa lạnh lẽo, vừa ướt át, nặng mùi muống bể, đầy mầm sinh khí, khiến cho lữ khách, tuy bị rét ẩm thấu thịt, mà vẫn thấy nhẹ nhõm trong lòng.
    Lúc đó đã khuya. Trời tối đen mù mịt, con đường cát, ban ngày trắng xoá, bây giờ chỉ còn hiện ra như một nét cong queo mờ mờ trên một nền đen xẫm. Xa xa, dưới vòm mây vô định, mặt bể mênh mông trộn lộn với màu mưa vô ảnh; đi trên đường chỉ thấy bao la bát ngát một không không gian vô tận, chỉ cảm thấy bên trái là nước, trước mặt là núi, sau lưng là gió, trên đầu là mưa, tuyệt nhiên không nhận rõ một hình một sắc nào nữa. Tuy vậy, một làn hơi nồng hắc nhưng trong sạch khiến cho tinh thần và phế phủ khoan khoái, tai đươc nghe đổ dồn ngay cạnh mình tiếng ồ ạt của làn sóng đập vô hồi vào bãi cát, vào bờ đá, tạo thành một thứ âm nhạc buồn rầu và hùng hổ, xui ta bất giác ví âm điệu đó với hơi thở mạnh mẽ của Tạo vật, luôn luôn nhọc mệt mà vẫn điềm nhiên gắng sức, kiên nhẫn làm việc, làm ra những công trình vĩ đại nhưng vô dụng, mà mục đích quá cao xa không ở tầm suy xét của loài người...
    Thực vậy, làn nước vô hình kia đang vỗ lên vỗ xuống, nó đêm này tiến rồi lại thoái, dâng rồi lại lui, nó đã làm tốn xiết bao sức mạnh của Hoá công, nhưng không biết chủ đích của nó là để làm công cuộc gì hữu ích?
    Trong lúc tối dầy như mực, trên con đường cát ngùng ngoằng bao vành bãi bể Sầm Sơn, giữa cơn nỗ lực âm thầm của gió cả, sóng cồn, một lữ khách vừa rảo bước đi, vừa ngẫm nghĩ vẩn vơ kết quả hữu dụng của làn nước đêm ngày sôi nổi, của ngọn gió sớm tối quay cuồng. Chàng tự nghĩ: “Chả qua sự nghiệp con người, rồi cũng chỉ như mục đích của sóng gió. Mãnh lực của tạo vật còn có sức nào đương nổi, thế mà những lực lưỡng ấy cũng chỉ dùng vào một công cuộc vô dụng. Huống chi là cái sức kém cỏi, nhỏ mọn của loài người! Có cả đời cạnh tranh bôn tẩu, rồi kết cục của mấy mươi năm cố gắng chả qua cũng chui vào hư không vô định mà thôi! Phú quý, vinh hoa, ái tình, danh nghĩa, đó toàn là những hư ảnh, những hư tự cả. Suy cho cùng lẽ, ôm làm gì một quan niệm cho đau thương, trong khi trời đất cũng còn không có quan niệm, nữa là mình!”
    Vừa đi, vừa lẩm bẩm, lữ khách đương mải mê trong những vấn đề triết lý cao siêu. Bỗng chàng giựt mình đúng lại. Chàng vừa chạm phải một gốc cây mọc chìa ra quá ven đường. Lữ khách gật đầu, đi rẽ về tay trái.
    Cách vài mươi bước, chàng dừng hẳn lại, dún mình nhẩy một cái rõ cao, vọt qua cái hàng rào, vào một cái sân hầu rộng. Vào tới sân, lữ khách như người rất thông thuộc đường lối trong cái nhà ch2ng hạ cố tới, chàng đi thẳng vào một gian phòng, gõ cửa.
    Trong nhà người vật đều ngủ say sưa cả, lúc ấy đã quá canh hai. Một hồi lâu, có tiếng người ú ớ nói mơ, rồi có tiếng nhè nhè ngái ngủ, mãi mãi mới thấy tự buồng trong phát một giọng gắt gỏng, cực cằn:
    - Thằng chó nào, đến giờ này còn chui vào đây làm trò khỉ gì mà đập phá ầm ầm như vậy?
    Ðáp lại lời thôi bỉ ấy là một câu vắn tắt nói bằng một giọng dõng dạc, cứng cỏi, tựa như một mệnh lệnh oai nghiêm:
    - Mở cửa mau, Lộc! Tao đây!
    Nhận được tiếng truyền của lữ khách, tên Lộc hình như hết cả ngái ngủ, vội vàng ra mở cửa. Tiếng giầy dép lẹp kẹp, rồi tiếng then cọt kẹt, một khắc, lữ khác đã vào nhà. Trong nhà, như ngoài trời, không một tia ánh s1ng làm mất vẻ đen kịt của đêm trường u ám. chỉ nghe tên Lộc như cuống quýt nói:
    - Con xin công tử xá lỗi cho. Con không ngờ cậu về. Cậu hãy tạm ngồi cho phép con xuống bếp thắp đèn lên và pha trà cậu uống.
    - Ừ, mau lên!
    Ðến lúc chiếc đèn lồng xé bóng tối, toả trong gian phòng một ánh sáng vàng phờ phạc, lúc bấy giờ ta mới nhận rõ hình dung và diện mạo người lữ khách bí mật kia. Chàng là một thiếu niên vạm vỡ, lẫm liệt, mình mặc áo võ ngắn, đầu đội mũ da rái cá, lưng đeo bảo kiếm và cung tên. Nào phải ai đâu xa lạ, người đó la công tử Nguyễn Anh Tề.
    Nhưng ngày hôm nay, Anh Tề lộ ra một vẽ mặt buồn rầu, chán nản, mất hết nét ngang tàng khí khái khi xưa. Ðặt phịch lưng xuống kỷ, chàng vẩn vơ nhìn ra quãng trời mây ảm đạm, thở dài. Dùng xong mấy chén trà nóng, chàng cũng chả thèm vào phòng thay áo, cứ ngồi yên lặng hồi lâu. Một lúc, như giật mình nhóo lại một ý nghĩ gì, chàng gọi Lộc, bảo ngồi sát lại gần chàng, sẽ hỏi:
    - Lộc ơi! Từ khi cậu ra đi, trong nhà này còn bao nhiêu người ở?
    - Bẩm công tử, bao nhiêu gia đình đều tản mác về cả, chỉ còn có một mình con. Cậu có dặn con phải cố công trông giữ nhà này cho đến lúc cậu về; con không dám sai lời cậu chỉ bảo. Hiện nay trong nhà, ngoài con không có một người nào nữa, cũng không có một súc vật nào. Thực là hiu quạnh, vắng vẻ, bẩm cậu.
    - Lộc! Con thực là nghĩa bộc. Cậu có một câu chuyện này tối quan hệ, muốn phó thác cho con. Cậu muốn trông cậy ở lòng trung trực của con để giúp cậu làm cho trọn một sự rất cần, chả hay con có thể nhận lời với cậu, hết lòng giúp cậu, như con đã giữ nhà cho cậu, không? Như thế nghĩa là con không phụ lòng cậu thương mến con đó. Lộc ạ? Chẳng hay con nghĩ thế nào?
    - Bẩm câu, cậu bảo gì mà con chả làm theo lệnh cậu. Dẫu phải tan xương nát thịt, con cũng chẳng từ nan. Con trước kia là một phạm nhân, tội phải chết chém, nếu khôn gnhờ cậu che chở cho, đút lót các quan địa phương để gỡ tội và chuộc cái sống cho con, th2i con còn đâu đến ngày nay? Con xấu số đi thì thội, chứ trời còn để ngày nào, ngày ấy khắc xương khắc tủy ơn sâu của cậu.
    - Chuyện đó là chuyện cũ, con nhắc lại làm gì? Chỉ biết nay cậu phải nhờ con, con có nhận lời giúp cậu haykhông, thì nói cho cậu rõ!
    - Con đã bẩm hầu cậu: cậu bảo gì con cũng xin vui lòng nhận hết, dẫu cho khó nhọc hay thiệt mạng đi nữa, con cũng xin làm cho đạt ý cậu thì thôi. Vậy xin cậu bảo rõ cho con biết.
    - Lộc ạ, nói đến lòng cậu như xé ra muôn mối. Lòng cậu đã tan nát cả, nhưng càng nhắc lại, khối lòng kia vẫn còn đòi đoạn đau thương. Nhưng cậu cứ phải nói để con hiểu rõ. Có hiểu, con mới làm được việc cậu dặn cho tới đích. Con hãy lắng nghe cho kỹ Lộc nhé!
    - Vâng!
    - Con đã biết mợ con xưa kia là con quan Phò mã Tả quân Ðô đốc của vua Tây Sơn, tên là Võ Văn Nhậm. Mà cậu là con quan Hữu quân Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh. Cậu quen mợ con từ ngày ở Qui Nhơn, cách đây vài hốn năm rồi. Cậu có phen thí võ với mợ con, thấy mợ con có bản lĩnh cao cường, cậu bỗng đem lòng yêu dấu. Gia dĩ, sau được biết mợ con, con nhà quý phái, lại thấy mợ con có nhan sắc lạc nhạn trầm ngư, cậu mê mợ con. Mợ con cũng có lòng yêu cậu nên hai vợ chồng cậu, lén nhà, thề bồi gắn bó với nhau. Những tưởng như thế ắt sẽ đưọoc thành một đôi uyên ương tốt lứa, có ngờ đâu ông Cao xanh ác nghiệt hay ghen ghét với những kẻ được hưởng mùi hạnh phúc, rồi bày ra cảnh trớ trêu!
    “Một mối thâm thù, mà căn nguyên không rõ ở từ đâu, đã dựng đứng một bức tường oán hận giữa hai gia đình họ Võ và họ Nguyễn. Quan Tả quân không bao giờ có lòng dung Hữu quân, cũng như Hữu quân nếu có dịp, thì khổng để Tả quân yên ổn.
    “Cậu chẳng may còn trẻ, không được rõ các lẽ ấy, hoá nên khi thấy An Trinh quận chúa, mợ con, thì cậu thương yêu ngay. Cũng vì hai bên có tư tình, khi phụ thân cậu và nhạc phụ cậu ra Bắc Hà đánh Trịnh, thì cả cậu cả mợ con, cố sống cố chết theo ra cho kỳ được, ngõ hầu sum họp cùng nhau.
    “Từ Bắc Hà trở đi, lại bao nhiêu tai nạn tự nhiên xảy đến. Quan Tà quân gặp khi vua Thái Ðức ra Thăng Long, bèn xúc xiểm nói xấu phụ thân cậu, rồi xui vua cùng Uy quốc công Nguyễn Huệ nửa đêm lén rút quân về, để một mình họ Nguyễn chơ vơ ở lại. Quân sĩ về cả, duy có một mình mợ con, lúc ấy ăn mặc giả làm bộ tướng quan Tả quân, bỏ nhà lén báo tin cho cậu biết. Cậu vội vàng lên bẩm cụ, cụ hoảng hốt cho xếp cả gia sản và đồ đạc xuống thuyền, đêm ngày theo riết quân Tây Sơn, vào Nghệ An bằng đường thủy. Cậu và mợ con lúc ấy được coi giữ chiếc thuyền thứ ba, là thuyền chứa nặng những rương tiền và vàng bạc châu báu. Không may cậu bị bão, lại gặp giặc Tầu Ô, bốn tên gia đinh đều bị giặc giết chết; cậu mợ lâm thế cô phải đục thuyền cho đắm, rồi nhảy xuống bể, lặn vào bờ lánh nạn. Tiền và vàng bạc mất cả, lúc đám thuyền, chỉ tẩu được một ít châu ngọc và đồ tư trang mợ con bó thành một bó nhỏ, thắt vào lưng.
    “Cậu và mợ con, sẵn có ba bốn tội nặng, không dám trở về quê quán nữa. Ðành ở ngụ cư tại đây, định lấy ái tình khăng khít để quên cả gia đình, quên cả mọi sự phú quí công danh trên trần thế nữa. Cậu và mợ con định sống một cuộc đời thanh đạm an nhàn.
    “Nhưng, hỡi ôi! Trời cao xanh cay nghiệt nào có để cho hai chúng ta được hưởng hạnh phúc cho tới buổi da mồi tóc bạc. Một việc quan trọng xảy ra giữa cuộc chung tình của cậu và mợ con, khiến mợ con, vì quá yêu cậu, phải hy sinh cả ái ân lẫn sinh mệnh! Việc ấy, tức là kết quả của một sự thâm thù chia rẽ họ Võ và họ Nguyễn, nó làm cho cậu không dưng bồ côi cha, không dưng goá mợ; nó tức là sự Tả quân hành tội Hữu quân ở Thăng Long thành đó! Cậu ở yên phận trong vùng Sầm Sơn vắng vẻ này, xa hết cả mọi việc đời túi bụi, còn làm sao biết cái tin đau đớn thảm khóc ấy? Thế mà, không hiểu vì đâu, mợ con biết được rõ ràng đích xác; ba hôm sau khi hai cụ và cậu Hai nhà ta bị hại, hung tin đến tai mợ con. Mợ con một mặt sai cậu lên tỉnh dò la sự thể, một mặt tụ dân làng lại chia của cải trong nhà.
    “Cậu ở Thanh Hoá về, thì mợ con đã là người thiên cổ. Ở Thanh Hoá cậu cũng được tin mang máng rằng cụ nhà ta phò triều Lê mà đương bại trận, nhưng có hay đâu ngài đã bị nhạc phụ cậu là Võ Văn Nhậm giết rồi!
    “Mợ con chết đi, là có ý muốn để cậu đừng vì tình mà quên cốt nhục. Mợ muốn cho cậu được tùy tâm hành thích phụ thân nàng. Lộc ơi! Mợ con đã tỏ ra nàng là một phụ nhân hiếm có trên đời; cậu dù đối với cha nàng đeo một mối tử thù, nhưng nàng đã xử sự như thế, thì cậu nỡ quyết liệt làm sao cho được? May thay! Sự vật ngày nay lại hoàn toàn đổi hẳn, khiến cậu trả được thù mà không phải giết Tả quân...
    “Có lẽ trời xanh, sau khi đày đoạ cậu, đã hồi tâm thương cậu, không muốn cậu phạm vào một tội lỗi mà ngàn thu cậu vẫn ghê sợ, e ngại, không nỡ làm. Mợ con đã quá yêu cậu, tự hủy thân đi để giữ mối chung tình cho trong sạch đầy đủ, cậu nỡ lòng nào không thưong vợ, hung ác cầm dao đâm vào cổ họng cha nàng, nhúng tay vào vũng máu đã tạo ra nàng? Một kẻ phụ mình là anh hùng, cũng không có gan ấy được. Chỉ có loài mãnh thú mới đang tâm tàn nhẫn mà thôi! Nhất là khi cậu được giáp mặt Tả quân, thì đương lúc ông sắp bị đầu rơi khỏi cổ dưới lưỡi gươm đao phủ!
    “Song le không báo thù một cách bạo động, cậu đã làm cho tâm hồn nhạc phụ cậu, trước khi lìa khỏi xác, bị đoạ đày trong một niềm hối hận vô biên. Thế là đủ.
    “Giờ đây, giũ sạch được một gánh nặng nề mà ân oán đã gây nên, cậu còn phải lo trả sạch một chút nợ nam nhi trước khi liều mình tự tận. Phải, vì thế nào cậu cũng phải chết, cậu sẽ chết! trên bàn cờ, mợ con đã nhẫn tâm xoá cuộc, có lẽ đâu cậu còn gan ngồi đánh mãi một mình! Vả chăng, cậu là người thứ tư còn sống sót sau một cuộc phong ba hủy hoại cả gia đình cậu, cậu còn ham cầu hoạt làm gì?
    “Nhưng, cậu còn chút bổn phẩn phải làm trọn vẹn trước khi theo cha, theo em, theo vợ, vào cõi hư linh bát ngát. Cậu sẽ sống thêm ít tuần nữa, sống để đuổi theo một mục đích tối thiêng liêng.
    “Cậu con nhà dòng dõi trâm anh, lại còn trẻ không thể chết tối tăm như mợ con được, phải có chút công danh sự nghiệp để lại cho mai hậu, ngõ hầu thoả nguyện bình sinh, và đoạt ý chí của phụ thân cậu. Cậu hẳn phải sống. Bao giờ nguyện vọng của cậu hoặc đạt được, bây giờ sẽ chết cũng không muộn gì.
    “Cụ nhà ta sinh thời ăn lộc nhà Lê, vừa đây lại thụ tước nhà Lê, mà đến chết cũng giữ vững được cơ đồ cho vua Chiêu Thống. Cơ đồ ấy nay đã về tay kẻ khác, vua Lê đã trốn sang Tàu. Cậu sẽ là người nối lòng ước muốn của ông cha, khôi phục lại xã tắc cho Lê triều đó! Cậu sẽ là một bầy tôi trung thành tận tụy, giúp vua trong buổi long đong. Cậu sẽ xây vững ngôi bảo tộ cho nền chính thống.
    “Dù thắng, dù bại, cậu cũng sẽ cố làm. Cậu sẽ làm cho đến buổi, sức yếu, lực tàn, cậu ngậm cười mà chết giữa chốn sa trường đẫm máu! Nếu không được hạnh phúc lấy da ngựa bọc thây, cậu lại tìm về đây cùng mợ con lấy đáy bể làm mồ. Cậu sẽ chết cạnh mợ con cho phỉ tình ân ái.
    “Bây giờ câu phải cùng con vĩnh quyết; ngày nay con trông thấy cậu, ấy là trong buổi cuối cùng. Từ buổi này trở đi, thầy trò ta sẽ không bao giờ gặp mặt nhau nữa. Trước khi tương biệt cậu cần dặn con mấy việc rất cần. Con nên nghe kỹ mà ghi lấy trong lòng, để sau này làm cho đúng lời cậu bảo!
    Bao nhiêu đồ đạc của cải trong nhà, cậu cho con cả. Sau khi cậu đi rồi, con sẽ đem hai bức thư này, một bức về Nghệ An, một bức về Phú Xuân. Con sẽ tìm về làng Châu Lộc, hỏi thăm cụ Nguyễn Hữu Bằng, tức là chú ruột cậu đó. Trong hai bức thư, con giao cho cụ một bức. còn bức nữa con sẽ giao cho Thọ Huê công chúa, tức là Võ Văn Nhậm phu nhân, ở Phú Xuân.
    “Trong hai bức thư đó có kể rõ cuộc tình duyên giữa cậu và mợ con, lại thuật rõ những lẽ đã làm cho cậu mợ phải nửa đường chia rẽ. Những dấu vết và sự tích kho vàng cậu làm chìm nơi đáy bể, cậu đã biến chép rõ ràng. Người đời sau ai có duyên thì cứ đến đúng chỗ mà khai lên, một gia sản lớn sẽ về tay người đó!...
    Con nên nghĩ đến ân nghĩa thầy trò, giúp cậu đem thư này cho tới đích, đừng nên để thất lạc đi. Ơn ấy, dù dưới suối vàng, cậu cũng ghi tâm mãi mãi...
    “Thôi, con ở lại, cậu đi!...
    Dứt lợi, như một cái bóng lẹ làng, Nguyễn Anh Tề đã nhảy vọt ra ngoài, đi biến vào cõi tối mịt mùng thăm thẳm.
    Ngoài trời, mưa vẫn tuôn gió vẫn phả, sóng cồn vẫn nổi lên dào giạt, tung những làn bọt trắng xoá giữa vùng nước thẳm đen sì...
    Tên gia đinh Lộc, tựa cửa đứng trông, tưởng tượng như cố chủ đem thân vào cõi chết...

    **********

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •