kết quả từ 1 tới 17 trên 17

Ðề tài: MINH TRIẾT BÍ TRUYỀN

  1. #1

    Mặc định MINH TRIẾT BÍ TRUYỀN

    Nguyên tác: THE SECRET DOCTRINE

    Tác giả: H. P. Blavatsky

    Người dịch: Đỗ Bất Nhị
    ———————————————— ————————————————-
    LỜI NÓI ĐẦU

    Tác giả – người tổng hợp thì đúng hơn – cảm thấy cần thiết phải gửi lời xin lỗi đến độc giả, vì sự chậm trễ kéo dài trong việc xuất bản tác phẩm này. Một phần do bệnh tật thường xuyên và cũng do những dự tính lớn lao về vấn đề muốn bàn luận. Ngay cả khi hai tập sách này hoàn tất, không hẳn là công việc đã xong xuôi, bởi vì tác giả nói chưa đủ nhiều về tâm linh huyền bí. Khi mà một khối lượng lớn các tài liệu bí truyền đã được chuẩn bị, đó là lịch sử các thuyết huyền bí trong cuộc sống của các cao-đồ (Adepts) thuộc giống dân Aryan, và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống của chúng ta trong mấy nghìn năm nay. Nếu hai tập sách này được chào đón nồng nhiệt, thì chúng tôi sẽ gắng sức hoàn thành các tập tiếp theo. Tập thứ ba, hay thứ tư đã chờ sẵn lên khuôn.

    Ban đầu, sau khi xuất bản tác phẩm Nữ-thần-Isis-lộ-diện (Isis Unveiled), chúng tôi định soạn quyển Giáo lý bí truyền (Secret Doctrine) với ý đồ hiệu đính nó. Dần dần trong quá trình biên soạn, chúng tôi cảm thấy rằng cần phải có một phương pháp trình bày khác giúp độc giả dễ dàng tiếp cận các vấn đề đã nói tới trong quyển Nữ-thần-Isis-lộ-diện và tuyển tập về nội môn bí giáo. Vì vậy, tác phẩm này sẽ có khoảng 20 trang được trích từ những tập sách mà chúng tôi đã xuất bản trước đây.

    Tác giả cảm thấy đã phụ lòng mong mỏi của quý độc giả, các nhà phê bình về phong cách văn chương thể hiện trong sách này. Bởi vì tác giả là người ngoại quốc, nên tiếng Anh không được hoàn hảo cho lắm. Tác giả quyết định sử dụng Anh ngữ vì nó là ngôn ngữ phổ thông, thuận tiện cho việc truyền đạt những chân lý cổ xưa ra cộng đồng thế giới, mà đó lại là nhiệm vụ hàng đầu mà tác giả được giao phó.

    Những chân lý được trình bày dưới đây không mang ý nghĩa như một lời mặc khải; và tác giả cũng chẳng nhận mình là kẻ tiết lộ thiên cơ đầu tiên trong lịch sử. Đó là vì những điều được viết trong tác phẩm này, đã hiện diện từ lâu trong hàng ngàn quyển thánh thư, rải rác ở các tôn giáo khắp từ Á sang Âu. Nó ẩn mình dưới lối viết bằng chữ tượng hình hay biểu tượng, cho nên người đời chưa ai cố công vén lên bức màng ẩn tàng nhiều điều lý thú ấy. Nay, chúng tôi cố gắng thu thập những giáo lý lâu đời nhất, kết hợp chúng lại với nhau và trình bày theo hiểu biết của mình, sao cho mạch lạc nhất. Lợi thế duy nhất mà người viết đã có, là nhận được sự truyền dạy trực tiếp từ các bậc huynh trưởng của mình, chỉ một vài chi tiết là do công tác giả tự tìm tòi nghiên cứu. Việc công bố những kiến thức trong tập sách này, cũng hầu mong trả lại cho môn huyền bí những giá trị chân chính đã thất truyền; vì trong nhiều năm qua, những người theo đuổi nó do đã quá say mê, mà mù quáng tạo nên các suy luận hoang đường mê tín.

    Những cũng không cần thiết phải giải thích rằng, tác phẩm này không phải là toàn bộ các giáo lý bí truyền đang tồn tại, nó chỉ là một mảnh nhỏ, một vài nguyên lý cơ bản được rút ra. Và điều đặc biệt, chúng tôi đã chú trọng đến những dữ kiện mà có một số tác giả đã cố tình bóp méo và xuyên tạc.

    Nhưng có lẽ chúng tôi cũng nên nói rõ ràng rằng, những giáo lý rời rạc trong tập sách này, không thuộc về một tôn giáo duy nhất nào. Mà đó là tập hợp những tôn giáo đã tồn tại trên trái đất này, của cả người Hindu, người Zoroastrian, hay người Chaldea… Giáo lý bí truyền là cội nguồn, là tinh hoa của tất cả tôn giáo từ Ai Cập, Hồi, Kitô hay Phật giáo. Nó là căn bản, là khởi đầu, làm nền tảng cho sự phát triển của các tôn giáo lớn, mà chúng ta nhìn thấy hiện nay.

    Có lẽ là sau khi xem xong quyển sách này, độc giả cho rằng người viết quả là giàu trí tưởng tượng, bởi vì nó giống như các câu truyện cổ tích xa xưa không hề tồn tại. Hầu như chưa có ai từng nghe nói về Thiền-định-chân-kinh (Book of Dzyan) lần nào đâu?

    Do đó, tác giả sẵn sàng chịu trách nhiệm về những phát biểu có trong tác phẩm này, thậm chí phải đối mặt với chỉ trích cho rằng mình đã “phát minh” ra nó. Tác giả ý thức được, nhiều người sẽ nhìn nhận nó như là sự hoang đường không đáng tin cậy. Nhưng với lý luận có gắn kết hợp lý và nhất quán, tác giả tin rằng tập sách này đáng được xem là một Sáng-thế-ký (Genesis) mới, đủ tự tin xếp ngang hàng với các “giả thuyết” khoa học đình đám hiện nay. Hơn nữa, người ta sẽ xem xét đến nó, không vì nó được chống lưng bởi một tôn giáo nào; mà điều cốt yếu là những lý luận này bám vào quy luật thiên nhiên, kiểu “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”. Như vậy, mục tiêu ấy là:

    - Cho thấy rằng thiên nhiên không phải là “sự tập hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử”.

    - Gán cho con người vị trí đúng đắn trong sơ đồ của vũ trụ.

    - Phục hồi các chân lý cổ xưa – nền tảng của mọi tôn giáo ngày nay. Và mức độ nào đó, sẽ khám phá sự thống nhất giáo lý về một mối.

    - Chứng tỏ rằng có những điều ẩn tàng trong thiên nhiên chưa bao giờ được nền văn hiện tại tiếp cận.

    Nếu mong mỏi trên được hoàn thành, thì với tác giả không có gì vui vẽ bằng. Những dòng chữ dưới đây hầu để phụng sự nhân loại, và có lẽ phải đợi đến tương lai, hậu thế mới hiểu hết tấm lòng người viết. Còn hiện tại ư, tác giả vẫn quyết tâm chống lại miệng đời, và quen luôn với việc bị vu khống hàng ngày.

    H.P.B.

    London, October, 1888.

    LỜI GIỚI THIỆU

    1


    Kể từ khi các tác phẩm của Thông Thiên Học xuất hiện ở Anh, người ta quen gọi giáo lý Thông Thiên Học là “Phật giáo bí truyền”. Tình trạng này có vẽ giống như câu thành ngữ mà ta từng quen thuộc, “lỗi lầm thì lăng xuống vực, còn chân lý phải lết lên đồi” (“Error runs down an inclined plane, while Truth has to laboriously climb its way up hill”).

    Những lời minh triết của người xưa thường tỏ ra vô cùng hữu lý. Tâm trí con người thật khó mà thoát vòng định kiến, cho nên khi tìm hiểu một vấn đề mới mẻ nào, người ta hay lấy kiến thức mình có được rồi đem ra so sánh. Điều này dẫn đến hai lỗi lầm phổ biến với cách hiểu Thông Thiên Học. Một là, giới hạn Thông Thiên Học vào Phật giáo. Hai là, lẫn lộn những điều Đức Phật đã giảng với ý kiến được nêu ra trong quyển “Phật giáo bí truyền” của ông Sinnett. Đây có lẽ là sai lầm trầm trọng nhất. Nó tạo điều kiện cho những kẻ thiếu hiểu biết có luận điệu công kích chúng ta, điển hình là một học giả có tiếng tăm về ngôn ngữ Pali tuyên bố rằng, nó “không phải bí truyền, và chẳng xứng đáng là đứa con của Phật giáo”. Nhưng sự thật là, những chân lý được viết trong tác phẩm của ông Sinnett, kể từ thời điểm được công bố, nó đã không còn là bí truyền gì nữa. Cũng giống như những giáo lý của Đức Phật, bây giờ có nhiều kinh sách được viết ra để giải thích, thì nó không thể gọi là bí mật. Còn quyển “Phật giáo bí truyền” thì đơn giản là nó trình bày những vấn đề mà nhiều học giả chưa nói tới. Dù vậy, không hẳn là toàn bộ những bí ẩn từ Phương Đông, chỉ cần vài trăm trang giấy kia mà bao quát hết. Có những chủ đề lớn lao hơn đang nằm đằng sau bức màn huyền bí, nếu không được cho phép, không một vị Chơn sư nào có quyền tiết lộ nó – cho dù ông ta muốn. Vì chân lý không để dành cho những kẻ ngờ ngệch nhạo báng và ngờ vực.

    Có thể nói quyển “Phật giáo bí truyền” (Esoteric Buddh-ism) là một tác phẩm kinh điển, nhưng với cái tên này nó đã rước vào mình nhiều lời phê phán. Sự thật đã chứng minh, người đời luôn có thói quen đánh giá mọi việc qua bề ngoài, mà chẳng thèm liếc mắt xem ý nghĩa của chúng là gì. Hiểu lầm này trầm trọng đến mức ngay cả những Hội viên Thông Thiên Học cũng bị vạ lây. Đầu tiên là những người Bà-la-môn và những người khác tổ chức biểu tình, phản đối cách đặt tựa đề như vậy. Thật lòng mà nói, mặc dù đây là cuốn sách hay, nhưng cách tác giả dùng phương pháp ghép âm hai chữ “Budh” và “ism” để đặt tên tác phẩm, đã làm người ta hiểu sai và phẩn nộ.

    Trách nhiệm này, trước hết thuộc về những Hội viên Thông Thiên Học Ấn Độ, chúng ta đã đem chủ đề này ra trước công luận, nhưng lại thiếu sót không chỉ ra sự khác biệt từ ngữ giữa “Buddhism” và “Buddh-ism”. “Buddhism” – là hệ thống giáo lý đạo đức do Đức Phật (Gautama) thuyết giảng, và tiền tố “Buddh” được lấy từ danh hiệu của Ngài, Phật (Buddha) – Đấng Giác Ngộ. Còn “Buddh-ism” hình thành từ chữ “Budh” – sự hiểu biết, và “Vidya” – sự tri thức; các từ ngữ trên có nguồn gốc Bắc Phạn (Sanskrit).

    Những sai sót này đã được nhìn nhận và cải chính. Chúng ta thay vì dùng từ “Buddhism”, nên đổi thành “Budhism”, cũng cần đọc đầy đủ là “Buddhaism”, và gọi tín đồ của nó là “Buddhaists”.

    Lời giải thích này hoàn toàn cần thiết trong thời điểm mọi công việc chỉ mới được bắt đầu. Các Tôn giáo Minh triết là di sản kế thừa của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, mặc dù trong quyển “Phật giáo bí truyền” có nêu: “Hai năm trước đây (tức năm 1983), tôi cũng như bao người Âu Châu sống ở đất nước này, không biết chút gì về khoa huyền môn…”. Sự thờ ơ, thiếu kiến thức đã dẫn đến sự hiểu lầm không đáng có.

    Những điều tiết lộ trong quyển “Phật giáo bí truyền” không có gì lạ lùng với tác giả, do nhiều năm trước đó (1880) tác giả đã nhận nhiệm vụ từ các Chơn sư, công bố một phần Minh triết bí truyền đến đại chúng. Hai người Châu Âu đầu tiên được lựa chọn, đó là ông Sinnett (tác giả cuốn “Phật giáo bí truyền”), và Đại tá H.S.Olcott – đồng nghiệp của tôi sau này. Ông Sinnett đã thuyết giảng triết lý này nhiều nơi tại Mỹ, trước cả khi quyển “Nữ thần Isis lộ diện” được xuất bản. Còn ông H.S.Olcott thì lần lượt nhận sự giáo huấn trực tiếp ba vị Đạo sư: một người Hungary, một người Ai Cập và một người Hindu.

    Hiện tại còn có nhiều người nữa biết đến những giáo lý này, nhưng vì họ không được phép công khai, nên chẳng có lời nào luận bàn về nó. Còn Đại tá Olcott hay ông Sinnett, vì được lệnh, những người này đã dùng nhiều phương pháp để phổ biến chúng đến mọi người.

    2

    Từ ngữ “Adi” – nghĩa là “Đấng-duy-nhất”, “Đấng-đầu-tiên”; “Budha” – nghĩa là “Minh-triết-tối-cao”, “Minh-triết-tuyệt-đối”. Các từ này đã được Đức Aryasanga sử dụng trong bộ luận bí mật của mình và ngày nay các Phật tử thần bí Bắc tông đều dùng đến. Nó là một thuật ngữ tiếng Phạn, do những người Aryan (Ấn Âu) dùng để xưng danh vị Thượng đế của mình. Từ này được sử dụng trước cả từ “Brahma”, vốn chưa hề xuất hiện trong kinh Veda và những quyển cổ kinh. Và “Adi-Bhuta” được Fitzedward Hall dịch là “nguyên sinh của vạn vật”. Có lẽ vào một thời điểm rất xa xưa, trước tiên danh từ này được dùng phổ biến trong nhân gian, sau đó nó được nhân cách hóa trở thành tôn danh, và chỉ đặc biệt dùng cho những vị có tình bác ái rộng lớn, trí tuệ minh triết cao siêu.

    “Bodha” có nghĩa là “sở hữu trí tuệ thiên phú bẩm sinh”; còn Buddhi là “tiếp thu tri thức bằng nổ lực và công đức cá nhân”. Trong khi “Buddhi” là các kênh quang năng (cognizing) dùng để thu thập kiến thức nhằm đạt đến Chân ngã (Ego), đi tới nhận biết thiện và ác, đi tới linh hồn tối thượng, đi tới hiện thể của Atma. Khi “trực giác” (Buddhi) hấp thụ ngã thức (Ego-tism) của chúng ta, ngã thức bị hủy diệt, cùng với tất cả rối loạn (Vikaras) của nó. Đức Quán Thế Âm (Avaloki Teshvara) trở thành biểu hiện của chúng ta, Niết Bàn (Nirvana) hay Giải Thoát (Mukti) sẽ đạt tới. Nirvana hoặc Mukti, nghĩa là thoát khỏi ảo ảnh của thế giới này (Maya). “Bodhi” cũng là một trạng thái đạt tới sự xuất thần (Trance) đại định (Samadhi), của một người đạt tới đỉnh cao trí tuệ tâm linh.

    Quả là thiếu khôn ngoan và mù quáng, nếu người nào đó tỏ ra bài Phật giáo và phủ nhận luôn “Giáo lý bí truyền” (mà nó cũng là giáo lý của những người Bà-la-môn) trong thời điểm này, chỉ vì cái tựa đề gợi lên cho họ quan niệm phiếm thần. Nhưng họ đâu biết rằng, trong thời đại vật chất hỗn độn này, chỉ có triết lý bí truyền mới chống đỡ được các cuộc tấn công liên tục làm con người suy sụp tâm thần, khủng hoảng tâm linh trầm trọng. Những triết gia chân chính, các môn đồ của khoa minh triết bí truyền, hầu như đã không còn phàm ngã, không còn niềm tin vào giáo điều và phân biệt riêng rẽ tôn giáo nào. Giáo lý bí truyền dung hợp mọi tôn giáo, lột trần những lớp võ được con người tô vẽ, và trả lại cội nguồn của chính của nó. Nó chứng tỏ sự cần thiết của một Thượng Đế tuyệt đối trong tự nhiên. Nó phủ nhận Thượng Đế không khác nào phủ nhận Mặt Trời. Triết lý bí truyền không bao giờ chối bỏ thượng đế trong tự nhiên, và Thượng Đế trên cương vị là Thực thể tuyệt đối và trừu tượng. Nó chỉ không chấp nhận bất kỳ vị thần thánh nào của cái gọi là tôn giáo độc thần, các vị thần được tạo ra bởi con người theo tưởng tượng của mình. Những hình họa đó dù đẹp đến đâu, cũng chỉ là bức biếm họa báng bổ thần linh không hơn không kém.

    Hơn nữa, các tài liệu mà chúng tôi có trong tay, chúng được sưu tập từ các giáo lý bí truyền khắp nơi trên thế giới, và nó còn có trước cả loài người chúng ta nữa kia. Và dĩ nhiên huyền môn Phật giáo chiếm số lượng lớn nhất trong công trình này. Ví dụ như những đoạn bí ẩn trong Thánh Kinh “Dan” [1], “Ja-na” (Dhyan) đều thuộc giáo lý siêu hình của Đức Phật…

    Nhà cải cách Hindu giáo (Đức Phật) chỉ nói đến minh triết tôn giáo, khía cạnh đạo đức con người, trong các bài thuyết giảng công truyền. Còn những điều “không nhận thấy và vô hình”, những bí ẩn của trái đất, của vũ trụ ngài chỉ giảng cho một số môn đồ chọn lọc, các vị La-hán (Arhats). Những vị La-hán này được ngài diểm đạo ở hang động động Saptaparna (Thất Diệp) gần núi Baibhar. Động này ở thành Rajagriha (Vương-xá), thủ đô cổ xưa của Vương quốc Mogadha (Ma-kiệt-đề) và cũng là động Cheta của Đức Fa-hian (Pháp-hiển), mà một vài nhà khảo cổ đã đưa ra giả thuyết.

    Thời gian và trí tưởng tượng của con người đã làm những triết lý này biến đổi, nó bắt đầu đánh mất sự thuần khiết khi theo chân các vị La-hán trên đường truyền đạo. Chắc hẵn khi được đưa vào Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay Miến Điện (Burmah), các bậc Thánh nhân này đã tùy vào căn cơ của các vị đạo đồ, ở mỗi vùng đất khác nhau mà có sự chắt lọc cần thiết. Vì vậy, làm thế nào mà tìm thấy được triết lý tinh khiết ban đầu, khi mà nền tảng “Phật giáo bí truyền” đã được canh tân trong một gương mặt tôn giáo hoàn toàn mới. Đó là các trường phái Phật giáo có mặt ở Trung Quốc, hay các nước Phật giáo khác; kể cả khá nhiều trường phái ở Tây Tạng, nơi được các vị Lạt-ma (Lamas) chưa hề được điểm đạo và các nhà cải cách Mông Cổ sáng lập.

    Vì vậy, người đọc cần ghi nhớ sự khác biệt rất quan trong giữa Phật giáo chính thống – tức là các giáo lý công truyền của Đức Phật, và Phật giáo bí truyền. Tuy nhiên, giáo lý bí truyền của Đức Thích Ca không khác với giáo lý của những đạo sĩ Bà-la-môn được điểm đạo cùng thời với ngài. Đức Phật là cư dân của chủng tộc Ấn-Âu (Aryan), một người Hindu chính tông, một giai cấp vương tộc (Kshatrya), và đệ tử của những vị được “sinh ra hai lần trong đời” (những người Bà-la-môn được điểm đạo) hoặc Dvijas (những người đặc biệt được hưởng quyền ưu đãi của Bà-la-môn). Do đó, giáo lý của ngài không thể khác với giáo lý của họ, vì toàn bộ cuộc cải cách để hình thành Phật giáo chỉ cốt đưa ra bên ngoài một phần các giáo lý chỉ dành cho các vị Bà-la-môn được điểm đạo và những nhà tu hành khổ hạnh. Vì phải giữ lời hứa, nên Đức Phật không thể dạy tất cả những gì đã đã được truyền đạt, mặc dù triết lý của ngài được dày công xây dựng trên nền tảng thực hành khoa huyền bí. Ngài chỉ đưa ra thế gian phần xác, còn phần hồn tinh túy ngài giữ lại và truyền cho các môn đồ ưu tú. Trong các học giả Đông Phương, nhiều người Trung Quốc đã từng nghe nói tới “tâm pháp” (Soul Doctrine), nhưng không ai hiểu được tầm quang trọng của nó.

    Các giáo lý này được giữ gìn vô cùng cẩn mật, bên trong những thánh đường vắng lặng và hiểm trở. Sự bí mật này cùng với nguyện vọng tìm đến Niết Bàn (Nirvana) đã kích thích sự tò mò của những học giả nghiên cứu về nó, thế nhưng họ không tìm được đáp số của bài toán học búa này, và giải quyết nhanh gọn nó bằng cách tuyên bố: Niết Bàn có nghĩa là “sự hủy diệt tuyệt đối”.

    3

    Vào cuối thế kỷ XIX này, một trào lưu văn học mới xuất hiện trên thế giới, đó là những bài báo về các cuộc khảo cứu tôn giáo được khoát dưới lớp áo khoa học, của những nhà ngữ học Bắc Phạn, những nhà Đông Phương học nói chung. Họ nói về Ấn Độ Giáo, Ai Cập giáo, và các tôn giáo cổ xưa khác bằng cách suy đoán mơ hồ qua những câu chuyện thần thoại; khiến cho người đời chỉ tin tưởng vào cái thô thiển bên ngoài mà đánh mất bản chất tốt đẹp bên trong. Các tác phẩm này được chú ý nhờ sự suy đoán tài tình, phô trương lòng tôn sùng tính dục và biểu tượng dương vật hơn là vì học thuật chân chính.

    Đây có lẽ là lý do thực sự, tại sao một vài phát thảo về chân lý căn bản của giáo lý bí truyền cổ xưa được phép truyền ra công chúng, sau hàng nghìn năm dài nằm trong im lặng. Tôi nói “một vài chân lý”, một cách thận trọng, bởi vì còn hàng trăm điều thâm sâu nhất cần phải được giữ lại, nó không thể truyền đạt trong thời điểm hiện nay, khi mà phong trào cuồng tín cực đoan (Sadducees) đang phát triển mạnh. Nhưng vài điều được đưa ra như thế là tốt lắm rồi, còn hơn phải chịu im lặng hoàn toàn, nhất là với các chân lý thật sự quan trọng.

    Thế giới ngày nay, trong cơn điên cuồng chạy về phía vật chất, nơi mà con người nhầm lẫn rằng, đó chính là mục đích cao nhất của mình. Nhưng mọi rắc rối đã xảy ra, khi nó trở thành đấu trường, một thung lũng thật sự cho sự bất hòa và xung đột triền miên cho Thánh-linh (phần hồn) của chúng ta. Những thế hệ sau này, cứ thế, ngày càng tê liệt và suy nhược. Vì thế “những kẻ mất đức tín và trụy lạc” – cách nói của Greeley – không ưa gì sự hồi sinh những chân lý trong quá khứ, mà chỉ có một số ít môn sinh mới được tiếp cận. Cho dù đó là mười năm trước đây, khi quyển “Nữ thần Isis lộ diện” được xuất bản, hay là trong thời điểm tác phẩm này ra đời, với nhiệm cố gắng giải thích vài điều bí truyền đã được phổ biến.

    Một trong những sự phản đối quan trọng nhất, là thiếu tin tưởng vào nguồn gốc của những đoạn Thánh-kinh (Stanzas) được trích dẫn trong quyển sách này. Dù rằng, phần lớn các đoạn trích đó được lấy từ các tác phẩm Bắc Phạn, Trung Quốc và Mông Cổ; một vài nhà nghiên cứu Đông Phương học cũng biết những quyển kinh này, nhưng nó hoàn toàn không tồn tại ở các thư viện châu Âu. Như cuốn “Thiền định chân kinh” (Book of Dzyan), thì không một nhà nghiên cứu nào biết đến, thậm chí chẳng bao giờ nghe nghe nói tới cái tên này. Tất nhiên, đấy là sự thiệt thòi cho ai muốn nghiên cứu theo phương pháp khoa học, nhưng đối với các môn đồ bí giáo thì nó chẳng có mấy ý nghĩa. Một vài giáo lý của quyển sách này đã được rút ra, nằm rải rác trong hàng trăm nghìn bản thảo tiếng Phạn; nhưng đáng tiếc rằng nó bị bóp méo bởi cách diễn giải tầm phào. Do đó, độc giả có cơ hội xác minh và kiểm chứng từ các đoạn văn có nguồn gốc ở trên. Một vài giáo lý khác từ trước đến nay đều được khẩu truyền, nó hiện diện trong nền văn học thánh điện của những người Bà-la-môn, Trung Quốc và Tây Tạng.

    Cho dù có nhận được những lời chỉ trích ác tâm đi nữa, tác giả vẫn chắc chắn rằng. Những môn sinh của một số trường phái bí truyền, ở bên kia sườn núi Hy-mã-lạp-sơn, nhưng nơi đào tạo đệ tử có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, thậm chí ở cả Syria, cũng như bên Nam Mỹ. Những nơi này cũng có sở hữu các bộ kinh sách thiêng liêng về triết lý bí truyền. Bởi vì, kinh sách này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, có khi trình bày bằng ngôn ngữ tượng hình, bảng chữ cái Cadmus và ngôn ngữ điển từ của thần linh (Devanagari).

  2. #2

    Mặc định

    (tiếp theo)
    4
    Kể từ khi thư viện Alexandria (Ai Cập) bị phá hủy, đã có nhiều nổ lực của thành viên hội Brotherhoods bỏ ra để tìm kiếm các kinh sách còn sót lại. Họ từng tuyên bố rằng, có lần đã tìm thấy tất cả những quyển sách bị tiêu hủy, ngoại trừ ba bản sao của một trong quyển thánh kinh này đã được gìn giữ an toàn ở những nơi khác. Một trong những nơi đó là Ấn Độ, bản quý giá cuối cùng được giấu kín trong triều đại của hoàng đế Akbar (1556-1562).

    Họ khẳng định, một trong những kinh sách đó được chép ra mà không hoàn toàn dùng ẩn ngữ hay ký tự tượng hình nào cả. Ban đầu nó được mã hóa để tránh những cặp mắt tò mò, những kẻ không phận sự, kể cả các nhà cổ tự học thông minh nhất. Đến thời Hoàng đế Akbar thì nó được hủy bỏ và chép lại bằng Phạn ngữ, nhưng vài vị cận thần cuồng tín của đức vua không ưa thói tò mò tọc mạch đầy tội lỗi của ngài đối với các quyển kinh của kẻ ngoại đạo. Vì vậy, họ đã giúp những người Bà-la-môn che giấu bản thảo này; như ông Badaoni còn công khai bài tỏ sự ghê tởm với đức vua, vì ngài đã tỏ ra quá say mê ngoại giáo. [1]

    Còn có giả thuyết cho rằng, những đạo viện (lamasaries) giàu có khi xây dựng nơi để ẩn tu (gonpa), hay thánh điện (lakhang) trên các ngọn núi, họ không quên đào những địa đạo sâu thẳm bên trong lòng đất hay tận dụng các thạch động chằng chịt làm thư viện. Chính ở những địa điểm như vậy, chẳng hạn như ở miền Tây Tsaydam, trong những con đường hiểm trở của đèo Kuen-lun (Tây Tạng), các kinh sách được lưu giữ một cách an toàn. Dọc theo triền núi Altyn-Tagh (Tây Tạng) – nơi chưa có người châu Âu nào đi tới – có vài ngôi nhà ẩn trong hẻm núi sâu, chính xác là một thôn. Ở đó có một ngôi chùa nghèo và vị Lạt-ma già ẩn tu. Những du khách từng đi chiêm bái về kể rằng: bên trong ngôi chùa đó, dưới những căn hầm ở lòng đất có chứa nhiều kinh sách, nhiều đến nổi mà theo họ ước lượng ngay cả Viện bảo tàng Anh Quốc còn không đủ chổ chứa.

    Những giả thuyết này dễ làm cho người ta cười cợt và ngờ vực. Nhưng trước khi độc giả nào định bài bác nó, thì xin hãy ngừng lại và theo dõi tiếp các sự kiện đình đám về khảo cứu tôn giáo trong thời gian gần đây. Bắt đầu là các cuộc khảo sát quy mô lớn của những nhà Đông Phương học, cho đến những công trình khảo cứu của các học giả ngôn ngữ học; họ đều thống nhất kết luận rằng: một số lượng lớn các kinh sách hiện nay được xác nhận là có nguồn gốc cổ xưa, nhưng trong quá trình khảo cứu người ta cho biết, không còn tìm thấy dấu vết của bản gốc. Nếu đây là các loại sách bình thường thì có lẽ chẳng ai màn tới, và nó sẽ bị phủ lớp bụi thời gian cho đến khi không còn đọng lại chút gì trong trí óc con người. Nhưng khốn thay, nó lại là chìa khóa để hiểu đúng các tác phẩm còn tồn tại đến bây giờ. Bởi vì, những sách còn lại này chỉ là những trích đoạn rơi rớt và được người đời sau chắp vá. Cho nên phần lớn người đọc chẳng hiểu nó nói đến điều gì nếu không có lời bình kèm theo; đến ngay cả các học giả, mỗi người lại có một cách lý luận khác nhau, chẳng ai chịu ai.

    Một ví dụ rõ ràng trong trường hợp nan giải này là các kinh sách của Lão Tử (Lao-tse). Tương truyền đương thời ngài đã viết đến 930 quyển kinh về Đạo Đức và Tôn giáo, 70 quyển về cách luyện pháp thuật, tổng cộng là khoảng một nghìn quyển. Nhưng kinh điển nhất vẫn là Đạo đức kinh (Tao-te-ching) – như một “Thánh kinh của Lão Giáo” (cách nói của Stanislas Julien), quyển này chỉ có khoảng 5.000 chữ, chiếm chưa tới 12 trang giấy. Nhưng giáo sư Max Muller nhận thấy rằng “nó thật khó hiểu nếu không có lời bình kèm theo, đến nỗi mà ông Julien khi có ý định dịch tác phẩm này phải tham khảo ý kiến hơn 60 nhà nghiên cứu” (Le livre de la Voie et de la Vertu -1842), trong đó bản luận cổ nhất xuất hiện vào khoảng năm 163 – TCN.

    Nếu tính từ thời điểm Lão Tử viết quyển Đạo Đức Kinh (thế kỷ thứ 6 TCN) cho đến sự xuất hiện bản luận cổ nhất (năm 163 – TCN), thì đã hơn 4,5 thế kỷ. Trong ngần ấy thời gian là quá đủ để người ta giấu bớt giáo lý của ông, ngoại trừ các cao đồ được điểm đạo. Một vài người Nhật đã từng là môn đồ thông thái của Lão Tử, và họ còn lưu giữ trong tay các học thuyết bí truyền của Lão giáo, họ cười nhạo các học giả Trung Quốc và Phương Tây đã ngây thơ tin vào các văn bản hiện tại. Theo họ, đó chỉ là phần công truyền, những bài luận nhằm mục đích che đậy, còn lời bàn thật sự từ lâu đã biến mất khỏi những đôi mắt phàm tục.

    Bây giờ chúng ta điểm lại các kinh văn cổ của người Do Thái (Semite), người Chaldean (vùng Irad hiện nay), nếu chúng không được Thánh kinh Moise (Mosaic Bible) ghi lại thì ngày nay chúng ta chẳng có gì để tìm kiếm. Và khi đó, các nhà nghiên cứu chỉ có đôi dòng về lịch sử tôn giáo của thành Babylon, chu kỳ quan sát thiên văn kỳ lạ của các Pháp sư (magi) người Chaldean, hay chút ít tư liệu về nền văn học huyền bí của họ. Vì thực tế thì số kinh sách đó chỉ còn rời rạc vài đoạn, mà nghe nói là được bộ luận của tu sĩ Berosus (người Chaldean) trích dẫn.

    Tuy nhiên, tác phẩm này gần như vô giá trị, cho dù có dùng để dò tìm manh mối về nguồn gốc số kinh sách đã thất truyền. Bởi vì, nó đã qua bàn tay của Giám mục Caesarea – người tự cho mình quyền kiểm soát và in ấn các bản kinh của các tôn giáo khác – và chắc chắn rằng, cho đến ngày nay bút tích của ông ta vẫn còn đó. Vậy thì, bộ luận nói về tôn giáo vĩ đại ở Babylon đã có từ đâu?

    Tu sĩ Berosus (mục sư của đền thờ Belus) viết bộ luận này bằng tiếng Hy-lạp và dâng nó cho Alexander Đại đế. Trong tác phẩm này, ông Berosus trích một số đoạn trong quyển kinh nói về Chiêm-tinh-học, quyển kinh này được bảo quản trong đền thờ Belus trong một thời kỳ đến 200.000 năm, nhưng hiện giờ đã thất lạc. Vào thế kỷ thứ I – TCN, Alexander Polyhistor (học giả Hy Lạp, sống ở Rome) đã trích lục nhiều đoạn trong bản kinh này, nhưng cũng bị mất. Sau đó đến Giám mục Eusebius (270-340) – Palestine – đã dùng những đoạn trích này để viết cuốn niên sử (Chronicon) của mình. Nhưng ông Eusebius với vai trò là người tuyên truyền cho tôn giáo mới, cảm thấy các điểm tương đồng cùng bản sắc giữa kinh sách của người Do Thái và người Chaldea là điều nguy hiểm cho Kinh Thánh Do Thái. Và dĩ nhiên kinh sách của người Chaldea đã bị hô biến.

    Bằng cách sử dụng giản đồ Manetho (sử gia Ai Cập – khoảng 250 TCN), nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn thấu sự thật bên trong. Nhà khảo cổ Bunsen tố cáo Eusebius là kẻ cắt xén lịch sử vô cùng nhẩn tâm; còn Socrates thì nói, ông ta là gã thợ rèn lịch sử táo bạo và liều lĩnh.

    Vì vậy, ngoài những bản kinh sót lại đầy mơ hồ như trên, tất cả các kinh văn khác của người Chaldea đã hoàn toàn biến mất khỏi những đôi mắt phàm tục, y như số phận Châu Atlantis bị tàn phá không còn chút dấu vết nào. Sau này, một vài sự kiện lịch sử được khôi phục, người ta còn hiểu biết thêm về những vị Thiên thần sa đọa (Fallen Angels) được nhân cách hóa như là Bel và Dragon.

    ——

    [1] Badaoni viết trong quyển Muntakhab at Tawarikh:

    “Hoàng Đế của chúng ta thích thú với tôn giáo của những kẻ ngoại đạo, những loại ngoại giáo này nhiều vô số kể và kinh sách của thì không tài nào đếm hết được… Bọn họ (những kẻ Sramana và Bà-la-môn) vượt qua người khác nhờ đã học được các bộ luận về đạo đức, về khoa vật lý và tôn giáo, có sự hiểu biết về tương lai, quyền lực tinh thần, cách hoàn thiện con người. Họ chứng minh được bằng chứng cớ và dựa trên lý luận, đến nỗi chân lý của họ vững như bàn thạch. (Ain i Akbari, translated by Dr. Blochmann, p. 104, note.)

    5

    Và giờ chúng ta tiếp tục khảo sát đến phần kinh sách của người Ấn Âu (Aryan), các kinh Phệ Đà (Veda). Các nhà Đông Phương học đều biết, kinh Veda bao gồm 8 bộ, trong đó các bộ đáng chú ý là: Rig-veda, Sama-veda, Yajur-veda, Atharva-veda, và Brahmanas. Riêng bộ quan trọng nhất là Rig-Veda chỉ chứa “khoảng 10.580 câu thơ, hoặc 1.028 bài thánh ca”. Còn kinh Brahmanas có nhiều bản luận và chú giải nhất, nhưng dù vậy, cho đến ngày nay không phải ai cũng hiểu được nó một cách chính xác. Vì để hiểu đúng những câu thánh ca nguyên thủy nhất, cần phải có chìa khóa, nhưng tiếc rằng các nhà Đông Phương học của chúng ta chưa tìm ra được nó.

    Còn Phật giáo thì sao? Trong thời gian qua các học giả viết gì về giáo lý Phật giáo? Họ có đầy đủ các bản kinh sách này không? Chắc chắn là không. Mặc dù người ta đã biết, có tới 325 quyển kinh Kanjur và Tanjur, chúng cân nặng tổng cộng từ 4-5 cân Anh; nhưng họ lại không biết gì về Lạt-ma-giáo (Lamaism). Hay kinh Saddharma-alankara có 29.368.000 chữ (nếu không kể lời bình và chú giải), nhiều hơn 5 đến 6 lần quyển Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo (Bible). Chỉ với hai tập kinh Kanjur và Tanjur, trong quá trình dịch “các dịch giả thay vì trình bày nguyên bản, nhưng lại xen vào những lời bình của họ nhằm biện minh cho trường phái của mình” (Buddhism in Tibet – E.Schlagintweit), làm cho độc giả không được tiếp cận vấn đề cốt lõi của nó. Hơn nữa, theo truyền thuyết được lưu truyền ở Nam và Bắc Tông cho biết, giáo điều thiêng liêng của Phật giáo nguyên thủy có 80.000 hay 84.000 bài kinh ngắn, nhưng hầu hết đã không tìm thấy và chỉ còn lại khoảng 6.000 bài – như hiện nay. Theo cách hiểu của người Châu Âu như thế là thất truyền, còn đối với các tông đồ Bà-la-môn hay Phật giáo thì không ai kết luận có chuyện đó.

    Theo mức độ tín ngưỡng của những tín đồ Phật giáo, những dòng viết về Thích Ca, hay Chánh Pháp (Good Law) luôn được họ tôn sùng, và đáng lẽ ra các kinh sách này phải được giữ gìn cẩn mật mới đúng. Thế nhưng việc để mất gần 76.000 bài kinh ngắn như thế quả thật là kỳ lạ. Tuy nhiên, khi điểm lại tiến trình lịch sử Phật giáo, ta thấy trong thời điểm bị đàn áp tín ngưỡng tại Ấn Độ bởi người Hồi Giáo (Vua Al-Mahdi; triều đại Abbasad; 775-785) và phải tiến hành cuộc di cư ra khỏi vùng đất phát tích này, chắc là họ đã đánh mất một phần kinh sách. Nhưng cũng cần phải nói rõ, trước đó các vị La-hán đã bắt đầu cuộc truyền đạo vào khoảng năm 300 TCN [1]. Sau đó, các cao đồ khác đã đến các vùng đất Trung Quốc (hiện nay) vào khoảng năm 61 (Reverend T. Edkins, “Chinese Buddhism.”) để truyền bá tín ngưỡng ra bên ngoài vùng Kashmir và Hy-mã-lạp-sơn. Vì vậy, với các học giả Phương Đông, họ không bao giờ nhìn nhận với người Phương Tây, có chuyện kinh Phật bị thất truyền. Bởi họ tự hào có đủ khả năng để gìn giữ gìn pho kinh thiêng liêng nhất của mình, những người nước ngoài “vô cùng cao siêu” không đời nào tiếp cận được, với lý do đơn giản, cần phải cách ly các giáo lý thượng thừa của họ để tránh bị lợi dụng và bêu rếu.

    Từ dữ kiện lấy được từ các nhà Đông Phương học, tác giả nhận thấy: (a) Các học giả nghiên cứu về tôn giáo cổ thực sự có rất ít dữ liệu để đưa ra kết luận chính xác vấn đề, sau cùng họ đánh giá kết quả theo chiều hướng có lợi cho tín ngưỡng của mình. (b) Việc thiếu hụt tư liệu đó không thể ngăn cản họ độc đoán hóa (dogmatising) tín điều.



    [1] Một tu viện Phật giáo được dựng lên tại núi Kailas vào năm 137 TCN, và Tướng Cunningham nói rằng còn lâu hơn nữa. Lassen, (“Ind. Althersumkunde” Vol. II, p. 1,072).

  3. #3

    Mặc định

    (tiếp theo)
    6
    Người ta nghĩ rằng, nhờ vào các tài liệu về Thần hệ và bí pháp của người Ai Cập – được viết trong các kinh văn cổ – thì các nghi lễ và tín điều của các vị vua (Pharaonic) Ai Cập sẽ được hiểu rõ; ở mức độ nào đó, ít ra chúng cũng dễ hiểu hơn các triết lý cao siêu, hay thuyết phím thần của Ấn Độ [1]. Thế nhưng, giữa sưu tầm và tiến trình giải mã là hai công việc hoàn toàn khác nhau.

    Trên đất nước Ai Cập ngày nay, dọc theo dòng sông Nile và cả phần đất liền, người ta đang tiến hành rầm rộ các cuộc khai quật khảo cổ, các di tích mới liên tục được tìm thấy, nhiều điều mới mẽ bắt đầu lộ diện. Sự kiện này chứng tỏ nơi đây đã từng có một lịch sử hùng hồn, đến nỗi các nhà khảo cổ học ở Viện Đại hoc Oxford cũng phải thốt lên:

    “Ngoài các Kim tự tháp mà chúng ta trông thấy kia, còn có những tàn tích sót lại từ đền thờ và mê cung. Những bức tường nguyên vẹn được chạm khắc chữ tượng hình và hình vẽ lạ lùng về các nam nữ thần. Trên các cuộn giấy cói không hề bị thời gian tàn phá, là những bản kinh rời rạc còn rõ nét. Mặc dù với các cổ vật thu được, chúng ta có thể giải mã được phần nào bí mật của dân tộc này, song động lực nào để người Ai Cập tôn sùng lễ nghi đến như thế, vấn đề này chắc còn lâu chúng ta mới hiểu hết.”

    Ở đây, sự kiện này một lần nữa gợi tiếp cho ta vấn đề cần suy nghĩ, các văn bản chữ tượng hình đã tìm thấy, nhưng chìa khóa giải mã thì mất tăm.

    Thật vậy, các nhà khảo cổ có vẽ đã biết quá ít về những lễ nghi tang lễ của người Ai Cập và dấu hiệu bên ngoài để nhận biết sự khác nhau giữa đàn ông đàn bà qua xác ướp, đôi khi các nhầm lẫn này rất ngô nghê. Trong thời gian cách đây khoảng một hoặc hai năm, sai lầm kiểu này đã xãy ra tại Boulaq (Cairo). Trong lần nghiên cứu về một xác ướp vừa khai quật được, các nhà khảo cổ nhận xét đó là xác của một người đàn bà, vợ của một vị Pharaon tầm thường. Tuy nhiên, sau đó nhờ việc đọc được một chữ ghi trên lá bùa đeo cổ của xác chết, người ta mới vỡ lẽ, đó chính là xác của Sesotris, một vị Đại Đế của Ai Cập.

    Tuy nhiên, phải thấy rằng “có điểm chung giữa ngôn ngữ và tôn giáo” của các dân tộc từng tồn tại trên địa cầu này. Đó là, từng có một tôn giáo chung của người Ấn Âu (Aryan) trước khi có sư ly khai của chủng tộc này, từng có chung một tôn giáo của người Semite (Tây Á hiện nay) trước khi họ tách rời nhau ra, hay sự phân chia của người Turanian (Ba Tư) trước khi có sự phân ly của người Trung Quốc và các bộ tộc khác thuộc lớp người Turanian. Do chỉ tìm được “ba trung tâm tôn giáo cổ” và “ba trung tâm ngôn ngữ cổ”, nhưng lại hoàn toàn không biết gì về nguồn gốc nguyên thủy của nó, các vị này (ở Viện Đại hoc Oxford) cũng không ngần ngại tuyên bố: “chúng ta đã tìm được một cơ sở nền tảng lịch sử thực sự, và đây là tiền đề cho các cuộc thảo luận khoa học bàn về các tôn giáo chính trên thế giới”.

    Nhưng “cuộc thảo luận” của các nhà khoa học không hề gia tăng thêm giá trị cho “cơ sở nền tảng lịch sử”, khi mà với sự khan hiếm các dữ liệu trong tay, cho dù là các nhà nghiên cứu lỗi lạc đi nữa, không ai có đủ bằng chứng để đưa ra kết luận của riêng mình. Dù sao thì các nhà nghiên cứu này đã chứng minh rất khoa học, và làm đa số người thỏa mãn. Họ cho rằng, theo Định luật phát âm của Grimm, thì Đức Odin (một vị thần Bắc Âu cổ) và Đức Phật là hai người khác nhau. Và sau đó họ lại tuôn một mạch, Đức Odin được tôn sùng như một vị thần tối cao trong một thời gian dài, còn trước cả thời đại kinh Veda và kinh Homer (Hy Lạp cổ). Về điều này thì họ không ban cho “nền tảng lịch sử” chút giá trị nào, mà ngược lại còn bắt nó phục vụ cho “kết luận” của mình. Cho dù phương pháp đó nó tỏ ra vẽ khoa học, nhưng chất lượng thì xa rời thực tế.

    Những quan điểm trái ngược nhau về vấn đề niên đại của kinh Veda của các nhà nghiên cứu lỗi lạc như Martin Haug, Max Muller, là chứng cớ để ta nói rằng các nghiên cứu này không làm lợi ích cho “nền tảng lịch sử”. Loại “bằng chứng bên trong” này thay vì làm ngọn hải đăng dẫn dắt cái trí đến chổ sáng, nhưng rốt cuộc thì chỉ là ngọn đèn lồng kéo tụt người ta vào nơi mờ ảo. Và cũng không có sự cải tiến mới lạ nào trong cách lý luận của những người nghiên cứu thần thoại qua kinh sách, để có thển giảm bớt chút ít sự sai lầm. Khi họ yêu cầu phải có “những bản kinh rời rạc được cho là tiết lộ về tổ tiên loài người”, được bảo quản trong trong các ngôi đền ở Hy-lạp và Italy, vì đây là những gì các bậc được điểm đạo Đông Phương công bố cho công chúng biết. Tuy nhiên, một vị Đại Đức người Tích Lan quả quyết với tác giả, mọi người điều hiểu rằng các kinh ngắn quan trọng thuộc giáo điều thiêng liêng của Phật giáo được tàng trữ ở nhiều nơi, tại những vùng đất mà người châu Âu không thể tiếp cận. Với Bà-la-môn giáo, cố Đại Đức Dayanand Sarasvati cũng cho biết, các kinh sách quan trọng của họ không thể nào để rơi vào tay người ngoài.

    Khi nghe tin giáo sư Max Muller tuyên bố với thính giả của mình trong bài diễn thuyết rằng, “chả có bao nhiêu người ủng hộ cái lý thuyết, có sự ẩn tàng của lực lượng siêu nhiên đứng phía sau loài người”, thì nhiều nhà hiền triết đã phì cười. Một trong các vị Bà-la-môn này nói, “Nếu ông Moksh Mooller – người nói phát âm – là một người Bà-la-môn, và đến gặp tôi, tôi có thể đưa ông ấy đến hang động Gupta (một hang động bí mật) gần Okhee Math, ở dãy Himalaya. Ở đây chẳng cần lâu, ông ta sẽ tìm ra rằng những gì mà các Kalapani (Ấn Kiều) mang từ Ấn sang Âu Châu chỉ là những mảnh nhỏ so với pho kinh sách đồ sộ của chúng tôi. Đấy chỉ là những tiết lộ đầu tiên và sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, và tất nhiên là các Mlechchhas (người nước ngoài ở Ấn) phải chờ đợi”.

    Khi được hỏi thêm về sự kiện tiết lộ kinh sách này, thì ông không nói thêm điều gì nữa. Cuộc nói chuyện này xảy ra tại Meerut (Ấn Độ) vào năm 1880.

    Trong thế kỷ vừa qua, tại Calcutta, những người Bà-la-môn có vẽ gian xảo khi lừa gạt Đại tá Wilford và Sir William Jones, nhưng những người này phải nhận kết quả như thế âu cũng do chính hành vi của họ. Theo sự thổ lộ của Sir William Jones (xem Asiat Res.., Vol I, trang 272), thì Đại tá Wilford quan niệm, các vị thần Brahma, Vishnu và Mahesa của người Bà-la-môn không khác gì Thượng-đế-ba-ngôi của Thiên chúa giáo. Điều này khiến những người Bà-la-môn này đã làm giả các bảng kinh cổ và đưa cho ông Wilford, họ chép các đoạn kinh cũ Purana bằng ngôn ngữ Bắc Phạn cổ trên những lá buôn, và xào nấu nội dung theo cách hiểu của ông Wilford về các vị thần của họ.

    Đó là một bài học hay, và cảnh tỉnh các học giả nghiên cứu Đông Phương học, cũng như đã làm một vài người hổ thẹn. Nhưng nó đã làm cho kết quả nghiên cứu đi đến chiều hướng lầm lạc khá nhiều. Sự ham muốn nồng nhiệt đầy dục vọng kiểu như Đại tá Wilford đã tạo nên thị trường giả kinh sách cổ, đáp ứng nhu cầu của phái đoàn truyền giáo. Hay là đây là việc làm đầy toan tính của họ với mục đích xuyên tạc rằng, kinh Purana nói về Đức Krishna có được nhờ đạo văn Kinh Thánh Do Thái. Nhưng sau đó, các giáo sư Đại học Oxford trong bài luận “Khoa học và tôn giáo”, có nói đến câu chuyện kinh giả nổi tiếng và việc này đã làm ông Đại tá Wilford buồn phiền. Cần phải chấp nhận rằng những người nghiên cứu lịch sử chân chính không thể can thiệp để làm thay đổi lịch sử. Cho dù nếu đi theo chiều hướng kết luận của ông Wilford, để thấy kinh Tân Ước và Cựu Ước không hề vay mượn từ kinh sách Bà-la-môn và Phật giáo; thì không thể suy ra là kinh Do Thái chưa hề vay mượn kinh Chaldea, chính Eusebius đã cắt xén những cuốn kinh của người Chaldea.

    Đối với người Chaldea, chắc chắn người thầy đầu tiên của họ là người Bà-la-môn. Các công trình nghiên cứu của ông Rawlinson cho thấy có sự ảnh hưởng không nhỏ của kinh Vệ Đà trong truyện thần thoại Babylon. Và từ lâu Đại tá Vans Kennedy cũng chứng minh, Babylonia từng là đất của người Bà-la-môn, vì có sự ảnh hưởng của nền giáo dục Ấn với Phạn ngữ. Nhưng tất cả những bằng chứng như vậy đã phải lung lay với thuyết của giáo sư Max Muller. Nó là những gì mà mọi người đã biết. Các qui tắc về ngữ âm trở thành dung môi chứng minh có sự liên kết “bà con họ hàng” giữa các vị thần linh trên thế giới. Đức mẹ của thần Mercury (Budha, Đức Thot- Hermes) là Maia; mẹ của Đức Phật (Gautama) là Maya; mẹ của Chúa Jesus cũng là Maya (vì Mary là Mare, nghĩa là biển cả, ảo tưởng lớn)… Nhưng theo “quy tắc về luật phát âm” của nhà ngữ học Bopp thì chẳng thể có bất cứ sự liên quan nào về cách phát âm như trên.

    Với nỗ lực nhằm kết nối nhiều sự kiện đã xảy ra thành trang lịch sử mới chưa từng được ghi nhận, đó là một việc làm táo bạo, nhưng táo bạo đến mức mà phủ nhận những chi tiết không ăn khớp với kết luận của họ, thì nó trở nên liều lĩnh quá mức.

    Trong khi người ta ngàng càng khám phá ra nền nghệ thuật, chữ viết và sự hiểu biết khoa học đã tồn tại từ xa xưa, nhưng cũng không thể ngăn cản họ ghi nhận những dân tộc này vốn là man rợ. Những vết tích về nền văn minh lớn thời tiền sử, từng tồn tại ngay vùng Trung Á vẫn còn tìm thấy rải rác. Dù chỉ với chút ít bằng chứng, cũng không thể phủ nhận sự tồn tại nền văn minh đó. Và liệu với một nền văn minh như vậy, làm gì có chuyện không có chữ viết, không có văn học, hay văn hóa? Sự đứt đoạn về sử liệu là do có những nước từng bị tiêu diệt trong quá khứ. Toàn thể vùng cao nguyên Tây Tạng được vây quanh những bức tường núi liên tục, từ thượng lưu dòng sông Khuan-Khe xuống đến đồi Kara-Korum, đã là nhân chứng cho nền văn minh suốt năm nghìn năm, và nơi đây chứ nhiều bí mật lạ kỳ để kể cho nhân loại.

    Miền Đông và Miền Trung của vùng này – Nan-Schayn và Altyne Taga – xưa kia có nhiều thành phố lớn cỡ Babylon. Một thời kỳ địa chất biến động đã đi qua nơi đây, những vụ sụt lở cát đã chôn vùi vài thành phố, sau đó vùng đất này biến thành sa mạc khô cằn rộng lớn, có tâm tính từ lưu vực sông Tarim. Du khách đa phần mới đặt chân đến vùng đất này, nếu vượt qua những đồi cát sẽ tìm thấy những vùng cao nguyên có nước, sự sống đang tồn tại và phát triển ở đó. Những nơi như thế này, chưa có một người Âu Châu nào từng đi tới. Vài nơi trong số các ốc đảo đó, ngay cả các cư dân bản địa cũng không cách nào xâm nhập được. Nơi đây thường xuyên có những trận bão cát có thể “xé nát sa mạc và quét sạch những gì trên đường chúng đi qua”; vì vậy các thư viện được đào sâu dưới lòng đất và lối vào là các ốc đảo, trong điều kiện như vậy các kinh sách luôn được lưu giữ an toàn, kể cả các cuộc chiến tranh đã từng cào nát vùng này.

    “Người ta không nhìn thấy một hồ nước, một bụi cây, một ngôi nhà nào, và chung quanh là những dãi núi tạo nên địa hình lồi lõm, dựng lên xung quanh bãi xa mạc nóng boảng và khô khan…”

    Nhưng cũng không cần khuyến khích độc giả tiến sâu vào bãi sa mạc mênh mông này, chỉ cần đi tới vài nơi có người sinh sống, rồi ta cũng sẽ tìm ra dấu tích nền văn minh cổ còn sót lại ở đây. Như ốc đảo Tchertchen, nằm khoảng 4.000 feet trên mực nước của sông Tchertchen-D’arya, được bao quanh bởi tàn tích đổ nát của một đô thị xa xưa. Dân cư ở đây vào khoảng 3.000 người, nhưng lại thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, trong đó có những chủng tộc mà các nhà nhân chủng học chưa hề biết đến và không biết phân loại họ vào đâu. Các cư dân này tượng trưng cho tàn tích của chừng 100 giống dân, của 100 nước không còn tồn tại nữa, ngay chính cả những người này họ cũng không biết tổ tiên mình là ai. Một vài bộ tộc thì nói, tổ tiên của họ là những người đầu tiên được cai trị bởi những vị thần (genii) vĩ đại của sa mạc. Điều này có thể được gọi là mê tín hay vô minh, tuy nhiên theo quan điểm của Giáo lý bí truyền, câu trả lời có thể tìm thấy trong truyền thuyết về thời kỳ sơ khai. Duy nhất chỉ có bộ lạc Khoorassan cho rằng mình có nguồn gốc từ vùng Afghanistan (ngày nay), và có trước cả thời Alexander, họ tin vào điều này nhờ dựa vào những câu truyện thần thoại mà bộ tộc còn lưu giữ. Đại tá Prjevalsky, một người Nga, đã tìm thấy những di tích đổ nát của hai thành phố cổ khá gần với ốc đảo Tchertchen; theo truyền thuyết địa phương, một thành phố bị phá hủy cách đây khoảng 3.000 năm, bởi những người anh hùng khổng lồ; còn thành phố kia bị người Mông Cổ tàn phá vào thế kỷ thứ X.

    “Các cuộc biến động địa chất và thiên tai xảy ra ở đây như chuồi cát hay bão cát, đã làm đô thị này trồi lên những cổ vật kỳ lạ từ dưới lòng đất. Các loại đồ sành sứ, đồ dùng nhà bếp bị vỡ, và cả những bộ xương người. Những người bản xứ còn tìm thấy những đồng tiền bằng kim loại bạc hoặc đồng, những thỏi bạc được nấu chảy, và cả các kim loại quý như kim cương và ngọc thạch. Nhưng đáng chú ý nhất là những mảnh kính vỡ, các cái quan tài bằng loại gỗ không hề bị hư mục, bên trong là xác ướp được giữ gìn rất tốt… Những xác ướp đàn ông thường rất cao lớn, cường tráng, với mái tóc dài dợn sóng. Người ta còn tìm thấy một hầm mộ có 12 xác chết đang ngồi trong đó. Trong một lần khác họ còn tìm được một xác chết của một thiếu nữ. Người này được chôn cất trong tình trạng đôi mắt được bịt bằng những cái đĩa hình tròn bằng vàng, và một cái kiềng vàng gắn chặt hai bên hàm, chạy dài từ dưới cằm lên tận đỉnh đầu. Trên người xác chết là bộ y phục đan bằng len chật ních, những ngôi sao bằng vàng đính trên ngực, còn đôi bàn chân thì không mang gì cả” (Bài diễn thuyết của N.M.Prjevalsky).

    Về điều này Prjevalsky còn tiết lộ thêm, dọc theo cuộc hành trình sông Tchertchen, ông còn nghe những truyền thuyết nói rằng ở đây có khoảng 23 thành phối bị chôn vùi đã vài nghìn năm. Ở vùng Kerya, các cư dân của họ cũng có cùng câu chuyện như vậy.

    Những vết tích của nền văn minh, và những truyền thuyết được lưu truyền trong cộng đồng, cho chúng ta thêm quyền tin tưởng vào một giả thuyết khác, giả thuyết của những người có đạo đức và học thức. Đó là, người ta đã khai quật được các thư viện dưới lòng sa mạc, một số lượng lớn các kinh sách đã tìm thấy và dĩ nhiên hiện giờ chúng đang cất dấu ở nơi an toàn.

    Tóm lại, Giáo lý bí truyền là triết lý của một tôn giáo duy nhất được phổ biến khắp nơi trong thế giới cổ đại thời tiền sử. Các bằng chứng về sự khuếch tán này, như các tài liệu về lịch sử của nó mà chúng ta đang có vinh hạnh tiếp cận, còn một nguồn khác lớn hơn đang nằm khắp nơi dưới lòng đất, và giáo lý của các vị Chân sư đang được bảo quản trong các tàng thư ở các giáo phái.

    Các thuyết trên sẽ đáng tin cậy thêm nếu những giả thuyết sau đây được các học giả nghiên cứu kỷ càng: Đó là câu chuyện hàng nghìn mảnh da thuộc dùng để ghi sách, đã được cứu thoát khỏi thư viện Alexandria trước khi nó kịp bốc cháy. Hay hàng nghìn quyển kinh chữ Phạn đã biến mất dưới triều đại vua Akbar; còn Trung Quốc hay Nhật Bản thì có truyền thuyết phổ thông nói rằng, hàng nghìn quyển luận kinh cổ từ lâu đã không còn trong tay kẻ phàm phu; sự biến mất của nền văn học minh triết huyền bí của thành Babylon. Hay Sự đánh mất chìa khóa để giải mã chữ tượng hình của người Ai Cập, kinh Veda của người Hindu, kinh viết về giáo lý của Đức Phật.

    Các nhà huyền môn khẳng định rằng, tất cả các tài liệu hiên nay vẫn còn phải được bảo vệ, tránh sự cướp đoạt và hủy hoại của người da trắng. Đâu đó, vào thời kỳ sáng sủa hơn trong tương lai, những tài liệu này rồi sẽ trở về với loài người, như lời Đại Đức Dayanand Sarasvati từng nói. Hiện nay, những tài liệu này tạm “thất truyền” đối với đa số người, bởi lòng ích kỷ và dục vọng sẽ là mối nguy cho nhân loại, nếu họ có nó trong tay. Chỉ vài người có linh hồn tiến hóa cao mới nhận được ân huệ này, nhưng không ai trong số họ được tiết lộ nó ra ngoài, nếu chưa được phép.

    Những đệ tử huyền môn sơ cấp thường hay nêu thắc mắc, chúng tôi hiểu được nhu cầu phải bảo vệ những bí mật quan trọng của tôn giáo, thế nhưng liệu có nguy hiểm nào khi chúng tôi muốn tiếp cận về triết học, đơn cử như là biết được sự tiến hóa của những dãy hành tinh.

    Sự nguy hiểm là như thế này: Ví dụ như học thuyết về chuỗi bảy hành tinh, bảy chủng tộc, và bảy luân xa của con người. Vì mỗi luân xa liên quan đến một cõi, trong một cõi thì luân xa này có những huyền năng thần bí phi thường. Bất kỳ sự tiết lộ nào cũng dẫn đến manh mối, để người ta tìm mọi cách nghiên cứu hay thực nó, nhằm đạt đến những cảnh giới cao hơn. Nếu đó là một kẻ phi đạo đức, hắn sẽ gây tội ác với nhân loại, nhất là đối với người phương Tây ưa chuộng vật chất và vô minh.

    Đúng là những giáo lý này được che dấu, nhưng kiến thức cơ bản và sự tồn tại thực sự của nó không bao giờ bị các vị Đạo sư giữ riêng mình, các vị luôn khuyến khích đệ tử tuân thủ giới luật, và thực hành để đạt đến sự toàn thiện. Nó đã từng được tiết lộ từ giai đọa này sang giai đoạn khác trong quá khứ, và ở cả thời điểm hiện tại nữa. Đó là các vị Chân sư như Đức Pythagoras, Plato, những môn đồ của phải tân Plato, hay tôn giáo của người Nazarenes.

    Hơn nữa, có một sự kiện nổi tiếng xảy ra ở Nga mà tác giả cũng được biết đến. Một vị giáo sĩ giúp việc trong Tòa đại sứ Nga cho biết, trong thư viện Hoàng gia St Petersburg đã ghi, có một nhà thần bí học người Nga đã tìm cách đi Tây Tạng, vượt qua rặng núi Ural để tầm sư học đạo trong những ngày mà người Âu Châu chưa biết gì về vùng Trung Á này. Tới thời điểm hiện nay, đã có những hội như Freemasonry và Secret về thần bí học mọc lên tự do ở Nga. Điều này chứng tỏ, có nhiều người Nga đã đến Tây Á tìm đạo và có người trở về với kiến thức thần bí phong phú, nhiều hơn những gì mà dân các nước Châu Âu khác biết đến. Có nhiều trường hợp mà tác giả có thể kể ra tên tuổi, nhưng e rằng sự vội vàng của mình sẽ làm phiền lụy đến thân nhân các vị được điểm đạo đã qua đời. Để kiểm chứng điều này, độc giả nên đến các thư viện ở Nga và tìm hiểu lịch sử của hội Freemasonry, nó sẽ xác tín điều tác giả nói.

    Nhiều độc giả thường đặt cùng một câu hỏi, liệu Thông Thiên Học có phải là một tôn giáo mới không? Tuyệt nhiên không, chúng tôi không phải là sáng lập viên hay tín đồ của một tôn giáo mới nào cả và giáo lý Thông Thiên Học cũng chẳng phải là giáo lý mới. Một vài giáo lý mà chúng tôi đưa ra không phải mới được công bố lần đầu, mà nó đã được đức Ragon thuyết giảng nhiều lần ở Âu Châu.

    Nhiều học giả có chung nhận đình là, chưa bao giờ có một nhà sáng lập tôn giáo đích thực nào, dù là người Aryan, người Semit hay là người Turanian. Những vị được coi là giáo chủ của các tôn giáo này, họ chỉ là người truyền bá, họ có cách thuyết pháp thu hút tín đồ; những giáo lý mà họ nói, nó có từ khi có nhân loại. Như vậy, trong buổi bình minh của loài người, chân lý này đã được các vị Đạo sư truyền khẩu và gìn giữ trong các Thánh điện, chỉ có các bậc cao đồ dùng thần nhãn mới nhìn thấy nó. Sau này, các giáo lý này được phân ra và được mã hóa cho mỗi vùng đất khác nhau. Như Legge nhận định, Đức Khổng Tử dứt khoát là một nhà truyền pháp, chứ ông không phải là người sáng tạo.

    Chính Đức Khổng Tử đã nói, “Tôi chỉ là người truyền đạt, chứ tôi không lập ra điều gì mới cả. Tôi tin tưởng ở người xưa và vì vậy, tôi kính mến họ”.

    Tác giả cũng kính mến họ, cho nên tác giả tin tưởng vào các vị thánh nhân này và những lời minh triết của các ngài. Và hiện giờ tác giả cũng làm cái nhiệm vụ tương tự như thế, nghĩa là ở vị trí của người truyền đạt. Còn những ai bác bỏ điều này, thì tác giả cũng chấp nhận ý kiến của họ, vì cả hai có quan điểm khác nhau. Nhưng theo phong cách của nhà nghiên cứu, họ phải bác bỏ dựa trên những luận điểm mang tính phản biện, chứ không phải là kiểu công kích ác ý.

    Những điều được nói đến trong quyển sách này được tập hợp từ các giáo lý truyền khẩu và các kinh sách cổ. Phần mở đầu là những đoạn Thánh kinh của một dân tộc mà chưa có nhà nhân chủng học nào biết tới, nó sử dụng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ và không được khoa học chấp nhận, ngôn ngữ điện từ. Nhưng cũng phải mất nhiều thế kỷ nữa những bí mật này mới hoàn toàn mở với đa số nhân loại, còn trong hiện tại và thời gian tới, từng chút ít vấn đề nhỏ sẽ được tiết lộ.

    (hết phần giới thiệu)

  4. #4

    Mặc định

    những thông tin về thông thiên học các bạn có thể vào 2 trang này tìm đọc
    tha hồ mà download rất nhiều tài liệu
    http://www.thongthienhoc.com/trangsach.htm
    http://www.thanbihocdongtay.com/_mgx...age_10777.html

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi SamHoi_thanhPhat Xem Bài Gởi
    Xin cảm ơn ! khi đọc một cuốn sách hay nhận một thông tin thường thì mỗi người đều có nhận định và suy xét khác nhau, vì vậy khi những thông tin này được công bố sẽ rất quý với những ai luôn đón nhận, tiếp thu những điều chưa biết, để khám phá thêm những bí ẩn của cuộc sống của nhân loại, của vũ trụ do những nền văn minh khác cao hơn truyền cho. Thông qua người nhận, người dịch và người công bố.

    Không phải tự nhiên mà hiện nay rất nhiều tài liệu bí mật được công bố rộng rãi...! Red Arlet

    Xin cảm ơn ! Đang chờ phần tiếp theo.
    Hay quá Đt này tìm được những người tri âm hiểu ra mục đích của Đt khi Up những tài liệu như thế này. Thiên cơ này không chỉ xảy ra trong đạo mà còn ở ngoài đời, tỉ dụ như vụ wikileak chấn động cả thế giới đấy ạ !
    :big_hug:

  6. #6

    Mặc định

    CƠ ĐỐC GIÁO BÍ TRUYỀN

    NGUYÊN TÁC: ESOTERIC CHRISTIANITY

    Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

    MỤC LỤC
    Lời nói đầu
    1.Phía ẩn mật của các Tôn Giáo
    2.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Thánh Kinh
    3.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Giáo Hội
    4.Đấng Christ trong lịch sử
    5.Đấng Christ trong thần thoại
    6.Đấng Christ trong thần bí học
    7.Sự chuộc tội
    8.Sự sống lại và sự thăng thiên
    9.Tam nguyên
    10.Cầu nguyện
    11.Sự tha tội
    12.Phép Bí Tích: Đại cương
    13.Phép Bí Tích: Trường hợp cụ thể
    14.Khải thị
    Lời kết
    Sự Minh Triết Ẩn Vi Trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo
    Giải Đáp Những Vấn Đề Thiết Yếu
    Cuối sách

    LỜI NÓI ĐẦU
    Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

    Quyển sách này nhằm mục đích gợi một vài ý tưởng về những chân lý ẩn sâu trong Cơ Đốc Giáo thường bị bỏ qua và phủ nhận. Lòng ước muốn chia sớt rộng rãi những chân lý vô giá, không che đậy ánh sáng giác ngộ, đã đưa đến tấm lòng nhiệt thành không ngại góp ý vào Cơ Đốc Giáo, và đã trình bày những giáo lý ấy dưới một hình thức đôi khi làm mất lòng một vài người.
    Mệnh lệnh “Giảng Tin Lành cho mọi người” đã được giải thích là không nên giảng Minh Triết (gnosis) cho một số ít người, hiển nhiên nó đã xóa mờ một lời nói ít phổ thông hơn của cùng vị Đại Giáo Chủ trên: “Đừng bỏ vật thánh cho chó, cũng đừng quăng ngọc châu mình cho heo” (Matt 7:6)
    Tính đa cảm sái chỗ ấy đã không chịu nhận thấy những tình trạng bất đồng hiển nhiên của trí khôn và đạo đức, do đó nó đã thâu hẹp nhu g74 giáo lý cao siêu và hạ thấp xuống mức độ mà các hạng người kém tiến hóa có thể vươn tới được. Nó đã hy sinh cái cao siêu cho cái thấp kém và lại làm tổn thương cả hai. Tính đa cảm ấy đã không có chỗ đứng trong lương tri hào hùng của những người Cơ Đốc đầu tiên. S.Clement đã nói một cách ngay thẳng về các Bí Pháp: “Ngay đến bây giờ, tôi cũng ngại liệng ngọc báu cho heo, e rằng chúng sẽ dẫm lên rồi quay trở lại cắn chúng ta’. Bởi vì rất khó trình bày Ánh Sáng chân chính bằng những ngôn từ thật sự trong sáng và thuần khiết cho các người chưa được huấn luyện.”
    Nếu muốn tái lập lại phần Minh Triết chân chánh, thì người ta chỉ nên hạn chế nó theo vài quy lệ cổ xưa mà thôi và không nên hạ thấp chân lý xuống ngang trình độ của hạng người kém phát triển. Chỉ bằng cách giảng dạy cho một số ít người tiến hóa mới có thể mở đường cho sự phục hồi nền hiểu biết cổ thời, và sự nghiên cứu Tiểu Bí Pháp cần đi trước Đại Pháp. Đại Bí Pháp không bao giờ được phổ biến mà chỉ được những Vị Huấn Sư “truyền khẩu” cho đệ tử mà thôi. Nhưng các Tiểu Bí Pháp hiện nay có thể được phục hồi và một quyển sách như thế này nhằm phát họa những nét đại cương và chỉ rõ bản chất của các lời giáo huấn cần phải được nắm vững. Nếu nơi nào lời giảng chỉ nêu ra những dấu hiệu, những điều bóng gió thì cần phải tham thiền về những chân lý được cố ý ẩn dấu mới thấy được những nét đại cương và nhờ tham thiền liên tục, ánh sáng càng ngày càng tỏ lộ rõ ràng, đầy đủ hơn. Hạ trí chỉ chăm lo vấn đề bên ngoài. Tham thiền sẽ làm hạ trí an tĩnh, và chỉ khi nào nó an tĩnh rồi, tinh thần mới có thể giác ngộ được nó. Kiến thức về những chân lý tinh thần chỉ có thể được đạt bằng cách ấy, từ bên trong chứ không từ bên ngoài, từ Tinh Thần thiêng liêng mà chúng ta là đền thờ chứ không phải từ một vị Huấn Sư bên ngoài.
    Đây là con đường của Minh Triết Thiêng Liêng. Nó chẳng phải như vài người nghĩ là một sự pha chế của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo hay một tôn giáo đặc biệt nào khác. Nó chính là Cơ Đốc Giáo bí truyền, cũng như nó cũng chính thật là Phật Giáo bí truyền. Nó thuộc về tất cả mọi tôn giáo, không ngoại trừ tôn giáo nào. Nó là nguồn cội cho các tư tưởng trong quyển sách nhỏ này, nó giúp những người tìm Ánh Sáng- cái Ánh Sáng chân thật “ dến thế gian soi sáng mọi người.”(S.John 1:9) mặc dù hầu hết chưa chịu mở mắt nhìn nó. Nó không đem Ánh Sáng đến. Nó chỉ nói:”Hãy ngắm nhìn Ánh Sáng.” Nó chỉ kêu gọi một số ít người khao khát hiểu biết hơn là truyền cho họ các giáo lý công truyền. Nó không nhắm đến những người tự thấy đã đầy đủ với những giáo lý công truyền. Tại sao lại phải cung cấp thực phẩm cho người không đói? Còn đối với những người đang đói, nó sẽ là miếng bánh mì chứ không phải là hòn đá.
    CHƯƠNG 1
    Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

    PHÍA ẨN MẬT CỦA CÁC TÔN GIÁO
    Có lẽ nhiều người mới xem qua tựa sách đã nghĩ ngay rằng không có điều gì đáng được gọi là “Cơ Đốc Giáo bí truyền”. Một quan niệm phổ thông cho rằng C.Đ.G. không có các giáo lý huyền bí, và các “Bí Pháp” dẫu Tiểu hay Đại Bí Pháp cũng chỉ là của tà giáo. Câu “những Bí Pháp của Đức Jesus” rất quen thuộc với những người Cơ Đốc của thế kỷ đầu tiên sẽ gây ngạc nhiên cho các người kế vị họ về sau. Hiện nay người ta phô trương rằng C.Đ.G. không có điều chi bí mật, những gì phải nói thì nói cho mọi người, những gì cần giảng thì giảng cho tất cả. Những chân lý C.Đ.G. được cho là rất giản dị đến độ “một người dại khờ cũng không thể đi lạc trong đó”, và câu “Kinh Thánh đơn giản” đã trở nên một câu khuôn mẫu.
    Vì thế cần chứng tỏ rằng ít ra trong thời Giáo Hội Đầu Tiên, C.Đ.G. cũng có phần giáo lý ẩn mật không thua gì các tôn giáo lớn khác, phần này chỉ do một nhóm nhỏ chọn lọc trong Huyền Môn gìn giữ như một bảo vật vô giá. Nhưng trước khi chứng minh, ta nên xem xét toàn diện vấn đề về khía cạnh ẩn mật của các tôn giáo và tìm hiểu tại sao phải có một khía cạnh như thế nếu một tôn giáo muốn mạnh mẽ và bền vững. Nhờ vậy chúng ta mới thấy sự hiện hữu của khía cạnh ấy trong C.Đ.G. hiện ra như một kết luận đã có rồi, và sự tham khảo trong những văn tự của các Cha Cơ Đốc mới có vẻ đơn giản và tự nhiên thay vì lạ lùng và khó hiểu. Vì là một sự kiện lịch sử nên sự hiện hữu của phần bí truyền được minh chứng dễ dàng. Nhưng người ta cũng có thể chứng minh sự cần thiết của nó trên phương diện lý trí.
    Câu hỏi đầu tiên cần giải đáp là: mục đích của các tôn giáo là gì? Tôn giáo được những người khôn ngoan hơn quảng đại quần chúng truyền bá ra cho thế giới để thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Sự tiến hóa như một bậc thang lên cao trên đó mọi người đều không cùng một trình độ nên bậc nào cũng có họ. Người tiến hóa cao nhất cách xa hẳn người tiến hóa thấp nhất về cả sự sáng suốt và đức hạnh. Năng lực nhận thức và hành động thay đổi theo từng mỗi bậc. Do đó đưa ra cùng một giáo lý cho tất cả mọi người không ích lợi gì. Phần nào giúp ích được người khôn ngoan thì kẻ dại khờ không hiểu được; điều nào đưa một vị thánh vào trạng thái xuất thần thì lại bỏ rơi kẻ tội lỗi. Trái lại một giáo lý thích hợp với kẻ sơ học sẽ trở nên vô vị với một triết gia; điều gì giúp giải phóng một tội nhân thì hoàn toàn vô bổ cho một vị thánh. Tuy nhiên, mọi hạng người đều cần đến tôn giáo để có thể vươn lên một đời sống cao hơn, và không nên hy sinh một hạng người này cho một hạng người khác. Vậy thì tôn giáo phải có nhiều cấp bậc theo trình độ tiến hóa; nếu không, nó không đạt mục đích.
    Câu hỏi kế tiếp: Các tôn giáo thúc đẩy sự tiến hóa nhân loại theo phương hướng nào? Tôn giáo thăng tiến bản tính đạo đức và trí tuệ, và giúp bản tính tinh thần tự khai mở. Tôn giáo nhìn nhân loại như một phức thể và gắng đáp ứng với mọi thành phần. Do đó các giáo lý phải thích ứng với mỗi lý trí, mỗi tâm tình riêng. Nếu tôn giáo không đạt đến và hướng dẫn trí tuệ, nếu nó không tinh luyện và cảm ứng cho các mối cảm động thì nó đã thất bại rồi vậy.
    Ngoài ra nó còn phải kích động khai mở bản tính tinh thần, đó là một động lực hiện hữu sẵn có bên trong con người và cứ mãi thúc đẩy nhân loại tiến hóa, triền miên tìm kiếm Thượng Đế.
    Tôn giáo sẽ đáp ứng các nỗi khắc khoải ấy, tăng cường, tinh luyện và hướng dẫn chúng vào con đường chánh đáng: hợp nhất tinh thần con người với tinh thần thiêng liêng để cho “Thượng Đế là tất cả trong tất cả” (I Cor. 15:28).
    Câu hỏi kế tiếp hiện đến khi ta nghiên cứu: Tôn giáo có nguồn gốc nào? Ngày nay có hai câu trả lời của một nhóm Thần Thoại Đối Chiếu, và của một nhóm Tôn Giáo Đối Chiếu. Cả hai cùng đặt nền tảng trên các sự kiện đã được chấp nhận. Công phu khảo cứu đã chứng tỏ hùng hồn rằng các tôn giáo trên thế giới giống nhau một cách rõ rệt về các giáo lý chánh đại, về các quyền năng siêu phàm và mức tiến hóa tinh thần cao tuyệt của các Vị Sáng Lập, về các quy luật đạo đức của các Ngài, về cách Ngài tiếp xúc với những cõi giới vô hình. Tính tương đồng ấy, theo cả hai trường phái, đều chứng tỏ các tôn giáo có một nguồn gốc chung.
    Nhưng về bản chất của nguồn gốc chung ấy thì hai phái còn đang bất đồng ý kiến. Phái Thần Thoại Đối Chiếu cho rằng nguồn gốc chung ấy là do sự vô minh, và những giáo điều cao cả nhất chỉ là các sự biểu lộ được tinh luyện lại của các phỏng đoán thô sơ và man dã của các người hoang dã sơ khai đối với các hoàn cảnh. Sùng bái ngẫu tượng, thờ thần, thờ thiên nhiên, thờ mặt trời, đó là những chất liệu của mảnh đất đầu tiên cho một tôn giáo tươi đẹp mọc lên.
    Thượng Đế là một hình ảnh tổng hợp nhiều vị Thần, họ là những mãnh lực của thiên nhiên được nhân cách hóa. Tất cả được tóm tắt trong câu: Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- sự vô minh của con người.
    Trái lại phái Tôn Giáo Đối Chiếu cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều xuất phát từ những lời giáo huấn của những Bậc Thiêng Liêng thỉnh thoảng xuất hiện ở nước này hoặc nước khác trên thế giới. Tuy cùng những chân lý căn bản giống nhau, nhưng các Ngài rút ra những phần thích hợp với khả năng, trình độ của dân tộc ấy vào thời kỳ ấy. Các tín ngưỡng sơ khai là hình thức suy đồi, thoái hóa, biến dạng, còi lụn của các tôn giáo chân chính. Vào thời ấy tín ngưỡng thờ mặt trời và các hình thức đúng đắn thờ phượng thiên nhiên là những tôn giáo thanh khiết, đầy biểu tượng nhưng cũng đầy sự hiểu biết và chân lý sâu xa. Những vị Đại Huấn Sư họp thành một Đại Đoàn Huynh Đệ, các Ngài đã vượt cao hơn nhân loại và xuất hiện vào những thời kỳ nào đó để soi sáng thế giới. Các Ngài cũng là những người bảo vệ tinh thần cho nhân loại. Quan điểm này được kết đọng trong câu: “Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- nền Minh Triết Thiêng Liêng”.
    Cuộc tranh luận giữa hai trường phái đối lập được xét theo sự vững chắc của các bằng chứng mỗi bên đưa ra. Phương pháp duy nhất để quyết định bên nào đúng chỉ bằng cách khảo sát các tổ tiên trung gian xa xôi. Chứng cớ của phái tin vào sự Minh Triết thuộc loại này. Họ dẫn chứng rằng các Vị Sáng Lập tôn giáo- xét theo các sự ghi chép về các lời dạy của Ngài- thì tiến hóa rất cao hơn mức độ của nhân loại; các Thánh Kinh chứa đựng những quy luật đạo đức, những lý tưởng cao cả, những cảm hứng thi vị, những lời xác quyết triết lý thâm sâu dẫu cho các người cùng thuộc một tôn giáo ấy về sau cũng không thể nào viết được một cách thiện mỹ và cao siêu như thế- Đó là cái cũ cao siêu hơn cái mới thay vì cái mới cao siêu hơn cái cũ. Không có trường hợp nào chứng tỏ có sự cải thiện các tôn giáo trong khi đó có nhiều trường hợp giáo lý thuần khiết bị suy đồi; và cả đến những tôn giáo của dân tộc sơ khai nếu được nghiên cứu cẩn thận, người ta sẽ tìm được nhiều ý tưởng cao cả vượt xa khỏi năng lực sáng tạo của họ.
    Còn một lý do khác là tại sao một vài chân lý nào đó chỉ được dạy một cách bí truyền mà thôi. Hiển nhiên đó là vì “Kiến thức là quyền năng”.Sở dĩ một triết lý cao siêu được truyền bá một cách công khai là vì nó không làm hại được một ai. Người ta có thể giảng dạy nó không do dự, bởi vì nó không hấp dẫn kẻ ngu dốt. Nhưng có những giáo lý liên quan đến sự cấu tạo của thiên nhiên, hoặc giải thích những luật bí hiểm và soi sáng các phương cách ẩn mật. Nhờ hiểu biết chúng, người ta có thể chế ngự được các năng lực thiêng liêng và sử dụng vào các mục đích nào đó, giống như một nhà hóa học chế tạo các hợp chất. Sự hiểu biết ấy rất hữu ích cho người tiến hóa cao và gia tăng năng lực phụng sự của họ.Nhưng nếu nó được công bố ra thế giới, nó sẽ bị lạm dụng vào những mục đích ích kỷ, và con người dễ sa vào tà đạo có mục tiêu chia rẽ thay vì kết hợp. Do đó mà một số giáo lý được giữ kín đối với những người chưa đủ trình độ đạo đức để nhận lãnh. Các vị Huấn Sư rất muốn truyền bá nó cho những người nào biết sử dụng quyền năng ấy để phụng sự cho ích lợi chung và thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.
    Đây không phải là vấn đề lý thuyết. Sử sách Huyền môn cũng có ghi lại các chi tiết của những biến cố như được nói đến trong Sáng Thế Ký. Thời xưa ở lục địa Ắt Lăng Tíc, sự hiểu biết được truyền bá một cách không nghiêm ngặt đối với trình độ đạo đức, sự trong sạch và vô ngã của thí sinh. Những người nào đủ trí thông minh đều được dạy, như ngày nay người ta dạy khoa học thường thức vậy. Kết quả là họ hiểu biết nhiều nhưng đồng thời cũng rất xấu xa. Thế giới rên xiết dưới sự áp chế của họ. Do đó Châu Ắt Lăng Tíc (Alantic) bị tiêu diệt đi, toàn bộ ngập chìm sâu dưới đại dương. Kinh Thánh Do Thái ghi lại vài tiểu tiết ấy trong câu chuyện Đại Hồng Thủy, còn Kinh Thánh Ấn Độ ghi lại trong câu chuyện của Đức Vaivasvata Manu.
    Sau kinh nghiệm nguy hại ấy, các vị Huấn Sư đòi hỏi những điều kiện khắc khe về tính tinh khiết, vô ngã và tự chủ của các thí sinh. Ngài đặt nặng vấn đề đạo đức hơn trí khôn. Vì sự giáo huấn tự nó sẽ mở mang trí khôn. Các Ngài thà bị người không hiểu biết công kích cho là ích kỷ vì giấu kín các điều hiểu biết hơn là các Ngài thúc đẩy thế giới vào một thảm họa Atlantic khác.
    Sang qua các sự kiện thực tế, chúng ta sẽ hỏi vào thời trước, khía cạnh ẩn mật này có hiện hữu không? Chắc chắn là có. Mỗi tôn giáo đều tuyên bố có nắm giữ một giáo lý ẩn mật chứa đựng các kiến thức thần bí, lý thuyết lẫn thực hành. Kiến thức thần bí tuy được quảng bá cho quần chúng nhưng dưới dạng một biểu tượng, một ngụ ngôn mà một người thông minh có thể tìm hiểu được. Còn phần kiến thức thần bí thực hành chỉ được dạy với những điều kiện xác định đã được công bố, các thí sinh phải làm tròn những điều kiện này. S.Clement of Alexandria muốn ám chỉ đến Bí Pháp, ông nói: “Sau sự tinh luyện là các Tiểu Bí Pháp làm nền tảng chuẩn bị cho các điều về sau. Còn trong Đại Bí Pháp, người ta không còn phải học hỏi điều gì về vũ trụ nữa mà chỉ việc chiêm ngưỡng và tri nhận thiên nhiên”.
    Đối với các tôn giáo cổ xưa, tình trạng này không cần phải thảo luận. Huyền Môn Ai Cập rất vẻ vang và những người con cao quý nhất của Hi Lạp đi đến Sais và Thebes để dược các vị Chân Sư Minh Triết Ai Cập điểm đạo. Huyền Môn Mithra ở Ba Tư, Huyền Môn Orpheus và Bacchus và sau đó Eleusinian ở Hi Lạp, Huyền Môn Samothrace, Scythia, Chaldea ít ra cũng là những tên rất quen thuộc như các từ ngữ trong gia đình. Huyền Môn Eleusinian dẫu trong hình thức yếu kém nhất cũng được các tinh hoa của Hi Lạp như Pindar, Sophocles, Isocrates, Phutarch và Plato khen ngợi. Những Huyền Môn ấy được xem là rất hữu ích vì nó nêu lên sự hiện tồn sau khi chết, cũng như người được Điểm Đạo biết rằng nó bảo đảm cho hạnh phúc tương lai của y. Sopater còn quả quyết rằng sự Điểm Đạo thiết lập sự quan hệ của linh hồn với Thiên Nhiên thiêng liêng, và trong bài ca về Demeter có nói bóng gió đến Hài Nhi thánh thiện Iacchus, đến sự chết và sự sống lại như các Huyền Môn đã đề cập. Người ta học được nhiều điều về mục tiêu của Huyền Môn nhờ Iamblichus, nhà thông thần học lớn ở thế kỷ 3 và 4. Thông thần học(theurgy) là pháp thuật,”phần cuối cùng của môn khoa học của các giáo chức(sacedortal)”được thực hành trong Đại Bí Pháp để triệu cầu những vị cao siêu hiện diện. Lý thuyết các Huyền Môn căn cứ có thể tóm tắt như sau: Có một Đấng Duy Nhất, cao hơn vạn vật, không di dịch, ngự trong sự tĩnh lặng nhất thể của chính Ngài. Từ đó, phát xuất ra Thượng Đế Tối Cao, Nguồn cội của mọi vật, Thượng Đế của các Thượng Đế, Nguyên nhân đầu tiên, tự biểu lộ trong Ánh Sáng. Nơi Ngài tuôn ra Thế Giới Thông Tuệ, Trí Đại Đồng, và những Thượng Đế vô thể cũng thuộc vào đó. Từ Thế Giới Thông Tuệ này lại phát xuất ra Linh Hồn Thế Giới, và các hình thể thông tuệ thiêng liêng cùng hiện diện với các thể của các Thượng Đế. Kế đó là các đẳng cấp khác nhau của những Vị Siêu Nhân. Con người thuộc một đẳng cấp thấp hơn, có bản chất liên hiệp với các vị này, và có khả năng hiểu họ. Những giào lý này được quảng bá trong Huyền Môn. Các vị siêu nhân có thể được triệu cầu, họ xuất hiện để dạy dỗ, nâng cao và tinh luyện con người. Iamblichus nói rằng những vị Thượng Đế tuôn xuống dồi dào cho các nhà thông thần, kêu gọi linh hồn họ hướng lên Ngài, hiệp nhất với Ngài, tập cho họ quen tách rời khỏi các thể-trong khi vẫn còn ở với xác thể-để được dẫn đến một khí thể trường cửu và thông tuệ của họ, vì linh hồn có một sự sống kép, một phần kết liền với xác thể, còn một phần khác tách rời khỏi mọi thể. Rất cần luyện tập cách tách rời linh hồn khỏi hạ thể để nó có thể hiệp nhất với Thượng Đế bằng phần thiêng liêng và thông tuệ của nó. Khi Thượng Đế xuất hiện, linh hồn nhận được “sự giải thoát khỏi các dục vọng, một sự toàn thiện tuyệt mỹ, và một năng lực phi thường” và hưởng được tình thương thiêng liêng và một niềm vui sướng vô biên.
    Proclus cũng dạy rằng sự cứu rỗi duy nhất của linh hồn là sự trở về hình thức thông tuệ của nó và như thế thoát khỏi vòng sinh hóa, khỏi các cuộc lang thang triền miên, đạt đến con Người chân thật. Đây là sự sống mà những người được Orpheus điểm đạo vào Huyền Môn Bacchus và Proserpiine, và đây cũng là kết quả của việc thực hành những hạnh tinh luyện.
    Những đức tính này rất cần thiết trong Đại Bí Pháp vì chúng liên quan đến sự tinh luyện thể tinh anh hơn mà linh hồn hoạt động trong đó khi thoát khỏi cái thể thô nặng. Các đức tính thực tiễn này tùy thuộc đời sống thông thường của con người và chúng phải được phát triển đến đến một mức độ nào đó trước khi y có thể trở nên một thí sinh của một Trường. Kế đó là những đức tính tinh luyện, nó giúp cho thể tinh anh-thể của tình cảm và của hạ trí được tinh luyện. Thứ ba là những đức tính thông tuệ, và thứ tư là sự chiêm ngưỡng, nhờ đó con người có thể hiệp nhất với Thượng Đế, Porhyry viết: “Ai hành động hợp với những đức tính thực tiễn là một người xứng đáng, ai hành động phù hợp với những đức tính tinh luyện là một người thiên thần. Ai hành động theo những đức tính thông tuệ là một Thượng Đế, còn người nào hành động theo những đức tính khuôn mẫu (paradigmatic) là Cha của các Thượng Đế”.
    Các đẳng cấp thiên thần và các đẳng cấp khác cũng đưa ra nhiều huấn thị trong Huyền Môn, và Đức Pythagore - vị Đại Huấn Sư được Điểm Đạo ở Ấn Độ, đã dạy cho các đệ tử hữu thệ của Ngài biết kiến thức về chân tướng của sự vật - được người ta nói rằng Ngài có một kiến thức về âm nhạc thâm sâu đến nỗi Ngài có thể sử dụng nó để chế ngự những dục vọng thô bạo nhất của con người và để chiếu sáng tâm trí họ. Iamblichus đã nêu ra những trường hợp này trong quyển Đời Sống của Đức Pythagore.
    Trường phái Thytagore ở Magna Graecia bị đóng cửa vào cuối thế kỷ 6 trước T.C, vì sự hà khắc của chính quyền, nhưng những cộng đồng khác vẫn còn tồn tại, lưu giữ truyền thống thiêng liêng, Giáo sư Mead nói rằng Plato đã tinh thần hóa nó để bảo vệ nó khỏi dự xúc phạm đang gia tăng, và các nghi lễ của Eleusinian còn bảo tồn vài hình thức của nó nhưng đã mất đi hẳn chất liệu. Phái tân-Platon thừa hưởng di sản của Pythagore và Plato, người ta nên nghiên cứu những tác phẩm của họ nếu muốn hiểu đôi điều về sự vĩ đại và nét mỹ lệ đang được bảo tồn cho thế gian trong Huyền Môn.
    Trường phái Pythagore có thể sử dụng như một hình thức kỷ luật. Về điều này, ông Mead có đưa ra nhiều chi tiết lý thú và nhận xét: “Những tác giả của thời thượng cổ đều đồng ý rằng kỷ luật này đã thành công tạo được nhiều gương sáng chói nhất, không những về sự tinh khiết mà còn về sự giản dị trong tư thái, sự tế nhị, và sự say mê học hỏi nghiêm trang ít ai bì kịp. Cả đến các tác giả Cơ Đốc cũng chấp nhận điều này”. Trường này cũng có những đệ tử bên ngoài, vẫn sống cuộc đời gia đình và xã hội. Còn những đệ tử trong Trường thì có ba bậc: trước tiên là bậc Thinh Văn phải tịnh khẩu hai năm để học hỏi và cố gắng nắm vững những giáo lý. Bậc thứ nhì là sinh viên Toán học được dạy hình học và âm nhạc, bản chất của con số, hình thể, màu sắc và âm thanh. Bậc thứ ba là sinh viên Vật lý học phải nắm vững thuyết thành hình vũ trụ và siêu hình học. Điều này dẫn đến Huyền Môn chân chính. Những thí sinh muốn vào Trường phải là người có tiếng trong sạch và có một phong thái an nhiên tự tại.
    Sự đồng nhất chặt chẽ giữa những phương pháp và mục đích mà những Huyền Môn khác nhau trên theo đuổi với những phương pháp và mục đích của Yoga ở Ấn Độ đều được mọi người công nhận. Tuy nhiên, không cần giả thiết rằng mọi quốc gia thượng cổ đều phát xuất từ Ấn Độ: tất cả đều phát xuất từ một nguồn gốc chung: Tổng Bộ ở Trung Á, nơi phái các vị được Điểm đạo đi khắp mọi nơi. Họ đều truyền dạy cùng những giáo lý như nhau, theo đuổi cùng những phương pháp như nhau để cùng dẫn đến những mục đích như nhau. Họ có một ngôn ngữ chung và một biểu tượng chung. Như thế Đức Pythagore đã du hành qua Ấn Độ và được Điểm Đạo cấp cao ở đấy. Sau này, Đức Apollonius of tyana theo vết chân Ngài. Ngôn từ và tư tưởng của Plotinus trong câu sau đây quả giống như của người Ấn Độ: “Bây giờ tôi tìm cách đưa cái Ngã trong tôi trở về với Đại Ngã (All.Self)”.
    Người Ấn Độ nghiêm nhặt nhấn mạnh đến bổn phận chỉ truyền dạy kiến thức cao cả cho người xứng đáng mà thôi. “Điều bí nhiệm sâu xa nhất của mục đích của kiến thức…thì không được tuyên bố cho một ai không phải là con, là đệ tử hay là một người có tâm trí bất an”. “Hãy đứng lên!Thức tỉnh! Sau khi tìm thấy các Vị Cao Cả, hãy nghe Ngài. Đường Đạo rất khó đi, giống như lưỡi dao cạo sắc bén”. Rất cần Vị Huấn Sư vì kinh sách không đủ. “Mục đích của kiến thức” là để nhận biết Thượng Đế và hiệp nhất với Ngài, chứ không phải chỉ để tin tưởng và thờ phượng xa vời mà thôi. Con người phải biết thực tại của Sự Hiện Hữu thiêng liêng và kế đó biết rằng cái Ngã thâm sâu nhất của chính y vốn là một với Thượng Đế, và mục đích của đời sống là để thực hiện sự hiệp nhất đó. Nếu tôn giáo không thể hướng dẫn con người đi đến sự thực hiện đó, thì tôn giáo chỉ là một miếng đồng kêu vang mà thôi”.
    Người ta cũng quả quyết rằng con người có nên tập tách rời thể xác nặng kệch: “Một người phải quyết tâm tách linh hồn khỏi thể xác của y như thân cây vượt khỏi vỏ bao của nó”. “Trong cái vỏ vỏ vàng cao nhất, Brahman cư ngụ. Đó là Ánh Sáng trắng chói lọi của các Ánh Sáng, mà những người tri thức được Bản Ngã đều biết”.
    Người Do Thái cũng có nền kiến thức ẩn mật và những Trường Điểm Đạo của họ. Các tiên tri ở Naioth do Samuel điều khiển (Isamuel 19:20) tạo nên một Trường ấy, và những lời giáo huấn được họ truyền khẩu với nhau. Những Trường tương tự cũng có ở Bethel và Jericho(II King 2:2-5), và trong Biểu Kê ở Cruden có lời ghi chú lý thú sau đây: “Những Trường của các tiên tri là những Trường đầu tiên mà chúng ta có thể tìm thấy bất cứ bài tường thuật nào trong Thánh Kinh. Nơi đó, các đệ tử của các tiên tri tập sống một cuộc đời ẩn dật, khổ tu, học hỏi và chiêm ngưỡng, và đọc luật của Thượng Đế…Những Trường của các tiên tri được tiếp nối bằng các giáo đường”.
    Kinh Kabbala chứa đựng những giáo lý bán công truyền, trong đó có một phần là công trình của Giáo sĩ Moses de Leon, ông chết năm 1305. Nó gồm có 5 quyển Bahir, Zohar, Sepher Sephiroth, Sephit Yetzirah và Asch Metzareth. Kinh được xác nhận là do khẩu truyền từ những thời đại cổ xưa-từ thời thượng cổ như lịch sử đã ghi nhận. Wynn Westcott nói rằng: “Tập tục Do Thái cho rằng những phần cổ xưa nhất của quyển Zohar có trước khi xây dựng Đền thờ thứ hai” và người ta nói rằng Giáo sĩ Simeon ben Jochai đã có viết vài đoạn trong thế kỷ thứ nhất. Saadiah Gaon mất năm 940- nói quyển Sepher Yetzirah “rất cổ xưa”. Vài đoạn giáo lý khẩu truyền cổ xưa được thêm vào trong Kinh Kabbala như bản văn hiện nay, nhưng sự Minh Triết tối cổ chân thật của người Do Thái vẫn còn được một số người con chân chính của Israel gìn giữ.
    Những nét đại cương trên đây cũng đủ chứng tỏ có sự hiện diện của khía cạnh ẩn mật trong các tôn giáo trên thế giới ngoài Cơ Đốc Giáo. Bây giớ chúng ta hãy khảo sát xem Cơ Đốc Giáo có là một ngoại lệ của quy luật đại đồng này không?...
    Last edited by dienthoai; 08-04-2011 at 03:25 PM.

  7. #7

    Mặc định

    SỰ MINH TRIẾT ẨN VI TRONG THÁNH KINH THIÊN CHÚA GIÁO
    Trong một phiên nhóm vấn đáp, ông G.Hodson đã có giảng về ý nghĩa tượng trưng của những chuyện có ẩn ý của Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Ngài có đưa ra chìa khóa để hiểu phần bên trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo cũng như trong các Kinh Thánh khác.
    Sự trình bày đây không có ý làm giảm bớt giá trị lịch sử của Kinh Thánh, nhưng trái lại, ngụ ý củng cố sự thông hiểu đúng đắn ẩn vi trong đó dù thuộc về tôn giáo nào cũng vậy. Những Kinh Thánh được gọi là ngôn ngữ huyền bí do các nhà huyền bí học chân chính viết ra với ngụ ý: một mặt đưa ra lịch sử của một vì giáo chủ, một mặt trình bày chân lý sâu xa ẩn dưới lớp của những biểu tượng hay những chuyện tượng trưng. Điều này có mục đích giúp người học đạo thấu được lý nhiệm mầu, tránh cho người chưa sẵn sàng một nguy hại về sự lạm dụng khoa pháp môn, cứu nhân loại khỏi sự tàn sát kinh khủng.
    Vậy tuy là căn cứ trên nền tảng lịch sử; nhưng ngôn ngữ được diễn tả dưới hình thức tượng trưng ẩn lý một chân lý thâm sâu với nhiều ý nghĩa.
    Đức Christ đã có dặn các đệ tử của Ngài: “Với các con thì Ta có thể dạy trực tiếp giáo lý nhiệm mầu của Chúa, còn đối với người ngoài thì ta dạy dưới hình thức những chuyện ngụ ngôn. Ai có tai thì hãy nghe, ai có mắt thì hãy thấy.”
    Nhiều nhà bác học cho những chuyện trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo rất khó tin, vì những chuyện đó không giải thích được phương diện vật lý học, khoa học. Đó là những chuyện mà người ta cho là phép lạ tỉ như làm cho nước trở thành rượu nho, phân chia thức ăn hóa thành nhiều, cứu người chết sống lại v.v… Nhưng những chuyện đó thật ra ở phạm vi quyền năng nhiệm mầu của những đấng cao cả; và thật ra nếu ta không biết được những chìa khóa để hiểu bên trong những chuyện đó thì khó cho ta giải thích đặng. Chính giáo lý Thông Thiên Học đưa cho chúng ta những chìa khóa nhiệm mầu.
    Kinh thánh Thiên Chúa Giáo cũng như các Kinh Thánh khác, dùng một thứ ngôn ngữ đặc biệt ẩn dưới những chuyện tượng trưng. Ngôn ngữ này dùng để dạy những tư tưởng siêu linh, để tả những trạng thái vô cùng siêu linh mà ngôn ngữ thường không có đủ lời để diễn đạt được.
    Vậy mỗi khi ta đọc Kinh Thánh, ta nên nhớ ta đang đọc một loại sách đầy chân lý ẩn vi mà chúng ta cần có một thứ tự điển để hiểu nghĩa.
    Ông G.Hodson có đưa ra 4 chìa khóa và nhắc lại rằng ông không có ý làm giảm giá trị lịch sử mà trong đó có nhiều chuyện ông tin đã xảy ra thật sự, nhưng ông tin rằng một khi bức màn biểu tượng được vén lên thì chân lý được phô bày một cách rõ rệt và trường cửu. Và chân lý này là những điều mà những nhà viết Thánh Sử muốn cho chúng ta thông hiểu.
    Đây là chìa khóa thứ nhất: những chuyện kể ở trong sách xảy ra ở thâm tâm của người đọc truyện. Nó liên quan đến con người bên trong. Nó tả những kinh nghiệm riêng của dự tiến hóa bên trong của các bạn, cũng như của tôi.
    Thí dụ như sự giáng lâm của Chúa Hài Đồng. Sự ấy chẳng những tả sự lâm phàm của Đức Jesus tại thành Bê Lem, nó còn tả cái Thiên Tánh hay Phật Tánh trong lòng mỗi một chúng ta, mà chúng ta cần phải làm nảy nở, phát triển. Vậy khi đọc loại sách này, chúng ta ráng hiểu với cái tâm rộng của chúng ta, vì tôi xin nhắc lại: Thánh Kinh chúng ta đang xem là chuyện có ở trong lòng chúng ta.
    Còn cái chìa khóa thứ hai là: những nhân vật trong chuyện là để tả tâm tánh hay trạng thái tâm thức của con người. Những nhân vật đó tượng trưng cho đặc tánh của con người (tốt cũng như xấu) và những quyền năng thiêng liêng và như trong chuyện Giu Da bán Chúa vì ganh tị với bạn đồng môn, và Thánh Jean là tượng trưng cho đức tánh trung thành.
    Và khi chúng ta dùng chìa khóa thứ nhất và thứ hai chung với nhau, nó chỉ tâm tánh trong cá nhân chúng ta. Nhờ cách này mà tôi hiểu được chuyện quan trong sau đây: Một hôm kia Đấng Christ đến nhà người đệ tử của mình tên là Lazare ở tại thành Béthanie. Ông Lazare có hai người chị: Marie và Martha. Khi Đấng Christ đến thì Martha lăng xăng lo công việc đứng ngồi không yên, còn Marie thì lặng lẽ ngồi dưới chân Ngài. Martha đã lo việc mà bị trách, còn Mary thì ngồi không mà được khen. Việc này có vẻ bất công, nhưng bây giờ tôi hiểu được rằng: Muốn nghe được tiếng nói nhiệm mầu của Chân nhân là Đấng Christ thì chúng ta phải lặng yên như Mary vậy, còn hạ trí chúng ta lau chau (lo chạy việc như Martha ngăn cản sự thực hiện đó). Những việc đó xảy ra trong người của chúng ta là Lazare ở tại cõi trần này hay là thành Bethanie. Chuyện này chỉ cho chúng ta thấy, muốn thực hiện Chân Nhân trong lòng ta, sự tham thiền quán tưởng là trọng đại, là cần thiết, mặc dầu khi đó chúng ta phải lo chu toàn những công việc ngoài đời.
    Chìa khóa thứ ba là mỗi chuyện kể là để chỉ sự tiến triển của con người trên con Đường Đạo. Sự tiến triển này có hai cách: cách của “con đường thẳng” hay “con đường chật hẹp” và cách thông thường của quần chúng. Những cách này tả rất khéo léo và áp dụng một cách thực tế cho mỗi cá nhân cũng như cho mỗi dân tộc.
    Và đây là một vài giai đoạn: sự giáng lâm của Chúa có nghĩa là khi chúng ta mãnh liệt hường về một lý tưởng hay một con đường Đạo Đức, đó cũng có nghĩa là lúc chúng ta ráng thực hiện những nguyện vọng, những lý tưởng (về tinh thần cũng như về vật chất). Một hai khi khác, chúng ta bị ở trong bể trầm luân phiền não. Và với lòng can đảm và sự trì chí, chúng ta vượt qua được sự thử thách đó với sự được thêm quyền năng và ân huệ, không khác nào khi từ ở sông Jordan bước lên bờ, Đức Jesus được Chúa Cha và Thánh Thiên Thần hiện xuống mừng sự thắng trận này và ban ân huệ cho Ngài.
    Chúng ta một hai khi bị cám dỗ nơi “cảnh hoang vu”. Cảnh hoang vu này tượng trưng trạng thái khô khan, trơ trọi của tinh thần, khi những hạ thể quật khởi lên, dụ chúng ta từ bỏ những chân lý, những lý tưởng mà chúng ta đã thấu được.
    Đó là khi Đức Jesus bị quỷ Satan cám dỗ về danh, lợi ở một miền hoang vu kia. Lúc khác chúng ta cảm thấy bị bạn bè thân thiết bỏ rơi, những người mà chúng ta tin cậy cũng ngoảnh mặt làm lơ. Cảnh ở vườn Gethsemani tượng trưng trạng thái đen tối của tâm hồn, Đức Jesus cảm thấy những khó khăn mình phải trải qua, chén đắng mình phải uống, và nhìn xung quanh thì thấy những đệ tử của Ngài bỏ Ngài, hãm hại Ngài hay đang mê man ngủ.
    Mỗi cá nhân, mỗi dân tộc hay là nhân loại nói chung, đều trải qua cảnh bi kịch vác thập tự giá có khi nhiều lần trong nhiều kiếp. Một lúc kia, ta bị phản bội, bị ở cảnh chi phối lẻ loi, bản ngã bị đóng đinh, không người giúp đỡ. Và chính Đức jesus cũng phải than rằng: “Hỡi Chúa Cha, sao Cha bỏ Con!”
    Hầu hết chúng ta với một trình độ khác nhau đều trải qua giai đoạn đó, để về sau thực hiện một cách thâm sâu “mình với Thượng Đế chỉ là một”. Đức Jesus đã được sự nhiệm mầu đó và Ngài biết rằng con người thật là bất diệt và không còn bao giờ cảm thấy mình là lẻ loi nữa.
    Vậy trong đời sống của Chúa mà Thánh Kinh đã ghi lại dưới hình thức tượng trưng từ giai đoạn lâm phàm, chịu đóng đinh đến lúc lên Trời, diễn tả một cách rõ rệt những giai đoạn tiến hóa của sự sống của người thường nhân, của vị đệ tử, của bậc đã được điểm đạo và của những Đấng Chân Tiên.
    Một ngày kia chúng ta sẽ trải qua một cách đấy đủ đời sống của Chúa, đến lúc trở thành được như Chúa là trở về với Đức Chúa Cha. Những giai đoạn điểm đạo đang chờ tất cả những ai đã tìm thấy hay đang dấn bước trên con đường toàn-thiện.
    Cái chìa khóa thứ tư là: trong ngôn ngữ thiêng liêng, những đồ vật đều có một ý nghĩa đặc biệt. Đã từ nghìn xưa, trong các Pháp môn, bên đông phương cũng như bên tây phương đều dùng những biểu tượng giống nhau. Cũng như giáo lý bên trong của pháp môn ấy cũng giống y nhau.
    Chúng ta nên nhớ một hình vẽ là một “biểu tượng vẽ” và một bài ngụ ngôn là một “biểu tượng nói”. Những biểu tượng thuộc về một trong 4 chất sau đây: đất, nước, lửa, không khí. Mỗi chất này chỉ một trạng thái tâm thức của con người.
    Những đồ vật gì ở cõi trần (đất) có nghĩa tâm thức ở cõi trần được nảy nở. Những chuyện xảy ra dưới nước liên hệ đến tình cảm. Lửa tượng trưng sự tiêu diệt hoặc khuynh hướng đả kích của cái trí. Lửa cũng tượng trưng thần lực con người và trong vũ trụ. Không khí tượng trung trực giác.
    Đó là những chìa khóa để mở các kho tàng của các Thánh Kinh hay những chuyện thần thoại. Kho tàng ấy hiện cho những ai đi tầm lẽ Đạo và biết cách dùng sự hiểu biết mình. Kho tàng ấy ẩn đối với những người mà sự hiểu biết về khoa pháp môn có thể đem lại sự nguy hại.
    Bây giờ chúng ta thử áp dụng những chìa khóa ấy đối với Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo.
    Những núi non là trạng thái tâm thức tuy ở hồng trần nhưng được nâng lên một mực độ cao. Thí dụ như ông Moisen nhận được Mười điều răn “ở trên núi”. Đức Chúa giảng Đạo và đạt đến sự hiệp nhất tinh thần cũng “ở trên núi” Những cánh đồng bằng tượng trưng tâm thức vừa chớm nở và những thung lũng là những trạng thái của hạ trí. Vườn tược, ruộng lúa chỉ tỏ kết quả về tinh thần hay sự bước qua giai đoạn mới của con đường tinh thần. Thí dụ như sự tích vườn thiên đàng là mở đầu kỷ nguyên mới của sự tiến hóa nhân loại. Sa mạc và cảnh hoang vu là trạng thái khô . khan của tư tưởng, khi lý tưởng của mình bị lung lạc và ước vọng cao cả của mình biến mất. Những thú vật cũng có ý nghĩa tượng trưng những dục vọng.Sư tử, hổ báo là sự ham muốn, mê say vật chất mà những ai muốn tiến mau trên đường Đạo đều sẽ phải đối phó, đối phó riêng một mình và phải thắng chúng nó. Sự thắng trận này không có nghĩa là diệt dục vọng mà làm cho nó trở thành những sức mạnh hướng về tinh thần. Chúng ta có một thí dụ ở ông Samson, là người có sức mạnh vô song, khi đi đường Đạo, đã phải giáp chiến với sư tử, và giết nó với tay không ( nghĩa là không có sự giúp đỡ bên ngoài).
    Nước, như đã nói, tượng trưng cho giới tình cảm và cảm tưởng của con người, còn rượu, nghĩa là nước biến thể- thì tượng trưng trực giác và sự Minh Triết.
    Con cá tượng trưng cho tâm thức của Chúa, cho sự Minh Triết và lòng Bác ái. Từ thời cổ, trước kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo, người ta đã dùng con cá để tượng trưng tâm thức siêu việt đó.
    Con chim bay trên không khí tượng trưng cho tinh thần cao hơn cõi vật chất, và nó cũng tượng trưng cho Thiêng Liêng.
    Lửa là biểu tượng cho sự lau chau của cái trí hay cái lý luận của hạ trí làm cho chân lý khó hiện ra được. Nó cũng để chỉ sức mạnh thiêng liêng trong con người và trong vũ trụ. Những cây, những cột tượng trưng cho đường xương sống mà trong đó có luồng hỏa xà được khơi dậy và con người sẽ có được sự Minh triết và quyền năng.
    Hôn nhân là sự phối hợp giữa phàm nhơn với Chơn nhơn và về sau là sự phối hợp với chơn thần. Trong Thánh Kinh có kể chuyện rằng một hôm kia Đấng Christ đi dự một lễ cưới tại thành Cana. Lúc đó không có rượu uống và Ngài làm cho nước hóa thành rượu. Điều này có nhĩa rằng khi Chơn Nhơn nhập làm một với phàm nhơn (tượng trưng bởi hôn nhân), tình cảm (nước) trở thành trực giác (rượu).
    Còn chuyện Đấng Christ làm bão tố yên lặng là một chuyện tượng trưng rất sâu xa mà phương pháp dùng để diễn tả thật là khéo léo. Câu chuyện ấy như sau. Các vị đệ tử giương buồm cho thuyền ra khơi biển hồ Galilée. Những người này điều khiển chiếc thuyền trong khi Đức Thầy đang theo họ thì nằm ngủ. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến khi một cơn bão tố nổi lên. Lúc ấy các vị đệ tử hoảng hốt đánh thức Ngài dậy, và Ngài với quyền năng của mình làm bão tố dịu xuống bằng cách nói: “Hãy lặng yên”.
    Trong bài này có dùng nhiều biểu tượng. Câu chuyện xảy ra trên nước có nghĩa để nói đến những tình cảm trong con người. Chiếc thuyền tượng trưng cho thể xác giữ trong mình cái linh hồn để trải qua những lượn sóng của hồng trần. Những vị đệ tử tượng trưng những đặc tánh của con người, tỉ như sự cương trực của tông đồ Pierre, sự đơn giản của tông đồ Jacques, sự tháo vát của tông đồ Matthieu, lòng thương trung thành của tông đồ Jean; chỉ có vị đệ tử này có mặt trong khi Đấng Christ bị xử án và đóng đinh trên thập tự giá. Tất cả những tánh này đều có trong con người kể cả Juda bán Chúa, một hai khi cám dỗ ta từ bỏ sự thiêng liêng trong lòng ta. Nhưng trong tất cả chúng ta đều có Chúa ngự.
    Khi sự sống khởi đầu (nghĩa là cuộc hành trình mới diễn ra) thì Chúa hay là Thượng Đế trong lòng ta chưa thức tỉnh, cho đến khi những cơn ba đào của đời sống, những cơn gió lốc của ham muốn, của giận hờn oán ghét, ganh tị, quỷ quyệt làm sự an toàn của linh hồn bị rung chuyển. Lúc ấy chúng ta phải hành động như thế nào? Chúng ta phải làm như các đệ tử. Chúng ta phải hướng về bên trong, tìm sự thiêng liêng, tìm Chúa trong lòng ta, kêu Người dậy và đánh thức Người dậy. Nhờ ảnh hưởng cao quý và phi thường của Ngài mà chúng ta mạnh dạn đối phó lại phàm nhơn của chúng ta và chúng ta chắc chắn khắc phục được nó bằng cách bảo chúng nó “hãy lặng yên” nếu không có những cơn thử thách, những trận bão lòng, chưa chắc chúng ta chịu hướng về thiêng liêng để tìm phương cứu cánh, và Thượng Đế trong lòng ta vẫn còn say ngủ. Vậy những sự đau khổ, những lúc khó khăn cũng là những kinh nghiệm giúp chúng ta mau tiến trên đường tiến hóa. Nếu chúng ta biết cách khêu gợi và sử dụng trực giác thì chúng ta có thể đối phó những sự khó khăn ở đời một cách dễ dàng.
    Trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo cũng còn kể những người có bịnh nan y, nhưng khi được đến gần Chúa, chạm đến áo của Ngài thì bịnh liền hết. Những người mù lòa, những người chết (nghĩa là ở cảnh đen tối) cũng được Chúa làm sáng mắt, sống dậy. Ông G.Hodson không phủ nhận quyền năng của Chúa có thể làm người đau lành bịnh, làm kẻ chết sống dậy, nhưng muốn chỉ rõ điều này: Trong mỗi một người đều có phần thiêng liêng: đó là Thiên Tánh hay Phật Tánh mà khi chúng ta kêu gọi đến thì những sự khó khăn bên ngoài được dẹp yên. Và ông Hodson cũng có nói: sự chết ở tâm hồn, sự mù lòa ở trí não còn nguy hại hơn sự chết và sự mù lòa ở xác thân.
    Và đây tôi xin kể một câu chuyện chót. Hôm kia ở trên một đỉnh núi cao, có đến 5,6 ngàn người tụ họp xung quanh Đấng Christ đã từ 3, 4 ngày. Người thì đến nghe thuyết đạo, kẻ thì để được lành bịnh. Có nhiều người từ các xứ xa đến. Trước khi để các người ấy ra về, Ngài liền bảo các môn đệ Ngài cho những nhười ấy ăn uống. Các môn đệ thưa rằng: “Thưa Thầy chúng con chỉ có một ít bánh mì và vài con cá nhỏ thì làm sao cho các người dùng đủ?” Đấng Christ liền truyền đem những thức ăn ấy lại cho Ngài và sau khi cầu nguyện đến Chúa Cha, liền bảo môn đệ đi phát những thức ăn ấy. Những thức ăn ấy khi phát ra thì lại nẩy sanh cái khác. Và khi mỗi người ăn no đầy đủ thì thức ăn còn lại đựng được bảy giỏ đầy.
    Câu chuyện này xảy ra trên núi chỉ nghĩa trạng thái của bồ đề tâm và những con cá tượng trưng cho lòng Bác Ái và Minh Triết. Chúng ta có thể hiểu thêm chuyện này như sau: lòng Bác Ái và sự Minh Triết rất cần thiết cho đời sống tinh thần và hằng ngày của chúng ta. Chúng ta cần khêu gợi nó lên, làm nó phát triển rộng rãi hơn. Và cũng như trong câu chuyện, thứ cá này là thức ăn cần thiết, nhưng càng chia sẻ cho người khác thì chẳng những không hao hụt đi, mà nó còn gia bội một cách nhiệm màu.
    Với tinh thần Thông Thiên Học, tôi thuyết trình những điều trên đây để quý độc giả khảo xét và thử áp dụng phương pháp này để tìm hiểu đạo lý ẩn vi trong các Kinh Thánh.
    Viết theo tài liệu trong quyển
    “THE HIDDEN WISDOM IN CHRISTIAN SCRIPTURES”
    Của ông Geoffrey Hodson

  8. #8

    Mặc định

    CHƠN SƯ VÀ ĐỆ TỬ - (NA LAN ĐÀ UNIVERSITY OF THE UNIVERSE)

    Tác giả BẠCH LIÊN : Ai là người học Đạo lại không muốn mình được làm đệ tử Chơn Sư. Nhưng trước hết ta phải biết sao gọi là Chơn Sư và phải hội đủ những điều kiện nào mới được Chơn Sư thâu nhận và dạy dỗ. Đó là điều rất cần thiết cũng như ở ngoài đời muốn thi đậu cấp bực nào thì phải biết chương trình học tập đã ấn định cho cấp bực đó. Hai vị cao đồ của Chơn Sư là bà Annie Besant và ông Leadbeater có giải thích rành rẽ vấn đề Chơn Sư và Đệ tử trong nhiều bài. Tôi xin tóm lược những lời của hai Ngài chỉ bảo vào đây mong rằng chúng nó giúp ích cho quí bạn phần nào trên con Đường Tầm Sư Học Đạo.

    Những Vị Siêu Phàm Còn Lại Ở Thế Gian.
    Phần đông những vị Siêu Phàm đã từ giả quả Địa cầu chúng ta mà về cõi khác . Hiện giờ còn lối 60 vị ở lại với Nhân loại mà thôi. Các Ngài quyết định không bỏ rơi một người nào hay một con vật nào cả. Các Ngài chia quả Địa cầu ra làm nhiều khu vực, lớn nhỏ khác nhau, nhưng không phải theo ranh giới địa lý của người đời. Tùy theo cấp bực, có vị coi sóc sự tiến hóa ở Âu châu, có vị chăm nom dân chúng ở Ấn Độ, v. v. . . Mỗi vị lãnh trách nhiệm giúp đỡ cả chục triệu nhơn vật trong khu vực của mình cai quản làm sao cho họ vừa trả quả và vừa tiến tới mức độ mà cơ Trời đã định sẵn cho họ.
    Nhơn vật nầy gồm
    a/ Những vị Thiên Thần
    b/ Những loài Ngũ Hành
    c/ Con Người
    d/ Cầm thú
    đ/ Thảo mộc
    e/ Kim thạch
    g/ Tinh chất và luôn những loài không biết phải đặt tên chi vì con người không hề biết họ ra sao và cũng không bao giờ tiếp xúc với họ được.
    Các Ngài săn sóc cả chục triệu nhơn vật nầy như săn sóc một người, vì vậy không hề bỏ quên một người nào cả. Điều nầy làm cho người đời lấy làm lạ lắm. Chúng ta chỉ biết nhận xét mọi vật theo những luật vật lý ở cõi trần. Chúng ta không hiểu được những luật chi phối mấy cõi trên, như cõi Trung Giới, cõi Thượng Giới, Cõi Bồ Đề, cõi Niết Bàn v. v. . . mà trí hóa chúng ta cũng vẫn còn eo hẹp lắm. Tâm thức của các Ngài là một điểm ở cõi Niết Bàn hay là Đại Niết Bàn, tùy theo trường hợp. Điểm nầy chứa đựng toàn cõi Niết Bàn, nói một cách khác, toàn cõi Niết Bàn đều ở trong điểm nầy, cũng như tất cả mênh mông đại hải đều chung vô trong một giọt nước biển tan mất nơi Đại dương. Thật là chuyện lạ đối với cõi trần, nó hết sức mâu thuẩn. Nhưng mà sự thật vẫn đúng như thế.

    Các Ngài đem Tâm Thức của các Ngài xuống tới cõi Thượng Giới rồi làm cho nó mở lớn ra lần lần và bao trùm hết những Thượng Trí của nhơn vật ở trong khu vực của các Ngài, ban rải thần lực của mình cho những Thượng Trí nầy làm cho cái chi tốt đẹp và cao thượng ở trong mình chúng càng ngày càng phát triển không khác nào các tia sáng mặt trời làm nẩy nở và phô bày hương sắc của các thứ bông hoa. Công việc của các Ngài rất nặng nề và mệt nhọc. Tuy vậy, mặc dầu các Ngài vẫn phải lo tu luyện đặng tiến lên những cấp bực cao hơn nữa. Từ bực Chơn Tiên lên bực Đế Quân (Chohans). Từ bực Đế Quân lên hoặc Bàn Cổ (Manou) hoặc Bồ Tát (Bodhisatva) hoặc Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan). Từ bực Bồ Tát lên bực Phật. v. v. . . Muốn lên một bực phải qua một kỳ điểm đạo (Initiation). Càng lên cao những điều kiện càng khó khăn. Tỉ như Đức Di Lạc (Seigneur Maitreya) đã 2500 năm rồi mà còn ở ngôi Bồ Tát.

    Chơn Sư
    Thế nên chỉ có một số ít những vị Siêu Phàm bằng lòng thâu nhận đệ tử dạy dỗ đặng chia sớt một phần công việc của các Ngài. Thường thường mấy vị ấy ở Cung thứ nhứt và Cung thứ nhì. Chúng ta gọi các Ngài là Những Đấng Chơn Sư từ bi vô lượng.

    Quan Điểm Của Các Chơn Sư
    Chơn Sư tự hiến mình cho Cơ Trời đặng phụng sự nhân loại. Không có giờ phút nào mà Ngài không chú ý vào công việc của Ngài. Thần lực dành để cho Ngài dùng có giới hạn, Ngài không phung phí nó vào những công việc ít quan trọng hơn. Vì thế quan điểm của Ngài là không thâu nhận một ai làm đệ tử nếu Ngài thấy sức lực và thì giờ của Ngài bỏ ra đặng huấn luyện y không đem lại một kết quả thiết thực hơn việc dùng thì giờ và sức lực đó đặng làm một việc khác hữu ích cho đời.

    Thí Sinh Phải Chuẩn Bị Cách Nào?
    Vậy thì thí sinh phải chuẩn bị cách nào ? Thí sanh phải là người có lý tưởng. Anh phải nhận xét cuộc đời theo quan điểm của Chơn Sư tức là tìm kiếm những điều nào có lợi ích hơn hết cho sự tiến hóa chung của Nhơn loại, chớ không phải cho sự tiến hóa riêng tư của anh. Anh phải sẵn sàng triệt để từ bỏ những ý muốn ích kỷ của cá nhơn anh và quyết định tổ chức đời sống của anh theo công việc sẽ được giao phó cho anh. Những bước đầu tiên chỉ có bao nhiêu đó thôi, nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người chấp nhận những điều kiện nầy hay ta chỉ muốn Tiên Thánh dạy những phép thần thông : kêu mưa hú gió, chỉ đá hóa vàng, sai thần khiến quỉ, xuất vía xuất thần đặng sớm chơi Bắc Hải, tối về Thương Ngô, thêm vào đấy sự mở Thần nhãn, Huệ nhãn và chuyển di tư tưởng mau lẹ phi thường. Nội một việc triệt để quên mình và từ bỏ những dục vọng cá nhân để lo cho sự tiến hóa của nhơn loại cũng là thấy cực kỳ khó khăn rồi. Đúng vậy, khó khăn thật nhưng không phải là không thể làm được vì từ xưa đến nay ở thời đại nào, khắp hoàn cầu đều có đệ tử Chơn Sư. Có người nói : “Tại tôi chưa có căn lành nên tôi chưa tu được, chưa có thể làm đệ tử Chơn Sư.” Vâng, nhưng chưa có căn lành thì ta cứ lo tạo ra. Không tạo ra thì biết tới chừng nào mới có căn lành. Căn lành đâu tự nhiện từ trên trời rớt xuống cho mình, mình phải tạo nó ra. Cũng như không chịu dọn đất gieo trồng thì làm sao tới mùa ta có lúa, bắp đặng gặt hái. Chúng ta phải cương quyết thì sẽ thành công, không sớm thì muộn. Dưới Chơn Thầy có nói : “Cái điều mà con người đã làm rồi thì con người làm lại được. Tôi là con người mà tôi cũng là Thượng Đế ở trong mình con người nữa. Tôi có thể làm lại đặng một việc nào đó và tôi quả quyết thật hành nó.

    Nếu con người bước vào đường Đạo thì ý chí của con người phải cứng cỏi như thép đã trui vậy.”

    Chơn Sư Biết Chúng Ta Trước Khi Chúng Ta Biết Ngài
    Nhiều bạn nói : “Tôi rất sốt sắng, tôi rất hâm mộ đạo đức, tôi có lòng nhơn, tôi sẵn sàng phụng sự v. v. . . Tại sao Chơn Sư chưa thâu nhận tôi ?” Chắc chắn là có vài chướng ngại trong người bạn mà bạn chưa tìm thấy, cho nên bạn chưa được toại nguyện. Những chướng ngại đó có thể hoặc là một thứ quả mà bạn chưa thanh toán xong, hoặc một vài tánh không tốt mà bạn chưa trừ khử đươc như : nóng nảy, quạo quọ, tọc mạch, hờn mát và nhứt là kiêu hảnh và ích kỷ chẳng hạn. Trên ngưỡng cửa Thánh Điện Delphes có khắc câu châm ngôn nầy : “Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết Vũ trụ và các vị Thượng Đế”. Mình tự biết mình là điều kiện tối cần cho sự thành công trong đường Đạo cũng như ở ngoài đường đời.

    Sự Kinh Nghiệm Của Đức Leadbeater
    Đức Leadbeater có thuật sự kinh nghiện của Ngài hồi Ngài mới được Chơn Sư thâu nhận làm đệ tử. Tôi xin tóm tắt câu chuyện đó ra để chứng minh rằng : Chơn Sư biết rõ chúng ta trước khi chúng ta biết Ngài. Đức Leadbeater nói : “Tôi nhớ lại một việc đã xảy ra 25 năm trước, khi tôi mới được Chơn Sư thâu nhận. Tôi có quen biết một người học lực uyên thâm, một nhà bác học, tánh tình cao thượng, đời sống rất trong sạch và rất tin tưởng Chơn Sư. Mục đích của anh là chuẩn bị để phụng sự các Ngài. Dường như về nhiều phương diện, anh hơn tôi rất xa. Anh rất xứng đáng được làm đệ tử. Tôi lấy làm lạ tại sao giá trị của anh chưa được nhìn nhận. Vốn còn mới mẻ và chưa biết cách thức làm việc trong Huyền bí học cho nên khi có dịp đưa đến, tôi kính cẩn xin lỗi Chơn Sư cho phép tôi đem tên anh ra nói và ngỏ ý rằng anh sẽ thành một khí cụ rất tốt.” Chơn Sư mỉm cười và vui vẻ trả lời rằng : “Con đừng sợ người ta quên người bạn của con. Không có ai bị bỏ rơi đâu. Nhưng trong trường hợp người bạn của con, y còn phải trả một thứ quả nữa, nên Thầy không thể thâu nhận y bây giờ được. Chẳng bao lâu nữa y sẽ từ giả cõi trần và trong một thời gian sau y sẽ đầu thai lại. Tới chừng đó nợ cũ đã trả xong, những điều con muốn cho y sẽ thực hiện được.” Nói rồi với lòng từ bi luôn luôn sẵn sàng biểu lộ ra, Ngài cho tâm tôi nhập vô tâm Ngài một cách mật thiết hơn nữa và đem nó lên tới một cõi cao hơn cõi mà tôi mới đi đến rất nhiều. Ở nơi đó, Ngài mới chỉ cho tôi các Đấng Cao Cả quan sát cõi trần cách nào. Quả Địa cầu hiện ra trọn vẹn dưới mắt chúng tôi với cả ngàn triệu Linh hồn, phần đông chưa Tiến hóa nên thấy mờ mờ, nếu trong đám đông nầy mà có một Linh hồn nào đi gần tới mức có thể dùng được, dầu là việc đó còn xa vời đi nữa, Linh hồn đó vẫn phân biệt với những Linh hồn khác như ánh sáng đèn pha trong đêm tối. Chơn Sư bèn nói : “Bây giờ con có thấy chưa ! Làm sao quên được một người nào dầu còn lâu lắm y mới được vào hàng đệ tử nhập môn.” Thế nên chúng ta chớ sợ Tiên Thánh không biết chúng ta, chỉ e chúng ta chưa thật lòng chuẩn bị để xứng đáng làm đệ tử của Ngài mà thôi.

    Ba Bực Đệ Tử Của Chơn Sư
    Bực thứ nhứt :
    ĐỆ TỬ NHẬP MÔN. Khi Chơn Sư thấy một người chí nguyện có vài đức tánh khả dĩ dùng được thì Ngài thâu anh làm đệ tử nhập môn. Ngài quan sát gắt gao mỗi ngày trong một thời gian. Thường thường sự thí nghiệm nầy kéo dài tới bảy năm, có khi bốn năm năm, có khi hai ba chục năm. Điều nầy tùy thuộc sự cố gắng của người chí nguyện. Chỉ có một trường hợp đặc biệt có năm tháng thôi. Nếu tôi nhớ không lầm, ấy là trường hợp của Krishnamurti. Trong thời kỳ nhập môn, thí sanh không có liên lạc trực tiếp với Chơn Sư mà cũng ít hân hạnh gặp Ngài và nghe Ngài dạy dỗ. Thường thường Ngài không đưa đến cho anh những sự thử thách nào đặc biệt hay khó khăn. Ngài chỉ xem coi cách anh phản ứng với nhhững việc hằng ngày xảy đến cho anh trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội thế nào mà thôi.
    HÌNH SỐNG CỦA VỊ ĐỆ TỬ NHẬP MÔN Để tiện bề quan sát, Ngài làm một cái Hình Sống của thí sanh. Hình nầy linh động và giống hệt thí sanh. Người không có thần nhãn dòm vô thì ngỡ là thí sanh bằng xương bằng thịt. Hình nầy có đủ bốn thể : Phách, Vía, Hạ Trí và Thượng Trí. Bốn thể nầy liên lạc trực tiếp với bốn thể thật của thí sanh bằng từ điện. Ngài để hình nầy trong một chỗ riêng biệt đặng dễ bề xem xét. Tất cả những sự biến đổi trong tư tưởng, tình cảm và việc làm của thí sanh đều biểu lộ ra rõ rệt trong Hình Sống nầy. Chơn Sư chỉ liếc qua một cái cũng đủ biết thí sanh đã suy nghĩ hay thực hành điều chi trong 24 giờ vừa qua. Anh tiến hay thối, những việc làm của anh có chỗ nào đáng khen, có chỗ nào đáng chê v. v. . .
    NGHI LỂ NHẬP MÔN Nghi lễ Nhập môn rất giản dị. Chơn Sư sai một vị Cao đồ dắt thí sanh đến cung của Ngài ban đêm trong lúc anh ngủ. Ngài phủ ủy một đôi lời. Thường thường thì Ngài ngợi khen cách làm việc của thí sanh và hy vọng anh sẽ tiến mau và thật hành thêm những điều thiện mà Ngài mong muốn. Bước đầu chỉ có bao nhiêu ấy thôi.

    Bực thứ nhì :
    ĐỆ TỬ CHÁNH THỨC Nếu trong một thời gian sau, Chơn Sư thấy thí sanh càng ngày càng quên mình đặng lo Phụng sự và không ngớt lo tinh luyện tánh tình thì Ngài thâu nhận anh làm đệ tử chánh thức.
    NGHI LỄ THÂU NHẬN ĐỆ TỬ CHÁNH THỨC Nghi lễ thâu nhận Đệ tử chánh thức cũng không có chi là long trọng như Các cuộc lễ ở ngoài đời. Một vị Cao đồ dắt hồn vị Đệ tử nhập môn đến cùng Chơn Sư. Ngài khen ngợi những sự cố gắng của anh và khuyên anh tiếp tục làm việc cho đời mà không bao giờ ngã lòng, không bao giờ nửa chừng bỏ cuộc. Ngài để bàn tay lên đầu thí sanh rồi nói : “Thầy thâu nhận con làm đệ tử theo nghi lễ cổ truyền”. Ngài đem anh vào trong Hào quang của Ngài, anh biến mất trong giây lát, chừng anh hiện ra, người ta thấy anh biểu lộ những nét hạnh phúc, thanh cao, không thể nào miêu tả nổi, thêm những đặc điểm của Chơn Sư mà trước kia anh không phát hiện được. Chơn Sư bèn nói : “Ta ban ân huệ cho con” . Xong rồi Ngài dắt anh tới trình diện với Đức Văn Minh Đại Đế đặng Đại Đế ghi tên anh vào bộ Tiên Ban với cấp bực và danh hiệu mới. Khi từ tạ Đại Đế trở về Cung, Chơn Sư làm cho Hình Sống của anh tan rã. Ngài nói : “Bây giờ đây, Con là một thành phần của Thầy, hình nầy không còn cần thiết nữa.”

    SỰ LIÊN LẠC MẬT THIẾT GIỮA CHƠN SƯ VÀ ĐỆ TỬ CHÁNH THỨC
    Từ đây dầu ở xa Đức Thầy muôn vạn dặm đi nữa, những thể của đệ tử vẫn rung động hòa nhịp với những thể của Chơn Sư. Sự hòa nhịp nầy đòi hỏi một thời gian khá lâu mới đúng mức, đồng bộ, bởi vì ban đầu những thể của đệ tử rung động chậm chạp và dưới mức thấp, rồi lần lần mới mau lẹ và lên mức cao. Nhờ vậy, đệ tử càng ngày càng giống Thầy. Mặc dầu liên lạc trực tiếp với đệ tử, Chơn Sư vẫn để Tâm của đệ tử nhập vô Tâm Ngài xuyên qua Tâm của một vị Cao đồ, thường là một vị La Hán, và để cho vị nầy lo về sự hòa nhịp những thể của vị tân đệ tử. Đệ tử chánh thức là tiền đồn của tâm thức của Chơn Sư. Cái chi xảy ra trước mắt của đệ tử tức là xảy ra trước mắt Chơn Sư. Tư tưởng và tình cảm của đệ tử đều ghi vào Trí và Vía của Chơn Sư. Ngài đều hay biết. Có khi Ngài theo dõi đệ tử trong lúc đàm thoại hay là khi đọc diễn văn. Ngài sửa đổi những chỗ sai lầm và cho thêm những ý kiến mới mẻ. Đệ tử là một vận hà để đem thần lực của Chơn Sư và các Đấng Cao Cả ban rải cho những ai cần dùng sự giúp đỡ. Khi có một vấn đề khó khăn không biết phải giải quyết cách nào thì đệ tử được phép đem tư tưởng của mình kề bên tư tưởng của Chơn Sư coi Ngài xem xét vấn đề đó như thế nào. Nhờ vậy đệ tử tránh được sự hiểu lầm và sai lạc.
    Tuy nhiên, chớ nên lạm dụng phương pháp nầy trong những vấn đề tầm thường xảy ra hằng ngày. Chúng ta phải suy nghĩ kỹ lưỡng rồi tự kết luận. Vị đệ tử tiến hóa trong việc hy sanh giúp đời, càng giúp đời thì càng giàu kinh nghiệm, càng trở nên khôn ngoan. Đệ tử giúp người bao nhiêu thì trên Thiên đình ban ân huệ xuống bấy nhiêu, đây không phải là Thiên Vị mà là vấn đề Nhân Quả : Hễ gieo nhân lành thì gặp quả lành.


    PHẢI HẾT SỨC ĐỀ PHÒNG
    Đệ tử phải kiểm soát hết sức gắt gao tư tưởng và tình cảm của mình từng giờ từng phút. Không nên để một ý nghĩ quấy quá hay ô trược xâm nhập vô mình. Nếu ơ hờ để cho nó tới cám dỗ mình thì phải xua đuổi nó ra lập tức. Xua đuổi đây là tưởng tới việc tốt lành nghịch với sự ham muốn xấu xa đó. Không vậy thì động tới Tâm của Chơn Sư làm xáo trộn công việc của Ngài đương tiến hành. Lập tức Ngài phải buông xuống một bức màn ngăn cách, không cho Tâm của đệ tử thông đồng với Tâm của Ngài nữa. Tới khi nào trận dông đã tàn, đệ tử biết lỗi mình, sửa đổi tư tưởng lại thì Chơn Sư mới vén bức màn lên. Hai cái Tâm sẽ thông đồng như khi trước. Thường thường sự ngăn cách nầy không quá 48 giờ. Mới nghe qua chuyện nầy thì không thấy có chi là lạ lùng cả. Nhưng thật ra nó có một hậu quả lớn lao mà không ai ngờ. Chúng ta nên biết rằng ở mấy cõi cao, Chơn Sư luôn luôn tập trung tư tưởng của Ngài trong công việc phải thật hành không để một phút xao lảng. Tâm của Ngài rất thanh tịnh, nó yên lặng như mặt nước hồ thu. Nếu chúng ta làm xao động Tâm của Ngài thì Ngài phải tạm ngưng công việc của Ngài trong chốc lát đặng ngăn Tâm thức của Ngài với Tâm thức của chúng ta. Như thế Ngài mất một khoảng thì giờ quí báu và tiêu hao sức lực. Chúng ta không biết giá trị thì giờ ở mấy cõi cao và công việc của Ngài quan trọng như thế nào. Tuy nhiên, chúng ta có bổn phận không nên làm cho Ngài nhọc lòng và phí sức một cách vô ích. Một lẽ khác nữa, vì vô tình ta làm trì hoãn sự tiến hóa, mặc dầu là trong giây lát, nhưng đây cũng là một tội rồi vậy.

    Bực thứ ba :
    CON CỦA THẦY.
    Tới một ngày kia khi Chơn Sư thấy Tâm của đệ tử đã được trong sạch, Trí và Vía của anh không còn ứng đáp với những tư tưởng và ý muốn thấp hèn nữa và anh làm việc đắc lực thì Ngài cho Tâm anh nhập vô Tâm của Ngài mật thiết hơn lúc trước. Đây là giai đoạn thứ ba : Đệ tử vào hạng Con của Thầy. Tới bực nầy rồi, Chơn Sư không còn buông bức màn ngăn cách Tâm Ngài và Tâm của đệ tử nữa. Trong một thời gian sau, Ngài dẫn anh đến trình diện Quần Tiên Hội đặng xin cho anh được Điểm Đạo lần thứ nhứt

    Thời Kỳ Chuẩn Bị Để Được Điểm Đạo Lần Thứ Nhứt

    Thời kỳ chuẩn bị để điểm đạo lần thứ nhứt gồm 4 giai đoạn :
    I - Giai đoạn thứ Nhứt. Ấn giáo gọi là Viveka – Discernement – Phân biện. Phật giáo gọi là Manodvaravajjana – có nghĩa là mở cửa Trí khôn.
    II – Giai đoạn thứ Nhì. Ấn giáo gọi là Vairagya – Détachement - Đoạn tuyệt hay là Xả. Phật giáo gọi là Parikamma – có nghĩa là chuẩn bị hành động.
    III – Giai đoạn thứ Ba. Ấn giáo gọi là Shatsampatti tức là 6 đức tánh thuộc về nhóm năng lực trí thức :
    1/ Shâma : Kiểm soát cái Trí.
    2/ Dâma : Kiểm soát giác quan và thân thể.
    3/ Uparati : Khoan dung.
    4/ Tititsha : Kiên nhẫn.
    5/ Shraddha : Đức tin.
    6/ Samadhapa : Điềm tĩnh. Phật giáo gọi giai đoạn thứ Ba là Upacharo - Chủ ý hay Hạnh kiểm. Cũng gồm 6 đức tánh :
    1/ Samo : Tư tưởng yên tịnh và trong sạch.
    2/ Damo : Kiểm soát giác quan và thân thể.
    3/ Uparati : Khoan dung.
    4/ Titikcha : Nhẫn nại.
    5/ Shamadhana : Sức mạnh của sự chủ ý.
    6/ Shraddha : Đức tin. (Phật giáo để Sức mạnh của sự chủ ý trước Đức tin) Theo quyển Dưới Chơn Thầy, giai đoạn thứ Ba là Hạnh kiểm gồm 6 đức tánh sau nầy :
    1/ Tự chủ trong khi tư tưởng.
    2/ Tự chủ trong lúc hành động.
    3/ Khoan dung.
    4/ An phận.
    5/ Đi thẳng tới mục đích.
    6/ Lòng tin cậy.

    IV – Giai đoạn thứ Tư Theo Ấn giáo, giai đoạn thứ Tư là Mumuksha – Ý muốn được giải thoát. Phật giáo gọi giai đoạn chót là Anuloma, nghĩa là Thứ tự trực tiếp hay là Liên tục. Quyển Dưới Chơn Thầy lại gọi là Lòng Từ Ái. Tên mỗi giai đoạn tuy có khác nhau song sự giải thích về những điều kiện bắt buộc vẫn giống nhau. Thí sanh phải có đủ 4 đức tánh nầy tới một mức độ đã qui định sẵn và nhứt là phải mở rộng lòng Từ bi. Nếu không biết thương người, không sẵn sàng giúp đỡ bất câu là ai trong lúc cần thiết, thì các đức tánh khác giống như nước đổ xuống cát, một chập sau bị rút đi mất hết. Thật ra khi bước vào con Đường nhập môn vị đệ tử đã cố gắng luyện mình cho có đủ bốn đức tánh cần thiết và càng ngày chúng càng phát triển. Một vị Cao đồ của Chơn Sư đã nói : “Nên để ra 2 năm để tập một đức tánh, hết 8 năm thì có đủ bốn đức tánh.” Được như thế, cái kết quả sẽ khả quan và có nhiều hy vọng được điểm đạo. Nhưng thiết tưởng cũng phải nói chút ít về ý nghĩa cao siêu của mỗi đức tánh cho người chí nguyện biết thì sự luyện tập mới đem lại những kết quả tốt đẹp mau chóng.

    1/ VỀ GIAI ĐOAN THỨ NHỨT : ĐỨC TÁNH PHÂN BIỆN. Trước hết phải biết Cơ Trời là Luật Tiến Hóa. Thái dương hệ nầy sanh ra để đưa con người và các loài tiến tới bực siêu phàm. Thật con người là Chơn Thần ở trong xác thân. Xác thân mà xưa nay hầu hết lầm tưởng là con người, chẳng qua là một khí cụ để cho con người dùng đặng học hỏi và kinh nghiệm những luật Trời tại cõi trần mà thôi. Vậy thì phải biết Phân biện. Cái nào là tinh thần, cái nào là vật chất, cái nào là hình thể, cái nào là Linh hồn. Cái nào chơn, cái nào giả; cái nào là trường cửu, cái nào là phù du; cái nào hư, cái nào thực; cái nào lành, cái nào dữ; cái nào hữu ích nhiều, cái nào hữu ích ít. Phải nhận xét cho đúng đắn và mau lẹ. Phải vượt qua bức màn ảo ảnh của vật chất mới thoát khỏi những sự cám dỗ và quyến rủ của nó dưới muôn vạn hình thức đẹp đẽ khác nhau. Phải học hỏi cho rộng sâu; phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới mong thành công được phần nào.

    2/ VỀ GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ : ĐOẠN TUYỆT HAY XẢ. Đức tánh thứ Nhì Đoạn tuyệt do Đức tánh thứ nhứt mà ra. Tuy nhiên phải phân biệt hai thứ Đoạn tuyệt : một thứ tạm thời và một thứ chân chánh trường tồn.
    a/ Đoạn tuyệt tạm thời. Khi nhân quả cướp mất vật gì mà ta quí trọng hơn hết hay là những người mà ta thương yêu hơn hết thì lòng ta vô cùng đau đớn. Ta buồn bực, ta chán nản thế sự. Ta không còn thiết tha với sự sống nữa. Những lạc thú của đời đối với ta rất vô vị. Ta ước ao sống trong cảnh quạnh hiu, xa lánh tất cả mọi người, tìm sự thanh tĩnh trong chốn non cao rừng thẳm, mọi tiếp xúc với đời đều dứt hẵn. Nhưng đây không là đoạn tuyệt chân chánh đâu. Khi vết thương lòng đã hàn gắn, khi sự đau khổ đã nguôi ngoai thì con người trở lại thèm muốn những dục lạc khác. Rồi thì đứng núi nầy trông núi nọ.
    b/ Đoạn tuyệt chân chánh. Trái lại, sự đoạn tuyệt chân chánh không sanh ra thái độ nguội lạnh hay là lãnh đạm thờ ơ trong một thời gian như trên đây. Nó đánh giá trị của mỗi biến cố đúng với trạng thái tạm thời của sự vật. Nó quan tâm đến những gì có ảnh hưởng tới những kẻ ở chung quanh mình và nên giúp họ hiểu được một cách minh bạch mỗi trường hợp đã xảy ra. Nếu có một sự quyến rủ nào đưa đến thì nó phân tích ra coi cái nào lợi cái nào hại, rồi bài trừ những gì không được trường tồn vĩnh viễn. Một khi tâm hồn đã vượt lên khỏi sắc tướng thì con người an lòng theo đuổi con đường của mình đã chọn lựa, không còn bị sự cuồng nhiệt của dục vọng làm cho điên đảo và án mất lương tri. Con người hành động chỉ vì bổn phận chớ không phải ước ao được hưởng hạnh phúc. Như Dưới Chơn Thầy đã dạy : “Vậy thì làm lành bởi chưng ưa thích việc lành chớ không phải trông mong được ban thưởng. Phải làm việc vì chưng ưa thích sự làm việc chớ chẳng phải trông mong thấy cái kết quả. Con phải xả thân giúp đời vì con thương đời và bởi tại con không còn làm cách nào khác nữa.”

    3/ VỀ GIAI ĐOẠN THỨ BA : SHATSAMPATTI.
    Đức tánh thứ nhứt. 1.- Shâma - tức là kiểm soát gắt gao tư tưởng hay là làm chủ cái Trí. Thí sanh phải biết rành rẽ hậu quả của tư tưởng. Tùy theo chúng hướng về điều thiện hay điều ác, chúng thiết lập những liên quan tốt hay xấu giữa anh và những người ở chung quanh anh, trong đạo đức gọi là gây ra nghiệp quả lành hay nghiệp quả ác với những kẻ khác. Tư tưởng có quyền năng giúp đời hay phá rối đời sống của con người, nói một cách khác, nó làm lợi cũng được mà làm hại cũng được. Tùy theo bản tánh của nó, nó có thể thúc đẩy hay làm trì hoãn sự tiến hóa. Phải sử dụng nó vào công việc giúp đỡ nhân loại của Chơn Sư mà thôi. Đừng quên rằng tư tưởng là cội rễ của sự Luân Hồi Quả Báo. Một tư tưởng trong 5 phút có thể phá hoại công phu của 5 năm luyện tập. Dầu gây dựng lại được đi nữa cũng là mất thì giờ rồi. Đức tánh thứ nhì.
    2.- Dâma – là sự kiểm soát giác quan và thân thể tức là những tình cảm, nói một cách khác, đó là kỷ luật của Hạnh kiểm. Luôn luôn người đời chú trọng đến hạnh kiểm, mà không biết hạnh kiểm vốn do tư tưởng tạo ra. Nếu tư tưởng thanh cao thì hạnh kiểm sẽ tốt đẹp bởi vì tư tưởng sẽ biến thành sự hành động. Vì thế nếu trong trí ta vừa nảy sanh ra một tư tưởng quấy thì phải diệt nó ngay tức khắc. Xin nhắc lại diệt đây là sanh ra một tư tưởng tốt đối lập với tư tưởng xấu đó. Không vậy thì tư tưởng xấu nầy bắt buộc ta phải nhớ tới nó mãi, rồi tới một ngày nó biến thành sự hành động mà ta không còn thì giờ hay là phương thế nào ngăn cản kịp nữa. Ta sẽ phạm tội vì làm một việc không phải. Đức tánh thứ ba.
    3.- Ouparati – Có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong Huyền bí học có nghĩa là khoan dung, rộng rãi, cao thượng và không bao giờ nản lòng. Ấy là một trong những đức tánh hiếm có nhứt và cần thiết nhứt trong đời sống của người đệ tử. Phải thấy Chơn Thần trong muôn vạn hình hài mà chúng ta đang gặp gỡ hằng ngày trên con đường hành hương, mặc dầu có thứ xấu xa hay gớm ghiết thế mấy đi nữa. Hình hài là lớp áo của Chơn Thần khoác lên mình để hiện ra. Hình hài có đẹp, có xấu là tại vì sự tiến hóa có cao, có thấp. Càng tiến hóa thân hình càng trở nên tuấn tú, phương phi, oai nghi, lẫm liệt. Nói một cách khác, mỗi người hay mỗi con vật là một ChơnThần cũng như ta vậy. Mỗi Chơn Thần đã vạch sẵn cho mình một con đường đi riêng biệt, thích ứng với sự tiến hóa của mình, vậy chớ nên bảo kẻ khác phải như thế nầy hay như thế kia theo ý ta muốn.
    Mỗi cung đều khác nhau. Phải kính trọng các tôn giáo và chịu đựng những tập quán, những phong tục bởi chúng là những khía cạnh của Chơn lý phát hiện ra tùy thời, tùy cảnh. Tiếc thay về lâu, có những sự mê tín dị đoan xen vào làm giảm mất giá trị thiêng liêng của nó. Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục, lời xưa dạy rất đúng về độ lượng khoan hồng. Thừa nhận mỗi người với tánh tốt và tánh xấu của y tức là nhận thấy Đức Thượng Đế ngự trong tâm của mỗi người. Phải dành cho mọi người tất cả những sự dễ dãi, phải rộng lòng tha thứ những lỗi lầm của kẻ khác, nhưng tự mình phải hết sức nghiêm khắc đối với mình, không dung dưỡng một mảy bợn nhơ trong lòng hay là một ý nghĩ thấp hèn trong trí.
    Dầu cho ngày nay mình đã thành ra con bướm, cánh lộng lẫy rực rỡ, bay liệng trên nhành, mình cũng chớ nên quên lốt cũ của mình, bởi trước đây không lâu, mình vốn là con sâu bò lăn quăn dưới đất, ai thấy cũng ghê tởm vì sợ suông nhầm. Có nhớ như thế mới khoan dung được và không còn chê cười ai nữa.
    Đức tánh thứ tư. 4.- Tititsha - Nhẫn nại – Đây là khả năng chịu đựng một cách bền bĩ tất cả những gì không hay xảy đến cho mình mà không hề than van rên siết, không hề oán trời trách đất, giận vật hờn người. Phải quan niệm rằng những biến cố đó vốn do định luật chí thiện đã sắp đặt sẵn bởi vì ta phải gặt hái những quả của các thứ nhân mà ta đã gieo trồng thuở xưa. Những chướng ngại hiện ra trên con đường của ta đi bây giờ chính là ta đã tạo chúng nó ra ở mấy kiếp trước. Bây giờ ta phải lo ruồng phá chông gai, dọn dẹp con đường lại cho sạch sẽ, bằng thẳng. Ta đã chọn con đường của ta đi, ta cứ đi tới. Những bước chân của ta rất vững vàng, rất quả quyết. Ta đã thấy mục đích, ta phải cố đạt cho được nó. Không có một sự vui hay một sự buồn nào làm cho ta chuyển hướng, hay là bỏ con đường đó đặng bước sang qua nẻo khác.
    Người ta cũng thấy những trận giông tố luôn luôn xảy ra trong đời sống của những người chí nguyện chân thành. Anh phải chịu đựng tất cả những sự rối rắm trong gia đình, những sự khó khăn trong công việc làm ăn, những bịnh tật liên miên và những lời mắng nhiếc thậm tệ của những kẻ không hiểu anh. Người đời không biết thì cho rằng trời đất bất công bởi vì một người từ thiện, một người chỉ biết lo mưu hạnh phúc cho kẻ khác đáng lẽ phải được sung sướng, phải được giàu sang vinh hiển mới phải, chớ có đâu phải lận đận lao đao như thế. Người ta đâu biết rằng : Thiên đình thấy anh đáng giúp đỡ nên nhồi quả cho anh. Anh phải trả trong một vài kiếp số quả mà đem chia ra từng phần thì anh phải đầu thai cả trăm kiếp nữa mới thanh toán xong. Anh phải trả hết số nợ của anh đã gây ra trong nhiều kiếp trước, anh mới rảnh rang đặng gánh vác phần nào nghiệp quả nặng nề của trần gian. Vì thế người chí nguyện phải tập cho được tánh hết sức nhẫn nại. Cũng đừng quên rằng sự tu tâm luyện tánh đòi hỏi một thời gian rất lâu từ kiếp nầy sang kiếp kia, chớ nào phải một vài năm mà thành công rực rỡ. Chớ nên nửa chừng bỏ cuộc mà e cho nhiều kiếp sau chưa ắt gặp lại những cơ hội tốt để gầy dựng cơ đồ.
    Đức tánh thứ năm. 5.- Shraddha - Đức tin. Đức tin đây cũng có thể gọi là lòng tin cậy Tin cậy nơi Sư Phụ mình mà mình cũng tin cậy ở mình nữa. Kẻ chí nguyện tin cậy ở Sư Phụ mình, vì Ngài đã dắt anh qua khỏi quãng đường chông gai đến một chỗ mà anh thấy cửa Đạo đã hé mở cho anh. Anh tin ở quyền năng của Sư Phụ, tin cậy sự huấn luyện của Ngài. Anh tin rằng trong một kiếp lai sanh, anh sẽ giống y như Sư Phụ của anh bấy giờ nghĩa là anh sẽ đắc thành chánh quả. Anh tin cậy anh vì anh là Chơn Thần, anh vốn thiêng liêng. Quyền năng của anh là quyền năng của Đức Thượng Đế, chúng nó vốn vô biên. Anh sẽ làm được những công việc mà Đức Thượng Đế đã thực hiện. Anh sẽ chiến thắng mặc dầu anh phải trải qua những nổi cực nhọc khó khăn lớn lao đến bực nào.
    Đức tánh thứ sáu. 6.- Samadhana - Điềm tĩnh. Tánh điềm tĩnh hay là sự yên lặng của cái Trí là kết quả của sự hoạch đắc ở đức tánh trước. Thí sanh phải giữ vững được thăng bằng, cái tâm của anh đã thanh tịnh. Anh đã đứng trước cửa Điểm đạo.

    4/ VỀ GIAI ĐOẠN THỨ TƯ : MUMUKSHA - Ý muốn được giải thoát. Xin nhắc lại, mục đích tiến hóa của Thái dương hệ là đưa con người đến bực Siêu Phàm. Trong cuộc hành hương của Linh hồn có 3 thời kỳ trọng hệ hơn hết.
    Thời kỳ thứ nhứt – Thoát kiếp thú, có Thượng Trí, đầu thai làm người.
    Thời kỳ thứ nhì - Được điểm đạo lần thứ nhứt gọi là Nhập lưu, nghĩa là vào vòng tiến hóa của những bực Siêu Phàm.
    Thời kỳ thứ ba – Qua đến tới bờ bên kia tức là thành chánh quả, được 5 lần Điểm đạo.

    Được giải thoát, bỏ kiếp người, nhập vào hạng Siêu Phàm. Thế nên ý muốn được giải thoát không có mang màu sắc ích kỷ cá nhân. Mình phải tự giải thoát cho mình rồi, mình mới giải thoát cho kẻ khác được.
    Thành công trong 3 giai đoạn đầu tiên mới kể ra trước đây thì thí sanh thành một vị A đi cà ri (Adhikari) tức là người đệ tử đã vượt qua giai đoạn thử lòng. Anh xứng đáng được điểm đạo lần thứ nhứt.

    Bốn Bực Đệ Tử Được Điểm Đạo

    Có 4 Bực Đệ tử được điểm đạo.

    A.- Những vị được Điểm đạo lần thứ nhứt. Ấn Giáo gọi những vị được Điểm đạo lần thứ nhứt là Parivrajaka nghĩa là người đi ta bà trong 3 cõi Vũ trụ. Phật Giáo gọi là Sowani hay là Sotapanna, Tu đà huờn. Sowani có nghĩa là vào dòng sông, nói bóng dáng là vào dòng tiến hóa của những vị Siêu phàm tức là Nhập lưu.

    B.- Những vị được Điểm đạo lần thứ nhì. Vị Tu đà huờn phải lo chặt đứt 3 chướng ngại sau nầy :
    1.- Sakayadathi – Phàm nhơn là mộng ảo hay là ảo tưởng về Phàm nhơn.
    2.- Vitchikitchtcha – Sự hoài nghi hay mơ hồ.
    3.- Vilablataparamasa - Mê tín – Tin dị đoạn.
    Khi hoàn toàn thành công rồi, vị Tu đà huờn mới được điểm đạo lần thứ nhì. Ấn Giáo gọi vị đệ tử được điểm đạo lần thứ nhì là Koutichaka, nghĩa là người đã cất được một cái chòi, dựng lên một túp lều, người đã đi tới chỗ yên tịnh. Phật giáo gọi là Sakridagami – Tư đà hàm, nghĩa là người chỉ trở lại một lần nữa mà thôi; Nhứt lai. Danh từ nầy ám chỉ rằng vị Tu đà hàm chỉ cần đầu thai một kiếp nữa là tới bực La hán và vị La hán có quyền ở tại cõi Bồ Đề tu luyện thêm đặng lên tới bực A sơ ca (Asekha) được hoàn toàn giải thoát, khỏi cần phải trở xuống trần mang cái xác phàm nặng trịu nầy nữa. Mà nếu Ngài muốn đi đầu thai thì là tự ý chớ không phải bị bắt buộc. Trong giai đoạn nầy vị Tư đà hàm không có dây xiềng xích nào phải cởi mở nhưng anh phải lo tinh luyện tâm tánh thêm nữa vì thời kỳ nầy là thời kỳ nguy hiểm hơn hết trong 5 giai đoạn của đường Đạo. Trí hóa của anh phát triển mau lẹ và anh dùng được nhiều quyền năng siêu việt. nếu anh trổ tánh kiêu căng, tự phụ, lạm dụng những phép thần thông thì anh sẽ rớt. Rớt đây là đầu thai nhiều kiếp mà không tiến hóa thêm chút nào cả.

    C.- Những vị được Điểm đạo lấn thứ ba. Giữa hai kỳ Điểm Đạo những kết quả đã được luật pháp qui định phải hiện ra rõ ràng, như thế người ta thấy rõ sự thay đổi của con người nội tâm. Đặc tính của người đã được điểm đạo là phải hoàn thành công việc đang làm, trước khi bắt qua một công việc khác. Không được phép thật hành nửa chừng rồi bỏ dở. Thiên đình không chấm điểm ta do theo sự thành công hay sự thất bại của ta mà xét đoán cách ta làm việc và cách ta phản ứng với những điều xảy đến cho ta hằng ngày. Việc làm trọng hệ hay không trọng hệ chẳng cần thiết. Vị Tư đà hàm phải sống một đời sống tinh thần nghĩa là biết mình chẳng những là một với Thượng Đế mà cũng là một với chúng sanh, từ loài tinh chất, kim thạch, thảo mộc, cầm thú cho đến con người.
    Khi đúng công phu rồi thì anh được điểm đạo lần thứ Ba. Ấn giáo gọi những người điểm đạo lần thứ ba là Hamsa, nghĩa là Thiên hạc. Tục truyền rằng đứng trước một chậu đựng sữa pha nước thì con Hạc biết cái nào là sữa, cái nào là nước. Cũng thế, hiền nhơn đánh đúng giá trị của mọi việc ở đời. Phật giáo gọi mấy vị nầy là Anagamin – A na hàm. Anagamin có nghĩa là không trở lại nữa; Bất lai. Nội trong kiếp nầy anh phải đi tới bực La hán và như tôi đã nói trước đây, vị La hán được phép không trở xuống thế gian như trước nữa. Vị A na hàm phải lo tận diệt hai tánh nầy :
    4.- Kamaraya - Dục tình do giác quan sanh ra.
    5.- Patigha - Sự giận hờn hay thù oán. Tới bực nầy rồi đâu còn say hoa đắm nguyệt hay là nổi nóng, múa tay trợn mắt, vỗ bàn đập ghế như thường nhơn. Tuy nhiên vật chất có quyền năng quyến rủ phi thường. Nó trổi những khúc nhạc du dương làm mê loạn tâm thần, chớ nên để lọt vào tai. Nếu không đề phòng thì e hồ thu nổi sóng, con thuyền trôi dạt phương xa, phải mất thì giờ và vất vả lắm mới ghé được vào bến cũ. Một phút yếu lòng ngàn năm ân hận. Những vị đã qua tới Bờ Giác đều cảnh cáo chúng ta phải cẩn thận từng li từng tí, kẻo sa vào cạm bẩy của kẻ nghịch dàn sẵn ở mỗi chặng đường. Có nhiều kinh nghiệm chừng nào mới sợ nhiều chừng nấy.
    Ngoài ra, thí sanh phải vào một trạng thái gọi là Avitchi (A Tỳ), nghĩa là không có sự rung động. Thí sanh cảm thấy mình bị loại ra khỏi vòng Trời Đất, trơ trọi một mình, không thầy, không bạn, không không gian, không thời gian. Ở trong trạng thái nầy một phút cầm bằng một ngàn hay một muôn năm ở ngoài thế. Nếu thí sanh chịu không nổi, bước ra ngoài thì thi rớt. Kỳ sau phải thi lại. Đức Leadbeater có nói : Sự kinh nghiệm nầy ghê tởm hơn hết trong những kinh nghiệm mà con người phải trải qua.
    Chịu đựng được thì có hai điều hay : Một là mở rộng lòng từ bi, chia sớt số phần của những anh Bàn Môn Tả Đạo bị đày vào chốn nầy vì tội ác của mấy ảnh đã làm trong những kiếp quá khứ mà không biết ăn năn chừa cải. Hai là kinh nghiệm nầy dạy con người phải thật gan dạ, phải tự tin, phải đứng vững một mình, đừng trông cậy sự giúp đỡ của ngoại nhơn, phải chắc chắn mình với Thượng Đế là Một, đâu đâu cũng có Ngài.
    Cảm thấy mình lẻ loi là mộng ảo.

    D.- Những vị được Điểm đạo lần thứ tư. Những vị được điểm đạo lần thứ tư, Ấn giáo gọi là Parahamsa nghĩa là Con Hạc lớn - Đại Thiên Hạc. Phật giáo gọi là Arhat – La hán. Arhat có nghĩa là Đại Đức, Tôn Giả. Vì La hán mới đi nửa đường Đạo, Ngài phải phá tan 5 chướng ngại chót mới được hoàn toàn giải thoát.
    Năm chướng ngại đó là :
    - Rouparaga - Muốn sống trong cõi có hình dạng.
    - Arouparaga – Muốn sống trong cõi vô hình, không có hình dạng.
    - Mana – Kiêu hảnh.
    - Ouddhatchtcha – Cái Trí còn xao động – Tâm chưa yên tĩnh.
    - Avidjya – Vô minh. Mười chướng ngại nầy Phật giáo gọi là Samyojanas – nghĩa là những xiềng xích buộc con người vào bánh xe Luân hồi.

    Bốn bực đệ tử được điểm đạo là bốn quả vị đầu tiên của Quần Tiên Hội hay là Thiên đình. Phật giáo gọi là Tứ Thánh. Thường thường vị Tu đà huờn phải tu trong 7 kiếp mới tới bực La hán. Còn vị La hán phải tu thêm 7 kiếp nữa mới được làm một vị Chơn Tiên A sơ ca (Aseka). Tất cả là 14 kiếp. Tuy nhiên thời gian nầy có thể rút ngắn lại. Sau khi chặt đứt được chướng ngại chót là Vô minh thì vị La hán đã hoàn toàn sáng suốt. Ngài được 5 lần điểm đạo. Ấn giáo gọi Ngài Jivanmoukta nghĩa là Linh hồn đã được giải thoát. Phật giáo gọi là A sơ ca (Aseka) có nghĩa là không còn làm đệ tử, không còn học hỏi cái chi trong dãy Địa cầu nầy. Đối với người đời thì Ngài toàn năng, toàn thiện, toàn giác. Ngài liên lạc mật thiết với Ngôi Thứ Ba của Đức Thái Dương Thượng Đế. Nhờ vậy, Ngài mới được phép thâu đệ tử. Ngài ghé mắt vào vấn đề nào thì biết trọn vẹn về vấn đề đó, không sót một chi tiết nhỏ nhặt nào cả. Ngài đã đoạt được mục đích định sẵn cho Thái Dương hệ nầy. Ngài đã vào hạng Siêu Phàm. Người ta gọi Ngài là Chơn Tiên.

    Điểm Đạo Là Gì ?
    Tôi tưởng cũng phải giải nghĩa Điểm Đạo là gì đặng cho nhiều bạn hết thắc mắc. Điểm đạo là chỉ máy huyền vi hay nói bóng dáng là giao chìa khóa mở cửa cõi Trời. Điểm đạo cũng có nghĩa là khởi đầu một cuộc đời mới trong Phàm nhơn lần lần trở nên phản ảnh của Chơn nhơn, và Chơn nhơn bắt đầu vận dụng những quyền năng của Chơn thần. Sau mỗi kỳ Điểm đạo, Tâm thức đều mở rộng hơn trước rất nhiều. Vị đệ tử thành một người mới.

    Ai Điểm Đạo ?
    Tại quả Địa cầu nầy chỉ có 5 lần Điểm đạo và cũng chỉ có một Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền Điểm đạo mà thôi. Ấy là Đức Ngọc Đế, chủ tể Quần Tiên Hội. Ngài thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế đặng cai trị thế gian và chăm nom sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu nầy. Không có sự ưng thuận của Ngài thì không một ai được vào Quần Tiên Hội. Luôn luôn trong hai kỳ điểm đạo lần đầu tiên, kỳ thứ nhứt và kỳ thứ nhì, Ngài cậy Đức Bồ Tát hay là một vị Đế Quân thay mặt cho Ngài và nhơn danh Ngài.

    Điểm Đạo Tại Đâu ?
    Điểm đạo lần thứ nhứt tại cõi Trung giới. Điểm đạo lần thứ nhì tại cõi Hạ thiên. Điểm đạo lần thứ ba tại cõi Thượng thiên. Điểm đạo lần thứ tư tại cõi Bồ đề. Điểm đạo lần thứ năm tại cõi Niết Bàn. Từ lần Điểm đạo thứ sáu, thứ bảy sắp lên ở mấy cõi khác, ngoài Địa cầu nầy.

    Bảy Đường Tiến Hoá Trước Mặt Các Vị Siêu Phàm.
    Đường Đạo hay là Đường Tiến Hóa có phải chấm dứt tại chỗ 5 lần điểm đạo nầy hay không ? Không. Nó vốn vô tận vô biên. Trước mặt các vị Siêu phàm có 7 đường Tiến hóa khác nhau, các Ngài có quyền tự do chọn lựa con đường hạp với mình đặng đi theo.
    1.- Hoặc nhập vào Niết Bàn tu hành thêm rồi không biết bao nhiêu tỉ năm sau sẽ thành một vị Avatar hay là Hiện Thân của Đức thượng Đế trong một Vũ trụ khác. Người ta gọi là mặc áo Đạt ma cai da (Dharmakaya). Tàu dịch là Pháp thân.
    2.- Hoặc nhập vào cõi Niết Bàn ở trong một trạng thái Thiêng Liêng gọi là Sam bô ga cai da (Sambhogakaya), không biết đúng nghĩa là chi, vì có nhiều nghĩa.
    3.- Hoặc nhập vào hàng những vị Niệt ma na cai da (Nirmanakaya) sanh thần lực để cho nhơn viên của Quần Tiên Hội dùng đặng độ đời. Nhiều vị đệ tử của Đức Phật khi xưa theo con đường nầy.
    4.- Hoặc theo con đường tiến hóa của các vị Đại Thiên Thần.
    5.- Hoặc dự vào việc tạo lập dãy Hành tinh thứ năm, sau thế cho dãy Địa cầu chúng ta là dãy thứ tư.
    6.- Hoặc nhập vào Bộ Tham mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế.
    7.- Hoặc giữ xác phàm, lãnh một chức vụ trong Quần Tiên Hội đặng lo cho sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu.

    Trước khi chấm dứt bài nầy tôi tưởng cũng phải nói thêm vài lời rằng : Quan niệm Tiên Trưởng trong Huyền bí học khác hẳn quan niệm Tiên trưởng trong những tiểu thuyết Trung Hoa như Phong Thần, Tây Du, Phong Kiếm Xuân Thu, Đông Du Bát Tiên hay trong những bài ca tiên đọc trong những lúc cầu đàn mà phần đông chúng ta đều quen thuộc. Sự thật thế nào ? Ai có kinh nghiệm nhiều rồi thì biết rõ. Cãi vã làm chi đã vô ích mà lại mất niềm hòa khí, bởi vì trong cõi Huyền bí vô hình, mặc dầu có những bằng chứng cụ thể, nhưng mà con mắt phàm không thể thấy được thì lấy gì mà chứng minh. Điều hay hơn hết là nên nhớ rằng mỗi người đều có quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng, ai muốn theo đuổi con đường nào hạp với mình thì cứ tự tiện, không ai được phép chê bai hay kích bác cả.

    BẠCH LIÊN: NÊN ĐỌC THÊM NHỮNG QUYỂN SAU NẦY :
    1.- CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ.
    2.- DƯỚI CHƠN THẦY.
    3.- GIẢNG LÝ DƯỚI CHƠN THẦY.
    4.- GIẢNG LÝ ÁNH SÁNG TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO.
    5.- CHƠN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO. và cố gắng thực hành những lời dạy đó trong đời sống hằng ngày.
    http://www.thongthienhoc.com/ 2001-2004

  9. #9

    Mặc định

    Lâu quá không vào thegioivohinh hôm nay mới biết ở box này có bạn dienthoai đã post nhiều tài liệu về thông thiên học, thật là tốt quá. Hôm bữa có bàn với anh Lovetamlinh về kế hoạch post tài liệu của thongthienhoc lên trang này rồi cuối cùng với vô vàn lý do (bận thật cũng có mà lười biếng cũng có) mà đến giờ thì đã có bạn đi trước rồi, quý hóa vô cùng. Giáo lý thông thiên học rất bổ ích, nếu nhiều người đọc và hiểu thì cũng phần nào đóng góp vào công cuộc phụng sự rồi. Sắp tới mình cũng sẽ cố gắng đóng góp công sức cùng bạn để phổ biến MTTL trên thế giới vô hình.

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi TuTam Xem Bài Gởi
    Lâu quá không vào thegioivohinh hôm nay mới biết ở box này có bạn dienthoai đã post nhiều tài liệu về thông thiên học, thật là tốt quá. Hôm bữa có bàn với anh Lovetamlinh về kế hoạch post tài liệu của thongthienhoc lên trang này rồi cuối cùng với vô vàn lý do (bận thật cũng có mà lười biếng cũng có) mà đến giờ thì đã có bạn đi trước rồi, quý hóa vô cùng. Giáo lý thông thiên học rất bổ ích, nếu nhiều người đọc và hiểu thì cũng phần nào đóng góp vào công cuộc phụng sự rồi. Sắp tới mình cũng sẽ cố gắng đóng góp công sức cùng bạn để phổ biến MTTL trên thế giới vô hình.
    Cũng còn phụ thuộc vào :thiên thời - địa lợi - nhân hòa :o

  11. #11
    Nhất Đẳng Avatar của chanphuong
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    những ngọn đồi
    Bài gởi
    1,068

    Mặc định

    xin phép bạn điện thoại đóng góp một quyển sách quý - quyển "Giảng lý dưới chơn thày" :)


    _____________



    Giảng Lý Dưới Chân Thầy Tác giả: ANNIE BESANT & C. W. LEADBEATER


    Trong quyển sách này sưu tập những bài bình giảng của Ông C. W. Leadbeater - hiện giờ là Giám Mục - và của tôi về ba tác phẩm nổi tiếng, khuôn khổ tuy nhỏ bé, nhưng nội dung thật quan trọng. Cả hai chúng tôi ước mong nó sẽ hữu ích cho những người chí nguyện và ngay cả những người đã vượt qua giai đoạn đó, vì người diễn giảng cao niên hơn thính giả và do kinh nghiệm, hiểu biết nhiều hơn về đời sống của người đệ tử. Những cuộc đàm luận này chẳng phải chỉ diễn ra ở tại một chỗ mà thôi. Chúng tôi đã nói chuyện với các bạn chúng tôi trong nhiều lúc, và nhiều nơi khác nhau, nhất là ở Adyar, Luân Ðôn (London) và Sydney. Rất nhiều chú thích đã được thính giả ghi lại. Tất cả những lời ghi chú có giá trị đều được sưu tập, và sắp xếp có thứ tự rồi tập trung lại sau khi loại bỏ những phần trùng hợp với nhau. Rủi thay, vì chỉ còn có một số rất ít những chú giải thuộc phần I của quyển Tiếng Nói Vô Thinh, cho nên chúng tôi lấy những chú giải của một vị Thân hữu, bạn đồng nghiệp của chúng tôi, là Ông Ernest Wood đã dùng trong một khóa học ở Sydney. Những chú giải này nhập với những lời bình giảng của Giám Mục Leadbeater C. W. L. Quyển Dưới Chơn Thầy là một trong ba quyển (hai quyển kia là Tiếng Nói Vô Thinh và Ánh Sáng Trên Ðường Ðạo) đặc biệt giúp cho việc bước vào đường Ðạo dễ dàng. Hiện thời, giá trị của quyển Dưới Chơn Thầy đối với chúng ta thật là to tát vì lẽ nó cực kỳ giản dị và đã được Ðức Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt thừa nhận. Nó chứa đựng những bài của Ðức Chơn Sư dạy người đệ tử ấu thơ của Ngài là J. Krishnamurti, mới 13 tuổi, năm 1909 (Krishnamurti có tên Alcyone trong quyển Những Tiền Kiếp của Alcyone mới xuất bản đây, vào năm 1924).[1] Vì lúc đó Krishnamurti chưa thật giỏi tiếng Anh, mà bài học lại bằng Anh Ngữ, cho nên lời dạy và văn từ phải đặc biệt rõ ràng. Ðức Chơn Sư Kouthoumi với tài năng thích ứng phi thường của Ngài, đã trình bày mọi điều kiện để được Ðiểm Ðạo lần thứ nhứt, bằng một ngữ pháp đơn giản tuyệt diệu. Ðó là sự hấp dẫn của quyển sách này. Quyển Ánh Sáng Trên Ðường Ðạo xuất bản năm 1885, và quyển Tiếng Nói Vô Thinh năm 1889. Mỗi tác phẩm đạo đức này đều có những đặc tính riêng. Chúng ra đời lâu hơn và có tính cách thi vị hơn quyển Dưới Chơn Thầy, dù quyển này cũng có vài câu tuyệt đẹp : điều ấy phải như vậy, vì tác giả là Ðức Thầy Kouthoumi. Ông . W. L. Tên quyển sách này đã được Bà Chánh Hội Trưởng (Annie Besant) của chúng ta chọn trong ba, bốn mươi tên khác được đề nghị. Lời đề tặng này cũng vốn của Bà viết cho chúng ta: Xin hiến dâng cho những người đến gõ cửa. Lời tượng trưng này thật rõ ràng: "Anh hãy gõ cửa, người ta sẽ mở cho anh; anh hãy đi tìm rồi anh sẽ gặp". Trong bài tựa Tiến Sĩ Annie Besant có nói rằng: Tôi được cái đặc quyền như một người chị cả, viết vài lời giới thiệu quyển sách nhỏ này, tác phẩm đầu tiên của một đứa em còn thơ, kỳ thật xác phàm em nhỏ, chớ không phải linh hồn em nhỏ đâu. Ðó là điểm rất quan trọng. Trong đời sống hằng ngày, ta còn nghĩ đến cõi Trần và kiếp sống hiện tại nên ta xét đoán tuổi theo thể xác, nhưng về mặt tiến hóa huyền bí, chúng ta xem xét tuổi theo Chơn Ngã, của Linh hồn chúng ta. Phải tránh sự xét đoán dựa theo bề ngoài, dù hầu hết mọi người trên Thế gian đều làm như vậy. Linh hồn trưởng thành một cách liên tục và khi nó tiến cao, nó thường bắt đầu biểu lộ sự tiến hóa của nó qua trí thông minh, sự cảm xúc và năng lực thần bí, dù cho xác thân hãy còn trẻ. Alcyone chắc chắn đã chứng tỏ điều đó qua sự tiến triển mau chóng của em. Em tuân hành đúng y những lời huấn thị, cho đến đỗi em thực hiện trong vài tháng những điều gì mà người thường cần phải để nhiều năm mới hoàn thành, vì đối với hầu hết những người chí nguyện, sự tiến hóa này bao hàm sự thay đổi toàn thể tánh tình. Từ đây, những trường hợp như thế sẽ gia tăng vì Ðức Chưởng Giáo sắp lâm phàm. Những vị đệ tử chính của Ngài phải là những người trẻ tuổi và cường tráng, chắc chắn có vài vị không lớn tuổi hơn Ngài. Vì bởi chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ đến, cho nên những người được chỉ định vào công việc đó hiện nay phải trẻ tuổi. Chắc chắn trong những đứa trẻ hiện nay sống với chúng ta, có những em sẽ giữ vai trò tiên phong, bởi vì trong số các em được diễm phúc đó có những em sẽ sinh vào một hoàn cảnh thuận tiện cho sự học hỏi của chúng, nghĩa là trong những gia đình Thông Thiên Học. Chuẩn bị cho sự bất ngờ như thế, chúng ta phải giữ sao cho bất cứ đứa trẻ nào chịu ảnh hưởng của chúng ta phải nghe nói việc Ðức Chưởng Giáo sẽ lâm phàm hầu nó biết cái khả năng mở ra trước mặt nó; nó sẽ nắm lấy cơ hội hay không, nhưng nó phải được báo tin trước. Thật đáng buồn cho bậc cha mẹ nào phải nghe đứa con trai hay đứa con gái của mình trách móc như sau: "Nếu cha mẹ nói cho con biết mấy việc này lúc con còn bé thơ thì con có thể nắm lấy cơ hội; nhưng cha mẹ đã để con trưởng thành mà không mảy may hiểu biết gì về điều đó; cha mẹ để cho con sống theo thế tục, nên khi cơ hội đến con đã bỏ qua". Chúng ta phải đưa cơ hội, như vậy chúng ta đã làm xong bổn phận, vì chúng ta không được ép buộc ai hết, ngay cả việc hoạch định một chương trình cho tương lai để chờ linh hồn khác, có thể là cao cả, tuân hành. Những lời giáo huấn trong sách vốn của Sư Phụ em truyền dạy, khi Ngài chuẩn bị cho em được Ðiểm Ðạo. Danh từ Ðiểm Ðạo thường được dùng với một ý nghĩa tổng quát, nhưng ở đây nó là một danh từ chính xác và chuyên môn. Trong những lúc đầu tiên chính là Bà Blavatsky cũng dùng nó một cách sơ xuất. Vì thuật ngữ của chúng ta ngày nay được xác định rõ hơn, nên danh từ Ðiểm Ðạo phải dành riêng cho những cuộc Ðại Ðiểm Ðạo, cho Năm Cấp Bậc trên Ðường Ðạo Chánh thức theo nghĩa cổ kính. Trong mấy tác phẩm đầu tiên của chúng ta, chúng ta nói về Con Ðường Nhập Môn, Con Ðường Ðạo Thật Sự và Thời Kỳ chính thức như là ba cấp bậc biểu thị sự tiến hóa của con người. Con Ðường Nhập Môn là Thời Kỳ Chuẩn Bị, nó đến trước một cuộc Ðiểm Ðạo (là lúc con người "Nhập Lưu") và nó sẽ chấm dứt khi vị đệ tử đắc quả Chơn Tiên. Bốn chục năm qua chúng ta đã nói về sự Ðiểm Ðạo trong Hội Thông Thiên Học; vả lại danh từ này đã dùng cho những nghi lễ của Hội Tam Ðiểm (Masonie) và trong những nghi lễ khác. Ta phải cẩn thận, đừng nhầm lẫn các cuộc Ðiểm Ðạo trên với những cuộc Ðại Ðiểm Ðạo của con đường Huyền Bí Học. Như người ta đã nói lúc đầu, thời kỳ chuẩn bị để được Ðiểm Ðạo chia ra làm nhiều giai đoạn tập sự liên hệ đến bốn đức tánh cần thiết được kể trong sách này là: Phân Biện, Ðoạn Tuyệt, Hạnh
    Kiểm Tốt và Lòng Từ Ái. Gọi các đức tánh này là cấp bậc thì không đúng cũng như nói về các cuộc Ðiểm Ðạo đem từ cấp bậc này qua cấp bậc kia kế tiếp nhau. Bốn đức tánh cần thiết đó không cần phải mở mang theo thứ tự chỉ định, thứ tự đã được kể ra trong các bản văn Ðông phương cổ kính, mà bổn phận chúng ta chắc chắn là phải hoạch đắc chúng một lượt. Ðối với người này một đức tánh nào đó có thể dễ dàng hơn đối với người kia. Ðức tánh Phân Biện được kể ra đầu tiên, vì nói tóm lại sự bước vào Ðường Ðạo của con người tùy thuộc vào nó. Các Phật tử gọi đức tánh Phân Biện là Manodvaravajjana hay là "Sự mở cửa Cái Trí." Nói cách khác, lần đầu tiên Cái Trí con người mở ra đặng biết rằng chỉ có sự kiện tinh thần mới là chơn thật, còn đời sống theo thế tục thường tình chỉ làm mất thì giờ thôi. Người Ấn Ðộ gọi đức tánh này là Viveka có nghĩa là Phân Biện. Người Công Giáo gọi nó là sự Hoán Cải (Conversion), một danh từ khác rất có ý vị, bởi vì nó nhập lại ý nghĩa của sự trở về và sự gặp gỡ. Hai danh từ này do chữ La Tinh Verto là tôi quay lại và Cum là với. Nó có nghĩa là con người từ trước đến nay đi theo con đường riêng của mình, không hề nghĩ đến Thiên ý; bây giờ biết được phương hướng của Thiên ý đã qui định cho dòng tiến hóa nên tự quay lại để tuân theo. Trong nhiều dòng Thiên Chúa Giáo, ý nghĩa của danh từ Hoán Cải bị biến tính : nó chỉ là trạng thái của chứng giựt gân hay loạn thần kinh; tuy nhiên, người ta còn tìm thấy ở danh từ đó ý niệm quay về và tuân theo Thiên ý. Ấy cũng là tư tưởng của vị Sứ Ðồ Thiên Chúa Giáo khi Ngài nói rằng: "Các ngươi hãy thương mến những việc ở trên trời, chớ đừng quyến luyến những việc dưới Thế gian". Nếu Ðường Ðạo có nhiều cấp bậc kế tiếp thì trong sự giao tiếp riêng tư giữa đệ tử và Ðức Thầy chuẩn bị cho y được Ðiểm Ðạo cũng có nhiều mức độ khác nhau được xác định. Chỉ có Quần Tiên Hội thừa lệnh Ðấng Duy Nhất Chí Tôn Cầm Quyền Ðiểm Ðạo là Ðấng Chúa Tể, và nhân danh Ngài, mới được phép Ðiểm Ðạo. Nhưng sự liên hệ giữa đệ tử và Sư Phụ của y vẫn có tính cách cá nhân. Ban đầu, người ta có thể chấp nhận làm Ðệ Tử Nhập Môn, kế đó làm Ðệ Tử Thiệt Thọ rồi bậc thứ ba làm Con Ðức Thầy. Ðó là những sự liên lạc riêng tư, ta không được lầm lộn nó với những cuộc Ðiểm Ðạo do Quần Tiên Hội tấn phong.Sự Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt là một cấp bậc chấp nhận con người làm một nhân viên của Quần Tiên Hội. Từ trước đến giờ người chí nguyện chưa thật sự đặt chân trên con Ðường Ðạo, nhưng y chuẩn bị cho công việc đó. Sự Ðiểm Ðạo này không phải là một sự tấn phong độc đoán; nó là sự chứng nhận một giai đoạn tiến hóa đã đạt được, giai đoạn mà ngày xưa người ta gọi là hợp nhất Bản Ngã Cao Siêu với Bản Ngã thấp hèn, sự liên hiệp giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn. Ai muốn làm thí sinh để được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt thì phải hoạch đắc những đức tánh cần thiết đã kể ra trong quyển này và y phải làm cho Phàm Nhơn thành ra sự biểu hiện của Chơn Nhơn. Không còn một Phàm Nhơn nào có thể bắt buộc Chơn Nhơn phải kính nể và có những ý muốn chống đối với những ý muốn của Chơn Nhơn còn mắc vào vòng luân hồi từ kiếp này qua kiếp kia. Sự thay đổi xảy ra lúc bây giờ được trình bày trong những đồ hình của quyển Con người hữu hình và vô hình. Thể Vía của người dã man hiện ra những màu sắc biểu lộ tất cả những tình dục thấp hèn; chu vi nó không đều đặn vì con người không kiểm soát được nó. Nhân Thể (hay Thượng Trí) và Hạ Trí không liên lạc nhau. Thượng Trí dường như trống rỗng, không màu sắc; còn Hạ Trí thì mở mang chút ít, nhưng chỉ mới bắt đầu liên lạc với Cái Vía. Thể Vía của người dã man dẫy đầy những cảm xúc và những dục tình phức tạp không liên hệ gì với trí khôn. Chúng không khiến y suy nghĩ; y không biết suy nghĩ là gì. Những sự đam mê hiện diện và lôi cuốn y. Trái lại, trong người tiến hóa, tất cả những thể này đều phối hợp chặt chẽ với nhau. Nhân Thể đầy đủ chớ không trống rỗng; tất cả những màu sắc khác nhau biểu lộ những đức tánh cao thượng đã được khai mở trong Thể này và Nhân Thể bắt đầu chiếu hào quang ra tứ phía để giúp đỡ kẻ khác. Hạ Trí cũng biểu lộ những màu sắc như thế, ít dày đặc hơn một chút nhưng vẫn đẹp; nó tiêu biểu cho Nhân Thể ở cõi thấp. Ðến lượt Thể Vía, nó phản ảnh Hạ Trí song có hơi đậm và dày hơn, vì cảnh giới của Cái Vía thấp hơn. Phàm Ngã của người dã man tự biểu lộ đủ thứ cảm xúc và dục tình mà Chơn Nhơn chắc chắn không tán đồng; nhưng ở người tiến hóa, chỉ có những cảm xúc mà Chơn Nhơn muốn có mà thôi. Y chọn lựa những cảm xúc thay vì chịu làm trò chơi cho chúng. Y nói: "Tình thương là một điều rất đẹp; tôi muốn lòng tôi rạt rào mến thương. Lòng Sùng Ðạo là một điều rất đẹp, tôi khao khát được lòng Sùng Tín. Lòng Thiện Cảm đẹp biết bao! Tôi muốn lòng mình đầy Thiện Cảm." Và y thực hiện điều ấy với tầm mắt mở rộng và có ý thức. Như thế những cảm xúc được đặt dưới sự kiểm soát của Hạ Trí là sự biểu hiện của Nhân Thể; như vậy chúng ta gần đạt đến chỗ hiệp nhất hoàn toàn Chơn Nhơn và Phàm Nhơn. Không nên tưởng có sự hiện diện của hai nhân vật trong con người. Không hề có một Phàm Nhơn nào hiện ra như một người độc lập, nhưng Chơn Nhơn cho tách rời một phần nhỏ nhít của Ngài để vào Phàm Nhơn đặng kinh nghiệm những làn rung động của những cõi thấp. Rồi Phàm Nhơn trở nên linh động hơn Chơn Nhơn nhiều vì nó ở trong giai đoạn mà nó có thể đáp ứng với những sự rung động đó; cho nên, nó quên rằng nó thuộc về Chơn Nhơn; nó dấn thân vào cuộc đời vì việc riêng của nó và hành động theo ý nó hơn là dưới sự điều khiển của Chơn Nhơn. Tuy nhiên, trải qua nhiều kiếp luân hồi, Chơn Nhơn trở nên mạnh mẽ. Thế rồi con người mới nhận ra Phàm Nhơn chỉ là sự biểu hiện của chính mình và mình là Chơn Nhơn còn phải luân hồi. Và mỗi lần Ngài muốn chỉ huy, thay vì vâng lời thì Phàm Nhơn vơ vẫn đi lạc đường và cần được kiềm chế. Ta có bổn phận phải đào luyện Phàm Nhơn thế nào để cho nó thành ra sự biểu hiện của Chơn Nhơn và chỉ của Chơn Nhơn thôi. Ðó chính là điều mà Ông Sinnett gọi là "Thề nguyền trung thành với Chơn Nhơn." Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có khuyên ta rằng: Người đệ tử phải hủy diệt Thể Nguyệt Tinh: tức là Thể Vía. Ðiều này không có nghĩa là sát hại Thể Vía, nhưng Cái Vía của chúng ta chỉ hiện hữu như là một sự biểu hiện của cái gì ở trên cao hơn nó và thay vì có những dục tình và những cảm xúc riêng biệt, nó sẽ chỉ phản chiếu những hình ảnh do Chơn Nhơn chọn lựa mà thôi. Ðiều kiện này phải đạt được trước khi được phép trình diện để được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt. Con người phải có sự kiểm soát Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí của mình; chúng phải là tôi tớ của Chơn Nhơn. Cái kỹ luật này đòi hỏi ở người thường một sự cố gắng lớn lao. Nhiều người nói: "Tôi không làm nổi điều đó đâu. Ðừng nói với tôi điều đó, vô ích". Như vậy là đem trình bày cho y một lý tưởng quá cao siêu một lần một. Trái lại, điều đó không phải là một sự cố gắng quá sức đối với những người đã nhiều năm tham thiền và suy gẫm về những vấn đề ấy. Thật ra, không phải dễ mà tiêu diệt lần hồi từ cái này đến cái kia không biết bao nhiêu dục tình và sự ham muốn, để khắc phục Cái Vía và Cái Trí. Ðó là công việc khó nhọc nhưng hết sức đáng cho con người ra công làm. Kết quả đạt được so với sự cố gắng sẽ vô cùng lớn lao hơn, dù đã cố gắng mãnh liệt đến đâu. Tự dọn mình đặng có thể phụng sự một cách thật hữu hiệu Ðức Chưởng Giáo là một sự khích lệ, một sự kích thích phụ vào công việc khó nhọc này. Những người được Ðiểm Ðạo không phải vì sự ích lợi riêng cho cá nhân họ, hoặc để tránh sự mệt nhọc và đau khổ ở Thế gian, mà để họ có khả năng cộng tác với Thiên Cơ cao cả. Trong đời sống con người, có vài sự thay đổi vô cùng quan trọng hơn tất cả những cái khác. Ðiều thứ nhất xảy ra lúc con người có cá tính, thoát kiếp thú và chuyển kiếp làm người để bắt đầu thực hiện Chơn Nhơn. Ðiều quan trọng thứ hai là được nhận vào hàng Chơn Tiên; khi được Ðiểm Ðạo lần thứ Năm, con người mới rời bỏ hàng ngũ nhân loại để bước vào giai đoạn siêu nhân. Ðó là mục đích dự định cho tất cả mọi người; đó là mục tiêu mà chúng ta phải cố gắng đạt được trong dãy địa cầu hiện nay. Khi thời kỳ này chấm dứt, người nào đã hoàn tất điều gì mà Trời đã muốn cho nhân loại, đã tuyệt đối tuân theo Thiên Ý về những điều kiện liên hệ với y thì sẽ được thoát kiếp làm người. Nhiều người trong chúng ta có thể đạt được mục tiêu đó trước thời gian kết thúc rất lâu. Trong khoảng thời gian giữa hai sự thay đổi này, có một việc thứ ba rất quan trọng, đó là: "Sự Nhập Lưu," khi được Ðiểm đạo lần thứ Nhứt. Thể thức được đọc khi thu nhận thí sinh vào Quần Tiên Hội có mấy lời này: "Bây giờ đây, luôn luôn con vẫn được an toàn; con đã nhập lưu; cầu chúc cho con, không bao lâu đây, sẽ qua tới bờ bên kia". Người Thiên Chúa Giáo gọi người Tân Ðạo Ðồ là người được "Cứu Rỗi" hay được an toàn. Ðiều đó có nghĩa là, trong triều lưu tiến hóa hiện tại, chắc chắn y không bị ở lại đàng sau; chắc chắn y không bị mất hàng ngũ trong ngày "Phán Xét" của cuộc Tuần Hoàn sau, như một cậu học trò bê trễ quá nên không theo kịp chúng bạn trong lớp. Người được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt, phải qua cuộc Ðiểm Ðạo lần thứ Nhì, lần thứ Ba và lần thứ Tư trước khi đến trình độ Chơn Tiên, tức là được Ðiểm Ðạo lần thứ Năm, và khi đạt được quả vị này Ngài hiệp nhất được Chơn Thần với Chơn Nhơn, cũng như trước đây Ngài hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn. Khi con người hoàn toàn hiệp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn rồi thì Phàm Nhơn không còn nữa, trừ phi nó là sự biểu hiện của Chơn Nhơn; bây giờ còn một việc tương tự như thế chờ đợi người Ðạo Ðồ một lần nữa, đó là làm cho Chơn Nhơn thành ra sự biểu hiện của Chơn Thần. Còn một giai đoạn khác giống như thế đang mở rộng ở phương trời xa thẳm chăng? Chúng ta không biết điều đó. Tuy nhiên chắc chắn khi đạt đến quả vị Chơn Tiên chúng ta sẽ thấy mở ra trước mắt một viễn ảnh hướng thượng vinh diệu hơn nhiều. Người ta thường hỏi sự cuối cùng của cuộc tiến hóa đang mở ra trước mắt chúng ta sẽ ra sao? Riêng tôi, tôi không biết nó sẽ chấm dứt hay không. Một hôm, một Ðại Triết Gia có nói: "Không thể nào quan niệm được sự tiến hóa có mức cuối cùng, mà cũng không thể nào quan niệm được sự tiến không có mức cuối cùng; nhưng trong hai lẽ đó phải có một cái đúng". Có người nói về nhập vào Ðấng Tối Cao: Chúng ta không biết gì về điều này. Chúng ta chỉ biết rằng Tâm Thức của chúng ta tiếp tục mở rộng; và phía trước nó, có nhiều mức độ mới lạ nối tiếp nhau, cao hơn trình độ chúng ta. Chúng ta biết rằng có thể tiếp xúc với cõi Bồ Ðề và Tâm Thức chúng ta mở ra rộng lớn vô cùng, chúng ta vẫn chính là chúng ta,đồng thời chúng ta thành ra những người khác và cao cả hơn. Kinh nghiệm này không hề cho chúng ta cái cảm giác rằng chúng ta đã mất cá tính rồi. Nhưng chúng ta có cảm giác đã mở rộng nó đến mức có thể gia thêm vào năng lực cảm xúc của chúng ta sự cảm xúc của những kẻ khác. Ai có thể đạt đến mức đó trong lúc tham thiền thì nên tiếp tục việc ấy. Nhờ sự khai triển không ngừng, Tâm Thức không ngớt mở rộng ra cho đến lúc bao trùm chẳng những nhân vật cực kỳ cao thượng mà cho tới những nhân vật thấp thỏi hơn nó; tuy nhiên, những nhân vật cực kỳ cao thượng vì dũng mãnh hơn và sử dụng được một năng lực ghê gớm, nên cảm biết trước hơn mấy người kia. Một sự khai triển Tâm Thức như thế vẫn tăng dần; người ta phải mở một con đường xuyên qua tất cả những cảnh thấp của cõi Bồ Ðề. Rồi chẳng bao lâu, người ta tập mở Kim Thân là Thể Bồ Ðề. Ấy là một thể mà con người có thể tùy ý sử dụng trên cao độ phi thường này, nơi đó các bầu Thế giới chỉ là một, nơi đó con người có thể vượt qua không gian mà không phải đi qua theo nghĩa thông thường như ta hiểu chữ này. Vì nhiều người trong chúng ta đã kinh nghiệm sự kiện ấy, nên chúng ta có quyền cho rằng trong tương lai Tâm Thức này cũng khai mở như thế. Chúng ta đã đạt được sự hiệp nhất mà không có cảm giác mất cá tính, cũng không bị chìm đắm trong biển cả sáng ngời, như lời của thi sĩ diễn tả. Trái lại, dường như cái biển cả sáng ngời nó tuôn tràn vào giọt nước. Ðúng thật là một quả quyết mâu thuẩn, nhưng cái đó là cảm giác đã nhận thức của người đã mở Bồ Ðề Tâm; cái Tâm Thức của giọt nước mở rộng ra và thành Tâm Thức của biển cả. Ðó là sự kiện đối với chúng ta như thế. Tại sao không giả sử rằng ngay bây giờ không có cái gì thay đổi trong phương thức đó? Ta không thể quan niệm được sự nhập vào một sự sống khác làm cho chúng ta mất Tâm Thức mà chúng ta phải dày công lắm mới hoạch đắc được. Tôi tin rằng Tâm Thức này sẽ mở mang cho đến ngày chúng ta hiệp nhất với Ðức Thượng Ðế, nhưng chỉ trong ý nghĩa mà Ðấng Christ đã nói: "Các con là những vị Thượng Ðế; tất cả các con là con của Ðấng Tối Cao." Chúng ta có thể nhìn lại cái quá khứ xa xăm của sự tiến hóa và chúng ta cũng có thể thấy được tương lai xa thăm thẳm ở phía trước. Do đó chúng ta có thể tin chắc vào tương lai, nó tiêu biểu hàng triệu năm hoạt động hữu hiệu trên những mức độ tuyệt diệu,nơi đó sự quang vinh, uy lực và tình bác ái không thể quan niệm nổi ở dưới Thế gian này. Chúng ta hãy xem xét vấn đề trên quan điểm chánh lý. Chúng ta hy vọng hiểu biết cách nào? Nếu hiện nay chúng ta có thể hiểu biết được mức cuối cùng của mấy điều đó thì nó quả là tầm thường lắm, không cân xứng với tất cả những giai đoạn xảy ra trước nó. Trí tuệ của chúng ta còn hạn hẹp, chúng ta không biết được giới hạn của nó ở đâu; phải thấy sự phát triển cao siêu, người ta mới bắt đầu hiểu rằng cái trí khôn mà con người rất hãnh diện thật chẳng ra gì cả, nó chỉ là một khởi điểm, là hạt giống của cái cây tương lai. Ðem so sánh với trí khôn mai sau thì hiện nay con người chỉ có Cái Trí của đứa trẻ con; quả thật là trí khôn của đứa trẻ con đầy hứa hẹn, vì nó đã hoàn thành nhiều công việc và có hy vọng nó sẽ hoàn thành nhiều hơn nữa. Nhưng, so sánh với Cái Trí của những Ðấng Cao Cả thì nó chỉ là Cái Trí của một đứa bé thơ thôi; như vậy nó không thể vươn lên đến chỗ thật cao mà cũng không thể xuống sâu đến chỗ thật thâm diệu, nên chúng ta không thể bảo nó hiểu được chỗ khởi thủy và chỗ cuối cùng. Về phần tôi, tôi thú nhận ngay với tất cả sự thành thật rằng tôi không biết được mục đích của Ðấng Tối Cao. Tôi chỉ biết một điều là Ngài có thật. Nhà Siêu Hình Học và Triết gia đã suy nghiệm thuần lý về vấn đề này, sự cố gắng làm phát triển rất nhiều Hạ Trí và Thượng Trí của họ. Những người nào thích tưởng tượng cứ suy tưởng, không có hại chi cả; nhưng tôi tưởng, họ phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những điều tưởng tượng. Các nhà Triết học không nên biến đổi những lý thuyết của họ thành ra hệ thống và mong mỏi chúng ta chấp nhận vì có lẽ đúng là họ đã bỏ qua nhiều yếu tố căn bản. Riêng tôi, tôi không suy luận thuần lý, khi cảm thấy rằng sự huy hoàng và sự vinh quang đang chờ chúng ta đã đủ, để thỏa mãn những khát vọng của chúng ta rồi. "Những điều gì mà mắt không thấy được, tai chẳng nghe được và cũng không sắp đặt sẵn trong lòng người, đó là những điều mà trời đã chuẩn bị cho những người mà Ngài Thương".[2] Ðó là chính sự thật hôm nay mà cũng là sự thật hồi hai ngàn năm trước. C. W. L. Lời tựa của Tiến sĩ Besant (hồi tháng 12 năm 1910), giải thích kế đó, cách Alcyone đã viết quyển sách.Và em viết thuộc lòng lại mấy lời này một cách chậm chạp và khó khăn, vì năm trước em chưa giỏi tiếng Anh như bây giờ. Một phần lớn cuốn sách vốn lập lại y nguyên lời của Chơn Sư, còn câu nào không phải lời của Ngài thì cũng là tư tưởng của Ngài do em diễn tả lại. Có hai câu bỏ sót, Ngài chữa lại. Trong hai chỗ khác, em quên một chữ, Ngài thêm vô. Trừ ra mấy điều đó, tác phẩm này hoàn toàn của Alcyone, ấy là món quà đầu tiên của em hiến cho đời. Riêng tôi, tôi có thuật lại câu chuyện xảy ra như thế nào trong quyển Chơn Sư và Thánh Ðạo. Cũng khá dễ mà thuật lại quyển sách nhỏ ấy được viết trong trường hợp nào. Mỗi đêm tôi có bổn phận phải dắt đứa trẻ này ở trong Cái Vía của nó đến nhà Ðức Thầy, để Ngài giáo huấn nó. Mỗi lần, Ngài để ra trong khoảng mười lăm phút đặng giảng dạy nó rồi khi mỗi bài chấm dứt Ngài tóm tắt những điểm quan trọng mà Ngài đã giảng, hoặc bằng một câu, hoặc bằng nhiều câu. Như thế Ngài làm ra một toát yếu rất dễ để em học thuộc lòng. Sáng mai, em phải nhớ lại rồi chép ra. Quyển Dưới Chơn Thầy gồm những câu tóm tắt lời giảng dạy của Ðức Thầy bằng những từ ngữ riêng của Ngài dùng. Krishnamurti chép lại hơi khó khăn những lời này, vì hồi đó em chưa giỏi tiếng Anh. Em thuộc lòng tất cả những bài này nên không lo ngại về số phần của những chú thích mà em đã ghi chép. Nhưng sau đó ít lâu, Krishnamurti đi Bénarès với bà Hội Trưởng của chúng ta, ở đó, em viết thơ về Adyar cho tôi, yêu cầu tôi thu thập và gởi cho em tất cả những câu ghi chú những lời Ðức Thầy đã dạy em. Tôi cố gắng xếp đặt lại thật rõ ràng những lời ghi chú này và đánh máy ra. Ðối với tôi, dường như một phần lớn những lời ghi chú đó chính là lời của Ðức Thầy. Tôi muốn thật chắc chắn không có sự sai lạc trong khi chép nên tôi đã đem dâng lên Ðức Thầy Kouthoumi những bản đánh máy và cầu xin Ngài vui lòng đọc lại tất cả. Ngài đọc và đổi một hoặc hai chữ ở chỗ này, chỗ kia, thêm vài chữ để liên kết và giải thích, và vài câu khác mà tôi nhớ có nghe Ngài đã nói. Rồi Ngài nói: "Phải, như vậy đúng; cái này được"; nhưng Ngài nói thêm: "Chúng ta hãy đem mấy tờ này trình lên Ðức Di Lạc". Và Ðức Thầy với tôi cùng đi, Ngài cầm bản thảo và trình lên Ðức Chưởng Giáo. Ðức Chưởng Giáo đọc và tán thành. Chính Ngài nói:"Huynh phải làm cho nó thành một quyển sách nhỏ xinh đẹp đặng giới thiệu Alcyone cho đời". Chúng tôi không hề có ý nghĩ giới thiệu Alcyone với Thế gian; và chúng tôi tưởng không đáng cho nhiều luồng tư tưởng tập trung vào một đứa bé mới mười ba tuổi đầu còn cần sự học hỏi và sự giáo hóa. Nhưng trong giới huyền bí, chúng tôi phải làm những gì người ta nói với chúng tôi, vì vậy quyển sách này được giao cho nhà in ngay buổi sáng hôm sau. Tất cả những sự phiền phức mà chúng tôi đã tiên kiến khi quyển sách nhỏ này được xuất bản sớm, đã xảy ra. Tuy nhiên Ðức Chưởng Giáo hữu lý và chúng tôi đã lầm, vì cái tốt đẹp do quyển sách đó mang lại đã vượt xa vô hạn những nỗi ưu phiền do nó đã gây ra cho chúng tôi. Thật thế, có hàng ngàn người viết thư cho chúng tôi biết rằng đời sống của họ đã thay đổi hoàn toàn và họ thấy mọi vật đều khác hẳn, chỉ vì đã đọc quyển sách ấy. Quyển Dưới Chơn Thầy đã được dịch ra hai mươi bảy thứ tiếng, xuất bản khoảng bốn mươi lần, hoặc hơn nữa và có trên một trăm ngàn quyển đã in ra. Qua trung gian của quyển sách này một công trình tuyệt diệu đã hoàn thành. Và trên tất cả, nó được Ðức Chưởng Giáo sắp lâm phàm đặc biệt cho phép ấn hành. Ðiều này đã tăng thêm giá trị của nó, bởi vì qua nội dung của quyển sách nhỏ này người ta có thể suy diễn được phần nào giáo lý của Ðức Chưởng Giáo. C. W. L. Bà Tiến sĩ A. Besant đã kết thúc lời nói đầu của quyển sách này bằng những lời cầu nguyện cho chúng ta như sau: Cầu xin tác phẩm này giúp ích cho kẻ khác, cũng như lời khẩu truyền đã giúp ích cho Alcyone. Chính vì cũng mong mỏi như thế, nên Alcyone mới đem truyền lại cho chúng ta. Nhưng mà những lời giáo huấn này chỉ có hiệu quả là khi nào người ta thật sự sống đúng theo nó, cũng như chính Alcyone từ khi được Thầy dạy đến giờ vẫn tuân theo luôn luôn. Nếu noi theo gương này, cũng như giữ vẹn lời giới răn thì độc giả sẽ bắt đầu bước vào Ðường Ðạo cũng như tác giả vậy. Trong khi duyệt lại quyển sách, Tiến sĩ Besant nói rằng: "Thật ít khi thấy những lời lẽ tương tự, lời giáo huấn trực tiếp có tính cách triết lý như thế, và được diễn tả một cách tuyệt diệu lại đem giảng dạy cho đời". Vì vậy, thật đáng cho chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng từng lời. Chỗ khởi đầu quyển sách, trước lời tựa của Alcyone, chúng ta gặp lời cầu nguyện xưa, do từ tiếng Phạn dịch ra. [3] Xin dắt tôi từ cõi giả đến cõi chơn. Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi sáng suốt. Xin dắt tôi từ sự chết đến sự trường sinh bất tử. Trong trường hợp hiện tại, chữ "Chơn" có thể bị hiểu lầm. Khi dùng chữ "Chơn" và chữ "Giả" chúng ta muốn nói rằng cái này có một sự hiện tồn xác thực, còn cái kia thì không có. Ðối với chúng ta chữ "Giả" chỉ có nghĩa hư ảo, tưởng tượng. Nhưng người Ấn Ðộ không bao giờ hiểu nghĩa chữ này như thế. Có thể chúng ta hiểu theo một ý nghĩa gần đúng ý nghĩa họ quan niệm, khi chúng ta nói rằng: "Xin dắt tôi từ cõi vô thường đến cõi Trường Tồn bất diệt." Nói rằng các cõi thấp như cõi Hồng Trần, cõi Trung Giới và cõi Thượng Giới là giả, thường sẽ gây ra nhiều sự lầm lẫn lớn lao.Chúng nó không phải là giả khi mà chúng nó còn tồn tại ở mức độ của chúng nó. Những vật hữu hình dường như quả có thật, khi chúng ta ở cõi Hồng Trần, nhưng khi chúng ta ngủ, chúng ta dùng tâm thức của Cái Vía thay vì tâm thức của Xác Thân, chúng ta không thể thấy đồ vật này nữa, bởi vì chúng ta đã đi qua cõi cao hơn. Vì lẽ đó, đôi khi người ta gọi chúng nó là giả, nhưng người ta cũng có thể gọi cõi Trung Giới là giả vì khi ở cõi Trần, chúng ta không thấy đồ vật ở cõi Trung Giới. Ðồ vật ở hai cõi luôn luôn vẫn hiện diện và thấy được đối với người mà tâm thức đã hoạt động trong cả hai cõi ấy. Theo sự hiểu biết của chúng ta, mọi sự biểu hiện đều vô thường; chỉ có cái "Không Biểu Hiện" là tuyệt đối và thường hằng [4] mà thôi. Một ngày kia, mọi sự biểu hiện, ngay cả những sự biểu hiện ở những cõi cao, sẽ trở về với cõi vô thủy vô chung. Như thế sự khác biệt giữa cái mà chúng ta gọi là vô thường với những cõi cao siêu này chỉ là vấn đề thời gian thôi, và thời gian đó so với Trường Tồn Bất Diệt thì nó không có nghĩa gì hết. Vậy cõi Hồng Trần cũng vẫn thật như cõi Niết Bàn và cũng như cõi Niết Bàn nó vẫn là sự biểu hiện của Thượng Ðế. Do đó, chúng ta không nên tưởng rằng trong hai cõi ấy, có một cõi thật, còn cõi kia chỉ là ảo mộng hay là huyễn tưởng thôi. Còn một lý thuyết khác vẫn thường cho rằng vật chất là xấu. Không phải xấu đâu. Vật chất cũng như Tinh thần, cả hai đều là biểu hiện của Ðức Thượng Ðế; cả hai đều thuộc về Ngài; chúng nó chính là hai trạng thái của Ngài mang. Vật chất thường gây chướng ngại trên đường tiến hóa của chúng ta, nhưng khi nào sử dụng nó làm chậm trễ bước tiến hóa của chúng ta. Cũng như việc người ta bị dao cắt mà cho rằng tất cả những dao đều xấu. Theo sự uyển chuyển của tiếng Phạn, chúng ta có thể dịch lời cầu nguyện thứ nhất như sau: "Xin dắt tôi từ cái giả đến cái Thật"."Chơn," "Thường","Thật" cái nghĩa dường như gồm cả mấy điều đó. Vậy thì lời cầu nguyện của chúng ta có nghĩa rõ hơn như thế này: Xin dắt tôi từ ngoại giới, là nơi ảo ảnh lớn lao hơn hết đến nội tâm, là nơi gần kề chân lý tuyệt đối. Lời cầu nguyện thứ nhì là: "Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi Sáng Suốt." Dĩ nhiên, đây là từ chỗ tối tăm của sự dốt nát đến ánh sáng của sự hiểu biết. Lời cầu nguyện này dâng lên Ðức Thầy. Chúng ta cầu xin Ðức Minh Triết của Ngài soi sáng chúng ta. Bên Ấn Ðộ, câu này còn có nghĩa thứ hai thêm vô nghĩa thứ nhất. Thiết tưởng chúng ta cầu xin Ðức Thầy dắt chúng ta đến sự hiểu biết các cõi cao siêu. Chúng ta cũng tìm thấy ở đó tư tưởng thật đẹp được diễn đạt trong vài quyển sách xưa rằng: Ánh sáng của cõi dưới là sự tối tăm của cõi cao kế đó. Ðó là một Chân lý tuyệt diệu. Cái mà chúng ta gọi là ánh sáng dưới Trần thế thì đục và mờ so với ánh sáng của cõi Trung Giới và đến lượt ánh sáng của cõi này lại yếu hơn ánh sáng của cõi Thượng Giới. Thật rất khó mà tìm những lời lẽ diễn tả sự dị biệt này, vì mỗi lần trong tâm thức quí bạn vượt lên một cõi cao, quí bạn lại cảm giác nhận thức được một cái gì cao siêu phi thường hơn tất cả những gì mà trước kia quí bạn chưa từng biết, quí bạn thấy uy lực tăng gia, ánh sáng tăng gia, phúc lạc tăng gia. Một người tâm thức thật mở mang tự nhủ: "Hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới hiểu Sự Sống thật sự là gì, và sự huy hoàng của mấy điều đó". Vậy mỗi cõi đều cao hơn cõi dưới kế nó, điều này không thể so sánh được cho đến đổi từ cõi Trung Giới trở về cõi Trần thì dường như người ta đi từ ngoài ánh sáng mặt trời vào ngục tối vậy. Khi một người có thể hoạt động một cách có ý thức trên cõi Thượng Giới, y sẽ có thể phát triển trong nhiều phương hướng vô cùng cao hơn những điều y đã biết tại cõi Trung Giới. Khi y tiếp xúc Tâm Thức Bồ Ðề, lần đầu tiên y mới vừa cảm biết cách Thượng Ðế xem coi vạn vật. Ðó chính là sự tiếp xúc đầu tiên với Thượng Ðế, một ý niệm đầu tiên về cách thế của "Ðấng Vô Sở Bất Tại" cảm biết vũ trụ của Ngài tạo ra. Người ta nói về Ngài như vầy: "Sự sống của chúng ta, sự hoạt động của chúng ta, bản thể của chúng ta vốn ở trong lòng Ngài" [5] và một câu nữa: "Vạn vật đều do Ngài sinh ra và thuộc về Ngài". [6] Ðây không phải chỉ là một lời nói đẹp đẽ và có thi vị mà chính là sự biểu hiện của một sự việc. Có một Ðơn vị cực kỳ vinh quang, không phải chỉ là một nhóm Huynh Ðệ mà thật sự là một Ðơn vị; khi chạm phớt qua nó, người ta bắt đầu hiểu một cách mơ hồ điều mà Thượng Ðế cảm thấy khi Ngài nhìn xem Vũ Trụ của Ngài và nói: "Cái đó thật tốt". Như thế chúng ta cầu xin được dắt từ chốn tối tăm ngự trị ở các cõi thấp đến ánh sáng của Tâm Thức cao siêu là ánh sáng tương phản với sự tối tăm. Không có danh từ nào thích hợp hơn, không có tiếng nào đủ khả năng diễn đạt cảm nghĩ của chúng ta đúng hơn. Sau hết chúng ta lại nguyện rằng: "Xin dắt tôi từ sự chết đến sự Trường Sinh Bất Tử ". Câu này không có nghĩa như người mới mộ Ðạo hiểu, vì người Thông Thiên Học không xem sự tử vong như một người chưa khảo cứu vấn đề này: thái độ của y phải thật trái hẳn. Sự chết không có gì đáng sợ; nó không phải là Bạo Chúa của những sự khiếp đãm, nhưng đúng hơn nó là một vị Thiên Thần mang chìa khóa vàng đến mở cửa vào một đời sống cao cả hơn và nhiệt liệt hơn. Ðành rằng chúng ta luôn luôn luyến tiếc những người quá vãng, nhưng sự luyến tiếc này chỉ nhắm vào việc: "Nắm một bàn tay tan ra mây khói, nghe âm thanh của một tiếng nín lặng". Khi chúng ta cầu xin được dắt từ sự chết đến sự Trường Sinh Bất Tử, ý tưởng của chúng ta không phải như ý tưởng của một người Thiên Chúa Giáo sống mãi trong sự Trường Tồn với bản ngã hiện hữu của y, dưới hình thức này hay dưới hình thức khác. Tuy nhiên, chúng ta cầu mong thoát khỏi sự chết và người bạn keo sơn của nó là sự tái sinh. Cái điều chờ đợi con người, ấy là chu kỳ của sự tiến hóa, những người Phật Tử gọi là Sansâra, có nghĩa là Bánh xe của sự sống. Lời cầu nguyện ở đây có nghĩa là: "Xin dắt tôi từ vòng sinh tử đến sự Trường Sinh Bất Tử - đến đời sống vượt lên trên sự sinh và sự tử, nó không cần phải xuống những cõi thấp nữa, vì sự tiến hóa của nó trong con người đã chấm dứt và nó đã học hết những gì mà vật chất đã dạy nó. Thường thường người ta không ngờ đến điều này là ý niệm đó cũng chiếm một địa vị quan trọng trong những Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo hiện đại phải chịu vài ám ảnh (tôi không nghĩ rằng người ta có thể gọi chúng bằng danh từ nào khác hơn), mà một trong những ám ảnh đó là tư tưởng ghê tởm về một địa ngục đời đời kiếp kiếp. Tín ngưỡng này đã rải một đám mây mù vô lý, vô nghĩa trên một loạt giáo lý khác. Trong toàn thể của nó, thuyết Cứu rỗi Linh Hồn xuất hiện có nghĩa là nhằm cứu vớt Linh Hồn ra khỏi cái địa ngục hão huyền đời đời đó. Ý nghĩa thật khác lắm. Thiết tưởng tất cả những đoạn sách nói về địa ngục đời đời kiếp kiếp dường như không thể hiểu được đã trở thành sáng tỏ và minh bạch, khi mà người ta hiểu được rằng thật ra con người được cứu rỗi vì Ðức Chúa sinh ra trong lòng nó. Ðấng Christ thường nói về con đường rộng rãi đưa đến sự chết chóc hay là sự tàn phá mà nhiều người đã đi theo nó. Một hôm, người đệ tử của Ngài đến hỏi Ngài: "Bạch Chúa, phải chăng chỉ có một số ít người được cứu rỗi mà thôi"? Ngài đáp rằng: "Cánh cửa vẫn chật hẹp và con đường dắt đến sự sống vẫn eo hẹp, rất ít người tìm được nó". Những lời tuyệt diệu và hoàn toàn đúng này, người ta thường giải thích rằng nó có nghĩa là đa số nhân loại sẽ bị ném vào một địa ngục đời đời kiếp kiếp, còn một thiểu số sẽ được lên Trời. Thật là hết sức kỳ cục mà gán cho Chúa ý tưởng này. Ý của Chúa hoàn toàn minh bạch. Các đệ tử hỏi Ngài có bao nhiêu người theo con đường dẫn đến sự Ðiểm Ðạo? Ngài trả lời: "Ít lắm", lời Ngài vẫn đúng đối với ngày nay cũng như đối với thuở xa xưa đó. Khi Ngài nói rằng: "Con đường dắt đến cõi chết thì rộng rãi và nhiều người theo nó", là Ngài đã nói đến con đường dắt đến sự sinh tử luân hồi. Dĩ nhiên, quả thật đó là con đường rộng rãi và dễ đi biết bao! Cách tiến hóa ấy không mệt nhọc chút nào và những người đi theo đường đó sẽ đạt được mục đích khá dễ dàng . . . có lẽ hết cuộc Tuần Hoàn thứ bảy. Nhưng cánh cửa chật hẹp và con đường eo hẹp, lại dẫn đến sự Ðiểm Ðạo và cõi Trời. Khi Ðấng Christ nói về Cõi này, Ngài không hề muốn nói đó là cõi Thiên Ðàng hay trạng thái sau khi chết hay dévakhane, mà luôn luôn Ngài đề cập đến một nhóm người đã được cứu rỗi hay một đoàn thể được tuyển chọn, tức Quần Tiên Hội vậy. Khi Ngài nói về điều kiện của kiếp sống giữa sự chết và sự tái sinh, chúng ta thấy Ngài dùng những từ ngữ khác. Quí bạn hãy nhớ lại một đoạn văn của Thánh Jean như sau: "Và đây này, một đám đông người, không ai đếm được, thuộc mọi quốc gia, mọi bộ lạc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước Ngôi Chúa và trước con chiên con, mặc áo dài trắng và cầm trong tay những vòng chiến thắng". Khi tác giả đề cập đến bên kia cửa tử, Ngài nói với chúng ta về một đám người đông đảo, vô số, chớ không phải một nhóm ít người chịu khó khăn lắm mới tìm được con đường của họ. . W. L. Bây giờ chúng ta đi đến lời tựa của chính Alcyone. Mấy lời này chẳng phải của tôi, ấy là lời của Sư Phụ tôi đã dạy tôi. Không có Ngài, tôi chẳng làm gì được, nhưng nhờ Ngài giúp, tôi mới bước vào Ðường Ðạo. Alcyone cho rằng sự tiến hóa của em hoàn toàn nhờ ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Sư Phụ em. Chúng ta cũng dự vào một phần lớn sự giúp đỡ mà em đã nhận được, vì chúng ta có những lời trong sách, nghĩa là lời của Ðức Thầy. Nhưng sự giúp đỡ lớn lao bằng sự hiện diện và sự dìu dắt của Ngài cũng sẵn sàng chờ đợi mỗi người trong chúng ta. Sự thật này phải khắc sâu trong tâm trí chúng ta; chúng ta phải tin tưởng vào nó như tin tưởng vào một sự kiện tuyệt đối chắc chắn: Tất cả những ai muốn chuẩn bị như Alcyone đều sẽ được giúp đỡ. Anh cũng vậy, anh muốn bước vào Ðường Ðạo này thì những lời của Sư Phụ tôi sẽ hữu ích cho anh. Nếu anh tuân theo. Nói rằng mấy lời đó chơn chánh và tốt đẹp chưa phải là đủ. Người nào muốn thành công thì phải thực hành đúng theo lời chỉ giáo. Một người đang đói xếp ve nhìn một món đồ ăn rồi nói "ngon quá" thật vô ích với y. Y phải đưa tay lấy và ăn. Cũng thế, nghe những lời dạy của Ðức Thầy chưa phải là đủ; phải thực hành những điều Ngài nói, chăm chỉ theo từng tiếng, từng dấu. Nói rằng: " Tôi sẽ làm theo tất cả những lời dạy trong sách" cũng chưa đủ. Lời giáo huấn phải thấm nhuần trọn vẹn đời sống của chúng ta. Phải canh chừng những cơ hội thuận tiện. Mấy câu thơ ở đàng sau chót quyển sách diễn tả thật rõ rệt ý muốn đó: Chờ đợi tiếng nói Chơn Sư, Rình xem ánh sáng ẩn tàng, Lắng nghe hầu biết được mệnh lệnh của Ngài, Dầu ở giữa chiến trận. Chú ý từng nét dấu nhỏ nhít của Ngài, Trên đám đông quần chúng, Nghe tiếng thì thầm của Ngài, Xuyên qua tiếng ca hát vang rền của quả đất. Ai ước nguyện làm đệ tử Chơn Sư thì phải luôn luôn lắng nghe lời Thầy ở giữa những tiếng ồn ào, hỗn loạn và cuồng nhiệt của cuộc tranh đấu sinh sống. Phải nỗ lực tìm cơ hội để thực hành bất cứ lời dạy nào của Ngài. Chung qui không phải thật là khó khăn đâu; một phần lớn chính là vấn đề thói quen. Chỉ có bước đầu là đáng kể. Khi bước thứ nhất xong rồi thì thói quen đã có; rất dễ cho chúng ta giữ chừng không bỏ cuộc, chẳng khác nào một người kia trong việc kinh doanh tìm cơ hội để kiếm lợi. Người đó có lý mà giữ một thái độ chờ đợi; vì nếu y lo lắng công việc làm ăn thì y phải giữ cho trọn vẹn bổn phận của y, nhưng nếu y ra sức giải quyết những việc tạm thời thì chính chúng ta cũng rất có thể áp dụng một sự cố gắng như vậy đối với những vấn đề của đời sống cao siêu. Ai muốn được quỳ dưới chân Ðức Thầy thì rất cần phải được hiểu rõ ý muốn củaNgài. Thái độ đó là kết quả của sự đọc sách Thông Thiên Học. Chỉ có thái độ đó mới là mục đích thật, vì Thông Thiên Học là một lối sống thật sự phải noi theo, chớ không phải là một hệ thống giáo lý chỉ để cho chúng ta học hỏi mà thôi. Vậy chúng ta phải cố gắng sao cho quan điểm của chúng ta phù hợp với quan điểm của Ðức Thầy, mà không hề có sự cưỡng bức nào cả. Không ai trong chúng ta hành động thật khôn ngoan khi thừa nhận quan điểm nào đó chỉ vì nó là quan điểm của Ðức Thầy mà không hiểu vì sao mà Ngài đạt được quan điểm đó. Chúng ta thừa nhận quan điểm của Chơn Sư mà không có sự nguy hiểm nào cả, vì sự hiểu biết của Ngài vượt xa vô cùng kiến thức của chúng ta. Nhưng Ngài không muốn điều đó. Tư tưởng của Ngài phải thuyết phục được trí khôn của chúng ta, chớ không phải chỉ ảnh hưởng đến tình cảm mà thôi. Ðiều cần thiết trước nhất là phải tin chắc rằng những điều ấy quả có thật, trường tồn và tối quan trọng. Người Thiên Chúa Giáo bậc trung nói rằng quả thật những điều vô hình quan trọng hơn hết, còn những việc hữu hình là giả tạm. Y tin như vậy nhưng không hề làm in như điều y đã tin tưởng. Tại sao vậy? Bởi vì y không chắc chắn những điều đó có thật. Tại cõi trần, y chắc chắn rằng tiền bạc có những lợi ích và càng kiếm được tiền, càng tốt cho y. Y ít tin rằng những chuyện tinh thần có thật, chúng thuộc về loại đề mục mà y gọi là "Tôn Giáo". Theo y dường như không chắc chắn, không có tính cách thực dụng và hiển nhiên, thích hợp với công việc của đời sống thường ngày. Chúng ta đang tìm cách tiến tới trong địa hạt tinh thần, chính chúng ta phải đưa tính cách thực dụng này, sự chính xác tuyệt đối và minh bạch này vào giới vô hình. Ông Sinnett đã nói trong tác phẩm Thông Thiên Học đầu tiên của ông như sau: "Ðối với quí vị, những điều này phải thật như Thập Tự Giá". Ðiều này rất đúng, chúng phải quen thuộc với chúng ta như những điều chúng ta thấy hàng ngày. Chúng có thể trở nên như thế, hoặc do sự suy luận, hoặc do trực giác, nhất là do kinh nghiệm trực tiếp. Khi trong trí ta tin chắc rằng việc nào đó phải có thì nó trở thành một sự xảy ra có thật đối với chúng ta. Chắc chắn đó là một ưu điểm mà sinh viên kỳ cựu hơn một sinh viên còn trẻ tuổi. Dù những người mới có nhiệt tâm đến đâu đi nữa, những người kỳ cựu cũng vẫn có đủ thì giờ làm cho ý niệm này thành ra một phần cốt yếu của đời sống họ và đồng hóa nó lần hồi, từ chút này đến chút kia. Như một thi sĩ đã nói: "Sự hiểu biết vượt lên cao, từ sự tiến bộ này đến sự tiến bộ khác". Có vài người trong chúng ta vừa nghe nói đến những sự kiện cao siêu thì liền hoàn toàn tin chắc rằng chúng nó quả có thật; cái trực giác tốt đẹp đó vốn do nghiệp quả lành của họ đã gây ra từ những tiền kiếp. Tuy nhiên đối với phần đông số phần ít may mắn, thì rất cần sự phát triển liên tục lâu dài. Thật ra một người có thể gia nhập Hội Thông Thiên Học đã ba mươi năm rồi mà không hiểu biết gì hơn lúc y mới vào. Thật đáng buồn vậy, vì mọi cơ hội tốt đều trôi qua rồi. Trái lại, đối với người không ngớt suy nghĩ về Thông Thiên Học và sống theo nó đều cảm thấy lần lần có một sự tin chắc. Những kinh nghiệm của đời sống và những tư tưởng về những vấn đề đó lần lượt đem đến cho chúng ta nhiều bằng chứng để cho chúng ta thấy rằng những việc ấy vốn hiển nhiên. Trong nhiều trường hợp, những tư tưởng Thông Thiên Học ban đầu dường như phức tạp và khó hiểu, nhưng về sau chúng trở nên giản dị và dễ dàng; chúng biến thành một thành phần của chúng ta. Một đứa trẻ tập viết một trương, nó rất hãnh diện nếu nó không phạm một lỗi nào, nhưng về sau, nó cũng chép một trương như vậy mà không cần để ý đến nữa, nó đã có thói quen rồi. Trong thời gian mà chúng ta còn cần phải cố gắng để hiểu biết thì chúng ta chưa thật hiểu được giá trị của những tư tưởng Thông Thiên Học. Một ngày kia, chúng sẽ trở thành một sức mạnh trong đời sống của chúng ta. Kinh nghiệm cá nhân đem lại chắc chắn những sự tiến bộ dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn; trong chúng ta, rất ít khi chúng ta không có sự kinh nghiệm nào cả. Về phương diện này, một ít hiểu biết trực tiếp cũng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng không phải tất cả cái còn lại là thật cả, nhưng mà nó rất có thể đúng. Riêng về phần chúng ta, chúng ta nhận thấy một phần giáo lý chúng ta đã học phù hợp với Chân lý, nên chúng ta chấp nhận phần còn lại cũng có thể đúng. Khi toàn thể triết lý kết hợp với nhau, thì có lẽ đúng đó sẽ chắc chắn cho đến nỗi nó trở thành sự thật.
    quyển này dài quá mình chưa post hết một lần được.
    sóng xóa đi rồi...

  12. #12

    Mặc định

    :big_hug:@Bạn Chanphuong tha hồ đóng góp vì mình cũng là 1 thành viên của TGVH thôi.
    Nhưng xin góp ý chút: tài liệu TTH tuy rất hay nhưng thường rất dài, nếu không biên tập lại chút về hình thức thì không hấp dẫn người đọc.
    Bạn nên đọc và ngắt dòng xuống hàng, tô đậm tiêu đề đầu đoạn văn, gạch đít nếu có thể
    Món ăn ngon nhưng trình bày không tươm tất, nghệ thuật thì người ta thường ngán trước khi ăn. Đây cũng là kinh nghiệm cá nhân và cũng tránh làm nãn lòng người đăng lẫn người đọc:nerd:

  13. #13
    Nhất Đẳng Avatar của chanphuong
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    những ngọn đồi
    Bài gởi
    1,068

    Mặc định

    hihihi mình cũng sợ post dài thế này không biết có ai đọc cho không, vì bây giờ thấy mấy bạn vào nói chuyện spam là nhiều và để lại lại những điều thâm sâu thì ít, vậy nên có những topic như bạn thật là quý giá :):votay:

    quyển này mình đang vừa đọc vừa post, mình sẽ chỉ post những gì đã đọc thui hug007
    ____

    Giảng Lý Dưới Chân Thầy Tác giả: ANNIE BESANT & C. W. LEADBEATER

    (tiếp theo)
    Nếu không chú ý đến một dấu và bỏ qua một tiếng, thì dấu đó và tiếng đó mất biệt vì Chơn Sư không nói đến hai lần.
    A. B. Nhiều người không thể hiểu rằng những kẻ không ngớt nghe lập đi lập lại những chân lý là những người không hiểu biết gì hơn những người còn ở ngoài đời. Và Chân lý Thông Thiên học không cảm họ được, nếu họ không cố tâm tuân hành. Nên chú ý, tôi không nói: nếu họ không tuân hành - mà tôi nói: nếu họ không cố tâm tuân hành. Chính là sự cố gắng bền bỉ vốn cần thiết mà nhiều người trong chúng ta lại thường hay quên. Thật thế, Chơn Sư không nói hai lần. Ngài đưa ra một tư tưởng, nếu nó không được tiếp nhận thì Ngài không nhấn mạnh nó. Ngài không lập lại điều Ngài đã nói. Chỉ có những đệ tử của Ngài, vì phải kể đến những điều kiện của Thế gian nên cứ lập đi lập lại cả trăm lần những điều họ đã nói cho đến khi chúng sinh ra được một cảm tưởng. Nếu bạn được nhận làm Ðệ Tử chánh thức, Ðức Thầy sẽ không bảo bạn thực hành việc gì mà bạn không thể làm được. Nếu bạn bỏ qua một huấn lệnh của Ngài đưa ra cho bạn, Ngài sẽ không đưa ra cho bạn một huấn lệnh nào nữa đâu. Ðiều đó không phải vì Ngài không nhân từ, nhưng bởi Ngài không có thì giờ để lãng phí. Ngài có không biết bao nhiêu công việc phải làm. Tất cả giáo lý này đem truyền cho Alcyone vì em đã làm việc nhiều và không ngớt.[7] Chỉ có những ai ý chí cứng cỏi, không sờn lòng mới đến gần Ðức Thầy được. Tôi biết điều đó. Chính là sự cố gắng bền bỉ và không bỏ cuộc này mà nhiều người trong chúng ta cho là khó khăn, nhưng đó là điều cần thiết và nếu không làm nổi, bạn không thể nào bước vào Ðường Ðạo được. C. W. L. Chúng ta là những người đi theo Ðức Thầy và cố gắng hoàn thành một phần công việc của Ngài ở ngoài đời, chúng ta luôn luôn phải nói hai lần; chúng ta luôn luôn lập lại những thông điệp khác nhau đã được giao phó cho chúng ta, vì những người nghe vốn vô tư lự hay lơ đãng. Chỉ khi nào một người được giao thiệp với Chơn Sư mới xem như là không thờ ơ nữa; vậy một lời nói khéo léo, bóng bẩy cũng đã đủ cho y rồi và chắc chắn nó không được lập lại, nếu nó không được tiếp nhận; không phải Chơn Sư kiêu hãnh, tự phụ, nhưng vì đệ tử chưa sẵn sàng. Phải hiểu cách thức Chơn Sư đào tạo đệ tử. Một mạng lệnh trực tiếp của các Ngài đưa ra rất hiếm có. Cách đây đã lâu, khi tôi được vào hàng Ðệ Tử nhập Môn, câu hỏi đầu tiên của tôi là: "Bạch Sư Phụ! Con phải làm gì"? Ðức Thầy đáp: "Con hãy tự kiếm lấy điều đó"; rồi Ngài giải thích: "Thầy biết chắc chắn rằng nếu Thầy ra cho con một mệnh lệnh thì con sẽ vâng lời ngay, nhưng trong trường hợp đó con chỉ nhận được quả của một sự vâng lời mau lẹ và tức khắc, nhưng nghiệp quả của việc làm sẽ về phần Thầy.Thầy muốn nó thuộc về phần con. Thầy muốn con làm những việc lành và tạo nghiệp lành. Ý kiến phải phát sinh từ nơi con chớ không phải từ nơi Thầy". Rất ít khi các Ðấng Cao Cả cho những mệnh lệnh trực tiếp; nhưng thường thường do một lời nói của Ðức Thầy hoặc một cái nhìn của Ngài cũng đủ cho người ta đoán được Ngài bằng lòng cách hành động nào đó hay không. Những người ở chung quanh Ngài (đặc biệt nhất là trường hợp của Ðức Thầy Kouthoumi) tập lưu ý đến sự nhận xét ấy, họ luôn luôn chú ý. Ðức Thầy Morya là vị Vua trong giai đoạn đầu của kiếp hiện tại, nên thường Ngài nói với một giọng oai quyền của một vị Hoàng Ðế. Ngài thường ra lệnh trực tiếp và Ngài tỏ ý không bằng lòng với những lời lẽ rõ rệt. Ðức Thầy Kouthoumi hầu như không bao giờ tỏ ý không bằng lòng; các đệ tử của Ngài tập đoán ý Ngài bằng cách nhìn của Ngài, bởi vì ít khi Ngài khiển trách. Ðó là lý do tại sao các đệ tử ở trong tình trạng chờ đợi đặng nghe lời Ngài dạy dỗ họ. Khi nhận được chỉ thị của Ðức Thầy, họ cố gắng tuân theo, bởi vì họ biết rằng nếu họ xao lãng, thờ ơ thì chỉ thị đó sẽ không được lập lại. Sự không tiếp nhận chỉ thị này không hề bị khiển trách, chỉ có người đệ tử bị thiệt thòi, vì y không nhận được chỉ thị mới trong một dịp khác. Trong quyển Chơn Sư và Thánh Ðạo, chúng tôi có trình bày rằng các Ðấng Chơn Sư đào tạo đệ tử các Ngài bằng nhiều cách khác nhau tùy theo Cung của họ và loại công việc họ phải đảm đương. Trên con đường của Ðức Bàn Cổ và Ðức Morya thì có những người Kshattriya (Sái-đế-lỵ), tức là hạng người có uy quyền như Thẩm phán, Luật gia, Quân nhân, Chính khách. Trên con đường của Ðức Bồ Tát và Ðức Thầy Kouthoumi thì có những người thuộc về hạng Brahmana (Bà-la-môn), tức là các Huấn luyện viên, các nhà Truyền giáo, các nhà Cải cách. Ngoài ra còn năm Cung lớn khác mà mỗi Cung đều có đặc tính riêng biệt. Một vị Ðế Quân ít nhất Sáu lần Ðiểm Ðạo cai quản mỗi Cung, dưới Ngài có nhiều Ðức Thầy khác. Như thế, chẳng hạn như Cung thứ hai, một vị đệ tử không cần thiết phải làm đệ tử Ðức Thầy Kouthoumi; y có thể trực thuộc Ðức Thầy Djwal Koul C. W. L. Những tác phẩm Ðông phương nói với chúng ta rằng có đến bốn nẻo chánh có thể dắt con người đến Con Ðường Nhập Môn. Các sách ấy nói thêm rằng sự thay đổi mục tiêu là thường do nhóm người đã bước vào Ðường Ðạo rồi. Các vị ấy khai sáng cho người đời thấy sự vinh quang và sự huy hoàng của Con Ðường Ðạo cũng như sự cần thiết phải theo đuổi nó. 1) Ảnh hưởng của một vị Cao Ðồ không bị giới hạn trong lời nói của người thốt ra, cái gây ra một ảnh hưởng mạnh mẽ như thế, chính là sự rung động của sự sống chiếu tỏa ra chung quanh Người. Sự kiện này được hoàn toàn công nhận ở Ấn Ðộ là nơi có nhiều vị Ðạo Sư khác nhau, từ hạng cao đến hạng thấp, có quyền năng nhiều hay ít; người ta gọi họ là Gu-ru (Gourous): Tôn Sư. Mỗi vị Ðạo Sư đều có những đệ tử riêng. Họ dạy đệ tử Họ những quan niệm Triết Học riêng của Họ, đôi khi Họ cho đệ tử những câu Thần chú để niệm, tức là những cách tham thiền và dạy đệ tử thực hành Pháp môn Yoga. Nhưng không phải do bài vở mà Họ giúp đỡ đệ tử của Họ nhiều hơn hết. Ðiểm chính là đệ tử sống gần Tôn Sư. Nếu Ðạo Sư là một vị thuộc phái Tiêu dao[8], đi ta bà từ nơi này sang nơi khác, các đệ tử cũng đi theo Thầy. Cũng thế đó, các đệ tử của Ðức Jésus đã đi theo Ngài ở Palestine. Nếu vị Ðạo Sư thường trụ, không di chuyển thì các đệ tử ở chung quanh Thầy, ngồi dưới chân Thầy, sẵn sàng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Thầy thốt ra, nhưng họ thụ hưởng những sự lợi ích của bài dạy của Thầy ít hơn ảnh hưởng do sự hiện diện của Ngài ban ra cho họ. Không có gì đúng theo khoa học hơn nữa. Những thể cao siêu của vị Ðạo Sư rung động với một tốc độ mau hơn nhiều so với tốc độ rung động của những thể của đệ tử vừa mới từ giả đời sống thế tục là nơi phát xuất những sự rung động ở mức độ thấp kém. Các đệ tử chưa cởi bỏ trọn vẹn yếu tố cá nhân như Thầy. Họ phải tự khắc kỷ, giữ gìn giới luật, nhận thấy những tánh xấu của mình, quyết định sửa chữa chúng nó và hoạch đắc vài đức tánh; tóm lại, họ phải thay đổi tánh tình. Thường thường đó là một công trình dài lâu và buồn tẻ, nhưng mà có thể thành ra hết sức dễ dàng nhờ được thường trực sống gần vị Ðạo Sư là người đã khai mở được những đức tánh này và dứt bỏ được tật xấu kia. Những làn rung động thanh cao gây ra một áp lực thường xuyên, vị đệ tử trong giấc ngủ cũng như trong lúc thức, thu hút chúng nó và không ngớt hòa nhịp với chúng nó. Ðó là nguyên tắc rất phổ thông trong Vật Lý: hai cái đồng hồ để gần nhau mà hai quả lắc không đồng bộ với nhau, quả lắc mạnh hơn từ từ kéo quả lắc yếu hòa hợp với sự chuyển động của nó hoặc làm cho quả lắc yếu ngưng lại. 2) Cách thứ hai để đi đến con Ðường Nhập Môn là đọc hoặc nghe những lời giáo huấn về vấn đề đó. Một người thấy vấn đề Nhập Môn rất thú vị, những dịp tốt đem đến cho y vài sự hiểu biết đó, nhờ trực giác, y nắm lấy chúng nó và tức khắc tìm cách thỏa mãn sự ham muốn hiểu biết thêm về vấn đề ấy. Ðó chính là trường hợp của tôi. Quyển Thế Giới Huyền Bí lọt vào tay tôi, tôi liền nhất định: "Nếu quả đúng như thế - nếu điều đó hiển nhiên - nếu các Ðấng Cao Cả có thật, và nếu các Ngài bằng lòng nhận công việc phụng sự của chúng ta và ban cho chúng ta một ít sự hiểu biết vô giá của các Ngài để bù lại, thì tôi sẽ là một trong những người phụng sự các Ngài. Tôi sẽ lượm lặt trong bất cứ mảnh vụn hiểu biết nào mà tôi có thể làm được. Kể từ ngày đó, mục đích duy nhất xứng đáng với sự nỗ lực của tôi là hội đủ những điều kiện cần thiết". Thật ra, hàng ngàn người đã nghe nói hoặc đọc trong sách toàn thể giáo lý nhưng họ không có một phấn khởi nào cả. Ðó chính là vấn đề kinh nghiệm đã thu thập được trong những tiền kiếp. Phải có tiếp xúc với chân lý trong một kiếp trước và tin chắc nó tốt đẹp và xác thực thì mới nhận biết nó ngay khi nó hiện đến cho chúng ta trong kiếp này. Nhiều người trong chúng ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy một người kia đọc một tác phẩm Thông Thiên Học mà không sửa đổi tâm tánh, không hoán cải. Thông Thiên Học là một giáo lý cao siêu, nó giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, như các bạn đã biết rõ, nếu bạn thử đem sách Thông Thiên Học cho vài người bạn thân mượn, thì phân nửa số người này đem trả lại bạn và nói: "Phải, thật hay lắm, nhưng họ không hiểu biết gì trong đó". Chính là nghiệp quả lành tạo ra thuở xưa, khi học hỏi những ý niệm này, ngày nay đã giúp chúng ta hiểu được chúng nó. Càng nghiên cứu sâu xa một vấn đề trong quá khứ thì hiện nay nó càng hấp dẫn chúng ta. Ðó chính là kinh nghiệm của chúng ta về một tác phẩm có giá trị mà chúng ta đã đọc hai chục năm trước chẳng hạn. Bây giờ bạn hãy đọc lại tác phẩm đó, bạn sẽ thấy nó hay biết bao so với khi xưa; bạn có thể đánh giá nó tùy theo năng lực của bạn hiểu biết nó.
    sóng xóa đi rồi...

  14. #14

    Mặc định

    KARMA - Luật Nhân Quả theo MTTL

    Trước hết, ta hãy định nghĩa Karma. Karma là luật Nhân Quả. Không có quả nào mà không có nhân, cũng như không có trẻ con nào mà không có cha mẹ. Bạn gieo điều chi thì sẽ gặt điều ấy. Luật này áp dụng không những cho những gì ta thấy chung quanh mình, mà áp dụng luôn cho tình cảm, tư tưởng, hành động và lời nói. Điều gì ta tạo ra, ta sẽ nhận hệ quả trở lại. Nếu có hệ quả thì bắt buộc phải có nguyên nhân; nếu có nguyên nhân thì sẽ có hệ quả.

    Nếu nhân loại thật sự hiểu luật này thì mọi người hẳn đã không ở dưới thế, nhưng chúng ta đang ở đây và hoặc sẽ còn ở đây cho tới khi ngày cuối của thái dương hệ, hoặc học thuộc luật này và giải thoát mình khỏi khổ não, đau lòng, âu lo, chiến tranh và cách mạng. Từ lúc sinh đến lúc tử, con người gieo và gặt điều họ đã gieo. Khi ai đó suy nghĩ, họ gửi mầm tư tưởng vào không gian. Bất cứ điều gì họ nói đều là một mầm trong không gian, bất cứ tình cảm và phản ứng nào họ có cũng là mầm trong không gian; bất cứ hành động nào mà họ thực hiện cũng là mầm trong không gian. Những hạt mầm này sẽ tăng trưởng và một ngày kia họ phải đối diện với quả của nó. Nếu trừ được nguyên nhân là diệt được hệ quả, hoặc là ảnh hưởng hoặc là phản ứng. Đây là một luật mà không ai có thể thoát.

    Ở những nơi xa xôi trên trái đất, vì có cảm ứng tâm linh mạnh hơn và có thể thiên về tinh thần nhiều hơn, người ta không dùng tên cầu kỳ để gọi luật Nhân Quả. Họ gọi nó là Luật của Âm Vang. Tôi hay đi vào núi và lắng nghe tiếng nói của mình vang trở về. Có lần tôi ở trong kim tự tháp của Ai Cập, tôi xướng thánh ngữ 'OM' rồi chờ. Vài phút sau tôi nghe 'OM' vang trở lại theo những cung bậc khác nhau. Người Ai Cập cổ quả là khoa học gia siêu quần. Chữ 'echo - âm vang' có một nghĩa bề mặt mà cũng có những nghĩa huyền bí sâu xa hơn. Khi có hành động về vật chất, tiếng vang thứ nhất có nét vật chất, tiếng vang thứ hai có nét tình cảm, tiếng vang thứ ba thuộc về trí tuệ và tiếng vang thứ tư là tinh thần. Nó có nghĩa mỗi hành động tạo ra ở bất cứ mức độ nào sẽ có vang vọng ở hết các cõi. Không sao thoát được việc ấy. Từ đây ta đi tới kết luận là vũ trụ, cảnh đời này, là cơ chế có ý thức tác động theo toán học, tâm lý học và khoa học.

    Khi ta phát triển và tiến hóa, tiếng vang của ta trở thành trong trẻo và thanh khiết hơn. Chẳng hạn ta có thể làm một việc rất hay về mặt vật chất, và âm vang thanh khiết sẽ sinh ra ở cõi tình cảm, trí, trực giác, chân thần và thiêng liêng. Những âm vang này làm ra sự hòa nhịp và hòa tấu cho đời của ta. Còn có một tính chất khác của âm vang mà nó có thể lập lại mãi không thôi, cho đến khi tai của ta không còn nghe được nữa. Bạn vào núi hét to, bạn có thể nghe một âm vang, nhưng nếu bạn khôn lanh và nhậy cảm, bạn sẽ thấy rằng âm lan ra những rặng núi khác và lập lại nữa, cho dù bạn có thể không cảm nhận được nó. Ấy là chuyển động liên tục, vô tận của vũ trụ. Nó có nghĩa rằng bạn sẽ mãi mãi phải đối đầu với hệ quả của bất cứ hành động, tư tưởng tình cảm hay lời nói nào theo hình thức của âm vang.

    Karma theo tiếng Phạn có nghĩa là hành động, hoạt động; mà ngay cả Phạn ngữ cũng không nói tới kết quả và nguyên nhân. Đó là vì Phạn ngữ trực nhận rằng không có hệ quả mà luôn luôn có nguyên nhân. Trí não tây phương thấy điều này khó hiểu, tuy vậy hệ quả là nguyên nhân nhỏ, hệ quả sinh ra trở thành nguyên nhân cho một hệ quả khác. Thế nên đi tới rốt ráo thì mọi việc đều là nguyên nhân, chuyện này dẫn tới chuyện kia theo một diễn trình liên tục.

    Những đấng Cao Cả dạy rằng chúng ta phải nỗ lực từng giây phút để ý thức điều ta đang làm về mặt vật chất, tình cảm và trí tuệ, hầu thấu đáo nguyên nhân mà ta sẽ tạo. Đây là chỉ dạy lớn lao nhất của đức Phật, ngài muốn chúng ta ý thức đủ để biết điều gì đã sinh ra chuyện đang có lúc này. Cho mỗi hành động, có một phản ứng bằng y vậy mà đối nghịch phát ra trong cõi trần, tình cảm, trí và tinh thần. Ta sẽ ý thức như thế nào ? Ta sẽ cho ra hành động gì, và có thể mong chờ phản ứng gì trở lại ?

    Những tên khác nhau của karma thì giống như nhiều mặt của một viên kim cương, chúng khác nhau tuy vậy mỗi mặt để lộ một khía cạnh khác của cùng một đề tài. Karma còn gọi là Luật Đền Bù. Đền Bù được hiểu theo nghĩa mỗi người phải cẩn thận đền bù cho mình và người khác. Các thể xác, tình cảm, trí, bạn bè của mình v.v. phải được đền bù. Bởi thể xác của ta làm việc, nó phải được nuôi dưỡng, cho mặc ấm và tắm rửa – tức đền bù. Rồi ta cũng phải chăm sóc cho thể tình cảm và trí giống vậy. Ý này cũng áp dụng cho người mà ta có liên hệ. Đền Bù là sự hiểu biết tế nhị, nói rằng bạn được cho điều gì thì phải hoàn trả lại điều ấy. Lúc sinh ra bạn không có gì thì khi qua đời bạn cũng sẽ ra đi tay không.

    Khi tôi đến một vùng hẻo lánh ở Syria và nói chuyện với người theo phái Sufi, một người trong bọn dùng tên Luật của Gương để nói về Karma. Đời sống một người ra sao thì đó là điều họ là, vì họ phản chiếu trong đời mình chuyện gì họ thật sự là. Nếu gương mặt họ thay đổi, hình ảnh của họ trong gương cũng thay đổi theo.

    Tình cảm gây ưu tư và cách sống thì đích thực là phản ảnh những gì ta đã làm trước đây. Tình trạng thể chất, tình cảm, và trí tuệ là sự phản chiếu đích xác của những hành động trước đó. Đời sống của ta là tấm gương phản ảnh điều chúng ta là. Muốn hiểu đời mình, ta chỉ cần nhìn vào phản ảnh. Ta đi tới trước gương và nói:

    – Trang điểm coi không đẹp.
    và ta chữa lại. Nếu ai thực sự hiểu điều này họ sẽ không còn than phiền về người khác, vì chuyện gì xẩy ra trong đời họ đều là phản ảnh cho điều họ là. Chúng ta có thể dùng gương để thay đổi chính mình, nhưng vấn đề là ta yêu quí hình thấy trong gương. Khi có chuyện đó thì không còn hy vọng, và đó là thảm kịch của thế giới đương thời. Nó thương yêu phản ảnh.

    Ta có thể thay đổi đời mình bằng cách thay đổi thực tại của điều ta là, và gương sẽ phản ảnh y hệt ta đã thay đổi ra sao. Luật của Gương là lời giải thích tuyệt vời về karma. Điều gì áp dụng cho một cá nhân cũng ứng dụng y vậy cho quốc gia và nhân loại như là một khối. Bất cứ điều gì xẩy ra cho đời sống quốc gia hay toàn cầu là phản ảnh của tâm thức quần chúng. Muốn thay đổi phản ảnh đó, ta phải thay đổi thực tại, cái vật thể được phản chiếu.

    Bạn có biết ai điên khùng tới mức đứng trước gương tay cầm bàn chải tìm cách sửa đổi hình mình trong gương, tin rằng sửa đổi phản ảnh thì sẽ thay đổi được chính mình chăng ? Vậy mà đó là điều ta làm ngày đêm. Ta tìm cách thay đổi cái hình thay vì nguyên do sinh ra hình, thay vì cải hóa chính chúng ta. Người xưa gọi đó là khoa học giả hình. Bạn ăn mặc cách khác, thay kiểu tóc, có dáng đi mới, đổi giọng v.v. tức bỏ công chăm chút hình phản chiếu của mình. Chuyện đáng buồn về việc này là khi dùng bàn chải sửa hình, cuối cùng bạn sẽ không sao thấy được gương mặt thật của mình trong đó.

    Khi đứng trước gương, hãy ráng nhìn cho đúng điều gì bạn là. Gương là đời sống của bạn, cách mà bạn sống, điều kiện sống của bạn, tình trạng sức khỏe thể chất, tình cảm, trí, tâm tư xào xáo và hoang mang trong đời bạn, sự dại khờ, chín chắn hoặc điên loạn.
    Karma là sự tranh đấu giữa điều bạn làm và điều bạn muốn trở thành. Bạn muốn thành điều này mà làm đúng chuyện ngược lại. Bạn muốn có tự do, nhưng lại tìm cách thành nô lệ. Bạn muốn có tình yêu, mà lại tạo những điều kiện làm ai cũng ghét bỏ bạn. Tất cả chúng ta đều làm những chuyện này một cách không ý thức.

    Trận chiến giữa điều bạn làm và điều bạn muốn trở thành là trận chiến thật sự. Bạn là mớ rối nùi nhân quả vì cả hai việc đều sinh ra kama. Khi có hành động là bạn tạo nên karma và khi muốn là điều gì bạn cũng sinh ra karma. Hai điều chỏi nhau và bạn bị rối trí hoàn toàn. Người như vậy có xung đột tâm lý bên trong và bên ngoài, giữa điều họ là và điều họ muốn trở thành.

    85 % điều ta làm thì đối chọi với điều ta muốn thành. Ta làm việc ngược với quyền lợi tốt nhất của mình, thế nhưng ta vui sướng làm vậy. Ta muốn có hạnh phúc, sức khỏe, phát đạt, tình thân hữu, mỹ lệ, tự do v.v., mà ta không biết chuyện gì mang lại những điều này. Ta phải học chỉ làm những hành động nào tương ứng với điều ta muốn trở thành. Nếu có xung đột là có karma.

    Một tên khác cho karma là Thiên Xứng. Con người tựa như chiếc cân, chuyện gì họ đem vào bản tính của mình sẽ nâng họ lên hoặc hạ xuống thấp. Rồi còn có âm vang đến từ những hành động trước đó, những kiếp trước, như thủy triều lan vào bờ. Năm ngày hay năm trăm năm sau thủy triều ấy sẽ đụng vào họ khi anh đâm đầu ra biển. Ta học những điều này để trong tương lai ta có thể ngăn việc tạo nên thủy triều.

    Ta phải tự hỏi mình đặt điều gì lên bàn cân. Nó là lòng giả dối, tư lợi, cái tôi, sợ hãi, lạm dụng và bóc lột người khác ? Nếu đó là những điều ta đặt lên cân thì ấy là những điều ta sẽ được nhận. Nếu ai được đối xử theo một cách nào đó, nó có nghĩa họ đã hành xử theo cách ấy trong quá khứ.

    Karma còn có khi được gọi là Luật của Bẫy Tự Gài. Ta tự đặt bẫy cho mình và trong lúc làm vậy ta thấy rất vui. Ta đặt bẫy vật chất, tình cảm, trí tuệ bằng lời nói, chữ viết v.v. của mình. Ta muốn thoát khỏi bẫy nhưng càng vùng vẫy ta càng bị trói chặt. Giống như con chuột bị mắc bẫy, nếu đừng cử động thì ta có thể sống thêm vài phút; nếu cử động lập tức ta gẫy cổ ngay.

    Ta đã đặt bao nhiêu bẫy cho mình rồi ? Chính con người trở thành một cái bẫy. Ai tạo nên bẫy trong đời mình là trở thành cái bẫy nguy hiểm nhất cho người khác. Khi bẫy tới phiên họ bị kẹt trong bẫy của người khác thì không có mấy hy vọng thoát ra. Ấy là điều ta đang làm cho nhau, tìm cách bẫy sập nhau và mình trở thành cái bẫy. Nếu điều này tiếp tục, một cái bẫy trở thành hàng trăm cái bẫy khác thì còn có cơ hội nào để thoát thân ?

    Khi ai đó bị kẹt bẫy trong chính điều lầm lỡ của mình, lời nói sai, suy nghĩ không đúng, và tình cảm hồ đồ, họ bị bẫy do chính điều tạo ra. Giả thử họ thấy kẻ khác bóc lột và có thủ đoạn, họ bèn tìm cách cũng bóc lột và có thủ đoạn, rồi bị kẹt bẫy trong lúc làm vậy. Họ mất đi sự sáng suốt, đường hướng; khi có ai nói chuyện với họ, họ dẫn dụ kẻ khác sai đường và đưa người ta vào bẫy. Ý thức được mình đang ở trong bẫy là dấu hiệu rất tốt.
    Khi than phiền về sức khỏe, hạnh phúc, mối liên hệ v.v., nó có nghĩa bạn bắt đầu hiểu mình đang ở trong bẫy và bạn muốn thoát ra. Nhiều người không muốn tìm cách thoát, nhưng họ than van. Đó là nhạc của con người, nhạc nhân quả !

    Karma còn được gọi là Luật Vay Trả. Điều gì bạn cho thiên nhiên, thiên nhiên sẽ trả lại cho bạn. Đó là lý do tại sao ta phải có sự công bằng với chính mình và với người khác. Nếu có ai giúp bạn 50 đồng, bạn phải trả lại 50 đồng ấy. Nếu họ cứu sống bạn, bạn phải cứu sống họ. Dầu vậy, ta nghĩ mình khôn ngoan khi làm chính điều ngược lại. Ta nghĩ nếu trộm cướp và lấy cắp người khác, lấy được nhiều tiền của họ là ta sẽ được hạnh phúc. Nhưng ngày kia ta sẽ thấy có nước lụt dâng, cuốn trôi đi hết những gì ta tạo tác, luôn cả chính mình, vì cũng phải trả thuế. Xét ra, xử sự công bằng, hoàn toàn đúng lẽ thì khôn ngoan hơn.

    Cách để Gia Tăng, Nhân Bội Karma.

    Karma gia tăng và mang lại phức tạp lớn hơn khi bạn tuân theo sự thúc đẩy và ham muốn của thể xác, tình cảm và trí, và xử sự theo đòi hỏi của các thể này. Nếu bạn thuận theo các thèm muốn và thôi thúc ấy, cuối cùng bạn sẽ thấy mình bị kẹt bẫy. Còn khi bạn dùng ham muốn và thúc đẩy của mình để gài bẫy người khác, bạn đang tạo một cái bẫy trong cái bẫy khác. Khi có những thói tật đáng chê trách là ta tạo karma thật rối rắm cho mình; ta sinh ra một lượng karma to tát khi không sống công bằng, tôn trọng quyền của người khác và của chính chúng ta. Ta cần phải ngay thẳng, chính đáng. Sự công chính được chọn làm đức hạnh tiêu chuẩn vì nó là nguyên lý hàng đầu.

    Karma tăng bội khi người ta tiến đến những cõi tinh tế hơn. Nếu có ai làm lỗi về mặt vật chất, dùng biểu tượng để nói thì karma bằng 4 x 4; nếu họ làm lỗi về mặt tình cảm, hệ quả sẽ bằng 4 x 4 x 4, ở mức trí tuệ nó sẽ là 4 x 4 x 4 x 4, và cứ như thế tăng bội.
    Có khi ta ở trong cảnh ngộ mà mối liên hệ trong gia đình hay cá nhân trở nên hết sức căng thẳng. Trường hợp như thế cho ta hai chọn lựa:

    - Một là tập tánh dửng dưng thiêng liêng (divine indifference),
    - Hai là bỏ cuộc và rút lui. Cách này là giải pháp mạnh mà đôi lúc nếu ta không rút lui thì cũng bị gạt ra lề.

    Giữa hai cách này tôi sẽ chọn thái độ dửng dưng thiêng liêng. Cứ để ai làm tôi bực mình nói nhăng nói cuội muốn làm gì thì làm, tôi sẽ tập tánh dửng dưng thiêng liêng vì họ đúng là người giúp tôi học và luyện tập tánh. Nó là cơ hội để tập dứt bỏ và quan sát chuyện gì xẩy ra, tại sao nó xẩy ra, làm sao xẩy ra, kết quả là gì v.v. Nếu họ hỏi ý kiến hay lời khuyên của tôi, tôi sẽ bảo với sự dửng dưng không tình cảm là họ đang đâm đầu vào tai họa.

    Đời sống tinh thần là có kỷ luật đều đặn và xây dựng trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta tạo nên và phát triển các thể và cơ chế, những điều này không thể nẩy nở trong khung cảnh tốt lành. Chuyện không may là cách tốt nhất làm tăng trưởng các thể và cơ chế là có nghịch cảnh. Nếu ta nghĩ đến một trường hợp khó khăn gặp phải hồi mười năm về trước, ta sẽ thấy nó đúng là hoàn cảnh làm ta lớn mạnh, thức tỉnh và khai mở. Thường khi ta không thấy biết ơn mà lẽ ra phải thấy vậy trong khung cảnh như thế.
    Bạn tăng bội và gia tăng karma của mình khi sống đời giả dối. Nếu bạn xấu xí thì cho người khác biết bạn xấu xí sẽ tốt hơn là dấu mình đi. Khi dấu con người mình, bạn khiến người khác hiểu lầm. Đừng giả cách như mình tốt đẹp hơn người, mà bạn là sao thì sống là vậy, nếu có thể được.

    Tôi cảm thấy vui lòng và biết ơn nếu người ta mong muốn làm cho họ được xinh đẹp hơn, ấy là chuyện tự nhiên. Nhưng con người không nên thay đổi mặt mày, hoặc dùng son phấn để gạt chính mình hầu có hình dung đẹp hơn. Tập thể dục và làm cho cơ thể xinh đẹp hơn là điều tốt, mà cũng còn những cách tự nhiên khác để giữ cho thân xác đừng mau già. Một cách là ăn đúng loại thức ăn đúng đắn có chứa chất dinh dưỡng thích hợp, cũng như là nghỉ ngơi và ngủ đủ. Gò má bạn sẽ rực sáng như gương.

    Tham lam, ghen tỵ, thù ghét cũng như là nỗi hân hoan làm thay đổi gương mặt của bạn. Con người là phó bản y hệt của điều họ là bên trong. Tại sao không tìm phương pháp thông thường thay vì bỏ tiền cho hóa chất trích tinh từ cơ quan của thú vật ? Chúa, Phật đều dạy ta phải sống tự nhiên. Tách rời khỏi điều gì tự nhiên là tự phá hủy mình.
    Mỹ lệ không hề tạo karma, mà ngược lại, khi ta làm việc để tạo mỹ lệ thì nét thiêng liêng của ta thể hiện. Ta không thành điều gì mà chuyện là Chân Ngã được biểu lộ. Làm việc để có mỹ lệ làm giảm nhân quả vì sự xấu xí tạo nên karma. Nói 'Hãy trở nên đẹp đẽ' là điều giản dị, nhưng người ta phải đẹp về thể chất, tình cảm, trí tuệ đẹp đẽ, có động cơ tốt lành hòa hợp với các nguyên tắc thiêng liêng.

    Khi đi thăm nhà tâm thần, bệnh viện và nhà tù, chúng ta chứng kiến hệ quả của karma xấu. Hành vi có tính tốt lành làm giảm thiểu karma, và ta không tạo karma mới. Hành vi có tính Thiện, Lành, Chính Đáng, Mỹ Lệ, Hân Hoan, và Tự Do làm giảm thiểu karma. Kinh điển khuyên ta không làm điều xấu cho người khác, ngay cả khi họ làm điều xấu cho ta. Khi làm theo lời khuyên này, ta không tạo nên nhân quả.

    Hãy gia tăng niềm vui của người khác. Đừng làm người ta buồn, giận hay nổi khùng để ta có lợi. Nếu bạn lấy đi niềm vui của người khác bạn sẽ không hề có được niềm vui; nếu cho ra niềm vui thì niềm vui của bạn sẽ tăng gia. Đừng giới hạn sự do của người khác. Nếu giới hạn tự do thì bạn sẽ không được tự do.

    Karma tăng gia và tạo nên thủy triều tác động lên các thể thanh, nếu ta xem thường người và vật, và dùng tâm lý để bóc lột. Đừng xem thường người và tình thế, làm như họ thuộc về bạn. Ngay cả khi bạn ngồi dưới gốc thưởng thức hương thơm của cây, hãy ngỏ lời tạ ơn trước khi rời chỗ đó, và làm cho cây điều gì bạn làm được.

    (TG Torkhom Saraydarian.)

  15. #15

    Mặc định

    TÂN KỶ NGUYÊN

    Danh từ Tân Kỷ Nguyên (New Age, New Era) nay đã trở nên quen thuộc và được sử dụng thường trên sách báo. Trong bài này ta sẽ nói về các đặc tính tổng quát của thời đại sắp tới ấy, còn những điểm cần bàn kỹ sẽ dành cho các bài sau.

    Thời Điểm.
    Đúng ra mà nói, tân kỷ nguyên chỉ một thời đại dựa trên tính chất mà khoa chiêm tinh gán cho nó. Theo đó, quỹ đạo mặt trời sẽ lần lượt đi qua mười hai chòm sao của đường hoàng đạo, trong mỗi chòm sao mặt trời sẽ chịu ảnh hưởng chính yếu (hay vũ trụ lực) phát xuất từ những đấng quản trị các thiên thể đó mà không phải lực từ chính các chòm sao, bởi đất đá chỉ tác dụng lên đất đá, còn tâm linh mới ảnh hưởng được tâm linh. Thời gian mặt trời lưu lại trong mỗi chỗ là khoảng 2.100 - 2.500 năm, thay đổi theo các nguồn tài liệu khác nhau. Bà Blavatsky tính là 2.155 năm và ghi như sau:
    - Mặt trời vào Dương Cưu (Capricorne) năm 2.400 BC
    - Vào Song Ngư (Pisces) năm 255 BC
    - Vào Bảo Bình (Aquarius) năm 1900 AD.
    Như vậy tân kỷ nguyên đã bắt đầu từ năm 1900, một lối tính khác cho là thời đại Bảo Bình (Aquarian Age) thực sự đã khởi đầu vào năm 1942. Dựa vào cách nào đi nữa chúng ta cũng đã chính thức bước qua thời đại mới và đang chứng kiến những năm đầu tiên của nó. Ngoài khoa chiêm tinh, tân kỷ nguyên còn trùng hợp với hai biến cố khác làm cho thời đại thêm đặc biệt. Vũ trụ lực từ các chòm sao chỉ là một trong số các ảnh hưởng bên ngoài tác động lên địa cầu theo chu kỳ, ngoài ra còn ảnh hưởng khác phải kể là lực những cung. Chúng cũng đi theo chu kỳ, lực cung 6 đang tới cuối thời của nó và lực cung 7 đang tuôn tràn ngày càng mạnh. Ta không biết rõ thời điểm chính xác của việc thay đổi các cung, cũng như mỗi cung sẽ kéo dài bao lâu, nhưng điều ấy không quan trọng lắm một phần vì nó nằm ngoài sự chi phối của con người, và một phần vì thời hạn các cung rất đỗi phức tạp. Chúng đi theo các chu kỳ lớn nhỏ và một cung chính có thể có nhiều cung phụ. Một cung có thể vắng mặt ở thời điểm nào đó vì nó là cung phụ chưa biểu lộ của một cung chính, nhưng ở chu kỳ cao hơn cung ấy lại đang có ảnh hưởng chi phối. Lấy thí dụ ta có cung 6 tàn dần và cung 7 đang mạnh, cung 4 và cung 2 vắng bóng, nhưng ở mức độ khác hai cung này vẫn có ảnh hưởng vì chúng hiện diện ở chu kỳ lớn hơn, nhất là cung 2 vốn là cung chính của thái dương hệ, bao trùm tất cả những cung khác.
    Cũng y vậy, quay trở về mặt chiêm tinh thì tính chất Bảo Bình của thời đại mới càng mạnh hơn, vì gói trọn chu kỳ 2.300 năm là chu kỳ lớn 25.000 năm. Hiện thời chu kỳ lớn này cũng đang bắt đầu và cũng là Bảo Bình, như vậy tân kỷ nguyên mang đặc tính Bảo Bình kép làm cho thời buổi này lạ lùng nhất trong lịch sử nhân loại, và nét ấy được các đấng cao cả lợi dụng tối đa hầu thực hiện thiên cơ. Còn một lực nữa sẽ tuôn tràn vào Bảo Bình là lực của đức Chúa (Di Lặc) sắp tái xuất hiện, nhưng ta sẽ không bàn nơi đây mà để dịp khác.


    Đặc Tính.
    Biểu tượng của Bảo Bình là người đội bình nước trên đầu hay vác ở vai, đang chế xuống; hiểu theo nghĩa bên trong đó là con người cất giữ khả năng đã phát triển vào bình để dùng vào việc phụng sự, khi có nhu cầu sẽ tuôn ra một cách rộng rãi không giữ lại cho mình, mà lạ thay anh có thể tuôn hoài không bao giờ cạn.
    Không khí là đặc tính của Bảo Bình, thấy qua việc con người dần dần làm chủ không gian, ban đầu là phi cơ rồi phi thuyền với tầm mức không ngừng hướng ra ngoài, đẩy lui thêm biên cương trong không gian mà con người cảm biết. Cũng một ý di chuyển trong không gian ta có thể kể radio và truyền hình. Bởi tư tưởng mang đặc tính trên, tham thiền ngày càng được hiểu rõ hơn và có nhiều người tập. So sánh Bảo Bình với thời đại trước nó là Song Ngư, ta có chuyện thú vị là trong thời đại Song Ngư với đặc tính nước, hàng hải là nét chính của nền văn minh xưa. Nói khác đi, con người chế ngự được sông nước, đại dương. Về mặt bí truyền, việc làm chủ được không khí dẫn đến việc mọi chuyện trong tương lai trở nên nhẹ, thanh bai hơn, chất liệu ta biết lúc này sẽ đi lần qua cõi ether, song song với việc nhãn quan hóa tinh tế hơn để thấy được cõi ấy.
    Về mặt tình cảm, lực tình cảm phát xuất từ Bảo Bình sẽ kích thích thể vía con người, giúp nó thành một khối thuần nhất hơn, thành một tập thể huynh đệ không còn màng tới những khác biệt về giống nòi, quốc gia, đưa sự sống con người đi tới chỗ hợp nhất, hòa đồng. Điều này có nghĩa trong một ngàn năm tới và theo cách mà bây giờ ta không sao ngờ được, một sức sống kết hợp sẽ tràn ngập, nối kết mọi người thành một khối anh em hoàn toàn. Ảnh hưởng về mặt tình cảm của nó sẽ nhằm thanh tẩy thể tình cảm của người, làm cho thế giới vật chất mất đi sức hấp dẫn mạnh mẽ, và có thể vào những giai đoạn cuối của thời đại Bảo Bình nó sẽ đạt tới mức phóng đại lạ lùng về mặt cảm xúc, y như sự quyến rũ quá đáng của vật chất mà con người trải qua vào cuối thời Song Ngư.
    Sự tương đồng ấy có là bởi giai đoạn chót của mọi kỷ nguyên đều cho ra sự phát triển quá mức của đặc tính trội nhất trong kỷ nguyên ấy. Vào lúc này ảnh hưởng của Bảo Bình trên những người hiểu biết và hữu ý góp phần xây dựng tân kỷ nguyên mang tính xây dựng, còn nơi thành phần thấp lại mang tính phá hoại, thí dụ về mặt tính dục.
    Sang chuyện tâm thức, tân kỷ nguyên sẽ có những giá trị tâm linh mới, một ý nghĩa mới về cuộc đời, và việc diễn giải ý nghĩa ấy làm đời sống hằng ngày được phong phú hơn. Chẳng hạn những ý tưởng của thời đại đang qua như:
    - Sự chết
    - Sự hy sinh
    - Sự cứu chuộc qua trung gian một đấng cao cả
    - Thay điều thấp bằng điều cao (tính nhị nguyên)
    sẽ nhường chỗ cho:
    - Sự sống.
    - Phụng sự
    - Sự hợp nhất tinh thần giữa cái cao và cái thấp (nhất nguyên) mang lại việc đời sống nhân loại sẽ vang lên nốt mới, chứa đựng hy vọng và hoan lạc, sức mạnh và tự do.
    Ta đang sống ở buổi giao thời lúc một thời đại đang chấm dứt và cái khác bắt đầu, nên thế giới có thể được chia làm hai khối người, tùy theo cách đáp ứng của họ với các lực.
    * Lực của thời đại Song Ngư còn rất mạnh, vẫn là lực căn bản và hiện giờ có tính phá hoại so với lực mới, làm cản trở ảnh hưởng cái sau. Đây là lực hấp dẫn khối quần chúng đông đảo kém hiểu biết, họ tiếp nhận và có phản ứng với nó vì đối với họ, ấy là con đường dễ dàng ít trở ngại nhất. Họ là những người ít suy nghĩ mà lại dễ tin, có ý thức ở mức trung bình hay kém hơn.
    * Lực của Bảo Bình cho ra tác dụng rộng rãi và tổng quát trên cõi ether, thảo mộc, sông nước và trên những ai đã biết sử dụng cái trí ít nhiều. Nó gợi hứng cho ai đi theo các đường lối tư tưởng mới, họ cảm nhận các ý tưởng đang tuôn tràn vào địa cầu, nhưng cách diễn giải có thể sai. Dù vậy, chuyện đáng nói là họ có khả năng đáp ứng với lực của tân kỷ nguyên và ảnh hưởng đang có của lực trên tâm trí và não bộ của họ
    * Để cho dễ hiểu ta có thể nói lực Song Ngư mang nét bảo thủ, còn người chịu ảnh hưởng Bảo Bình thường tỏ ra cấp tiến. Tranh chấp vì vậy sẽ xẩy ra và không thể tránh được khi phái bảo thủ muốn duy trì những tín điều, triết lý, phương pháp tuy hữu dụng trong quá khứ nhưng nay không còn thích hợp với tâm lý và hoàn cảnh mới của đời sống con người, và phái cấp tiến hô hào những giá trị, quan niệm mới phù hợp với tâm tình và trí tuệ của nhân loại thế kỷ 21.
    y Không khí có tính lan tràn, hòa lẫn thì Bảo Bình cũng cho ra ảnh hưởng giống vậy, những hoạt động của con người trong tương lai thể hiện đặc tính ấy như sau:
    * Về mặt cá nhân, tình huynh đệ đại đồng dần trở nên chuyện thực tế, tâm thức con người từ điểm trụ là cái tôi mở rộng thành tâm thức nhóm rồi ý thức toàn cầu. Điển hình là hiện nay có rất nhiều phong trào tinh thần hay các tổ chức bất vụ lợi như Amnesty International, Asia Watch v.v.
    * Về mặt chính trị là phát triển tinh thần quốc tế, liên bang mà một trong những bước đầu tiên là liên hiệp Âu Châu.
    * Về mặt thương mại, phương thức làm việc đi theo khuynh hướng tổ hợp nhiều quốc gia. Hình thức sơ khởi chưa kiện toàn là sự toàn cầu hóa (globalisation).
    * Về mặt tôn giáo là việc công nhận một niềm tin tưởng chung vào Thượng đế và vào nhân loại như là thành phần chính (so với các loài khác), biểu lộ tính thiêng liêng trong chu kỳ này.
    Khoa tâm lý sẽ trở thành khoa học chính trong tân kỷ nguyên, cũng như điện là khoa căn bản của thời Song Ngư. Tâm lý học sẽ phát triển, đạt nhiều thành quả và trở nên hữu dụng trong thời Bảo Bình, người ta sẽ tìm hiểu cái ảnh hưởng làm con người thành chính họ bây giờ, cái tạo nên bề ngoài của một ai. Bạn đoán ra chưa, điều ấy có nghĩa là sự học hỏi về các cung và luật luân hồi là chuyện đương nhiên trong khoa tâm lý mai sau. Người ta sẽ nghiên cứu con người về toàn bộ: tâm thức, tình cảm, xác thân thay vì chỉ giới hạn vào phần vật chất hữu hình.

    Vài Sự Kiện Đáng Chú Ý.
    Người ta hiểu rằng tân kỷ nguyên sẽ mang lại một nền văn minh mới, tôn giáo mới và trật tự mới trên thế giới. Quả thực những điều này sẽ thành nhưng trước tiên cần xây dựng, do đó cần thời gian và khuyến dụ được người chấp nhận các giá trị mới mẻ. Ta đừng quên rằng lực của thời Song Ngư tuy đang yếu nhưng vẫn còn ảnh hưởng đáng kể trên đa số quần chúng, đương nhiên sẽ có va chạm giữa hai luồng tư tưởng như đã nói, và gây ra đổ vỡ, những giá trị cũ từng được quí chuộng, mến yêu sẽ phải bị bạt bỏ, thải hồi nhường chỗ cho giá trị mới. Vậy trong chặng đầu của tân kỷ nguyên, ta sẽ chứng kiến sự chết, tàn lụi và tan rã của những hệ thống tư tưởng lâu đời, định kiến, thói quen suy nghĩ.
    Lối sống mới, nền giáo dục mới, thể chế mới đang chậm chạp thành hình và không gì có thể ngăn cản được nó, nhưng tiến trình có thể bị trì hoãn do phản ứng của người bảo thủ, quá thiển cận. Bởi ai bám chặt vào sự hiểu biết chật hẹp của mình, ưa thích sống với điều đã quen thuộc thường sợ hãi chuyện xa lạ, tựa như thái độ đa nghi với kẻ lạ của nhiều người.
    Sự thành công của tân kỷ nguyên có nghĩa là phần tinh thần của nhân loại được phát triển mạnh mẽ hơn và do thế, ta phải bàn đến các tà lực. Đó là những năng lực mạnh mẽ, tác động nhằm duy trì phần vật chất, đường lối cũ xưa, trên hết thẩy đó là những lực nằm làm kết tinh, bảo tồn phần hình thể (như đường lối giáo dục cũ, định chế chính trị không còn hợp thời), tính hấp dẫn của vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài của hình thể trong ba cõi. Chúng cố tình ngăn chặn sự tuôn tràn của những gì mới mẻ và mang lại sự sống, sự hiểu biết về tân kỷ nguyên, nhằm bảo vệ chuyện gì cũ và quen thuộc, phá hoại ảnh hưởng của nền văn hóa và văn minh mới, làm con người mù quáng, tiếp tục nuôi dưỡng lòng thù ghét, chia rẽ và chỉ trích.
    Với tầng lớp trí thức, lực này ẩn dưới từ ngữ đẹp đẽ, xúi giục người bầy tỏ sự thù ghét kẻ khác, bài bác chủ thuyết, thêm sinh lực vào mầm hận thù có sẵn trong nhiều người. Lòng sợ hãi được giúp cho bùng cháy để giữ lại chuyện xưa cũ, biến việc chưa biết là tân kỷ nguyên thành điều không đáng ao ước, và kềm hãm lực tiến hóa và lực phát triển để được lợi cho chính mình. Với người chưa hiểu biết, họ là tượng trưng cho tinh thần quốc gia cực đoan, óc chia rẽ, nô lệ và phục tùng mù quáng, óc bè phái trong tôn giáo và sự lệ thuộc vào một thẩm quyền nào, hoặc đó là giáo hoàng hoặc là tín điều; họ chống đối lại mọi tiến bộ và cải cách mới mẻ.
    Muốn tránh, người ta có thể tự xếp mình vào hàng ngũ những ai tin tưởng vào tình huynh đệ, sao cho niềm tin ấy là động cơ của mọi hoạt động của ta trong tôn giáo, chính trị và giáo dục, cũng như có tâm thức bao trùm mọi vật, lưu tâm đến toàn khối thay vì một thành phần riêng. Công việc của tân kỷ nguyên chỉ thực hiện được bởi ai không nuôi lòng chia rẽ, không trở thành tụ điểm cho lòng thù ghét hay thành tác nhân thực hiện lực ấy. Canh giữ thân tâm để không phát các ý vừa ghi cùng nuôi dưỡng tình thân ái là phương pháp cho người hiểu biết, còn cho đa số có hai điểm đáng nói:
    Trước tiên nhân loại phải nâng tâm thức lên cõi trí, mở rộng để bao trùm luôn cõi tình cảm, trí tuệ vừa phải linh hoạt vừa phải cởi mở, óc thông minh của trọn loài người cần ở mức cao hơn.
    Kế đó là nhu cầu phá tan hàng rào phân ly, cô lập và thành kiến, những chuyện đã làm ngăn cách con người với nhau. Theo với thời gian con người hóa tự mãn, tự hào về nòi giống mình, gây sự chia rẽ sâu xa giữa các dân tộc.
    Chuyện đáng mừng là cho tới nay đã có nhiều nỗ lực nhằm giải quyết điều này, chẳng hạn:
    - Phương tiện truyền thông được sử dụng, làm mọi người cùng biết đến các vấn đề trên thế giới và thấy gần nhau hơn.
    - Những tổ chức từ thiện quốc tế làm sống động tình huynh đệ đại đồng.
    Ta đã nói sơ về những công việc trong tân kỷ nguyên mà ai cũng có thể góp phần, ngoài ra cũng nên ghi những điểm bất lợi.
    * Mẫu chủng thứ năm là giống dân chính hiện giờ, có phần việc là mở mang hạ trí. Trong tương lai khi có nhiều lực tuôn vào địa cầu kích thích trí tuệ, một số người do bản chất không sử dụng được đúng cách những lực ấy, sinh ra lỗi nhịp giữa các thể và mắc chứng rối loạn thần kinh. Nói khác đi, bệnh tâm thần có khuynh hướng gia tăng trong thời Bảo Bình.
    * Những tiến bộ nói ở trên của tân kỷ nguyên là nét tinh thần cao, đi đôi với nó là một số nét thấp và là chuyện không tránh được. Nét thấp của sự tổng hợp trong Bảo Bình biểu lộ vào thế chiến thứ hai khi Hitler thống nhất các sắc dân Đức vào một khối, với ý định sau đó tổng hợp Âu Châu thành một lực lượng mà Đức là nước lãnh đạo, và khối ấy sẽ phục vụ cho quyền lợi nước Đức. Tại Á Châu, Nhật cũng có kế hoạch tương tự là Đại Đông Á, đoàn kết những nước Á châu mà Nhật sẽ đứng đầu.
    Sự kiện thế giới có nhiều nhà độc tài sau thế chiến II một phần là do các thuộc địa được độc lập sau 1945, tạo cơ hội cho người có khả năng và có tham vọng nắm quyền. Điểm nổi bật của họ là thống nhất sức sống của quốc gia, vạch mục tiêu và hướng đi cho nó. Sự việc cho thấy khuynh hướng kết hợp, hòa lẫn đang thể hiện dù với ý không lành, bởi hướng về hình thể, vật chất đối nghịch với tinh thần. Bây giờ, khác với ý định của Nhật và Đức, sự kết hợp theo thiên cơ không xẩy ra quanh một nước, mà dựa trên lý tưởng của tình huynh đệ, thiện chí và tự do cho mọi người. Một ý tỏ lộ sự biến dạng ích kỷ và đầy óc vật chất của tinh thần kết hợp, ý kia nhắm tới mục đích tinh thần.
    * Sau chót, có sự liên quan ít được biết tới giữa triết lý của Krishnamurti và thời Bảo Bình. Ta đã biết đức Phật trước kia giữ chức vụ Huấn Sư Thế Giới (The World Teacher), và ngày nay vị đảm nhiệm phần việc ấy là đức Di Lặc (đức Chúa). Hiện giờ nhân loại đang mong chờ sự tái xuất hiện của Ngài và một số lớn tin rằng Ngài sẽ dùng phương cách như ở Palestine khi xưa, nhưng nếu tin vậy thì ta đã quên việc Ngài có thể bị Karma hạn chế trong khi lựa chọn tác nhân để xuất hiện, bởi Ngài chỉ được phép dùng cơ thể mà những vị thần Karma đã chọn lựa, và thân xác ấy phải biểu lộ đặc tính của tân kỷ nguyên thay vì của thời Song Ngư hai ngàn năm trước.
    Sự khác biệt chính yếu giữa hai thời đại là con người sẽ học để từ bỏ thế giới tình cảm, bước vào cõi trí tuệ. Trọn nền văn minh tây phương đã theo chiều hướng ấy trước khi Krishnamurti xuất hiện và được công bố là tác nhân cho Ngài sử dụng. Về một số mặt ông chưa được huấn luyện để đóng vai trò bậc Huấn Sư tinh thần, nhưng trong vòng giới hạn của tâm thức Krishnamurti, khi làm việc qua ông Ngài gắng sức đặt đường hướng của tương lai hầu ai bước theo có thể tiến sâu hơn vào cõi trực giác.
    Theo chiêm tinh học, đặc tính của Krishnamurti không thể hòa hợp với cách làm việc của thời Song Ngư, ông coi sùng tín là tật xấu, không hề nhận mình là thầy và cũng luôn xác nhận là không muốn có ai làm đệ tử. Ông bác bỏ những giá trị, hình thức cũ nên có vẻ như hoạt động của ông nhằm phá bỏ niềm tin con người. Lại nữa, khi làm vậy ông được các đại thiên thần không khí trợ lực. Các vị này chịu sự hướng dẫn của những vị thần nhân quả, và đang giúp con người hướng về việc mở mang tinh thần thay vì đi tìm thắng lợi vật chất.
    Để hợp tác trọn vẹn hơn với thiên thần, Krishnamurti nhận chứng đạo theo đường tiến hóa của các vị ấy. Do thế, bản tính chủ yếu của thiên thần ảnh hưởng sâu đậm tới quan điểm của Krishnamurti, mà bản tính ấy vốn là tác nhân thi hành luật Karma nên vô tình, không ràng buộc quyến luyến (nơi con người ta gọi là dửng dưng, lạnh lùng), khiến cho ông có vẻ như thiếu thiện cảm, và đôi khi, ngay cả bất nhân. Triết lý của ông thẳng thắn đến mức tàn nhẫn:
    - Truth is no comfort. (Ta hãy so sánh lời này với câu của đức Chúa: Kẻ nào mệt mỏi vì gánh nặng cuộc đời hãy đến với ta, vì ách ta nhẹ nhàng ...)
    Ông gọi tôn giáo là cây nạng mà người tìm chân lý phải vứt bỏ, tự mình bước đi. Tư tưởng như thế hợp lý ... cho ai có trình độ như ông, mà lại quá mạnh với người sơ cơ. Hơn nữa, từ khi ông gắng sức mạnh mẽ để qua những lần chứng đạo ấy, đức Di Lặc không còn có thể dùng ông làm trung gian được nữa. Bắt đầu ở thập niên 1930, ông phát triển theo đường lối mới của mình, một số người cảm biết sự chuyển hướng mà không rõ lý do, cho rằng việc mượn xác đã thất bại, hay việc tái xuất hiện đã diễn biến sai.
    Mỗi đặc tính trong khoa chiêm tinh đều có giới hạn của nó. Với Bảo Bình là khuynh hướng thiên nhiều vào nội tâm, cảm thấy mình đầy đủ tự tại, và do đó không chịu tiếp xúc với các người khác, mất cơ hội thân cận rồi trở nên xa lạ với đường phát triển của họ. Thành ra, tuy Krishnamurti có lý khi nhấn mạnh sự cần thiết phải độc lập về mặt tư tưởng, ông đã sai khi cho là bất cứ ai – dù Karma ra sao, có khuyết điểm nào trong người hiện giờ – cũng có thể tức tốc đạt tới mức mà chính ông chỉ tới được sau khi phải nỗ lực nhiều kiếp, cộng thêm sự trợ giúp của những lực vũ trụ, quy tụ vào người ông chỉ nhằm việc chuẩn bị ông cho vai trò người tuyên bố mở màn tân kỷ nguyên.
    Vì đi quá mức như vậy, Krishnamurti đã gây hoang mang, rối trí cho nhiều người và có phản ứng là đáng lẽ các đấng cao cả phải thấy trước cùng ngăn chặn điều ấy. Hẳn là các Ngài thấy trước, nhưng các Ngài không có quyền cản trở luật Karma tác động. Không bao giờ các Ngài ngăn chặn để con người tránh lỗi lầm, mà khi nào có thể được, luôn tìm cách biến hậu quả thành chuyện lành.
    Vậy thì từ sự đổ vỡ của tín điều, truyền thống và niềm tin, của những chỉ dạy sai lầm, từ sự hoài nghi, hỗn loạn, và dằn vặt nội tâm, lòng người nẩy sinh quyết tâm mới mẻ là tập luyện chính mình hầu thủ đắc những khả năng, cho phép họ tiếp xúc được với Chân sư và Thượng đế nhờ chính nỗ lực của mình. Bởi vậy, khi đức Di Lặc tái xuất hiện, chẳng những Ngài sẽ đến với các nhóm tổ chức thực tâm làm việc cho tình huynh đệ, mà Ngài còn đến trong tim tất cả những ai khao khát muốn tiếp đón, và có trực giác đủ mạnh để nhận ra Ngài. Kỳ xuống trần này không giới hạn vào một thân xác hay trung gian được chuẩn bị sẵn, mà bất cứ nơi nào có con tim đầy ước vọng, thì đó là trung gian và tác nhân cho Ngài sử dụng.
    Buổi đầu của mọi chuyện đều làm người phấn khởi, tựa như bình minh trong trẻo hứa hẹn lắm điều thích thú hay, đẹp trong ngày. Ta đang ở trong thời kỳ hào hứng ấy, óc lạc quan sôi nổi khiến ta tin rằng chuyện gì cũng có thể làm được và những ước mơ đẹp đẽ nhất của tân kỷ nguyên dù gặp khó khăn rồi cũng sẽ thành.
    ***

  16. #16

    Mặc định

    Sau ‘tận thế’ sẽ là thời đại Bảo Bình?

    Tác giả dobatnhi on Tháng Sáu 4, 2011


    12 cung Hoàng đạo
    Sau thời Mạt Pháp Bò Cạp (Capricorn) sẽ đến thời đại Bảo Bình (Aquarius), quãng thời gian thịnh vượng tâm linh kéo dài đến 2.160 năm trên Trái đất. Tuy nhiên thời điểm bắt đầu của Thời đại Bảo Bình vẫn chưa được các nhà thiên văn thống nhất, liệu có phải cách tính của người Maya là chính xác và sau ngày 21/12/2012 là Thời đại vàng của nhân loại.

    Thời đại Bảo Bình là gì?

    Như đã biết, chúng ta có 12 chòm sao Hoàng đạo là Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn, Aquarius và Pisces. Vào ngày Xuân Phân (21/03) cứ mỗi 20 thế kỷ (khoảng 2.160 năm) Mặt trời lại ở vào một cung trong 12 cung Hoàng Đạo; tức là để đi qua hết 12 cung Hoàng Đạo, Mặt trời mất khoảng 25.729 năm (số khác là 25.771).

    Thời đại Bò Cạp thường được hiểu như là thời đại thuộc về vật chất với sự hỗn loạn do chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói và thiếu vắn tình thương, sự minh triết tâm linh. Nhưng đến khi Mặt trời chuyển sang chu kỳ mới tại cung Bảo Bình, nhân loại sẽ có Tân thời đại với sự tự do tuyệt đối cho con người, giá trị đạo đức được đề cao, các quy tắc cứng nhắc của xã hội được dỡ bỏ, các giá trị tâm linh cổ xưa được phục hồi và tình yêu thương sẽ tràn ngập trong thế giới đó.

    Chu kỳ 25 ngàn năm của mỗi nền văn minh

    Các nhà Chiêm tinh và tâm linh học tin rằng, mỗi nền văn minh khác nhau của con người chỉ tồn tại trong 25.729 năm, sau thời gian đó thì Trái đất sẽ biến đổi địa chất và xảy ra tận thế. Một số giả thuyết còn chỉ ra lục địa Atlantis tồn tại cách đây gần 25.000 năm và bị hủy diệt khi đi đến gần hết chu kỳ, tức là thuộc nền văn minh trước thời đại chúng ta.

    Trong sách chiêm tinh cổ của Việt Nam, quyển “Thái Ất” được Trạng Trình dùng để viết sấm dự đoán cũng cho rằng, cứ mỗi 25.920 năm cực Bắc của Trái đất sẽ hướng về chòm sao Bắc Cực mới và ngôi sao cực Bắc sắp tới sẽ là sao Vega. (xem thêm: Kim tự tháp Ai Cập và lời nguyền Trái đất đổi cực).

    Còn tại Ấn Độ, vùng đất nổi tiếng với các bậc Đạo sử minh triết “thông thiên văn, am tường địa lý” thì thời gian của một chu kỳ “tận thế” là 24.000 năm. (xem thêm: Kinh Veda nói về ngày tận thế 2012).

    Tuy có đôi chút rắc rối và tranh cãi trong vấn đề quy đổi thời gian viết trong các quyển kinh sách Veda cổ ra đơn vị đo lường thời gian hiện tại, nhưng người viết nghĩ rằng con số tương đương 24.000 năm tính theo Dương lịch hiện tại là có thể chấp nhận được.

    Chúng ta đang ở chu kỳ nào?

    Do thời gian chuyển tiếp giữa các cung quá dài (hơn 2.000 năm) và thời gian Mặt trời ở các cung không giống nhau nên việc xác định xác định thời điểm chúng ta đang sống thuộc về chu kỳ nào: Bò Cạp hay Bảo Bình, Kali Yuga hay Dvapara Yuga… là rất khó khăn.

    Trong quá khứ có rất nhiều giả thuyết đưa ra để xác định thời điểm này, song đã có rất nhiều tranh cãi. Nhà thiên văn W.E.Peuckert, Sir Isaac Newton, Rob Hand và Dane Rudyhar đều cho rằng Mặt trời đã vào cung Bò Cạp năm 100 trước công nguyên và sẽ ở cung Bảo Bình vào năm 2060 tới đây. David Williams nói năm 1884, còn Carl Jung bảo từ năm 1997 đến 2000.

    Ngoài ra ta còn có thể dùng chu kỳ dài 244 năm của sao Diêm Vương để tạm xác định thời kỳ Bảo Bình bắt đầu. Như đã nói trong bài viết trước, cứ mỗi 244 năm khi sao Diêm Vương bắt đầu ở cung Aries sẽ có một làn sóng tư tưởng mới giáng xuống nhân loại và sự ảnh hưởng này sẽ kéo dài hơn 2 thế kỷ. Hiện tại thì sao Diêm Vương đang ở cung Capricorn cho đến năm 2023 và sang đến ngày 16/06/2066 nó sẽ kết thúc quãng thời gian 244 năm đi qua 12 chòm sao Hoàng Đạo của mình.

    Người Maya tính toán sự kết thúc của một Đại chu kỳ vào ngày 21/12/2012, điều này cũng có thể dự đoán là nhân loại sẽ ở vào thời đại Bảo Bình từ năm 2012.

    Bài học từ nền văn minh Atlantis

    Lại dựa trên giả thuyết một nền văn minh tồn tại trong 2.160 năm, thì ta có thể thấy nền văn minh Atlantis đã phát triển trước nền văn minh hiện tại hơn 4 ngàn năm, nếu họ đi được đến chu kỳ cuối cùng.

    Theo một số tài liệu của Hội Thông Thiên Học, khi Atlantis bước sang giai đoạn cuối của sự phát triển một nền văn minh thì đa số linh hồn đã hoàn tất phát triển thể thứ 4 – trí tưởng tượng. Sự sáng tạo của họ lên đến đỉnh điểm khi làm chủ nguồn năng lượng mạnh hơn cả nguyên tử và đạt được một số khả năng tiềm tàng tại mức rung động thứ tư như đọc được suy nghĩ của người khác, thôi miên, sử dụng bùa chú… Nhưng chỉ số ít linh hồn loại bỏ được tính tham dục, sân hận, để đạt được tầng mức rung động thứ 5 – lòng từ bi bác ái.

    Chính sự tham lam và ỷ vào sức mạnh tưởng chừng như không có gì cưỡng nổi, họ tham gia vào cuộc chiến giành ngôi bá chủ thế giới. Hàng loạt thứ vũ khí có sức hủy diệt ghê gớm đã được tung ra và họ cũng đã tự giết chết mình, toàn bộ lục địa Atlantis đã bị nhấn chìm xuống đái biển.

    Tiên tri được sự tự hủy hoại của người Atlantis, những kẻ không có lòng từ bi, các linh hồn vĩ đại hơn đã âm thầm tuyển chọn những bộ tộc kém phát triển nhất của lục địa và đưa họ di cư về Ai Cập, Nam Mỹ, Ấn Độ… để duy trì giống Gen người.

    Lý do này cũng có thể giải thích vì sao hầu hết các dân tộc trên những vùng đất ở cách nhau rất xa, ngôn ngữ bất đồng nhưng tất cả đều có chung truyền thuyết về trận Đại hồng thủy và tổ tiên họ được cứu vớt bởi những vị thần từ trên cõi thiên hoặc trên chiếc thuyền của Thánh Nô-ê.

    Có lẽ sau giai đoạn này những linh hồn thú mới tiến hóa được đầu thai hàng loạt xuống các giống dân đã di cư trước đó và nền văn minh mới (của hiện tại) đã bắt đầu từ Thời kỳ Đồ đá. Và sau đó, cứ mỗi chu kỳ 244 năm, vài trăm linh hồn cư dân Atlantis tiến hóa hơn được giáng xuống để dẫn dắt nhân loại (theo Edgar Cayce). Đây chính là lý do vì sao nhân loại có rất ít thiên tài lớn và những ảnh hưởng của họ đều làm thay đổi lịch sử.

    Vấn đề của sự “chuyển thế”

    Các bậc Đạo sư Yoga như Blavatsky, Leadbeater, Osho đều nói rằng linh hồn con người hiện tại đã bước đầu phát triển ở thế thứ 4 (trí tưởng tượng). Chắc bạn đọc cũng dễ nhận thấy là trong khoảng 400 năm trở lại đây, nhiều linh hồn tiến hóa từ thời Atlantis đã trở lại đầu thai và họ trở thành các bậc vĩ nhân dẫn dắt nhân loại đi vào chu kỳ sáng tạo như thế nào. (xem thêm: Sao Diêm Vương và sự thay đổi lịch sử loài người).

    Ở chu kỳ sao Diêm Vương năm 1578, phong trào Hậu Phục Hưng với sự xuất hiện của nghệ thuật hội họa và thơ ca đặc sắc. Chu kỳ sao Diêm Vương năm 1822 với sự xuất hiện hàng loạt các tư tưởng triết học mới, một loạt các sáng chế phát minh tạo ra hiện tượng “cách mạng khoa học kỷ thuật” và dẫn đến sự ra đời chiếc máy tính cá nhân, mạng xã hội, các tập đoàn công nghiệp có quy mô toàn cầu… như hiện nay.

    Trí tưởng tượng sẽ dẫn dắt nhân loại đi xa hơn nữa khi họ phát triển hoàn thiện thể thứ 4, tức là họ nhận ra chiều không gian thứ 4, thế giới vô hình và sức mạnh của tâm linh. Sự rung động của thể thứ 4 không đỏi hỏi phải loại bỏ sự tham dục, lòng sân hận… nhưng nếu duy trì đạo đức xã hội hiện giờ cộng với sức mạnh vô bờ bến của năng lượng hạt nhân, năng lượng siêu hạt nhân… thì khả năng người Trái đất tranh giành chủ quyền trên Mặt trăng là hoàn toàn có thể xảy ra.

    Một số giả thuyết từ các nhà tâm linh, điển hình như Hội Thông Thiên Học cho rằng hòng tránh cho nhân loại sự tuyệt diệt như nền văn minh Atlantis trong quá khứ, các linh hồn cao cả đã cho phép một sự can thiệp hạn chế trong đợt chuyển thế vào cung Bảo Bình lần này. Các linh hồn chưa phát triển được thể thứ 5 (lòng từ bi) sẽ phải dừng cuộc tiến hóa của mình để các linh hồn phát triển hơn hoàn thiện con đường “thăng lên” của mình. Đây là điều được nhắc đến trong Kinh Thánh và câu chuyện “ngày phán xét” chắc là có ý nghĩa như vậy.

    Sẽ không có biến động lớn cho địa cầu?

    Nếu dựa trên giả thuyết một nền văn minh chỉ tồn tại trong quãng thời gian 2.160 năm, nhân loại vẫn chưa đi vào cung Bảo Bình thì “nền văn minh thứ 4” sẽ còn tồn tại đến hơn 4.320 năm nữa. Nghĩa là sau năm 2012 không có tận thế, không có hiện tượng Trái đất chuyển trục…???

    Điều này cũng tương đối phù hợp với một số lời sấm truyền, sẽ có một đợt thanh lọc nhân loại để xây dựng một thời đại minh triết ở chu kỳ cuối của nền văn minh.

    ——–

  17. #17

    Mặc định Sau ‘tận thế’ sẽ là thời đại Bảo Bình?

    NHỮNG BÍ THUẬT "HUỜN TINH BỔ NÃO"

    TRONG TRUYỀN THỐNG DƯỠNG SINH PHƯƠNG ĐÔNG
    Lương Y Võ Hà

    Theo y học cổ truyền, tinh khí là phần tinh hoa của ngủ tạng lục phủ, là gốc của thân người. Mọi phương pháp dưỡng sinh đều chú trọng đến việc giữ tinh, tránh làm cho tinh hao khí tán. Đặc biệt trong một số trường hợp, những thanh thiếu niên, những người sống độc thân, ly thân, tu sĩ… thì yêu cầu dưỡng sinh về mặt tình dục còn bao hàm ý nghĩa giải toả được những ức chế sinh lý và thăng hoa năng lực tính dục để tăng cường sức khoẻ và phát triển trí tuệ.
    Quan niệm về tình dục trong y học cổ truyền.
    Tình dục là một nhu cầu tự nhiên của con người. Nam nữ đến độ tuổi từ 12 đến 14 tuổi khi sự phát dục đầy đủ tất sẽ phát sinh ham muốn, sẽ xảy ra mộng tinh. Sinh hoạt tình dục hợp lý có thể khai thông tình chí, làm cho Can khí được sơ tiết, tâm huyết được thông suốt và tinh thần phấn chấn. Ngược lại, việc tiết dục lâu ngày có thể dẫn đến Can khí uất kết, khí huyết ứ trệ không đạt được mục đích dưỡng sinh. Trong cuộc sống hôn nhân, sinh hoạt hoạt tình dục không những duy trì nòi giống mà còn góp phần quan trọng trong việc làm cho âm dương hoà hợp, kết nối 2 tâm hồn và bảo đảm hạnh phúc lứa đôi. Do đó, việc bế tinh hay giữ tinh mang ý nghĩa dưỡng sinh không phải là tuyệt dục hoặc kềm hảm tình dục mà là không phí phạm tinh lực. Ông Tưởng Giới Tân, một đại y gia thời nhà Minh, Trung Quốc, đã viết "Dục không được cấm, cấm làm tinh kiệt. Tinh bất khả kiệt, kiệt sẽ tản hết. Tinh có thể sinh khí. Tinh nhiều thì khí vượng. Khí vượng thì tinh thần vượng. Tinh thần vượng thì người khỏe. Người khoẻ sẽ ít bệnh".
    Nhu cầu thăng hoa năng lực tính dục.
    Theo y học cổ truyền, tinh khí là phần tinh hoa của ngủ tạng lục phủ, là gốc của thân người. Tinh khí được tạo thành từ tinh tiên thiên ở tạng thận và tinh hậu thiên chuyển hoá từ thức ăn. Người xưa ví tinh như chì vì nó trầm trọng dễ lọt mất, lại ví như cọp vì tính nó hung hăng khó hàng phục. Ở người biết tu dưỡng, sinh hoạt tình dục điều độ, một phần tinh lực có thể được chuyển thành khí để giúp cơ thể khoẻ mạnh và tinh thần thêm minh mẩn. Điều nầy được gọi là "huờn tinh bổ nảo". Trái lại ở những người đam mê tửu sắc, thường nghỉ đến sự hoan lạc thì thần sẽ làm cho khí chuyển hoá thành tinh, kích động dục tình khiến tinh thêm hao, thể xác suy yếu và tinh thần mờ tối. Do đó có câu nói "chơn nhơn luyện tinh hoá khí, phàm nhơn hoá khí làm tinh". Mọi pháp dưỡng sinh đều chú trọng đến việc giữ tinh, tránh làm cho tinh hao khí tán. Đặc biệt trong một số trường hợp, những thanh thiếu niên, những người sống độc thân, ly thân, những tu sĩ… thì yêu cầu dưỡng sinh về mặt tình dục còn bao hàm ý nghĩa giải toả được những ức chế sinh lý, giữ được cân bằng tâm lý, không bị ám ảnh về mặt tình dục và có khả năng thăng hoa năng lực tính dục để tăng cường sự khoẻ mạnh về thể xác cũng như sự minh mẫn về tinh thần. Nói cách khác thăng hoa được năng lực tính dục là một yếu tố quan trọng dẫn đến “sự thoải mái hoàn toàn về các mặt tinh thần, thể chất và xã hội"* chưa kể đến việc có thể tái hấp thu tinh lực để tăng cường sức khoẻ và tuổi thọ. Đây là ý nghĩa quan trọng của nhu cầu thăng hoa năng lực tính dục trong bối cảnh xã hội hiện nay khi mà con người phải đối mặt với quá nhiều cám dỗ, từ thời trang, phim ảnh đến sách báo, đĩa, mạng.... Ngoài ra, những kỷ thuật nầy - căn bản là những kỷ thuật thiền - còn có công năng cường tinh, bổ thận để điều trị những chứng rối loạn sinh dục kể cả những rối loạn do trầm cảm, do căng thẳng tâm lý gây ra.
    Sự khác biệt giữa những kỹ thuật giao hợp gián đoạn và huờn tinh bổ não.
    Ngày xưa những kỷ thuật luyện tinh hoá khí chỉ liên quan đến những truyền thống của Đạo Lão, của nhưng đạo sĩ hoặc chơn nhơn xuất thế. Họ cho rằng những hiểu biết nầy chỉ dành cho những bậc thức giả, những người cần sự phát triển về tâm linh và sự hợp nhất với vũ trụ. Nếu để những kỷ thuật nầy rơi vào tay những người không có căn cơ hoặc không có trình độ đạo đức thích hợp sẽ chỉ gây hại cho xã hội. Do đó những kỷ thuật luyện tinh hoá khí thường chỉ được khẩu truyền trực tiếp từ người thầy đến từng đệ tử. Hoạ hoằn có được ghi chép thì cũng dưới dạng ẩn ngữ để người ngoài không thể biết được. Vì vậy huờn tinh bổ não đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau, thâm chí lệch lạc không đúng với tinh thần của đạo dưỡng sinh. Phần đông đã nhầm lẫn giữa giao hợp gián đoạn và huờn tinh bổ não. Van Gulik một nhà nghiên cứu nổi tiếng của phương Tây về tình dục học phương Đông cũng cho rằng phương pháp huờn tinh bổ não chỉ là một hình thức giao hợp gián đoạn (Coitus Interruptus). Quan điểm nầy có lẽ bắt nguồn từ những tác phẩm Tố Nữ Kinh hoặc Ngọc Phòng Bí Quyết, những quyển sách cổ của Trung Quốc viết về nghệ thuật phòng trung. Trong Tố Nữ Kinh khi được tham vấn về nghệ thuật làm tình sao cho thân thể vẫn giữ được cường tráng, Bành Tổ* đã nêu lên nguyên tắc "đa ngự tiểu tiết” hoặc "giao nhi bất tiết" tức giao hợp nhiều lần hoặc giao hợp với nhiều người nhưng giữ không cho xuất tinh hoặc xuất tinh chỉ một lần. Điểm chủ yếu trong giao hợp gián đoạn là người Nam chủ động ngưng động tác giao hợp khi gần đến giai đoạn xuất tinh. Điều nầy nhằm mục đích tiếp tục kéo dài thời gian giao hợp sau đó. Một hình thức giao hợp gián đoạn khác cũng thường được nhắc đến là khi đến thời điểm khẩn trương người Nam nhanh chóng rút dương vật ra ngoài và dùng hai ngón tay trỏ và giữa nhập chung ấn vào vùng huyệt Hội âm đồng thời hít vào thật mạnh để ngăn chặn xuất tinh. Những biện pháp nầy dẫn theo các hệ quả: (1) Người Nam luôn trải qua sự tập trung và căng thẳng tâm lý để chế ngự bản thân trong lúc giao hợp nhằm tránh việc xuất tinh. (2) Việc ngưng giao hợp khi chưa đến điểm xuất tinh sẽ giữ lại một sự sung huyết nhất định ở vùng hạ tiêu kèm theo sự căng cơ và căng thẳng thần kinh tương ứng. (3) Hoạt động thần kinh, sự sung huyết và tính cường cơ kéo dài trong giao hợp gián đoạn luôn kéo theo sự tiêu hao năng lượng . Đây là diều tương phản với quá trình thư giản để bảo toàn năng lượng của hườn tinh bổ não. (4) Mục đích của giao hợp gián đoạn là hoan lạc và hoan lạc kéo dài. Đó là tư tưởng, là thần. Thần tất sẽ kéo theo khí. Khí sẽ hoá thành tinh tiêu thoát lúc nầy hoặc lúc khác theo đường hạ căn mà không thể thăng hoa lên não được. Đây là ý nghĩa "phàm nhơn hoá khí làm tinh". Như vậy, giao hợp gián đoạn không có tác dụng hoá khí. Hơn nữa, những kỷ thuật nầy về lâu về dài có thể gây ra tình trạng khí trệ huyết ứ tác động xấu đến sức khoẻ nếu người thực hành không có các biện pháp thư giãn triệt để. Người xưa đã ví huờn tinh bổ não như một quá trình luyện đan. Đan điền là lò nấu luyện. Sau mỗi lần chưng, cất là một lần được bồi bổ. Ở những người trẻ, khoẻ hiệu quả của một thang “đại dược” là sự tĩnh mĩnh và phấn khích có thể cảm nhận được ngay giống như vừa dùng xong một liều Sâm dược. Ngược lại, sau mỗi giao hợp gián đoạn hoặc ít hoặc nhiều vẫn có sự hao tán khí lực và sự kém thoải mái về tâm lý.
    Phương pháp huờn tinh bổ não của đạo gia.
    Hoàn toàn ngược lại với những kỷ thuật giao hợp gián đoạn, trong phương pháp huờn tinh bổ não từ tư tưởng đến thực hành đều không liên quan gì đến ý niệm sắc dục hoặc động tác giao hợp. Huờn tinh bổ não là những phương pháp thiền định nhằm chuyển hoá cảm xúc và tái hấp thu năng lượng. Đó là quá trình dùng tư tưởng (thần) để chuyển hoá tinh thành khí để khí lại nuôi thần (bổ não). Nguyên tắc chung là dùng ý niệm tập trung tinh lực tại Đan điền và dùng ý chuyển khí đi vòng quanh cơ thể theo hai mạch Nhâm Đốc gọi là vòng Tiểu châu thiên để qua đó nuôi dưỡng thấm nhuần khắp các phủ tạng kinh lạc. Sách Dưỡng chơn tập mô tả chu trình nầy như sau "Kẻ biết tu dưỡng thì đem thần hoả và tinh thuỷ ngưng lại một chỗ như con rắn với con qui, quấn quít lấy nhau, hợp thành một khối, chẳng dễ lìa nhau, lâu dần hết sức tịnh mới sinh động, chơn hoả đốt chưng, kim tinh phát hiện, xoi quan thấu đỉnh, thấm dưới rưới trên. Đây là đạo thâm căn cố đế, cửu thị trường sinh”. Theo ý nầy, ngồi lặng yên định tĩnh, quan sát Đan điền. Lâu dần cực tịnh sẽ sinh động, tinh lực phát khởi, dù không có dâm niệm nhưng cơ quan sinh dục tự máy động hoặc căng cứng. Đó là lúc phát sinh "đan dược”. Lúc nầy hành giả hít một hơi thở nhẹ nương theo mạch Nhâm xuống Đan điền, dùng ý chuyển khí từ Đan điền qua Trường cuờng theo mạch Đốc đi lên thẳng đến Bách hội. Từ Bách hội thở ra từ từ đưa khí trở lại Đan điền để hoàn tất một vòng hoá khí. Tiếp tục làm lại nhiều vòng cho đến khi bộ phận sinh dục trở lại bình thường.
    Trên thực tế, để tạo được hiệu ứng hoá khí, hành giả thường phải trải qua giai đoạn ngồi thiền và tập luyện chuyển khí theo vòng Tiểu châu thiên. Khi việc luyện tập trở thành phản xạ có điều kiện thì mỗi lần có cảm xúc về tình dục hoặc khi bộ phận sinh dục căng cứng, chỉ cần ngồi vào tư thế toạ thiền, mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nhẹ nuớu răng trên, tâp trung vào vùng Đan điền thì việc hoá khí sẽ tự động diễn ra cho đến khi hoàn tất. Trong thời gian đầu, nhất là đối với những người trẻ, tinh lực dồi dào nhưng công lực hoá khí còn kém, có thể dùng một biện pháp tích cực hơn. Tập trung tư tưởng vào những hơi thở ngắn và hít vào liên tục. Hít vào (hít) trong khi chuyển ý từ huyệt Hội âm lên Đan điền. Sau khi thở ra (hà) lại tiếp tục hít vào . Quá trình hít hà cũng chính là quá trình chuyển tinh hoá khí tương ứng từ vùng Hội âm lên Đan điền. Hít hà liên tục cho đến khi vùng sinh dục mềm nhủn bình thường. Lúc bấy giờ để hoàn tất phần hoá khí hành giả có thể thực hành khoản 3 vòng Tiểu châu thiên như đã mô tả ở phần trên.
    Thông thường mức độ hóa khí sẽ tuỳ thuộc vào tuổi tác, năng lực tính dục và công lực tu tập của mỗi người. Có những trường hợp vận luyện vòng Tiểu châu thiên có hiệu quả, sức khoẻ tăng tiến, tinh lực dồi dào nhưng lại không giữ được tinh. Tinh vẫn xuất ra trong khi ngủ. Triệu chứng nầy được gọi là di thất. Di thất xảy ra vì luyện thần chưa đủ. Chi cần gia tăng thời lượng ngồi thiền lên là được, đặt biệt là cần ngồi thiền khoảng 5 đến 10 phút liền trước khi đi ngủ. Luyện thần giúp gia tăng công lực, gia tăng khả năng hoá khí. Điều quan trọng khác và cũng là điều mật nhiệm trong phép huờn tinh bổ não là chính nhờ luyện thần mà hành giả không bị mộng tinh. Nhiều người không hiểu được điều mật nhiệm nên đã bỏ ngang việc ngồi thiền hoặc luyện khí công khi xảy ra tình trạng nầy. Ngồi thiền đủ, thần sẽ minh. Thần minh sẽ giúp cho người tập thức tĩnh và ngồi vào tư thế kịp thời mỗi khi bộ phận sinh dục căng cứng trong giấc ngủ. Trong Tĩnh toạ Châu thiên pháp, vận hành Tiểu châu thiên giúp khai thông kinh mạch, tăng cường chơn khí và gia tăng tinh lực. Tuy nhiên có giữ được tinh có hoá thành khí được hay không phải do nơi thần. Thần là chủ đạo. Theo quy luật "niệm dứt thì thần lại, niệm động thì thần đi”, tất cả các phương pháp ngồi thiền đều có tác dụng luyện thần và dưỡng thần. Tuy nhiên, đạo gia vẫn có một cách luyện thần trực tiếp và khá đơn giản thông qua đôi mắt. Đó là cách tập trung nhìn chăm chú vào một điểm đen. Đây cũng là một bài tập thiền cơ bản của Yoga có tên là Trataka. Bài tập nầy giúp phát triển ý chí, gia tăng khả năng tập trung tư tưởng và dồn tinh lực lên bộ não. Cách thực hành như sau. Vẽ một vòng tròn đen có đường kính từ 1cm đến 1,5cm trên một tờ giấy trắng. Dán tờ giấy trên tường cách chỗ ngồi khoảng 1m đến 1,5m sao cho vòng tròn đen nằm ngang tầm mắt. Ngồi trong tư thế toạ thiền. Có thể ngồi kiết già, bán già hoặc xếp bằng. Eo hơi thót lại. Lưng thẳng. Vai buông lỏng. Cằm hơi thu vào. Hai tay đặt lên hai đùi. Ngồi thoải mái, tập trung sức chú ý vào vòng tròn đen. Lúc đầu tập mỗi lần khoảng 5 phút. Thời gian sẽ từ từ nâng lên theo khả năng.
    Một số truyền thống hoá khí khác.
    Tất cả những nhà nghiên cứu tâm linh đều cho rằng sức mạnh tình dục tiềm tàng một mảnh lực huyền bí có thể giúp nâng cao sức khoẻ và trí tuệ của con người. Những đạo sư Yoga cho rằng năng lực tính dục có thể biến đổi thành tinh chất ojas, một yếu tố cần thiết để giúp hành giả đạt đến tâm thức đại đồng. Chính ojas sinh ra khí lực, sức mạnh và sự hấp dẫn, không những để đạt đến sự cao thượng mà còn giúp con người thành công trong mọi lãnh vực nhất là lãnh vực sáng tạo của trí tuệ. Do đó, hầu hết những tu sĩ Mật tông của Ấn độ giáo và Phật giáo đều có thực hành công phu mở luồng hỏa hầu Kundalini để giúp thăng hoa năng lực tính dục và nâng cao tâm thức. Đối với các tông phái khác, nếu không luyện hỏa hầu, không vận châu thiên thì việc giữ gìn chánh niệm là yếu tố quan trọng. Đồng nhất với quan điểm của đạo gia, tất cả mọi trường phái tâm linh, tôn giáo đều không có khuynh hướng đè nén những cảm xúc tình dục mà phải thăng hoa nó. Trong quá trình hành thiền, những nhà sư Phật giáo luôn chú trọng việc tĩnh giác trong từng sát na một để phát hiện và quan sát tiến trình sinh, diệt của mọi loại cảm xúc để qua đó đối trị và thăng hoa nó. Đối với Yoga, đạo sư Sri Goenka đã nói về cách xử lý những ham muốn tình dục như sau "sự bộc lộ hay đè nén những cảm xúc nầy đều có hại. Mỗi khi anh thấy sự thèm khát nổi lên anh hãy quan sát nó, tự nó sẽ mất đi năng lực đối với anh”. Cách quán sát nầy tự nó cũng có công năng chuyển hoá tinh thành khí. Sri Aurobindo, một đạo sư Yoga khác cũng đã từng dạy đệ tử "hãy quan sát với một tâm thức nhân chứng thì các con sẽ ngạc nhiên mà thấy rằng sự kích thích đó sẽ tan biến đi rất mau và sức mạnh tình dục mạnh mẻ đang phát triển sẽ được thăng hoa biến đổi thành năng lực cho bản thân".
    Như vậy ta nhận thấy có một sự tương đồng rất lớn trong quá trình chuyển tinh thành khí. Tất cả các phương pháp đều phải thông qua năng lực của thiền. Một số phương pháp thiền có thể không bàn về khí hoá, không nói đến kinh lạc nhưng khi thiền đã đạt đến một trình độ nhất định thì thần sẽ minh, khí sẽ thịnh, chân khí gia tăng và chu thiên sẽ tự thông. Đây là một qui luật khí hoá tự nhiên. Tuy nhiên những cách nầy chỉ thích hợp cho những tu sĩ. Những tu sĩ có cuộc sống thanh tịnh, có thời gian tu tập nhiều, định lực cao. Do đó thiền có thể giúp chuyển hoá cảm xúc, thăng hoa tinh lực và cuối cùng là sự thư giãn triệt để để mang lại sự thoải mái trọn vẹn. Ở người bình thường, cuộc sống bận rộn lại va chạm nhiều cám dỗ, năng lực thiền có giới hạn sẽ khó đạt được hiệu quả. Những trường hợp nầy phương pháp chuyển tinh hoá khí của đạo gia sẽ thích hợp hơn.

     Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế Giới, sức khoẻ là sự thoải mái hoàn toàn về các mặt tinh thần, thể chất và xã hội chứ không phải chỉ là tình trạng không bệnh tật.
     Bành Tổ là một nhân vật thời cổ đại của Trung Quốc. Tương truyền Bành Tổ sống đến gần 800 tuổi có 19 vợ và 900 tì thiếp.
    Last edited by dienthoai; 05-06-2011 at 06:31 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tuyệt chiêu luyện bùa yêu bí truyền của người Dao
    By OM_DZAMBHALA in forum Cộng đồng Mạng XH,Trò chuyện vui, Spam, Xả stress
    Trả lời: 11
    Bài mới gởi: 11-06-2018, 06:48 PM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  3. TÂM VŨ TRỤ
    By doxuantho in forum Đạo Việt Nam
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 26-03-2012, 02:27 PM
  4. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM
  5. BÀ LA MÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
    By aptruong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 19-01-2011, 12:58 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •