
Nguyên văn bởi
kequansat
Bài viết gốc có nhiều ý tưởng hay nhưng theo thiển ý của tôi thì có vài chỗ tôi xin đóng góp thêm:
Đầu đề của bài viết làm tôi nghĩ đến chuyện tác giả ám chỉ đến tội Trộm Pháp (nghĩa là không nhận quán đảnh mà cứ hành trì Mật Pháp). Tội Trộm Pháp thì tôi từng nghe nói trên diễn đàn, còn các vị Thầy dạy Mật Tông của tôi bên ngoài thì tôi chưa nghe Quý Thầy nhắc tới. Cho nên, tôi cũng mù mờ về cái tội này lắm. Ngày trước, khi chưa gặp Thầy dạy và chưa có nguồn sách chân thật để nghiên cứu Mật Tông thì tôi lấy các thông tin ở diễn đàn Online làm hành trang cho tu tập Mật Tông, thế nhưng ý tưởng đó không còn tồn tại cho tới hiện nay. Vì hầu hết các thông tin về Mật Tông trên các diễn đàn thường do chủ quan cá nhân nghĩ sao đăng vậy, tuy có người giỏi về Mật Tông (nghĩa là học rộng biết nhiều và nguồn gốc kiến thức của họ xác thực thu nhận từ các vị Thầy thật sự, thêm nữa nếu may mắn hơn 1 chút thì họ có hành trì) nhưng cũng không thiếu thành phần "chém gió" cho nên mớ kiến thức rối bòng bong mà trước đây tôi cất công thu thập trên diễn đàn, in ra giấy thì nay tôi đem đi đốt cũng khá nhiều, vì lẽ cũng có xen lẫn lời Phật dạy trong đó nhưng hầu hết đều có chung điểm là phát ngôn quá chủ quan thiếu tính xác thực từ nguồn gốc kiến thức khả dĩ tin cậy.
Tội Trộm Pháp thì tôi có nghe trên diễn đàn, ở 1 vị Mật Hữu mà tôi cho là có nhiều am hiểu Mật Tông Tây Tạng, đó là chú Kim Cang. Lâu về sau này thì không thấy chú xuất hiện ở các diễn đàn nữa, có lẽ chú đã chuyển qua tu tập chuyên tâm hơn chăng? Như tôi đã nói thì tôi chưa có dịp xác nhận thông tin về tội Trộm Pháp ở các vị Thầy của tôi và cũng chưa từng nghe qua quí Thầy nhắc tới, cho nên tôi cũng không vội vàng bài bác tội Trộm Pháp. Kiến thức thì mênh mông, tri kiến của con người thì quá nhỏ bé, cho nên không thể nhìn chút "cát" trong cái tri kiến của mình mà vội vàng đánh giá nhận xét về "cái sa mạc" kiến thức với khối lượng kiến thức là số "cát" khổng lồ ở bên ngoài. Nên cẩn thận điểm này.
Tuy chưa rõ về tội Trộm Pháp nhưng trong Mật Tông có những quy định về Quán Đảnh. Nói về Mật Tông thì mình nên biết là nói về Mật Tông nào? Vì theo phân loại (không chính thức của các diễn đàn chứ chưa có tổ chức nào phân chia rõ ràng về phân loại) thì có Đông Mật: nghĩa là Mật Tông truyền về phía các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam và Tây Mật: Mật Tông truyền qua Tây Tạng và các nước có văn hóa tương đồng với Tây Tạng như: Bhutan, Nepal, Sikkim, Mông Cổ, và các nước vùng Siberia, ...
Do sự hiểu biết của tôi gói gọn trong 1 góc nhỏ của Mật Tông Tây Tạng nên tôi xin mạn phép chia xẻ về mảng nhỏ cái hiểu biết thiển cận của mình mà thôi. Theo Tây Mật thì dòng truyền thừa liên tục là điều tối quan trọng. Một Pháp Tu mà vị khai sáng ra tu tập thành tựu, rồi truyền xuống cho học trò, những người học trò cũng tu tập và thành tựu Pháp Tu đó, sẽ được vị Thầy thành tựu chứng nhận sự thành tựu của những người học trò, ... cứ như thế, thế hệ trước tu hành thực chứng và truyền lại cho thế hệ sau, thế hệ đi trước theo dõi và coi sóc thế hệ sau. Đảm bảo cho Pháp Tu nào đó sẽ truyền liên tục đời này qua đời khác. Dòng truyền thừa có nhiều Pháp Tu thì cũng sẽ truyền qua nhiều đời liên tục từ vị Thầy chứng ngộ này sang vị Thầy chứng ngộ khác. Một Pháp Tu trải qua thời gian có nhiều vị tu hành chứng ngộ thì sẽ có sự gia hộ của nhiều thế hệ từng tu tập Pháp Tu đó. Pháp Tu đó tất nhiên khởi đầu từ 1 vị Phật và trải qua nhiều đời đệ tử tu tập thành tựu. Sự gia hộ của dòng truyền thừa liên tục này rất to lớn. Và sự gia hộ này rất cần cho sự tu tập, cho sự thành tựu tối cao là giải thoát sinh tử luân hồi. Nhập dòng truyền thừa và tu tập chuyên tâm, ra sức tu tập thì sẽ có sự gia hộ to lớn. Hướng đích đến tất yếu là Giác Ngộ.
Dễ hiểu vì sao cần có sự liên tục. Để đảm bảo cho Pháp Tu đó vẫn có người hộ trì. Dòng truyền thừa liên tục tưởng tượng như là 1 sợi dây. Các vị Thầy Tổ đều cầm 1 khúc sợi dây, nay đến mình thọ Quán Đảnh thì mình sẽ cầm ở đoạn đây tít dưới này và vẫn còn cùng 1 sợi dây với Liệt Tổ Truyền Thừa. Nếu dòng truyền thừa đứt đoạn thì chỉ có 1 mình mình hay có thể thì có thêm vị Thầy truyền quán đảnh cho mình là cùng cầm 1 khúc dây, còn khúc trên thì cũng có Thầy Tổ dòng truyền thừa cầm vào nhưng không phải 1 sợi dây xuyên suốt nữa rồi.
Sự gia hộ của 1 vị Thánh Tăng cho việc tu tập thì làm sao bằng sự gia hộ của nhiều nhiều vị Thánh Tăng cho tới cả vị Phật (là gốc của Pháp Tu) và các vị Tổ đầu tiên xa xôi của Pháp Tu. Chúng ta cũng thấy ý nghĩa gia hộ này bằng Lễ Tự Tứ - Vu Lan mà Đức Mục Kiền Liên thỉnh chư Tăng cứu bà Thanh Đề ra khỏi địa ngục. Tuy Mục Kiền Liên là đệ tử đệ nhất Thần Thông của Phật Thích Ca nhưng bản thân ông đơn lẽ không cứu được mẹ của mình mà phải nhờ Thần Lực của chư Thánh Tăng thanh tịnh cùng hợp sức vào.
Cái mà chúng ta bàn luận ở đây là sự gia hộ "cộng đồng" của những vị có liên hệ liên tục của dòng truyền thừa 1 Pháp Tu cho những hành giả thọ nhận Quán Đảnh và hành trì. Nếu dòng truyền thừa đứt đoạn thì sẽ không có sự gia hộ to lớn bắt đầu từ vị Tổ cho tới các vị Thành Tựu của dòng truyền Pháp Tu đó. Cho nên, trước lễ Quán Đảnh thì các Rinpoche đều đọc qua về phát tích và dòng truyền thừa của Pháp Tu. Vị Tổ nào truyền cho vị nào, dài dài tới Rinpoche nhận từ vị thành tựu giả nào và nhấn mạnh rằng đây là Pháp Tu truyền thừa liên tục, nay truyền Quán Đảnh đến cho các hành giả. Cái quy tắc này nếu ai có đọc sách Mật Tông Tây Tạng và có dự Quán Đảnh sẽ biết chuyện này. Cái này là quy tắc. Quốc có Quốc Pháp, Gia có Gia Quy. Nhập gia tùy tục. Nếu đi ngoài các quy định thì chẳng có gì để nói để bàn!
Quán Đảnh 1 Pháp Tu là 1 sự xác nhận của vị Thầy có đầy đủ thẫm quyền cho những người thọ Quán Đảnh được phép tu tập Pháp đó. Nghĩa là, người thọ Quán Đảnh sẽ là 1 mắc xích trong dòng truyền thừa của Pháp Tu đó. Khi tu tập thành tâm và đúng theo hướng dẫn của vị Thầy thì sẽ có kết quả như ý của Pháp Tu. Tất nhiên, vị Thầy này phải là vị Thầy đáng tin cậy, vị Thầy đầy đủ phẩm tính. Vị Thầy đầy đủ phẩm tính, vị Thầy thành tựu thì mới có thể ban Quán Đảnh cho chúng ta. Người có tiền mới có thể cho kẻ khác tiền, nếu cũng đều là tay không, tay trắng thì có gì để mà cho ai khác. Thế là sanh ra thêm 1 chuyện nữa là phải tìm hiểu về vị Thầy. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng có thể bỏ vài ba năm để tìm hiểu một vị Thầy trước khi thọ Quán Đảnh và kết thân với vị Thầy, để xác nhận rõ ràng đó là vị Thầy chân chính để nương tựa Giáo Pháp. Tây Mật có rất nhiều cấp độ, cấp độ càng cao thì vai trò vị Thầy sẽ rất lớn. Vị Thầy trong Tây Mật sẽ gắn kết với học trò qua nhiều đời, nhiều kiếp. Vị Thầy là bậc Thành Tựu sẽ tái sanh trở lại theo ý muốn lợi lạc cho chúng sanh của các Ngài và các Ngài sẽ lại tìm ra các học trò cũ của Ngài, chúng sanh phàm phu như chúng ta thì cứ trôi lăn 1 cách tự nhiên trong sanh tử luân hồi, nên chỉ có bậc Thầy Thành Tựu thì mới "thấy" và tìm ra học trò của các Ngài. 1 người cô khả kính và tu tập rất chuyên tâm của tôi đang ở Mỹ, cô đã được Thầy của cô tìm ra cô. Cô từng có nhiều giấc mơ rất tốt và cho đến khi gặp Thầy của mình thì cô mới biết đó là các giấc mơ báo hiệu cô sắp gặp Thầy của mình. Cô gặp Thầy lần đầu tiên thì cô khóc rất nhiều, cứ như con xa cha mẹ lâu ngày như vậy. Rinpoche rất hiền từ chỉ cười và vuốt đầu cô. Còn nhiều trường hợp tu tập tinh tấn khác trong Tây Mật mà có Thầy của các vị tìm ra. Vị Thầy Thành Tựu lúc nào cũng rất từ bi, muốn tìm ra để nhận lại các con của mình, còn các đệ tử thì lại vì tập khí tham sân si mà không lo tu tập và để lạc mất Thầy của mình. Cho nên, nếu chúng ta tu tập tinh tấn và đúng cách thì nếu có vị Thầy tiền kiếp, Ngài sẽ tìm ra chúng ta. Tu hành nghĩa là còn chung con đường với các Thánh Tăng.
Quy Y là 1 lễ khác với Quán Đảnh. Cái này sách vở nói đầy. Phân biệt rõ 2 cái này thì nhiều người đều biết. Thế nên, tôi xin góp ý là tác giả nên xem lại điểm này. Quy Y là bước đầu bước vào Đạo Phật. Chính các Rinpoche dạy, phải Quy Y rồi mới thọ Quán Đảnh, Quy Y rồi mới thọ các giới, từ 5 giới tại gia cho tới giới tỳ kheo, ... cho nên Quy Y và Quán Đảnh hoàn toàn khác nhau.
Phật Giáo Mật Tông cũng là Phật Giáo, nên cũng dựa trên căn bản Kinh-Luật-Luận. Luận Bồ Đề Đạo Hành và các bộ Luận khác mà hành giả Tây Mật thường trích dẫn để minh chứng các luận điểm. Kinh Điển thì Tây Mật tôn trọng cả hệ Kinh Nikaya và hệ Kinh sau Nikya (hệ Kinh Bắc Tông). Giới luật thì cũng không khác các tông phái khác. Người chê Mật Tông là vì họ không hiểu gì về Mật Tông nên mới chê bai, còn hành giả chân chính Tây Mật chúng tôi thì chẳng dám chê bai ai cả, bởi vì chúng tôi chấp nhận Giáo Lý, Kinh Điển các dòng phái, tông phái chân chính của Đức Từ Phụ Thích Ca. Mà nói rộng ra thì, người tu chân chính chẳng chê bai ai cả.
Tác giả nói tới việc hành trì thần chú Linh Nghiệm tuy có bị "khảo" 1 chút. Linh Nghiệm của bạn là cầu gì được đó hay là sức khỏe dồi dào, hết bệnh, lành tật, có thần thông ??? Còn bị khảo là gặp nhiều chướng duyên hay sao? Xin thưa rằng, tất cả chúng sanh hiện tại trong đời Mạt Pháp này đều có quá nhiều Nghiệp Chướng, nên dù kẻ tu hay người không tu đều có Nghiệp xấu tới thời kì chín muồi hiện ra thành Quả xấu. Bạn có tu thì bạn đã bớt tạo Nghiệp xấu (nếu bạn hiểu tu ở đây là tu sửa thân tâm của mình, chứ không phải trì chú suốt cả ngày mà chẳng nhìn lại cái tâm của mình để sửa sai). Nếu bạn trì tụng thần chú của Phật như chú Đại Bi, chú Chuẩn Đề mà thấy"linh nghiệm" thì tôi cũng đã nghe đầy lỗ tai về những chuyện đó, chính những người tôi quen biết, trước đây họ có thể chữa bệnh chỉ bằng việc trì chú Chuẩn Đề, ... nhưng bây giờ họ cũng phải đi thọ Quán Đảnh để tu tập. Trì chú linh nghiệm kiểu đó chẳng giải quyết được gì cả. Cái linh nghiệm mà các hành giả thật sự tìm là Giải Thoát chứ không phải ở sức khỏe dồi dào hay giàu có mà do tác dụng của Thần Chú. Thần chú của Chư Phật là lời của Chư Phật, có tác dụng của Thần chú là tức tai, tăng ích, hàng phục, ... nhưng cái quan trọng là chúng ta đang tìm cái gì. Vì Thần Thông, linh nghiệm mà trì chú thì sẽ có linh nghiệm đấy, nhưng muốn dùng 1 pháp tu để giải thoát trong Mật Tông thì phải thọ nhận Quán Đảnh. Tùy vào cái mình muốn có mà mình sẽ làm theo cách nào. Pháp Tu của Tây Mật thì rất vi diệu. Trì chú chỉ là 1 phần thôi ạ. Đừng nghĩ rằng thọ Quán Đảnh về là trì chú và chỉ có trì chú. Thế thì có khác gì mấy Thần Chú tự mua sách về đọc kia đâu. Sách thì bán đầy đường khắp chợ. Quán Đảnh xong thì hành giả được nhận nghi quỹ, và sẽ tu tập theo nghi quỹ dưới sự hướng dẫn của vị Thầy đầy đủ phẩm tính. Nếu chuyên chú nhất tâm tu thì có thể Thành Phật chứ không nói tới mấy cái linh nghiệm thấp bé của thế gian.
Nếu Quán Đảnh không cần thiết thì tại sao các Rinpoche cất công đi qua các nước xa xôi trú xứ các Ngài đang có Phật Tử thỉnh cầu để mà ban Quán Đảnh, mất thời gian lẫn tiền bạc của cả Thầy lẫn trò. Nếu không cần thiết Quán Đảnh thì Ngài cứ ở trong trú xứ và gửi cái e-mail có ghi mấy câu Thần Chú cho đám đệ tử ở xa trì tụng. Nếu Quán Đảnh không quan trọng thì tại sao Ngài Dilgo Khyentse Rinpoche tuy tuổi già sức yếu mà vẫn bay từ Bhutan qua Pháp và Châu Âu để ban cho các đệ tử của Ngài, hay phải qua Ấn, Dharamsala để ban Quán Đảnh Dzogchen cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ??? Nếu không cần thọ quán đảnh thì mấy Thầy của tôi cũng không phải tốn kém cất công đi Nepal thọ Pháp với các Rinpoche. Chuyện gì cũng có lý do của nó và phải tìm hiểu cho kĩ rồi mới phát biểu, đó mới là cách phát ngôn của người chính chắn.
Hãy tìm đọc và suy ngẫm về quyển Lời Vàng Của Thầy Tôi của Ngài Patrul Rinpoche, có cho thỉnh ở chùa Dược Sư đường Lê Quang Định, Bình Thạnh, TP.HCM. Phải có sách vở, có căn cứ nói chuyện chứ không nên nói chuyện 1 cách quá chủ quan như vậy. Tất nhiên, tâm thành thì trì chú sẽ linh nghiệm, nhưng xét lại xem cái linh nghiệm đó có đáng cho mình bỏ thời gian quý báu của cuộc đời mà chỉ cầu các thứ linh nghiệm linh tinh như vậy không? Tự hỏi có đáng hay không?
Bookmarks