kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: ThôngThiên Học Giảng Lược

  1. #1

    Mặc định ThôngThiên Học Giảng Lược

    Các bạn chắc cũng đã từng có những lúc thắc mắc với những câu hỏi mà chẳng ai có câu trả lời thỏa đáng:
    - Có ông Trời thật hay không?
    - Con người ta chết đi là hết hay vẫn tồn tại linh hồn? Có ma hay không?
    - Ở xa tít trên kia ngoài vũ trụ có những gì?
    - Tại sao con người sinh ra rồi lại chết đi, mục đích của cuộc đời con người là gì?
    Cho đến khi tôi biết được biết đến Thông Thiên Học, tôi đã phần nào thỏa mãn với những thắc mắc của mình, đồng thời tôi cũng tìm thấy kim chỉ nam cho cuộc sống của mình, biết mình phải sống thế nào cho đúng, cư xử thế nào cho phải cách trong những tình huống khó khăn trong cuộc đời.

    Chính vì thế mình post thông tin về Thông Thiên Học lên thegioivohinh để những bạn nào có duyên cũng có thể tìm cho mình được một định hướng gì đó cho cuộc đời mình. Tất cả những lý thuyết này đều được lấy trên trang thongthienhoc.com

    CHƯƠNG NHẤT



    THÔNG THIÊN HỌC LÀ GÌ ?



    Hiện giờ có một trường phái triết học mà những người trí thức của thời đại chúng ta không còn biết đến. Do những lời nhận xét đó mà ông A. P. Sinnett khởi dẫn quyển sách của ông tựa đề : Thế giới huyền bí. Sách này là bài thuyết minh bình dân đầu tiên vì Thông Thiên Học được xuất bản cách đây 30 năm. Từ đó đến nay, nhờ trường phái này có cả triệu người đã biết được sự minh triết. Nhưng đa số dân chúng chưa được biết những lời dạy của nó, vì vậy nhiều giải đáp mơ hồ được nêu ra để trả lời một cách tổng quát câu hỏi : Thông Thiên Học là gì?

    Hai quyển sách trả lời câu hỏi này đã được viết ra : Phật Giáo bí truyền của ông Sinnett và Minh Triết cổ thời của bà Besant. Tôi không có ý tranh đua với những tác phẩm cổ điển ấy. Tôi chỉ muốn làm một bài thuyết minh về Thông Thiên Học vừa rõ ràng vừa giản dị, có thể được coi như là đại cương của những quyển sách tôi vừa kể trên.

    Thông Thiên Học thường được coi không phải như một tôn giáo chính thống, mà như một chơn lý được gặp ở nền tảng của tất cả những tôn giáo lớn. Ý kiến ấy không thể biện bác được. Nhưng nếu chúng ta nhìn ở một khía cạnh khác, Thông Thiên Học sẽ vừa là một nền triết học vừa là một tôn giáo và một khoa học. Nó là một triết lý ở chỗ nó giải thích rành mạch cơ tiến hóa của những linh hồn và của những hình thể trong Thái dương hệ. Nó là một tôn giáo vì vừa chứng minh bước đi của sự tiến hóa thông thường, nó vừa chỉ cho chúng ta và hiến cho chúng ta một phương tiện thâu ngắn con đường mà chúng ta phải đi, để chúng ta có thể, nhờ một cố gắng có ý thức, mà tiến bộ và đạt được mục đích trực tiếp hơn. Nó là một khoa học vì nó nghiên cứu câu hỏi trên, không phải bằng tín ngưỡng thần học mà bằng những hiểu biết thực nghiệm. Những hiểu biết thực nghiệm này người ta có thể đạt được do sự làm việc và xuyên qua những cuộc nghiên cứu tìm tòi cá nhân. Nó quả quyết rằng con người không cần căn cứ một cách mù quáng vào đức tin vì con người đã có sẵn nơi mình những quyền năng tiềm tàng có thể giúp y. Khi y khởi động được chúng nó, y sẽ thấy và quan sát được những lý thuyết đã đưa ra. Nó còn chứng minh cho con người bằng cách chỉ những phương pháp giúp con người phát triển những tiềm năng đó. Thông Thiên Học cũng là kết quả của sự khởi động tiềm năng của những người đã đi trước chúng ta; vì những lời dạy hiến cho chúng ta đều căn cứ trên sự quan sát trực tiếp có thể vói tới được do sự phát triển các tiềm năng ấy.

    Với tính cách là một triết lý, Thông Thiên Học dạy chúng ta rằng Thái dương hệ là một bộ máy được điều chỉnh một cách tỉ mỉ. Ðó chẳng qua là sự biểu hiện của cuộc sống huy hoàng mà con người chỉ là một bộ phận nhỏ bé hiện ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

    Thông Thiên Học nói với chúng ta về hiện tại bằng cách mô tả thế nào là con người do cách quan sát nhờ những tiềm năng đã phát triển. Người ta thường nói rằng con người có một linh hồn. Kết quả của sự nghiên cứu trực tiếp dẫn con người Thông Thiên Học lật đổ châm ngôn đó và cho biết con người LÀ MỘT LINH HỒN, có một thể xác. - Thật ra là nhiều thể được dùng như những khí cụ và những phương tiện vận chuyển trong nhiều thế giới - Các thế giới đó không xa cách nhau trong không gian. Tất cả đều bao phủ chúng ta trong không gian và thời gian. Ở mọi nơi và bất kỳ lúc nào chúng ta cũng có thể học hỏi chúng. Chúng cấu tạo các thứ vật liệu hữu hình và vô hình trong thiên nhiên. Chúng có những mật độ kết cấu khác nhau, từ thô sơ đến hết sức tinh vi. Chúng ta sẽ giải nghĩa các điều đó trong chi tiết. Con người đang sống trong nhiều thế giới một lượt. Nhưng bình thường họ chỉ ý thức được thế giới vật chất mà thôi; mặc dù đôi khi họ nhận thấy thoáng qua những thế giới cao hơn trong giấc mộng hay trong lúc xuất thần. Cái mà ta gọi là sự chết chỉ là sự cổi bỏ một cái thể thuộc thế giới hồng trần. Còn linh hồn hay con người thật không thay đổi, không bị ảnh hưởng gì cả và vẫn y nguyên trên thế giới riêng của nó; giống như người ta cổi một cái áo ngoài. Ðây không phải là một sự suy luận mà là kết quả của quan sát tìm tòi và kinh nghiệm.

    Thông Thiên Học cấp cho chúng ta những tài liệu quí giá về dĩ vãng của con người, về cách thế tiến hóa để họ trở thành trạng thái hiện thời của họ. Ðây cũng là một sự quan sát thông thường; vì có rất nhiều niên giám không thể xóa nhòa đã ghi chép tất cả sự việc trải qua trong quá khứ; có thể nói đây là một thứ ký ức của THIÊN NHIÊN. Khi quan sát các niên giám ấy, người nghiên cứu có thần nhãn thấy diễn ra trước mắt y lần lượt tất cả các quang cảnh của cuộc tiến hóa xa xôi đã qua đúng như các quang cảnh ấy đã thật sự diễn ra trong quá khứ. Y sẽ biết rằng con người có nguồn gốc thiêng liêng. Trải qua thời gian rất dài trong quá khứ, con người đã phát triển song song hình thể bên ngoài và linh hồn hay sự sống bên trong. Sự sống của linh hồn con người kể như vô tận. Cái mà chúng ta thường kể là một đời người thật ra chỉ là thời gian một ngày của cuộc sống thật ấy. Chúng ta đã sống những ngày tương tự. Chúng ta còn phải trải qua nhiều ngày như thế. Bạn muốn hiểu mục đích thật của cuộc sống không ? Ðừng thu ngắn nó lại bằng cái ngày duy nhất hiện giờ, là ngày kể từ lúc chúng ta còn trong nôi để chấm dứt lúc chúng ta xuống mồ. Chúng ta hãy nghĩ đến những ngày xảy ra trước đây và những ngày sẽ nối tiếp sau ngày hôm nay. Chúng ta có thể học hỏi được nhiều kiến thức chính xác về tương lai dành cho chúng ta. Ðầu tiên, chúng ta nhờ những người đã tiến trước chúng ta trên con đường chúng ta phải theo. Những người đó đã kinh nghiệm vì đã quen con đường ấy. Nhờ vậy, chúng ta rút ra được những kết luận thuộc giai đoạn đã dẫn dắt họ đến sự hoàn thiện.

    Một trong những cái lợi đáng kể của Thông Thiên Học là ánh sáng bao trùm chúng ta; nó giải quyết một phần lớn những bài toán đã làm chúng ta thắc mắc, nó san bằng những nỗi khó khăn, nó giải nghĩa lý các sự bất công bề ngoài của cuộc đời. Và ở mọi phía, nó đem lại trật tự cho những gì mà chúng ta xem là rối loạn.

    Thật ra, một vài sự chỉ dạy của Thông Thiên Học dựa trên sự quan sát những sức mạnh mà sự học hỏi trực tiếp không nằm ở tầm tay người thường. Tôi nhìn nhận điều đó. Nhưng, người nào đã nhận những chỉ dạy ấy như một giả thuyết tạm thời, sẽ đồng ý rằng giả thuyết ấy tốt, vì chỉ riêng một mình nó cũng cung cấp ý nghĩa đầy đủ và có lý về thảm kịch của đời sống.

    Trong những chơn lý mới và nổi bật mà Thông Thiên Học mang lại cho Âu châu, chúng tôi có thể kể trước tiên là chắc chắn có hiện hữu những người trọn lành mà chúng ta có thể gần gũi và theo học được. Kế đó quả quyết rằng thế giới này không thể là vô trật tự, vô chánh phủ. Trái lại, thế giới này được điều khiển bởi một Hệ thống đẳng cấp có tổ chức hẵn hòi và sự thất bại dù của một đơn vị nhỏ nhoi nhất của nó cũng không thể có được. Một cái nhìn tổng quát về sự hoạt động Hệ thống đẳng cấp ấy cũng dẫn chúng ta đến ý muốn cộng tác với nó, dù trong chức vụ khiêm nhường nhất, để trong một tương lai xa, chúng ta xứng đáng được tiếp xúc các cấp bậc nhỏ nhoi nhất của Hệ thống đẳng cấp ấy. Ðiều này dẫn chúng ta đến trạng thái Thông Thiên Học mà chúng tôi gọi là khía cạnh tôn giáo của nó. Những ai đã nhận thức được tầm quan trọng của các chơn lý ấy đều nóng lòng về bước đi chậm chạp ở những chặng đường của cuộc tiến hóa. Họ sẽ ước ao trở thành hữu ích càng sớm càng tốt và bước lần đến con đường đạo trực tiếp hơn và cũng chông gai khó khăn hơn : vì không thể trốn khỏi công việc mà chúng ta phải thực hiện. Chúng ta có thể so sánh việc này với gánh nặng phải mang lên chót núi. Nếu phải mang nó trên con đường dốc đứng hay mang từ từ trên con đường ít dốc hơn, số sức lực dùng vào hai trường hợp đều như nhau. Phải một cố gắng nhất định để thực hiện công việc trong số thời gian nhỏ hơn. Những người đã đến chót núi đều đồng ý rằng mình sẽ được thưởng công nhiều vì đã ra công nhiều. Sự hạn chế của các thể sẽ lần lần được chế ngự và người được giải phóng là một sự giúp đỡ sốt sắng và thông minh trong hệ thống vĩ đại của sự tiến hóa tất cả sinh vật.

    Thay vì đặt căn cứ lẽ sống trên những luật lệ tưởng tượng truyền lại từ xưa, Thông Thiên Học, với tính cách tôn giáo, hiến cho chúng ta những lời khuyên đạo đức căn cứ trên lẽ phải và trên những dữ kiện mà nó quan sát được. Thái độ của những người Thông Thiên Học đối với những lời khuyên ấy là phải hiểu lời khuyên nào chúng ta muốn áp dụng trong đời sống hằng ngày. Phải coi những lời khuyên ấy như những qui tắc vệ sinh chớ không phải như những giáo điều tôn giáo. Thật ra, các luật thiên nhiên là sự biểu lộ ý chí của Thượng Ðế, người đã xếp đặt khôn khéo mọi việc. Sự vi phạm các điều luật ấy dẫn đến sự xáo trộn lối tiến đều đặn của kế hoạch chung, đến sự chậm trễ hoặc sự ngưng trệ tạm thời của một đoạn hoặc một đơn vị nhỏ. Hành động như thế, chúng ta tự gây ra nhiều đau khổ cho chúng ta và cho kẻ khác. Người khôn ngoan và sáng suốt tránh vi phạm các luật lệ ấy, không phải tự y sợ gây ra sự giận dữ của một vị thần linh nào bị xúc phạm.

    Nhưng, nếu chúng ta tự đặt mình vào một phương diện đặc biệt, chúng ta có thể xem Thông Thiên Học như một tôn giáo. Chúng ta phải lưu ý đến hai điều; nó phân biệt Hội Thông Thiên Học với các tôn giáo bên Âu châu.

    Trước hết hội không bắt buộc các hội viên phải tuân theo những giáo điều nó trình bày và không gán cho từ �tin tưởng� cái nghĩa mà người ta thường gán cho nó. Sinh viên Huyền bí học hoặc BIẾT rõ một điều hoặc hoãn sự tin tưởng của y lại đến chừng nào y thật biết, vì hệ thống tư tưởng của y không chấp nhận một đức tin mù quáng.

    Tự nhiên, người nghiên cứu Thông Thiên Học không bị bắt buộc phải biết gì cả; người ta chỉ đòi hỏi y đọc các kết quả của sự quan sát khác nhau đã thực hiện và xem đó như những giả thuyết, tạm nhận các giả thuyết ấy, hành động hợp theo đó đến chừng nào y đạt được các bằng chứng xác đáng của chúng.

    Ðiều thứ hai, Thông Thiên Học không bao giờ thử cải hóa một người mà không nghĩ đến tín ngưỡng của y. Nó giải thích tôn giáo của y, chỉ cách hiểu biết tôn giáo ấy, làm theo tôn giáo ấy một cách trung thành hơn và nó giúp y phát hiện trong ấy một ý nghĩa thâm sâu mà y không ngờ. Trong nhiều trường hợp, nó mang lại cho y trên bình diện cao sâu hơn và thông minh hơn cái đức tin mà y tưởng chừng đã mất.

    Thông Thiên Học còn có một phương diện khoa học nữa. Sự thật nó còn là một khoa học của sự sống, một khoa học của linh hồn. Nó áp dụng cho mọi việc phương pháp khoa học của một quan sát tỉ mỉ và thường lập lại. Nó ghi các kết quả và từ đó rút ra các kết luận.

    Như thế, các cõi thiên nhiên và các điều kiện của tâm thức con người, trong lúc sống và sau khi chết, đều được tham cứu. Cần luôn luôn nhắc lại rằng những tiết lộ của Thông Thiên Học về các vấn đề ấy không phải là những phỏng đoán hay những giáo điều của đức tin thông thường mà chúng nó được căn cứ trên sự quan sát trực tiếp, được luôn luôn lập lại nhiều lần các hiện tượng của thiên nhiên. Các nhà nghiên cứu cũng chú ý trong một phạm vi nào đó các bài toán của khoa học thông thường. Những người đọc quyển Hóa học huyền bí mới vừa xuất bản sẽ đồng ý về điều ấy.

    Như vậy, chúng ta thấy Thông Thiên Học gồm nơi nó một vài đặc điểm của triết học, của tôn giáo và của khoa học. Người ta cũng tự hỏi phúc âm, thánh huấn nào mà nó mang lại cho thế giới chúng ta đầy đau khổ này? Ðiểm chính yếu của sự nghiên cứu nó là gì? Những sự kiện lớn nào mà nó trình bày cho nhân loại?

    Các vấn đề ấy có thể gom dưới ba đầu đề chính sau đây:

    Có ba chân lý tất yếu và bất biến, có lúc bị bỏ im lặng vì không có tiếng nói nào để tuyên bố chúng:

    -Linh hồn con người thì bất diệt, trường tồn và tương lai của nó là tương lai của một điều mà sự phát triển và sự huy hoàng không có giới hạn.

    -Nguồn gốc của sự sống ngự ở trong ta và ngoài ta, nó không bao giờ mất, nó luôn luôn từ thiện, nó không thể thấy, nghe hay cảm xúc, mà nó chỉ được nhận thức bởi người nào muốn có sự cảm nhận.

    -Một cách tuyệt đối, mỗi người đối với tự mình là người làm luật, người ban ra sự vinh quang và sự sự tăm tối, người trọng tài về sự sống và sự thưởng phạt của chính mình.

    Các chân lý đó cũng vĩ đại như sự sống mà cũng giản dị như nét giản dị nhất của trí thông minh con người.

    Nói một cách thông thường, con người là bất tử, Thượng Ðế là tốt lành và con người gặt hái những gì nó đã gieo. Tất cả đều được điều khiển dưới quyền của một hệ thống nhất định, dưới sự kiểm soát của một chỉ huy thông minh và hoạt động dưới những định luật bất di bất dịch. Con người choán một vị trí trong hệ thống đó và sống dưới các luật đó. Nếu nó hiểu các luật đó và hợp tác với chúng, nó sẽ tiến bộ mau chóng và sẽ hạnh phúc. Nếu nó không nắm được tầm quan trọng của chúng và cố ý hay vô tình vi phạm các luật ấy, nó sẽ làm chậm trễ sự tiến bộ và sẽ đau khổ. Ðây không phải là lý thuyết mà là những dữ kiện đã được chứng minh. Ai đó hoài nghi hãy đọc những điều sau đây rồi sẽ thấy.

  2. #2

    Mặc định

    CHƯƠNG HAI

    TỪ TUYỆT ÐỐI ÐẾN CON NGƯỜI



    Ở vị trí tiến hóa hiện nay của chúng ta, ta không biết gì cả về Tuyệt đối, về Vô tận, về Ðấng bao trùm mọi vật, nhưng chúng ta biết rằng có Thượng Ðế. Chúng ta không thể nói gì mà không gặp một sự hạn chế và do đó sẽ gặp cái không chính xác.

    Trong Thượng Ðế có biết bao nhiêu vũ trụ, không sao đếm được. Trong mỗi vũ trụ có biết bao nhiêu Thái dương hệ, cũng không sao đếm được. Mỗi Thái dương hệ là sự biểu hiện của một Sinh vật mạnh mẽ. [Người ta gọi là Thượng Ðế, là Ngôi Lời, là Thần Mặt Trời]. Ngài đối với hệ thống của Ngài là tất cả gì mà ta gọi là Trời. Ngài sanh hóa và thấu triệt hệ thống đó; không có gì không thuộc về Ngài. Trước mặt chúng ta, Ngài tự biểu lộ trong các phần nhỏ nhất mà chúng ta thấy được. Nhưng ngoài và trên hệ thống, Ngài còn là một hiện hữu kỳ diệu giữa các Ðấng Ðồng đẳng với Ngài. Trong kinh thánh Ðông phương có câu: Ở bất cứ một mảnh nào trong vũ trụ của Ta, Ta ngụ tại đó.

    Về đời sống cao siêu của Ngài, ta không biết gì hết. Nhưng việc nghiên cứu các cõi dưới của sự biểu hiện sẽ cho ta vài tài liệu về một phần của sự sống làm linh hoạt hệ thống của Ngài. Không thấy, nhưng chúng ta có thể nhận thức kết quả của sức mạnh tác động của Ngài. Không một người có thần nhãn nào mà vô thần; đây là một sự rõ ràng nhất; điều ngược lại rất quái lạ.

    Bằng thể chất của chính Ngài, Ngài tạo ra hệ thống kỳ diệu này. Chúng ta là những thành phần của hệ thống đó. Chúng ta là từng phần của sự sống đang phát triển từ những tia của ngọn lửa thiêng liêng. Từ Ngài chúng ta đến đây và chúng ta sẽ trở về Ngài.

    Nhiều người đã tự hỏi mục đích của sáng tạo là gì ? Do nguyên nhân nào Thượng Ðế đã cho phát xuất cả một hệ thống và do nguyên nhân nào Ngài đã dẫn chúng ta chạm trán với những giông tố của sự sống? Chúng ta không thể trả lời những câu hỏi ấy, mà chính những câu hỏi ấy cũng không mang lại một lợi ích thực tiễn. Sự hiện hữu và hành động tích cực của chúng ta không đủ sao ? Nhiều triết gia đã suy luận và đã đưa ra nhiều giả thuyết về vấn đề này. Cái lý thuyết đẹp nhất mà tôi biết là lý thuyết sau đây của một nhà hiền triết thuộc phái duy trí:

    Thượng Ðế là Tình thương, nhưng tình thương tự nó không thể hoàn hảo nếu không có những sinh vật mà tình thương ấy ban rải cho và biết đáp lại. Chính vì tình thương đó mà Thượng Ðế tự biểu lộ trong vật chất và tự hạn chế sự huy hoàng của Ngài để cho chúng có thể hiện diện qua quá trình tự nhiên và chậm chạp của sự tiến hóa. Tới phiên chúng ta, chúng ta phải tự phát triển theo ý của Ngài đến chừng nào chúng ta đạt đến trình độ của Ngài. Chừng ấy tình thương của Ngài trở nên hoàn hảo vì nó được ban rải cho con cháu Ngài, là những người hiểu và đáp đền lại đầy đủ. Kế hoạch của Ngài được thành tựu và ý muốn của Ngài được thi hành trọn vẹn.

    Chúng ta không biết tâm thức của Ngài siêu việt đến mức độ nào và cũng không rõ thực chất biểu hiện ở mức độ đó ra sao. Nhưng khi Ngài tự hạ xuống ngang tầm tri thức của chúng ta thì sự biểu hiện của Ngài mang ba trạng thái. Vì vậy tất cả các tôn giáo đều diễn tả Ngài như Tam vị nhất thể.

    Tuy Ba nhưng căn bản là Một, một Thượng Ðế biểu hiện ra dưới ba trạng thái. Ba là đối với tầm thấy biết của chúng ta từ bên dưới, mỗi trạng thái hoạt động mỗi khác; Một là đối với Ngài vì Ngài hiểu thấu đáo các mặt của chính Ngài.

    Ba trạng thái ấy thuộc phạm vi sự tiến hóa của Thái dương hệ. Chúng cũng tham dự vào sự tiến hóa của con người. Sự tiến hóa ấy là ý chí của Ngài; lịch sử là kế hoạch của Ngài đó.

    Liền dưới Ðức Thái dương Thượng Ðế và tùy thuộc mật thiết vào Ngài, phải kể đến bảy Bộ trưởng mà chúng ta gọi là các vị Hành tinh Thượng Ðế. Dùng phương pháp loại suy rút ra từ sinh vật học của cơ thể con người, chúng ta có thể so sánh sự liên hệ của các vị Hành tinh Thượng Ðế đối với Ðức Thái dương Thượng Ðế giống như sự liên hệ các hạch hay trung tâm thần kinh đối với bộ não. Tất cả sự tiến hóa phát xuất từ Ðức Thái dương Thượng Ðế phải qua trung gian các vị Hành tinh Thượng Ðế.

    Dưới các vị ấy có cả đoàn hay cấp bực những vị thần tâm linh mà chúng ta gọi là Thiên thần. Chúng ta còn dốt về chức năng mà các vị ấy đảm nhận trong hệ thống kỳ diệu đó. Nhưng chúng ta nhận ra một số Thiên thần mà chức năng liên hệ chặt chẽ với sự cấu tạo của cả hệ thống và với sự sống phát triển trong đó. Thế giới chúng ta còn có một Ðấng thay mặt cho Ðức Thái dương Thượng Ðế. Tất cả cuộc tiến hóa trên hành tinh này đều dưới quyền kiểm soát, săn sóc của Ðấng ấy. Chúng ta có thể coi Ngài là vua của địa cầu này, có dưới quyền mình các vị Bộ trưởng đứng đầu các phân bộ. Một trong các phân bộ ấy phụ trách về sự tiến hóa của các giống dân, vì mỗi giống dân chánh được thành lập và khác các giống dân khác bởi một vị thủ lãnh chăm lo sự phát triển của nó. Tôn giáo và giáo dục thành một phân bộ khác. Do phân bộ này xuất hiện các giáo chủ của lịch sử và do đó các tôn giáo mới ra đời. Vị cầm đầu phân bộ này đích thân Ngài giáng trần hoặc gởi một vị đệ tử nào cần để sáng lập một tôn giáo mới.

    Vì lý do đó mới có sự đồng nhất về giáo lý căn bản của tất cả các tôn giáo, ngay từ lúc sáng lập. Sự trình bày giáo lý ấy có thể bị thay đổi. Nếu chúng ta ý thức được những cái khác biệt giữa các sắc dân, những điều kiện khác nhau trong trạng thái văn minh và trình độ tiến hóa của họ, chúng ta sẽ hiểu rằng tốt hơn chân lý nên mang nhiều hình thức để có thể áp dụng vào những nhu cầu riêng rẽ. Nhưng chân lý bên trong hay nguồn gốc của nó vẫn luôn luôn là một, mặc dù các các giáo lý có thể xem dường như mâu thuẩn nhau. Thật là điên rồ nếu con người cứ cãi vã về vấn đề siêu việt của vị giáo chủ này hay phương cách giáo lý của một tôn giáo khác. Vị giáo chủ luôn luôn thuộc về một Ðại đoàn Huynh đệ Tiên Thánh mà Ngài chỉ là người đại diện. Trên các quan điểm chính cũng như trong các nguyên tắc đạo đức, các giáo huấn không thay đổi.

    Toàn bộ chân lý được thấy ở nền tảng của tất cả các tôn giáo và được diễn tả trong những dữ kiện của thiên nhiên, như con người ở thời đại này đã biết. Những người không biết các chân lý ấy cãi lẩy về sự hiện hữu của các vị Thượng Ðế, về sự sống của con người sau khi chết, về sự hoàn thiện và về vị trí phải dành cho con người trong vũ trụ. Thay vì không mang lại giải đáp như nhiều người lầm tưởng, các chân lý ấy ở tầm tay của kẻ nào hướng dẫn các sự tìm kiếm của mình về hướng đó, vì các chân lý ấy đều thuộc về những người đã cố gắng thật sự để đạt được.

    Trong những giai đoạn đầu của nhân loại, các Ðấng của Hệ thống Ðẳng cấp đã kể trên từ các hành tinh khác đến; nghĩa là từ những hành tinh tiến bộ hơn địa cầu chúng ta. Nhưng từ khi con người đã phát triển được toàn vẹn về quyền năng và minh triết, các chức năng ấy đều do con người tự nắm giữ.

    Muốn ở đúng chiều cao của một trách nhiệm tương tự, con người phải vói lên một trình độ cao để trở nên một vị thông suốt giáo lý (Chơn tiên), một con người thật tốt, có quyền năng và minh triết, một vị mạnh mẽ hơn phần còn lại của nhân loại, vì y đã đạt đỉnh cao của sự tiến hóa; người ấy đã thực hiện trình độ mà Trời giao cho y trong kỷ nguyên này. Nhưng sự tiến hóa của y phải còn cao hơn cấp bực hiện thời để sau này y thành một Ðấng Thiêng Liêng.

    Nhiều người đã tiến đến trình độ hoàn thiện (Chơn tiên). Họ không thuộc một quốc gia nào, mà thuộc các quốc gia tiến bộ dìu dắt hoàn cầu. Ðó là những linh hồn hiếm hoi, can đảm phi thường đã vào thành trì của thiên nhiên, chiếm được những bí mật sâu kín nhất và xứng đáng danh vị con người thánh thiện. Trong hàng ngũ của họ, có rất nhiều cấp bực và nhiều ngành hoạt động khác nhau. Nhưng một vài người của họ luôn luôn liên lạc trực tiếp với địa cầu chúng ta trong tính cách là thành viên của hệ thống đẳng cấp đang quản trị mọi công việc ở địa cầu và mọi mặt tiến hóa của nhân loại chúng ta.

    Cái trung tâm uy nghiêm ấy chúng ta gọi là Ðại đoàn Huynh đệ Tiên Thánh ( Quần Tiên Hội). Nhưng những thành viên của Ðại đoàn ấy không sống tập thể. Mỗi vị Chơn tiên ấy thường sống xa con người, nhưng luôn luôn liên lạc với các bạn đạo đồng đẳng và với Ðấng Giáo chủ Tối cao. Sự hiểu biết của họ về các cõi cao sâu sắc đến nỗi họ không cần gặp các đồng đạo trên cõi vật chất. Trong nhiều trường hợp, họ tiếp tục sống nơi quê hương của họ; các người sống chung quanh họ không biết đến các quyền năng của họ. Mọi người trong chúng ta có thể gây sự chú ý của họ với điều kiện là phải tỏ ra xứng đáng. Không ai nên cho rằng sự cố gắng của mình sẽ không được chú ý đến. Sự lầm lẫn ấy không thể có được vì kẻ nào tận tâm phụng sự nhân loại sẽ tách ra khỏi phần còn lại của nhân loại như ngọn lửa lớn trong đêm tối âm u. Một vài vị Chơn tiên làm việc cho hạnh phúc của nhân loại bằng lòng thâu nhận làm đệ tử những người đã hi sinh trọn vẹn để phụng sự nhân loại. Các vị thánh thiện ấy chúng ta gọi là các Chơn sư.

    Bà Helena Petrowna Blavatsky là một trong các đệ tử đó, một đại linh hồn được phái đến cách đây ba mươi lăm năm, để giáo huấn và giác ngộ nhân loại. Bà lập Hội Thông Thiên Học với Ðại tá Henry Steele Olcott để truyền bá những kiến thức bà đạt được. Trong những người được tiếp xúc ở ngày đầu của Hội, phải kể ông A. P. Sinnett, người xuất bản tạp chí Pioneer. Sự thông minh sâu sắc và tế nhị của ông giúp ông tiếp thu ngay sự vĩ đại và tầm quan trọng của những giáo lý mà bà Blavatsky trình bày cho ông. Mặc dù trước đó bà đã viết quyển Isis dévoilée , quyển này ít gây sự chú ý. Chính ông Sinnett là người đầu tiên đem giáo lý xuống ngang tầm hiểu biết của người Âu châu qua hai quyển sách Thế giới huyền bí (le Monde occulte) và Phật giáo bí truyền (le Bouddhisme ésotérique).

    Qua trung gian các quyển sách này, tôi biết được tác giả của nó và bà Blavatsky. Nhờ các sách ấy tôi được biết qua các kiến thức mới. Khi tôi hỏi bà Blavatsky bằng cách nào người ta học đạo mau và thực hiện được tiến bộ xác định trên đường đạo mà bà đã chỉ cho chúng ta, bà trả lời rằng những sinh viên khác có thể được nhận làm đệ tử các Chơn sư như bà; phương tiện duy nhất đưa sinh viên đến đó là sự làm việc tận tâm, chân thành và vị tha. Bà tuyên bố rằng một người muốn đạt mục đích phải tuyệt đối trong sự quyết định của mình, rằng người nào có ý muốn vừa phụng sự Thượng Ðế vừa vì tư ngã thì không có hi vọng thành công. Một trong các vị Chơn sư cũng nói rằng : Một đệ tử muốn thành công phải bỏ đời theo đạo.

    Ðiều này có nghĩa là người đệ tử không theo những kẻ chỉ sống vì tiền bạc, danh vọng và quyền thế, chỉ theo thiểu số người mà các điều ấy không quyến rũ được. Mục đích của thiểu số người này là tận tâm với nhân loại bằng sự hi sinh quên mình vì lý tưởng. Bà Blavatsky cũng báo trước với chúng ta rằng con đường đạo này rất khó theo và những người đi con đường ấy sẽ bị đồng loại không hiểu và bị nói xấu. Công việc của chúng ta là việc làm bị vong ân bội nghĩa và mặc dù kết quả chắc chắn, nhưng không ai đoán được thời gian bao lâu mới đạt được. Một vài người trong chúng ta nhận chịu các điều kiện ấy một cách vui vẻ và chúng ta không bao giờ hối tiếc quyết định can đảm ấy.

    Sau vài năm làm việc tôi được đặc ân tiếp xúc với các Chơn sư minh triết. Các Ngài dạy bảo tôi về rất nhiều vấn đề và chỉ cho tôi phương pháp tự tôi chứng minh các giáo lý mà tôi nhận được. Cho nên đến nay, đối với tôi, khi tôi muốn nói gì về các vấn đề này, tôi chỉ viết theo điều tôi đã biết rõ và chính tôi thấy tận tường. Tuy nhiên, muốn chứng minh sự chính xác của một vài điều cao siêu trong giáo lý của các Chơn sư, cần phải có những khả năng cao hơn khả năng của tôi hiện có. Nhưng đối với các quyền năng ấy, tôi có thể nói chúng nó phù hợp với những gì tôi biết. Trong nhiều trường hợp chúng nó có thể dùng làm giả thuyết để giải quyết những gì tôi đã thấy. Những giáo lý, cũng như toàn bộ hệ thống Thông Thiên Học mà tôi học được đều căn cứ trên uy tín của các Chơn sư. Từ đó, tự tôi tập quan sát phần lớn các giáo lý đã dạy tôi và tôi nhận thấy rằng các lời giáo huấn đều đúng về mọi điểm. Tôi nhận rằng những điều tôi chưa quan sát cũng đều đúng như những cái đã quan sát, trước khi tôi kiểm minh được chúng.

    Sự hân hạnh được nhận làm đệ tử Chơn sư là mục đích của mỗi học viên Thông Thiên Học thành thật muốn đạt được. Nhưng điều đó đòi hỏi một cố gắng nhất định. Thời buổi nào cũng có những người sẵn sàng và đạt được ánh sáng của giác ngộ. Kiến thức này có tính cách siêu việt và người đã đạt được sẽ hiểu biết hơn người thường; y vượt khỏi tất cả các giới hạn được biết.

    Nhưng có những giai đoạn trong sự chiếm hữu các hiểu biết đó và nếu chúng ta muốn biết rõ các điều ấy chúng ta nên học ở những người đã tiến bộ. Thang tiến hóa có nhiều bậc : người dã man tiền sử ở bậc thấp nhất, chúng ta là người văn minh đã leo lên được một phần các nấc thang đó. Chúng ta có thể nhìn xem những nấc thang mà chúng ta đã vượt qua, chúng ta cũng có thể nhìn xem những nấc thang cao mà chúng ta chưa đạt. Sự nghiên cứu các trình độ đó giải thích cho ta bằng cách nào con người sẽ vượt qua các bậc ấy trong tương lai. Chúng ta sẽ biết rằng sự leo lên các nấc thang tiến hóa sẽ dẫn đến một danh vọng huy hoàng không thể tưởng tượng được, và tất cả chúng ta sẽ tham gia vào đó một ngày kia. Những người nào cao hơn chúng ta quá xa được chúng ta xem như bậc thánh trong kiến thức và quyền năng của họ. Họ nói với chúng ta rằng không lâu về trước họ cũng ở vào vị trí của chúng ta hiện nay và họ chỉ rõ cho chúng ta các bậc cao mà chúng ta phải vựot qua, nếu chúng ta muốn giống họ.

  3. #3

    Mặc định

    CHƯƠNG BA

    SỰ THÀNH LẬP THÁI DƯƠNG HỆ.



    Sự bắt đầu của vũ trụ (nếu có cái bắt đầu) nằm ngoài tầm quan niệm của con người. Kể từ thời lịch sử xa xưa nhất mà chúng ta có thể nghiên cứu được, chúng ta thấy có hai sức mạnh đối chọi nhau: tinh thần và vật chất, sự sống và hình thể. Ý kiến chung về vật chất cần ôn học lại. Cái mà người ta gọi là tinh thần và vật chất chẳng qua chỉ là kết quả của hai sự phát lộ khác nhau của tinh thần trong hai thời kỳ khác nhau; chớ vật chất thật sự hay căn bản của vạn vật thì chưa biết rõ.

    Một nhà thông thái Pháp vừa nói: Không có vật chất, chỉ có những lổ trống trong dĩ thái.

    Giả thuyết ấy phù hợp với thuyết danh tiếng của giáo sư Osborne Reynolds. Những tìm kiếm, quan sát của huyền bí học chứng minh rằng quan niệm mới về vật chất ấy đúng. Những sự nghiên cứu này còn soi sáng ý kiến của các thánh kinh Ðông phương cho rằng vật chất chỉ là ảo tưởng.

    Theo trình độ hiểu biết của chúng ta hiện nay, nguồn gốc của vật chất sơ đẳng chỉ là cái mà các nhà thông thái gọi là chất dĩ thái không gian. Không gian hình như trống rỗng đối với mắt ta, nhưng theo giáo sư Osborne Reynolds, tỉ trọng của nó tính ra bằng 10.000 lần tỉ trọng của nước. Sức ép của nó được giáo sư tính ra bằng 750.000 tấn trên một tấc vuông Anh.

    Chất ấy chỉ có thể thấy được bằng một khả năng thần nhãn cực kỳ phát triển. Chúng ta có thể giả thuyết rằng vào một thời kỳ xa xôi nào đó (mà chúng ta không thể trực tiếp biết được), chất dĩ thái ấy lấp đầy không gian. Một đấng cao cả hơn Ðức Thái Dương Thượng Ðế rất nhiều đã đổi thay tình trạng ổn định bằng cách xạ tư tưởng hay thần lực của Ngài vào một phần không gian; phần này bằng không gian của một vũ trụ. Luồng thần lực được đưa vào như thế có thể so sánh với một hơi thở cực kỳ mạnh. Nó biến chất dĩ thái của không gian thành vô số bọt tròn [những bọt này được mô tả trong quyển Giáo lý bí truyền của bà Blavatsky như những lổ mà Fohat đào trong không gian. Những bọt này có tên là Koilon, có nghĩa là trống ruột]. Các bọt ấy là những nguyên tử sơ đẳng đầu tiên để tạo thành vật chất. Những bọt này chưa phải là nguyên tử hóa học, mà cũng chưa phải là nguyên tử căn bản hồng trần của huyền bí học. Chúng chỉ được thấy ở cõi thật cao, thật tinh vi. Cái mà chúng ta gọi là nguyên tử hóa học ngày nay là một khối do một số cực kỳ to lớn của những bọt ấy kết hợp lại.

    Bây giờ đến giai đoạn của Ðức Thái Dương Thượng Ðế. Khi Ðức Thái Dương Thượng Ðế định sáng tạo hệ thống của Ngài, Ngài thấy cái khối vô tận của những bọt Koilon đã sẵn sàng. Trước tiên, Ngài vạch giới hạn của tầm hoạt động của Ngài. Hễ hào quang của Ngài chiếu tới đâu thì ở đó là biên cương nước Ngài. Biên cương này vượt rất xa hơn quỉ đạo của hành tinh xa nhất sẽ thành lập. Trong giới hạn của nước Ngài, Ngài cho chuyển động một luồng quay cuồng khổng lồ để quét và gom lại các bọt thành một khối trung ương; đó là bản thể của một tinh vân sẽ sinh ra.

    Khối kết hợp các bọt càng ngày càng phức tạp. Ngài xạ vào luồng quay cuồng khổng lồ nói trên liên tiếp nhiều xung động của sức mạnh để tạo thành bảy thế giới hay bảy cõi khổng lồ và đồng tâm, gồm các vật chất có tỉ trọng khác nhau, choán cùng một không gian và cõi này xuyên qua cõi kia.

    Qua trung gian của trạng thái thứ ba, Ngài phát luồng năng lực thứ nhất, gây ra trong toàn ranh giới của Ngài những luồng quay cuồng nhỏ hấp dẫn 49 bọt và sắp xếp chúng một cách đặc biệt. Các nhóm bọt này làm thành nguyên tử của cõi thứ hai. Một phần các bọt còn ở tình trạng cũ và còn tồn tại một cách thưa thớt ở cõi thứ nhất, cao hơn cõi thứ hai.. Ðúng thời kỳ luồng năng lực thứ hai được xạ vào và nó chiếm gần hết các khối gồm 49 bọt nói trên (chỉ bỏ ra một số ít để tạo thành cõi thứ hai). Nó hút chúng vào, nó đẩy chúng ra làm chuyển động những sự quay cuồng, mỗi cái chứa 2.401 bọt ( 492 ). Ðó là nguyên tử của cõi thứ ba. Sau một thời gian, năng lực thứ ba đến, cũng một cách đó, chiếm các khối 2.401 bọt, hút các khối ấy vào, đẩy các khối ấy đi, tạo thành các nguyên tử của cõi thứ tư; các nguyên tử này gồm 117.649 bọt (49 x 49 x49 = 493 ). Sự diễn tiến được lập lại như vậy cho đến luồng năng lực thứ sáu tạo thành nguyên tử của cõi thứ bảy là cõi thấp nhất nguyên tử này chứa 496 bọt nguyên thủy.

    Nguyên tử của cõi thứ bảy là nguyên tử căn bản vật chất hồng trần; nó không phải là nguyên tử mà các nhà khoa học đã nói. Chúng ta đến giai đoạn này trong điều kiện là vũ trụ hình cầu bao la quay cuồng chứa đựng bảy kiểu vật chất, giống nhau trong căn bản, vì tất cả đều làm thành bởi những bọt giống nhau, nhưng khác nhau về tỉ trọng. Các kiểu ấy xen lẫn nhau tự do, người ta có thể gặp những mẩu của mỗi thứ trong một phần nhỏ của địa cầu, không quên đề cập đến ý hướng ly tâm của những nguyên tử nặng nhất.

    Luồng năng lực thứ bảy do trạng thái thứ ba của Ðức Thái Dương Thượng Ðế không kéo các bọt trở lại trạng thái đầu tiên như các luồng năng lực trước. Các nguyên tử vật chất cấu tạo sau hết, trái lại, nó tập hợp thành sự kết hợp tạo những nguyên tử khác nhau mà người ta có thể gọi là tiền nguyên tố. Các tiền nguyên tố nầy tới phiên mình sẽ tập hợp lại thành nhiều hình thể khác nhau mà khoa học gọi là nguyên tố hóa học. Sự cấu tạo các nguyên tố này kéo một thời gian dài và nhờ sự tác động của nhiều sức mạnh, chúng nó được cấu tạo theo một trật tự xác định như bài báo của giáo sư William Crookes nói đúng trong quyển Khởi nguyên của các nguyên tố . Thật ra, quá trình cấu tạo của chúng chưa có kết luận cuối cùng. Chất uranium là nguyên tố nặng nhất và sau cùng mà người ta tìm thấy đến nay. Nhưng có thể còn có nhiều nguyên tố phức tạp hơn sẽ được tìm thấy trong tương lai.

    Ðộ đông đặc tăng gia với thời gian và tinh vân bao la cháy rực. Vừa luôn luôn quay cuồng mau lẹ, nó trở nên giẹp và nguội lần lần. Nó có hình dáng của một cái dĩa bao la và từ từ chia ra từng khoen bao quanh một trung tâm, giống như sự sắp xếp mà chúng ta thấy ở Thổ tinh, mặc dù kích thước nhỏ hơn nhiều. Khi cần các hành tinh làm môi trường tiến hóa, Ðức Thái Dương Thượng Ðế dấy lên trong bề dầy của mỗi hình tròn một sự quay cuồng phụ. Trong ấy, một phần vật chất của mỗi khoen được gom lại. Sự va chạm của các phần hợp lại gây ra một sự tăng nhiệt mới và trong một thời gian lâu dài là một khối lửa. Từ từ nó nguội dần cho đến chừng nào nó có thể dùng làm môi trường cho sự sống, giống như sự sống của chúng ta. Các hành tinh đều được cấu tạo như thế đó.

    Gần như toàn thể các chất của những cõi, cái này xuyên qua cái kia, lớp này xuyên qua lớp kia, được tập trung trong các hành tinh vừa mới thành lập và gồm tất cả các loại khác nhau. Ðịa cầu chúng ta không phải chỉ là một hình cầu bao la của vật chất hữu hình, gồm những nguyên tử của cõi thấp nhất. Nó còn gồm vật chất của cõi thứ sáu, thứ năm, thứ tư và của tất cả những cõi khác. Các sinh viên khoa học đều hiểu rõ rằng những phần nhỏ nhất của vật chất không đụng nhau bao giờ, dù cho đó là phần nhỏ nhất của chất cứng rắn nhất. Khoảng cách giữa các phần nhỏ ấy tương ứng lớn hơn rất nhiều, thật nhiều đối với kích thước của chúng. Nguyên tử của các cõi khác chẳng những có thể chen vào giữa các vật chất nguyên tử hữu hình, mà chúng còn có thể di động tự do giữa những nguyên tử đó nữa. Ðịa cầu chúng ta không phải là một cõi (một thế giới), mà là của bảy thế giới hay bảy cõi xuyên qua nhau, cùng nhau chiếm một khoảng không gian duy nhất. Chúng ta đừng quên rằng các chất tế vi có khuynh hướng ly tâm, trái hẳn với các chất đặc.

    Chúng ta đã đặt tên cho các cõi, các thế giới ấy để dễ nhận ra chúng. Không có từ ngữ cần thiết bắt buộc để gọi cõi thứ nhất, vì con người đến ngày nay chưa tiếp xúc được với cõi ấy. Nếu cần nói đến, ta chỉ gọi đó là cõi tối thiêng liêng. Cõi thứ nhì được gọi là cõi chơn thần, vì trong thế giới có những tia sáng của đời sống thiêng liêng mà chúng ta gọi là Chơn thần của con người. Cả hai cõi trên ấy (thứ nhất và thứ nhì) chưa cõi nào được nghiên cứu bằng thần nhãn cao nhất mà chúng ta có thể thực hiện được cho đến ngày nay. Cõi thứ ba là cõi mà các nguyên tử chứa 2401 bọt Koilon và được gọi là thế giới tâm linh. Tâm linh cao của con người thuộc về cõi này. Cõi thứ tư là cõi của trực giác hay cõi bồ đề theo cách gọi của Thông Thiên Học. Ở đó chúng ta có những trực giác cao siêu nhất. Cõi thứ năm là cõi của trí tuệ, địa hạt của tư tưởng của con người. Cõi thứ sáu là cõi của cái vía hay cõi tình cảm. Ở đây các cảm xúc, tình cảm làm rung động các vật chất của cõi này. Cõi này dường có ánh sáng chớp lòe như sao trên trời, nếu chúng ta so sánh nó với vật chất hữu hình. Tính chất này làm cho các nhà luyện kim thời Trung cổ gọi cõi này là cõi của cái vía. Cõi thứ bảy gồm vật chất mà chúng ta thấy được là cõi hồng trần, cõi hữu hình.

    Vật chất cấu thành các cõi ấy căn bản giống nhau, nhưng chúng nó được sắp xếp khác nhau và có mức độ tỉ trọng khác nhau. Vì lẽ đó các rung động của các kiểu vật chất phải khác nhau. Chúng có thể xem như một âm giai vĩ đại của những làn sóng gồm nhiều nhịp điệu. Vật chất hữu hình rung động theo một bát độ thấp. Vật chất của cõi vía rung động theo một bát độ cao hơn. Vật chất cõi trí tuệ rung động mau hơn nữa và cứ tiếp tục như thế.

    Vì vậy các cõi hay thế giới ấy chẳng những có kiểu vật chất riêng cho mình mà chúng còn có những chất riêng biệt và một nhóm kết hợp đặc biệt nữa. Chúng ta chia vật chất các cõi thành bảy thứ, tùy theo cách rung động của những phân tử riêng biệt. Sự dao động chậm đòi hỏi một phân tử nặng kết quả của một sự sắp xếp đặc biệt của những phân tử nhỏ của một tế phần cao kế đó .Trường hợp này không phải luôn luôn tuyệt đối. Sự tác dụng của sức nóng làm tăng kích thước của các phần tử, làm hoạt động và khuếch đại những làn sóng của chúng. Chúng choán nhiều chỗ hơn và khi giãn nở như vậy, các mức độ kết hợp của chúng bị phá vỡ. Ðiều này đưa chúng đi từ trạng thái thấp sang trạng thái cao hơn kế trên. Những tế phần của cõi hữu hình này được biểu lộ dưới bảy độ tỉ trọng vật chất mà chúng ta gọi từ thấp lên cao :thể đặc, thể lỏng, thể hơi, thể dĩ thái, thể trên dĩ thái, thể dưới nguyên tử và thể nguyên tử.

    Các hình thể thuộc về tế phần nguyên tử đều do sự nén ép các nguyên tử hữu hình thành hình trạng khác, khỏi phải thành lập trước các khối hay các phân tử. Nếu chúng ta tượng trưng nguyên tử căn bản hồng trần bằng một viên gạch, chúng ta sẽ có một phân tử nào đó của tế phần nguyên tử khi chúng ta kết hợp vài miếng gạch vào một hình thể nào đó, một cách đặc biệt. Nếu chúng ta muốn tạo vật chất thuộc về tế phần dưới nguyên tử, chúng ta phải gom lại một số gạch, bốn, năm, sáu hay bảy viên chẳng hạn thành khối. Các khối này tới phiên nó kết hợp lại thành vật chất của tế phần trên dĩ thái và cứ tiếp tục như vậy đến tế phần dĩ thái, tế phần hơi, tế phần lỏng và tế phần đặc.

    Ngược lại, khi ta muốn đưa một chất đặc sang thể lỏng (nghĩa là làm tan chảy) ta tăng sự rung động của những phân tử đã kết hợp, chúng nó trở thành phân tử đơn giản trước khi tạo ra phân tử kết hợp. Thí nghiệm này có thể lập đi lập lại nhiều lần và tất cả chất rắn đều có thể trở thành nguyên tử căn bản hồng trần.

    Mỗi cõi hay thế giới vừa kể đều có người cư ngụ. Giác quan của những người này chỉ có thể đáp ứng với những rung động của chính cõi ấy mà thôi. Một sinh vật cõi trần hữu hình thấy, nghe và cảm nghĩ nhờ những rung động liên quan đến vật chất hữu hình xung quanh. Chung quanh những người này (như chúng ta chẳng hạn) cũng có cõi (hay thế giới) vía , trí, xuyên qua chúng, nhưng thường chúng không ý thức được vì giác quan của chúng không tiếp nhận làn sóng rung động thuộc vật chất của các cõi ấy.

    Vì vậy, mắt ta không thể cảm nhận những rung động của ánh sáng cực tím, mặc dù theo khoa học, các ánh sáng đó có thật. Các sinh vật khác chúng ta có những cơ quan có thể thấy nhờ các rung động ấy. Một người sống ở cõi vía choán cùng một không gian của người sống ở cõi trần. Nhưng cả hai đều không thấy nhau; họ không cản trở các hành động của nhau. Các cõi khác cũng thế.

    Ðể kết luận, chúng ta có thể nói chúng ta bị bao quanh bởi các cõi tế nhị, cũng ở sát chúng ta như thế giới hữu hình mà chúng ta thấy được. Những người cư trú trên các cõi ấy cũng bao quanh chúng ta, mặc dù chúng ta không ý thức được về sự hiện hữu của họ.

    Bởi vì sự tiến hóa của chúng ta hiện nay tập trung ở Ðịa cầu, chúng ta chỉ đề cập đến những cõi hay thế giới cao có liên hệ với hành tinh này mà thôi. Tôi dùng từ cõi vía để chỉ nói đến phần vía của địa cầu mà thôi, chớ không nói đến phần vía của Thái dương hệ.

    Quả cầu vía của địa cầu cũng choán một khoản không gian chung với địa cầu hữu hình. Nhưng thể chất hay tinh chất loãng của nó ló ra khỏi trung tâm xa hơn bầu khí quyển của địa cầu rất nhiều. Nó ló ra xa gần bằng khoảng cách trung bình từ địa cầu đến mặt trăng, mặc dù hai quả cầu hữu hình này cách xa nhau khoản 240000 dặm. Phần vía của hai quả cầu này gần giáp nhau khi mặt trăng tiến đến gần địa cầu nhất chớ không phải lúc mặt trăng ở viễn điểm. Tôi dùng từ �cõi trí� để chỉ thế giới lớn hơn nữa của chất trí. Ðịa cầu hữu hình của chúng ta cũng choán trung tâm cõi này.

    Khi chúng ta liên hệ đến các cõi cao, chúng ta sẽ gặp những bầu vô hình mà chu vi đều tiếp cận chu vi các cõi tương ứng của những hành tinh khác trong Thái dương hệ. Các thế giới có thể chất loãng biểu thị một phần chúng ta và di chuyển chung quanh mặt trời với các thế giới thấy được. Khi tập trung tư tưởng vào quả địa cầu chúng ta, sinh viên chẳng những phải nghĩ đến hình cầu nhỏ bằngvật chất hữu hình mà còn phải nghĩ đến các khối chung quanh của những bầu thế giới xuyên qua nhau từ cái này đến cái khác.

  4. #4

    Mặc định

    Hình như hội thông thiên học có tại nam việt từ thời ông ngô đình diệm

  5. #5

    Mặc định

    Vâng, Hội TTH Việt Nam thành lập năm 1952, trước khi ông Diệm lên nắm quyền năm 1955.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đạo Phật Có 8 Lớp Học
    By phimanh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 20-09-2012, 09:33 PM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  3. TÂM VŨ TRỤ
    By doxuantho in forum Đạo Việt Nam
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 26-03-2012, 02:27 PM
  4. KHOA HỌC TÂM LINH NHÂN ĐIỆN M.E.L
    By tuanvu_quynh1949 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-04-2011, 03:26 PM
  5. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •