kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Ðề tài: Sanh Tử Và Luân Hồi

  1. #1

    Mặc định Sanh Tử Và Luân Hồi

    Sanh Tử Và Luân Hồi

    Trong Kinh Điển Đại Thừa Đức Phật dạy Sanh Tử và Luân Hồi không đồng nghĩa:

    Có Luân Hồi thì có Sanh Tử

    Có Sanh Tử Không Hẳn là Có Luân Hồi.


    Luân Hồi là sự ssanh tử xoay vần trong 3 cõi.

    Sanh Tử trong Kinh Điển Đại Thừa có 2 loại:

    Phần Đoạn Sanh Tử:

    Là nói về Phàm Phu trong 3 cõi Dục, Sắc, Vố Sắc Giới

    Biến Dịch Sanh Tử

    Là nói về các Bậc A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát.

    Tại sao nói A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát còn có Sanh Tử?

    Sanh Tử của các A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát là do Phá Vi Tế Phiền Não của Vô Thủy Vô Minh chứng Phần Pháp Thân để tiến tu đến Thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Phàm Phu sanh trong 3 cõi là do Nghiệp Lực của Vô Minh Tham Sân Si dẫn đi thọ sanh trong 3 cõi vì vậy mà gọi là Luân Hồi.

    Các Bậc Thánh thị hiện trong thế gian cứu độ chúng sanh đó là do Nguyện Lực Từ Bi Trí Tuệ.

    Các Bậc Thánh tuy là còn Biến Dịch Sanh Tử nhưng không phải là Luân Hồi vì các Ngài là tiến tu lên Thành Phật chứ không phải bị Nghiệp Dẫn Đi xaoạy vần trong 3 cõi như là Phàm Phu.
    Lobsang Nyma

    Om Mani Padme Hum

  2. #2

    Mặc định

    Có Luân Hồi thì có Sanh Tử
    Có Sanh Tử Không Hẳn là Có Luân Hồi.

    Vậy là sai rồi Kim Cang . Thuyết 12 nhân duyên nói rất rõ vì có các điều kiện nên mới có sanh rồi tử . Hay nói cách khác vì có các điều kiện nên mới có sinh diệt . Và sanh từ cũng chính là sinh diệt đó thôi . Dù muốn hay không muốn các bậc Alahan đều phải như vậy , các ngài không còn vô minh nên không còn sinh rồi diệt.
    Không sinh rồi lấy gì mà diệt ? Không sinh nên gọi là vô sanh đó Kim Cang.

    Nếu nói ngang rằng Có sinh tử . Vậy thì sai vì muốn có sinh tử phải có vô minh , nhưng bậc không còn vô minh lấy gì mà có sinh tử hả Kim Cang?

  3. #3

    Mặc định

    Nếu nói ngang rằng Có sinh tử . Vậy thì sai vì muốn có sinh tử phải có vô minh , nhưng bậc không còn vô minh lấy gì mà có sinh tử hả Kim Cang?
    Zelda tu theo Pháp Thanh Văn Thừa không học Kinh Đại Thừa nên không biết Đức Phật dạy Nhất Niệm Vô Minh và Vô Thủy Vô Minh.

    Vô Minh trong Kinh Đại Thừa có nghĩa là Không Biết

    Dứt Nhất Niệm Vô Minh thì chứng Quả A La Hán, Duyên Giác.

    Bậc A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát còn có điều Không Biết tức là Vì Còn Có Vô Thủy Vô Minh.

    Vô Thủy Vô Minh là Sự Chướng Ngại Của Nhất Thiết Trí Trí.

    Pháp Từng Phần của Vô Thủy Vô Minh thì là Bồ Tát trong Thập Địa.

    Dứt Vô Thủy Vô Minh thì gọi là Phật.

    Đây chính là chổ khác biệt giữa quả vị Phật và quả vị A La Hán.

    Bậc A La Hán vì chỉ dứt Nhất Niệm Vô Minh nên không có 18 Pháp Bất Cộng và 10 Trí Lực.

    Phật dứt Vô Thủy Vô Minh nên có 18 Pháp Bất Cộng và 10 Trí Lực.

    Phật Trí Lực biết khắp 3 đời 10 phương không có ngăn ngại, Bậc A La Hán thì Trí Lực có hạn có lượng.

    Phật hiện thần thông biến hiện khắp tất cả các thế giới không có ngăn ngại. Bậc A La Hán thì thần thông có hạn có lượng.
    Last edited by kimcang; 08-07-2008 at 11:17 AM.
    Lobsang Nyma

    Om Mani Padme Hum

  4. #4

    Mặc định

    Nếu nói rằng Vô Minh là không biết . Do không biết thì phải gọi là hữu học .
    Cớ sao Đức Phật nói rằng các bậc Alahan là bậc Vô Học ?

    Quả vị Phật và quả vị Alahan đồng nhau về chứng ngộ . Tức rằng cái gì đáng để chứng ngộ Đức Phật và các bậc Alahan cũng như nhau.
    Và Đức Phật cũng là bậc Alahan chẳng khác .

    Ở đây do người Bắc Tông không biết Vi Diệu Pháp . Nên chể tác thêm.
    Nên cho rằng bậc Tứ Quả còn Vô minh ( lời của ngài Tuyên Hóa) .
    Zelda nói đơn giản như sau:

    Si mê tức là Vô Minh . ( nam bắc công nhận)
    Và có 2 tâm :
    Tâm Si Hợp Hoài Nghi (Vicikicchāsampayuttaṃ): là sự mờ ám, si mê của tâm do sự lưởng lự, phân vân. Sự hoài nghi ở đây phải hiểu là sự hoài nghi có hậu quả tai hại như hoài nghi Tam Bảo, hoài nghi Tam Học, hoài nghi Tam thế, hoài nghi duyên sinh, ...
    Tâm Si Hợp Phóng Dật (Uddhacca Mohacittaṃ): là sự mù quáng, thiếu sáng suốt do sự lao chao, bấn loạn của tâm. Phóng = ném, dật = tung tóe; Phóng dật là sự ném một vật vào đống tro làm bay lên mù mịt, giống như một người đang ngồi làm việc, bổng có một tiếng động lớn làm người đó giựt mình hay như một người sợ ma, lúc đi đêm, bất chợt gặp bóng đen, người đó sợ hải la lên, tâm bị loạn động


    Vậy hãy xem:

    1/ Quả Dự Lưu:

    Diệt 3 kiết sử đầu tiên là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới cấm thủ (chấp ngã vào những điều sai lầm) .

    (tương đương với diệt dứt hẳn 4 tâm Tham có tà kiến và 1 tâm Si có nghi ngại).

    4/ Quả A La Hán:

    Diệt 5 kiết sử còn lại: Sắc ái, Vô sắc ái, Mạn, Trạo cử và Vô Minh .

    (tương đương với diệt dứt hẳn 4 tâm Tham không có tà kiến và 1 tâm Si có sự phóng dật) .
    Vậy thì còn tâm nào si nữa đâu mà bảo rằng còn vô minh ?

    Có tà thuyết rằng:
    1. Dư sở dụ: A-la-hán còn có thể bị tham Ái chi phối bởi vì còn nhục thân, vấn đề sinh lí chưa đoạn nên khi thụy miên còn có thể lậu hoặc;
    Đáp
    Bản thân Bậc Alahan Toàn Giác vẫn còn nhục thân , vẫn bị chảy máu , vẫn bị bệnh. Nhưng ở đây cái khổ này là khổ thọ không phải là khổ đế . Các ngài chỉ thấy thông tin rằng các ngài có sự chuyển biến về lý hóa trên thân . Và các ngài không hề khởi nên sự đau khổ sầu khô . Vì các thầy đại thừa không nắm được thế nào là phiền não, đoạn trừ phiền não . Ở đây đoạn trừ trên tâm , không phải là ở sắc pháp .

    Có tà thuyết rằng:
    2. Vô tri: A-la-hán chưa hoàn toàn thoát khỏi Vô minh; 3. Do dự: A-la-hán chưa đoạn diệt nghi ngờ;
    Đáp
    Vô minh khi chứng quả dự lưu thì đã có sự đoạn trừ 1/2 vô minh,và Hoài Nghi và Giới cấm thủ rồi , huống gì là bậc Alahan? Ôi buồn thay cho các nhà Đại Thừa mang danh là Phật Pháp mà chẳng biết tí gì về Phật Pháp/

    Có tà thuyết rằng:
    4. Tha linh nhập: A-la-hán còn cần trợ lực bên ngoài mới biết mình đạt Bồ-đề.
    Đáp
    Các bậc Alahan thấu rõ tâm của bản thân , không cần ai nói cho biết , chẳng cần tha lực gì để biết. Các ngài quán thiền minh sát thấu đáo, hoàn toành xong phận sự . Do vậy khi chứng tất các ngài biết đã chứng như chân như thực.

    Có tà thuyết rằng:
    5. Ðạo nhân thanh cố khởi (Ðạo nương vào âm thanh mà sinh): A-la-hán cần những thanh âm đặc biệt để đạt Ðịnh, và ngộ chân lí.
    Đáp
    ^^ Trả lời đơn giản : Giới luật thứ 8 cấm các tỷ kheo không được nghe nhạc . Vậy thì ở trên lại nói các bậc Alahan cần âm thanh gì đó . Thưa bạn các ngài đã không nghe âm thanh gì đặc biệt lâu rồi, vì với các ngài cảnh không hề làm các ngài khởi nên bất kì sự xấu , đẹp ...v.v.v.. nào nữa vì Phiền Não Vi Tế đã đoạn trừ
    Trích Zelda vấn đáp


    Về vấn đề thần thông và các khả năng phụ trợ cho việc truyền giáo hoàn toàn không nói lên được bậc Phật THinh Văn khác Phật Toàn Giác được.

  5. #5

    Mặc định

    Lời đầu:
    Có người cho rằng hàng Bồ Tát giác ngộ hơn các bậc ALahan, nhân đây Zelda sẽ trình bày để các bạn rõ cái sai của quan điểm này.

    Cho quan điểm cho rằng :
    Riêng Phật Giáo thì chúng ta còn biết rõ hơn 7 TRÌNH ĐỘ PHẬT TỬ qua bảng so sánh sau đây của KKT:

    Phật Tử 7 <-----------> Phật
    Phật Tử 6 <--------------> Bồ Tát
    Phật Tử 5 <-----------> A La Hán
    Phật Tử 4 <--------------> Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm
    Phật Tử 1, 2, 3 <------> phàm phu
    Đây hoàn toàn là không đúng , nếu xếp như vậy thì ở đây quả vị Alahan không thể sánh bằng quả vị Bồ Tát được.
    "Như Lai đã vượt qua tất cả. Như lai đã thông suốt tất cả.
    Như Lai đã buông xả, gỡ bỏ mọi trói buộc, đã thoát ly tất cả.
    Như Lai đã chăm chú cố gắng tập trung tâm lực, diệt trừ tham dục tận gốc rễ (Đạo Quả A La Hán)"

    Như vậy rõ ràng là Đức Phật cũng chỉ có chứng quả Alahan mà thôi không khác .

    Theo A Tỳ Đàm Pàli thì có 3 quả vị La hán:
    Chư Phật Chánh Đẳng Giác (Sammàsambuddha hay Sabbannubuddha- Toàn Giác) cũng là những vị La hán nhưng do tự mình chứng đắc và là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên chứng đắc La hán. Những vị La hán đệ tử này được gọi là Thanh văn giác (Sàvakabuddha). Quả vị La hán thứ ba là Độc Giác Phật (Paccekabuddha), những vị tự mình chứng ngộ La hán nhưng không thể hướng dẫn người khác chứng ngộ La hán. Kinh điển Hán tạng còn gọi Độc Giác Phật là Duyên Giác Phật vì cho rằng các Ngài nhờ liễu ngộ nguyên lý Duyên khởi mà giác ngộ (cách nghĩ này bắt nguồn từ những giai thoại về chư Phật Độc Giác trong Chú sớ Tiểu Bộ Kinh, một trong những bộ phận kinh điển làm nền tảng cho nhiều kinh luận hậu tác, đọc kỹ các bộ A Hàm sẽ thấy rõ điều này). Kỳ thực, nếu đọc kinh Đại Duyên trong Trường Bộ kinh, ta sẽ thấy lý Duyên khởi và lý Tứ đế (vẫn bị hiểu lầm là dành riêng cho Thanh văn) vốn dĩ chỉ là một. Trong Trung Bộ kinh, Đức Phật đã xác định ai thấy lý Duyên khởi chính là thấy Pháp và ngược lại. Đồng thời, không hề có chuyện một người giác ngộ lý Tứ đế mà lại mơ hồ về lý Duyên khởi hay ngược lại. Tất cả quả vị La hán vừa nêu trên đây luôn giống nhau về khía cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Tứ đế, Duyên khởi...), chỉ khác ở hai điểm chính: Tự mình hiểu ra hay phải nhờ thầy hướng dẫn và điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ còn có khả năng hiểu biết sâu rộng những gì nằm ngoài lý tưởng giác ngộ hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên mãn.
    (Trích Pháp môn TỊNH ĐỘ trong kinh điển Pàli)

    Như vậy chúng ta thấy rằng ở đây quả vị Alahan là quả vị mà Đức Toàn Giác chứng ngộ được, do vậy kinh điển Nam hay Bắc Tông cũng đều xác nhận Đức Phật có danh hiệu là Alahan, và danh hiệu này được xếp đầu tiên của tất cả 10 danh hiệu. Vì không có danh hiệu này thì không còn 9 danh hiệu còn lại.

    1/ Quả Dự Lưu:

    Diệt 3 kiết sử đầu tiên là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới cấm thủ (chấp ngã vào những điều sai lầm) .

    (tương đương với diệt dứt hẳn 4 tâm Tham có tà kiến và 1 tâm Si có nghi ngại).


    2/ Quả Tư Đà Hoàn:

    -Làm yếu ớt 2 kiết sử: Dục ái và Sân .

    (tương đương với làm yếu ớt 2 tâm Sân) .


    3/ Quả A Na Hàm:

    Diệt được 2 kiết sử: Dục ái và Sân .

    (tương đương với diệt dứt hẳn 2 tâm Sân)
    .

    4/ Quả A La Hán:

    Diệt 5 kiết sử còn lại: Sắc ái, Vô sắc ái, Mạn, Trạo cử và Vô Minh .

    (tương đương với diệt dứt hẳn 4 tâm Tham không có tà kiến và 1 tâm Si có sự phóng dật) .


    Nên quả vị Alahan được gọi là : diệt trừ tham dục tận gốc rễ

    Và ở đây kinh điển do Phật thuyết trong 3 lần kết tập đầu tiên không hề có thêm bất kì địa vì nào khác cả .




    ***Để có thể xem là một bậc có công ơn với chúng sinh thì bậc ấy trước nhất phải vào dòng thánh kể luôn cả Đức Phật Thích Ca .

    Đức Phật dạy:
    Này A Nan Ða! Có bốn hạng người trên thế gian xứng đáng để cho chư Thiên và nhân loại bảo vệ hài cốt trong các bảo tháp (Cetiyas) là:

    1/Phật Toàn Giác (Sammà Sambuddha),
    2/Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha),
    3/A La Hán (Arahatta)
    4/Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavatti Ràjà).

    Ai có duyên lành lễ bái hài cốt của bốn hạng người ấy sẽ được phúc đức vô cùng
    .

    ***Các bạn đừng hiểu lầm Chuyển Luân Thánh Vương là Bồ Tát

    Chú Thích : Chuyển Luân Thánh Vương ám chỉ một hiền nhân sống trong cung vàng điện ngọc.Ấy là một vị Hoàng đế ơn ích vô lượng, lấy đức lành để trị dân, và không ngừng phổ biến thiện pháp ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Các vị Chuyển Luân Thành Vương hầu hết đã đắc quả Thánh, kể từ bậc Tu Ðà Hườn (Sotàpattimagga) trở lên.

    ***Như vậy ta có thể Xếp lại dòng thánh hay những địa vị đáng kính nhất trên thế gian này là :

    1/Phật Toàn Giác (Sammà Sambuddha)
    2/Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha),
    3/A La Hán (Arahatta)
    4/Quả A Na Hàm
    5/Quả Tư Đà Hoàn

    ***Nếu rằng có một địa vị nào cao hơn địa vị Alahan (Arahatta) thì chỉ có thể là Phật Toàn Giác (Sammà Sambuddha),Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha) mà thôi . Nếu có một địa vị nào cao hơn địa vị Alahan(Arahatta) thì địa vị ấy phải được Đức Phật nêu lên rõ ràng , nhưng ở đây ngài không nêu.Tuy nhiên có nhưng Zelda xin nói ở phần sau.
    Bồ tát theo tiếng Pali là Bodhisatta .
    Satta là gia công để
    Bodhilà trí tuệ hay giác


    *Theo Abhidhamma : Phật Toàn Giác (Sammà Sambuddha),Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha),
    A La Hán (Arahatta) đều chỉ là bậc chứng Tứ Quả Arahatta .


    ***Do vậy chúng ta thấy rằng tuy gọi là bậc Toàn Giác nhưng ngài vẫn được gọi là Alahan(Arahatta).

    ***Trong chú giải Abhidhamma thì bậc Alahan chia thành : Nhị chủng, tứ chủng và ngũ chủng Alahan . Chủng cuối cùng là ý nói đến Bậc Alahan cao thượng nhất Sammà Sambuddha . Nhưng ở đây dù là một vị Alahan bình thường nhất đến cao thượng nhất, thì cũng chỉ chứng tứ quả , chẳng có quả thứ 5 nào cả.

    Đức Phật có giảng thuyết đến Đại Đức Ānanda trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, trong dịp bà Gotamī, có tâm trong sạch, đem một cặp y dâng đến Đức Phật. Ngài không thọ lãnh, mà có tâm thương xót dạy bảo dâng cúng đến Tăng. Bà Gotamī, than khóc, đi tìm Đại Đức Ānanda. Ānanda mới vào bạch cầu xin Phật thọ cặp y. Đức Phật bèn giải rằng:

    Này Ānanda! Tăng thí có phước nhiều hơn các sự thí, dầu là đến thời mạt pháp, chỉ còn có Gotrabhū Tăng, là Tăng chỉ có mang y theo tay hoặc buộc cổ, làm nghề ruộng rẫy, mua bán, có vợ con. Song các thí chủ có đức tin làm việc Tăng thí, đến thỉnh Tăng từ bốn vị trở lên, chủ tâm hướng đến Thánh Tăng, thì cũng gọi là Tăng thí, được nhiều phước báo, kể A-tăng-kỳ khó tưởng tượng được.

    Này Ānanda! Ngươi cho 100 lần đến loài cầm thú cũng không bằng quả phước cho 1 lần đến người phá giới.
    Cho 100 lần đến người phá giới, cũng không bằng quả phước cho 1 lần đến người có giới.
    Cho 100 lần đến người có giới cũng không bằng quả phước cho 1 lần đến bậc xuất gia trong sạch.
    Cho 100 lần đến bậc xuất gia trong sạch cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến bậc Tu-Đà-Hườn (Sotāpanna).
    Cúng 100 lần đến bậc Tu-Đà-Hườn, cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến bậc Tư-Đà-Hàm (Sakadāgāmi).
    Cúng 100 lần đến bậc Tư-Đà-Hàm cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến bậc A-Na-Hàm (Anāgāmi).
    Cúng 100 lần đến bậc A-Na-Hàm, cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến bậc A-La-Hán (Arahanta).
    Cúng 100 lần đến bậc A-La-Hán cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến bậc Độc Giác Phật (Paccekabuddha).
    Cúng 100 lần đến bậc Độc Giác Phật cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến đức Phật Toàn Giác (Sabbaññūbuddha).
    Cúng 100 lần đến Đức Phật Toàn Giác, cũng không bằng quả phước cúng 1 lần đến Chư Tăng. Tăng thì có rất nhiều phước báo, như thế ấy.


    Chú thích:Chư Tăng thì hằng phổ thông đến tất cả Tỳ-khưu Tăng, từ đức Phật cho đến vị Tỳ-khưu và Sa-di mới xuất gia.

    ***Lại một lần nữa chúng ta không thấy ngài tán thán đến địa vị Bồ Tát ( Bodhisatta ) . Như vậy ở đây dựa vào 2 bản kinh ta nhận ra rằng địa vị Alahan là cao thượng nhất ( tính luôn của Đức Phật ) .

    ***Như đã nêu lần trước Zelda có nói là thật ra là có địa vị Bodhisatta , nhưng địa vị này có thể gán cho một vị mới tu , một chúng sinh bình thường, một địa vị nào đó trong dòng thánh ở đây có thể là vị Tu-Đà-Hườn , Tư-Đà-Hàm , A-Na-Hàm . Nhưng không thể là bậc Arahanta được , vì danh từ Bodhisatta có nghĩa là bậc còn phải tu tập(hữu học) , chí nguyện giải thoát . Hay chúng sinh giác ngộ hơn chúng sinh mà thôi . Do vậy là chưa chứng được Tứ Quả ,và từ Tứ Quả trở xuống.

    Lưu ý: Ðối với các vị A-la-hán, thời tâm Quả An chỉ khởi lên tiếp theo tâm Duy tác Dục giới ba nhân

    Lộ Tâm Ðắc Ðạo

    Là lộ tình tâm của người chứng ngộ 4 Ðạo và 4 Quả. Lộ tâm Ðắc Sơ Ðạo diễn tiến như sau: Hôï Kiếp quá khứ, Hộ Kiếp rúng động, Hộ Kiếp ngưng lại, Khán ý môn, Chuẩn bị (hoặc không có nếu Huệ mạnh), Cận Hành, Thuận Thứ, Bỏ Bực, Ðạo, Quả (2 sát na). Lộ này có 8 cái, 15 thứ, 2 chặn, 3 người, 17 cõi.

    Chú thích: 8 cái là: Khán ý môn, Chuẩn bị, Cận Hành, Thuận Thứ, Bỏ Bực, Ðạo và 2 sát na tâm Quả. 15 thứ là: Khán ý môn, 4 tâm Thiện Dục giới hợp trí, 5 tâm Ðạo và 5 tâm Quả. 2 chặn là Khán ý môn và Ðổng Tốc. 3 người là: người phàm tam nhân, người Sơ Ðạo và người Sơ quả. 17 cõi là cõi người, 6 cõi trời Dục giới, 3 cõi Sơ thiền, 3 cõi nhị thiền, 3 cõi tam thiền và cõi Tứ thiền Quảng Quả.

    Lộ tâm Ðắc Tam Ðạo diễn tiến như sau: Hôï Kiếp quá khứ, Hộ Kiếp rúng động, Hộ Kiếp ngưng lại, Khán ý môn, Chuẩn bị, Cận Hành, Thuận Thứ, Bỏ Bực, Ðạo, Quả (2 sát na). Lộ này có 8 cái, 35 thứ, 2 chặn, 7 người, 26 cõi.

    Chú thích: 8 cái là: Khán ý môn, Chuẩn bị, Cận Hành, Thuận Thứ, Bỏ Bực, Ðạo và 2 sát na tâm Quả. 35 thứ là: Khán ý môn, 4 tâm Thiện Dục giới hợp trí, 30 tâm Siêu thế (trừ 5 tâm Sơ Ðạo và 5 tâm Sơ Quả). 2 chặn là Khán ý môn và Ðổng Tốc. 7 người là: 4 Quả và 3 Ðạo (trừ người Sơ Ðạo). 26 cõi là 31cõi trừ cõi Vô Tưởng và 4 cõi Khổ.

    [i]“Này Upàli, những pháp nào mà thầy biết: “những pháp này không đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Níp bàn” _ Này Upàli, thầy cần phải nhất hướng thọ trì, đây không phải là pháp, đây không phải là luật, đây không phải lời dạy của Thế Tôn. Và này Upàli, những pháp này thầy cần nên biết: “những pháp này đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Níp bàn”_ Này Upàli, thầy phải nhất hướng thọ trì, đây là pháp, đây là luật, đây llà lời dạy của bậc Đạo sư.”[/i]
    (Pháp 7 chi, chương VIII, 9, Thông điệp)

    Đồng nghĩa với Niết bàn giới, này các Tỷ kheo, là nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si. Cũng được gọi là đoạn tận các lậu hoặc."
    "Đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, này các Tỷ kheo, được gọi là bất tử. Con đường Thánh đạo tám ngành là con đương đưa đến bất tử
    ."

    (Tương ưng V - một Tỷ kheo khác (2) - 7 )

    "Này các Tỷ kheo, thế nào là Niết bàn giới có dư y ? Ở đây này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là Bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy năm căn còn tồn tại, ngang qua năm căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, không khả ý, vì rằng tự ngã không có thương hại cảm giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các Tỷ kheo, đây gọi là Niết bàn có dư y."

    "Này các Tỷ kheo, thế nào gọi là Niết bàn giới không có dư y? Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh tri. Ở đây đối với vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỉ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các Tỷ kheo, Đây gọi là Niết bàn không có dư y
    ."

    (Phật thuyết như vậy, Duk III, 7 - 443)

    ***Theo tư tưởng Nam và Bắc Tông thì Đức Phật đào tạo ra những bậc thánh như ngài : ở Pháp 7 chi, chương VIII, 9, Thông điệp , đức Phật đã xác định lời dạy của bậc Đạo sư là những pháp này đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Níp bàn . Và ở kinh Phật thuyết như vậy, Duk III, 7 - 443 , ngài lại xác định lần nữa Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích.
    Như vậy chúng ta đã rõ ràng rằng bậc Alahan là bậc đã đạt được mục đích mà Đức Phật mong đợi là giác ngộ như ngài.

    Phần kết: Như những dẫn chứng trên , chúng ta thấy rằng Đức Phật đã khẳng định rất rõ bậc Tứ Quả là cao thượng nhất và nhắc lại 2 lần qua 2 bài kinh đáng tin là do Phật thuyết . Do vậy chúng ta người Phật tử nên biết chính xác quả vị nào là quả vị cao thượng một cách chính xác, để tránh nhầm lẫn rồi tu sai đường.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

    Trích : Địa vị Alahan và Bồ Tát

  6. #6

    Mặc định

    Cớ sao Đức Phật nói rằng các bậc Alahan là bậc Vô Học ?

    Quả vị Phật và quả vị Alahan đồng nhau về chứng ngộ . Tức rằng cái gì đáng để chứng ngộ Đức Phật và các bậc Alahan cũng như nhau.
    Và Đức Phật cũng là bậc Alahan chẳng khác .
    Bậc A La Hán được gọi là Vô Học là nói về sự Giải Thoát Sanh Tử trong 3 cõi Luân Hồi chứ không phải nói về Vô Học của Sự Giải Thoát Trí Chướng của Nhất Thiết Trí Trí.

    Về vấn đề thần thông và các khả năng phụ trợ cho việc truyền giáo hoàn toàn không nói lên được bậc Phật THinh Văn khác Phật Toàn Giác được.
    Bậc A La Hán mà bằng Phật thì phải như Phật không khác chứ không thể có sự thua kém.

    Như trong Kinh Đại Thừa lấy ánh sáng của ngọn nến và ánh sáng của mặt trời để làm thí dụ về Trí Tuệ của Bậc A La Hán và Trí Tuệ của Phật.

    Ánh sáng của ngọn nến cũng gọi là sáng, ánh sáng của mặt trời cũng gọi là sáng. Nhưng không thể nói là sự chiếu sáng của ngọn nến là bằng với sự chiếu sáng của mặt trời.

    Zelda lý luận không vững hiểu không thông lý.

    Theo lý luận của Zelda thì một giọt nước biển cũng là nuớc, tất cả nước biển cũng là nước rồi thì nói rằng một giọt nước biển là bằng tất cả nước trong biển.

    Không biết sự tu học của Zelda có bằng Đức Tăng Thống Tích Lan chăng?

    KC đã từng hỏi Đức Tăng Thống Tích Lan thì Ngài cũng công nhận là theo trong Kinh Điển Nam Tông thì Bậc A La Hán không bằng Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.
    Last edited by kimcang; 08-07-2008 at 11:33 PM.
    Lobsang Nyma

    Om Mani Padme Hum

  7. #7

    Mặc định

    ^^ hay ghê giống y như lần trước mình phịa vụ ánh sáng mặt trời không ngờ trong kinh điển cũng có . qua thật rõ ràng là có khác . Nói sơ vầy nè đơn giản thôi như vầy :Đức phật biết vô lượng kiếp tức biết nguyên thể ban đầu, Còn các alahan chỉ biết có giới hạn kiếp nên không thể biết nguyên thể ban đầu. Vậy cái nguyên thể ban đầu chư phật đều biết còn chư vị alahan không biết. Zelza ý muốn nói ở đây chính là sự đồng đều trong lĩnh vực thoát khổ khỏi thế giới này giữa chư phật và chư vị alahan, điều này có lẽ đúng nhưng ở phương diện ngã rõ ràng là vẫn tồn tại sự khác nhau giữa 1 vị alahan và một vị phật . Các bạn lưu ý rõ ràng khi đạt quả vị thì bản thân các vị alahan vẫn còn lưu lại 1 cái gì đó chữ không tan hẳn hư không các vị phật có lẽ cũng vậy, điều mà ta biết được là các vị không còn tái sanh thoát khỏi vòng luân hồi. Lấy 2 quả vị của bồ tát giai nghĩa:

    1. quả vị :bất động : không còn bị tác động bởi bất cứ tác dụng nào do bản thân không hề tương tác của ngoại lực cũng như nội lực (ví dụ trong đời thường :ông nói với tôi nhưng tôi không nói với ông cũng chẳng nói với bản thân ,đơn giản là tôi chỉ đứng đó),rõ ràng với quả vị này thì vị bồ tát đã thoát khỏi luân hồi.

    2. quả vị :Tự tại : Có nghĩa là sự hòa tan với tất cả nhưng lại không ảnh hương bởi tất cả khi ở quả vị này vị bồ tát tự do ra vào luân hồi nhưng không bị tác động bởi luân hồi (ví dụ trong đời thương : Ông nói tôi nghe hoặc không nghe tôi hành động hoặc không hành động nhưng không do tác động bởi ông hành động của tôi luôn tự do )

    3.quả vị như lai: tôi là tất cả: cả vòng luân hồi là tôi, ngoài vòng luân hồi cũng là tôi,tôi là có ,tôi cũng là không, tôi là đoạn đầu,tôi cũng là đoạn giữa ,tôi cũng là kết thúc (ví dụ trong đời thường :tôi là anh ^^!)

    ba quả vị đều thoát khỏi luân hồi ^^ bạn có thấy sự khác nhau không ?
    ^^! kiến thức hạn hẹp nói tào lao thì các bác cũng phải thông cảm.
    tuyệt vời heeee em đã tiến thêm một bước trong đường đạo.
    Last edited by quy phong; 08-07-2008 at 10:38 PM.

  8. #8

    Mặc định

    như thị , nếu không tin luân hồi nhân quả không tin có nó không phải con phật

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •