kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: Bí ẩn về người chữa bệnh bằng tâm linh .

  1. #1

    Mặc định Bí ẩn về người chữa bệnh bằng tâm linh .

    Như một cơ duyên, trong một lần đến thăm nhà chị đồng nghiệp cơ quan cũ, tôi được biết đến một phương pháp chữa bệnh khá đặc biệt của một người thầy thuốc, không dùng thuốc, chữa bệnh từ xa, chữa bằng nước trắng…. vị thầy thuốc đó có tên là Nguyễn Đức Cần, mọi người còn gọi là cụ Trưởng Cần.


    Phương pháp chữa bệnh của cụ cho đến nay vẫn là một bí ẩn đối với mọi người. Các nhà khoa học cho đó là cách chữa bệnh bằng thôi miên, tự ám kỷ. Chữa bằng trường sinh học …tất cả mới chỉ dừng ở mức nghiên cứu. Nhiều người cho rằng, nó huyền bí không thể hiểu được vì nó xa lạ với các quy luật vật lý thông thường.

    Khi tìm hiểu về cuộc đời và con người cụ, tôi chợt nhận ra rằng, cách chữa bệnh của cụ so với cách chữa bệnh của một số vị thiền sư đạt đạo trong Phật giáo có sự tương đồng. Ở thời của cụ, Phật giáo được rất ít người biết đến nên nhiều người cho rằng, phương pháp chữa bệnh đó là bịp bợm, dùng bùa ngải, yêu thuật chữa bệnh…

    Ngày nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng, các giáo lý Nhà Phật ngày càng được khoa học chứng minh sự chính xác, tính thực tiễn của nó. Sự uyên thâm, vi diệu, bất khả tư nghì trong các Kinh, Chú của các đức Phật đã được thể hiện qua một số năng lực thần thông của các vị thiền sư.

    Hiện nay, chúng ta lại có thêm một nhân chứng sống nữa đó là sự hiện thân, cách chữa bệnh của cụ Trưởng Cần - Vị thầy thuốc hành đạo Bồ tát. Vì sao tôi xưng dương tán thán công đức của cụ như vậy, một lần nữa xin được dùng giáo lý Phật đạo giải thích.

    Sống thanh cao, hết lòng vì người bệnh

    Những tư liệu về cuộc đời cụ Trưởng Cần có khá nhiều. Nhưng chủ yếu nói về tiểu sử, tấm gương đạo đức và phương cách chữa bệnh khác biệt, khá ly kỳ của cụ. Để bạn đọc hiểu về con người cụ, tôi xin trích dẫn một chút đoạn về cuộc đời và con người cụ :

    Cụ Nguyễn Đức Cần sinh ngày 29-12-1909 (Kỷ Dậu) ở thôn Đại Yên - Ngọc Hà - Quận Ba Đình – Hà Nội. Cụ là người có học vấn khá, thông thạo tiếng Pháp. Cụ hoạt động cách mạng trước năm 1945. Đã từng là đại đội trưởng đội Lam Sơn, bảo vệ Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến.

    Các cụ già trong làng kể lại rằng, khi bà cụ Khế (Hoàng Thị Khế - mẫu thân ) sinh người con trai thức năm vào đêm 30 tết thì đêm hôm ấy bỗng trời sáng trưng như có trăng rằm. Phải chăng đó là một điềm lành báo rằng có một bậc kỳ tài xuất thế để giúp đời.

    Khi cụ Tổng ông (Nguyễn Đức Nhuận) bị bệnh trong bụng nổi lên một cái u to như quả trứng không thầy thuốc nào chữa khỏi thì Cụ Tổng bà đã mời một vị thầy về làng chữa. Người làng không hiểu ông thầy đó chữa bệnh như thế nào nhưng chỉ sau đó vài hôm thì cụ Tổng ông đã khỏi bệnh.

    Thật là một sự thần kỳ. Nhưng điều mà gia đình cụ thêm khâm phục là vị thầy đó không nhận tiền thù lao chữa bệnh mà chỉ nói chữa bệnh làm phúc thôi.

    Cụ Tổng bà quyết định cho con trai theo học vị thầy đó vì ông thầy quá giỏi lại là người đạo cao đức trọng… Cậu Nguyễn Đức Cần đã theo vị thầy đó đi đến những đâu, đã học như thế nào, đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.

    Sau này cụ Cần có kể rằng: Cụ đã đi đến vùng Sơn Tây – Ba Vì, rồi đến Thác Bờ Hoà Bình, qua các vùng miền núi Tây Bắc và sang cả vùng Thượng Lào, Phong Sa lỳ…

    Thời gian bao lâu không thấy nói nhưng có một chi tiết là khi ra đi chỉ là một cậu bé, trở về làng đã là một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

    Từ những năm 40 cụ Trưởng Cần đã bắt đầu chữa bệnh giúp cho nhiều người. Lúc đầu chữa trị cho những người trong họ tộc thân quen về sau cụ bắt đầu nhận chữa rộng rãi cho nhiều người.

    Phương pháp chữa bệnh của cụ rất đặc biệt, người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời, cụ sẽ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về. Cụ chữa bệnh bằng nước trắng, dùng giấy có chữ ký đốt hoặc gián lên chỗ đau. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa bệnh từ xa. Cụ chữa nhiều loại bệnh như: điên, ung thư, đau dạ dầy, sơ gan cổ trướng, máu trắng thấp khớp, câm điếc, liệt tay, hen….

    Ngày 13-7-21983, cũ Trưởng Cần đã mất đi trong sự tiếng thương vô hạn của nhiều người. Một cái chết nhẹ nhàng, bình thản mà cụ đã biết trước đó nhiều ngày. Nhiều người coi cuộc đời của cụ như một vị thánh nhân cứu thế.

    Với khả năng đặc biệt của mình, cụ Trưởng Cần đã chữa cho không biết bao nhiêu bệnh nhân, kể cả những người thập tử nhất sinh, vô phương cứu chữa. Cụ đã mang lại cuộc sống cho rất nhiều người, mang lại hạnh phúc, nụ cười cho gia đình họ.

    Cụ chữa bệnh không những không lấy tiền mà cụ còn giúp bệnh nhân thấy được những lỗi lầm của họ để sửa tính nết. Tấm gương của cụ thật cao đẹp vừa chữa khỏi bệnh, vừa khuyên bảo “đức làm người”.

    Cụ Trưởng Cần đã dùng phương cách nào để chữa bệnh. Cơ sở của những phương pháp đó là gì?

    Luyện công tu hành, bắt ấn, trì Chú có thể chữa được bệnh

    Hiện nay, các nhà khoa học vẫn nghiên cứu phương cách chữa bệnh của cụ theo chiều hướng trường năng lượng… Theo lời kể của một nhà báo. Trong một lần phỏng vấn, khi được hỏi về phương cách chữa bệnh của cụ, Cụ Trưởng Cần đã nói: “Nếu nghiên cứu theo phương pháp trường năng lượng…là các anh đã đi sai đường rồi. Hãy lên núi mà học … Các anh đã mang cái hữu hạn để nghiên cứu, giải thích cái vô hạn”.

    Khi nói chuyện với nhà khoa học Nguyễn Phúc Giac Hải cụ nói : “Vâng thưa ông, tôi chữa bệnh bằng cái đầu của tôi, nhưng người ta cứ bảo tôi là phù thuỷ”.

    Cũng như những năng lực, khả năng của các nhà ngoại cảm, phương cách chữa bệnh của cụ nếu dùng khoa học để giải thích thì mãi mãi sẽ không giải thích được. Mãi mãi sẽ không tiếp cận được đến chân lý. Không thể dùng quy luật vật chất để giải thích quy luật về tâm linh. Cũng như không thể dùng trí tuệ hữu hạn mắt thường nhìn thấy để giải thích cái vô hạn của thế giới tam thiên đại thiên.

    Chỉ có trí Không được phát sinh từ thiền định mới có thể nhìn thấu rõ cái vô hạn đó. Đó cũng chính là thuyết lý thuộc về đạo Phật.

    Hiện nay, nhiều người gọi cụ là Nhà văn hoá tâm linh. Vì chưa được tiếp xúc với cụ Trưởng Cần, tư liệu về cụ chủ yếu thiên về cuộc sống và phương pháp chữa bệnh, trong bài viết này tôi xin được mang đến bạn đọc có một góc nhìn khác về cuộc đời và con người cụ Trưởng Cần.

    Trong câu nói được trích dẫn trên đây, ta thấy rõ một điều, cơ sở phương pháp chữa bệnh của cụ không phải là dùng năng lượng trường sinh học cơ thể người, cũng không phải dùng bùa ngải, yêu thuật để chữa bệnh. Kiến thức cụ tiếp nhận được là từ một vị thầy thuốc tu hành trên núi.

    Trong phần tiểu sử của cụ có đoạn: Sau năm 1950, từ vùng núi trở về, Cụ sống tại thôn Đại Yên như một nông dân trồng hoa. Việc Cụ tu luyện thế nào không ai được biết. Người ta đồn rằng, Cụ đã đắc đạo tại đền Và – Sơn Tây (đền thờ Thánh Tản Viên). Cụ cũng không hề xác nhận hoặc thanh minh điều đó.

    Cụ Trưởng Cần cũng từng nói: Cách chữa của tôi không học một trường nào cả. Từ khi còn ít tuổi, tôi đã phải bỏ nhà ra đi, mặc dù nhà rất giàu. Tôi phải chịu khổ lên rừng mà học mới có thầy dạy, phải học khó lắm.

    Trong Phật giáo chúng ta thường nghe nói đến các vị cao tăng có thể làm nên rất nhiều điều phi thường như : Hô mưa gọi gió, thần thông, bắt ấn chữa bệnh… Vì sao họ đạt đến những trạng thái siêu vật lý như vậy, đó là do công phu tu hành, trì Chú…mà có được. Để có thể đạt được những khả năng siêu việt đó các hành giả tu hành phải có một sự tinh tấn nỗ lực rất lớn.

    Theo phái Mật Tông, bí mật thân thể của con người và vũ trụ , trời đất có một sự tương quan liên hệ với nhau rất mật thiết . Nhưng vì đa số con người , không có luyện tập để có đại trí tuệ và không được thông qua sự luyện tập hợp lý, nên vĩnh viễn không thể phát huy được, sự tác dụng tương hỗ nay. Vì thế đã không khai mở được sự bí mật tương quan của cơ thể con người với vũ trụ.

    Có nhiều phương pháp luyện tập, truyền thống bí mật được lưu truyền từ ngàn xưa có thể giúp con người nhanh chóng, luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn. Có thể giúp con người liên lạc, cảm ứng được với các Thần Linh và kết hợp con người với vũ trụ lại làm một, tiến đến đưa con người đến quả vị Thánh và Phật .

    Trong Phật giáo, các vị Chư Phật, Bồ Tát không phải là những thánh nhân sáng tạo ra vũ trụ mà là người thầy dẫn đường, vị thầy thuốc chữa bệnh khổ về thân tâm cho chúng sinh. Nếu Kinh Phật là phương cách hướng dẫn chữa bệnh thì các thần Chú chính là thuốc chữa bệnh.

    Sự vi diệu bất khả tư nghì của đạo Phật chính là các Chú. Tà ma ngoại đạo cũng sử dụng các câu thần Chú của đạo Phật rất nhiều. Các Chú rất linh nghiệm, nhưng không phải ai trì Chú cũng có được linh ứng hiệu nghiệm. Để đạt được đến mức đó không những phải tu hành đạt mức nội lực thâm sâu mà còn phải thực hành đạo Bồ Tát.

    Theo Hoà thượng Tuyên Hoá thì, dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành bệnh của chúng sinh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”.

    Sự linh nghiệm của các Thần Chú

    Phật pháp bao la, thiên binh vạn quyển, có rất nhiều câu thần Chú. Duyên khởi của các Chú thường được xuất phát từ sự quán chiếu của các đức Phật, Bồ Tát về sự khổ về thân, tâm của các chúng sinh mà các ngài tuyên thuyết.

    Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ tát Quán Thế Âm đã nói : “Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: 'Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm Đà Ra Ni nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sinh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi lắng nghe.

    Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế”

    Duyên khởi của thần Chú Dược Sư, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy cho Mạn Thù Thất Lợi Bồ-tát trong kinh Dược Sư Bổn nguyện công đức: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi chưa chứng được đạo quả Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, v.v….

    Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên là Định diệt trừ tất cả các khổ não cho chúng sinh. Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà-la-ni”

    Hiện nay các vị tăng sĩ thường dùng hai Chú là : Đại Bi Tâm (Kinh Đà Ra Ni) và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn nguyện công đức để chữa bệnh thân và tâm cho chúng sinh. Đi sâu vào phương cách trì Chú chữa bệnh của hai bộ Kinh này ta sẽ tìm ra được lời giải cho phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.

    Trong Kinh Đà Ra Ni, khi nói về Chú Đại Bi Tâm, Phật bảo ngài A Nan: “Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi Tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà Ra Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sinh trong ba cõi.

    Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng Đà Ra Ni này mà trị thì không bẹnh nào chẳng lành, dùng đại thần Chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sinh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sinh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bệnh, dùng Chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có”.

    Theo Hoà Thượng tuyên Hoá thì Đại Bi Chú Đà Ra Ni từ cầu 24 đến câu 74 chính là bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp diệu dụng. Khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.

    Khi một người tu tập đến “Tác pháp mạc ly ngã” thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Thủ nhãn ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.

    (Còn tiếp)

    Nguồn http://www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/13847.html

  2. #2

    Mặc định

    Trong phần tiếp của bài viết, tôi xin được đưa ra một số phương cách chữa bệnh của các vị thiền sư và phương cách chữa bệnh của cụ Trưởng Cần để bạn đọc tham khảo.

    Tất nhiên, do duyên nghiệp và căn cơ khác biệt của mỗi người nên trong phương cách chữa bệnh không thể giống nhau một cách hoàn toàn.

    Chữa bệnh bằng nước lạnh…

    Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng thời cận đại ở Trung Quốc, tu hành tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ thường tụng Kinh kiêm trì chú Đại Bi.

    Đại sư thường gia trì Chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bệnh mà các vị thầy thuốc khác đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng.

    Có một lần, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì Chú vào nước bảo rưới lên loài mối, sau đó tự nhiên chúng kéo nhau đi mất.

    Qua phương các chữa bệnh của Ấn Quang đại sư ta thấy có một sự khá tương đồng với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần. Trong câu chuyện kể của nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải có viết:

    “Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, cụ bảo người bệnh đốt miếng giấy ấy trên một chậu nước rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể.

    Rõ ràng khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan, thế nhưng khi tôi chụp ảnh người bệnh ấy khi chưa chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể và sau khi rửa cái nước đó thì sau hai tuần lề nó đã bớt đi rất nhiều.

    Trước đó người bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi”….


    Trường hợp khác: “Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cái cốc nước đó”.

    Trong bài viết này tôi sử dụng khá nhiều những lời thuyết giảng của Hoà Thượng Tuyên Hoá. HT.Tuyên Hoá là một vị cao tăng đắc đạo người Trung Quốc đã chứng ngũ thông, là vị tăng sĩ diễn giải Chú Đại Bi gần với yếu nghĩa kinh và là người rất nổi tiếng trong việc bắt Ấn, kiết Ấn, trì Chú chữa bệnh.

    Khi nói về việc dùng nước lạnh chữa bệnh, HT.Tuyên Hoá chỉ phương cách như sau: “Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì Chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh.

    Để ly nước trì chú Đại Bi có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn”


    Theo sự giải thích của HT.Tuyên Hoá thì câu Chú Hô lô hô lô hê ri (trong Chú Đại Bi) chính là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, cũng chính là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sinh khỏi những tai ương bệnh hoạn.

    Với phương pháp chữa bệnh theo kiểu trì Chú , Kinh Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang có đoạn : “Ông Mạn Thù này : Thấy ai nam, nữ nếu có bệnh khổ thì nên nhất tâm, vì người bệnh ấy, tắm gội sức miệng sạch rồi tụng chú 108 lượt vào thức ăn, hoặc vào vị thuốc, hoặc vào nước lọc, không có vi trùng rồi đem cho uống thì bệnh khổ gì cũng đều tiêu hết”.

    Theo Mật tông giáo thì, Thủ Ấn là một dạng ngôn ngữ đặc thù của bàn tay do nguyện lực và nhân duyên của chư Phật, Bồ Tát hay những vị đã giác ngộ phát nguyện.

    Hành giả khi kết ấn tương đồng với thủ ấn của một vị Phật, Bồ Tát hay một vị nào khác thì sẽ sản sinh ra một năng lượng tương ứng hòa nhập vào thân tâm hành giả như sự cảm nhận của chính đức Phật, Bồ Tát đã cảm nhận vậỵ.

    Phật, Bồ tát thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “Tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh: thân, miệng và ý.

    Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định.

    Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm…

    Chữa bệnh bằng việc viết một nội dung hay ký tự vào một tờ giấy

    Hoà Thượng Tuyên Hoá cũng kể rằng, ở Trung Quốc nhiều người đều biết có một vị Tiên nhân, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn” Chính là Tát bà tát bà trong Chú Đại Bi.

    Khi luyện công phu tu tập thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quý vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hay hãy tha cho anh ta trở về dương gian”.

    Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại.

    Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại.

    Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là ‘Nhất thiết lợi lạc’.

    Việc chữa bệnh bằng việc trì ấn vào một tờ giấy với một nội dung hoặc một ký tự nhất định rồi đốt đi theo phương cách trên ta thấy không khác nhiều so với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.

    Hầu hết, những bệnh nhân được cụ chữa đều theo phương pháp này. Với phương cách này cụ có thể chữa được bệnh cho nhiều bệnh nhân ở rất xa ( Đức , Tiệp, Canada…) mà không cần bất kỳ một loại thuốc nào hay một trường năng lượng nào.

    Có rất nhiều bệnh nhân được cụ chữa theo phương pháp này. Bài viết có hạn, tôi xin được trích dẫn một số trường hợp về phương cách chữa bệnh này của cụ.

    “Tôi có lên thưa lại với cụ thì cụ lại cho một mảnh giấy mang về, cụ dặn để trong người cho cô ấy yên tâm,cho thần kinh ổn định.

    - Thưa ông, xin ông cho biết mảnh giấy ấy như thế nào?

    - Mảnh giấy đó chỉ bằng cái bao diêm thôi, cụ viết một chữ vào đấy, sau đó cứ mỗi một tuần là tôi lên xin cụ, khoảng 4 tháng sau thì nhà tôi đã có thể tự lên trên cụ một mình và khoảng gần một năm thì nhà tôi khỏi hẳn."

    Trường hợp khác: “Tôi lên cụ, cụ cho mảnh giấy đề chữ sót rau, thế là hôm sau cháu khỏi, đến bệnh viện cũng phải ngạc nhiên. Cháu nội tôi bị chàm, cụ cho miếng giấy đặt lên trán, thế là khỏi. Đúng là một sự kỳ lạ….”.

    Qua lời kể của các bệnh nhân được cụ chữa thì họ chỉ nói là cụ viết một ký hiệu nào đó trên một tờ giấy nhỏ, sau đó đưa cho người bệnh đem về đốt hoặc dán lên chỗ đau, sau một thời gian bệnh nhân khỏi bệnh.

    Trước khi cụ đưa tờ giấy đó, sau khi người bệnh mang về, cụ làm gì không ai biết được. Tôi chưa thấy một tư liệu nào nói về vấn đề đó.

    Với phương cách chữa trị bệnh của cụ Trưởng Cần, hiện nay có người cho rằng, khả năng là Cụ sai “âm binh” hoặc một thế lực siêu nhiên chữa bệnh.

    Đây là một dự đoán không phải là không có cơ sở. Nếu dựa theo thuyết lý Phật đạo ta sẽ thấy người chữa bệnh cho cụ chính là những chúng sinh phát tâm nguyện gia bị, hộ trì cho hành giả phát tâm tụng kinh, trì Chú.

    Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Chúng sinh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần…

    Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ…

    Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại Bi. Long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối”.


    Trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện, đức Phật nói có 12 vị đại tướng Dược Xoa mỗi vị đầu có bẩy nghìn Dược Xoa quyến thuộc đi theo đều thề nguyện hộ trì, hộ vệ những người thọ trì Kinh Dược Sư.

    “Nếu có người nào thọ trì danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Quang Lưu Ly Như Lai cung kính cúng dàng. Quyến thuộc chúng con hộ vệ người ấy, khiết cho giải thoát hết thảy khổ nạn, có cầu nguyện gì đều được đủ cả, hoặc có ai cầu thoát khỏ bệnh tật, ách nạn cũng nên đọc kinh này.

    Lấy chỉ ngũ sắc mà kết thành chữ tên của chúng con - các vị Đại tướng Dược Xoa được như nguyện rồi sau hãy cởi ra.”

    Những chúng sinh đó là : Thiện thần, Long vương, Kim cang mật tích, đại lực Dược Xoa … Đó là những chúng sinh trong 10 pháp giới nhưng mắt người không nhìn thấy được. Đó cũng là những thế lực siêu nhiên có mặt khắp nơi trong cõi Ta Bà.

    Hiện tượng chữa bệnh của các vị thiền sư và cụ Trưởng Cần thể hiện sự vi diệu, bất khả tư nghì của các Kinh, Chú Phật.

    Cái vi diệu, bất khả tư nghì đó đã trở thành siêu tưởng, thần bí, không thể giải thích được đối với trí tuệ thế gian. Vì sao vậy? Vì trí tuệ thế gian chỉ tiếp nhận được cái hữu hạn thông qua nhục nhãn của con người nên không thể lĩnh hội được cái vô hạn của vũ trụ mà chỉ có trí tuệ xuất thế gian mới nhìn thấu được.

    Tôi nhớ, có một lần tôi kể cho một người bạn về hiện tượng dấu hiệu của người được vãng sinh lên thế giới Tây Phương Cực lạc. Sau khi chết thân thể nóng ấm như người còn sống, khuôn mặt trang nghiêm, thanh thoát. Trạng thái đó kéo dài 3 – 7 ngày tuỳ theo nghiệp lực của mỗi người.

    Người bạn đó bảo tôi là phi vật lý, hoang đường và cho đó là những trò lừa bịp của Phật giáo. Đó là cái nhìn của trí tuệ thế gian còn đối với những Phật tử theo Tịnh Độ Tông thì đó là bình thường và thực tế sau khi chết rất nhiều người tu theo pháp môn này có hiện tượng như vậy.

    Sau khi giải thích sự diệu dụng của Chú Đại Bi và 42 Thủ nhãn Ấn pháp HT. Tuyên hoá đã nói: “Những điều tôi phân tích trên đây có thể những bạn đọc mới phát sơ tâm bồ tát thất thật khó tin và nghi ngờ. Đức Phật đã hiểu điều đó vì căn cơ của chúng sinh Nam Diêm Phù Đề không dễ gì lãnh hội được những điều uyên thâm, vi diệu trong kinh điển Phật”.

    Đức Phật Thích Ca Mầu Ni trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện hiểu được trí tuệ thế gian của con người cũng thốt lên rằng: “Như ta khen ngợi công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ hành vi rất sâu của các đức Phật khó hiểu suốt lắm, ông có tin không ? …Ông A-Nan ơi ! làm được thân người đã là khó lắm nghe được danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thời lại khó hơn”.

    Nghiên cứu tiếp sự diệu dụng của Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, HT.Tuyên Hoá nói rằng “Nếu hành giả kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được.

    Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường”.


    Các phương pháp chữa bệnh của Phật giáo không phải ai cũng làm được. Ngoài việc luyện công tu hành, hành đạo Bồ Tát, vị thầy thuốc phải có nhân duyên với người bệnh.

    Có khi cùng một loại bệnh, bệnh nhân không có nhân duyên với thầy thuốc thì bệnh nhẹ trở thành bệnh năng, bệnh nặng không những chữa không khỏi.

    Theo HT.Tuyên Hoá: Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.

    Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn, tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.

    Viết đến đây có thể nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi, hiện nay có một số người chữa bệnh theo phương pháp của cụ Trưởng Cần nhưng đâu có thấy tu luyện gì. Vì sao phương pháp chữa bệnh của cụ lại là của các thiền sư Phật giáo mà không phải các đạo giáo khác….

    Để giải thích vần đề này tôi xin tiếp tục ở phần 3.


    Đây là tờ đạo mà cụ dùng để đưa cho bệnh nhân đốt và để lên chổ đau


    Bảo Bát Thủ nhãn Ấn pháp . Cầm bình báu - Chân ngôn : Án –, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra

    Nguồn : http://www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/13869.html
    Last edited by caprio; 30-03-2011 at 08:51 PM. Lý do: Sửa hình .

  3. #3

    Mặc định

    Mặc dù những câu chuyện kể về cụ Trưởng Cần hầu như không nói gì về Phật giáo. Trong nhà cụ cũng không thờ các đức Phật và các chư vị Bồ Tát, nhưng trong câu nói của cụ, phong cách con người cụ, cuộc sống thanh tao đạm bạc của cụ luôn toát lên hình ảnh của một vị chân tu đạt đạo.

    Ở thời của cụ Trưởng Cần, không chỉ đạo Phật mà hầu hết các tôn giáo khác cũng bị hạn chế, ngăn cấm. Có thể vì điều đó mà cho đến nay, Cụ đắc đạo nào, tu theo pháp môn nào vẫn là một bí ẩn đối với nhiều người. Thêm nữa, những vị chân tu đạt đạo trong Phật giáo đều ẩn mình hành đạo Bồ Tát.

    Vị thiền sư hành đạo Bồ tát

    Nhiều người khâm phục trước năng lực kỳ diệu của cụ, đã suy tôn cụ lên ngôi thần thánh. Nhưng cụ nói: "Tôi chỉ là người, cũng ăn uống sống chết như mọi người khác."

    Cụ còn khôi hài nói : "Tôi sợ đinh câu rút lắm."

    Thật sự với khả năng và công đức của cụ, đối với Phật giáo thì các vị thần thánh chưa đạt xứng tầm với một con người như cụ Trưởng Cần.

    Nói đến đây, có thể nhiều người sẽ hỏi : Trong cõi giới con người còn có rất nhiều đạo giáo khác cũng tu luyện không khác nhiều so với Phật giáo. Vì sao tác giả cho là cụ tu theo pháp môn của đạo Phật ? Vì sao tôi nói cụ Trưởng Cần là một vị thiền sư tu luyện theo các pháp môn Phật giáo. Xin được trích dẫn một số tư liệu lấy từ trong cuộc đời cụ.

    Trong lời kể do nhà giáo Vũ Văn Ngọc ghi, khi nghe xong nội dung của cuốn “Hồi dương nhân quả ”, nội dung: Việc ăn chay là ép xác sửa lòng, miễn là làm 10 điều lành, lánh 10 điều dữ thì đủ rồi. Nếu ăn chay niệm Phật mà 10 điều dữ không bỏ,10 điều lành không làm chẳng những không phúc, không công mà lại nhiều tội, nhiều lỗi.

    Nếu chân tu thì phải sửa mình, giữ đạo là thứ nhất, bố thí ăn chay là thứ nhì. Cái nào cũng quý tại chữ Tâm, bố thí khó tại lòng Nhân, không khó đều ra có của. Ăn chay khó tại lòng Chính, không khó miệng cữ kiêng.

    Cụ Trưởng Cần đã nói: "Cuốn kinh “Hồi dương Nhân quả” là kinh tu tắt". Và cụ dạy thêm rằng: “Tu là việc khó, nên điều trước tiên là phải biết sửa mình”.

    Qua câu trả lời của cụ ta hiểu được một điều là cụ rất am hiểu về kinh Phật. Rất am hiểu về quy luật nhân quả. Mà quy luật nhân quả là cốt lõi của đạo Phật.

    Cụ có nói là bệnh của con người có hai vấn đề: “thân bệnh và nghiệp bệnh”. Thân bệnh thì có thể chữa được, còn nghiệp bệnh thì khó. Nghĩa là có người có thể khỏi bệnh, có người không khỏi. Vì vậy, mà cùng một thứ bệnh có người cụ nhận lời có người cụ không nhận lời.

    Cụ bảo chữa bệnh phải có “Đức”. Tên của cụ là Nguyễn Đức Cần ở đấy có chữ “Đức”. Ở đây, khái niệm đạo đức của cụ là con người sống không làm điều ác, không phạm các tội lỗi với xã hội, không bất hiếu với cha mẹ, đó là đạo đức thông thường và cụ khuyên người ta làm việc thiện.

    Những điều cụ Trưởng Cẩn nói chính là Năm điều đức Phật dạy con người (Làm điều thiện. Không làm điều ác. Làm trong sạch tâm ý mình….) Thuyết nhân quả, nghiệp luân hồi đều là những thuyết lý của nhà Phật. Người chưa tiếp cận với đạo Phật thì có thể khó hiểu, nhưng đối với các Phật tử thì rất hiểu những điều cụ nói.

    Khi một hành giả đã tu theo một pháp môn của Phật giáo sẽ hiểu, gieo nhân nào thì gánh quả đó.

    Nghiệp là do con người tự tạo và con người tự gánh. Thần thánh cũng không giúp được gì. Vì lẽ đó mà cụ Trưởng Cần đã đưa hết những bát hương của bệnh nhân mang đến cụ để ra ngoài sân. Cụ cho rằng ốm thì phải chữa bệnh chứ không phải cúng thờ hàng năm tốn phí biết bao nhiêu tiền.

    Trong tư liệu về cuộc đời Cụ viết : “Cụ chữa bệnh và còn bài trừ mê tín dị đoan, cụ đã giải đồng cho biết bao người, vì cụ cho đồng bóng là mê tín. Cụ dậy làm người phải ăn ở có đức thì mới được đẹp, sinh sống hàng ngày phải lao động cần cù, phong tục tập quán thì nước nào cũng có, còn mê tín dị đoan thì nên bỏ” .

    Cụ vốn là một người lao động, cụ rất quý những người lao động. Mục đích cuộc đời của cụ là: "Tôi chữa bệnh không lấy tiền, như vậy tôi đã làm lợi cho dân. Đó là điều làm tôi sung sướng. Tôi chỉ muốn mọi người đều có cơm no, áo ấm,không bị ốm đau, thế thôi ”Sống mang lại hạnh phúc cho chúng sinh”".

    Đó cũng là cuộc sống của các vị Bồ Tát thị hiện trong cõi giới con người.

    Phật giáo hiện nay có ba tông phái chính là: Tịnh độ, Thiền tông và Mật tông. Khả năng thần thông, bắt ấn, trì Chú chữa bệnh của cụ rất gần với pháp môn Mật Tông. Mật Tông là sự kết hợp giữa đạo Bon truyền thống của người Tây Tạng với đạo Phật nên có những phép tu luyện huyền bí chuyên về bắt Ấn, trì Chú..

    Để có thể tu luyện thành công theo tông pháp này, người tu thiền phải có căn cơ rất cao, phải trải qua sự khổ luyện rất lớn. Cũng để có được những thành tựu, khả năng chữa bệnh như cụ Trưởng Cần trong kiếp này, nhất định cụ đã trải qua hàng trăm kiếp tu hành trong quá khứ.

    Có một chi tiết trong cuộc đời của cụ đã chứng minh, cụ đã tu đạt tới mức mở được thiên nhãn, thiên nhĩ tiếp cận với thế giới siêu hình trong lục đạo luân hồi.

    Trong câu chuyện nhà giáo Vũ Văn Ngọc kể lại: “Tôi cũng được cụ cho xem những lá thơ của những bệnh nhân trước đây đã được cụ cứu chữa hoặc là có quan hệ với cụ. Trong đó có một bài thơ viết bằng chữ hán, nội dung của bài thơ là sự giao lưu giữa các vĩ nhân.Tôi có hỏi cụ:

    - Con thấy bài thơ này lạ quá, rất đặc biệt, con không hiểu, người viết bài thơ này là người như thế nào? Cụ có trả lời:

    - Ông cụ này là Thần sông Tô Lịch,có đến đây gặp tôi mấy lần.

    - Thưa ông, bài thơ đó có nhan đề :
    ‘Thơ bái tặng Nguyễn chân nhân’ với bút danh là Hoài quang Cư sỹ. Quả thật là bài thơ ấy có một khẩu khí rất lạ,nó thể hiện lòng kính mến đối với cụ."

    Ở Trung Quốc những vị thầy cao tăng như vậy rất nổi tiếng. Thành tựu tu tập của cụ đã đạt tới quyền năng sai khiến được thế lực siêu nhiên (trời, rồng, quỷ thần…). Phương pháp chữa bệnh Trì Ấn vào một tờ giấy, cụ đã đạt được thành tựu sử dụng được sự diệu dụng Bảo Ấn của 42 Thủ nhãn Ấn pháp.

    Theo HT.Tuyên hoá thì người đã có Bảo ấn này thì có thể sai khiến cá được Diêm vương, khiến cho người chết sống lại. Bản thân HT.Tuyên Hoá cũng đã dùng Bảo Ấn cứu sống được 2 bệnh nhân đã chết ở Hương Cảng và Mãn Châu. Cụ Trưởng Cần cũng là người đã từng mang lại sự sống cho những người vô phương cứu chữa mà có người tưởng như đã chết.

    HT. Tuyên Hoá cho rằng: Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì. Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành?

    Cũng giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ. Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng là tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được.

    Chữa bệnh bằng nước lạnh hay một vật dụng khác… ở Việt Nam đã có một số người làm được, nhưng chữa bệnh bằng việc Trì Chú, bắt ấn như cụ Trưởng Cần ở Việt Nam từ trước đến nay chưa từng có ai. Vì lẽ đó mà tôi xin được xưng dương tán thán không những công đức chữa bệnh của cụ mà cả những năng lực thần thông cụ đã đạt được.

    Theo HT. Tuyên Hoá Đại Bi Chú và 42 Thủ nhãn Ân pháp là “một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này”.

    Một số hiện tượng chữa bệnh khác

    Trên mạng có một câu chuyện kể về người cha của ông Hứa Hiếu Lễ ( người dân tộc thiểu số ) cũng có khả năng chữa bệnh bằng nước lạnh. Chính người con của ông cũng không biết cha mình đã chữa bệnh cho mọi người bằng phương thức gì.

    Chỉ biết rằng, nhiều người điên đã khỏi bệnh dù trước đó đã được đưa đi không ít nơi chạy chữa. Những người dân truyền tin cho nhau về khả năng kỳ lạ này. “Cha tôi sẵn lòng giúp mà không kèm theo bất cứ một đòi hỏi vật chất nào..." Ông Hiếu Lễ nói.

    Hồi còn nhỏ, cha ông Hứa có theo học ông thầy Vườn Luông. Đó là một nhân vật cực kỳ huyền bí sống ở cánh đồng Bo Păn. ông thầy Vườn Luông sống cô độc trong một cái lều sâu trong rừng nơi ít người đi tới. ông thầy này có truyền nghề nhưng không phải ai cũng theo học được bởi sự kỳ lạ trong tính nết và sự huyền bí không phải ai cũng có cơ duyên để tiếp nhận được.

    Theo ông Hiếu Lễ nhiều lần cha con ông đã nói chuyện về ông thầy Vườn Luông kỳ lạ. Sau này, ông viết lại: "Ông Vườn Luông là một ông thầy cao tay. Tôi cũng được nghe mẹ kể nhiều về ông thầy Vườn Luông. Đó là một người tài cao đức dày, không mấy học trò theo được, chỉ có cha tôi là người hiền lành nhất, trung thực nhất và rất sáng dạ. Ông Vườn Luông tin yêu cha tôi nhất trong đám học trò. Kể từ đó, ông Vườn Luông truyền hết bí mật cho riêng cha tôi".

    Cách chữa bệnh của cha ông Hứa như sau: Thuốc là một chai nước lã trong vắt múc từ dưới mỏ nước mang về. Rồi ông gọi người nhà đốt ba nén nhang mang lên. Ba nén nhang kẹp vào mang tai, ông ngồi thẳng lưng, thẳng cổ như kiểu ngồi tòa sen. Chỉ thấy ông nhắm hờ hai mắt, bất động toàn thân, đó là tư thế ngồi thiền. Không thấy ông bỏ bất cứ vật gì vào chai nước. Khoảng nửa tiếng sau, khi ba nén nhang cháy vừa hết, ông lấy hơi từ lồng ngực khẽ khàng thổi vào chai. Chai nước vẫn trong suốt. Sau đó mang cho người điên uống, dăm ngày sau họ không còn quậy phá nữa. Họ nói năng từ tốn hơn, cử chỉ hành động trở lại bình thường.

    Câu chuyện trên cho ta thấy một phần nào cuộc đời , phương thức tu luyện, cách chữa bệnh của cha ông Hứa Hiếu Lễ khá tương đồng với các nhà tu hành Phật giáo.

    Câu chuyện thứ hai: Báo CAND có đưa ra một hiện tượng về khả năng chữa bệnh của bà Phú như sau:

    Sau một trận ốm và hai lần điều trị bệnh tâm thần tại Thái Nguyên và Hà Nội, bà Phú tự thấy mình có khả năng đặc biệt. Chữa bệnh bằng nước lạnh. Qua lời đồn thổi, người bệnh tìm đến nhờ bà Phú chữa bệnh. Lượng người dân cả tin lui tới phòng khám của bà theo thời gian gia tăng đáng kể. Có những thời điểm, "phòng khám" chứa tới hàng trăm lượt người. Phương tiện ôtô, xe máy từ các nơi đổ về xếp thành hàng dài ngoài ngõ.

    Cậu cò Phú vốn dĩ làm nghề buôn bán ở các khu chợ của địa phương. Theo lời đồn thổi, cái tên "cậu cò" và khả năng chữa bệnh đặc biệt bắt đầu xuất hiện sau đợt mắc bệnh tâm thần của bà Phú. "Cậu cò" là tên gọi đứa con của bà Phú bị mất lúc hơn 1 tháng tuổi đang nằm trong bụng nhập vào người bà Phú.

    Bà Phú cũng có được một số khả năng chữa bệnh như các vị thiền sư. Nhưng khác hơn là bà Phú chưa từng trải qua tu luyện hay theo học bất kỳ một vị thầy nào. Để có được những năng lực này, có thể từ hai khả năng: một là quỷ thần nhập vào bà. Hai là một tai nạn lớn sau cơn ốm thập tử nhất sinh có khả năng này. Tôi không giám khẳng định, nhưng những khả năng không qua tu luyện đều không có lợi cho người chữa bệnh. Tôi lấy một sự việc do HT. Tuyên Hoá kể :

    Quý vị nhớ rằng loài quỷ Cưu-bàn-trà là một loài quỷ mị, thường gây ra tình trạng hôn mê, tê liệt cho người đang ngủ. Loài quỷ nầy chiếm đoạt thân xác của người đang tỉnh, rồi điều khiển thân, miệng, ý người nầy làm những việc riêng cho chúng. Nó nói qua trung gian người và dành hoàn toàn sự kiểm soát người ấy. Những người bị chiếm thân xác như vậy còn được gọi là xác đồng, hoặc có khi chúng trở thành phù thuỷ hoặc thầy trừ tà.

    Đôi khi ở Trung Hoa, loại xác đồng nầy rất hấp dẫn. Họ có thể cắm cây dao trên đỉnh đầu mà không chết. Loài quỷ mị đang đoạt hồn họ sẽ gỡ lưỡi dao bằng cách dùng một thần chú, thế nên người ấy không đổ một giọt máu. Có người có thể đóng những cây đinh vào bên vai, từ những cây đinh, họ treo những thanh gươm mỗi cây nặng hơn 10 pounds. Họ có thể treo bốn thanh gươm như vậy rồi quay tròn chúng. Xem rất là kinh khủng. Mọi người đều kinh hãi.

    Theo HT.Tuyên Hoá, Có một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.

    Cho đến nay, vì chưa có một lời giải thích thuyết phục nào nên phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần vẫn là một hiện tượng thần bí đối với nhiều người. Với bài viết này tôi xin được thành ý, tri ân đến Cụ.

    Xin được tán thán công đức chữa bệnh của Cụ. Và xin được vinh danh sự vi diệu, bất khả tư nghì cho các thuyết lý Nhà Phật.

    Hồng Vân .

    Nguồn :http://www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/13893.html

  4. #4

    Mặc định

    Kính xin Trời đất , ơn trên ban nhiều hồng ân cho cụ Trưởng Cần có nhiều sức khỏe , luôn gìn giữ cụ bình an để cụ tiếp tục công cuộc cứu người .

  5. #5

    Mặc định

    Cụ Cần về trời rồi bạn Quoc1368 oi

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. “Tiên cô” chữa bệnh bằng cách bắt tay và hát
    By Bin571 in forum Chuyện các Thầy, Bà…
    Trả lời: 65
    Bài mới gởi: 24-05-2015, 11:56 PM
  2. Để vào được nước Chúa???
    By bienvasong in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 26
    Bài mới gởi: 20-09-2012, 10:21 PM
  3. TÂM TRẠNG CỦA NGƯỜI SẮP BỊ GIẾT HẠI
    By U Minh Giáo Chủ in forum Đạo Phật
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 10-05-2012, 11:29 PM
  4. Lời Phật dạy liên quan đến người nữ
    By dinhlong64 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 03:04 PM
  5. NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG -PHÁP MÔN THIỀN-TỊNH
    By linh_tinh_85 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 22-02-2011, 08:47 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •