ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
PHÁP CHÁNH TRUYỀN
HỘI THÁNH GIỮ BẢN QUYỀN
Ấn Bản Năm Nhâm Tý (1972)
In tại Nhà in Trung Tâm Giáo Hóa Thiếu Nhi Thủ Ðức.
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
PHÁP CHÁNH TRUYỀN
HỘI THÁNH GIỮ BẢN QUYỀN
Ấn Bản Năm Nhâm Tý (1972)
In tại Nhà in Trung Tâm Giáo Hóa Thiếu Nhi Thủ Ðức.
LỜI TỰA
Nghĩ vì cơ Huyền vi Mầu nhiệm của Ðạo có Thiên Ðiều cũng như cơ Ðời có Luật Pháp chơn truyền để chế ngự những dục vọng bất chánh mà ở cõi nào và đời nào cũng có, nếu không có gì chế ngự thì sự điều hòa tốt đẹp của cơ Tạo Hóa sắp đặt có thể mất đi mà chớ; nên khi mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Chí Tôn đã lập ngay một PHÁP CHÁNH TRUYỀN và TÂN LUẬT để điều hành guồng máy Hành Chánh Ðạo, hầu bảo thủ chơn truyền và công bình Thiên Ðạo, kèm theo luật pháp còn có THÁNH NGÔN và GIÁO ÐIỀU dạy bảo.
Muốn lập một nền Ðạo lớn lao như Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có khả năng truyền giáo đến thất ức niên mà không lập Pháp thì làm sao điều độ được một số Giáo Ðồ quá đông gồm gần toàn thể nhân loại. Bởi thế nên quyển PHÁP CHÁNH TRUYỀN nầy cần được tục bản mãi mãi kỳ này hết tới kỳ khác; để lấy đó làm căn bản cho tất cả Giáo Ðồ noi theo mà hành đạo hoặc giữ gìn cho trọn tư cách người Ðạo đến cùng không vi phạm Luật Ðạo và không sai đường lạc lối.
Mặc dù không Luật Pháp nào được gọi là hoàn bị cả. Nhưng Luật Pháp nào cũng đều phải ấn định ít nhứt những đại cương và nguyên tắc. Chẳng hạn như Luật Công Bình giữa người với người thì phải có nguyên tắc bất di bất dịch là: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn. (Cái gì mà mình không muốn, thì đừng làm cho người) Ví dụ: Nếu mình muốn được tự do thì đừng làm mất tự do của người khác.
Tuy nghe rất đơn giản nhưng không còn cách giải thích nào đúng hơn nữa. Luật Pháp rất cần ích cho sự điều hòa trật tự trong xã hội. Nó lại còn cần ích hơn nữa cho Ðạo vì nếu thiếu Luật Pháp thì khó tránh sự hỗn loạn. Mà nếu trong Ðạo có sự hỗn loạn, thì còn gì là đạo lý!
Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh cho Ðạo tức là lập chủ quyền cho Ðạo đó vậy. Nếu ai có tinh thần xây dựng nền Ðạo thì tất nhiên phải tôn trọng chủ quyền đó.
Cũng nhờ chủ quyền đó mà Hội Thánh là hình thể Ðức Chí Tôn tại thế mới có đủ quyền hành để thể Thiên hành hóa.
Tuy nhiên, quyền Ðạo có khác hơn quyền Ðời là vì nó do sự thương yêu mà có chớ không phải dùng áp lực để chế ngự người ta.
Luật Pháp đã do Thiên Lý và Công Lý mà lập ra, thì tự nhiên phải tuyệt đối công bình không còn sự chênh lệch nào đối với toàn thể bổn Ðạo. Vì trong Ðạo từ trên xuống dưới, từ nhỏ tới lớn đều có qui luật định phân, lớn không giành quyền nhỏ, nhỏ không lấn quyền lớn. Nếu cứ chiếu luật thi hành thì toàn Ðạo được điều hòa êm ái và guồng máy Hành Chánh Ðạo cứ tiến hành theo luật định Thiên nhiên không còn gì trở ngại.
Hội Thánh lấy làm hoan hỉ cho tái bản quyển PHÁP CHÁNH TRUYỀN hầu phổ biến trong toàn Ðạo để cho tất cả được thụ hưởng PHÁP LÝ CÔNG BÌNH THIÊN ÐẠO, và mong rằng từ đây không ai còn viện lẽ không hiểu Luật Ðạo mà vi phạm nữa.
Hội Thánh cẩn từ
http://caodaism.org/1002/0001-pct.htm
CỬU TRÙNG ĐÀI
I. QUYỀN HÀNH GIÁO TÔNG
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo Tông là anh cả các con.
CHÚ GIẢI: Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì anh cả nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.
Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: "Cửu Trùng Ðài" và "Hiệp Thiên Ðài" mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng Liêng thì đồng vị.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
CHÚ GIẢI: Giáo Tông đặng đồng quyền cùng Thầy mà dạy dỗ cả chư Môn Ðệ của Thầy trong đường Ðạo Ðức, dìu bước từ người, chăm nom săn sóc cho khỏi phạm Thiên Ðiều, thì là buộc tuân y TÂN LUẬT. Ấy vậy dầu cho phẩm vị nào phạm tội; thì Giáo Tông cũng chẳng vì tình riêng gọi là tha thứ khoan dung. Ðể lòng che chở, làm cho kẻ phạm phải mất Thiên Vị, lại gây điều đố kỵ của nhơn sanh, làm cho nhẹ giá trị của nền Chánh Giáo. Những sự đau thảm khó khăn của Tín Ðồ tức là chúng sanh, những sự khổ hạnh của Hội Thánh, nghĩa là hàng Chức Sắc Thiên Phong, thì Giáo Tông phải liệu phương che chở an ủi làm cho đời khổ não hóa ra đời hạnh phước; người nắm trọn quyền thể Thiên hành hóa, ấy là phận sự tối cao tối trọng của Ðức Giáo Tông đó.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
CHÚ GIẢI: Hễ nói về phần xác là nói phần hữu hình, mà nói về phần hữu hình của chúng sanh tức là nói về phần Ðời. Còn như nói về phần hồn tức là phần Thiêng Liêng ấy là phần Ðạo.
Trên đây Thầy đã nói rằng: Có quyền dìu dắt trong đường Ðạo và đường Ðời, thì Thầy đã chỉ rõ rằng, có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường Ðạo Ðức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên; chớ chẳng phải nói trọn quyền về phần Ðạo và phần Ðời, nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN, xin rán hiểu đừng lầm hai chữ ấy.
Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.
Hộ Pháp hỏi: "Thưa Thầy theo như luật lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng?"
Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt hơn nữa. Cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.
Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.
Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về phần xác và phần hồn (nghĩa là Ðạo và Ðời) thì "HIỆP THIÊN ÐÀI" lập ra chẳng là vô ích lắm sao con? "CỬU TRÙNG ÐÀI" là Ðời "HIỆP THIÊN ÐÀI" là Ðạo, Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo không quyền: Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi trở nên phàm giáo".
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con.
CHÚ GIẢI: Thầy đã nói, đặng cầu rỗi cho các con thì Thầy đã chỉ rõ rằng, Giáo Tông có phần cầu rỗi mà thôi, chớ phần siêu rỗi là về quyền của Bát Quái Ðài chưởng quản.
Ðức Giáo Tông làm thế nào mà thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu rỗi cho các Tín Ðồ?
Người phải đến Hiệp Thiên Ðài cầu huyền diệu Cơ Bút mới đặng. Xin trích lục ra đây, đoạn Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài nói về việc ấy: "Lại nữa Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo Tông thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu, Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại".
Ấy vậy về phần Thiêng Liêng là phần Ðạo, thì Ngài chẳng có quyền hành chi hết, dầu cho dâng sớ cầu điều chi cùng Bát Quái Ðài, thì cũng phải do nơi Hiệp Thiên Ðài cả.
Hiệp Thiên Ðài là trung gian để liên hiệp Giáo Tông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
http://caodaism.org/1002/0101-pct.htm
II. QUYỀN HÀNH CHƯỞNG PHÁP
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chưởng Pháp của ba Phái là: Ðạo, Nho, Thích.
CHÚ GIẢI: Nghĩa là: mỗi Phái là một vị, mà ba Ðạo vẫn khác nhau, nội dung, ngoại dung, đều khác hẳn luật lệ vốn không đồng, chỉ nhờ Tân Luật làm cơ qui nhứt, cho nên Thầy mới nói:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một".
CHÚ GIẢI: Vì coi như một, nên Thầy mới đến cho nhơn loại lập Tân Luật, thế nào cho phù hạp với nhơn trí, hiệp tánh với nhơn tâm, chung chịu một Ðạo Luật, có phương hành Ðạo, chẳng nghịch với Thiên Ðiều, đặng lập vị mình dễ dàng, mới toàn câu phổ độ.
Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Ðấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn trí ngày nay đã qua khỏi Ngươn "Tấn Hóa"(1) thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao; chủ nghĩa cựu luật của các Tôn Giáo không đủ sức kềm chế đức tin, mà hễ nhơn loại đã mất đức tin về đạo đức rồi, thì cơ tự diệt vốn còn, mà cơ tự diệt còn thì nhơn loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Ðời phải tùy Ðạo mới còn, mà Ðạo cũng phải tùy Ðời mới vững, biết đâu Tân Luật ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành; trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo, Ðời tương đắc. Mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ: Như có kẻ hỏi: "Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam Giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân Luật nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"
Ta lại đáp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý vị chi hết. Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẵn với Thiên Ðiều của Ð.Ð.T.K.P.Ð. thể Thiên hành chánh.
Bởi cớ ấy nên CHÍ TÔN đã cấm ngũ chi phái Ngọc, dùng Cổ Luật mà mê hoặc nhơn sanh nữa.
Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên Ðiều, mà hễ tùng Thiên Ðiều thì khó lập vị cho mình đặng".
Xin xem tiếp đây, thì thấy rõ Thầy đã quyết định điều ấy.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Vậy thì một thành ba, mà ba cũng như một.
CHÚ GIẢI: Ấy vậy Tân Luật đã gồm trọn Tam Giáo, tức là một thành ba, mà ba Cựu Luật của Tam Giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là: "Tân Luật".
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Ðầu Sư dâng lên.
CHÚ GIẢI: Nơi Cửu Trùng Ðài, có Ðức Giáo Tông là người thay mặt cho các Ðấng Thiêng Liêng đặng hành hóa; Giáo Tông có quyền lập luật, ấy là quyền cao trọng của các Ðấng Thiêng Liêng cùng CHÍ TÔN ban cho nắm giữ, và Ðầu Sư là người thay mặt cho cả nhơn sanh, ấy là quyền cao trọng của nhơn sanh ban cho, hai đàng phải tương đắc mới bền vững cơ "Tạo Thế" Trời, người hiệp một.
Thường thấy Thiên Mạng hằng quá sức phàm thế còn phàm thế thì nghịch hẳn Thiên Mạng; biết đâu một ngày kia Giáo Tông không lập ra luật lệ quá sức người phàm làm đặng và Ðầu Sư lại không xin một luật lệ quá phép Thiên Ðiều, thì hai đàng ắt phải nghịch lẫn nhau; nếu không có Chưởng Pháp đứng trung gian thế quyền Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài mà điều độ cho êm đềm hòa nhã, thì nền Ðạo phải chinh nghiêng sanh ra rối loạn, thượng hạ khắc nhau, phải mất trật tự mà gây nên đảng phái.
Ấy vậy Chưởng Pháp có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành. Luật lệ nào không có ba ấn Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng. Hay!(2)
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Như hai đàng không thuận thì chúng nó phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập luật lại.
CHÚ GIẢI: Một Ðạo Luật nào của Giáo Tông truyền xuống mà nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh, Ðầu Sư đã định quyết không thể thi hành đặng, thì chính mình Ðầu Sư phải đệ lên cho Chưởng Pháp mà cầu người sửa cải. Còn như Giáo Tông tiếp đặng một Ðạo Luật nào của Ðầu Sư dâng lên mà phạm phép Thiên Ðiều thì chính mình Giáo Tông cũng phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ quyền bỏ luật, làm cho thất thể đôi đàng; phải phải phân phân, để cho Chưởng Pháp định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận, thì người phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy sửa lại, hay là Hộ Pháp luận ý đôi bên mà lập lại.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thảng có kinh luật làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
CHÚ GIẢI: Nói rằng có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, thì tức phải kiểm duyệt các kinh điển ấy trước khi xuất bản; ấy vậy, tuy kiểm duyệt thì tự quyền Chưởng Pháp định đoạt, bất câu kinh sách nào mà làm cho hại phong hóa cùng là sái Ðạo Luật thì Ngài có quyền trừ bỏ, không cho xuất bản, song trước khi thị nhận cho xuất bản, hay là không cho, thì buộc Chưởng Pháp phải đệ lên Hiệp Thiên Ðài cầu xin phê chuẩn mới đặng. Chẳng phải nói các kinh điển của người trong Ðạo làm ra mà thôi, dầu cho người Ngoại Giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục, thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng; bởi vậy cho nên Thầy có nói câu nầy:
[B]PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Buộc cả Tín Ðồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật Ðời".[/B]
CHÚ GIẢI: Dầu cho luật lệ Ðời mà làm cho thống khổ nhơn sanh thì Chưởng Pháp cũng liệu phương nài xin chế giảm. Cái quyền lực ấy phải nhờ nương Ðạo quyền mới đủ mạnh, nghĩa là Ðạo mạnh thì quyền người mới mạnh, mà Ðạo mạnh thì mới mong tế độ nhơn sanh khỏi đường Ðời thảm khổ; vì vậy mà Thầy lại buộc phải nói thêm câu sau này nữa:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy khuyên các con phải xúm nhau vùa giúp chúng nó".
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng.
CHÚ GIẢI:
- Thái Chưởng Pháp thì bình Bát Vu,
- Thượng Chưởng Pháp thì cây Phất Chủ,
- Ngọc Chưởng Pháp thì bộ Xuân Thu .
Hiệp một gọi là Cổ Pháp. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi mão Tiểu phục của Người phải có ba Cổ Pháp ấy .Còn nơi mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông thì lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh.
- Long Tu Phiến.
- Thư Hùng Kiếm.
- Phất Chủ.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành.
CHÚ GIẢI: Bất câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành; nghĩa là: Trên Giáo Tông không đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép thi hành.
Cửu Trùng Ðài vẫn là Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài. Ấy là cơ Ðạo cổ kim hi hữu.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Thượng Ngươn là Ngươn Tạo Hóa; ấy là Ngươn Thánh Ðức tức là Ngươn vô tội (Cycle de création c'est à dire cycle de l'innocence).
Trung Ngươn là Ngươn Tấn Hóa; ấy là Ngươn Tranh Ðấu tức là Ngươn tự diệt (Cycle de progrès ou cycle de lutte et de destruction).
Hạ Ngươn là Ngươn Bảo Tồn; ấy là Ngươn Tái Tạo, tức là Ngươn qui cổ (cycle de conservation ou cycle de reproduction et de rénovation).
(2) Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông.
http://caodaism.org/1002/0102-pct.htm
Last edited by mynhan; 18-09-2018 at 08:27 AM.
III. QUYỀN HÀNH ÐẦU SƯ
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Ðầu Sư có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của chư Môn Ðệ "CHÍ TÔN".
CHÚ GIẢI: Ðây Thầy dùng chữ "phần Ðạo" và "phần Ðời" đặng định quyền hành của Ðầu Sư, thì là Ðầu Sư có trọn quyền về phần Chánh Trị của Cửu Trùng Ðài và phần luật lệ của Hiệp Thiên Ðài. Vậy thì người đặng quyền thay mặt cho Giáo Tông và Hộ Pháp trước mặt nhơn sanh. Hễ thay quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là người của Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài; bởi vậy buộc Ðầu Sư phải tùng quyền cả hai mà hành chánh, chẳng đặng phép tự ý riêng mình mà thi thố điều chi không có lịnh của Giáo Tông và Hộ Pháp truyền dạy.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn.
CHÚ GIẢI: Ðầu Sư đặng quyền lập luật cho phù hạp cùng sự chánh trị của nền Ðạo, thế nào cho thuận với nhơn tình và không nghịch cùng Thánh ý; mà phàm như hễ thuận nhơn tình thì hằng nghịch với Thánh ý luôn luôn, nên chi buộc Ðầu Sư trước phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn, vì Giáo Tông là người thay quyền cho Thầy, đặng điều đình chẳng cho nhơn sanh trái Thánh ý.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Luật lệ ấy lại phải xem xét một cách nghiêm nhặt, coi phải hữu ích cho nhơn sanh chăng?
CHÚ GIẢI: Câu này đã chỉ rõ rằng: Phàm như Ðầu Sư có lập luật lệ chi, thì luật lệ ấy buộc phải cần ích cho nhơn sanh mới đặng, nên chi Thầy có dặn:
"Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải xem xét cho nghiêm nhặt, điều chi không thật hữu ích cho nhơn sanh thì Ðầu Sư không nên lập luật hay là phá luật".
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.
CHÚ GIẢI: Dầu cho luật lệ ấy đã thuận ý Giáo Tông đi nữa, thì Giáo Tông cũng không quyền phê chuẩn tức thì, nhưng buộc phải giao lại cho Chưởng Pháp xét nét trước đã.
Trên đã có định quyền cho Chưởng Pháp rằng: Các luật lệ chẳng đủ ba vị phê chuẩn thì luật lệ ấy không đặng phép ban hành.
Vậy thì Ðầu Sư và Giáo Tông chẳng đặng thuận tình với nhau mà trái nghịch cùng Pháp Chánh Truyền, hễ đôi bên chẳng do nơi Chưởng Pháp xét nét luật lệ thì là phạm pháp: Mà hễ phạm pháp thì dầu cho bực nào cũng khó tránh qua khỏi luật Tòa Tam Giáo.
Buộc Ðầu Sư phải tùng mạng lịnh của Giáo Tông truyền xuống mới đặng phép ban hành, nên Thầy nói:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy".
CHÚ GIẢI: Ðầu Sư chỉ có tuân mạng lịnh của Giáo Tông mà thôi, dầu cho Người, là người thay mặt cho Hiệp Thiên Ðài về phần luật lệ đi nữa, thì luật lệ ấy trước đã xét nét bởi Chưởng Pháp và phê chuẩn bởi Hiệp Thiên Ðài rồi, tức là luật lịnh của Hiệp Thiên Ðài sẵn định vào đó.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Như thảng luật lệ nào nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh, thì chúng nó đặng cầu xin hủy bỏ.
CHÚ GIẢI: Chẳng nói là Tân Luật ngày nay mà thôi, nếu sau Tân Luật nầy mà trở nên Cựu Luật đi nữa, nếu nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì Ðầu Sư cũng đặng phép nài xin hủy bỏ.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Thầy khuyên các con phải thương yêu nó giúp đỡ nó.
CHÚ GIẢI: Thầy nhủ lời khuyên cả Hội Thánh đôi bên để mắt vào trách nhậm nặng nề của Ðầu Sư mà thương yêu và giúp đỡ Người cho tròn phận sự.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Thầy dặn các con, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.
CHÚ GIẢI: Thầy dặn cả chư Môn Ðệ của Thầy, ấy là toàn cả chúng sanh, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi Ðầu Sư; vì Người thay quyền cho Ðạo trọn vẹn nơi thế nầy.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Ba chi tuy khác, chớ quyền lực như nhau.
CHÚ GIẢI: Ba chi của Ðạo là: Nho, Lão, Thích; ba chi tuy khác mà quyền lực vẫn so đồng, bởi tùng theo Tân Luật. Ấy là một thành ba mà ba cũng như một.
Ba vị Ðầu Sư không ai lớn, không ai nhỏ, Hay(1) quyền vốn đồng quyền, Luật Lệ nào của Giáo Tông truyền xuống hay là của nhơn sanh dâng lên mà đã có Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn, thì dầu cho một người trong ba mà chịu vâng mạng thì Luật Lệ ấy cũng phải buộc ban hành. Hay..(1) Trừ ra khi nào ba người đồng không thể tuân mạng lịnh đặng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông; buộc Giáo Tông phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, Hay...(1) vì vậy mà Thầy nói:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông, Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa".
CHÚ GIẢI: Thầy đã nhứt định rằng: Nếu cả ba đồng ký tên không vâng mạng đặng, thì Thầy đã chắc chắn rằng luật lệ ấy quả nghịch với nhơn sanh; mà cần yếu hơn hết thì phải quyết định thế nào cho sự nghịch với nhơn sanh ấy cho có cớ hiển nhiên thì Ðầu Sư mới đặng phép nghịch mạng bề trên, cầu nài bác luật. Thảng có một người trong ba mà tuân mạng lịnh đặng thì cũng chưa quyết đoán rằng luật lệ ấy đã nghịch hẳn với nhơn sanh, mà hễ nếu chưa nghịch hẳn cùng nhơn sanh thì buộc phải ban hành.
Quyền hành ấy, nghiêm khắc nầy, nghĩ ra cũng quá đáng; vì Thánh ý muốn cho cả ba phải hiệp một mà thôi. Hay...(1).
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau; mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à!
CHÚ GIẢI: Ba ấn ấy là: Thái, Thượng, Ngọc; mỗi tờ giấy chi hễ định thi hành thì buộc phải có đủ ba ấn Ðầu Sư mới đặng.
Trước khi Ðầu Sư lãnh quyền chấp chánh buộc người phải lập minh thệ nơi Tòa Thánh, hằng giữ dạ vô tư hành đạo, y như Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đã lập thệ.
QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi minh thệ rồi, Ðầu Sư đặng cầm quyền luôn cả và Chánh Trị cùng Luật Lệ.
Nhờ quyền lớn lao này; Ðầu Sư sẽ có đủ thệ lực mà ngăn ngừa tà quyền hại Ðạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Ðầu Sư đặng dùng quyền thống nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải phục mạng, dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy. Hay...(1).
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông.
IV.QUYỀN HÀNH CHÁNH PHỐI SƯ
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Phối Sư mỗi phái là 12 người, cộng là ba mươi sáu, trong ba mươi sáu vị ấy, có ba vị Chánh".
CHÚ GIẢI: Ba vị Chánh Phối Sư, phải lựa cho đủ ba phái là: Thái, Thượng, Ngọc. Ba vị ấy chẳng phải làm đầu cho ba mươi ba vị Phối Sư kia mà thôi, mà lại là người thay quyền cho Ðầu Sư mà hành sự, y như quyền Ðầu Sư vậy.
Ấy là người thay mặt cho cả Hội Thánh Cửu Trùng Ðài và cả nhơn sanh.
Người nắm trọn quyền hành sự nơi tay, chỉ tùng lệnh Ðầu Sư phán dạy thế nào, thì phải tuân theo thế ấy; chẳng đặng cải mạng lịnh tự mình chế biến; nhứt nhứt đợi lịnh Ðầu Sư, song Ðầu Sư cũng không đặng phép giành quyền hành sự của ba vị ấy. Hễ Ðầu Sư, lấn quyền hành sự mà không do nơi Chánh Phối Sư thì là quá quyền mình, ắt phải phạm Pháp Chánh Truyền ...hay(1).
Ðây xin nhắc lại khi Ðức CHÍ TÔN ban lịnh lập Tân Luật, vì cớ nào Ðức Giáo Tông lại giao cho Chánh Phối Sư xem xét chỉnh đốn trước khi dâng lên cho Ngài, kế Chưởng Pháp kiểm dượt rồi mới đệ lên cho Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn, sau rốt Hộ Pháp phải đem luật ấy xuống Cửu Trùng Ðài đọc mà ban hành.
Lại nữa buổi ba vị Chánh Phối Sư dâng luật Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan cho Ðức Giáo Tông giáng sửa (13 tháng chạp năm Bính Dần). Ngài có truyền dạy ba vị Ðầu Sư và Chưởng Pháp phải ngự trên ngai; đoạn đòi ba vị Chánh Phối Sư vào hành lễ, rồi kêu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh mà dạy rằng: "Hiền Hữu coi Lão hành sự đây mà bắt chước". Ngài lại dạy ba vị Chánh Phối Sư mỗi người phải dâng luật thế nào cho đủ sáu bàn tay nâng luật ấy, chẳng nên cho hở, đặng dâng lại cho Ðầu Sư; Ðầu Sư cũng phải cho đủ sáu tay mà dâng lên cho Chưởng Pháp, rồi Chưởng Pháp cũng phải đủ sáu tay mà dâng lên cho Ngài. Khi ấy Ngài dạy phải đi ngay lên Ðại Ðiện đưa qua khỏi đầu Hộ Pháp và Thượng Phẩm. Ngài hạ Ngọc Cơ xuống dưới, đặng đi ngay qua cho khỏi Ngài nữa. Hay...(1).
Chưởng Pháp tiếp luật rồi, lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương Thái Công và Thánh Chúa Jésus nữa. Sau Hộ Pháp có để lời than cùng Thầy về điều ấy, thì Thầy cười mà phán dạy rằng: "Mắc Tiên vị của Thái Bạch còn ở dưới Thích Ca, Khổng Tử và Lão Tử bằng chẳng vậy thì bộ luật cũng đi ngang qua đầu các Ðấng ấy nữa, vì nó là Thiên Ðiều đó con". (2)
Bộ Tân Luật để trước Tiên vị của Ðức Giáo Tông một ngày một đêm, cho Ngài xét đoán; bữa sau Ngài giáng cơ than rằng: "Thiên Ðiều mầu nhiệm của Ðạo còn thiếu sót lắm". Ngài cười rồi tiếp rằng: Những điều ấy chư Hiền Hữu biết đâu mà lập cho đặng... Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy, thì chẳng thành luật; nếu chẳng thành luật, thế nào thành Ðạo. Ngài cười rồi tiếp: Lão tâu cùng Ðại Từ Ðại Bi xin thêm vào luật những điều bí mật yếu trọng. Ấy vậy chư Hiền Hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất; các Ðạo Hữu phải để lòng thành khẩn; hiệp sức làm một với Lão, mà nài xin Thánh Luật, nghe à: (Cười...). Hễ Ðạo trọng thì tức nhiên chư Hiền Hữu trọng, vậy thì chư Hiền Hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người Ðời... Từ đây, Lão hằng giữ gìn cho chư Hiền Hữu hơn nữa; nếu thảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư Hiền Hữu thêm cao trọng nữa, vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà, nghe!
Ngài liền kêu hai vị Chưởng Pháp lên lấy bộ Luật xuống, đặng dâng qua cho Hiệp Thiên Ðài, lại dạy Hộ Pháp và Thượng Phẩm xuống Cửu Trùng Ðài đứng nơi vị mình. Hộ Pháp thì bắt ấn Hộ Pháp trấn trên bộ Luật, còn Thượng Phẩm thì cầm Long Tu Phiến che trên ấn ấy, rồi dạy hai vị Chưởng Pháp như vầy: "Ta kỳ cho một tháng phải nạp Luật".
Hai vị Chưởng Pháp lãnh kiểm dượt luật trong một tháng đem nạp hồi cho Lý Giáo Tông; rồi Ngài mới cậy hai vị Ðầu Sư thay mặt cho Ngài, đệ lên Hiệp Thiên Ðài dâng cho Hộ Pháp cầu Thầy giáng xuống sửa lại. Nhờ Ngài và Hội Thánh cầu khẩn, Thầy đã giáng bút truyền các bí pháp ấy cho Hộ Pháp (3).
Coi theo đây thì thấy rõ: Ðức Giáo Tông kêu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh xem người hành sự mà bắt chước, thì đủ chỉ rõ rằng: Ngài ban quyền hành sự trọn vẹn cho Chánh Phối Sư, lại buộc cả ba đều để sáu bàn tay vào cho đủ, tức là cả buộc cả ba hiệp một mới đặng. Ðầu Sư cũng vậy mà Chưởng Pháp cũng vậy, phải hiệp một mới phù hạp câu Thánh Ngôn "Một thành ba, mà ba cũng như một" (4).
Sao lại giao cho Chánh Phối Sư chỉnh đốn Tân Luật, ngày sau có phải giao cho Chánh Phối Sư như vậy nữa chăng?
Trên kia đã nói Chánh Phối Sư là người thay mặt cho cả nhơn sanh giữa Hội Thánh, ấy là người làm chủ nhơn sanh trong nền Ðạo (5), hễ gọi là chủ nhơn sanh, ấy là nhơn sanh vậy.
Trong Bát Quái Ðài kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã vào địa vị của các Ðấng Trọn Lành "classe des Parfaits ou des Purs" (6), từ Thánh vị trở xuống nhơn vị thì vào hàng Thánh "classe des Épures" (6), từ thú cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục "classe des Impurs" (6), ấy vậy trong Bát Quái Ðài từ bực Thánh hồn thì còn phận sự điều đình Càn Khôn Thế Giái, giao thiệp cùng các chơn hồn, còn ở trong vòng vật chất, nâng đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hóa lên cho tới Thánh vị. Hễ vào đặng Thánh vị rồi thì tự nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đọa trần đi nữa cũng còn giữ vẹn Thánh Ðức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành, lên địa vị trọn lành rồi thì mới đồng quyền cùng Tạo Hóa, từ bi, tự tại bất tiêu bất diệt.
Trong Hiệp Thiên Ðài thì có Hộ Pháp thay quyền cho các Ðấng Thiêng Liêng và Thầy mà gìn giữ công bình Tọa Hóa, bảo hộ nhơn loại và vạn vật lên cho tới địa vị tận thiện tận mỹ; người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ. Hay(1) Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo hộ cho sự tấn hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo hộ thì phải có luật pháp, lấy luật pháp mà kềm chế nhơn sanh, cũng như các Ðấng trọn lành lấy Thiên Ðiều mà sửa trị Càn Khôn Thế Giái.
Hộ Pháp là thể các Ðấng Trọn Lành, Hay(1) người lại giao quyền cho Thượng Phẩm lập Ðạo, đặng dìu dắt các chơn hồn lên tột phẩm vị của mình, tức là nâng đỡ binh vực cả Tín Ðồ và Chức Sắc Thiên Phong ngồi an địa vị, cũng như chư Thần, Thánh điều đình Càn Khôn Thế Giái cho an tịnh hòa bình mà giúp sức cho vạn loại sanh sanh hóa hóa. Thượng Phẩm tiếp các chơn hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Ðạo; Thượng Phẩm là người thể Ðạo đối với hàng Thánh, ấy là người làm đầu các Thánh. Còn Thượng Sanh về thế độ, đem các chơn hồn vào cửa Ðạo, dầu nguyên nhân hay là hóa nhân cũng vậy, phải nhờ người độ rỗi. Thượng Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế, điều độ nhơn sanh ra khỏi trầm luân khổ hải, Hay(1) buộc Thượng Sanh phải gần kẻ vô đạo đặng an ủi dạy dỗ, mà kể từ hạng vô đạo trở xuống, cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng Sanh là thể Ðời, người đứng đầu của phẩm phàm tục. Hay(1).
Trong Cửu Trùng Ðài có Ðầu Sư thì đối với phẩm Ðịa Tiên, Chưởng Pháp thì đối với phẩm Nhơn Tiên, Giáo Tông thì đối với phẩm Thiên Tiên: Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Phật vị tại thế nầy. Ấy vậy, các Ðấng ấy đối phẩm cùng các Ðấng Trọn Lành của Bát Quái Ðài. Giáo Tông giao quyền cho Ðầu Sư, Ðầu Sư lại phân quyền cho Chánh Phối Sư, Hay(1) lập Ðạo đặng độ rỗi nhơn sanh; cũng như Hộ Pháp giao quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm; còn Chánh Phối Sư và Phối Sư đối phẩm Thiên Thánh, Giáo Sư đối phẩm Nhơn Thánh, Giáo Hữu đối phẩm Ðịa Thánh, Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần, Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự đối phẩm Nhơn Thần, Chư Tín Ðồ đối phẩm Ðịa Thần. Hay(1) Ấy vậy, các vị ấy đối phẩm vào hàng Thánh của Bát Quái Ðài là cầm quyền lập Ðạo.
Kẻ Ngoại Giáo, Tả Ðạo Bàng Môn, người vô đạo, riêng nắm quyền hành thế tục, nghịch cùng chơn lý Chánh Truyền; mượn thế lực phàm tục mà diệt lành dưỡng dữ, mê hoặc nhơn sanh, lưu luyến trần thế; trên không biết Trời, dưới không kỉnh đất; lấy người làm lợi khí đặng vụ tất công danh, quyền quyền thế thế: chẳng kiêng nể luân hồi, ham vật chất hơn tinh thần, lấy vinh hoa của kiếp sanh làm sở nguyện, như thú vật, cây cỏ, sắt đá, chỉ biết sống mà không biết sống để làm gì, còn không hay, mà mất cũng không biết. Ấy là hạng phàm, gọi đời đó vậy, ( Hay... Áng văn tuyệt bút Lão khen đa) (1)
Thầy đã dạy nhơn sanh tự lập luật lấy mình, mà Chánh Phối Sư đã hẳn là người thay mặt cho Nhơn Sanh, tức nhiên quyền hành lập luật là nơi tay Chánh Phối Sư đã đáng.
Quyền hành chánh trị về phần Ðầu Sư, mà quyền hành sự về Chánh Phối Sư, bằng chẳng vậy thì ngôi Giáo Tông, Ðầu Sư cũng không kiêng nể; vì đã nhứt thống quyền chánh trị và luật lệ; lại nữa, Thầy đã định ngôi Giáo Tông thì Ðầu Sư và Chưởng Pháp tranh cử đặng, nếu không giảm quyền Ðầu Sư thì Chưởng Pháp mong chi đắc cử.
Chánh Phối Sư đã là người thay mặt cho nhơn sanh chỉ biết tuân lịnh mà thôi, chớ không phép cãi lịnh, có phép dâng luật lên cho Ðầu Sư cầu xin chế giảm chớ không đặng phép lập luật. Như ngày sau, nếu Thầy ban quyền cho nhơn sanh lập luật lại nữa, thì người mới có quyền chỉnh đốn luật lệ như buổi nầy vậy. Vì vậy mà Thầy mới nói:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Ba vị Chánh Phối Sư đặng phép thế quyền cho Ðầu Sư, song không đặng quyền cầu phá luật lệ".
CHÚ GIẢI: Hễ trái mạng lịnh Thiêng Liêng, sửa cãi luật lệ mà hành sự, hoặc thêm, hoặc bớt, thì là phạm phép Thiên Ðiều làm cho Thánh Giáo trở nên Phàm Giáo. Nhơn sanh là Phàm, Hội Thánh là Thánh, nếu không Hội Thánh phê chuẩn thì những điều chi sửa cãi bởi Chánh Phối Sư, nghĩa là nhơn sanh, đều là phàm cả, mà hễ phàm thì khó mong lập vị Thánh cho đặng. Hay(1) Bởi cớ ấy nên Thầy không cho Chánh Phối Sư lập luật; ấy cũng là cơ mầu nhiệm, diệt phàm của Ðạo vậy. Hay(1).
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông.
(2) Cười... Cái giá trị của Tân Luật dường đó, mà cả Hội Thánh coi rẻ rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi Giáo Tông, đặng lấy Thiên Ðiều khảo tội. Ôi thôi! Biết bao kẻ bị đọa lạc vào Phong đô, vì đó.
(3) Mừng thay cho nhơn loại chút ít rồi. Hội Thánh Chơn Truyền Tân Pháp đã đạt đặng như phép "Giải Oan", phép "Khai Sanh Môn", Ban Kim Quan vân vân..., lại còn nhiều bí pháp nữa mà Hộ Pháp chưa có lịnh truyền và lại bị chúng sanh và Hội Thánh còn mờ hồ không nạp dụng. Ngày nay chẳng biết các Ðấng Thiêng Liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát Quái Ðài đã thọ lịnh của Thầy mà hành Pháp vì thuộc về quyền hành của các Ðấng ấy; ngày nay mới tính sao? Trong các bí pháp có cơ mầu nhiệm đắc Ðạo, bây giờ các Ðấng ấy có cho hay là không? Thảm!... (Cười), nếu Lão có phương chỉnh đốn nền Ðạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu Trùng Ðài cũng đã yểm quyền Bát Quái Ðài mà chớ: Thật vậy đó chút!
(4) Ấy là cơ vô vi Tinh Khí Thần hiệp nhứt, chư Hiền Hữu có biết à! Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần, nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Ðạo đặng khá nhớ!
(5) Ðây cũng nên giải, vì cớ nào kể từ phẩm Chánh Phối Sư trở xuống, thuộc về thế, nghĩa là Ðời và từ phẩm Ðầu Sư đổ lên thuộc về Thánh, nghĩa là Ðạo, bên Hiệp Thiên Ðài cũng có Ðời và Ðạo, mà Bát Quái Ðài cũng phải có vậy, mới nhằm cơ hiệp một Ðời cùng Ðạo. Tức là trong Ðạo có Ðời, mà trong Ðời cũng có Ðạo.
(6) Ðức Lý Giáo Tông khen hay.
VI. QUYỀN HÀNH GIÁO SƯ
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo Sư có 72 người, mỗi phái là 24 người.
CHÚ GIẢI: Giáo Sư có 72 người, chia đều ra mỗi Phái là 24, không đặng phép tăng thêm hay là giảm bớt.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo Sư là người dạy dỗ chư Môn Đệ trong đường Đạo và đường Đời.
CHÚ GIẢI: Đã biết rằng Giáo Sư thế quyền cho Đầu Sư và Phối Sư mà cai quản các Thánh Thất nơi Châu Thành lớn mặc dầu, nhưng Thầy định quyết cho người có quyền dạy dỗ mà thôi, song quyền hành có rộng thêm đôi chút là dạy dỗ trọn cả đường Đạo và đường Đời. Nghĩ cũng chẵng chi làm lạ, vì cả Chức Sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Thầy lập, phải tùy theo tôn chỉ Đạo, nghĩa là xu hướng về phần giáo dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy dỗ, còn tên của Chức Sắc đủ chỉ rõ ràng phận sự giáo hóa là chánh vai của mỗi người; như Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Giáo Tông; xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ Giáo hay là chữ Sư. Cơ Đạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời nầy "Thiên mạng chi vị tánh, xuất tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị Giáo". Thầy chỉ cậy Hội Thánh, Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng sanh đặng lành; ấy là phận sự cần nhứt của Hội Thánh đó.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em.
CHÚ GIẢI: Thầy buộc Giáo Sư phải lo lắng cho các Tín Đồ trong địa phận mình cai quản, như anh ruột lo cho em, nghĩa là thân cận với các Tín Đồ như anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, phải đoạt tình thân thiết của mỗi người cho họ đủ yêu mến mà nương dựa nơi mình, hầu lừa thế chia vui, sớt nhọc, tình ái liên lạc thế nào, phải cho ra người anh ruột của các Tín Đồ, mới vừa lòng Thầy sở định. Hay(1) Những tiếng anh ruột lo cho em là đủ nghĩa.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Đồ.
CHÚ GIẢI: Bộ sanh tử, bộ hôn phối, sổ nhập môn hay là trục xuất của cả Tín Đồ, đều về phần Giáo Sư nắm giữ. Giáo Sư là người thủ bộ Đời của Đạo, quyền hành đã nhứt định; chẳng Chức Sắc nào đoạt đặng.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó phải chăm nom về sự tang hôn của mỗi đứa.
CHÚ GIẢI: Hễ thủ bộ Đời, thì chăm nom về tang hôn rất tiện. Quan, Hôn, Tang, Tế, là điều cần nhứt của kiếp sống người đời, mà Thầy chỉ định giao cho Giáo Sư có sự tang hôn mà thôi; ấy vậy Giáo Sư đặng trọn quyền sắp đặt sửa đương thế nào cho hai lẽ ấy đặng phù hạp với tục lệ của nhơn sanh, tùy theo phong hóa của các sắc người, song chẳng đặng làm cho thất thể Đạo, nghĩa là mỗi điều sửa cải phải do nơi Hội Thánh phê chuẩn. Thầy đã nói: "Của mỗi đứa", tức nhiên mình cũng phải hiểu của mỗi nước.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Như tại Châu Thành lớn thì mỗi đứa đặng quyền cai quản, cúng tế Thầy như Đầu Sư và Phối Sư.
CHÚ GIẢI: Đây Thầy đã nói tại Châu Thành lớn, thì chúng sanh cũng nên hiểu là địa phận thuộc về dưới quyền trách nhậm của Giáo Sư cai quản, người đặng quyền cúng tế Thầy như Đầu Sư và Phối Sư, mà đặng quyền cúng tế Thầy như Đầu Sư và Phối Sư thì tức nhiên phải tùng theo lễ phép của Đầu Sư và Phối Sư phán dạy. Ấy vậy lễ cúng tế chẳng phải trọn quyền của người mà là của Hội Thánh sở định.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó đặng dâng sớ kêu nài về sự luật lệ làm hại nhơn sanh hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy.
CHÚ GIẢI: Những Tân Luật hay là Cựu Luật mà đã rõ có hại cho nhơn sanh, thì Giáo Sư đặng phép kêu nài hay là cầu xin chế giảm.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Đệ, như anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, nghe à!
CHÚ GIẢI: Đây là một câu Thầy lập lại nữa, quyết định cho Giáo Sư phải thân cận với mỗi Môn Đệ của Thầy như anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, nên chi, Thầy mới gằn hai chữ "nghe à" xin hãy coi đó mà để ý.
Giáo Sư đã là người thay quyền cho Đầu Sư và Phối Sư mà cai quản Thánh Thất và cúng tế Thầy, ắt buộc phải tùng quyền Phối Sư, chẳng đặng trái mạng lịnh người, trừ ra các quyền hành riêng Thầy đã định, thì nhứt nhứt đều tùng trật tự, do lịnh Phối Sư không đặng phép tự mình sửa cãi. Nếu sửa cãi là phạm trật tự, mà phạm trật tự, nghịch Pháp Chánh Truyền ắt bị giải ra Tòa Tam Giáo.
__________________________________________________ _
(1) Ấy là lời khen của Đức Lý Giáo Tông.
VII. QUYỀN HÀNH GIÁO HỮU
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo Hữu là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy.
CHÚ GIẢI: Muốn phổ thông chơn Ðạo của Thầy, buộc Giáo Hữu phải học cho lảu thông chơn Ðạo của Thầy. Ấy vậy, chức Giáo Hữu phải có khoa mục mới đặng. Cái phận sự phổ thông là một phận sự lớn lao quí trọng, nếu chẳng biết tôn chỉ của Ðạo cho thông suốt, lại đem xuống truyền bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch cùng chơn lý của Ðạo, là hại Ðạo. Huống chi Thầy đã nói Giáo Hữu là người thân cận của nhơn sanh hơn hết, nếu chẳng lựa chọn kẻ hạnh đức, tu tâm, có đủ tư cách mà bày gương Ðạo cho rõ ràng, nhơn sanh chỉ để mắt vào đó mà khen, hay là chê Ðạo, vì sự chơn thật, hay là giả dối, nhơn sanh chỉ coi đó mà quyết đoán. Trò phải như Thầy, mà Thầy thế nào Trò phải thế ấy, nhơn sanh xem Trò mà đoán Thầy. Cái thể thống của Ðạo Thầy gọi là chơn thật thì phải hành Ðạo thế nào cho ra chơn thật y như Thầy sở định. Bực trí thức, muốn quan sát một nền Ðạo nào, thì chẳng cần biết hết Chức Sắc, chỉ lựa một phẩm vị yếu trọng hơn hết là bực hạ thừa, mà so sánh tư cách, hạnh đức, đặng quyết đoán tôn chỉ nội dung của Tôn Giáo ấy.
Giáo Hữu là một phẩm vị rất yếu trọng. Ấy vậy buộc Giáo Hữu phải thể Ðạo cho xứng đáng Tôn chỉ cao thượng của Ðạo. Muốn cho xứng đáng thì phải thông suốt cả các chơn lý Ðạo.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ.
CHÚ GIẢI: Giáo Hữu đặng quyền dưng sớ cho bề trên mà xin chế giảm luật lệ; biết đâu, ngày kia các vị ấy còn phải thuyên bổ đi phổ thông chơn Ðạo Thầy trong một nước, hay là một dân tộc nào mà phong hóa không thể tùng theo Ðạo luật đặng, nếu không chế giảm cho phù hạp thức lệ lễ nghi của sắc dân ấy, thì khó mà độ rỗi cho đặng. Thầy cho Giáo Hữu đặng quyền xin chế giảm luật lệ là vì vậy.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều, mỗi Phái là một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay giảm bớt.
CHÚ GIẢI: Câu ấy đã nói rõ, chẳng cần phải giải, song buộc phải nói rằng: chức Giáo Hữu để cho cả các sắc dân toàn khắp địa cầu, chớ không phải dành để cho một nước Nam nầy mà thôi, dầu cho ngôi Giáo Tông ngày sau, cũng có đủ các dân tộc khác cầm quyền chấp chánh. Hay(1).
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ.
CHÚ GIẢI: Hễ nói mấy tỉnh nhỏ đặng, thì cũng nói mấy xứ nhỏ, mấy nước nhỏ đặng, mà mấy tỉnh nhỏ, mấy xứ nhỏ, mấy nước nhỏ, thì phải tùng quyền mấy tỉnh lớn, mấy nước lớn, mấy xứ lớn; tức nhiên Giáo Hữu phải tùng quyền Giáo Sư. Khi làm chủ các Thánh Thất, thì Giáo Hữu đặng phép hành lễ y như thức lệ Giáo Sư sở định, không đặng phép sửa cải, nhứt nhứt phải đợi lịnh Giáo Sư, nếu nghịch mạng thì phạm Pháp Chánh Truyền.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Ðiều chi chúng nó xin, thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn hơn hết.
CHÚ GIẢI: Ðã nói Giáo Hữu là người thân mật với nhơn sanh hơn hết, mà kể từ phẩm Giáo Hữu đổ lên cho tới Giáo Tông thì xa lắm; ấy vậy, Giáo Hữu thì gần với nhơn sanh, còn Giáo Tông thì xa nhơn sanh, nếu Giáo Tông muốn gần với nhơn sanh thì phải cần mẫn giao thân cùng Giáo Hữu. Giáo Hữu là người biết nhơn sanh hơn hết, nếu Giáo Tông muốn biết nhơn sanh, thì phải nghe lời Giáo Hữu.
Thánh ý muốn cho Giáo Tông đặng gần nhơn sanh cũng như Giáo Hữu, cho nên dặn Giáo Tông phải để ý cần mẫn, xét nét mỗi điều của Giáo Hữu cầu xin hơn hết song mỗi điều chi Giáo Hữu cũng không đặng phép loạn đẳng cấp, nghĩa là phải nương theo các phẩm cấp trên mình mà dâng sớ.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Như điều chi mơ hồ, thì cũng nó là kẻ sai đi kiểm dượt.
CHÚ GIẢI: Chúng sanh là Thế, mà muốn cho biết Thế, thì phải thân cận chúng sanh, gần chúng sanh thì mới biết đặng sự hạnh phúc cùng là sự uất ức của chúng sanh.
Người gần gũi chúng sanh là Giáo Hữu: Thảng như có điều chi làm cho Ðạo với Ðời không tương đắc, sanh ra nghi hoặc, mơ hồ, thì không ai có thể quan sát và kiểm dượt dễ dàng hơn Giáo Hữu, nên Thầy mới giao trách nhậm riêng ấy cho, là vì vậy. Hay(1).
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó phải tu hạnh đức, tư cách, cho lắm mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn sanh hơn hết nghe à!
CHÚ GIẢI: Câu nầy trên kia đã giải rõ, đây chỉ nhắc câu quyết định "nghe à!" của Thầy đó mà thôi. Xin khá để ý.
(Ôi! cái trách nhậm lớn lao ấy, vân vân ...)
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông
VIII. QUYỀN HÀNH LỄ SANH
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Lễ Sanh là đứa có hạnh, lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ.
CHÚ GIẢI: Thầy đã nói Lễ Sanh thì phải lựa chọn người có hạnh hơn hết trong chư Môn Ðệ của Thầy ắt buộc phải hạnh nết hoàn toàn, huống chi phải vào bực Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc, thì Lễ Sanh tất phải là người xứng đáng, có đủ tư cách, học thức mà làm một vị Chức Sắc Thiên Phong ngày sau.
Tuy vẫn đã biết, lúc Thầy lập Pháp Chánh Truyền, thì Thầy dạy hành lễ dường ấy mặc dầu, là bởi lễ nghi phong hóa nhà Nam ta buộc phải vậy, chớ Lễ Sanh mà đối chức "Anh" ( Frère ) của Thánh Giáo, thì phận sự cao trọng của Chức Sắc ấy là dường nào!
Sau đây buộc Lễ Sanh phải có cấp bằng nơi trường Ðạo, mới mong dự cử vào địa vị ấy. Vậy thì Lễ Sanh là người thay mặt cho Giáo Hữu, khi Giáo Hữu vắng mặt, mà hành lễ cúng tế Thầy, song phải tùng quyền Giáo Hữu mà hành sự (1).
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó đặng đi khai đàn cho mỗi Tín Ðồ.
CHÚ GIẢI: Lễ Sanh phải đi thăm viếng các nhà Ðạo Hữu, thượng tượng khai đàn; dạy cho biết lễ nghi cúng tế Thầy, thay quyền cho Giáo Hữu.
Như ngày kia Ðạo đã xuất dương ra ngoại quốc thì sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Nam, phận sự của Lễ Sanh đây mới ra sao? Tưởng chẳng chi khác hơn là đổi ra phần thăm viếng Tín Ðồ, an ủi, dạy dỗ chăm nom dìu dắt trong đường Ðạo cũng như đường Ðời, thay quyền cho Giáo Hữu.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy dặn các con rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó".
CHÚ GIẢI: Thấy lòng bác ái của Thầy bắt động lòng, vì Thầy đã biết rằng Lễ Sanh phải chịu tùng phục dưới quyền người sai khiến, nên phải có hạnh đức, mới biết an phận mình, mà chịu phần lòn cúi, quật hạ đặng. Thầy lại để lời dặn rằng: Lễ Sanh là người yêu mến của Thầy, ấy là Thánh ý muốn không cho kẻ bề trên lấy quyền hiếp em dưới.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Như đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua được hàng Chức Sắc".
CHÚ GIẢI: Câu nầy trên đã giải rõ, nên chẳng cần lập lại, nhưng phải nhắc rằng Lễ Sanh, hoặc đặng đắc cử hay là có khoa mục mới đạt vị.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi ngã ấy mà thôi, "nghe à!".
CHÚ GIẢI: Phải có cấp bằng Lễ Sanh mới vào hàng Giáo Hữu đặng, kỳ dư Thầy giáng cơ phong thưởng riêng, mới qua đặng Pháp Chánh Truyền, Thầy quyết định với tiếng "nghe à!" xin khá để ý (2).
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Nhiều khi chư Hiền Hữu lạm dụng danh Lễ Sanh mà cho kẻ hiến lễ làm cho mất thể diện của vị Thiên phong. Vậy Lão đặt tên cho kẻ hiến lễ ấy là Lễ Sĩ.
(2) Ôi! cái hại là do tại nơi lòng quá yêu của Chí Tôn phong thưởng ấy, mà gây loạn cho Chơn Truyền. Lão nhứt định cầu khẩn Chí Tôn chẳng cho như vậy nữa.
IX. QUYỀN HÀNH CHÁNH TRỊ SỰ
CHÚ GIẢI: Chánh Trị Sự là Chức Sắc của Đức Lý Giáo Tông lập thành, (1) phải tùng quyền Lễ Sanh mà hành sự. Đặng làm chủ trong địa phận Giáo Hữu và thay mặt cho Đạo làm anh cả trong phần địa phận ấy.
Đây xin nhắc lời của Đức Lý Giáo Tông giáng bút giải nghĩa chức Chánh Trị Sự và nài Hộ Pháp ban quyền luật lệ Hiệp Thiên Đài cho Chức Sắc ấy (2) đặng đủ thế lực mà làm cho hoàn toàn trách nhậm.
Lời Đức Lý Giáo Tông nói: "Chánh Trị Sự là người thay mặt cho Lão, làm anh cả của chư Tín Đồ trong phần địa phận của nó, Lão muốn thế nào cho Lão có mặt khắp nơi, tận ven Trời cùng góc bể. Lão tưởng Hiền Hữu cũng muốn vậy chớ (3). Trong nhơn sanh, hạng trí thức thì ít, hạng ngu muội thì nhiều, nếu chúng ta không có đủ sức điều đình, thì khó mà rải chơn lý Đạo khắp nơi cho đặng. Càng thân cận với nhơn sanh lại càng chịu nhiều sự khó khăn rắc rối; chúng ta phải liệu phương nào mà trừ diệt những sự khó khăn ấy, khi mới nảy sanh ra. thì nền Đạo mới khỏi loạn lạc. Vậy Lão xin Hiền Hữu ban quyền cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ sửa răn, thay quyền cho chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã"
Khi ấy Hộ Pháp đã chịu lời cùng Ngài, (4) và đã hiểu rõ ý tứ cao thượng ấy.
Sao Thầy lại giáng bút nữa cũng khuyên Hộ Pháp ban quyền.
Theo Thánh ý Đức Lý Giáo Tông, thì quyền hành Chánh Trị Sự như vầy: Chánh Trị Sự phải chăm nom, giúp đỡ sự sanh hoạt của Môn Đệ Thầy đã chịu dưới quyền người điều khiển, giúp khó, trợ nghèo, coi cả Tín Đồ như em ruột, có quyền xử đoán, nhứt là việc bất bình nhỏ mọn xảy ra trong phần Địa phận của mình, song phải tùng lịnh Giáo Hữu và Lễ Sanh cùng người Đầu Họ.
Người Tín Đồ mà phạm luật Đạo, thì Chánh Trị Sự phải khuyên nhủ răn he, ít nữa là đôi lần, thảng như không biết ăn năn chừa cải, thì tư tờ về Thánh Thất sở tại cho Giáo Hữu, đặng người đòi đến mà dạy dỗ răn he. Như Giáo Hữu đã dạy dỗ răn he rồi, mà còn tái phạm, thì Chánh Trị Sự có quyền đệ tờ lên cho người Đầu Họ mà cầu xin Hội Thánh trừng trị hay là trục xuất, chiếu theo Tân Luật.
Tờ nầy phải làm ra hai bổn, một bổn tư về Hiệp Thiên Đài, và một bổn về Cửu Trùng Đài.
Như có điều chi sái luật Đạo, mà Chánh Trị Sự đã nhiều phen tư tờ cho Cửu Trùng Đài, song Cửu Trùng Đài yêm ẩn, thì Chánh Trị Sự đặng phép tư tờ thẳng lên Hiệp Thiên Đài, kêu nài định đoạt.(5)
Cấm Chánh Trị Sự không đặng phép lấn địa phận của người đồng phẩm, không đặng đi nơi khác mà hành chánh. Buộc hành Đạo như vầy: "Phải chia địa phận mình ra nhiều địa phận", tùy theo lớn nhỏ mà giao cho Phó Trị Sự.
Buộc Phó Trị Sự phải thay phiên nhau đặng nạp cho Chánh Trị Sự, mỗi tháng ba mươi người công quả, tức là mỗi ngày, phải có một người hầu việc cho Chánh Trị Sự. Chánh Trị sự mới sai người đó đi khắp địa phận mà thăm viếng Tín Đồ về sự bịnh hoạn, đói khó. Hễ có một người trong địa phận bị tai nạn, thì biểu người công quả ấy ở tại đó mà giúp đỡ, săn sóc, hoặc bịnh hoạn phải lo nuôi dưỡng, hoặc nghèo nàn phải chung hiệp nhau mà gở khổ, ấy là phận sự rất cao thượng của Chánh Trị Sự, cái vẻ riêng tốt đẹp của Đạo do tại nơi đó.
Đức Lý Giáo Tông lại dạy rằng: "Vậy mới phải là anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, chia vui sớt thảm, no đói có nhau, giữ quyền lợi cho nhau, không giành, không giựt, hễ đói thì mình chung nuôi, bị thất lợi thì mình phải giữ; hễ nhục thì mình chung chịu, ắt quyền hành mình phải trọng."
Trước khi lãnh trách nhậm, buộc Chánh Trị Sự phải đến Thánh Thất sở tại mà lập minh thệ; phải thề rằng: "Giữ dạ vô tư mà hành Đạo, dầu cha mẹ, anh em, vợ con, cũng chẳng đặng phép tư vị, gìn dạ chơn thành, thể thiên hành Đạo. Chánh Trị Sự là Đầu Sư em đó vậy.
__________________________________________________ ____
(1) Đức Giáo Tông khen: "Phải".
(2) Cười.
(3) Lão tưởng chư Hiền Hữu lại tưởng thế nào. Lão hỏi?
- Thượng Trung Nhựt trả lời: Bạch Ngài, ấy là điều quí báu, từ xưa đến nay nhơn sanh không đặng hưởng ân huệ như vậy.
(4) Lão khen tài nhớ của Hộ Pháp đó.
(5) Dường ấy mới tránh sự áp quyền.
X. QUYỀN HÀNH PHÓ TRỊ SỰ
CHÚ GIẢI: Phó Trị Sự cũng là Chức Sắc của Lý Giáo Tông lập thành.
Người đặng đồng quyền cùng Chánh Trị Sự, trong một địa phận của Chánh Trị Sự nầy cho cai quản. Người có quyền về chánh trị chớ không có quyền về luật lệ. Ðặng phép sửa đương, giúp đỡ dìu dắt, dạy dỗ chư Tín Ðồ trong địa phận trấn nhậm, mà không đặng phép xử đoán. Buộc mỗi tháng, thay phiên với các Phó Trị Sự khác, mà dâng cho Chánh Trị Sự ba chục người công quả, đặng cho Chánh Trị Sự có thể sắp đặt việc giúp đỡ kẻ cô thế, bịnh hoạn, bị tai nạn, trong địa phận sở tại mình, song khi đắc lịnh của Chánh Trị Sự dạy giao người công quả ấy, nơi nhà người Tín Ðồ nào, thì phải chăm nom coi chừng có làm phận sự cùng chăng? Hoặc có sơ sót điều chi, phải cho Chánh Trị Sự hay, đặng sửa đương chỉnh đốn lại. Mỗi ngày phải chạy tờ Nhựt Ðể cho Chánh Trị Sự hiểu điều động tịnh trong địa phận của mình; nhứt là những sự chi làm hại cho phương diện Ðạo, thì phải tức cấp cho Thông Sự hay, đặng điều đình thế nào cho an ổn. Những sự kiện thưa, những điều sái luật Ðạo, đã đặng tin quả quyết, thì chẳng đặng phép yêm ẩn, ngó lơ, buộc phải giao cho Thông Sự phán xử.
Cấm nhặt không cho Phó Trị Sự lấn quyền về luật lệ, (Hay)(1) Phó Trị Sự là Giáo Tông em.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông.
XI. QUYỀN HÀNH THÔNG SỰ
CHÚ GIẢI: Thông Sự là Chức Sắc của Lý Giáo Tông khuyên Hộ Pháp lập thành.
Thông Sự là người đồng thể cùng Phó Trị Sự trong địa phận của Phó Trị Sự cai quản, song người có quyền về luật lệ chớ không có quyền về chánh trị.
Thông Sự là người của Hiệp Thiên Ðài để tùng quyền Chánh Trị Sự. Phận sự của người thì phải xem xét, kiểm dượt cử chỉ hành đạo của Phó Trị Sự. Mọi việc chi làm cho mất lẽ công bình nơi địa phận của Phó Trị Sự cai quản mà Hội Thánh không rõ thấu, thì Thông Sự phải chịu phần trách cứ. Hay(1)
Những điều chi sái luật Ðạo, chẳng y theo lịnh Hội Thánh tư truyền, hoặc sửa cải Tân Luật, hoặc cải lịnh hành chánh, Hay(1) nếu chẳng có phép của Chánh Trị Sự truyền dạy mà Phó Trị Sự tự chuyên thi hành, Hội Thánh lại không hay biết chi hết, thì tội tình ấy về phần Thông Sự.
Tuy người phải chịu dưới quyền Chánh Trị Sự mặc dầu, song đặng quyền sửa lỗi của Chánh Trị Sự. Thảng như đã thấy lẽ vô Ðạo hiển nhiên của Chánh Trị Sự, thì Thông Sự đặng phép can gián sửa lỗi; nếu đã nhiều phen mà Chánh Trị Sự chẳng nghe và đã có tư tờ về Cửu Trùng Ðài mà Cửu Trùng Ðài yêm ẩn, thì người đặng phép chạy tờ về Hiệp Thiên Ðài mà cầu xin sửa trị. Người phải chăm nom, binh vực những kẻ cô thế, bất câu người có Ðạo hay là ngoại Ðạo, hoặc là bị tai nạn thình lình, hoặc bị nghèo nàn đói khó, hoặc bị bịnh hoạn cô thân, hoặc phải bị tha hương lữ thứ, hoặc bị yếu tha già thải, (2) người đặng trọn quyền buộc Phó Trị Sự phải liệu phương giúp đỡ.
Bất kỳ Chức Sắc nào, dầu lớn nhỏ cũng vậy, khi Thông Sự có gặp (3) việc cần dùng gắp rút trong khi hành chánh của Ðạo thì buộc phải giúp đỡ binh vực. Những kẻ nào mà Thông Sự đã nhiều phen trách cứ về tánh cường ngạnh, không chịu giúp sức người trong cơn gắp rút đã đủ chứng cớ thì Hiệp Thiên Ðài sẽ xin Hội Thánh trừng trị. Trước khi lãnh trách nhiệm, buộc Thông Sự phải đến Thánh Thất sở tại mà lập minh thệ, y như Chánh Trị Sự, Thông Sự là Hộ Pháp em.
Thầy đã nói: "Nếu dưới mắt các con còn thấy một điều mất lẽ công bình, thì Ðạo chưa thành lập"(1).
CHÚ GIẢI: Bực hạ đẳng nhơn sanh thường bị hiếp đáp vì mất lẽ công bình hơn hết. Bởi cớ ấy mà quyền của Thông Sự rất nên yếu trọng.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông.
(2) Ðời có sưu thuế mà đặng tha đi là có tật nguyền không phương bảo thân cho vẹn, còn lớn thì có bịnh tình phận sự mà bị thải ra thì là lão thành cô độc.
(3) Ðoạn này Ðức Lý Giáo Tông hỏi rằng: Nếu nói có việc chi dầu cho không nó cũng kiếm cớ đặng dụng ai sai nấy thì Hộ Pháp mới tính sao? (Cười) Ngài thêm chữ gặp vào nữa, nghĩa là thay vì: có việc; Ngài để: có gặp việc.
http://caodaism.org/1002/0111-pct.htm
ĐẠO PHỤC CHỨC SẮC
CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI
ÐẠO PHỤC GIÁO TÔNG
ÐẠO PHỤC CHƯỞNG PHÁP
ÐẠO PHỤC ÐẦU SƯ
ÐẠO PHỤC CHÁNH PHỐI SƯ & PHỐI SƯ
ÐẠO PHỤC GIÁO SƯ
ÐẠO PHỤC GIÁO HỮU
ÐẠO PHỤC LỄ SANH
ÐẠO PHỤC CHÁNH TRỊ SỰ
ÐẠO PHỤC PHÓ TRỊ SỰ
ÐẠO PHỤC THÔNG SỰ
ÐẠO PHỤC GIÁO TÔNG
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Giáo Tông có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba Cổ Pháp là: Long Tu Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế) Ðầu đội mão vàng năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ Chi Ðại Ðạo) ráp tròn lại bít chính giữa; trên chót mão có để chữ "Vạn" giữa chữ vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí; nơi ngạch mão, phải chạm ba Cổ Pháp cho rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên kia, tay mặt cầm cây gậy 0m90, trên đầu gậy có chữ "Vạn" bằng vàng, nơi giữa chữ vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí (1).
Bộ Tiểu Phục cũng toàn bằng hàng trắng, có thêu chữ Bát Quái bằng vàng, cung Khảm ngay Hạ Ðơn Ðiền, cung Cấn bên tay mặt, cung Chấn bên tay trái, cung Ðoài bên vai mặt, cung Tốn bên vai trái, cung Ly ngay trái tim, cung Khôn ngay giữa lưng. Ðầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao ba tất ba phân ba ly (0m333) may giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường xếp (ấy là âm dương tương hiệp) cột dây xếp hai lại, nơi bên tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn (mí dài bề ngang 0m03,bề dài 0m30) trên mão ngay trước trán có thêu chữ cung Càn. Chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trước mũi có chữ Tịch Ðạo Nam Nữ. Tỷ như Ðức Lý Giáo Tông đương thời. thì nơi trước mũi giày của Ngài phải có chữ Tịch Ðạo là "Thanh Hương" (2).
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Thật đẹp.
(2) Hay.
ÐẠO PHỤC CHƯỞNG PHÁP
I.
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Thái Chưởng Pháp có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu vàng (màu Ðạo) có thêu chữ Bát Quái y như Bộ Tiểu Phục Giáo Tông, ngoài thì choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, tức gọi là Khậu, đầu đội mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng tay cầm bình Bát Vu, chơn đi giày vô ưu cũng màu vàng, một sắc với áo, trước mũi có chữ "Thích".
Bộ Tiểu Phục thì cũng màu vàng, y như áo Ðại Phục, ngoài không đắp khậu, không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt.
II.
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục Thượng Chưởng Pháp có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn hàng trắng nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) màu trắng, y như kiểu mão Tiểu Phục của Giáo Tông. Tay cầm Phất Chủ chơn đi giày vô ưu cũng màu trắng trước mũi có chữ "Ðạo".
Bộ Tiểu Phục thì màu trắng y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu trắng chín lớp chữ Nhứt.
III.
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Nho Chưởng Pháp có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu hồng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí. Ðầu đội mão Văn Ðằng màu hồng, trên mão ngay trước trán có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí, và trên có sao Bắc Ðẩu Tinh Quân. Tay cầm bộ Xuân Thu, chơn đi giày vô ưu màu hồng trước mũi có chữ "Nho".
Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu hồng, y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu hồng chín lớp chữ Nhứt.
ÐẠO PHỤC ÐẦU SƯ
I.
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Thái Ðầu Sư có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục toàn hàng màu vàng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, bao quanh ba vòng vô vi, ngay giữa có một chữ Thái, áo có chín dải, ngoài choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, y như của Thái Chưởng Pháp. Ðầu đội Bát Quái Mạo màu vàng, có thêu đủ tám cung chung quanh, chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Thái".
Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu vàng y như áo Ðại Phục. Ðầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt.
II.
CHÚ GIẢI: Ðại Phục của Thượng Ðầu Sư cũng có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn hàng màu xanh da trời (azur) (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, bao quanh ba vòng vô vi, cũng y như của Thái Ðầu Sư, song ngay giữa có để chữ "Thượng" áo cũng chín dải, đầu đội Bát Quái Mạo y như của Thái Ðầu Sư, mà màu xanh da trời, chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Thượng".
Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu xanh da trời y như Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu xanh da Trời, chín lớp chử nhứt.
III.
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Ngọc Ðầu Sư cũng có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục toàn bằng hàng màu hồng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ bao quanh ba vòng vô vi cũng y như Thái Ðầu Sư và Thượng Ðầu Sư, song ngay giữa có để chữ "Ngọc", áo cũng chín dải, đầu đội Bát Quái Mạo y như của Thượng Ðầu Sư song màu hồng. Chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Ngọc".
Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu hồng, y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu hồng chín lớp chữ Nhứt.
--------------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA CHÁNH PHỐI SƯ
VÀ PHỐI SƯ
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục cũng có hai bộ phân biệt nhau (Ðại Phục và Tiểu Phục) như của vị Ðầu Sư, song trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng vô vi.
Chánh Phối Sư thì áo chín dải, còn Phối Sư ba dải. Chánh Phối Sư phái Thái thì choàng ngoài Ðại Bá Nạp Quang màu Ðỏ, còn Phối Sư phái Thái thì Tiểu Bá Nạp Quang. Ðầu đội Bát Quái Mạo y như của ba vị Ðầu Sư song tùy theo sắc phái mình, chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi không có chữ chi hết.
Còn Tiểu Phục cũng như Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn tùy theo sắc phái mình, chín lớp chữ nhứt.
--------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA GIÁO SƯ
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Giáo Sư cũng có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng tùy theo sắc phái, nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng vô vi, áo ba dải, đầu đội Thiên Ngươn Mạo Bát Quái, tùy theo sắc phái, có thêu chữ Bát Quái chung quanh, trên chót mão có Minh Châu Lý, Giáo Sư không đặng đi giày.
Tiểu Phục cũng như Ðại Phục. Ðầu không đội mão mà bịt khăn tùy theo sắc phái mình, bảy lớp chữ Nhơn.
Duy có Giáo Sư phái Thái phải choàng ngoài một Tiểu Bá Nạp Quang gọi là "Khậu", đầu đội mão Hiệp Chưởng của nhà Thiền, hai bên có thêu Thiên Nhãn.
--------------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA GIÁO HỮU
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Giáo Hữu có một bộ mà thôi, toàn bằng hàng, tùy theo sắc phái không có thêu thùa chi hết, áo có ba dải. Ðầu đội Ngưỡng Thiên Mạo, cũng tùy theo sắc phái. Cái mão ấy bề cao phải cho đủ phân tấc là 0m150, ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh ba vòng vô vi, Giáo Hữu chẳng đặng bịt khăn.
--------------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA LỄ SANH
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Lễ Sanh cũng y như của Giáo Hữu toàn bằng hàng tùy theo sắc phái, đầu đội Khôi Khoa Mạo toàn bằng hàng trắng, dầu cho phái nào cũng vậy. Ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí, Lễ Sanh không đặng phép đi giày.
--------------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA CHÁNH TRỊ SỰ
CHÚ GIẢI: Chánh Trị Sự mặc Ðạo phục, y như Lễ Sanh, song toàn bằng vải trắng, nịt ngang lưng một sợi dây cũng bằng vải trắng cho thiệt cứng như dây nịt: bề ngang 0m05, áo Ðạo cổ trịt viền chỉ kim tuyến vàng, nơi tay trái có ba sắc Ðạo bề ngang (0m06 bề dài 0m10) đầu bịt khăn đen bảy lớp chữ Nhơn, nơi khăn đen ngay giữa trán có thêu ba Cổ Pháp, y như trên mão Tiểu Phục của Hộ Pháp.
--------------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA PHÓ TRỊ SỰ
CHÚ GIẢI: Phó Trị Sự mặc Ðạo Phục y như Chánh Trị Sự, song cổ trịt viền chỉ kim tuyến trắng; không đặng phép nịt ngang lưng sợi dây như Chánh Trị Sự, áo có một dải, nơi tay trái cũng có ba sắc Ðạo (bề ngang 0m03 bề dài 0m05). Ðầu bịt khăn đen bảy lớp chữ Nhơn.
--------------------------------------------------------------------------------
ÐẠO PHỤC CỦA THÔNG SỰ
CHÚ GIẢI: Thông Sự mặc Ðạo Phục toàn bằng vải trắng, không đặng phép viền chỉ kim tuyến, hai bên cổ áo có thêu ba Cổ Pháp của Ðạo, y như của Hộ Pháp, nịt ngang lưng một sợi dây cũng bằng vải trắng cho thiệt cứng như dây nịt, bề ngang 0m05, đầu bịt khăn bảy lớp chữ Nhơn, nơi khăn đen ngay giữa trán có thêu ba Cổ Pháp y như của Chánh Trị Sự.
CỬU TRÙNG ĐÀI NỮ PHÁI
THÁNH NGÔN CỦA GIÁO TÔNG LÝ THÁI BẠCH
QUYỀN HÀNH NỮ ĐẦU SƯ
QUYỀN HÀNH NỮ CHÁNH PHỐI SƯ & PHỐI SƯ
QUYỀN HÀNH NỮ GIÁO SƯ
QUYỀN HÀNH NỮ GIÁO HỮU
QUYỀN HÀNH NỮ LỄ SANH
QUYỀN HÀNH NỮ CHÁNH TRỊ SỰ
QUYỀN HÀNH NỮ PHÓ TRỊ SỰ
QUYỀN HÀNH NỮ THÔNG SỰ
NỮ PHÁI
(Trích y Thánh Ngôn của Giáo Tông Lý Thái Bạch)
Nữ phái vốn của Ðức Lý Giáo Tông lập thành.
Hộ Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Chánh Phối Sư HƯƠNG THANH rằng: muốn phế Nữ Phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam, Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ Phái buổi lập Pháp Chánh Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền bí với Thầy cùng Ngọc Hư Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Ðức Giáo Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật lệ Thiên Ðiều hay chăng? Hễ càng suy nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày.
Xem lại Nữ Phái không biết trau giồi trí thức đặng làm trách nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu lo thêm nữa!
Chính mình Cao Thượng Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha thứ cho Nữ Phái nơi Ngọc Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Ðạo Tỷ để dạ lo lấy phận mình.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN:"Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái; nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp".
CHÚ GIẢI: Ðức Giáo Tông đến kêu Hội Thánh Nam Phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ Phái Ngài đến ban đặng hành lễ theo đẳng cấp.
Cái tiếng sắc tốt không, dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa lý sâu xa.(1)
Giáo Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật tự cho lắm, vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ Phái phân biệt nhau, chẳng đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.
Hộ Pháp có hỏi Ngài về sự tôn ti phẩm trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng quyền, còn hỏi về Lễ Nghĩa giao thiệp về phần Ðời, thì Ngài dạy Giáo Hữu Nam Phái cũng chịu dưới quyền Giáo Sư Nữ Phái (2), còn lễ thì khi vào Ðại Ðiện tỷ như Giáo Sư Nam Phái gặp Phối Sư Nữ Phái thì Nam phải đãnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy Chức Sắc.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nữ Phái phải tùng Ðầu Sư Nữ Phái song Ðầu Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp.
CHÚ GIẢI: Hội Thánh Nữ Phái phải tùng quyền Ðầu Sư Nữ Phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo Tông và Chưởng Pháp.
Xem rõ lại thì Pháp Chánh Truyền truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.
Hộ Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy: Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?
Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo Tông làm chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám muội.
Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ Pháp con. Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp!
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Nếu chư Hiền Hữu biết coi Nữ Phái như em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ như Lão vậy mới đặng làm trai con Thầy mà chớ.
(2) Phải vậy.
http://caodaism.org/1002/0301-pct.htm
There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)
Bookmarks