kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Ðề tài: Thiền trong đời thường

  1. #1
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Post Thiền trong đời thường

    Thiền trong đời thường
    Tác giả: Thích Thông Huệ
    ************************************************

    Mục lục
    • LỜI NÓI ĐẦU
    • Chương 1: THIỀN VÀ SỰ SỐNG
    • I. NỘI DUNG TU THIỀN TRONG CUỘC SỐNG
    • II. THIỀN THỂ HIỆN VÀO ĐỜI SỐNG
    • Chương 2: CON ĐƯỜNG THIỀN TẬP
    • I. Ý NGHĨA THIỀN TẬP
    • Chương 3: CHỨNG NGHIỆM THIỀN
    • I. CHỨNG NGHIỆM THIỀN LÀ KẾT QUẢ CỦA TRỰC GIÁC
    • II. TRỰC TIẾP THỂ NHẬP VÀO THỰC TẠI SỐNG ĐỘNG
    • III. SỐNG HỒN NHIÊN VÀ TÙY DUYÊN HOÁ ĐỘ
    • IV. GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
    • Chương 4: THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
    • II- SỐNG THIỀN
    • Chương 5: THUẦN NHẤT VÀ ĐA THÙ
    • Chương 6: KHỐI NGHI VÀ THUẬT KHAI TÂM
    • Chương 7: ĐỐN NGỘ
    • KẾT LUẬN

    LỜI NÓI ĐẦU
    Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của khoa học, và nền kinh tế tri thức là một mắt xích chiến lược trong sự phát triển bền vững. Bằng tri thức, con người tạo ra những tiện nghi cho đời sống, kéo dài tuổi thọ và thâm chí tìm cách cướp quyền Tạo hoá. Bằng tri thức, con người đã khám phá ra nhiều bí mật của tự nhiên và vũ trụ, đã khai thác những tài nguyên nơi đại dương bao la và trong lòng đất bí ẩn; đã tiến một bước dài trong việc quan sát các vùng thiên hà cách trái đất hàng nghìn năm ánh sáng.

    Tuy nhiên, những bước tiến đột phá của khoa học và sự phát triển tột bực của nền văn minh nhân loại, đến nay vẫn không thể tháo gỡ những bế tắc tinh thần và tình cảm cho con người, không thể diệt trừ tận căn nguyên của tội ác, và nhất là không thể giúp con người tiếp cận chân lý. Sự đối đầu về tư tưởng và quân sự do ý thức hệ, đã chấm dứt vào thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, tưởng mở ra cho nhân loại con đường thênh thang dẫn đến hòa bình phồn vinh, tưởng là khúc dạo đầu của bản giao hưởng hạnh phúc và hy vọng. Nhưng thật sự không phải thế. Hành tinh xanh của chúng ta vẫn còn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố và xung đột khu vực, có thể biến thành ngòi lửa chiến tranh bất kỳ lúc nào. Những vấn nạn về bùng nổ dân số, nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, thiên tai bệnh họa ngày càng phức tạp…, tất cả đều là những thách thức lớn mang tính quy mô toàn cầu.

    Về mặt xã hội, sự khổng lồ của những luồng thông tin cập nhật qua mạng internet, những trang web hoặc diễn đàn (forum) cá nhân dễ dàng mở ra nhờ các phần mềm biếu không, càng khiến mọi người thấy rõ mặt trái của lối sống hưởng thụ, được khoác lên những hình thức hoa mỹ. Cũng vì choáng ngợp thông tin, am hiểu thời sự, cộng thêm cuộc sống hối hả tranh đua, nên con người dễ bị căng thẳng thần kinh tâm lý. Thuật ngữ chuyên môn gọi là Stress. Biểu hiện của Stress là thay đổi tính tình, dễ cáu gắt bực bội hoặc trở nên chán chường, mệt mỏi. Dần dần ý thức giảm linh hoạt, nhận thức rối loạn, ảnh hưởng nặng đến tâm thức và cuối cùng là đột tử.

    Đầu năm 2002, Tiến sĩ Wilcox thuộc Đại học Harvard Hoa Kỳ đã báo cáo trong một nghiên cứu về tuổi thọ, tỷ lệ người dân trên 100 tuổi cao nhất thế giới là ở quần đảo Okinawa Nhật Bản; đặc biệt là số người mắc các bệnh tim mạch, ung thư và đột qụy thấp nhất. Ông kết luận rằng, nguyên nhân do dân bản xứ sử dụng nhiều rau quả và cá làm thực phẩm, vận động nhiều và có tinh thần lạc quan yêu đời. Điều nầy phù hợp với hướng đi mới của các nhà y học trong lĩnh vực điều trị và dự phòng, chủ trương bệnh tật là do mất cân bằng giữa các dòng năng lực sống của cơ thể. Ý tưởng nầy đặt căn bản trên Sinh lực luận, một quan điểm triết học cho rằng “năng lực sống” của con người quyết định sức khoẻ và sự sống. Vì thế, khác với y học thường quy quan tâm đến những nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài, các nhà nghiên cứu ngày nay chú trọng việc khôi phục sự cân bằng từ bên trong, nghĩa là phát huy khả năng tự điều trị cho chính mình. Trong đó, Thiền được xem là một phương tiện điều trị hữu hiệu nhất.

    Quyển sách nầy không nói về Thiền như một phương thuốc chữa trị hay phòng bệnh, vì mục đích tối hậu của hành giả tu Thiền là Giác ngộ và Giải thoát. Tuy nhiên, vì Phật pháp và thế gian pháp không thể tách rời, nên thiền sinh không xa rời thế gian tìm cầu Phật pháp, cũng không trốn tránh thế gian hưởng hạnh phúc riêng mình. Thiền trong đời thường là sự hòa hợp nhịp nhàng giữa một khối óc minh triết và một trái tim nhân hậu, nghĩa là hòa quyện giữa trí tuệ và từ bi. Con đường thiền tập là chánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch, giải quyết mọi vấn đề một cách tốt đẹp nhất. Một mặt, hành giả làm tròn trach nhiệm đối với gia đình và cộng đồng, một mặt dốc toàn lực vào việc lớn của đời mình, là nhận ra và hằng sống với tự tánh bản lai. Chỉ có thể tánh thanh tịnh ấy mới vĩnh viễn thường còn, mới là hạnh phúc đích thực, và luôn lung linh tỏa sáng trong sự biến động muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Bằng những bước chân tự do và vong ngã, hành giả nhập vào dòng sống luân lưu, thực hiện lợi ích cho mình và nhiêu ích cho mọi người mọi vật. Có thể nói, tinh thần Thiền tông là sống với bản tâm thanh tịnh trong cuộc sống đời thường, là đóng góp công sức mình vào hạnh phúc chung của cộng đồng nhân loại.

    Khoa học và văn minh càng phát triển, thế giới càng trở nên nhỏ bé, con người càng tùy thuộc vào nhau một cách sâu sắc và toàn diện. Việc xây dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng không phải trách nhiệm của riêng một tổ chức hay quốc gia nào, mà cần có sự hợp tác chặt chẽ của toàn thể cộng đồng; trong đó, vai trò của cá thể trong đời sống tập thể là yếu tố quan trọng và quyết định. Ý thức vai trò ấy, những người con Phật chúng ta thấy trách nhiệm của mình vô cùng lớn lao và cao quý. Cho nên, xin hãy thông cảm nhau bằng trái tim trong sáng và từ bi để chung tay tịnh hoá cuộc đời. Khi tất cả mọi người đều sống theo tinh thần Đạo Phật nhập thế, thì cõi Ta bà sẽ trở thành Tịnh độ nhân gian.

    Những điều bình thường nhất lại tiềm ẩn ý nghĩa sâu mầu uyên áo nhất, khó diễn đạt bằng ngôn ngữ thế gian. Chúng tôi không dám có tham vọng gởi đến quý độc giả một thông điệp hòa bình, chỉ mong những điều trình bày sau đây đem lại vài lợi lạc nhỏ trong phạm vi rộng lớn của cuộc sống thường nhật. Hy vọng quý vị tùy hỷ và vui lòng chỉ bảo những thiếu sót trong quyển sách nầy. Trong tinh thần cầu tiến, chúng tôi xin chân thành cảm tạ mọi đóng góp xây dựng của các bậc Tôn túc cao minh và tất cả chư vị. Nếu quyển sách nầy có được chút ít công đức nào, công đức ấy đều thuộc về pháp giới chúng sanh.

    Nha Trang, mùa đông Nhâm Ngọ 2002 - PL. 2546

    Thiền thất Viên Giác

    Thích Thông Huệ
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  2. #2
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    Chương 1: THIỀN VÀ SỰ SỐNG
    Chúng ta có thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả hay định nghĩa Thiền?

    Nếu Thiền có thể diễn tả bằng ngôn từ, lúc ấy không còn là Thiền nữa. Đức Phật thuyết pháp ròng rã 49 năm, cũng không nói được đến chỗ nầy. Vì không thể tiếp cận Thiền bằng ngôn ngữ, nên nhiều vị Thiền sư ngày xưa, khi khai thị cho môn đệ, chỉ dùng những hành động kỳ quặc hay lời nói vô nghĩa. Từ đó, Thiền mang một vẻ bí hiểm, thậm chí quái dị đối với những người muốn nhận ra lẽ thật bằng tri thức và kiến thức.

    Thật sự, ta không thể giới hạn Thiền trong một khuôn khổ, một hình thức, cũng không thể lý giải bằng tư duy suy luận. Thiền không thể tách rời khỏi cuộc sống, không thể tìm thấy ở một nơi xa xôi bí mật nào đó. Bởi vì, Thiền là Chân lý sống. Sự sống chỉ tươi nhuận luân lưu trong phút giây hiện tại, nên muốn trực nhận và thẩm thấu Thiền, chúng ta phải tự mình bơi lội trong dòng sống đang tuôn trào trôi chảy.

    Như thế, Thiền có mặt trong mọi sinh hoạt đời thường. Nếu hiểu Thiền là trốn chạy sự sống, là xa lánh cuộc đời, thì vô tình ta đã đánh mất nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với xã hội; và lúc ấy, ta đã biến Thiền thành mảnh đất tâm hoang dại khô cằn
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  3. #3
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    I. NỘI DUNG TU THIỀN TRONG CUỘC SỐNG
    1. Chánh niệm:

    Kinh Niệm xứ, một Thiền kinh thuộc Trung bộ tập I, chỉ dạy những điều căn bản về Thiền Vipassana thuộc truyền thống Thiền Nguyên thủy. Nội dung Thiền Vipassana là Chánh niệm trong từng giây phút của đời sống, qua 4 lãnh vực là Thân, thọ, tâm, pháp. Hành giả luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, tỉnh giác biết rõ mọi vận hành biến đổi của thân tâm bên trong và cảnh vật bên ngoài. Các pháp diễn biến như thế nào, hành giả biết tường tận như thế đó, mà không có một niệm phân biệt chia chẻ xen vào. Đức Phật gọi đó là Tuệ tri, sự biết về các pháp đúng như tự thân của chúng.

    Con người thường thích tìm hiểu những điều cao siêu, xa rời thực tế, trong khi cuộc sống luôn dàn trải trước mắt ta với tất cả nhiệm mầu. Do chúng ta mong mỏi tìm cầu chân lý ở đâu đó xa xôi, nên không thể thấy chân lý rất đơn giản và ở ngay mảnh đất mình đang đứng. Và rồi, hoặc chúng ta cảm thấy mình bất lực khi muốn vươn đến lý tưởng tuyệt đối; hoặc thấy cuộc đời sao nhiều phiền não nhiêu khê, muốn tìm nơi yên tĩnh, xa lánh hết mọi phù phiếm thế gian.

    Con người cũng thường mơ mộng đến tương lai hoặc hoài niệm về quá khứ. Những người lớn tuổi hay sống trong kỷ niệm; kỷ niệm nào cũng đẹp dù vui hay buồn, vì đó là những chuyện đã qua, không bao giờ trở lại. Tuổi thanh niên thì thường phóng tâm đến những viễn cảnh huy hoàng, tuy là những gì chưa đến nhưng nhờ có hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hạnh phúc, người ta mới cố gắng làm việc, học tập. Hy vọng như một tác nhân kích thích, một nguồn động viên quý báu khi quanh ta đầy dẫy khó khăn gian khổ. Đối với người tu, cõi Cực Lạc hay Niết-bàn là phần thưởng cao cả, là mục đích tối thượng kết thúc cuộc trường chinh chống kẻ thù phiền não tham sân si ngay bản thân mình. Diệt trừ phiền não, thủ chứng Bồ-đề là tinh thần tu tập của những hành giả chưa thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thức tâm phân biệt, còn thấy phiền não đáng diệt trừ, Niết-bàn đáng nương cậy như một thế giới lý tưởng ở một tọa độ không-thời gian nào đó.

    Thật ra, chúng ta không thể rời thế gian tìm cầu Phật pháp, vì pháp Phật và pháp thế gian là bất khả phân ly. Mọi sự vật hiện tượng luôn biến chuyển trong từng sát-na, như dòng sông luôn luôn trôi chảy. Nhưng trong dòng chảy bất tận ấy vẫn có một thực tại bất động vĩnh hằng – chính là cái bây giờ tuyệt đối, chỉ hiện hữu nơi đương xứ, bây giờ và ở đây. Thiền định là đặt tâm vào cái bây giờ tuyệt đối ấy để thẩm thấu thực tướng các pháp đang là. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ dạy về Thiền định như sau:

    Ngoại ly tướng tức Thiền

    Nội bất loạn tức định

    Ngoại thiền nội định, thị vi thiền định.

    Tạm dịch:

    Ngoài lìa tướng là thiền

    Trong chẳng loạn là định

    Ngoài thiền trong định, ấy gọi là thiền định.

    Cũng như trong kinh Niệm Xứ, Thiền định theo Lục Tổ chỉ dạy không bị hạn cuộc ở thời gian, không gian và cuộc sống của hành giả. Thiền định như một thực tại không lìa thế gian, và phải được thể hiện ngay trong sinh hoạt thường ngày. Trong từng phút giây, nếu ngoài không dính mắc với trần cảnh (lìa tướng), trong không khởi niệm lăng xăng (chẳng loạn), ấy là ta đang công phu thiền định một cách đắc lực nhất. Khéo an trú trong hiện tại, tỉnh giác nhận diện từng con sóng sanh diệt của thân-tâm-cảnh, ta không còn bị dẫn lôi phiêu dạt trăm nơi nghìn chốn nữa. Đây chính là nội dung của Chánh niệm, bước đầu tiên căn bản của đời sống thiền sinh.

    Theo lẽ thường, muốn tìm trâu phải theo dấu chân trâu. Cũng vậy, muốn tìm tâm phải theo dấu vết của tâm. Dấu vết của tâm là những niệm sinh diệt. Nếu lìa sinh diệt niệm để riêng tìm tâm thì chẳng khác nào lìa sóng đi tìm nước. Vì thế, sự tỉnh giác trong đương niệm là bí yếu để nắm bắt sự thật ngay trong dòng sanh diệt của đương niệm. Chúng ta không nên hiểu “tỉnh giác trong đương niệm” là diệt niệm, mà là lặn sâu vào dòng sanh diệt của đương niệm để thực hiện sự chuyển hoá tận gốc rễ. Mặt khác, khi trí óc ta đầy kiến thức vay mượn và tự hào với chúng, ta chưa dọn tâm để tiếp nhận chân lý Thiền. Trong tâm ta phải dọn sạch mọi ý niệm có sẵn, mọi kiến giải gom góp từ nơi khác. Yếu tố quyết định nhân cách của một thiền sinh không phải là sự thông minh bác lãm, mà là công phu hành trì đúng pháp. Bởi vì Thiền không thuộc lĩnh vực lý luận tư duy, không nằm trong ngôn ngữ, mà ở ngay thế giới hiện thực, trong cuộc sống hằng ngày; và sống Thiền nghĩa là chánh niệm ở mọi thời mọi cảnh, khi tĩnh cũng như khi động.

    Kinh Pháp Hoa, phẩm Như-Lai Thần Lực diễn tả một hình ảnh lung linh huyền diệu: Từ các lỗ chân lông của Phật Thích Ca phóng ra vô số tia sáng muôn màu rực rỡ, chiếu soi tất cả cõi nước mười phương. Hình ảnh nầy tượng trưng ánh sáng chánh niệm không thể nghĩ bàn, tỏa chiếu từ Pháp thân Đức Phật. Các bậc ngộ Đạo khi còn sống ở thế gian, do tâm luôn an trú trong thời điểm hiện tại bất động, nên những công việc bình thường đơn giản trở thành phi thường thoát tục. Và vì các Ngài đi từng bước bình an trong thực tại hiện tiền, nên phương tiện cũng chính là cứu cánh, Niết-bàn Cực-Lạc cũng chỉ ở tại đây và bây giờ !

    2. Lìa nhị biên:

    Con người chúng ta khi tiếp xúc với ngoại cảnh, lúc nào cũng khởi niệm phân biệt. Mắt thấy sắc liền phân đẹp xấu, đẹp thì ưa, xấu thì ghét; ưa thì muốn chiếm hữu, ghét lại muốn xa lìa. Các căn khác cũng cùng tình trạng như thế, biết bao vọng niệm cuồn cuộn theo nhau như dòng thác lũ. Ý sanh khởi, kích thích miệng nói thân làm. Đó là tiến trình của nghiệp, là động cơ của guồng máy sanh tử, dù nghiệp thiện lành hay xấu ác. Cho nên, có khởi niệm là có tạo nghiệp, có luân hồi. Nói khác đi, khi sáu căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) tiếp xúc sáu trần (sắc thinh hương vị xúc pháp), nếu khởi phân biệt hai bên là ràng buộc vào sanh tử. Cũng sáu căn ấy, tuy vẫn tiếp xúc sáu trần mà bặt mọi vọng niệm, thì vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng mà không còn động cơ tạo nghiệp, vòng luân hồi bị chặt đứt.

    Đối với người bình thường, cái chết là nỗi sợ hãi lớn nhất và trường diễn nhất. Bởi vì khi sống, con người có thể hưởng thụ mọi lạc thú ngũ dục, có thể tiếp xúc và cảm nhận mọi hiện hữu quanh mình. Sống là sinh hoạt nói năng, là ánh sáng âm thanh muôn màu muôn vẻ; chết là mất tất cả, là vô tri vô giác, là tối tăm ghê rợn, là rơi vào một thế giới mịt mù vô tận vô biên ... Quan niệm như thế có đúng không?

    Thật sự, thân người không phải là một cấu tạo đồng nhất, mà do nhiều yếu tố kết hợp lại. Đức Phật dạy, tứ đại là đất nước gió lửa tạo nên sắc thân, thọ tưởng hành thức là yếu tố tâm lý, nói chung là thân năm uẩn. Các nhà khoa học ngày nay cũng đã chứng minh rằng, đơn vị của cơ thể là tế bào; mỗi tế bào lại được cấu thành bởi nhiều yếu tố, và từng nhóm tế bào đảm trách những công việc khác nhau. Chúng liên tục sinh ra rồi chết đi trong từng giây phút, nên thân ta cũng biến đổi không ngừng. Lại nữa, những bộ phận trong cơ thể đều tự động làm việc mà không theo ý muốn của chúng ta; chỉ khi nào có trở ngại bệnh tật, ta mới ý thức sự có mặt của chúng, vì thế thân nầy không có chủ tể. Không đồng nhất vì được cấu thành bởi nhiều yếu tố, do không cố định vì biến đổi liên tục, do không có chủ tể vì hoạt động độc lập, nên thân này là vô ngã. Bằng cái thấy minh triết, Đức Phật dạy rằng, sự sống chỉ là vay mượn giả hợp. Hàng ngày, con người phải vay tứ đại bên ngoài để bồi bổ và đổi mới cho tứ đại bên trong, như mũi hít vào thở ra là vay trả gió, uống nước vào thải ra là vay trả nước ... Vay trả thông suốt là mạnh khỏe, vay trả bị trở ngại là ốm đau. Đáo cùng, không có cái gì là thật ngã.

    Vì không có cái sống thật nên cũng không có cái chết thật. Khi ta lìa bỏ thân nầy, thần thức chờ hội đủ duyên, theo nghiệp mà gá vào thai thành thân sau, cứ thế quẩn quanh trong lục đạo. Sự luân hồi như một dòng chảy tương tục không bao giờ dừng, mà cái chết chỉ là sự tạm ẩn tàng để rồi tái hiện dưới một hình thức khác. Ngay cả dạng thân vô hình mà mắt thường không nhìn thấy và cho là hồn ma bóng quế, cũng là những cõi sống thuộc loài ngạ quỷ hoặc thân trung ấm của người mới mất. Và như vậy, sống và chết chỉ là hai cảnh huống đắp đổi cho nhau như sự hiện và biến của một cảnh trên màn hình.

    Hiểu sâu thêm một bậc, tất cả những khái niệm phân biệt hai bên đều chỉ là tương đối; chúng là hai mặt đối lập nhau của một thực thể duy nhất và cùng nương nhau mà tồn tại. Có trắng mới có đen, có tốt mới có xấu và ngược lại. Thánh –phàm, Bồ đề – phiền não, Sanh tử - Niết-bàn cũng như thế. Khi tâm an định, siêu việt mọi chấp trước thì tất cả đều là Phật pháp; khi tâm loạn động, dù ở nơi thanh tịnh vẫn thấy khổ sở buồn phiền. Những bậc đã giác ngộ nhìn vạn pháp đều vi diệu nhiệm mầu, vì toàn bộ đều ở trong ánh giác. Cho nên, phải nhận cái thanh tịnh vĩnh cửu ngay chỗ vô thường ô trược, cái phi tục ngay từ phàm tục, cái xuất trần ngay trong trần thế. Đây là tinh thần bất nhị, tư tưởng vút cao của nhà Phật, nơi không thể diễn tả bằng văn tự nên Ngài Duy-Ma chỉ còn cách biểu hiện bằng sự im lặng sấm sét (mặc như lôi).

    Trong kinh A-Hàm, Đức Phật nói Đề-Bà-Đạt-Đa sẽ đoạ địa ngục vì tội phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu. Ngụ ý Đức Phật muốn cảnh tỉnh những môn đệ còn yếu về mặt nhận thức tương phản hai chiều, phải bỏ xấu về tốt, bỏ mê về ngộ, phải phân biệt rạch ròi giữa thiện và ác. Nhưng trong kinh Pháp Hoa, Ngài lại bảo Đề-Bà-Đạt-Đa là thiện hữu tri thức đệ nhất của Ngài, vì nhờ ông ta mà Ngài sớm thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có phải chăng, Ngài muốn nâng trình độ môn đệ có khả năng hướng đến một cấp độ cao hơn, bằng một bước nhảy siêu vượt cả thiện và ác, cả mê và ngộ ?

    Nhà Thiền có câu “Niệm niệm tùng tâm khởi, Niệm niệm bất ly tâm”. Mọi ý niệm đều từ tâm mà khởi, đều không rời khỏi tâm. Tâm là nguồn cội, niệm là ngọn ngành. Tâm là bất sanh bất diệt, niệm thì lúc hiện lúc biến; nhưng khi hiện sanh là từ cái vô sanh, và khi biến diệt lại trở về cái vô diệt. Cho nên, đứng từ Sinh diệt môn hay Tích môn thì thấy có biến có hiện có đi có đến, còn đứng từ Chơn như môn hay bản môn thì không có sanh diệt bao giờ. Niệm như những đợt sóng, tâm như biển cả mênh mông; sóng có khi nào rời nước, vọng và chơn cũng không thể tách rời. Chúng sanh chấp vọng tâm là mình nên mải mê đuổi theo ngoại vọng, bị nghiệp thức dẫn lôi vào vòng xoáy sanh tử; người tu biết trở về nguồn cội, ngay vọng nhận ra chơn, ngay hiện tượng vô thường nhận ra bản chất hằng hữu. Một người tu lý tưởng không phải là người nhắm mắt bịt tai trước trần cảnh, mà là người hàng ngày vẫn tiếp xúc với các duyên nhưng không dính mắc ; và thực tế hơn, là người dù bị vấp ngã vẫn đứng lên, tiếp tục bước đi. Minh chứng cho tinh thần nhập thế là gương các cư sĩ Thiền sư , dù trăm công nghìn việc như Tướng quốc Bùi Hưu hay vua Trần Thái Tông, dù thê tử đông đảo và của cải sung mãn như Tuệ Trung Thượng sĩ, vẫn sáng đạo và nhiêu ích cho bao người.

    Kinh Lăng Nghiêm mô tả đoạn Tôn giả A-Nan hỏi Đức Phật về đầu mối sanh tử và nguồn gốc giải thoát. Ngay lúc ấy, mười phương chư Phật đồng thanh cất tiếng: “Hay thay cho An Nan! Ông muốn biết cái câu sanh vô minh là cái đầu nút khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông, chứ không phải là vật gì khác; ông lại muốn biết tính Vô thượng Bồ đề, khiến ông chóng chứng đạo quả an vui, giải thoát, vắng lặng, diệu thường, thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác”([1]). Tổ Quy Sơn cũng dạy: “Văn thinh kiến sắc cái thị tầm thường, Giá biên na biên ứng dụng bất khuyết”. Nghe tiếng thấy sắc thế nào để tâm bình thường, được như vậy thì bên này (sáu căn), bên kia (sáu trần) tự nhiên ứng dụng toàn vẹn toàn hảo. “Tâm bình thường” là lúc tiếp xúc với trần cảnh, vẫn thấy biết tất cả nhưng không có ý thức phân tích hai bên. Sống với tâm bình thường là giải thoát, là lục tặc biến thành lục thông, diệu dụng bất khả tư nghì.

    Lý thuyết nghe rất dễ, nhưng khi thực hành mới vô cùng khó khăn. Bởi vì tập khí nhiều đời, chúng ta quen dính mắc với cảnh, thấy cảnh liền sanh tâm phân biệt. Nhờ công phu miên mật, trong phút giây nào đó ta nhận ra lẽ thật, nhưng cũng chỉ như ánh chớp trong đêm đen, không phải đã xong việc mà còn cần kiên trì gột sạch tập khí, buông bỏ vọng tưởng. Đời tu rất gian nan vất vả, nhưng bù lại, chúng ta có lúc cảm nhận sự bình an hỷ lạc của Thiền, khi sống với bản tâm sẵn đủ. Bản tâm vốn lặng vốn chiếu, là bổn tịch bổn tri. Bổn tịch là trạng thái lặng lẽ thanh tịnh sẵn có nên không miễn cưỡng để vào định. Bổn tri là cái thường biết sẵn có nên không cưỡng cầu thêm hiểu biết.

    Khi các căn tiếp xúc với các trần, không có ý niệm phân ranh là Định nhưng vẫn rõ ràng thường biết là Huệ. Định- Huệ đồng thời là trạng thái vô niệm mà tùy cảm tùy ứng, đúng yếu chỉ Thiền tông. Khéo hiểu những điều này, công phu của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và kết quả nhanh hơn. Ai cũng có phiền não kiết sử, nhưng khi rõ tất cả đều không thật và không ở ngoài thể tánh bổn tịch bổn tri, ta sẽ hiểu vì sao không tìm Bồ-đề ở ngoài phiền não. Người biết tu là người gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng không mất tự chủ tỉnh giác. Các vị Thiền sư vẫn sinh hoạt, nói năng như mọi người, không hề có một biểu hiện phi thường xuất thế như thi triển thần thông, pháp thuật. Chúng ta hay đánh giá người khác qua hình tướng, qua ngôn ngữ cử chỉ bên ngoài, nên đôi khi nhận lầm thầy bạn. Trong đời sống thường nhật, tốt nhất là dùng bát phong([2]) đo định lực của mình và người.

    3. Thiền suy tiến cá nhân nhưng không suy tiến bản ngã:

    Quyển Góp nhặt cát đá do tác giả Đỗ Đình Đồng dịch, có kể chuyện một người cha truyền nghề đạo chích cho con. Nếu người cha cứ cho con theo sát mình từng bước, chỉ dẫn con từng việc, thì không thể giúp con phát huy tính sáng tạo và nắm vững những bí quyết trong nghề. Cha phải dồn con vào thế bí để con tự phát hiện, tự kinh nghiệm trên thực tế và tự tìm giải pháp. Chỉ có việc ăn trộm mà còn phải nhọc công như vậy, huống nữa là việc tu hành. Người tu phải có những cuộc thăm dò phiêu lưu gian khổ, tự mày mò kinh nghiệm, tự mình khám phá những bí ẩn kỳ diệu trong mảnh đất tâm của chính mình. Vị thầy chỉ hướng dẫn và trợ duyên cho môn đệ, có lúc phải dồn môn đệ vào chỗ nguy hiểm để môn đệ phát huy nội lực. Đó là tinh thần tự thắp đuốc lên mà đi, nhưng phải thắp lên với chánh pháp. Những môn đệ biết tự mình bước trên đôi chân của mình, mới đáng tin cậy và đáng giao phó việc lớn trong tông môn.

    Với tinh thần tự lực, nhà Thiền chủ trương mỗi cá nhân đều là–và phải là– yếu tố quyết định trong sự giác ngộ và giải thoát. Không ai làm thay được cho ai, kể cả chư Phật chư Bồ-tát. Mỗi người phải tự xoay lại chính mình, thầm nhận bản tâm chân thật sẵn đủ, bằng sự thể hiện của tầng sâu thẳm trực giác siêu ý thức, cuối cùng thể chứng chân tánh bất sinh. Khi tất cả những bí mật ngàn đời của vũ trụ vạn loại đã được dàn trải, mỗi vị sáng đạo sẽ có một cách sống khác nhau, một cách giáo hóa khác nhau tùy bổn nguyện. Nhưng muốn đạt đến mục đích tối thượng, người tu phải trang bị cho mình một ý chí kim cương, ngoài kiến thức vững chãi về pháp tu và những kinh nghiệm trong công phu hành trì. Nếu không đầy đủ nghị lực để đương đầu với bao sóng gió cuộc đời, chúng ta khó thể thấu triệt đến mức độ sâu xa siêu tuyệt của đạo lý. Con người yếu hèn bạc nhược thì không thể thành công trong bất cứ công việc nào, huống chi là việc thoát ly sanh tử.

    Thiền sư Hoàng Bá có bài kệ rất hay:

    Trần lao quýnh thoát sự phi thường,

    Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.

    Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,

    Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

    Nghĩa:

    Vượt khỏi trần lao việc phi thường,

    Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.

    Nếu chẳng một phen sương lạnh buốt,

    Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

    Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh và khuyến khích người tu chiến thắng mọi chướng duyên, viên thành đạo quả. Vượt khỏi trần lao không phải việc tầm thường, nên ý chí người tu cũng phải phi thường, có bản lĩnh dám làm dám chịu. Người có bản lĩnh là người biết rõ khả năng của mình và công việc mình đang làm; trước khi làm có đắn đo, cân nhắc, và khi biết việc làm ấy là đúng thì gan dạ giữ vững lập trường, đi cho đến đích. Hoa mai trước khi tỏa hương thơm ngát vào mùa xuân, phải trải qua ba tháng đông lạnh lùng buốt giá. Người tu cũng thế, phải trải qua cuộc sống độc hành độc bộ, tu tập tinh cần, tam thường bất túc; phải có sức mạnh tự nội, gan dạ chiến đấu với những cám dỗ của ngũ dục bên ngoài và ma chướng bên trong. Đời sống thiền sinh chúng ta thú vị ở chỗ, dù phải chiến đấu với bản thân trong từng giây phút, phải cảnh giác cao độ với những quyến rũ ràng buộc của tiền trần, nhưng khi chiến thắng một trận, ta lại thấy mình trưởng thành thêm một ít, và càng vững tin mình sẽ có ngày chiến thắng trận cuối cùng.

    Tuy nhiên, tinh thần suy tiến cá nhân trong nhà Thiền không nên đồng hóa với lối suy tôn bản ngã vốn xa lạ với đạo Phật. Chúng ta thường nhìn nhận sự vật theo cái thấy biết chủ quan thiên kiến của mình. Đây là hành vi của bản ngã. Ngã tướng biểu hiện qua muôn vàn khía cạnh từ thô đến tế, mà nếu không chánh niệm tỉnh giác nhận diện và chuyển hoá chúng, ta khó thể thấu triệt bản chất chân thật của vạn pháp. Chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này kỹ hơn ở chương Con đường thiền tập, nhưng ở đây, cần đề cập đến một khía cạnh của tinh thần vong ngã: Lòng từ bi của những bậc Giác ngộ.

    Phẩm Phổ môn kinh Pháp Hoa diễn tả lòng từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm như sau:

    Bi thể giới lôi chấn

    Từ ý diệu đại vân

    Và:

    Cụ nhất thế công đức

    Từ nhãn thị chúng sanh

    Vì sao bản chất của lòng Bi (Bi thể) được ví như tiếng sấm động (lôi chấn), và lòng Từ như đám mây hiền? – Bởi vì tình thương của Bồ-tát là tình thương tích cực, vừa cứu khổ vừa ban vui, như sấm chớp báo hiệu cho mây bao phủ, và mưa trút xuống dập tắt những đám cháy phiền não, làm muôn người muôn vật được tươi mát bình an. Và vì Bồ-tát có đầy đủ công đức, nên nhìn tất cả chúng sanh bằng đôi mắt từ hòa. Đây là tình thương chân chính và vong ngã của một bậc giác ngộ và từ bỏ đắm say vào cuộc sống. Tại sao nói như thế?

    Con người thường cho rằng, mình là chủ nhân của vũ trụ, nên mọi loài mọi vật đều phải chịu sự chi phối của mình; thậm chí dùng mạng sống của chúng để thỏa mãn những nhu cầu ẩm thực giải trí cho riêng mình, không biết rung động khi thấy chúng sợ hãi, đau đớn. Tàn nhẫn hơn, có kẻ chủ trương tàn sát những người bị xem là thuộc chủng tộc hạ đẳng hoặc không cùng tôn giáo. Nếu ai có tình thương với người với vật, thì đó cũng là tình thương chiếm hữu, vị kỷ. Cha mẹ nuôi con, muốn con sau này có hiếu với mình, chăm sóc mình lúc già yếu; nam nữ kết hợp với nhau cũng có chọn lựa cân nhắc, có đòi hỏi sự đền đáp tương xứng; bạn bè giúp nhau cũng mong có sự trao đổi, biết ơn... Bồ-tát không như vậy. Các Ngài thương chúng sanh một cách tự nhiên, không phân biệt, không điều kiện. Đây là tâm Vô duyên từ. Bằng ánh sáng giác ngộ, các Ngài thấy mọi loài chúng sanh đều bình đẳng ở Phật chất, nên thương tất cả những ai còn vô minh. Tình thương của các Ngài chan hòa và bình đẳng khắp vũ trụ vạn loại, không vướng mắc vào nhân- ngã, không bị ràng buộc vào ý tưởng biết ơn – đền ơn. Bồ-tát thị hiện nơi đời làm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ để lộ hành tung. Hai Ngài Hàn Sơn – Thập Đắc, mang thân phận người tu căn cơ hạ liệt, bị mọi người rẻ rúng khinh khi, vẫn bình thản và hành mật hạnh. Khi bị mọi người phát hiện là Bồ-tát hoá thân, hai người đưa nhau vào núi ẩn tích. Ngày nay, trên thế giới cũng có nhiều tổ chức phi chính phủ, những người tình nguyện vào mọi nơi khổ đau bệnh tật, di chứng chiến tranh, để cứu giúp đồng loại một cách vô điều kiện. Các vị ấy cũng đang hành hạnh Bồ-tát, dù thuộc sắc tộc nào, tôn giáo nào. Hình ảnh lạ lùng trong nhà Thiền như gái đá nhảy múa, người gỗ hát ca hay sáo không lỗ, đàn không dây ... cốt nói lên diệu dụng bất khả tư nghì, khi các Ngài sống bằng bản tâm thanh tịnh, làm mọi Phật sự với tinh thần vong ngã.
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  4. #4
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    II. THIỀN THỂ HIỆN VÀO ĐỜI SỐNG
    Bằng tinh thần nhập thế của Đạo Phật, Thiền hòa quyện vào đời sống nhờ tính chất thực tiễn, linh hoạt và bình đẳng, làm cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Đồng thời, nhờ uyển chuyển tùy duyên một cách hiệu quả nhất, nên Thiền trở thành muôn màu muôn vẻ, phù hợp với tất cả mọi người.

    1. Tính thực tiễn:

    Nhà đại bác học Albert Einstein từng thừa nhận “Nếu có một tôn giáo phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là đạo Phật”. Để “phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện đại”, trước tiên đạo Phật phải có tính thực tiễn, vì khoa học không chấp nhận mê tín thần quyền. Yêu cầu này cũng là chủ trương của đạo Phật, một đạo trí tuệ và vô cùng thực tiễn. Thiền tông, một tông phái trong nhà Phật càng đặt nặng tinh thần này.

    Thiền sư Suzuki nói: “Thiền là biển nước, là không trung, là núi non, là sấm sét, là hoa xuân nắng hạ tuyết đông. Không những thế mà còn hơn thế, Thiền chính là con người” . Thấy biển nước không trung một cách sâu xa tức tự tri tận bản chất các pháp. Thiền không phải xa rời thế giới hiện thực để tìm kiếm một thế giới lý tưởng xa vời, mà là thực tại nhiệm mầu khi tâm ta bất động nơi đương xứ. Thiền không phải biểu hiện trên từ chương ngôn ngữ, trong khái niệm tư duy, mà hiện sinh trong từng giây phút của đời sống thiền tập. Khi trở về bản thể thanh tịnh và hằng tri, an trú vào giờ phút hiện tại bất động, chánh niệm tỉnh giác trên từng biến đổi động thái của sự vật và bản thân, hành giả nhận rõ rằng, Thiền-Đạo–bản thân và muôn pháp thật sự không hai không khác.

    Một Sa-di đến hỏi Ngài Tùng Thẩm Triệu Châu:

    - Thế nào là đại ý Phật pháp?

    Ngài hỏi lại:

    - Chú ăn cháo chưa?

    - Bạch Hòa thượng, con ăn rồi.

    - Rửa chén đi!

    Sa-di liền ngộ, sụp lạy tạ ơn.

    Sự ngộ đạo sao quá dễ dàng đơn giản? Nghĩa lý nào ở chỗ ăn cháo rửa chén? Nếu công phu của chúng ta chưa có chiều sâu, ta khó thể hiểu ý nghĩa thâm trầm trong câu chuyện nầy. Sa-di đã từ lâu thao thức, từ lâu tinh cần công phu mà vẫn chưa tỏ ngộ lý Thiền nên cầu sư phụ chỉ dạy Pháp yếu. Ngài Triệu Châu hỏi “Ăn cháo chưa?” là một thủ thuật vì đương cơ mà quyền biến. Ai biết ăn cháo, ai biết rửa chén ? Khi ăn cháo, rửa chén mà thầm nhận người thật sẵn đó thì rõ ràng Thiền có mặt trong những công việc tầm thường ấy. Chúng ta quá phức tạp, tâm cứ lăng xăng rối rắm, làm việc này nghĩ việc khác nên tâm không thấy cái xuất trần ngay trong trần tục. Vị Sa-di đã dọn sẵn tâm mình, nên khi Ngài Triệu Châu điểm nhẹ, cửa tâm liền mở rộng đón nhận chân lý ngàn đời.

    Đức Phật xuất gia tìm đạo và giác ngộ ở tại thế gian. Các bậc Thánh đệ tử của Ngài và những vị Tổ sư cũng tu nơi cõi trần mà thành đạo. Những bậc Đại Bồ-tát Nhất sanh Bổ xứ cũng phải vào cõi Ta-bà lần cuối mới công viên quả mãn, chứng đạt quả vị tột cùng. Phải ở chốn bùn nhơ thì hoa sen mới nở, người tu phải gieo hạt giống Bồ-đề nơi phiền não khổ đau. Chúng ta cũng như thế, ngay thân năm uẩn tại trần gian mà tìm sự sống chân thật, ngay những hoàn cảnh nghịch thường mà tìm hạnh phúc đích thực, nếu biết biến chướng duyên thành thắng duyên. Con người thường hay hứa hẹn, chờ thời điểm thuận tiện, chờ giải quyết công việc gia đình, chờ hoàn thành công trình lớn nào đó mới tu. Nhưng có chắc rằng lúc ấy ta còn cơ hội tu không ? Thân có khoẻ, tiền của có nhiều mới tu, chẳng lẽ thân bệnh nhà nghèo không tu được ? Nếu có chánh kiến, nắm vững pháp tu thì bất cứ lúc nào và ở đâu ta cũng có thể dụng công; đời tu của ta rất nhẹ nhàng mà hiệu quả. Người biết tu cần tìm sự vi diệu ở ngay những hiện tượng sự vật bình thường trong cuộc sống. Một đóa hoa dại bên đường, một tiếng chim hót trên cao, ngay cả một lời nói thông tục, nếu ta thấy nghe bằng chánh niệm, tất cả sẽ là những bài học sống động diệu thường.

    Vì đề cao tính thực tiễn trong sinh hoạt và tu học, nên nhà Thiền không chú trọng thần thông. Thần thông diệu dụng đối với Thiền tông là những công việc thường nhật, khi làm với tâm không. Từ bản tánh thanh tịnh khởi phát diệu dụng, diệu dụng ấy thiết thực phục vụ cho chúng sanh muôn loài. Bàng Long Uẩn nói:

    Thần thông và diệu dụng

    Gánh nước bửa củi tài.

    Trong kinh A-Hàm đề cập ba loại thần thông: Thần túc thông là khả năng đi khắp tất cả chỗ một cách tự do tự tại; Tha tâm thông là khả năng biết mọi ý nghĩ của người khác. Hai loại thần thông nầy không quan trọng đối với đạo Phật, đôi khi làm trở ngại đường tu vì khiến hành giả tăng trưởng ngã chấp. Vả lại, cố ý tu hành để đạt thần thông là hướng ngoại cầu huyền, trái với ý chỉ của nhà Thiền là phản quan tự kỷ. Loại thứ ba là Giáo hoá thần thông được Đức Phật khen ngợi và khuyến khích vì giúp ích được người khác. Muốn có Giáo hóa thần thông, người tu phải có Đạo thông; trước tiên phải rõ lý Đạo, nhận ra thể tánh bất sanh, sau mới có thể giáo hoá người tịnh tu ba nghiệp, giải thoát phiền não kiết sử, giải thoát sanh tử luân hồi.

    2. Tính linh hoạt:

    Hành giả sơ phát tâm rất cần những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc công phu để đường tu không lạc vào ngã rẽ. Tuy nhiên, nếu chấp vào những khuôn khổ ấy một cách cứng nhắc, ta sẽ không thấy rõ sự vận hành của cuộc sống, không uyển chuyển theo sự vận hành ấy và vô tình, ta trở nên kẻ đứng bên lề.

    Phật pháp không hiện diện trong trạng thái tĩnh lặng khô chết, mà ở nơi sinh động hằng chuyển của thế gian pháp. Khi nghe tiếng chim hót mà trực nhận tánh nghe, đó là phù hợp ý Tổ. Thanh tịnh và hằng tri là hai mặt không thể tách rời, làm nên cội nguồn Thiền học. Trên thực tế, ta thấy đời sống trong Thiền viện có vẻ ấm êm yên ổn hơn ngoài đời, nhưng các vị tu sĩ đâu phải lúc nào cũng trang nghiêm trầm mặc ? Đức Phật lúc còn tại thế, đâu phải suốt ngày tọa thiền dưới cội cây, mà Ngài cũng đi đứng, nói năng, sinh hoạt như mọi người. Trong một tập thể tu hành cần có những qui tắc cố định giúp người tu thúc liễm thân tâm, nhưng nếu quá gò ép sẽ làm mất sức sống và khả năng sáng tạo của cá nhân. Tinh thần Thiền là luôn linh hoạt sống động, phù hợp với từng con người, từng hoàn cảnh, nhưng không bao giờ xa rời lý Đạo. Đó là nội dung tùy duyên-bất biến.

    Khi đã thấu tột yếu chỉ nhà Thiền, các bậc ngộ đạo phát khởi diệu dụng nhiêu ích quần sanh một cách linh hoạt, muôn màu muôn vẻ, tùy đương cơ mà thi thiết phương tiện. Nam Tuyền chém mèo, Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, Câu Chi giơ ngón tay... là những hình ảnh sáng tạo, độc đáo, khế lý khế cơ của các Thiền sư ngày xưa. Đến ngày nay lại khác, con người khoa học đòi hỏi sự giảng dạy phải có tính sư phạm, những ý nghĩa thâm sâu uyên áo phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ lý luận khúc chiết; nên mới có chủ trương Thiền-Giáo song hành. Đến với từng dân tộc, Thiền còn hòa nhập vào phong tục tập quán và lối sống hàng ngày, góp phần tạo nên nét đẹp văn hóa riêng của dân tộc ấy. Tại Trung Hoa, từ thời Tổ Bá Trượng với tinh thần lao động “Một ngày không làm một ngày không ăn”, các hình thức Nông Thiền ngày một phát triển. Các Thiền sư có lối dạy người thẳng tắt, mộc mạc và đôi khi thô thiển; như khi nghe hỏi về tôn chỉ nhà Thiền hay yếu lý trong Đạo, các Ngài hoặc đánh hét hoặc trả lời bằng những câu vô nghĩa “Ba cân gai”, “Dưới gót chân ông” ... Ở Việt Nam lại khác, thời đất nước thịnh trị như Đinh-Lê-Lý-Trần, các vị Thiền sư vừa giúp vua trị nước, chống giặc ngoại xâm, vừa hướng dẫn môn đệ tu hành, như các Quốc sư Khuông Việt - Đỗ Thuận - Vạn Hạnh ... Cùng những bậc minh quân và hoàng thân quốc thích như vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ ... , đều là những trí thức đương thời, thông bác văn chương kim cổ nên thường dùng thơ văn khi muốn khai thị cho đồ chúng. Chúng ta hẳn nhiều lần nghe các câu kệ sau đây:

    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

    (Cáo tật thị chúng - Thiền sư Mãn Giác)

    Nghĩa:

    Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

    Đêm qua sân trước một cành mai.

    Hoặc câu trả lời vua Lý Thái Tông của Thiền sư Thiền Lão:

    Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

    Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân

    Nghĩa:

    Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

    Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

    Tại Nhật Bản, Thiền lại mang màu sắc khác, được ứng dụng vào các ngành nghệ thuật như cắm hoa, hội họa, uống trà; sau đó phát triển sang các lĩnh vực khác như võ thuật, công kỹ nghệ. Nhờ áp dụng công phu thiền tập trong đời sống hàng ngày, người hành thiền có sức định tâm, tự chủ nên công việc đạt kết quả tốt, năng suất cao. Hiện nay, một số xí nghiệp, trường học và cả trại giam ở Nhật và các nước phương Tây đã tổ chức những giờ tọa thiền vào buổi sáng trước khi làm việc. Qua nghiên cứu và theo dõi một thời gian, người ta thấy Thiền giúp tăng sức tập trung, phát huy tính sáng tạo và phát triển trí thông minh. Đặc biệt, người tu Thiền có sự vui sống, bớt căng thẳng phiền não, bớt khuynh hướng bạo động, nên tỷ lệ tù nhân tái phạm tội hoặc trốn trại giảm đi đáng kể. Từ đó, Thiền được xem như một phương thức điều trị các bệnh tâm thần kinh; một liệu trình kết hợp để kiểm soát những bất ổn của tim mạch, tiêu hoá ...; một phương pháp nâng cao sức khoẻ, sức chịu đựng và khả năng lao động. Có thể nói, trong thời đại khoa học thiên về vật chất hiện nay, Thiền là một gam màu linh động không thể thiếu trong bức tranh toàn cảnh của đời sống nhân loại.

    3. Tính bình đẳng:

    Tinh thần Đại thừa, nhất là Thiền tông, đặt căn bản trên Phật tánh bình đẳng sẵn đủ, nên bất cứ ai chứng ngộ chân tâm đều có thể thành Phật. Chú tiều Huệ Năng đến Hoàng Mai bái yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cầu pháp làm Phật. Nghe Tổ hỏi “Ông là người Lãnh Nam quê mùa thất học, có thể kham làm Phật được sao?”, Huệ Năng liền đáp:

    - Người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh đâu có Bắc Nam. Thân quê mùa nầy vốn cùng Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh không hề sai khác.

    Triệt ngộ tự tánh nhờ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, Ngài được Tổ truyền trao y bát kế thừa Tổ vị, dù vẫn còn thân cư sĩ. Sau 15 năm tị nạn ở Tứ Hội, đủ duyên ra hoằng hoá, lần đầu gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết-bàn, Ngài luận giải những ý nghĩa sâu mầu uyên áo đến nỗi Pháp sư phải chắp tay thưa “Tôi giảng kinh như ngói gạch, nhơn giả luận nghĩa ví như vàng ròng”.

    Kinh Pháp Hoa, các phẩm 9 (Thọ học vô học nhân ký), 12 (Đề-Bà-Đạt-Đa), 13 (Trì) diễn tả rõ ràng tính bình đẳng trong sự tu hành và đắc quả. Long nữ là loài súc sanh, được Bồ-tát Văn Thù chỉ dạy pháp yếu, đốn ngộ Phật thừa, thoắt chốc liền thành Phật. Những vị Tỳ-kheo ni như Kiều Đàm di mẫu, Da-Du Đà-La đều được Đức Phật thọ ký. Thậm chí nhiều đời theo phá Phật như Đề-Bà Đạt-Đa, cũng vẫn có phần. Một tiền thân của Đức Phật là Ngài Thường Bất Khinh, suốt đời chỉ hành một hạnh duy nhất là nhắc nhở cho tất cả những ai gặp Ngài “Tôi không dám khinh các người, vì các người sẽ thành Phật”. Trên thế giới từ cổ chí kim, có lẽ chưa có vị giáo chủ nào tự đặt mình ngang hàng với môn đệ và mọi loài chúng sanh như Đức Bổn sư của chúng ta.

    Trong Thiền sử cũng kể chuyện nhiều vị cư sĩ, dù gia duyên ràng buộc vẫn ngộ đạo và tự tại trước sanh tử. Gia đình Bàng Long Uẩn lúc còn sống, cả nhà cùng tấu khúc vô sanh; khi hết duyên, an nhiên thị tịch mỗi người một kiểu. Việt Nam có 5 đời vua Trần đều ra đi một cách an nhàn. Tuệ Trung Thượng Sĩ là hình ảnh tuyệt vời của một bậc phong lưu tiêu sái, ở trong trần mà không chút bợn nhơ.

    Thoát trần một gót thiên nhiên

    Cái thân ngoại vật là tiên trên đời ([1])

    “Thân ngoại vật” là thân không bị ràng buộc bởi các duyên, dù ở nơi thế tục mà vẫn xuất thế. Người hoàn toàn sống với Phật tánh sẵn đủ thì dù ở hoàn cảnh nào, dưới hình tướng nào, cũng cùng Phật Thánh làm bạn.

    Đoạn vấn đáp sau đây là một giai thoại trong nhà Thiền:

    - Năm nay Ngài bao nhiêu tuổi ?

    - Tuổi tôi bằng tuổi Phật Di –Đà

    - Vậy Phật Di-Đà bao nhiêu tuổi ?

    - Phật Di- Đà bằng tuổi tôi.

    Người không hiểu tinh thần bình đẳng của nhà Thiền sẽ cho câu nói này là phạm thượng bất kính. Phật A-Di-Đà là Đấng Giáo chủ ở cõi Cực Lạc, bằng 48 lời đại nguyện đã thiết lập Tịnh độ Tây phương, tiếp dẫn chúng sanh. Ai có lòng tin đối với Ngài, với cõi nước của Ngài; có tâm chí thành chí kính muốn sanh về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài đến nhất tâm bất loạn; thì khi mạng chung, Ngài và chư Thánh chúng sẽ hiện đến trước mặt, tiếp dẫn về Tịnh độ. Đức Phật A-Di-Đà là vị Phật đã thành đạo trước Đức Bổn Sư mười kiếp, làm sao có thể so sánh tuổi mình với tuổi của Ngài ? Phật A-Di-Đà, Trung Hoa dịch là Vô lượng quang và Vô lượng thọ, tức ánh sáng và thọ mạng vô lượng. Tự tánh Di-Đà là Phật tánh thường hằng sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Chúng sanh mê mờ, quên tánh giác đuổi theo ngoại trần (bối giác hiệp trần) nên cứ lên xuống trong trần lao sanh tử ; chư Phật sống trọn vẹn với Pháp thân thường trụ, không nhiễm trần cấu (bối trần hiệp giác) nên là những bậc giác ngộ Giải thoát. Nhưng dù chúng sanh còn vô minh còn luân hồi, Phật tánh vẫn thường nhiên, bình đẳng cùng chư Phật. Thẩm thấu được điều này, chúng ta có cơ sở để phấn đấu không mệt mỏi, chỉ cốt đạt mục đích cuối cùng. Biết và tin chắc mình có chánh nhân thành Phật, đó là động cơ khích lệ vô cùng quý báu trên đường đạo thăm thẳm và đầy cạm bẫy chông gai.
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  5. #5
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    Chương 2: CON ĐƯỜNG THIỀN TẬP
    Theo lời Phật dạy, tất cả chúng sanh vốn sống trong bình an muôn thuở, nhưng hốt niệm vô minh, tạo nghiệp thiện ác rồi lưu lạc khắp sáu đường ba cõi. Những cõi sống khác nhau biểu hiện nghiệp lực do riêng mình tự tạo, nhưng chúng ta lại giống nhau ở một điểm: đều là những kẻ quên cội quên nguồn. Hình ảnh gã cùng tử trong kinh Pháp Hoa là hình ảnh sống động và trung thực nhất diễn tả thân phận chúng sanh. Là con vị trưởng giả kho báu đầy dẫy mà đi ăn xin, thì khờ dại biết ngần nào. Giờ đây may mắn gặp Phật pháp, bàng hoàng chợt tỉnh, dừng bước phiêu du; và Con đường Thiền tập là lộ trình đưa ta trở về quê hương, về bản thể của chính mình. Trên đường đi, có nhiều lúc hầm hố chướng ngại khiến ta vấp ngã, cũng có khi cảnh đẹp làm ta ưa thích; nhưng nếu ta luôn luôn tâm niệm phải trở về, thì dù bao nhiêu khó khăn hay cám dỗ, dù hy sinh cả tính mạng, ta vẫn vững lòng đi tới. Bằng lập trường vững chắc và ý chí kiên cường, công phu Thiền tập của chúng ta mới mong có kết quả.
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  6. #6
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    I. Ý NGHĨA THIỀN TẬP
    1. Tự do ngay nơi thân năm uẩn:

    Con người ngày nay quen sống trong tiện nghi vật chất nên mất nhiều thời giờ, công sức tạo dựng cho mình và gia đình một đời sống đầy đủ. Nhưng sự ước muốn không cùng tận, đã có càng mong có nhiều hơn, ít ai thỏa mãn với hoàn cảnh hiện tại của mình. Từ đó bị ràng buộc vào vòng danh lợi như bị cuốn vào guồng máy lớn, không bao giờ thoát khỏi.

    Chính đời sống thiền tập giúp ta quán chiếu tính chất hư giả của thân ngũ uẩn. Vì thân do tứ đại kết hợp, đủ duyên thành thân, hết duyên thì tan rã; dù là một kẻ bần cùng mạt hạng hay một quốc vương hùng mạnh nhất thế giới, rốt cuộc cũng chỉ là một thây chết như nhau. Vì tâm suy nghĩ lăng xăng cũng nương vào pháp trần mà sinh, nhìn lại thì không thấy đâu, sinh sinh diệt diệt không ngừng thì làm sao thật có? Thân tâm không thật thì những sở hữu cũng không thật, có gì tồn tại bên mình suốt đời suốt kiếp mà cố chấp để sinh ra xung đột oán thù? Quán chiếu sâu sắc như thế, chúng ta từng bước cởi bỏ những ràng buộc của ngã và ngã sở, có tinh thần thiểu dục tri túc. Thiểu dục là ít ham muốn, Tri túc là biết đủ. Do ít ham muốn nên biết đủ, và vì biết đâu là đủ nên ít ham muốn. Có người cho rằng, phải hạn định một mức sống tối thiểu nào đó hoặc gò ép mình vào một khuôn khổ mới gọi là tri túc. Thật ra, tri túc là thỏa mãn với cuộc sống hiện tại của mình, ta có hoàn cảnh phước nghiệp nào thì thỏa lòng ở đó. Tri túc như vậy chủ yếu ở ngay nơi tâm chứ không định gá nơi cảnh, vì nếu y nơi cảnh sẽ không bao giờ ta bằng lòng với hiện tại.

    Nhà Thiền chủ trương, tự do đích thực nghĩa là siêu việt mọi nhận thức lưỡng phân. “Thiền” cũng là một từ ngữ khác của tự do, bởi vì người đạt Thiền là người đạt tới tâm thái tự do, tức đã vượt thoát mọi ràng buộc, mọi mâu thuẫn, mọi khuôn sáo trong cuộc sống. Có lần Đức Phật đã dõng dạc tuyên bố: “Này các tỳ kheo! Ngay nơi thân năm uẩn gồm có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức nầy, Như –Lai tuyên bố thế giới, sự tập khởi của thế giới, sự đoạn diệt của thế giới, và con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới!”. Theo đây, cơ thể năm uẩn của chúng ta là một toà thiên nhiên đẹp đẽ mầu nhiệm nhất, vì trong tự thân của mỗi người đã có sẵn tiềm năng vô tận; và chúng ta có thể vươn tới chân trời tự do thánh thiện bằng chính đôi chân vững chãi của mình. Có thể nói, trở về với tâm thái tự do là cuộc đấu tranh vĩ đại cuối cùng của đời người, và an thân lập mệnh nơi tâm thái tự do ấy chính là sống Thiền.

    Nhiều khi Thiền gia nói đến sự từ khước, nhưng đó không có nghĩa là từ khước thế gian, mà từ khước mọi đắm say thế gian. Có khi Thiền gia nói đến sự xa lìa, không phải xa lìa mọi hiện trạng cuộc sống, mà xa lìa mọi bám víu vào cuộc sống. Tinh thần từ khước và xa lìa phải được thực hiện ngay trong tâm hành giả, bất cứ lúc nào và ở đâu trong sinh hoạt đời thường.

    Mọi sự khốn khổ của con người đều do nhận thức chủ quan sai lạc đối với các pháp. Khi tiếp xúc với mọi vật, lập tức ta có sự phân biệt giữa mình là chủ thể nhận thức hay năng duyên, với sự vật là đối tượng nhận thức hay sở duyên. Không những thế, ta còn áp đặt cái thấy biết phiến diện của mình trên đối tượng, mà không nhận ra bản chất thật của nó. Duy thức học nêu rõ ba loại đối tượng nhận thức do thức Alaya biểu hiện ra. Một là thế giới tánh cảnh tức bản chất thật của vạn pháp, là thực tại tự thân của thế giới, mà tri giác của chúng ta không thể đạt đến. Thứ hai là Đới chất cảnh, cảnh tượng do con người tạo ra. Cảnh này mang một ít tính chất của Thế giới tánh cảnh, được vẽ vời thêm từ nhận định chủ quan của mỗi người. Thứ ba là Độc ảnh cảnh, những hình ảnh khơi lại trong trí nhớ hay thấy trong giấc mơ.

    Qua phân tích này, rõ ràng thế giới chúng ta đang sống, đang nhận thức, đang hiểu biết đây chỉ là những biểu hiện từ tâm, khi sáu căn duyên với sáu trần. Nói khác đi, tất cả mọi sự vật hiện tượng đều là sản phẩm của thập bát giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức). Chúng ta không thật có cũng chẳng thật không. Không thật có vì chúng do các duyên hợp lại mà thành, không có tự thể cố định. Chúng chẳng thật không vì con người có thể nhận biết và sử dụng chúng. Vì thế, tánh của các pháp là không, nhờ nhân duyên tụ hội nên tạm có. Chính vì liễu hội bản chất Không của các pháp nên các bậc ngộ đạo luôn nhấn mạnh sự từ khước và xả ly. Tuy từ khước nhưng các Ngài thương yêu cuộc đời hơn ai hết; tuy xả ly mà các Ngài luôn hòa mình với cuộc sống, làm lợi ích cho mọi người. Chính do không ham muốn ngũ dục, không dính mắc với trần cảnh, không chấp ngã, chấp pháp, nên các Ngài hoàn toàn tự do nơi thân năm uẩn.

    2. Không miễn cưỡng mong cầu:

    Chúng ta tu Thiền thường xem giác ngộ giải thoát như một mục tiêu để theo đuổi, để hướng về. Nhưng nếu có một mục tiêu nhắm đến, thì mục tiêu ấy đã ở ngoài mình, đã được đặt ở thì tương lai, có phân chia người đến nơi đến tức có ngã có pháp rõ ràng. Như thế không còn là Thiền nữa, vì Thiền không bị hạn cuộc, không bị định vị, không bị phân chia năng sở; và đời sống Thiền là mênh mông bát ngát.

    Chúng ta thường cố gò bó mình vào một khuôn khổ đạo đức. Đây là điều cần thiết cho những bước đầu của đời tu, nhưng sự chủ ý khiên cưỡng ấy khiến trong ta có niệm gắng gượng làm mất sự hồn nhiên tự tại của Thiền. Khi thiền hành dưới hàng cây râm mát, tai nghe tiếng rì rào qua đám lá, tiếng chim ríu rít trên cành, ta biết mình đang đi đang nghe một cách tự nhiên an lạc mà không khởi một ý niệm nào, không cần nghĩ mình sẽ đi đâu; thì ngay dưới những bước chân thảnh thơi ấy, mảnh đất Ta- bà đã trở thành Tịnh độ, mục đích giải thoát và phương tiện thiền hành đã không hai không khác.

    Thường độc hành thường độc bộ

    Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ.

    Thiền sư Vĩnh Gia đã diễn tả sự cô liêu của một người đạt đạo. Các Ngài vẫn ở trong trần thế, vẫn tiếp xúc với muôn pháp để làm mọi việc giúp người giúp đời nhưng không vướng bận một pháp nào, không dính mắc một việc gì. Tâm hồn các Ngài rộng mở thênh thang, tất cả các pháp đều biểu hiện một cách vi diệu, nên bước độc hành trên đất khổ đau cũng là dạo chơi ở cõi Niết-bàn!

    Thường chúng ta tưởng tượng có một cõi Niết-bàn ở một thế giới xa xôi lý tưởng, gắng công tu hành để khi rời khỏi thân nầy có thể trở về đó như đứa con lưu lạc lâu ngày trở về quê mẹ. Con người luôn luôn cảm thấy bất an, trống vắng, thiếu thốn một cái gì, mà suốt đời mãi đi tìm để bù đắp vào. Cũng có lúc ta thấy mình đầy tội lỗi, đâm ra chán chường thất vọng, muốn có một nguồn an ủi nương tựa. Phật-Trời và các vị thần linh chính là nguồn an ủi ấy; ta tìm đến các Người như tìm một dòng suối trong mát để gột rửa hết cáu bẩn từ thể xác đến tâm hồn. Rồi khi hồi tỉnh, ta lại thấy mình đủ trong sạch, đủ sức lực để quay về lăn lộn nơi trần thế, lại chuốc lấy nhơ bẩn lên người. Cứ thế, con người qua lại giữa Bồ-tát và Dạ xoa như bị lôi kéo giữa hai thế lực hướng thượng và hướng hạ, mà không thể chủ động quyết định số phận cho mình .

    Thật ra, chúng ta bất an chính vì chúng ta mãi tìm cầu một sự an lạc từ bên ngoài, mãi hy vọng nơi một thế lực siêu nhiên ban cho mình sự giải thoát. Ta không hiểu rằng, Niết-bàn chính là trạng thái thanh tịnh của tâm khi vắng bặt mọi phiền não. Ví như bệnh ghẻ làm ngứa ngáy khó chịu khiến ta phải gãi. Lúc đầu gãi rất đã ngứa, nhưng sau đó thì đau rát nếu cứ gãi hoài. Cảm thọ ngứa- đã ngứa –đau rát ta thấy rất rõ, trong đó “đã ngứa” là cảm giác khoái lạc thích thú vô cùng. Sự hưởng thụ ngũ dục cũng thế, cái khoái lạc do ngũ dục chỉ có trong nhất thời, sau đó là những tác hại về tinh thần và thể chất nếu hưởng thụ quá mức. Ăn ngon mặc đẹp là ước muốn của mọi người, nhưng ăn quá độ làm bệnh tật phát sinh, mặc quá sang thì phải ra sức làm việc, kể cả việc ác cũng không từ. Mặt khác, vì có ghẻ ngứa nên mới gãi, nhưng ta nên chấp nhận có ghẻ để gãi hay muốn da mình lành lặn? Dĩ nhiên, ai cũng muốn mình không có ghẻ, nhưng khi da ở tình trạng bình thường thì đâu có cảm giác gì? Ta không còn để ý đến da nữa, nhưng thật sự đó mới là trạng thái bình ổn, là hạnh phúc chân thật. Niết-bàn cũng là trạng thái lặng lẽ tịch tịnh như thế, khi tâm ta vắng bặt mọi vọng tưởng miễn cưỡng mong cầu.

    3. Chuyển nghiệp và dừng nghiệp:

    Nghiệp là thói quen huân tập trong thời gian dài, xuất phát từ thân miệng ý. Ý khởi tư tưởng, dẫn đầu cho miệng nói thân làm, nên ý là chủ tạo nghiệp. Nghiệp trở lại chi phối hoàn cảnh chánh báo và y báo của mỗi đương sự, theo đúng tiến trình nhân quả không sai một mảy may. Không một đấng quyền năng nào có thể sửa đổi tiến trình ấy; ngay cả Đức Phật, bậc thầy tối cao của Trời người vẫn không thể ban phước hay giáng hoạ cho ai. Chinh vì thế, mỗi người là chủ nhân của nghiệp và cũng là đối tượng thọ nhận những kết quả do nghiệp mình gây ra.

    Những gì ta nghĩ, nói hay làm đều gieo những hạt giống vào mảnh đất tâm thức, mà Duy thức học gọi là Lạc tạ ảnh tử. Tùy hạt giống ta gieo là thiện hay ác mà quả trổ ra là hạnh phúc hay đau khổ, khi đủ thời tiết nhân duyên. Nhiều khi ta không định nói hay làm một điều gì đó, nhưng như có ma lực thúc đẩy ta phải thực hiện, dù sau đó nhớ lại, ta cảm thấy ân hận vô cùng. Đó là sức mạnh của thói quen ta huân tập từ trước, mà nguồn gốc là những hạt giống rơi rớt trong mảnh đất tâm ta. Chính những thói quen đã tạo nên phong cách riêng của từng người, và chúng ta khổ chỉ vì do mình tập nhiễm những thói quen xấu, lại còn vung vãi những hạt giống không lành mạnh ấy cho những người xung quanh.

    Bước đầu thiền tập là nhìn lại mình, suy xét những gì mình đã tạo từ thân miệng ý, sửa đổi những điều xấu ác, huân tập nghiệp thiện lành. Đây là ý nghĩa của sự chuyển nghiệp, từ nghiệp ác thành nghiệp thiện. Người tu thiền chú trọng nhất nơi tâm ý, giai đoạn đầu chưa sạch vọng tưởng nhưng biết buông bỏ những ý nghĩ bất thiện, ý luôn nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm việc lành. Những phước đức hữu vi này không giúp ta thoát khỏi sanh tử, nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho đời tu của ta. Khi gặp nghịch cảnh chướng duyên, người có phước báo cũng dễ dàng qua khỏi. Do vậy, dù theo pháp môn nào, người con Phật cũng nhớ phước-huệ song tu, như con chim có đủ hai cánh mới bay cao bay xa được.

    Tiến thêm một bước, nhờ công phu thiền định, chúng ta dần dần buông bỏ tập khí, kiến chấp; tuy sống trong hoàn cảnh cũ nhưng đã có niềm vui thanh thản. Tuy vẫn tiếp duyên xúc cảnh nhưng tâm không dính mắc, không khởi vọng niệm. Ý không khởi niệm tức không còn tạo nghiệp. Đây là tinh thần dừng nghiệp, yếu chỉ của sự giải thoát sinh tử.

    Hiểu theo lý thuyết thì việc tu hành có vẻ đơn giản dễ làm, nhưng khi hành trì ta mới thấy thiên nan vạn nan. Trải qua vô lượng kiếp, chúng ta đã huân tập bao nhiêu thói quen xấu, ý thức lại suy tính nghĩ tưởng có lúc nào yên, ví như mây đen cứ cuồn cuộn che phủ cả bầu trời. Bài Trữ từ tự răn của Tuệ Trung Thượng Sĩ có câu:

    Còn mảy tình tam đồ báo ứng

    Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.

    Còn một mảy may tình cảm là còn chịu báo ứng trong ba cõi, còn tơ hào niệm là nhân trầm luân trong sáu nẻo luân hồi. Ngài nói thế để cảnh tỉnh những người quá vội vàng, mới hiểu Thiền qua khái niệm, biết mình có tánh giác sẵn đủ, đã vội cho mình chứng đắc, có thể sánh vai cùng chư Phật Bồ-Tát. Chúng ta thận trọng trong nhận thức trong công phu, nhưng vẫn tinh chuyên hành trì với lòng tin vững chắc vào Tam bảo tự tâm và Tam bảo tha lực. Những giờ phút thiền tập là những lúc ta có thể tiếp xúc với Niết-bàn, khi ý thức vắng mặt, tâm tĩnh lặng mà thường rõ biết. Có những lúc vì tập khí lôi dẫn, ta thấy mình yếu đuối khốn khổ, mất lòng tin vào mình và vào pháp tu. Nhưng những cơn khủng hoảng ấy cũng qua đi, ta lại trở về với niềm an lạc thanh lương nếu cứ kiên trì tu tập. Đây là giai đoạn sơ cơ, tâm ta còn lại qua liên miên với lục đạo; lúc hiền thiện như nhơn thiên, lúc sân hận như A-tu-la, khi độc ác tham lam hay si mê u tối như chúng sanh trong ba đường ác. Nhưng khi đạt đến quả Dự lưu (Tu-đà hoàn) là bước đầu vào dòng Thánh, người tu thuận dòng chảy vào biển chân như, là địa vị kiến đạo kiến tánh bất thối chuyển. Các Ngài đã có chỗ định vị, có nơi nương tựa vững chắc làm kế chung thân, cho dù bao phen lên xuống trong cuộc đời, cho dù có khi vấp ngã, cũng vẫn có thể đứng dậy, tiếp tục cuộc hành trình thiên lý.

    4. Tinh thần vong ngã:

    Con người làm bất cứ việc gì, dù lớn hay nhỏ, đều có ý thức mình là người làm hoặc làm việc ấy cho mình. Ngay trong sự tu hành, tuy cái ngã thô được nhận diện và buông bỏ, nhưng cái ngã tế vẫn thầm ẩn hiện, mà nếu ta không chánh niệm tỉnh giác, không miên mật hành trì thì khó kiểm soát nổi. Có thể nói, ý thức chấp ngã là một bệnh thâm căn cố đế, khó điều trị và lại dễ tái phát. Vì sao như thế? Bởi vì, chúng ta mê lầm cho thân tâm nầy là thật có, là mình.Vì thấy thân thật nên làm mọi việc cốt phụng sự thân, cốt thỏa mãn những đòi hỏi dù quá đáng của nó; ai khen nó thì ưa thích, ai chê là sinh bực bội thù ghét. Vì thấy tâm thật nên luôn cho ý kiến của mình là hay là đúng, không chấp nhận ai nói ngược làm ngược với ý mình. Người tu thì cho pháp tu của mình là cao nhất, vị Giáo chủ của mình vĩ đại nhất, không biết tôn trọng pháp tu khác, tôn giáo khác. Đây là nguồn gốc của những cuộc tranh cãi bất đồng và những cuộc chiến tranh mang những tên hoa mỹ như Thánh chiến, Thập tự chinh…

    Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, vua Lương Võ Đế thỉnh Ngài về Kim Lăng (kinh đô nhà Lương). Gặp Ngài , Vua hỏi:

    - Trẫm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì không?

    Ngài đáp:

    - Đều không có công đức.

    - Tại sao không có công đức?

    - Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi trời cõi người, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.

    - Thế nào là công đức chơn thật?

    - Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu([1]) Người tu làm nhiều Phật sự, nếu không thận trọng rất dễ phát sinh ngã chấp. Càng đóng góp nhiều cho Tam bảo, sự chấp ngã càng lớn, càng thấy mình quan trọng hơn, có ích hơn người khác. Nhưng phước báo nhơn thiên chỉ là hữu vi sinh diệt, như bóng như vang, như mũi tên bắn hết đà rơi xuống. Do chấp vào kết quả của việc làm, chấp vào ta - người nên không dính dáng với công đức của tự tánh là vô vi vô tác, không phải là công đức chân thật và không giúp ta thoát khỏi trần lao sinh tử.

    Trên đây là những cái chấp ngã thô phù dễ thấy, người tu nhờ quán chiếu sự duyên sinh giả hợp của thân tâm, có thể từng bước hoá giải. Đến cái chấp ngã tế vi thì khó nhận biết và khó giải trừ vô cùng, mà nhà Phật gọi là hết phàm tình vẫn còn Thánh giải, hết ngã phàm lại còn ngã Thánh. Đó là chấp vào sự chứng đắc trong công phu của người đã có một trình độ tâm chứng nào đó. Thấy ta đạt đạo là còn ý niệm sở đắc; còn sở đắc là còn nguyên tứ tướng Ngã-Nhơn-Chúng sanh-Thọ giả. Ngay cả hy vọng cao nhất “Thành Phật” cũng còn bóng dáng cái ngã, làm chướng ngại rất nhiều trên đường đạo. Trong kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng: “Nếu có pháp Như Lai được vô thượng chánh đẳng chánh giác thì Đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta”. Đây là tinh thần vong ngã, điều quan yếu của đạo Phật. Tu thế nào không có mục đích mà vẫn đến chỗ cuối cùng? - Điều này có nghĩa, hành giả không tác ý khi dụng công, không thấy thật có mình là người tu, thật có pháp để tu, thật có quả để chứng đắc. Có thể nói, đạo Phật là đạo duy nhất xương minh thuyết vô ngã, và người tu đạo Phật dùng đạo đức vô ngã làm thước đo định lực của chính mình.

    Tinh thần vong ngã trước tiên biểu hiện ở cách đối nhân xử thế hàng ngày. Đối xử với người khác một cách chân thành bao dung, giúp đỡ người nhưng không có vẻ ban ơn cầu báo; làm mọi việc lớn nhỏ đều tỉ mỉ chu đáo, hoàn thành tốt những công tác được giao mà không mong lợi dưỡng; trước cảnh thuận hay nghịch đều bình tĩnh giải quyết êm đẹp, không vướng mắc, không tranh đua … Đây là phong cách của người có chứng nghiệm Thiền. Đối với đời trọn vẹn thì trong đạo mới hoàn toàn. Không ai sống tệ bạc với người đời, xa lạ với đồng loại, quay lưng với nỗi khổ của thế gian mà là người tu đắc đạo được.

    Con người là sinh vật mang tính xã hội rất cao, có sự liên đới trách nhiệm, có đời sống tập quần. Như một bộ phận trong cơ thể, tuy có chức năng riêng nhưng vẫn liên hệ chặt chẽ và hỗ tương với những bộ phận khác; mỗi người là một phần tử trong xã hội, chịu ảnh hưởng của mọi người trong tập thể và ngược lại, cũng ảnh hưởng đến toàn bộ loài người. Đối với môi trường thiên nhiên cũng thế, không có một hành vi nào tàn hại môi trường mà không chi phối đến sức khoẻ con người. Vô số thiên tai bệnh họa xảy ra trong thời gian gần đây đều là hậu quả của những nạn phá rừng, những tác động trực tiếp và gián tiếp của con người làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Khi quán chiếu về sự tương tức tương nhập của các pháp trong vũ trụ, chúng ta thấy rõ tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình đều ràng buộc lẫn nhau, đều liên quan mật thiết với nhau và hơn nữa, ĐỀU LÀ NHAU. Thiên nhiên này chính là ta, vũ trụ vạn hữu là thân ta chứ không ai khác, và tàn phá thiên nhiên cũng chính là tàn phá ngay bản thân mình.

    Khi công phu tích cực, ý thức chấp ngã tạm dừng, tâm như mặt hồ lặng sóng mênh mông, ta cảm nhận một niềm an lạc vô biên vô tận. Tâm thanh tịnh phát sinh sự minh triết; sự minh triết lại là điều kiện để tình thương chân thật nẩy mầm.Hư không không hình tướng nên rỗng rang thênh thang;tâm người tu lúc nào cũng thênh thang như thế, dung nhiếp tất cả muôn loài. Ta muốn trải lòng ra hòa điệu với mọi chúng sanh, tình thương của ta không còn nhuốm màu vị kỷ chiếm hữu mà trở nên bình đẳng không hạn cuộc, như ánh nắng mặt trời chan hòa khắp thái dương hệ

    Chúng ta học đạo là muốn tìm sự bình an vĩnh cửu, một hạnh phúc chân thật, một trạng thái siêu việt của tâm linh. Mục đích ấy không dễ dàng đạt được, phải đánh đổi bằng tất cả tâm trí sức lực, thậm chí toàn bộ cuộc đời mình. Nhưng nếu khi nào ta còn quan niệm “đi tìm”, thì bình an hạnh phúc có được cũng chỉ là tạm bợ phù du. Chỉ khi nào không còn dấu vết của ngã chấp dù thô hay tế, hạnh phúc chân thật ấy, bình an vĩnh cửu ấy, Niết-bàn Bảo Sở ấy mới hiện bày. Mặt khác, không phải đợi đến đích cuối cùng ta mới có an lạc hạnh phúc, mà trong công phu thiền tập, khi tâm vắng bặt mọi vọng tưởng đảo điên, ta cũng được đôi lần cảm nhận. Vài giọt nước cam lồ là phần thưởng cao quý khuyến khích ta hăng say dấn bước trên đường đạo, vượt qua mọi thử thách cam go. Đến khi sạch bụi phiền não, ngã chấp pháp chấp đều không, gương tâm sẽ phô bày toàn bộ tính trong sáng và chiếu soi vốn có, như hai câu kệ của Thiền sư Vĩnh Gia:

    Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện

    Tâm pháp song vong tánh tức chân

    Nghĩa:

    Khi nào bụi hết gương trong lại

    Tâm pháp đều quên tánh tức chân.

    II. NỘI DUNG THIỀN TẬP.

    1. Lộ trình tâm linh:

    Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập thể.

    Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Đây lại là cuộc trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đô từ thấp đến cao([2]) .

    Chánh niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.

    Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.

    2. Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:

    Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Đây là một điều lầm lẫn lớn lao. Đức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ.

    Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.

    Tọa thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường vắng hay ngoài bãi biễn …, vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố định. Đơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Đến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Đi trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình. Đi thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.

    Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt …ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt…” thì những động tác ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trở thành vô tri, dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.

    Mặt khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất … cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt; và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.

    Các huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần Tam hòa([3]), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý kiến trái ngược… Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến việc làm.

    Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.

    Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Đó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.

    Cổ đức nói:

    Phiền não khởi giai do đa sự

    Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.

    Con người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ thực tại. Đạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.

    Thiền sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:

    Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

    Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.

    Nhậm vận thịnh suy vô bố uý

    Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

    Nghĩa:

    Thân như bóng chớp có rồi không

    Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.

    Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi

    Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.

    Khi biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Đời sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.

    Một số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.

    3. Một vài ngộ nhận trong công phu:

    Có người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách dụng công. Đây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Đây không những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.

    Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”. Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.

    Một số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Đây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ xứ ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.

    Đức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Đấng Cứu thế bên ngoài hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Đây là điều chúng ta cần thận trọng ghi nhớ.
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  7. #7
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    Chương 3: CHỨNG NGHIỆM THIỀN
    Tất cả thiền sinh, ai cũng phải ít nhiều bơi lội trong công phu. Dù có lúc ta bị tán tâm, quay cuồng theo các cảnh, nhưng nhờ kịp thời tỉnh thức nên lấy lại sự tự chủ tự do. Cũng có những khi thân thể khoẻ mạnh, khí lực sung mãn, điều kiện xung quanh thuận lợi, sự tọa thiền quyết liệt giúp ta đi sâu vào công phu, ta cảm thấy tươi mát, bình an và tự tin vô cùng. Như vậy, có thiền tập là có sự cảm nhận trên chính bản thân mình một trạng thái vô nhiễm của tâm, khi tâm ta an nhiên bất động trong phút giây hiện tại.

    Có thể nói, nếu xa rời Thiền, ta không thể hiểu bản chất của đạo Phật, vì Thiền là tinh túy, là cốt tủy của đạo Phật. Nhưng nếu không có chứng nghiệm thì cũng không có Thiền. Chính nhờ chứng nghiệm khi hành thiền, ta mới có sự bình an vững chãi trước mọi cảnh huống, mới có thể vượt qua những chướng ngại đến từ bên ngoài và trong thân tâm, mới có cơ hội phát minh việc lớn.

    Trong chương nầy, chúng ta sẽ triển khai những khía cạnh và mức độ chứng nghiệm Thiền, để có cơ sở soi rọi lại bản thân mình, từ đó có niềm tin vững chắc trên đường tu. Dĩ nhiên, kết quả công phu và sự cảm nhận của mỗi người là những kinh nghiệm tự nội, không ai giống ai; hơn nữa, sự giác ngộ không phải đến một cách thứ lớp, tiệm tiến, mà là một trạng thái đột biến, bất ngờ. Tuy vậy, trong lộ trình công phu, bước sau phải khác bước trước. Và vì tiến trình tu tập có rất nhiều gian lao thử thách, và cả những hầm hố cạm bẫy, nếu không dựa vào kinh nghiệm của nguời đi trước như những bảng chỉ dẫn bên đường, chúng ta có thể phạm những lỗi lầm đáng tiếc.
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

  8. #8
    Nhị Đẳng Avatar của Đặng Minh Tiến
    Gia nhập
    Mar 2011
    Nơi cư ngụ
    Bình thường tâm
    Bài gởi
    2,818

    Mặc định

    I. CHỨNG NGHIỆM THIỀN LÀ KẾT QUẢ CỦA TRỰC GIÁC
    Pascal, một nhà triết học lừng lẫy người Pháp đã nói: “Con người chỉ là một cây sậy, yếu ớt nhất trong thiên nhiên, nhưng là cây sậy biết tư duy” (L’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant). Thật vậy, khả năng của con người thích nghi với môi trường với hoàn cảnh kém xa so với loài vật, nhưng lại đứng trên ngôi vị chúa tể muôn loài là nhờ đâu? – Chỉ nhờ bộ óc biết lý luận, phân tích, tư duy. Trí óc là phương tiện tối cần trong thế giới hữu vi để tồn tại và phát triển, để ổn định trật tự xã hội, để thăng hoa về đạo đức. Đối với người tu, bước đầu cũng phải vận dụng trí óc để nghe và hiểu đúng chánh pháp. Trí hữu sư là trí tuệ nhờ thầy dạy và trò vận dụng tư duy mà có, là bước căn bản khi mới vào đạo để khỏi sa vào tà kiến, mê tín.

    Mặt khác, người tu Phật như người chèo thuyền ngược dòng. Chỉ nói việc tọa thiền, những hành giả sơ cơ chưa quen với tư thế tĩnh tọa, nếu không vận dụng ý chí để làm chủ thân tâm, làm sao có thể vượt qua những cảm giác đau tê của thân và những vọng niệm lẫy lừng của tâm trong suốt 1-2 giờ bất động? Và những ma chướng cám dỗ của ngũ dục, nếu không kiên định chiến đấu liên tục với chúng, làm sao có thể chiến thắng?

    Như thế, ý thức và ý chí đều là những điều kiện quan yếu của người tu lúc nhập môn. Nhưng đó có phải là điều kiện duy nhất để được giác ngộ giải thoát không?

    Ta đã biết, Thiền không lệ thuộc vào một tư thế, một hình thức lễ nghi nào. Thiền là trạng thái của tâm thanh tịnh mà luôn tỉnh sáng, là sự thể nhập toàn triệt vào thực tại sinh động. Đối với người mới vào đạo, tọa thiền là tư thế tối ưu giúp tâm dễ an định, nhờ ý chí hỗ trợ để kéo dài thời gian tĩnh tọa. Nhưng khi nỗ lực bằng sự tác ý, vô tình ta lại nuôi dưỡng ngã tướng vì thấy có cái ta trong dụng công; cái ta ấy cũng trải dài, lớn dần theo thời gian công phu. Đây là điều rất tế nhị mà nếu không khéo chú ý, ta khó thể nhận ra.

    Ngài Đạo Nhất lúc còn là thiền sinh ở núi Hoành Nhạc, hằng ngày tọa thiền rất tinh tấn. Thiền sư Nam Nhạc biết là bậc pháp khí nên một hôm đến gần hỏi :

    - Đại đức ngồi thiền để làm gì ?

    Ngài Đạo Nhất thưa:

    - Ngồi thiền để làm Phật.

    Câu trả lời rất hay, biểu lộ ý chí xuất trần. Theo gương Đức Phật tọa thiền liên tục 49 ngày đêm dưới cội Tất-bát-la và trở thành bậc giác ngộ, chúng ta đều mong có ngày, nhờ nỗ lực tọa thiền, chúng ta cũng được thành tựu đạo quả. Tuy nhiên, chúng ta chỉ biết thời điểm cuối cùng lúc sao Mai vừa mọc, đánh dấu sự thành công của Đức Bổn sư ; còn quá trình tu tập trước đó, tâm thức ngài diễn biến thế nào, thì ai hiểu thấu? Thiền sư Nam Nhạc muốn cảnh tỉnh nên đem gạch đến mài trước cửa am Ngài Đạo Nhất. Và đây là đoạn đối đáp rất lý thú và nghĩa lý rất sâu xa:

    Đạo Nhất thấy lạ hỏi:

    - Thầy mài gạch để làm gì?

    Sư đáp:

    - Mài để làm gương.

    - Mài gạch đâu có thể thành gương được?

    - Ngồi thiền đâu có thể thành Phật được?

    - Vậy làm thế nào mới phải?

    - Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?

    Chấp vào việc tọa thiền cho là cứu cánh, cũng ví như người muốn mài gạch thành gương hay nấu cát thành cơm. Trâu và xe dụ cho tâm và thân, chúng ta tu là trị ngay con trâu tâm, trị ở mọi nơi mọi lúc chứ không chỉ ở lúc tọa thiền. Lời dạy sau đây của Thiền sư càng làm rõ hơn ý ấy.

    - Người học ngồi thiền hay học ngồi Phật ? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ xả. Ngươi nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt ý kia ([1]).

    Nói như thế, không phải chúng ta bài bác việc tọa thiền. Đạo Phật là Trung đạo, không chấp bên nầy cũng không thiên bên kia. Chúng ta cần khéo hiểu lời dạy của các Ngài để có cái nhìn toàn diện về mọi vấn đề, ngoài đời cũng như trong đạo.

    Ở mức độ cao, Thiền là trí tuệ Bát–nhã, là hành vi của trực giác. Trực giác Bát-Nhã phóng xuất khi vắng bặt những suy luận tư duy. Trí hữu sư do vay mượn kiến thức bên ngoài kết hợp với ý thức bên trong, trở nên chướng ngại nếu hành giả chấp chặt vào đó. Đức Phật gọi là Sở tri chướng. Thiền không đồng hoá với mặc tọa, cũng không phụ thuộc vào yếu tố tri thức là những kỷ niệm trải dài theo tiến trình nhân quả. Đưa tay vào lửa liền biết nóng, tự nhiên rút tay lại; nghe gọi liền thưa, không cần suy nghĩ … Hàng ngày, có bao nhiêu điều ta không cần suy luận mà vẫn thấy nghe hay biết. Khả năng ấy do đâu mà có? Mọi động dụng thi vi đều không rời cái BIẾT. Biết là biết tức thì, suy nghĩ liền trái. Cái biết hiện hữu ở mọi chúng sanh, không phân biệt giống loài. Biết ấy chính là TÂM. Nhớ câu chuyện gió và phướn trong Kinh Pháp Bảo Đàn: Gió và phướn động là việc của duyên, còn cái biết có sự lay động là Tâm. Do tâm động nên tranh cãi, tâm không động thì có gì dính dáng?

    Các pháp biểu hiện bằng muôn màu muôn vẻ, biến đổi không dừng. Đó là thực tại sống động. Thiền giả chứng nghiệm vào thực tại sống động ấy, nhận ra sát-na bất động vĩnh hằng. Sự minh triết nhờ công phu thiền tập là trí tuệ phát sinh qua chứng nghiệm tự thân, là kết quả của trực giác. Nhà Phật gọi là Trí vô sư, trí tuệ không nhờ Thầy mà có, là trí tuệ chân chính, là cái Biết đích thực đến tận cùng bản thể của muôn pháp.
    Cúi đầu quy y pháp tô tất đế.Sát đát kính lại đức Thất Câu chi. NAM MÔ TÁT ĐA NẪM, TAM NIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU CHI NẪM, ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ, CHỦ LỆ, CHUẨN ĐỀ, TA BÀ HA.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Một Số Nghi Thức Chết Đơn Giản Của Đạo Phật
    By phatphapvoluongton in forum Đạo Phật
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 11-06-2012, 02:52 PM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  3. KINH AN-NA-BAN-NA NIỆM
    By bachliencu in forum PHẬT GIÁO nguyên thủy
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 09-04-2011, 11:24 AM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 05-04-2011, 09:52 PM
  5. Nhân Quả !
    By vietnamese in forum Đạo Phật
    Trả lời: 10
    Bài mới gởi: 25-01-2011, 01:33 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •