kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Ðề tài: xuống núi

  1. #1

    Mặc định xuống núi

    trích trong tập Tu Bụi




    - Ngày nọ, hai anh em đồng môn xuống núi. Trí Quang và Trí Minh đã sống quanh quẩn bên cạnh Thầy suốt mười lăm năm dài tu học. Hai anh em dắt tay nhau bước dần xuống đồi. Cứ mỗi bước đi tới lại quay lui nhìn Thầy.


    Vị ân sư nuôi dạy hai trẻ mồ côi trong ngôi chùa cổ trên núi xanh dặn dò: “Cuộc đời thật dưới kia không phải là cảnh trời mà cũng chẳng phải là địa ngục. Hai con đã học chín những lời dạy tinh yếu nhất của ba tạng kinh điển. Nay phải xuống núi giúp đời là việc phải làm. Nếu chỉ lo tu trên núi để cầu mong giải thoát cho riêng mình như Thầy là điều rất khó đạt vì nợ nần chúng sanh là món nợ trùng trùng ân tình, ơn nghĩa dễ vay mà khó trả. Chưa trả sạch nợ thì nghiệp chưa giải hết, làm sao buông tay, quay mặt với đời để giải thoát một mình. Vay nhiều thì phải trả nhiều; vay ít thì trả ít; không vay thì khỏi trả. Trong các món nợ thì Nợ Mình là lớn nhất. Cái tôi càng nhỏ, nợ nần càng ít. Tâm không, vô ngã là hết nợ”.



    Đời vô thường nên cuộc đoàn viên nào rồi cũng đến lúc chia tay. Với nụ cười khoan hòa, tĩnh lặng, nhưng không dấu được vẻ lưu luyến lúc chia xa, Thầy dừng lại ở cuối con đường chân núi vẫy tay dặn dò và chúc lành hai đứa bé mồ côi ngày xưa bây giờ đã thành hai thanh niên tuấn tú. Nước mắt lưng tròng, hai thanh niên nhìn lui Thầy lần chót khi con đường về đồng bằng rẽ khuất sau biển cây xanh.



    Về với phố chợ lạ lùng, Trí Quang và Trí Minh bịn rịn bên nhau gần mấy tuần trăng, nhưng rồi cũng phải xa nhau, tự đi tìm lẽ sống. Trí Quang về sống ngay giữa khu chợ ồn ào, tấp nập bên cạnh bờ sông. Bắt chước theo hạnh đầu đà “thỏng tay vào chợ”, Trí Quang tin rằng, nuôi được tâm không vắng lặng giữa chốn bụi đời phiền trược mới thật là tịnh tâm và tịch diệt được mọi ham muốn ở đời. Tìm tịnh ngay trong động; và tìm động ngay trong tịnh mới thật là gần gũi với chân tính. Nghĩ thế và làm theo, Trí Quang suốt ngày lê la sống giữa chợ, mỉm cười bất chấp những điều tục lụy khen chê. Đêm về, anh ta ngồi ngủ trong cái lu sành kê dưới gốc cây mưng bên bờ sông, đêm khuya chợ vắng, Trí Quang ngẩng đầu ra khỏi miệng lu, tĩnh tọa ngồi thiền.



    Quanh năm, áo quần tóc tai không thay đổi chăm sóc, bất cần đến nhục thân, bất cần đến xã hội xung quanh, miễn sao giữ cho được bản tâm mình thành thánh.



    Trí Minh thì hoàn toàn ngược lại. Anh ta nghĩ rằng bồ tát hạnh không xa thế gian một mảy may nên lặng lẽ vào đời để sống như mọi người. Trí Minh làm ăn trở nên giàu lớn và lấy vợ sinh con, có đủ thê thiếp, kẻ ăn, người ở đầy nhà.

    Mười năm trôi qua, Trí Minh chạnh nhớ người anh em và cho người đi tìm Trí Quang. Người nhà Trí Minh tìm được Trí Quang ngoài chợ và ngỏ lời mời đến thăm nhau. Trí Quang ra điều kiện là Trí Minh phải trải thảm đỏ từ nhà đến chợ để rước mình mới chịu đến thăm. Và khi đến dinh thự, Trí Minh và toàn thể gia nhân phải sắp hàng nghênh đón. Người nhà về bẩm báo, Trí Minh chịu mọi điều kiện của Trí Quang đưa ra.



    Đến ngày hẹn, Trí Quang xuống sông tắm rửa, rồi xách gậy bước qua thảm đỏ đến thăm Trí Minh. Vừa đến dinh cơ đồ sộ của Trí Minh, Trí Quang ngẩn người ra một lát. Anh ta bị choáng ngợp với ý nghĩ rằng, Trí Minh đã quên lời Thầy dặn, chỉ lo tham luyến giữa đời. Rồi lập tức, chẳng nói, chẳng rằng, Trí Quang xách gậy đập vỡ từng cái một những đồ đạt quý giá, sang trọng bày biện khắp nơi trong dinh thự. Đập vỡ đồ đạc chán tay, Trí Quang lại xách gậy rượt đánh người nhà của Trí Minh chạy tán loạn.



    Khi chỉ còn lại Trí Minh vẫn đứng tươi cười chờ đón người anh em trước cửa giữa cảnh đổ nát trong dinh thự sang trọng. Trí Quang vung gậy lên trước mặt Trí Minh nhưng bỗng chùn tay lại. Đôi mắt hung hãn của Trí Quang bắt gặp ánh mắt trong ngần, mát lạnh của Trí Minh đang thân ái nhìn mình. Cây gậy trong tay Trí Quang rơi xuống. Không nói một lời, hai anh em đồng môn cùng dang tay, chạy ào tới ôm nhau…


    Trí Quang nói nhè nhẹ trong tiếng thở dài: “Đứng lại giữa đời mà lạc đường! Hèn gì Thầy mình phải vào sâu trong núi…”. Trí Minh an ủi: “Mọi vật đều biến đổi trong từng khắc. Có gì đứng lại được đâu. Cho nên tự mình đứng lại cũng có nghĩa là đang bị xô đi. Đã biết phút trước không còn, phút sau chưa đến thì có gì để bám víu và bám víu để làm gì đã chứ!”.

    đồ gia bảo quý nhất là cái tâm trong sáng không dính mắc chứ chẳng phải là giá trị vật chất. Trốn chạy thực tế, chối bỏ vật chất cũng có thể là một cách tham lam đi tìm cái to hơn, cái quý hơn còn ở dạng tiềm năng, chưa tượng hình, tượng ảnh chứ chẳng phải là đi tìm chân Không, chân Tánh của Đạo.


    - Làm gì có cái Ngã thực sự. Cái “tôi” hay cái “ta” chỉ là tên gọi tạm thời cho những đơn vị hợp thể. Khi hợp thể tan thì cái tôi hay ta tạm bợ đó cũng tan theo. Tất cả chỉ là sự chuyển hóa thói quen. Khi nói “tôi muốn hay không muốn…” là dựa vào kinh nghiệm và thói quen để bày tỏ.



    - Hay thật! Nếu “ta” là hư vọng, là vô ngã thì tu cho ai và giải thoát cái gì nhỉ?


    - Vô ngã là một ý niệm tuyệt đối, không thể dùng chữ, dùng lời, dùng âm thanh hay hình tượng mà gọi tên hay mô tả được. Khi còn một cái tôi thân xác nói được “vô ngã” bằng lời thì khái niệm vô ngã chưa thực sự là vô ngã. Cũng ví như khi người ta còn nói được “tôi ngủ” thì rõ ràng là chưa ngủ hay nói được “tôi đang ngủ” thì có nghĩa là đã thức dậy.


    Người ngủ là người đang hòa tan trong giấc ngủ, làm sao còn nói lên được khái niệm thật sự về cái ngủ như thế nào. Những người còn tự xưng tụng hay muốn được xưng tụng mình là đức này, đấng nọ, ngài kia; còn cố bon chen cho được người trên ngưỡng mộ, người dưới cung bái để mưu cầu vô ngã là đang bước vào bóng tối để tìm ánh sáng, bám vào hòn đá chìm dưới đáy sông để làm ngộ. Vô tâm hay cố tình trói buộc cái ngã của mình, cái ngã của chúng sanh và vạn pháp vào trong chùa to, tháp lớn, tượng đài để thực hành “vô ngã” thì có khác gì nói rằng: “Ăn nhiều vào đi để cho đói, ngủ nhiều vào đi để cho thức, uống thật say đi để cho tĩnh, vơ vét cho thật nhiều đi để mà tay không…”.


    - Cả Trí Quang lẫn Trí Minh đều là hai trường hợp cực đoan, chấp trước; cả hai đã trú ẩn vào cơn mộng tưởng làm cứu cánh sau dáng vẻ “cầu vô ngã”. Khác nhau chăng là hình thức bên ngoài. Trí Quang và Trí Minh đều bày tỏ tâm tưởng kiêu mạn theo cách riêng của mình. Trí Quang quyết xa lánh cái “có” và ngỡ rằng sẽ tìm được cái “không” bằng thái độ chối bỏ và xem rẻ đời sống và giá trị vật chất quanh mình.

    Trí Minh thì tìm cách xa lánh cái “có” bằng thái độ bất cần. Đó là sự chọn lựa nhập thế, tạo dựng và thỏa hiệp với cuộc đời thường. Khi đã nắm được của cải vật chất trong tầm tay mình rồi thì lại ra vẻ dửng dưng và từ bỏ nó; rồi từ có biến thành không. Tiếc thay, đấy chỉ là ảo tưởng nhất thời khi tâm tưởng vẫn còn mắc kẹt trong khái niệm nhị nguyên đối đãi thông thường. Đó là khái niệm “có” và “không”vật lý chứ không phải có và không thể tánh.



    - Thầy phải đi tìm một cái ngã an tịnh và ít nhiễm độc trên núi sâu; trong khi hai gã học trò xuống núi thực hành “vô ngã vô nhiễm” giữa chốn bụi đời. Sống với bụi đời bao bọc chung quanh mà không lo “tu bụi”. Tu bụi để gột rửa bớt lớp lớp bụi bặm phong trần chực chờ bám vào trên thân xác và trong tâm tưởng liên tục trong mỗi nháy mắt. Những lớp mỏng bụi mờ không lau sạch, sự dồn tụ càng lâu càng thành đống thành đồi. Làm sao có thể chuyển hóa cái nghiệp muôn năm dính mắc trên thân phận làm người của mình được khi bụi đời chưa lau sạch trong tâm.


    - Vâng, tu là chuyển. Chuyển là thay đổi. Trong thay đổi thì cái gì cần nhất và gần nhất thì làm trước, thế thôi. Chỉ vì mãi lo “tu đạo” khi thân chưa sạch, tâm chưa an nên cả hai anh em nhà họ Trí đều bị dính mắc vào mớ bòng bong của tâm thức phá ngã và dối ngã.



    Trí Quang khinh bỉ quay lưng hay nóng nảy đập phá thế giới vật chất mà anh ta coi như là “có”, là kẻ thù của vô ngã. Trí Quang nhắc ta nhớ lại hình ảnh một kiếm khách thời xa xưa vác trường kiếm chém gió thu để cho trời hết lạnh. Trí Minh thì tự cho mình đã vượt ra khỏi vòng câu chấp; ôm trọn đời sống vật chất trong tay nhưng quay lại đánh đổ và coi thường nó như một sự phủ nhận hiện hữu với tâm trạng thỏa mãn của người “giác ngộ”. Sự giác ngộ dễ dãi và ngây thơ của người chỉ thấy tượng Phật trong chùa mà không thấy tánh Phật quanh ta. Cái ngã của hai người anh em ấy to gấp đôi so với người thường. Mỗi người vốn có một cái “ngã sở” lù lù ra đó của riêng mình. Giờ đây, lại có thêm cái “ngã chấp” hiện tiền nung đốt họ.


    - Vì tất cả chỉ là phương tiện tạm thời để đi đến cái đích. Ấy là hạnh phúc. Sống là phương tiện. Thân xác này là phương tiện. Tu bụi hay tu đạo cũng chỉ là phương tiện. Qua những thay đổi, thăng trầm bên ngoài mà có người cho là “dâu bể” thì hạnh phúc nhất là tìm được ra nhau. Trí Quang và Trí Minh tìm ra nhau, ôm lấy nhau sau những đổ vỡ tang thương. Ấy là hạnh phúc.


  2. #2

    Mặc định trí động, tâm loạn, rối đạo

    Lạc lối




    Những ngày đầu ngồi im lặng, định tâm trên đỉnh núi nầy, Trí Hải hầu như mượn cảnh cô liêu tịch mịch để suy nghĩ riêng mình.

    Muôn ý nghĩ dấy lên trong từng khoảnh khắc.

    Những ý nghĩ cứ tiếp nối, sinh sôi nẩy nở, rồi biến tướng thành đàn, thành lũ không ngừng xâm nhập đầu óc Trí Hải. Cái lò bát quái nằm trong đầu cứ sôi lên sùng sục làm cho tâm trí như muốn nổ tung từ trong thế ngồi mà thoạt nhìn từ bên ngoài ngỡ như an tịnh. Nhưng bên trong, hình bóng Ba Gấm, nỗi nhớ Ba Gấm, sự cuốn hút và thèm khát Ba Gấm… cứ từng hồi không ngớt nổi lên xoắn lấy mọi suy tư và cảm xúc của Trí Hải.


    Trí Hải gần như ngất ngư, hụt thở giữa trùng trùng ý niệm và hình tướng không ngớt dấy lên trong tâm thức. Cứ đuổi một lại đến đôi; đuổi đôi lại tới ba. Đuổi ba lại tới đến năm điều, mươi chuyện liên tục. Trong cái vắng lặng sao lại ồn ào đến thế.


    Cố định thần đôi mắt thì cố kìm hãm tai nghe thì tiếng núi rừng vang động. Cố điều hòa hơi thở thì hương núi rừng ngan ngát đã phả vào mặt, vào mũi; lưỡi mặn đắng, nước bọt trào ra. Cố nghiến răng, lắc đầu, mím miệng thì cái ngứa ngáy rần rật đến từ mọi phía khắp châu thân.


    Sự chiến đấu nội tâm của một chiến trường bên ngoài lặng lẽ, nhưng bên trong cát đá, thành quách xoay chuyển, đổ vỡ mịt mờ làm cho mồ hôi chảy thành dòng trên mình Trí Hải giữa cảnh núi rừng lạnh cóng. Câu thơ sương khói của sư ông Chân Nhã Đại Hùng thấp thoáng đâu đó trong trí nhớ mịt mờ của Trí Hải:

    Đóng cửa lại

    Mới thấy được vầng trăng

    Đóng đôi mắt

    Mới thấy núi Linh Sơn

    Đóng cửa tai

    Mới nghe hồn Nguyệt Quế

    Đóng mũi dày

    Mới ngửi được trầm hương

    Co lưỡi lại

    Mới nếm vị Ta Bà

    Ném châu thân

    Mới bay vào vũ trụ

    Ném tâm lý

    Mới tìm vào an trú

    Trí Hải hoang mang trong ý nghĩ: “Phải chối bỏ chính mình, phải phủ định tất cả mới tìm ra được sự an lạc hay sao?”. Hay phải kêu lên bơ vơ và lạnh cóng như thiền sư thi sĩ xứ tuyết, Trường Lạc An:

    “Miền an trú ở nơi đâu?

    Là một cõi trời vô tưởng định;

    Là phi xứ

    Là phi tưởng xứ

    Là phi phi tưởng xứ,

    Là đây,

    Là kia,

    Là đó,

    Là một giấc mơ đời vĩnh cửu ở trong ta?”

    - Ôi, trời đất cao dày, ta đối diện với ai đây?

    Trí Hải nghe tiếng mình kêu lên như tiếng ai và lịm đi trong cơn chấn động bất ngờ.


    Niềm thanh thoát vô biên như một phép lạ không có phép lạ. Giữa trần gian nầy không có phép lạ. Phép lạ là kết quả của của một chuỗi dài công lao truy tìm và thực hành định hướng.

    Trí Hải tự đặt ra cho mình một định hướng suy tưởng và thực hành bước đầu. Thử phủ định toàn triệt như đại lão thiền sư Chân Ngã Đại Hùng giữa rừng thông tuyết lạnh xứ Tây Tạng huyền bí. Một bài tự dặn mình nho nhỏ mà Trí Hải gọi đùa trong trí là “Tâm cửa vào nhà trống” dần dần trở thành một sự nhắc nhở cận kề mỗi khi tạp ý nổi lên:

    Thở vào không có Ta

    Thở ra không có Người

    Mắt nhìn không thấy sắc

    Tai lắng không nghe thanh

    Mũi thở không có hương

    Lưỡi thường không cảm vị

    Toàn châu thân an nghỉ

    Tâm trí chỉ là không.

    Ngày lại ngày, Trí Hải tự ép buộc mình phải xả bỏ tất cả để đi tìm an lạc. An lạc chỉ có trong phủ định. Sự xả bỏ đầu tiên là chối bỏ chính mình.

    Phải nghĩ rằng: “Thân xác con người là một bị thịt thối tha”, chẳng nên bảo trọng.

    Phải thấy được hang ổ vi trùng trong từng lỗ chân lông. Thấy máu mủ dưới làn da đẹp. Thấy bộ xương trắng hếu sau thân xác mỹ miều. Thấy bệnh hoạn chực chờ dưới dáng vẻ trẻ trung, mạnh khỏe.

    Phải cảnh giác rằng: “Lòng ham muốn, nỗi đam mê, tính phản kháng, ý nắm giữ… là thuốc độc cần phải loại trừ ra khỏi nơi ta”.

    Dòng tâm thức của Trí Hải càng phủ định cuồng nhiệt chừng nào, cái nhìn về chính mình và xung quanh càng khắt khe chừng ấy.

    Đầu tiên là phải diệt dục nơi ta. Nương theo phương pháp của Mật tông sư Đạt Lai Đề Văn, Trí Hải sử dụng “kiếm khí” bằng hơi thở để diệt dục, chặt đứt những ham muốn đời thường. Bất cứ lúc nào, hễ ra khỏi giấc ngủ mê man, Trí Hải lại chăm đắm vào con đường diệt dục.

    Nỗ lực định tâm và cố gắng xua đuổi tạp niệm từ trong tư tưởng dừng lại chỉ đôi ba phút lúc đầu. Mỗi ngày sự định tâm đó kéo dài thêm và dài thêm, có khi suốt mấy ngày đêm không động tĩnh. Rồi Trí Hải cảm thấy thân xác mình không còn điểm tựa giữa trần gian nầy nữa.


    Tất cả theo một dòng lũ mới tinh khôi vi vút bay đi. Đi, đi mãi đến những vùng trời mới lạ. Mắt ngập tràn chói ánh hào quang. Trí Hải ở trong trạng thái xuất hồn. Hồn cũng chỉ là “Ta” không có xác, bềnh bồng bay, bay nhẹ như bông. Trí Hải gặp lại những nhân vật mà xưa nay chỉ biết trong cổ thư, kinh sách. Vua Trời Phạm Thiên, Phật, Chúa, Thánh, Thần, Tiên, Hiền, Bồ Tát… đều mang tính người để nghinh tiếp. Có khi uy nghi lộng lẫy, khi gần gũi thân tình, nhưng tất cả đều làm cho Trí Hải mê say cùng cực. Thế giới thánh linh hay ma ảnh, ảo ảnh, tâm ảnh ấy đẹp vô ngần. Tất cả đều thanh thoát và diệu kỳ có sức cuốn hút đến độ làm cho Trí Hải hạnh phúc ngập tràn; hoan lạc say mê vô cùng tận.



    Mỗi lần tỉnh lại sau cơn xuất hồn, Trí Hải có cảm giác như mình vẫn còn đứng rất xa để nhìn một cách đầy khinh miệt cái thân xác xương thịt chướng ngại đang đến hồi tàn tạ ở cõi trần thế thô lậu và mông muội nầy. Thế nhưng cái hồn thanh tân ấy vẫn phải rùng mình chui vào cái xác. Sau cùng, Trí Hải có thể chối bỏ tất cả, nhưng lại không thể chối bỏ cái thân xác tội nghiệp, cái trần gian lấm lem bụi đời hiện hữu trong chính mình và quanh mình. Trong đó và nơi đó, hơi thở vẫn đang duy trì sự sống.

    Trí Hải cũng đã có lúc chới với kêu lên: “Hỡi cái trần gian ma trơi mà diệu kỳ; yêu thương mà tàn nhẫn nầy, làm sao mà bỏ mi cho đành đoạn, cho mất hết dấu tích trong ta, để cho ta nhẹ như thinh không mà bay về cõi trời vô tưởng ấy…”.


    Thêm một lần đổi đời, Trí Hải chối bỏ tất cả để chiêm nghiệm Đại Linh Quang. Biển ánh sáng kéo dài bất tận. Và bởi bất tận không có biên cương mà cũng chẳng có phương hướng cho nên ánh sáng là ánh sáng, không có đầu, đuôi; xuôi, ngược. Cũng chẳng có điểm khởi đầu và kết thúc.

    Trí Hải đi vào miền hoang tưởng của một trạng thái tâm lý, tri thức và cảm giác đang bị đổ vỡ tan hoang mà những luận sư tâm lý gọi là trí động, tâm loạn, rối đạo, âm dương không bình hành hay “tẩu hỏa nhập ma”!

    Thiện Giả đến gần một Trí Hải đang ngồi định thần bên suối Bản Lai, mắt nhắm nghiền, miệng nói ra những điều khó hiểu. Nghe tiếng động, Trí Hải mở mắt. Đôi mắt thông minh có vẻ như đờ đẫn mệt mỏi đang vân du về một cõi nào đó rất xa, say sưa nói những điều bâng quơ dưới lớp vỏ minh triết:

    - Từ cõi hỗn mang, tất cả trời đất quỷ thần đều là một. Ta vừa gặp vua trời Phạm Thiên. Ngài mời ta uống rượu bồ đào và cho biết thế giới trần gian nầy sắp đến ngày tận thế. . Ta là sứ giả của muôn loài…

    Thiện Giả ái ngại lặng nghe giọng trầm ấm của Trí Hải nói lảm nhảm vang lên giữa rừng núi như tiếng chảy lạc hồn của một dòng sông buồn ngủ. Giọng Trí Hải mới nghe qua, mang đầy vẻ tự tin của một nhà khải đạo. Nhưng thật sự đây chỉ là tiếng nói từ vô thức. Kiến thức, lý thuyết sách vở cộng với những mơ ước ngút ngàn không thể hiện được trong cuộc đời thường đang gặp gỡ nhau giữa dòng cuồng lưu của tâm thức bị ức chế vừa tạo ra một Trí Hải khác. Trí Hải bây giờ như con sông mới lạc vào biển rộng, mất hết cá tính và tan loãng vào một thực tế ảo, còn đó mà như không, vẫn trôi đi mà không có phương hướng bến bờ.


    Trước khi thiện Giả kịp lên tiếng, Trí Hải đã quay sang ngỏ lời giáo chủ:

    - Này thiện Giả. Ta nhận người làm môn đệ đầu tiên của ta. Đừng sợ hãi. Hai ta sẽ lên đường hành đạo cứu đời. Đạo của ta là đạo siêu nhân. Đường ta đi là đường chân lý. Tất cả các nẻo khác đều sai lầm. Hãy cầu nguyện. Hãy niệm. Niệm ta. Niệm to lên. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Ta. Niệm Nam mô Ta Bà Trí Hải Linh Quang Đại Vũ Trụ. Ta là bậc thượng thừa đại thánh. Là giáo chủ sắp truyền mật ấn cho ngươi! Theo ta. Theo ta. Hãy theo ta. Hỡi thiện Giả và muôn loài.



    Thiện Giả đặt bàn tay ấm áp của mình lên bàn tay lạnh ngắt của Trí Hải. Niềm cảm thông chân tình ùa đến.



    Bỏ cuộc, người ta chỉ tới được một trong hai con đường: hoặc là được mình, hoặc là mất mình. Được mình là tìm lại về mình, tìm thấy con người thật của mình để tỉnh ngộ và sửa đổi. Mất mình là mang ảo tưởng tự thánh hóa mình và tìm cách thánh hóa kẻ theo mình. Trí Hải đang mất mình vì đang ở trạng thái tự thánh hóa mình và tìm cách hóa thánh “môn đồ” Thiện Giả. Tâm lý hóa thánh lâu ngày sẽ dần dà trở thành một cơn bệnh kinh niên. Bệnh nầy là tin vào một điều không có thật nhưng cứ tin hoài thành ra thật - ngụy tín - nên thấy mình là thánh thật và đòi hỏi người đời phải cung bái mình như thánh.


    Thiện Giả đã chứng kiến nhiều người “tự hóa thánh” như vậy xuống núi. Thánh cứu đời hay đời chôn thánh cũng chẳng có tác động gì đến ai. Nhưng đã làm thui chột đời sống tâm linh của những người theo họ vì nhân sinh quan và vũ trụ quan vá víu và khập khiễng của “giáo chủ”.


    Trong những tôn giáo với lịch sử hàng nghìn năm, vẫn thường có những hiện tượng “tiểu đạo” nhất thời ồn ào, vọng động như thế. Tuy biết thế, nhưng lần nầy, thiện Giả không thể dửng dưng trước hiện tượng “hóa thánh” của một trí giả có chân tâm và chân tài như Trí Hải. Thiện Giả lên tiếng:

    - Bẩm Hoàng thân chí thánh, xin tạ ơn ngài đã nhận Thiện Giả nầy làm đại môn đệ. Tuy nhiên, kẻ cầu đạo nầy chỉ xin một điều kiện nhỏ, chẳng rõ ngài có soi xét cho không?

    Trí Hải đặt tay lên đầu Thiện Giả như ban phát hồng ân:

    - Được, được. Ta cho phép ngươi cứ nói.

    Thiện Giả chắp tay thưa:

    - Dạ, Thiện Giả tôi chỉ theo ngài nếu ngài vượt qua được bờ bên kia của dòng suối nhỏ nầy.

    Trí Hải cười. Tiếng cười không mang nét vui buồn thường lệ mà lanh lảnh như tiếng chim từ lưng trời đổ xuống.

    - Ôi chao! Chuyện nhỏ, người yên chí theo ta. Phép thần thông ta còn có được, vua Trời ta còn gặp được thì dòng suối nhỏ nầy có đáng vào đâu. Này Thiện Giả! Quảy giỏ mây lên vai và đi theo ta.

    Trí Hải nhớm đứng dậy nhưng người còn yếu quá phải ngồi xuống lại lấy hơi. Luồng sức mạnh ân sủng tự kỷ tràn tới đẩy Trí Hải đứng lên và bước xuống bờ suối. Trên bờ, con dã nhân đã đứng đó từ bao giờ. Mắt nó đỏ ngầu, hai tay cầm hai vòng lửa đang cháy rần rật, đầu đội mũ kim khôi giáo chủ, miệng không ngớt nói rít qua kẽ răng những âm thanh chói tai, vô nghĩa. Khi đến gần bờ suối, Trí Hải sấn tới một bước, dã nhân sấn tới hai bước. Trí Hải buông lời thuyết giáo, con dã nhân lặp lại qua tiếng hét, tiếng gào đinh tai nhức óc. Trí Hải đưa tay làm cử chỉ ban phát, dã nhân tung cả hai vòng lửa vào đầu ông. Với hai vòng lửa cháy quanh mình, Trí Hải vùng vẫy chống đỡ lửa nóng và bổ nhào xuống suối, nhưng dã nhân đã nổi cơn thịnh nộ hất tung lên bờ. Trí Hải quằn quại vật vã cho đến khi ngất lịm trên bờ suối.

    Không biết ngã xuống đã bao lâu, khi mở mắt tỉnh dậy, đêm đã quá nửa khuya.

    Trí Hải cảm thấy như chân tay và đầu óc buông lung của mình đang bị trói chặt vào một tảng đá hay gốc cây vững chắc. Ngồi bên cạnh một bậc chân tu là ngồi trong vòng thế giới linh cảm. Không cần lời mà vẫn hiểu được sự uyên náo của tư tưởng; không cần xoay chuyển mà vẫn cảm nhận được sự an lạc của thân tâm.

    Khi những tia sáng ban mai đầu tiên vừa lọt qua khe núi, Trí Hải mới nhận ra là suốt đêm qua ngoài Thiện Giả thấp thoáng dưới chân đồi, còn có một người, một vùng, một thế giới đứng yên, không quay cuồng xoay chuyển bao bọc quanh mình. Những ảo ảnh điên cuồng quay tít trong không gian, trong trí tưởng “giáo chủ” Trí Hải từ mấy ngày trước cho tới đầu hôm qua từ từ chậm lại, đứng yên, khi ẩn khi hiện, rồi mất dạng. Ngày lên và cái bóng thứ hai đó cũng không còn.

    Trí Hải cố vươn mình đứng dậy. Thiện Giả đang ngồi nhìn, nở nụ cười hiền bên cạnh. Nhìn xuống dòng suối, con dã nhân đã đứng sẵn ở đó tự bao giờ đang chằm chặp nhìn lên. Lần đầu Trí Hải mới có dịp nhìn thẳng lại nó. Bốn tia mắt gặp nhau, Trí Hải cảm thấy toàn thân rúng động như đang nhìn vào xác chết của chính mình. Thân thể mỏi mệt cơ hồ vỡ ra từng mảnh vụn. Đầu óc đặc quánh. Trí Hải cảm nhận được bàn tay ấm dịu của Thiện Giả đặt lên trán mình, trăn trở hỏi:

    - Tôi vẫn còn sống ư?! Không phải tôi đã bị đốt cháy thành than rồi sao?

    Vẫn nụ cười hiền chưa tắt, Thiện Giả trả lời:

    - Có lửa hỏa thiêu bên ngoài đâu mà cháy. Hai vòng lửa trên tay dã nhân chính là lửa trong tâm của Hoàng thân quý hữu. Đó là ngọn lửa của tham vọng và vô minh tự thánh hóa mình thành giáo chủ và cố hóa thánh người khác thành môn đồ của mình.

    - Tôi đã mơ thành giáo chủ sao?

    - Vâng, Hoàng thân không phải chỉ mơ mà đã hành xử như một ngài giáo chủ.

    Trí Hải mở mắt nhìn cây lá ngỡ ngàng như vừa tỉnh dậy sau một cơn mơ:

    - Mà giáo chủ là ai, là hiện thân của một mẫu người như thế nào và có nghĩa lý gì không mà tôi phải mơ thành người như thế?

    - Đấy là tiếng gọi mơ hồ nhưng vô cùng thúc bách của tham vọng và quyền lực thống lĩnh tâm linh giữa một thế giới toàn ma ảnh.

    - Tôi đã sống qua những giờ phút cập kỳ vọng tưởng đến như thế sao? Cái gì đã đưa tôi trở lại với tôi như bây giờ?

    - Định lực.

    - Định lực là gì?

    Thiện Giả trả lời như nói thuộc nằm lòng:

    - Là sức mạnh tâm linh siêu việt nhất mà con người có được.

    - Sức mạnh đó từ đâu mà con người có được?

    - Nguồn sức mạnh đó có sẵn khắp nơi trong trời đất

    - Nhưng làm sao để lấy được?

    - Chỉ cần một bình chứa. Bình càng lớn chức được càng nhiều

    Trí Hải cảm thấy vui vui như một cuộc chơi cút bắt:

    - Bình chứa đó kiếm từ đâu ra?

    - Khỏi cần mua hay kiếm, ai cũng có sẵn nơi mình.

    - Ở đâu?

    - Ở tánh rỗng lặng.

    - Làm sao có được tánh rỗng lặng?

    - Dọn cái kho đang chứa đầy những thứ hỗn tạp trong tâm, trong trí của mình. Vứt bỏ tất cả.

    Trí Hải đuổi nhanh hơn:

    - Vứt bỏ luôn cả mình sao?

    - Bỏ tuốt!

    - Mình là ai mà lại bỏ tuốt dễ dàng thế?

    Đến đây thì Thiện Giả đưa cả hai tay lên trời cười xòa, trả lời thành thật:

    - Chịu. Tôi chỉ mới học tới ngang đó.

    - Học với ai?

    - Với người có định lực siêu việt đã cứu một người bị tẩu hỏa nhập ma hồi đêm qua đó.

    Chợt hiểu, nhưng Trí Hải muốn xác định rõ hơn:

    - Ai là người cứu và người được cứu vậy?

    Thiện Giả cười to, nói đầy cởi mở:

    - Hoàng thân Trí Hải phải biết quá rõ người đó là ai mới tìm lên núi nầy chứ. Mình cũng có thể biết được căn cơ của mình mà.

    Quay lại với thực tế của mình, Trí Hải hỏi:

    - Vậy thì làm sao mà biết được căn cơ của tôi như thế nào?

    Thiện Giả tiếp lời:

    - Không ai biết được căn cờ của ta ngoài chính ta.

    - Nhưng bằng cách nào?

    - Tại bên bờ suối Bản Lai nầy thì rất dễ. Chỉ cần chế ngự cho được cái tâm vọng động của mình là sẽ bắt đầu thấy được mình?

    - Khi con dã nhân biến mất.

    - Phải. Chính thế!

    - Nếu lỡ như Trí Hải tôi không đến được suối Bản Lai và không gặp con dã nhân mà lâm vào tình trạng “hóa thánh” thì sao?

    - Thì nghiễm nhiên trở thành một ông hay một bà đạo nhỏ.

    - Thiện Giả vừa nói vừa cười đùa. Trí Hải thở dài không nói.

    Mùa Xuân và lộc non. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông về và đi trên cây cỏ như sinh, lão, bệnh, tử đối với con người. Muốn sống an lạc với thiên nhiên thì phải biết đưa thiên nhiên vào mình, chứ không thể làm ngược lại là đưa mình vào thiên nhiên. Những ngày đầu, Trí Hải phản ứng chống lại thiên nhiên như phải cắn răng hay co cụm thân mình hoặc đốt than suốt ngày để chống với cái lạnh của núi rừng. Nhưng càng chống với thiên nhiên thì thiên nhiên càng phản ứng lại một cách lạnh lùng không nhân nhượng. Trí Hải dần dà tập nghe thiên nhiên và sống với thiên nhiên như nghe và sống với tiếng “con gà” gáy sáng thuở nào.




    Trí Hải cảm thấy lòng mình trải dần ra với những đám mây phiêu du bay qua đỉnh núi. Đám mây có đó mà như không. Không chẳng phải vì mây biến đi hay mất dạng mà bởi tánh mây hoàn toàn rỗng lặng. Thế rỗng lặng không có hình, có tướng nên không cần mắt để nhìn nên mắt cũng như không. Cũng chẳng cần tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm vì tánh rỗng lặng làm gì có âm thanh mùi vị dấy lên mà cần đánh tiếng, nghe hơi. Sự rỗng lặng chẳng có gì để va chạm, ngắm nhìn hay so sánh nên chẳng có ý mà cũng không có thức. Ý thức không hề dấy lên thì làm gì có độ lớn, độ cao, độ sâu hay giới hạn của ý thức.


    Càng giữ được cái tâm có khuynh hướng về gần với tánh thường rỗng lặng, buông xả, Trí Hải càng yêu cuộc đời nầy lạ lùng. Yêu cuộc đời để sống với nó, yêu thương nó, trân trọng nó từng khắc từng giây chứ không phải cầm giữ nó như một kỷ vật hay một mơ ước; hoặc chối bỏ nó như trốn chạy nợ nần. Sự rỗng lặng mở hết mọi sự cột trói, ràng buộc.

    Cuộc đời nầy sẽ không có; cuộc đời này sẽ chết đối với người không thật sống với nó. Chẳng có một cuộc đời nào cả khi tâm vắng bóng giữa đời. . Mình muốn giúp đời mà chối bỏ cuộc đời. Mình không thực sống với cuộc đời mà cứ mãi mê đi tìm những gì nằm ngoài hiện thực cuộc đời.


    Thở vào không dựa Ta

    Thở ra không dựa Người

    Mắt nhìn không đắm sắc

    Tai lắng không say thanh

    Mũi thở không dính hương

    Lưỡi thường mắc vị

    Toàn châu thân xả hỷ

    Tâm trí lặng như không.


    Khi cả tâm hồn và thể xác đều thể hiện trọn vẹn “nội dung” bên trong lẫn bên ngoài thì tất cả đều phơi trải trên dòng hiện tại, giữa phút này đây. Khi không còn một nơi trú ẩn, không còn cái hang quá khứ để trốn vào đó mà tiếc nuối hay ân hận; không có một lâu đài tương lai để sa đà vào đó mà mơ mộng vẽ vời hay lo sợ thì tâm lý con người sẽ được tự do.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •