Trang 2 trong 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
kết quả từ 21 tới 35 trên 35

Ðề tài: Về Thăm Cụ Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm

  1. #21
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Đêm đã về khuya , nhưng đứa cháunhỏ vẫn không thèm buồn ngủ , nó vẫn mở mắt thao láo nhìn tôi đòi kể nữa . Thời gian là cái gì xa lắc hay gần gũi , với tôi và đứa cháu nhỏ thì chỉ như mới hôm qua , hôm nay , và Trạng Trình như đang khuyến khích , xem chơi đi , một mảy may tơ hào chẳng dám sai ngoa...cánh cửa Tạo hóa đóng rồi lại mở đấy , cuộc đời tàn rồi khắc biết ...dở hay bởi tự lòng người cả , kia này dắt cháu , đám hậu sinh của ta ...
    Nghĩ đi là thế , nghĩ lại thì tất cả những người dân Việt đều đã là hậu sinh của Trạng Trình rồi , phục tài Ngài , tôn vinh Ngài , mà chưa chắc đã tin tưởng ở điều Ngài nói ra hay Ngài viết ra , nhớ lời Ngài cũng cứ xem chơi ...Nhưng càng xem chơi , càng cảm thấy hình như mình bỏ sót mất quá nhiều trí thức của Ông , Cha để lại , hoặc điều gì đó ta chưa hiểu ra , và cũng chưa hiểu hết tài của Trạng .
    Trạng Trình là bậc kỳ tài , có thể ví như Trương Tử Phòng ở thời Tây Hán ; Khổng Minh ở thời Tam Quốc : Thiệu Nghiêu Phu thời Tống , Lưu Bá Ôn thời Minh bên Tàu , đó là những bậc anh kiệt , rực rỡ vào thời Khí Dương sinh chất ngất . Trạng Trình gồm đủ , mặt khác Ngài còn cả Tuệ giác thông Thiên , hiểu theo các cụ ngày xưa là giao tiếp được với cả Thánh , Thần . Những bậc thức giả các thời cũng không rõ nhờ đâu mà Ngài có tài lạ vậy . Theo cách hiểu thông thường thì Trạng Trình từ nhỏ đã là tuyệt giác thông minh . Rằng làng Trung Am - Cổ Am có Thần đồng Nguyễn Tất Đạt , một tuổi đã biết nói , ba , bốn tuổi đã đọc làu làu Kinh Thư , Kinh Thi , lớn lên theo học thày Bảng Nhã Lương Đắc Bằng , một Trung Thần phụ Quốc cương trực triều Lê , đã có lần đi Sứ sang Trung Quốc , được biếu sách lạ của Tiên ông , rồi truyền sang cho Trạng .
    Trong dân gian vẫn lưu truyền như Thần thoại về trí tuệ tài năng của Ngài . các cụ xưa kể lại , sách lạ mà Thày Lương cho , sau khi đọc xong , có thể hiểu biết hết mọi lẽ Huyền thông của Trời Đất , song còn không ít băn khoăn , nên hàng ngày , Ngài lặng lẽ buông câu tại Điếu Ngư lầu , bên dòng Tuyết giang , còn có tên gọi là Bến Hàn , bến đò Tăng Thịnh . Cũng có khi Trạng ngồi trên chiếc thuyền câu ngao du trên dòng sông lạnh , xa dần ra cửa Nam Hải dăm ba bữa , nửa tháng mới thấy Ngài trở về ...có người nói Ngài được các bậc Đại Tiên mời đi uống rượu ở vườn đào ngoài bể khơi Long phủ để đàm luận việc đời trên bốn cõi Thế gian .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  2. #22
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Ngày qua tháng lại , vào một đêm trăng sáng , tiết Đông chí , Trạng ngồi buông câu như thường lệ , mặt sông lấp lánh ánh bạc . Từ ngoài khơi bể nam Hải , có một chiếc thuyền câu giăng buồm nhẹ lướt , nhằm Điếu Ngư lầu hướng tới . Bấy giờ , khắp cả vùng Trấn Dương đều mênh mông là biển cả . Khi thuyền ghé mạn , nhìn thấy dưới thuyền có hai Tiểu đồng , tóc để trái đào , đồng phục áo cổ bồng , cầm chèo . Một ông già tóc bạc phơ , áo cánh Hạc thụng màu xám , đai chàm thô , tay cầm gậy trúc Trường Thiên đầu Rồng , nạm bạc , khoan thai bước lên . Trông nhận ra ông già trong giấc mộng , Trạng Trình vội đứng lên ra khỏi lầu tiếp đón . Hai ông già thi lễ mỗi người xá
    nhau một lần , rồi tươi cười , hình như đã quen biết nhau từ lâu , dắt nhau vào Điếu Ngư lầu . Trạng mời ông già cùng ngồi xuống chiếu cói mộc dải sẵn trên nền đất , vuông vức , xung quanh còn vương mấy đám cỏ gà thâm thẫm nhưng sạch sẽ . Giũa chiếc chiếu đã có sẵn một tích nước trà xanh hãm theo lối cổ truyền , ủ trong cái giành tre nhỏ được đan rất khéo . Trạng rất vui , rót trà mời khách bằng những chiếc bát sành màu nâu thô . Hai ông già râu tóc đều bạc phơ, ngồi nói chuyện trong Điếu Ngư lầu , dưới ánh trăng chênh chếch như hai vị Thần Tiên . Bốn mặt trông ra là sóng nước và ánh trăng huyền ảo với hương trà hương biển , thoảng chút thơm ngầm . Chiếc đèn lồng nhỏ chịu gió , đốt bằng dầu lạc , treo một góc lầu cũng đủ sáng mọi vật , sách , bút và cái tráp đựng .

    Trò chuyện hàn huyên một hồi , sau vài tuần trà , thấy Trạng cầm bút viết cái gì đó rồi đặt bút xuống , hai tay chắp lại Ngài nói : " Thưa Lão Đại Tiên , hôm nay tại hạ có may mắn được chỉ giáo vài điều gì chăng ? " . Lão Đại Tiên nói " Kẻ ẩn này được biết đại nhân có đôi điều băn khoăn ...lại tiện đường ghé thăm , nên có mang theo cuốn " Quái Luận Kỳ Ngôn " từ thời Hiên Viên Hoàng Đế , đại nhân đọc xong khắc rõ , chính là " Thiên Luân Pháp Đồ quyết đoán " , người xem phải luôn luôn thu mình về Thái cực để nhận rõ trục Thiên trụ , lại phải tung mình ra như mù , như mây , như không còn Tuệ thức giác tha mà chỉ có hóa suy ...khắc nghe rõ những âm thanh của chín tầng Trời , khắc nhìn rõ bóng đen của mười tầng Địa ngục ...chớ nệ vào thuyết ngôn , mong giải tỏa những điều băn khoăn ấy . Trạng Trình vội chắp tay phục bái nói " Thật cảm phiền Lão Đại Tiên ..." . Lão Đại Tiên vội xua tay " Không cần đa lễ " Dương Minh Vận Thuyết " trong Đạo gia cả mà . Ôi một cõi Nam phương đầy lửa khói ...Thấy Đại Tiên ghé tai Trạng nói điều gì đó rồi vẫy gọi Tiểu đồng bưng lên một cái tráp gỗ mộc cũ kỹ đặt trước mặt hai người , đoạn đứng dậy từ biệt . Trạng Trình tươi cười đứng lên theo , tiễn bạn xuống tận mạn thuyền . Khi chiếc thuyền quay quay mấy vòng , làm ánh trăng tung tóe , hai người còn nghiêng mình xá nhau hai lần nữa . mãi tới lúc cánh buồm giương lên , thuận gió , chiếc thuyền câu nhỏ xíu , như con cá bạc vút đi , lẫn dần vào đêm trăng lạnh , Trạng mới quay lại Điếu Ngư lầu . Ngài mở tráp lấy sách ra đọc cho đến tận sáng .
    Đêm ấy , dân làng Trung Am - Cổ Am ngạc nhiên khi nhìn ra bến đò Tăng Thịnh , thấy một dải Tuyết giang đầy hào quang chụm lại như cái tháp lớn tại Điếu Ngư lầu , sừng sững vươn tận không trung . Từ ấy , ánh đèn dầu lạc ở Bạch Vân Am đêm đêm thắp sáng , và Trạng Trình cặm cụi ngồi viết quyển Sấm ký nổi tiếng cho đến tận ngày nay .
    Hải phòng 11/2003 .
    Phạm Vũ Hội .


    BÀI TÍNH THÁI ẤT NĂM ĐINH HỢI của KTS .PHẠM VŨ HỘI ( Tiếp theo ...).
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  3. #23
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    ĐINH HỢI DIỄN NGHĨA -2007.
    THIÊN TƯỢNG :
    Địa cầu ám khí chửa tan .
    Bởi chưng Địa hỏa vẫn đang xoáy ngầm .
    Lại từ " tòng bắc phân phân ",
    Mà sinh " nhiễu nhiễu " Trời gần Trời xa .
    " Tam thập niên mới gọi là .
    " Đông chinh " đại Đạo thành ra tam quyền .
    Chữ rằng Lục thất thì nên ,
    Bảo giang " Hùm " đã ngóng bên cửa rừng .
    " Quá xuyên mã độ trùng hưng ".
    Can qua lại nẩy anh hùng một phen .
    Bảy ngày ra khỏi đêm đen ,
    Thế gian mới biết nhân quyền tự do .

    NHÂN SỰ :
    Là phường " Đạo trích quần gian ".
    Từng quen hống hách nhiễu tham hại đời .
    Lửa than gắp bỏ tay người ,
    Giêng , hai , ba ,bốn dậy mùi khởi tranh .
    Khảm phương súng nổ đoành đoành .
    " Lợn kêu " xin hỏi yên bình được chăng ?
    Đoài cung vốn đã giập giằng .
    Chấn cung hiển hiện mây chăng mịt mù .
    Chín , mười bụi khói trời thu .
    Can qua Đông Bắc thâm thù lại gieo .

    THIÊN TẶC :
    Than rằng Trời Đất đổi thay ,
    Liên miên dịch bệnh khô gày khốn sao .
    Nửa năm mong hạt mưa rào .
    Tây Đông đại hạn khác nào hỏa thiêu .
    Khảm phương tuyết lở càng nhiều .
    Biển dâng bão dội bao điều tai ương .
    Chấn Đoài lạnh vẫn thấu xương .
    Đất rung một chập khôn lường hiểm nguy .
    Thế gian nhân nghĩa một khi ,
    Quỷ ma , bá đạo được thì múa may .
    5/4/2006 .
    PHẠM VŨ HỘI .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  4. #24
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định


    Sấm Trạng Trình


    1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
    2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
    3 - Một câu là một nhiệm mầu
    4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
    5 - Trải vì sao mây che Thái ất
    6 - Thủa cung tay xe nhật phù lên
    7 - Việt Nam khởi tổ xây nên
    8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
    9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
    10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
    11 - Ðến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
    12 - Mở bản đồ rủ áo chấp tay
    13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
    14 - Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
    15 - Ðông a âm vị nhi thuyền
    16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
    17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
    18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
    19 - Ðoài cung vẽ rạng trăng thu
    20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
    21 - Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
    22 - Dưới lẫn trên nhà vẫn uống quen
    23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
    24 - Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
    25 - Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
    26 - Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
    27 - Trời sinh ra những kẻ gian
    28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
    29 - Áo vàng ấm áp đà hay
    30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành
    31 - Lấy đạt điền làm công thiên hạ
    32 - Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
    33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
    34 - Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
    35 - Cơ trời xem đã mê đồ
    36 - Ðã đô lại muốn mở đô cho người
    37 - Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
    38 - Suốt vạn dân cưu giận nhân than
    39 - Dưới trên dốc chí lo toan
    40 - Những đua bán nước bán quan làm giàu
    41 - Thống rủ nhau làm mồi phú quí
    42 - Mấy trung thần có chí an dân
    43 - Ðua nhau làm sự bất nhân
    44 - Ðả tuần bốn bể lại tuần đầu non
    45 - Dư đồ chia xẻ càn khôn
    46 - Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
    47 - Vội sang giàu giết người lấy của
    48 - Sự có chăng mặc nọ ai đôi
    49 - Việc làm thất chính tơi bời
    50 - Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
    51 - Xem tượng trời đả gia ra trước
    52 - Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
    53 - Cuồn phong cả sớm liền trưa
    54 - Ðả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
    55 - Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
    56 - Ðể vạn dân dê lại giết dê
    57 - Luôn năm chật vật đi về
    58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
    59 - Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
    60 - Cũng một lòng trời chống khác nao
    61 - Xem người dường vững chiêm bao
    62 - Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
    63 - Một góc thành làm tâm chứng quỷ
    64 - Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
    65 - Bốn phương rời rở hồng trần
    66 - Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
    67 - Tiếc là những xuất dân làm bạo
    68 - Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
    69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
    70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
    71 - Hùm già lạc dấu khôn về
    72 - Mèo non chi chí tìm về cố hương
    73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
    74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
    75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
    76 - Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
    77 - Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
    78 - Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
    79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
    80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
    81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
    82 - Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
    83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
    84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
    85 - Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
    86 - Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
    87 - Ai còn khoe trí khoe năng
    88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
    89 - Chưa từng thấy đời nào sự lạ
    90 - Bổng khiến người dá họa cho dân
    91 - Muốn bình sao chẳng lấy nhân
    92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
    93 - Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
    94 - Ðúc tiền ra bán tước cho dân
    95 - Xung xoe những rắp cậy quân
    96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
    97 - Máy hoá công nắm tay dễ ngõ
    98 - Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
    99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời
    100 - Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
    101 - Cát lầm bốn bể can qua
    102 - Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
    103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
    104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
    105 - Bấy giờ càng khốn thay ôi
    106 - Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
    107 - Thương những kẻ ăn rau ăn giới
    108 - Gặp nước bung con cái ẩn đâu
    109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
    110 - Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
    111 - Xin những kẻ hai lòng sự chúa
    112 - Thấy đâu hơn thì phụ thủa ân
    113 - Cho nên phải báo trầm luân
    114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này
    115 - Nói cho hay khảm cung rồng dấy
    116 - Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
    117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
    118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
    119 - Hể nhân kiến đã dời đất cũ
    120 - Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  5. #25
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định


    121 - Bốn phương chẳng động can qua
    122 - Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
    123 - Bấy giờ mở rộng qui khôi
    124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
    125 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
    126 - Hoàng phúc xưa đã định tây phong
    127 - Làu làu thế giới sáng trông
    128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
    129 - Rõ sinh tài lạ khác thường
    130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
    131 - Xem ý trời có lòng đãi thánh
    132 - Ðốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
    133 - Chọn đầu thai những vì sao cả
    134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
    135 - Bắc phương chính khí sinh ra
    136 - Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
    137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
    138 - Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
    139 - Ðời này thánh kế vị vương
    140 - Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
    141 - Uy nghi trạng mạo khác hình
    142 - Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
    143 - Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
    144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
    145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
    146 - Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
    147 - Ở đâu anh hùng hẳn biết
    148 - Xem sắc mây đã biết thành long
    149 - Thánh nhân cư có thụy cung
    150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
    151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
    152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
    153 - Học cho biết lý kiết hung
    154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
    155 - Hể trời sinh xuống phải thì
    156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
    157 - Kìa những kẻ vội lòng phú quí
    158 - Xem trong mình một thí đều không
    159 - Ví dù có gặp ngư ông
    160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
    161 - Xin khuyên đấng thời trung quân tử
    162 - Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
    163 - Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
    164 - Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
    165 - Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
    166 - Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
    167 - Võ thông yên thủy thần kinh
    168 - Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
    169 - Chớ vật vờ quen loài ong kiến
    170 - Biết ray tay miệng biếng nói không
    171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
    172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
    173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
    174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
    175 - Nặng lòng thật có vĩ kinh
    176 - Cao tay mới ngẫm biết tình năm nao
    177 - Trên trời có mấy vì sao
    178 - Ðủ no biền tướng anh hào đôi nơi
    179 - Nước Nam thường có thánh tài
    180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
    181 - So mấy lời để tàng kim quỉ
    182 - Chờ hậu mai có chí sẽ cho
    183 - Trước là biết nẽo tôn phò
    184 - Sau là cao chí biết lo mặc lòng
    185 - Xem đoài cung đến thời bất tạo
    186 - Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
    187 - Nguôi lòng tham tước tham giàu
    188 - Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
    189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
    190 - Ngở oai đã dấy ngở nhân đã nhường
    191 - Ai lấy gương vua U thủa trước
    192 - Loạn ru vì tham ngược bất nhân
    193 - Ðoài phương ong khởi lần lần
    194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
    195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
    196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
    197 - Ấy là những binh thù Thái Thái
    198 - Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
    199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu
    200 - Tái binh mới động thập thò liền sang
    201 - Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
    202 - Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
    203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
    204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
    205 - Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
    206 - Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
    207 - Thành câu cá, lửa tưng bừng
    208 - Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
    209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
    210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
    211 - Sang thu chín huyết hồng tứ giả
    212 - Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
    213 - Ðua nhau đồ thán quần lê
    214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
    215 - Kẻ thì phải thủa hung hoang
    216 - Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
    217 - Kẻ thì mắc thủa hung tàn
    218 - Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
    219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
    220 - Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  6. #26
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định


    221 - Bời bời đua mạnh tranh giành
    222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
    223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
    224 - Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
    225 - Nào ai đã dễ nhìn U
    226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
    227 - Cây bay lá lửa đôi ngàn
    228 - Một làng còn mấy chim đàn bay ra
    229 - Bốn phương cùng có can qua
    230 - Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
    231 - Ðoài phương thức có chân nhân
    232 - Quần tiên khởi nghỉa chẳng phân hại người
    233 - Tìm cho được chốn được nơi
    234 - Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
    235 - Bốn bề núi đá riểu quanh
    236 - Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
    237 - Hể đông nam nhiều phen tàn tạc
    238 - Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
    239 - Bắc kinh mới thật đế kinh
    240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
    241 - Chim hồng vổ cánh bay cao
    242 - Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
    243 - Ai dễ cứu con thơ sa giếng
    244 - Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
    245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
    246 - Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
    247 - Cấy cày thu đải thời mùa
    248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
    249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai
    250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
    251 - Xem tượng trời biết đường đời trị
    252 - Ngẩm về sau họ Lý xưa nên
    253 - Giòng nhà để lấy dấu truyền
    254 - Ngẩm xem bốn báu còn in đời đời
    255 - Thần qui cơ nổ ở trời
    256 - Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
    257 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
    258 - Sông Bảo Giang thiên định ai hay
    259 - Lục thất cho biết ngày dày
    260 - Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
    261 - Có thầy nhân thập đi về
    262 - Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
    263 - Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
    264 - Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
    265 - Ra tay điều chỉnh hộ may
    266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
    267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
    268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
    269 - Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
    270 - Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
    271 - Ân trên vũ khí vân hành
    272 - Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
    273 - Bản đồ chẳng sót cho ai
    274 - Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
    275 - Vấng nền vương cha truyền con nối
    276 - Dỏi muôn đời một mối xa thư
    277 - Bể kình tâm lặng bằng tờ
    278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
    279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
    280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

    Chương Hai

    281 - Vừa năm nhâm tý xuân đầu
    282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
    283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
    284 - Từ đinh đổi đời chí lực thất gian
    285 - Một thời có một tôi ngoan
    286 - Giúp trong việc nước gặp an thái bình
    287 - Luận chung một tập kim thời
    288 - Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
    289 - Trượng phu có chí thời coi
    290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
    291 - Tài nầy nên đấng vẽ vang
    292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy
    293 - Kể từ nhân đoản mà đi
    294 - Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
    295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
    296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
    297 - Thử cho tay giúp ra dùng
    298 - Tài này so cùng tài trước xem sao
    299 - Trên trời kể chín tầng cao
    300 - Tay nghe bằng một ti hào biết hay
    301 - Hiềm vì sinh phải thời này
    302 - Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
    303 - Hợp đà thay thánh nghìn tài
    304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
    305 - Nói ra thì lậu sự đời
    306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
    307 - Nói ra ám chúa bội quân
    308 - Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
    309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
    310 - Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
    311 - Trời xui những kẻ ác gian
    312 - Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
    313 - Vua nào tôi ấy đã bày
    314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
    315 - Ðua nhau bội bạn nghịch vi
    316 - Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
    317 - Tiếc tài gẩm được thời hay
    318 - Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
    319 - Tài trai có chí anh hùng
    320 - Muốn làm tướng suý lập công xưng đời
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  7. #27
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định


    321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
    322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
    323 - Ði tìm cho đến đế cung
    324 - Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
    325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
    326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
    327 - Chờ cho động đất chuyển trời
    328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
    329 - Còn bên thì náu chưa xong
    330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
    331 - Ðời ấy những quỉ cùng ma
    332 - Chẳng còn ở thật người ta đâu là
    333 - Trời cao đất rộng bao xa
    334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
    335 - Dù trai ai chửa biết tường
    336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
    337 - Ý ra lục thất gian nay
    338 - Thời vận đã định thời nầy hưng vương
    339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
    340 - Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
    341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
    342 - Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
    343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
    344 - Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
    345 - Nhân dân vắng mạt bằng tờ
    346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
    347 - Vua còn cuốc nguyệt cày mây
    348 - Phong điều vũ thuận thú rày an dân
    349 - Phong đăng hoà cóc chứa chang
    350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
    351 - Chính cung phương khảm vần mây
    352 - Thức thay thiên tử là nay trị đời
    353 - Anh hùng trí lượng thời coi
    354 - Công danh chấng ngại tìm đòi ra đi
    355 - Tìm lên đến thạch bàn khê
    356 - Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
    357 - Nhìn đi nhìn lại cho tường
    358 - Chửa có sinh vương đâu là
    359 - Chẳng tìm thì đến bình gia
    360 - Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
    361 - Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
    362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
    363 - Hửu hổ uấn khúc giang này
    364 - Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
    365 - Ở xa thấy một con voi
    366 - Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
    367 - ấy điềm thiên tử về chầu
    368 - Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
    369 - Song thiên nhật nguyệt sáng soi
    370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
    371 - Ðến đời thịnh vượng còn lâu
    372 - Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
    373 - Khuyên cho đông bắc nam tây
    374 - Muốn làm tướng suý thì xem trông này
    375 - Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
    376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
    377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
    378 - Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
    379 - Kià cơn gió thổi lá rung cây
    380 - Rung bắc sang nam đông tới tây
    381 - Tan tác kiến kiều an đất nước
    382 - Xác xơ cổ thụ sạch am mây
    383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
    384 - Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy
    385 - Một gió một yên ai sùng baí
    386 - Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
    387 - Con mùng búng tít con quay
    388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
    389 - Nhà cha cửa đóng then cài
    390 - Giờ mầm sấm động hỏi người đông lân
    391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
    392 - Biết rằng ai có du phần như ai
    393 - Bắt tay nằm nghĩ dông dài
    394 - Thương người có một lo hai phận mình
    395 - Canh niên tân phá
    396 - Tuất hợi phục sinh
    397 - Nhị ngủ dư bình
    398 - Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
    399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
    400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
    401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
    402 - Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
    403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
    404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
    405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
    406 - Chuột nọ lăm le mong cản tổ
    407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
    408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
    409 - Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
    410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
    411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
    412 - Trức đáo dương đầu mã vĩ
    413 - Hồ binh bát vạn nhập trường an
    414 - Baỏ Giang thiên tủ xuất
    415 - Bất chiến tứ nhiên thành
    416 - Lê dân bảo bảo noản
    417 - Tứ hải lạc âu ca
    418 - Dục đức thánh nhân hương
    419 - Quá kiều cư bắc phương
    420 - Danh vi Nguyễn gia tử
    421 - Kim tịch sinh ngưu lang
    422 - Thượng đại nhân bất nhân
    423 - Thánh ất dĩ vong ân
    424 - Bạch hổ kim đái ấn
    425 - Thất thập cổ lai xuân
    426 - Bắc hữu kim thành tráng
    427 - Nam tạc ngọc bích thành
    428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
    429 - Mục giả dục nhân canh
    430 - Phú quí hồng trần mộng
    431 - Bần cùng bạch phát sinh
    432 - Anh hùng vương kiếm kích
    433 - Manh cổ đổ thái bình
    434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
    435 - Quá thất thân thủy sinh
    436 - Ðịa giới sĩ vị bạch
    437 - Thủy trầm nhi bắc kinh
    438 - Kỷ mã xu dương tẩu
    439 - Phù kê thăng đại minh
    440 - Trư thử giai phong khởi
    441 - Thìn mão xuất thái bình
    442 - Phân phân tùng Bắc khởi
    443 - Nhiểu nhiểu xuất đông chinh
    444 - Bảo sơn thiên tử xuất
    445 - Bất chiến tự nhiên thành
    446 - Thủy trung tàng bảo cái
    447 - Hứa cập thánh nhân hương
    448 - Mộc hạ châm châm khẩu
    449 - Danh thế xuất nan lương
    450 - Danh vi nguyễn gia tử
    451 - Tinh bản tại ngưu lang
    452 - Mại dử lê viện dưỡng
    453 - Khởi nguyệt bộ đại giang
    454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
    455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
    456 - Thiên dử thần thức thụy
    457 - Thụy trình ngũ sắc quang
    458 - Kim kê khai lựu điệp
    459 - Hoàng cái xuất quí phương
    460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
    461 - Ðạo đức thực dữ đương
    462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
    463 - Vận khải ngũ viên trường
    464 - Vận đáo dương hầu ách
    465 - Chấn đoài cương bất trường
    466 - Quần gian đạo đanh tự
    467 - Bách tính khổ tai ương
    468 - Can qua tranh đấu khởi
    469 - Phạm địch tánh hung hoang
    470 - Ma vương sát đại quỉ
    471 - Hoàng thiên tru ma vương
    472 - Kiền khôn phú taỉ vô lương
    473 - Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
    474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
    475 - Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
    476 - Ta hồ vô phụ vô quân
    477 - Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
    478 - Ðoài phương phước điạ giáng linh
    479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
    480 - Phá điền thiên tử giáng trần
    481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm
    482 - Trần công naỉ thị phúc tâm
    483 - Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
    484 - Tướng thần hệ xuất y chu
    485 - Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
    486 - Hiệu xưng thiên hạ thaí bình
    487 - Ðông tây vô sứ nam thành quốc gia


    Bạch Vân Thi Tập Chung
    Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  8. #28
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    dienbatn mới sưu tập được đoạn này cùng chủ đề . Xin chép lại làm tài liệu về một góc độ nhìn khác về TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM .

    Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm :Nhà tiên tri của Việt tộc

    Cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, cách đây khoảng 500 năm, trên thế giới xuất hiện hai nhà tiên tri lừng danh là Trạng Trình bên Việt Nam và Nostradamus bên Pháp. Thời đại này Tây phương nổi lên phong trào Tin Lành, bên Tầu nẩy ra tân Nho thuyết của Vương Dương Minh, bên ta phát sinh Thánh mẫu Liễu Hạnh, bắt đầu thực sự Nam Tiến mở đầu khúc rẽ lịch sử văn hóa trọng đại nhất kể từ ngày lập quốc.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhân vật lịch sử độc nhất trong sử Việt
    làm cố vấn một lúc cho ba bốn phe đối nghịch nhau : Mạc, Lê,
    Nguyễn, Trịnh. Ông vượt lên như một Tiên ông trên non cao mây
    trắng nhìn xuống bàn cờ người, thương tình chỉ cho nhân thế đua
    chen vài nước cờ tiến thoái sinh tồn tạm thời, mặc dù trong đôi mắt
    tiên tri ông đã nhìn thấy rất xa lẽ được thua " ngũ bách niên tiền, ngũ bách niên hậu ".
    Ông sinh năm 1491, cách đây 507 năm. Ông sinh sau Nguyễn Trãi
    111 năm, trước Nguyễn Du 274 năm, kém Mạc Đăng Dung 8 tuổi và
    cùng quê với ông vua xuất thân đánh cá này.
    Tại Cổ Am, Hải Dương ( nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng ) từ
    lúc sinh ra tới năm 13 tuổi ( 1481-1504 ), Nguyễn Bỉnh Khiêm được
    sống yên ổn dưới triều thịnh trị Hồng Đức và Lê Hiến Tông. Từ lúc
    lớn lên trong 23 năm liên tiếp ( 1504-1527 ), nhà Lê mạt vận thay đổi tới 6 ông vua, toàn là vua Quỷ giết bà nội ( chính cung vua Lê Thánh Tông ), giết cận thần , như Lê Uy Mục, hay vua Heo như Lê Tương Dực, hoang dâm bạo ngược , đến nỗi sứ thần nhà Minh phải gọi là Quỷ Vương và Trư Vương, lại còn than hộ nước Việt là " thiên ý như hà giáng quỷ vương " ! ( ý trời sao lại giáng vua quỷ ! ).
    Tương truyền ông thông minh từ nhỏ, lên một tuổi đã biết nói, lên bốn đã thuộc thơ và kinh sử do bà mẹ hay chữ và giỏi tướng số chỉ dạy. Bà mẹ đặc biệt này là con gái Thượng Thư Bộ Hộ Tiến sĩ Nhữ Văn Lạn, kén chồng mãi tới năm 30 tuổi gặp ông Văn Định thấy có tướng sinh đại quý tử nên mới chịu kết duyên vợ chồng. Có thuyết nói rằng bà gặp anh đánh cá Mạc Đăng Dung ở bến đò và tiếc rẻ là không có duyên với con người có tướng cách đế vương này ! Bà lấy chồng với hy vọng sau đẻ con đạt ngôi cửu trùng, ngay từ đêm tân hôn bà đã dặn trước chồng là khi nào trăng lên đến đầu ngọn tre mới được động phòng, nào ngờ ông Văn Định động phòng hơi sớm nên bà thụ thai không đúng giờ tốt, vì thế tuy sinh quý tử nhưng không đạt được tột đỉnh thiên tử !
    Cũng có truyện kể lại rằng thuở nhỏ Bỉnh Khiêm trông rất khôi ngô
    tuấn tú, khi đang tắm với lũ trẻ ở sông Hàn, một người thầy tướng Tầu đi thuyền qua nói rằng " cậu này đáng lẽ tướng làm vua, nhưng vì nước da hơi thô nên chỉ làm tới Trạng nguyên Tể tướng ! "
    Lúc còn bế ẵm, Bỉnh Khiêm đã biết thốt lời " mặt trời mọc ở phương
    Đông " khiến mọi người đều kinh ngạc. Có lần Từ Thục phu nhân đi
    vắng, ông Văn Định chơi đùa với con , đọc : " Nguyệt treo cung,
    nguyệt treo cung ", Bỉnh Khiêm liền đọc tiếp : " vén tay tiên, hốt hốt rung ". Khi trở về nghe chồng kể chuyện, Từ Thục phu nhân không vui, trách rằng : " mặt trăng là khí tượng bầy tôi, sao ông lại dậy con như thế ! ". Rất có thể với biệt tài tướng số, biết trước vận số nhà Lê 40 năm sau đời Lê Thánh Tôn sẽ suy tàn, phương Đông ( Hải Dương ) có khí tượng đế vương, nên bà đã cố tạo ra một ông vua theo giờ giấc sinh đẻ chăng ?
    Người mẹ có giấc mơ làm Mẫu hậu mất sớm, người con tên Khiêm ,
    tự là Hanh Phủ, theo quẻ Dịch : Khiêm tốn thì hanh thông, sau này
    tuy không làm vua nhưng làm thầy mấy ông vua và là chiến lược gia
    chỉ đạo cho dân tộc : Bắc hòa, Nam tiến.

    THIẾU THỜI

    Thuở nhỏ học ở quê nhà, cha từng sung chức Thái học sinh, mẹ lầu thông kinh sử, lý số, chắc hẳn ông đã đã được rèn luyện kỹ lưỡng. Khi lớn lên, ông vào Thanh Hóa ( cách Cổ Am độ 150 cây số ) học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nguyên Lại Bộ Thượng Thư. Trước khi chết ông thầy họ Lương truyền lại cho người môn sinh đầy năng khiếu lý số cuốn Thái Ất Thần Kinh là một cuốn sách lý giải Kinh Dịch của Dương Hùng đời Hán, cuốn sách hiếm này khi đi sứ Tầu, Lương Đắc Bằng đã tìm được.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy học giỏi nổi tiếng trong giới nho lâm nhưng
    ông đã bỏ không dự khoa thi 1523 và 1526 vì vào thời hỗn loạn cuối
    triều Lê, bỏ khoa đầu tiên của nhà Mạc vì thiên hạ còn chưa phục
    tùng, mãi tới năm 1534-35, đời vua Mạc Đăng Doanh thịnh trị vương
    đạo nhất triều Mạc, ông mới dự thi và đậu Trạng Nguyên. Năm ấy
    ông đã 44 tuổi.

    THỜI XUẤT CHÍNH : KHÔNG PHẢI 8 NĂM MÀ 30 NĂM !
    Đỗ đầu thi hương, thi hội, thi đình, Tam nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm Đông Các hiệu thư ( sửa chữa văn thư ), sau thăng Tả
    Thị Lang Bộ Hình, Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học Sĩ ( Tam phẩm ).
    Trong 8 năm tại triều ( 1535-1542 ) ông từng dâng sớ xin chém 18
    lộng thần. Năm 51 tuổi đời vua Mạc Phúc Hải, ông cáo quan về quê.
    Ít năm sau triều đình lại vời ông ra làm Thượng Thư Bộ Lại, Thái Phó, phò giúp vua nhỏ Mạc Phúc Nguyên ( 1546-61 ), cùng với Mạc Kính Điển là chú vua và là cột trụ chống đỡ nhà Mạc.
    Trong khoảng 55 tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn
    kinh đô Thăng Long, nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc đi đánh giặc, nhà Mạc tôn kính ông như quân sư, phong ông làm Trình Tuyền Hầu ( vì thế dân gian mới gọi là Trạng Trình ). Mãi tới ngoài 70 tuổi ông mới hoàn toàn quy ẩn nơi quê nhà.

    THỜI QUY ẨN VÀ TRIẾT LÝ SÁNG TẠO " TRUNG TÂN "
    Ông về quê năm 1563, sống đời tiên thoát tục trong Am Bạch Vân, bắc cầu Trường Xuân, Nghênh Phong, làm nơi nhàn tản nhìn trăng hóng mát. Ông lại khuyên dân làng trồng cây bờ đê để lấy bóng dâm, mở chợ làm nơi buôn bán, tu sửa đình chùa... Ông cùng học trò dựng quán Trung Tân nơi bến Tuyết giang, cho khắc văn khuyến Thiện trên bia đá, bài bia này nói lên triết lý tư tưởng cao siêu của Trạng Trình :
    "... Toàn kỳ thiện giả vi trung, bất toàn kỳ thiện giả tắc phi trung
    dã... Tân giả tân dã, tri sở chỉ vi yếu tân, bất tri sở chỉ tắc mê tân
    dã... Trung chi sở tại, tức chí thiện chi sở tại... "
    nghĩa là : " vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều
    Thiện thì không phải là Trung... Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là
    bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê ... Nghĩa chữ Trung
    chính là ở chỗ Chí Thiện... "
    Có lẽ trong nghìn năm Nho học mới thấy một nhà Nho giải nghĩa chữ
    Trung Dung một cách giản dị, đầy đủ và sáng tạo như vậy. Cốt tủy
    của Trung phải là Thiện, không có lòng Thiện thì biết đâu là chỗ
    Trung, chỗ đúng tiết, chỗ " juste milieu " mà dừng laiï ! Tâm bất chính thì lạc vào bến mê, tâm giác ngộ thì biết bờ bến để neo thuyền, tư tưởng này phảng phất tư tưởng " Đáo bỉ ngạn " tức tới được bến của nhà Phật. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nối Nho vào Phật Lão, mang lại cho nhà Mạc cái vinh dự tiếp tục tư tưởng Tam Giáo Đồng Tôn mà nhà Lê độc tôn Tống Nho đã đánh mất, và đánh mất nặng nề truyền thống dân bản khai phóng của Lạc Việt.
    Ở tuổi thất thập cổ lai hy, Trạng Trình có phong thái của một Lã Vọng Khương Tử Nha ngồi câu bên bờ sông Vỵ, một Gia Cát Lượng nằm ngâm thơ chân núi Ngọa Long :
    Ngư ông bất ngộ Đào nguyên khách
    khởi thức hưng vong thế cổ kim !
    Tương truyền cụ Trạng thường cùng các nhà sư già đi thăm các nơi
    danh lam thắng cảnh, nay Yên Tử, Đồ Sơn, mai Ngọa Vân, Kim Hải...học trò trước sau đông tới ba nghìn người. Cụ có ba phu nhân , 7 trai và 5 gái.
    Năm 1585 tuổi già lâm bệnh, biết mình khó qua, cụ Trạng 95 tuổi
    còn dâng sớ xin vua " ... thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy,
    vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song
    nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng ". Nhà Mạc cử cột trụ Triều đình là hoàng thân Khiêm Vương Mạc Kính Điển cùng các quan về tế lễ, sai lập đền thờ, cấp ruộng tự điền trăm mẫu, vua Mạc Mậu Hợp lại đích thân viết chữ đề lên đền thờ : " Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ ". Bảy năm sau khi Trạng Trình mất, 1592, nhà Mạc cũng mất theo, tuy còn giữ đất Cao Bằng thêm được 4 đời nữa.
    Xem thế Trạng Trình đã dốc lòng phò Mạc và nhà Mạc cũng hết mực cung kính cây cổ thụ che chở triều đại suốt 60 năm.
    Một trăm năm sáu năm sau, 1741, Tiến sĩ Vũ Khâm Lân nhân đi đánh
    giặc và đắp đê tới thăm đền thờ Trạng Trình, viết tựa cho tập gia phả của họ Nguyễn Bỉnh vào đời thứ tám ( ngã bát thế chi hậu, binh qua khởi trùng trùng ! ) đã xúc động mô tả kiểu đất " Nghiễn trì thủy ảnh ", tức mặt hồ nghiên, ánh nước long lanh, là đất phát sinh bậc đại nhân, đầm nước sâu hơn một trượng, bốn năm vụng đất trên khoảng vài trăm mẫu, chỗ thắt chỗ phình, khi lặng bóng, khi nắng vàng tỏa ánh.

    ĐẠO HỌC CỦA BẬC QUÂN SƯ : MÔN PHÁI BẠCH VÂN AM VỚI
    QUYẾT SÁCH TAM PHÂN THIÊN HẠ

    Từ cổ xưa, trước khi rơi vào cái học Tống Nho khoa cử độc tôn, tầm chương trích cú, người trí thức theo Đạo học, học để hành, hành tàng theo đạo. Đạo học là Đại học, quan để quán, bao quát mà vẫn qui về một mối ( Uni- versity ). Trạng Trình và các môn đệ của ông như Trạng Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ ( tác giả Truyền Kỳ Mạn Lục ), Nguyễn Quyện ( danh tướng nhà Mạc ), Trương Thời Cử, Trạng Giáp Hải, Lương Hữu Khánh... tập hợp thành một môn phái Đạo học, Đại học chi đạo, tiếp nối truyền thống Lý, Trần, học cả Nho lẫn Phật, Lão, cả Tứ Thư Ngũ Kinh lẫn các môn lý học, huyền học, binh thư, phong thủy địa lý... Trạng Trình phân phối môn đệ thân hữu đi mọi hướng đất nước : Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh... vào với nhà Lê trung hưng ở Thanh Hóa, Nguyễn Đình Thân, người cùng quê Hải Dương, đi với Nguyễn Hoàng vào Hoành Sơn, Trạng Giáp Hải, Nguyễn Quyện và chính mình phò Mạc tại quốc đô Thăng Long cho tới gần hết thế kỷ XVI.
    Sở học của Trạng Trình có lẽ được chính bà mẹ nuôi dưỡng uốn nắn
    từ nhỏ : học để làm vua, không làm vua thì cũng làm thầy vua, đấy là truyền thống " đế vương chi học " cao siêu của của bậc đại nhân :
    Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ
    du nhàn ngã thị địa trung tiên
    mà muốn vậy thì trên phải thông thiên văn, dưới phải rành địa lý,
    mưa gió nắng bão phải biết trước như Gia Cát , Trương Lương, chiến
    lược chiến thuật đều tinh thông nên có thể xếp đặt thiên hạ như bàn cờ , nhà Mạc một phần, Lê Trịnh một miếng, họ Nguyễn một
    phương...thế Tam quốc này chính Trạng Trình và môn đệ phân định
    thi hành, mặc dầu Trạng Trình cũng như Gia Cát, biết là mình đang
    cố lấy nhân lực để cưỡng mệnh trời, thế loạn mà muốn trị cũng giống như " con ngao to đội núi đỡ trời cao " . Cho nên dù có than :
    Cổ lai nhân nghĩa tri vô địch
    hà tất khu khu sự chiến tranh
    dịch :
    nhân nghĩa xưa nay là vô địch
    sao vẫn khư khư việc chiến tranh
    vẫn phải cáng đáng thiên mệnh, tận kỳ tính, lo toan chuyện dân
    chuyện nước.


    Từ Bạch Vân Am Trạng Trình dùng cái nhìn chiến lược và phong thủy để mở ra mặt trận Nam phương cho Nguyễn Hoàng : vừa thực hiện việc mở rộng bờ cõi, vừa lấy thế hiểm mà dung thân, ông thôi thúc Phùng Khắc Khoan vào Thanh Hóa với nhà Lê vì sau này, 1598, chính họ Phùng đi sứ sang Tầu đã dàn xếp chấp nhận để yên cho họ Mạc ở đất Cao Bằng. Chính Trạng Bùng là người theo chí thầy viết tập Sấm Văn và tập Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết , việc ông hai lần gặp Liễu Hạnh Thánh Mẫu hiển linh, lần đầu ở Lạng Sơn, lần sau ở Tây Hồ, là một khúc mắc lớn. Có thể chính hai thầy trò, đều tinh thông lý số , đều viết Sấm, đã nhân chuyện linh thiêng mà dựng nên một tín ngưỡng bình dân, lấy hình ảnh một bà Mẹ dân tộc làm mái che bên cạnh Phật, Lão, đang bị Nho đè xuống ?
    Dù sao, không thể phủ nhận khả năng thần toán của Trạng Trình mà
    sứ nhà Thanh Chu Xán sau này phải nhận là " An Nam lý số hữu
    Trình Tuyền ". Rõ ràng nhất là bài văn tế của Tiến sĩ Đinh Thời
    Trung khóc thầy và xác định tài lý số của thầy :
    Một kinh Thái Ất thuộc lòng
    Đốt lửa soi gan Dương Tử
    ... Một mình lý học tinh thông
    Hai nước anh hùng không đối thủ...
    Đạo thống Thánh nhân tự tiên sinh mà truyền ra
    Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo
    ....Đuốc ngọc chưa tàn ba ngọn
    Văn viết đã xong...
    Như vậy quả có Thái Ất, Thái Huyền của Dương Hùng làm luận giải
    cho Kinh Dịch và quả có chuyện thầy trò từng ngồi đoán số gieo quẻ với nhau. Bên cạnh những lời cố vấn như Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân cho Nguyễn Hoàng, Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản và
    Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, nên tìm giống cũ mà gieo
    mạ, cho Trịnh Kiểm tiếp tục phò Lê, hay dặn dò Cao Bằng tuy thiểu,
    khả diên sổ thế ( đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng ở được mấy đời ) cho con cháu nhà Mạc, thơ văn Trạng Trình cũng xác nhận lý số sấm ký là một khía cạnh trong Đạo học của Trạng :
    Thái cực nhất chu đàm luận liễu
    Tri ngô thấu đắc Dịch chi thâm
    Dịch :
    Thái cực một vòng đàm luận suốt
    Biết tôi Dịch lý thấu thâm sâu
    Quẻ Phục " thiên địa chi tâm " trong kinh Dịch được nhắc tới nhiều
    lần :
    Bác vãng tĩnh quan tri tất Phục
    Nhất dương dĩ nghiệm Địa Lôi trung
    Dịch :
    Quẻ Bác qua, lặng yên xem Phục đến
    Một Dương nghiệm thấy giữa Địa Lôi
    ( Quẻ Phục sau quẻ Bác, gồm Khôn trên và Chấn dưới, năm hào Âm
    đè ở trên, một hào Dương bắt đầu mọc ở dưới để Phục lên, vạn vật
    suy mãi cũng phải nẩy ra thịnh, đen mãi cũng có hồi đỏ, ánh sáng ở
    cuối đường hầm, đó là tâm của trời đất không nỡ để cái gì suy mãi ).
    Hay câu :
    Tĩnh quan vạn vật sinh sinh ý
    Ưng kiến vô cùng thiên hạ tâm
    Dịch :
    Lặng xem vạn vật sinh thông
    Thấy lòng trời đất mênh mông vô cùng
    Khi ra làm quan, ông đã biết trước :
    Quý thế khí tài tuy tạm xuất
    Hưng vương lương tá dĩ tiền tri
    Dịch :
    Thế cuối tài hèn tuy tạm xuất
    Vua lên tôi giỏi biết trước ra
    Nhất là hai câu thơ sau đây :
    Từ thuở hai dê sinh đặt ra
    Than ôi tuổi tác kẻ ban già
    nói về năm Ất Mùi ( Ất là can thứ hai, dê là năm Mùi ) đậu Trạng
    Nguyên khi đã 44 tuổi ( 1535 đời minh quân Mạc Đăng Doanh ), rất
    giống ngôn từ dùng trong Sấm ký. Mãi tới cuối thế kỷ XVIII, đời Tây
    Sơn, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp ( 1723-1804 ) còn lặn lội ra thăm
    đền thờ Trạng Trình và viết trong Thi Cảo là cụ Trạng đã " Phiến ngụ toàn tam tính " tức khuyên lời ngụ ý bóng gió để ba họ được an toàn.
    Một vài chuyện sau đây có thể xác tín vì đã được ghi lại trong trong
    gia phả, trong Công Dư Tiệp Ký, hoặc truyền khẩu từ xưa :
    Quẻ " Thiết Đoản Mộc Trường " ( Sắt ngắn gỗ dài )
    Một ngày cuối năm ba mươi Tết, cụ Trạng và một người học trò từ xa đến lễ thầy, hai thầy trò đang ngồi đàm luận thì có người gõ cổng xin vào. Cụ sai gia nhân ra nói hãy chờ một chút, trong lúc đó cụ và người học trò cùng bấm quẻ xem người gõ cổng đêm ba mươi Tết có chuyện gì. Hai thầy trò cùng bấm được quẻ " Thiết đoản mộc trường", tức ứng
    vào vật sắt ngắn gỗ dài, cụ hỏi :
    - Anh đoán xem là người gõ cổng có việc gì ?
    Người học trò trả lời :
    - Thưa thầy, sắt ngắn gỗ dài thì chỉ có cái mai, chắc có người vào
    mượn cái mai đào đất.
    Cụ nói :
    - Tôi đoán khác anh một chút, người gõ cổng đến mượn búa chứ
    không phải mượn mai.
    Khi mở cổng cho người hàng xóm vào thì đúng là vào mượn búa chứ
    không phải mượn mai mượn xẻng.
    Cụ giải thích cho trò :
    - Anh bấm quẻ đã đúng nhưng luận chưa cao. Đêm ba mươi Tết đến
    mượn búa để bổ củi nấu bánh chưng chứ giờ này ai còn đến mượn
    mai đào đất !
    Vớt xác được phú quí
    Bùi Sinh là người học trò nghèo trong làng, Trạng Trình đoán sau này sẽ được phú quí. Mãi tới tuổi 70 Bùi sinh vẫn không giầu không sang, bèn đến hỏi lại thầy mình. Cụ Trạng cười không nói gì, rồi bỗng nhiên một hôm cụ gọi Bùi Sinh lại bảo rằng : " Hãy mang thuyền đánh cá ra cửa bể Vạn Ninh, tới giờ ấy...hễ thấy gì trôi trên nước cũng vớt lên, sẽ được trọng thưởng ". Bùi sinh nghe lời ra bến Hồng Đàm ngồi đợi, quả nhiên một hồi giông bão nổi lên rồi thấy một xác người dạt vào, nhìn kỹ là xác một người đàn bà ăn mặc quần áo Tầu gấm vóc sang trọng. Bùi sinh vớt lên, sau này mới biết là xác mẹ Tổng Đốc Quảng Đông đi chơi ngoài biển bị bão bạt sang phương
    Nam. Viên Tổng Đốc Quảng Đông cho người tìm về hướng biển
    Nam, khi tìm thấy liền trọng thưởng Bùi sinh rất hậu, rồi Bùi sinh lại
    được nhà Mạc phong quan tước vì hành vi ngoại giao tốt đẹp !
    ( Có chỗ thuật hơi khác là bà mẹ Tổng Đốc hãy còn sống, Bùi sinh
    cứu lên và nuôi dưỡng cho tới khi người Tầu sang đón về, có chỗ
    lại nói là vớt lên xác một công chúa Tầu... ).
    Những giai thoại khác như " Minh Mệnh Thập Tứ, Thằng Trứ phá
    đền " hoặc " Cha con thằng Khả đánh ngã bia tao ", hoặc lấy số Tử Vi cho cái quạt...có thể do người sau thêu dệt, không có có giá trị tiên tri sấm ký.

    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  9. #29
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Bài Sấm đích thực là Sấm Trạng Trình

    Một ngày thu năm Nhâm Dần ( 1542 ) đang tựa án đọc sách, chợt
    thấy mây ngũ sắc hiện ra, Trạng liền gieo quẻ bói xem thời vận nước
    nhà, lúc ấy đời vua thịnh trị nhất triều Mạc là Mạc Đăng Doanh mới
    mất, Trạng bốc được quẻ Càn, động hào Sơ cửu, liền đoán :
    Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân
    can qua sinh sác biến
    nghĩa là loạn liên tiếp vào năm Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân
    Hợi ( 1548-49-50-51 ), rồi cụ lại giảng tiếp cho học trò là Trương
    Thời Cử rằng :
    Bốc đắc Càn thuần quái
    Sơ cửu thoái tiềm long
    Ngã bát thế chi hậu
    Binh qua khởi trùng trùng
    Ngưu tinh tụ Bảo giang
    Đại nhân cư chính trung
    Dịch nghĩa :
    Bói được quẻ thuần Càn
    Hào sơ cửu rồng lui ẩn
    Tám đời sau ta
    Binh biến khởi trùng trùng
    Sao Ngưu tụ Sông Quí
    Đại nhân ở chính giữa
    ( Có bản chép câu 5 là : Tinh tụ Bảo giang thượng nghĩa là Sao tụ
    trên Sông Quí ).
    Bài này chính là chìa khóa để mở mật ngữ và ẩn nghĩa trong toàn bộ
    Sấm Trạng Trình, một bài Sấm không ai phủ nhận được giá trị chân
    xác may mắn được truyền lại, trong khi tập Sấm đã bị tam sao thất
    bản, thêu dệt thêm bớt qua 500 năm.
    Bói được quẻ Càn ( Trời ), thấy rồng lui ẩn, hồng vận chân chúa chưa
    xuất hiện, tám đời sau, khoảng 1735 khi Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tới
    thăm hậu duệ đời thứ 7 và thứ 8 của Trạng Trình tại chính nền nhà
    xưa, đúng là thời loạn liên tiếp giữa các phe Trịnh, Nguyễn, Tây
    Sơn...Cho tới triều Nguyễn Gia Long cũng chỉ được hơn 60 năm lại bị
    Thực dân xâm lăng, mà trong 60 năm đó, loạn lạc vẫn liên miên tại
    miền Bắc bộ ( riêng hai đời Minh Mệnh, Thiệu Trị 1820-1847 đã có
    tới 250 vụ loạn ) , cho tới thập niên 1980 mới tạm gọi là yên ổn. Phải
    đợi tới khi sao Ngưu, chủ tinh của bậc đại nhân xuất hiện trên Bảo
    giang thì đất nước mới lại phục hưng, đại hồng vận non sông mới rực
    rỡ.
    Bài Sấm trên cho thấy Trạng Trình đã dùng tới Dịch lý và phải cộng
    thêm với Chiêm tinh ( Thái Ất, Thái Huyền ? ) mới tính ra được thời "
    sao tụ " trên Bảo giang và " tám đời sau binh qua ", mà một quẻ Dịch
    thường không " động " cho một quãng thời gian dài cả 500 năm như
    vậy.
    Thái Ất, Thái Huyền hay là Chiêm Tinh Tuyết Sơn Hy Mã ?
    Trạng Trình đã viết Sấm, không nghi ngờ gì nữa, nhưng viết Sấm
    bằng nguồn gốc lý số nào, đấy còn là một nghi vấn .
    Lý số học Đông phương phần lớn dựa trên Kinh Dịch, từ Âm Dương
    Ngũ Hành, tới Bát quái, 64 quẻ...theo đó mà luận, từ Nho, Y, Lý, Số,
    cho tới làm lịch... đều không ra ngoài Dịch lý. Muốn kỹ càng chi tiết
    hơn, với các công thức áp dụng cho tiện việc tính toán ( ví lý số là
    một môn Toán học Thiên văn ), phải dùng thêm các sách luận giải về
    Kinh Dịch, trong đó Thái Ất Thần Kinh là một.
    Nguyên Thái Ất Thần Kinh còn gọi là Thái Ất Kim Tiền là một tập
    sách có từ đời Đường ( tk VI-VIII có thể là sách Thái Ất Kim Kính
    Thức Kinh của Vương Hy Minh ) rất cao siêu nên được gọi là Kinh,
    mà Kinh này cũng lại bắt nguồn từ sách Thái Ất từ đời Chiến Quốc
    ( 481-249 trước Dương lịch ). Thái Ất là tên một vì sao lớn, có chu kỳ
    40 năm một vòng, đi qua đâu thì giáng an lành mưa thuận gió hòa,
    có người cho là thuộc bộ Càn tức là sao Bắc thần hay Bắc đẩu, cũng
    có thể là sao Thái Tuế theo khoa Tử Vi.
    Một học giả đời Minh là Viên Đàm lại cho rằng sách Thái Ất Thần
    Kinh chính là sách Thái Huyền của Dương Hùng đời Hán ( năm 53
    tr.DL ). Dương Hùng tuy dựa theo Kinh Dịch mà viết ra Thái Huyền,
    nhưng ông chi tiết hóa và công thức hóa thành một bộ sách áp dụng
    vào lý số nên sau này các nhà thuật số đều lấy đó làm cứ điểm.
    Dịch thì lấy Âm Dương làm gốc, Huyền thì lấy một, hai, ba, làm gốc
    cho mọi biến hóa trong trời đất :
    " Huyền có hai đạo, một là lấy 3 mà sinh, lấy 3 mà khởi là Phương,
    Châu, Bộ, Gia ; lấy 3 mà sinh là chia khí Dương ra làm 3, chồng lên
    3 lần, đến chín Doanh là cùng cực... " ( Nho Giáo- Trần Trọng Kim ).
    Mỗi Gia lại biến ra 3 Thủ, mỗi Thủ lại có 9 Tán. Dịch thì có 6 hào
    hợp thành 384 hào, Huyền thì có 9 Tán, hợp lại làm 729 Tán
    ( Phương 3 x Châu 3 x Bộ 3 x Gia 3 x Tán 9 = 729 ). Như thế Thủ
    tương đương với Quẻ, Tán tương đương với Hào của Dịch. Áp dụng
    vào lịch pháp thì lấy hai Tán làm một ngày, một Tán ngày, một Tán
    đêm, cộng vào thành 364 ngày rưỡi ( 729 : 2 = 364.5 ), nên phải
    thêm 2 Tán Cơ và Doanh vào cho thành 365 ngày 1/4.
    Xem thế sách Thái Huyền là của đạo gia, dựa trên Đạo Đức Kinh,
    nhất sinh nhị, nhị sinh tam mà diễn luận.
    Sau Dịch, đến Huyền, tới thế kỷ XI đời Tống, lại thêm Thần của
    Thiệu Ung ( 1011-1017 ) với sách Hoàng Cực Kinh Thế, luận cả về
    Dịch lẫn Huyền. Thần giống như Đạo, là Thiên lý, là Tính, dẫu biến
    dịch thế nào cũng vẫn không tiêu hoại ( tương tự như Phật tính ), nên
    phải Phục tính để đạt tới Thần, Thần lan khắp vạn vật, mọi sinh linh
    đều có trong bản chất. Thiệu Ung chia cuộc biến hóa của vũ trụ ra
    làm Nguyên, Hội, Vận, Thế. Mỗi Nguyên là 129600 năm, gồm 12
    Hội. Mỗi Hội có 10800 năm, gồm 30 Vận. Mỗi Vận có 360 năm,
    gồm 12 Thế. Mỗi Thế là 30 năm ( một Thế hệ ).
    Cuộc Thịnh, Suy, Tiêu, Trưởng cứ thế tuần hoàn, mỗi Hội ở một quẻ
    Tý, Sửu... Trời sinh ở Hội Tý, Đất thành ở Hội Sửu ( Trâu cày ruộng ),
    Người sinh ở Hội Dần ( mạnh mẽ như hổ )...Đời Nghiêu Thuấn là
    cuối hội Tỵ ( dương trưởng âm tiêu ) nên cực thịnh, sang hội Ngọ,
    dương tiêu âm trưởng không còn cực thịnh nữa, là hội thế gian hiện
    tại, ta đang ở cuối hội Ngọ.
    Xem thế Thiệu Ung nối kết Dịch với Đạo, với Phật ( lúc đó đạo Phật
    đã rất thịnh ở bên Tầu ) và toán pháp hóa để tạo thành khoa lý số,
    cùng với Chu Đôn Di và nhất là Trần Đoàn ( số Tử Vi ).
    Trạng Trình, có bà mẹ rất giỏi về lý số, có thầy trao truyền sách Thái
    Ất, tất phải tinh thông Dịch, Huyền và Thần. Đây là ba môn căn bản
    lý số mà từ đời Lý, Trần, các nhà sư Mật tông như Định Không, Vạn
    Hạnh có thể đã xử dụng để làm Sấm. Những sách này không phải bí
    truyền mà vì cao siêu quá nên ít nho sinh chịu nghiên cứu, chỉ có một
    số ít đầu óc thông minh, có năng khiếu thiên văn toán số, mới lĩnh
    hội được. Cũng như bên Tây phương thế kỷ XVI-XVII những sách về
    thiên văn vật lý của Kepler, Corpernic, Newton... rất ít người đọc và
    rất ít người nắm vững.
    Vấn đề ở đây là ngay những sách Thái Huyền, Hoàng Cực, Tử Vi...
    đời Hán, đời Đường, đời Tống... đã chịu ảnh hưởng tới đâu của Mật
    tông Phật giáo Tây Tạng và huyền học Vệ Đà Ấn Độ do con đường
    Tơ Lụa ( Silk Road ) và đường biển phía Nam mang sang ? Nhìn bố
    cục lá số Tử Vi của Trung Hoa giống như in lá số chiêm tinh của Nam
    Ấn Độ, xem cách tiên tri của các nhà sư đời Đinh, Lê, Lý... không
    những thấy dấu vết của Dịch lý mà còn thấy dùng phương thức khác
    để đoán Tên người, đoán Nơi chốn, đoán Tinh đẩu hội tụ vào một
    điểm chuẩn xác trong thời gian và không gian... những tính toán
    chuẩn xác này vốn là ưu điểm của khoa chiêm tinh Ấn và khoa
    chiêm tinh Tây phương ( xem phần Sấm Vạn Hạnh ). Có thể suy diễn
    là Trạng Trình và các môn đệ tinh thông lý số của ông như Trương
    Thời Cử, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan... đã dùng các tài liệu của
    Tầu và không thể không nghiên cứu các Sấm ký lưu truyền trong nhà
    chùa. Ta thấy Trạng Trình rất thông đạo Phật, hay cùng các nhà sư
    già đi thăm các nơi danh thắng nhất là vùng Yên Tử trung tâm Thiền
    phái đời Trần, lại thêm có gạch nối rõ ràng giữa Sấm Vạn Hạnh và
    Sấm Trạng Trình về điểm Thánh Xuất với " Lý đi rồi Lý lại về ", và
    Trạng Bùng quê quán Sơn Tây hẳn không thể không quan tâm tới "
    núi Tản sông Đà " là những địa danh được nhắc tới nhiều lần trong
    tập Sấm.


    Sấm Trạng Trình như một sứ điệp lịch sử


    Sấm Trạng Trình đầu tiên chắc được giữ kín đáo trong một nhóm môn
    đệ thân cận như Phùng Khắc Khoan, Trương Thời Cử, Nguyễn Dữ...,
    với số môn đệ đào tạo trong hơn 50 năm, lên tới 3000 người, thơ văn
    sấm ký của ông thầy hẳn đã được sao chép hoặc ít ra cũng được
    truyền khẩu, chưa kể cả vua, quan và quần chúng đều đã biết rất
    nhiều về tài tiên tri của Trạng. Tập Sấm đã đi vào mọi giới và mọi
    nơi, kể cả vào Thuận Quảng với nhóm di dân mang theo cẩm nang "
    Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân " và có thể có cả người của
    Trạng Trình gửi theo lớp viễn chinh ấy.
    Có thể đặt giả thuyết là Trạng Trình chỉ bốc quẻ, giảng truyền cho
    môn đệ chứ không viết xuống thành tập. Bài Sấm giảng cho Trương
    Thời Cử kể trên là một thí dụ điển hình. Sau đó các cao đồ mới sao
    chép lại thành tập, đặt ra thành lời thơ năm, sáu chữ... rồi lưu truyền.
    Tập Sấm Văn và Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết của Phùng Khắc
    Khoan cần phải được tìm kiếm và nghiên cứu ( nếu còn lưu truyền ),
    hai thầy trò rất tương đắc đến độ có thuyết cho là hai anh em cùng
    mẹ khác cha mặc dầu Phùng Khắc Khoan kém Trạng Trình tới 37
    tuổi ! Có chuyện kể rằng Trịnh Kiểm cho người ra tận Hải Dương vấn
    kế " Phục Lê diệt Mạc ", Cụ không trả lời chỉ sai người nhà vứt chiếc
    chiếu ra sân. Sứ giả về Thanh Hóa kể lại, triều thần không ai hiểu ý,
    chỉ có Phùng Khắc Khoan là hiểu ngay ý thầy : phải đánh mau như
    cuốn chiếu ( Tịch quyển trường khu, theo binh pháp ).
    Tám đời sau, Vũ Khâm Lân viết tựa cho Gia phả họ Nguyễn Bỉnh
    không thấy nhắc tới tập Sấm Ký. Lý do là Sấm ký, lý số, vốn bị các
    nhà Nho cho là " ngoại thư ", hơn nữa nhắc tới một ông Trạng quân
    sư của nhà Mạc, bị nhà Lê gạt tên ra khỏi văn miếu, không phải là dễ
    dàng ở thế kỷ XVIII dưới thời Lê-Trịnh, vì thế Vũ Khâm Lân mới phải
    nhắc khéo là Trạng Trình tuy sinh trên đất Mạc nhưng cũng đã góp
    công đào tạo rất nhiều nhân tài phục vụ cho nhà Lê như Trạng Bũng,
    Lương Hữu Khánh... Nhưng không phải vì thế mà Sấm Trạng bị thất
    truyền, mấy ngàn môn đệ đã reo rắc lời thầy khắp nơi, nó được kính
    cẩn gìn giữ trên " bia miệng trơ trơ ", trong tâm não của giới nho lâm,
    được phát triển và bàn bạc thêm theo đúng ý Mạc Triều Trạng
    Nguyên Tể Tướng, một ngôi sao Bắc đẩu mà lịch sử Việt Nam tới nay
    cũng chỉ có một.
    Điều chắc chắn là Sấm Trạng Trình đã có ảnh hưởng sâu rộng trong
    giới tranh bá đồ vương ngay từ thời thế kỷ XVII. Năm 1671, có đảng
    Bạch Sỉ được thành lập để phò Lê diệt Trịnh, tên Bạch Sỉ lấy từ Sấm
    Trạng Trình, chỉ danh bậc đại nhân sẽ xuất hiện. Đời Gia Long, đầu
    thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ
    " Phá Điền ", lấy từ câu" Phá điền Thiên tử giáng trần " của Sấm
    Trạng Trình, Lê Duy Hoán tuổi Thân, phá điền chiết tự có thể thành
    chữ Thân ! Thời đầu thế kỷ XX, có nhóm thần Tản Viên ở miền Bắc
    Việt !
    Cho nên lời Sấm còn truyền tới ngày nay là lời Sấm truyền khẩu hoặc
    sao chép từ giới sĩ tử học trò Trạng Trình, tới thế kỷ 18-19 có nhà nho
    viết xuống thành tập, thành bài không nhất định, rồi lại dùng thơ lục
    bát để diễn ý. bên cạnh những câu " chính truyền ", còn có các câu
    sấm " diễn nghĩa ", rồi tất nhiên xen những câu giả mạo với dụng ý
    tuyên truyền nhất là vào thế kỷ XX hiện tại.
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  10. #30
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Đọc Sấm Trạng Trình

    Sấm cũng như Kinh, đòi hỏi người đọc một vài tiêu chuẩn tâm thức
    giúp cho việc lĩnh hội. Người viết Sấm như Trạng Trình khi bốc quẻ
    đã phải hết sức tập trung và thành tâm thì quẻ mới ứng, chưa kể kỹ
    thuật tính toán suy diễn đòi hỏi rất nhiều tâm huyết.
    Người viết Sấm thuộc loại Thánh nhân, người đọc Sấm cũng cần tĩnh
    tâm để đốt lửa soi gan kim cổ. Phá chấp kiến, vượt ngã mạn, trực chỉ
    nhân tâm mà kiến cái " Huyền " của lịch sử.
    Sấm Trạng Trình luận giải về Lịch sử dân tộc 500 năm sau tức là vào
    hiện đại. Nhìn dân tộc như một khối sinh động trôi trong thời gian,
    thịnh suy theo chu kỳ tinh đẩu thiên địa nhân nhất thể, Trạng Trình
    không phải chỉ đoán sự mà còn để cái tâm vào cuộc thăng trầm của
    dân tộc mà ông suốt đời thao thức, tận tụy. Thế nên hậu thế đọc Sấm
    chẳng những để tìm hiểu cái sự biến mà còn cảm thông cái sự tâm,
    thì mới quán chiếu nổi phần nào nỗi lòng nặng chĩu của tiền nhân
    truyền lại.
    Trong tâm nguyện đó, chúng tôi luận giải lời Sấm sau đây, với chiếc
    chìa khóa do cố bốc sư Ba La ( 1870 ? -1973 ) khẩu truyền để khai
    mở những ẩn ngữ và mật ý.

    Phần Sấm Chữ Nho

    1- Mẫu thân tam thập lục tuế
    hậu sinh thiên tử Bảo giang môn
    Bậc thiên tử xuất ở Bảo giang, mẫu thân sinh ra ngài lúc 36 tuổi. Khi
    sinh ra đã cách trở song thân. Câu sấm truyền khẩu khá phổ biến,
    tương hợp với nhiều đoạn khác về địa danh Bảo giang, tức sông Đà
    giang .Phần sấm chữ nôm cũng có câu tương tự :
    Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
    hậu sinh thiên tử Bảo giang môn
    2- Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
    một nhà họ Lý phúc sinh tôn
    Trời sinh thiên tử ở hỏa thôn ( ? ), dòng dõi phúc đức con cháu nhà
    Lý. Tên thôn làng thánh nhân trong có chữ hỏa ( hán tự) hoặc hỏa
    cũng là phương Nam, tức Viêm bang chỉ nước Nam ta. Vua Tự Đức
    sửa họ Lý thành họ Nguyễn vì là họ Triều Nguyễn Gia Long ( theo cụ
    Ba La ). Triều Nguyễn rất hẹp hòi thiển cận như đặt ra lệ tam bất
    ( không phong chức Hoàng hậu,Tể Tướng,Trạng Nguyên ) vì sợ lạm
    quyền . Suốt thời các vua Nguyễn, không một người nào ở đất Bắc
    làm tới nhất phẩm tứ trụ, mặc dầu tổ tiên họ Nguyễn vốn xuất từ
    miền Bắc ! Nạn kỳ thị địa phương này kéo dài tới thời Bảo Đại mới
    tạm dứt. Các nhà phong thủy bàn rằng từ thế kỷ 16 tới 20, các long
    mạch đi vào phương Nam đất cũ của Chiêm Thành, Chân Lạp vong
    quốc, ma khí nặng nề, nên dân tộc chịu nhiều khổ ách tai ương.
    3- Dục thức thánh nhân hương
    quá cầu cư Bắc phương
    danh vi Nguyễn gia tử
    kim tịch sinh Ngưu lang.
    Muốn biết hương quán thánh nhân, hãy qua cầu về phương Bắc, con
    cháu họ Nguyễn ( Lý ), ánh sáng vàng sinh Ngưu lang.
    Họ Lý sau khi bị Trần Thủ Độ " nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc
    " ( 1225 ), đã phải trốn tránh, có hoàng thân vượt biển trốn sang Cao
    Ly như Hoàng tử Lý Long Tường, những người còn lại phải cải sang
    họ Nguyễn như Tiến sĩ Nguyễn Tư Giản ( 1823-1890 ), nhà văn
    Nguyễn Triệu Luật thời tiền chiến là dòng dõi hoàng tộc nhà Lý, hoặc
    bị truy nã phải dấu họ đổi tên ra họ Bàng như tổ tiên thi sĩ Bàng Bá
    Lân...Kim tịch có thể chỉ hướng Tây , và Ngưu có thể là ngôi sao bản
    mệnh của thánh nhân.
    Có bản chép : Danh vi Nguyễn gia tử tinh bản tại Ngưu lang
    cùng nghĩa với câu trên, tinh bản càng rõ ý sao Ngưu bản mệnh.
    4- Thủy trung tàng bảo cái
    hứa cập thánh nhân hương
    mộc hạ châm châm khẩu
    danh thế xuất nan lường
    Giữa có nước tàng lọng quí, mới tới được quê hương thánh nhân.Tên
    thánh nhân " mộc hạ châm châm khẩu " là lối chiết tự của cổ nhân,
    chữ châm gồm chữ kim và chữ thập Kim chỉ phương Tây ( Đoài
    phương phúc địa giáng linh ...), thập chỉ danh " có thầy Nhân Thập
    đi về " . Nhân Thập là thánh Tản, năm chữ nhân và một chữ thập
    thành chữ Tản. Ba chữ mộc, hạ, khẩu, không chiết tự được vào nghĩa
    nào, cụ Ba La chỉ cho biết tên nhưng không giải thích thêm . Chữ
    khẩu và chữ thập có thể thành chữ điền trong câu " phá điền thiên
    tử giáng trần ".
    Bảo cái là lọng quí tức núi Tản hình cái lọng ( Tản Viên ), thủy trung
    có thể là núi Tản bên bờ sông Đà giang, hoặc đỉnh non Tản có ao
    nước ( nay chỉ còn ao nhỏ róc rách nước từ vách núi chẩy xuống ).
    Nghĩa sau hợp lý hơn. Thánh nhân xuất thật khó lường ( nan lường ).
    Có bản chép về đoạn này như sau :
    Dục thức thánh nhân hương
    quá kiều cư Bắc phương
    dục thức thánh nhân danh
    mộc hạ châm châm khẩu
    cũng không khác nhau về ý nghĩa.
    5- Bảo giang Thiên tử xuất
    bất chiến tự nhiên thành
    phân phân tùng bách khởi
    nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
    Thiên tử xuất ở sông quí, không cần chiến chinh cũng thành công,
    bậc quân tử khởi nghiệp ( tùng bách cây cao bóng cả chỉ bậc thánh
    nhân quân tử ) xuất phát về hướng Đông mà chinh phục lòng người.
    Bảo giang tức sông Đà, Sơn Tây, từ Tây sang Đông là hướng quần
    tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người.
    Trạng Trình là bậc Trạng Nguyên, không mơ hồ Đông Tây Nam Bắc,
    cụ ngồi ở Bạch Vân Am ( Hải Dương, Hải Phòng bây giờ ) nhìn về
    Tây là núi Tản, hoặc lấy cứ điểm là kinh thành Thăng Long để định
    hướng cũng vậy. Không thể nói phương Tây là miền Tây Nam Phần
    Việt Nam được.
    Có bản chép : phân phân tòng bắc khởi không hợp nghĩa. Hai câu
    đầu người Việt Nam không mấy ai không thuộc lòng , sấm Trạng
    Trình có thể gọi là cuốn Sách Ước của dân tộc, ăn sâu vào tàng thức
    mọi người.
    6- Bảo sơn thiên tử xuất
    bất chiến tự nhiên thành
    lê dân đào bão noãn
    tứ hải lạc âu ca
    Thiên tử xuất từ núi quí, không dùng binh vẫn đạt thành, dân đen đều
    vui mừng no ấm ( bão bộ thực mới có nghĩa no ấm, bộ thủ nghĩa là
    ôm ấp, không thích hợp ) , bốn biển an lạc thanh bình.
    Bảo sơn, Bảo giang là đất kết phát bậc thánh nhân. Núi Tản làm cái
    án che độc khí phương Bắc cho thành Đại La ( Thăng Long sau này ),
    là đầu rồng long mạnh tụ hội, đột ngột nổi cao 1300 mét trên đồng
    bằng. Sông Đà là tay hổ hùng mạnh đổ từ vùng Vân Nam xuống cùng
    đại thế Hy Mã Tây Tạng truyền về nước Việt. Cụ Ba La cho rằng bậc
    thánh nhân này có thể thống lĩnh cả Trung Hoa, ít nhất là phần đất
    cổ xưa của Bách Việt. Như thế mới hết nghĩa của chữ tứ hải.
    Xét theo đại thế phong thủy, Trung Hoa có núi cao sông dài hơn nước
    Việt nhỏ bé, nên Trung Hoa ở thế đại cường thiên hạ. Tuy vậy long
    mạch Dương Tử Giang đang bị cắt phá vì công trình xây cất đập
    nước, con rồng lớn Trung Hoa trong thiên kỷ tới có thể vì thế yếu đi,
    sẽ bị đại địa kết phát Bảo sơn Bảo giang khuynh loát. Lịch sử theo
    luật tiến hóa thăng trầm, không nước nào mạnh mãi, không nước nào
    yếu mãi. Long mạch cũng theo định luật đó, thời kết phát, thời suy
    vong.
    7- Mại dữ lê viên dưỡng
    Khởi nguyệt bộ đại giang
    hoặc kiều tam lộng ngạn
    hoặc ngụ kim lăng cương
    Xét đại ý thánh nhân khi chưa xuất hiện, sinh sống nơi vườn tược ( lê
    viên dưỡng ), lúc vui với trăng nước bên sông , lúc hóng mát bên cầu,
    bờ đê, lúc trú ngụ ở Kim lăng cương... Kim cương chỉ vùng núi phương
    Tây.
    Câu này được nhắc lại trong phần chữ nôm : Vua còn cuốc nguyệt
    cầy mây...
    8- Nhân nghĩa thùy vi địch
    đạo đức thục dữ đương
    tộ truyền nhị thập ngũ
    vận khải ngũ diên trường
    Nhân nghĩa đạo đức của thánh nhân không ai có thể đương đầu
    chống lại, ngài ở ngôi thiên tử hai mươi lăm năm, để lại đại hồng vận
    cho dân tộc năm trăm năm.
    Hai triều đại vương đạo lâu dài nhất trong sử Việt là Lý và Trần cũng
    chỉ trên dưới 200 năm. Thánh nhân khai sáng nghiệp 500 năm phải
    được long mạch trường thế tương đương với họ Hồng Bàng. Thánh
    Tản là con rể vua Hùng và đã làm vua một thời gian ngắn trước khi
    họ Hùng chuyển sang họ Thục. Thánh nhân là hóa thân của thánh
    Tản, lấy đức mà trị dân, đưa dân tộc trở lại vinh quang thịnh trị của
    thời Hùng vương lập quốc.
    9- Thiên dữ thần thực thụy
    thụy trình ngũ sắc quang
    kim kê khai lựu diệp
    hoàng cái xuất quí phương
    Trời đất thánh thần cùng báo điềm lành, mây ngũ sắc hiển hiện, gà
    vàng mở lá lựu, lọng vua xuất hiện phương quí.
    Ca dao có câu : Nhất cao là núi Tản viên
    Núi thắt cổ bồng
    mà lại có thánh sinh
    hoặc đồng dao : Bổng bồng bông
    núi thắt cổ bồng
    mà có thánh sinh
    Câu sấm này lại nhắc tới lọng vua ( hoàng cái ) tức Tản viên, ở quí
    phương tức phương vàng ( kim ) là phương Tây. Trong chữ lựu có chữ
    điền, khai lựu diệp cũng có nghĩa như phá điền thiên tử giáng trần,
    cổ nhân muốn gợi ý thánh Tản xuất. Phá chữ điền lộ ra chữ thập , là
    thấy danh " nhân thập " trong câu " có thầy nhân thập đi về, tả phù
    hữu trì, cây cỏ làm binh ".
    10- Quần gian đạo danh tự
    bách tính khổ tai ương
    ma vương sát đại quỷ
    hoàng thiên tru ma vương
    Bọn gian tà ăn trộm chữ nghĩa làm trăm họ khổ sở, ma vương giết đại
    quỷ, nhưng trời cao sẽ tiêu diệt ma vương.
    Câu đầu dường như ám chỉ bọn gian tà giả nhân giả nghĩa, bầy đặt ý
    thức hệ , diễn trò điên đảo tưởng, miệng nói bình đẳng bác ái, lòng
    lại tham tàn độc ác. Hai câu cuối rất phổ biến, nhiều người thuộc
    lòng. Tuy vậy lời sấm ứng vào giai đoạn lịch sử nào thì không được
    rõ, vì từ sau đời Trạng Trình, suốt 400 năm nhiễu nhương biến loạn
    lầm than, lịch sử quay cuồng đủ mọi phường ma quỷ bá đạo, trăm họ
    chỉ còn biết nhìn Trời cao mà cầu khẩn.
    Đây là một trong những đoạn sấm hay và có giá trị văn chương, chỉ
    tiếc rằng không có liên hệ với câu khác để định thời điểm. Mới đọc
    có cảm tưởng như một nhà nho nào đặt ra vào thời hiện đại, khoảng
    1945-50, nhưng lời sấm này đã có chép trong bản 1930 của Sở
    Cuồng ( Nam Ký thư xã -Hà Nội ) và bản Đại La ( 1948 ), vả lại hai
    câu cuối truyền khẩu trong dân chúng từ nhiều thế hệ.
    11- Bắc hữu kim thành tráng
    Nam tạc ngọc bích thành
    hỏa thôn đa khuyển phệ
    mục dã dục nhân canh
    Bắc có thành vàng tráng lệ, Nam tạc thành ngọc xanh, xóm lửa vang
    chó sủa, mong người canh tác cánh đồng quê.
    Đoạn này lại nhắc tới kim thành ( kim là phương Tây ) và hỏa thôn là
    thôn làng thánh nhân ( thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn ) .Có thể đoán
    là năm Tuất ( khuyển )- 2006- thánh nhân xuất chăm sóc muôn dân,
    ứng hợp với câu :
    Canh Tân tàn phá
    Tuất Hợi phục sinh
    Canh Thìn , năm 2000, Tân Tỵ, 2001, là hai năm đại loạn thế giới
    theo nhiều chiêm tinh gia Tây phương. Tuất , Hợi ( 2006-2007 ), thế
    gian sẽ phục sinh an bình trở lại. Thánh nhân xuất vào năm Tuất để
    phục hưng bốn phương cũng hợp với Quẻ Phục là quẻ Dịch mà Trạng
    Trình thường nhắc tới trong Bạch Vân Thi Tập.
    Hai câu : Bắc có kim thành, Nam tạc thành ngọc bích, không rõ
    nghĩa. Có người gượng đoán là Nam, Bắc Việt đều có đất quí, thiết
    tưởng là chủ quan thời đất nước chia hai.
    Hai chữ hỏa và khuyển đều liên quan chiết tự với tên Thánh nhân.
    12- Nam Việt hữu Ngưu tinh
    quá thất thân thủy sinh
    địa giới XỈ vị BẠCH
    Thủy trầm nhĩ bất kinh
    Nam Việt có sao Ngưu, quá thất thân mới sinh, địa giới răng chưa
    trắng, nước chìm tai chẳng kinh.
    Lại nhắc tới sao Ngưu chủ tinh của thánh nhân, quá thất thân : có thể
    ám chỉ thời xuất thánh như câu " lục thất nguyệt gian " trong đoạn
    sấm khác, hoặc nếu chữ thất là bảy thì tạm hiểu là ngoài bảy mươi
    tuổi, hoặc là một cách tính độ sao Ngưu xuất lộ vào vận thất khai
    ( ? ).
    Hai câu sau là câu đối : Địa giới đối với thủy trầm, xỉ đối với nhĩ, vị
    bạch đối vói bất kinh. Ở đây đưa ra một tên khác của thánh Tản là
    Bạch Sỉ, trong chữ Sỉ ( răng ) có 4 chữ nhân, ám chỉ Nhân Thập tức
    thánh Tản, chữ Bạch ( trắng ) là ẩn ngữ chỉ danh. Trong bài thơ tiên
    tri của chúa Liễu giáng cũng có câu : non xanh mà mọc trắng răng
    cũng kỳ, đều hàm chứa tên thánh nhân. Cụ Ba La cho biết tên nhưng
    không nói rõ cách chiết tự hoặc ghép chữ, chưa thấy ai tìm ra cách
    cắt hoặc ghép đúng .
    13- Phú quí hồng trần mộng
    bần cùng bạch phát sinh
    anh hùng vương kiếm kích
    manh cổ đổ thái bình
    Công danh phú quí như giấc mộng hồng trần, lúc bần cùng mới bạch
    phát sinh ra, bậc quân vương anh hùng lập chiến công dựng nghiệp
    lớn, kẻ mù lòa lại được thấy thái bình âu ca !
    Bạch phát sinh là ba chữ chìa khóa trong đoạn này, chữ bạch nhắc
    tới Bạch Sỉ, bạch phát hàm ý bạch ốc phát công danh. Bần cùng :
    chú ý chữ cùng có bộ huyệt .
    Đoạn này dùng ẩn ngữ với tứ thơ cao siêu, vừa nói lên thân thế thánh
    nhân từ bạch ốc phát sinh, coi phú quí như giấc mộng, vừa dùng ảnh
    tượng người mù thấy cảnh thanh bình, lại thêm vài nét chữ gợi danh
    tính thiên tử. Quả là tuyệt bút !
    14- Tại sơn vô hổ lang
    Thất thập nhị hiền tướng
    Phụ tá thánh quân vương
    .......................................
    Tỵ nhân vi tướng
    Thìn Tuất vi quân sư
    Vùng rừng núi Tản Viên ( Ba Vì ) đặc biệt không có hổ lang ác thú,
    72 vị tôi hiền phò tá bậc thánh vương. Thất thập hàm ý rất nhiều
    nhân tài có đức độ , là những phò tinh chung quanh sao Ngưu, chủ
    tinh sáng láng của quẻ Phục Viêm Bang.
    Thần núi Tản gọi là Trụ Quốc Đại Vương, đời vua Lý Nhân Tôn lập
    đền thờ trên ngọn núi thứ nhất có 20 tầng tháp. Thần núi Tản rất linh
    thiêng, Cao Biền phải sợ, ngay Chúa Trịnh Sâm ( 1767-82 ) đi dẹp
    loạn miền Tây, muốn leo lên núi cũng không được, mưa gió hốt nhiên
    nổi lên , quân sĩ lạc đường, không tìm ra lối trèo.
    Hai câu cuối : người tuổi Tỵ làm tướng, người tuổi Thìn và Tuất làm
    quân sư , không có trong nhiều bản in, chúng tôi ghi lại để tồn nghi.
    15- Thượng đại nhân bất nhân
    Thánh ất dĩ vong ân
    Bạch hổ kim đái ấn
    Thất thập cổ lai xuân
    Bốn câu này không rõ nghĩa đen và nghĩa bóng. Chỉ có hai chữ gợi ý
    là chữ bạch ( Bạch Sỉ ) và chữ kim ( phương Tây ). Thất thập cổ lai
    xuân : phải chăng thánh xuất vào tuổi thất thập ?
    16- Ký mã khu dương tẩu
    phù kê thăng đại minh
    trư thử giai phong khởi
    Thìn Mão xuất thái bình
    Nghĩa : Ngựa hay đuổi dê chạy, giúp gà lên sáng chói, bọn chuột heo
    nổi như ong, Thìn Mão xuất thái bình.
    Bàn : Nếu nói Mã là năm Ngọ, Dương là Mùi ( dê ), Kê là Dậu, rồi
    Năm Thìn năm Mão... thì suốt 400 năm sau Trạng Trình biết bao
    nhiêu năm Thìn năm Mão ! Bốn câu này nếu là Sấm Trạng thì ứng
    vào khoảng thời gian gần đời Trạng Trình hoặc do người sau tùy cơ
    tạo tác ra không rõ thời điểm.
    Bốn câu rất phổ biến sau đây cũng rơi vào trường hợp mù mờ như
    trên :
    Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
    can qua xứ xứ khởi đao binh
    Mã đề dương cước, anh hùng tận
    Thân Dậu niên gian kiến thái bình
    Nghĩa : Đuôi rồng đầu rắn khổ chiến tranh, can qua xứ xứ khởi đao
    binh, móng ngựa chân dê anh hùng hết, năm Thân năm Dậu thấy
    thái bình.
    Bàn : Dường như bốn câu này xuất hiện vào khoảng 1940-45 nói về
    Đệ Nhị Thế Chiến, cuối Thìn 1940, đầu Rắn 1941 bắt đầu đại
    chiến... năm Thân 1944, năm Dậu 1945 thấy thái bình ? Những câu
    loại rồng rắn dê ngựa này được tung ra rất nhiều từ khoảng 1930 tới
    nay, giống như một trò chơi chữ đánh vào ước vọng của quần chúng !
    hoặc phản ảnh mặc cảm tự cao của người muốn làm bậc tiên tri
    phán ra thánh ngôn nào đó ( complex of grandiosity ) ? Nếu là Sấm
    Trạng Trình tất phải liên quan tới chủ đề và phải có mốc thời gian để
    suy diễn.
    Bốn câu sau đây cũng giống trường hợp trên, nhưng dụng ý tuyên
    truyền rõ ràng hơn :
    Cửu cửu càn khôn dĩ định
    thanh minh thời tiết hoa tàn
    trực đáo dương đầu mã vĩ
    Hồ binh bát vạn nhập Trường An
    Cuối Ngọ ( 1954 ? ), đầu Mùi ( 1955 ? ), tám vạn Hồ binh vào Thủ đô,
    trời đất đã định chín chín, thời tiết thanh minh hoa tàn.
    Cửu cửu mà giải là 81 hoặc 99 thì không thể đúng vì Sấm ký không
    dựa trên dương lịch ! Nếu nói là bộ đội Việt Minh vào Hà Nội năm
    1954 thì không vào tiết thanh minh và không có 80,000 quân !
    17- Đoài phương phúc địa giáng linh
    Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
    Phá điền thiên tử giáng trần
    Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
    Bốn câu chữ nho làm theo thể lục bát này không phải là sấm Trạng
    Trình vì thể thơ lục bát viết bằng chữ nho chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ
    XIX khi thơ nôm lục bát đã rất thịnh hành.
    Tuy vậy nội dung lại rất sát với chủ ý của sấm Trạng Trình : Thánh
    nhân xuất ở phương Tây ( Đoài phương ), chín tầng cao mây ngũ sắc
    hiện điềm lành trên Long thành ( Thăng Long ? ), phá điền thiên tử
    giáng trần, dũng sĩ phò tá như biển, mưu thần nhiều như rừng cây.
    Đã bao bút mực đổ ra giải nghĩa chữ mật Phá Điền, nhiều người cho
    là chữ điền với nét phá là chữ Thân , thiên tử xuất vào năm Thân !
    Lối đoán không cơ sở này sai hoàn toàn và làm Sấm Trạng Trình mỗi
    ngày một mù mờ thêm. Dựa vào ý chính chủ đề của Sấm Trạng là
    thánh nhân xuất ở phương Tây, núi Tản, có thể diễn dịch chữ điền
    phá ra bốn bờ ruộng thì lộ ra chữ thập, nhân thập là tên Thánh Tản,
    xin xem phần giải ở trên.
    Ngoài bốn câu vừa kể chắc do người sau thêm vào với thiện ý làm
    sáng thêm ý nghĩa Sấm Trạng, còn một số câu lục bát khác, được
    chép trong nhiều sách, nhưng nội dung không hợp với chủ ý Sấm
    Trạng, và có nhiều phần do người sau tùy thời viết ra :
    Càn khôn phú tải vô lường
    Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng
    Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
    Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
    Ta hồ vô phụ vô quân
    Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
    Nghĩa : Trời che đất chở khôn xiết kể, vườn Đào vạc sôi bầy dê tranh
    hùng, nhị ngũ thư hùng chưa quyết định, vùng Hoành sơn chia ba xẻ
    năm. Than ôi không cha không vua, Đào viên tán lạc dân ta thủ
    thành.
    Đoạn này có thể nói về cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa
    Trịnh, Nguyễn hoặc Tây Sơn- Nguyễn vào thế kỷ 17-18 xẩy ra quanh
    vùng Hoành Sơn Thuận hóa ( Huế ).
    Sáu câu lục bát sau đây rất đáng nghi ngờ, có thể được bịa đặt vào
    thời 1945-1948 khi Thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức và xuất
    dương :
    Trần công nãi thị phúc tâm
    giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
    tướng thần hệ xuất Y Chu
    thứ ky phục kiến Đường Ngu thi thành
    hiệu xưng thiên hạ thái bình
    Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.
    Nghĩa : Trần công chính là người tâm phúc, giang hồ xuất du như xử
    sĩ Đào Tiềm, trong đám quần thần nẩy ra người hiền như Y Doãn,
    Chu Công, sau này lại được thấy cảnh thái bình như thời Đường
    Nghiêu Ngu Thuấn.
    Hai câu chót không ăn khớp với bốn câu trên vì Trần công là tướng
    thần không lẽ xưng hiệu thái bình ? nước Nam đã là quốc gia cả
    nghìn năm , không lẽ phải chờ Đông Tây vô sự mới thành một
    nước ! Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể viết những câu
    như thế !
    Ngoài ra một bài thơ chữ nho khác, được chép trong nhiều bản quốc
    ngữ in sau năm 1945, không có trong bản 1930 của Sở Cuồng Lê Dư
    và bản 1945 của nhà Đại La là bài sau đây :
    Ô hô ! thế sự tự bình bồng
    Nam, Bắc hà thời thiết lộ thông
    Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
    Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng
    Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
    Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
    Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
    Tứ phương thiên hạ thái bình phong
    Bản dịch ra quốc văn của ông Ngư Phổ Giác :
    Than ôi thế sự thật bình bồng
    Nam, Bắc chừng nào thiết lộ thông
    Hồ ẩn trong non, mao thẩy trắng
    Kình ngoi ngoài biển huyết loang hồng
    Gà kêu cây ngọc trời nghiêng Bắc
    Trâu tới Lam điền nhật chính Đông
    Tới lúc ưng về sư tử dậy
    Thái bình mới tỏa khắp non sông.
    Xem nội dung có thể thấy bài này được làm vào khoảng trước sau
    1945, tác giả vô danh ( một nhà sư ? ) nói tới đường xe lửa ( thiết lộ )
    Nam Bắc, tới tên Hồ và Mao, nhắc tới Gà ( năm Ất Dậu 1945 ? )...
    Ba câu cuối vẫn dựa vào Sấm Trạng Trình : Trâu ( Ngưu tinh ) , Điền
    ( phá điền thiên tử giáng trần ), phải chờ tới bậc anh hùng ( chim
    ưng, sư tử ) xuất hiện thì đất nước mới thật sự thái bình.


    PHẦN SẤM CHỮ QUỐC NGỮ

    Phần Sấm chữ quốc ngữ trong nhiều bản in dài khoảng 400 câu,
    thường viết theo thể lục bát hoặc song thất lục bát, cũng có khi xen
    thể ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn.
    Phần này có thể được phiên ra từ ba bản nôm của Trường Viễn Đông
    Bác Cổ : Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ, Trình Trạng Nguyên Sấm Ký
    Diễn Ca, Trình Quốc Công Sấm.
    Phần Sấm chữ quốc ngữ không có giá trị chân xác bằng Sấm chữ
    Nho vì nhiều lý do :
    - Thời Trạng Trình, thế kỷ XVI, chưa có thể thơ lục bát hoặc thể này
    mới phôi thai trong giới bình dân. Hơn một trăm bài thơ Nôm của
    Bạch Vân Thi Tập còn lại đều làm theo thể thất ngôn bát cú ( bẩy
    chữ tám câu ) , thỉnh thoảng có bài sáu câu sáu chữ, không có bài
    nào làm theo thể lục bát.
    - Viết bằng chữ Nho tiện cho Sấm văn vì nhiều khi phải dùng tới ẩn
    ngữ, chiết tự, kinh Dịch, tinh đẩu...vốn là ưu điểm diễn đạt hàm xúc
    của Hán tự.
    - Suốt 400 năm qua, thời Nho học, kẻ sĩ biết trọng chữ nghĩa của cổ
    nhân, ít ai dám bôi bác tác phẩm của ngươì khác, lại càng không
    dám mạo danh một vị danh nho như Trạng Trình để bịa đặt hoặc
    thêm thắt. Vì thế phần Sấm chữ Nho tương đối giữ được nguyên tác,
    trong khoảng 90-100 câu, chỉ độ 16-20 câu ( 20 % ) đáng nghi ngờ,
    đa số các câu khác đều phản ảnh trung thực chủ đề của Sấm Trạng
    Trình. Một vài sửa đổi của vua Tự Đức ( như đổi họ Lý ra họ Nguyễn )
    rất vụng về không ăn khớp với câu khác và với đại thể, nên các nhà
    Nho thời xưa đều phân biệt được.
    - Từ 1930 tới nay, chữ quốc ngữ được xử dụng và thể lục bát rất phổ
    biến, lại thêm nhiều phe phái tuyên truyền trong hai ba thế hệ tranh
    chấp, nên phần Sấm quốc ngữ bị thêm thắt xuyên tạc, thay đổi,
    nhiều khi trắng trợn và vô nghĩa.
    Tuy vậy việc nhận ra nguyên bản không phải là không thể làm được.
    Một khi đã đọc toàn phần Sấm chữ Nho, lấy được đại ý và tìm thấy
    chủ đề, đọc sang phần chữ quốc ngữ sẽ phân định được ngay chính
    giả.
    Dựa vào tiêu chuẩn trên, xoay quanh chủ đề Thánh nhân xuất,
    chúng tôi luận giải sau đây những câu Sấm đích thực hoặc những câu
    do cổ nhân ( nhà Nho, nhà Sư...) viết thêm diễn nghĩa Sấm Trạng mà
    không có tà tâm xuyên tạc. Việc ghi hết các câu Sấm ra đây không
    cần thiết vì lẽ không có bản Sấm nào là chính bản, ngay cả những
    bản đầu tiên ( 1930 ) cũng sai sót.
    1- Xem ý trời có lòng khải thánh
    đốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
    chọn Đẩu, Thai, những vì sao cả
    dùng ở tay phụ tá vương gia
    Bắc phương chính khí sinh ra
    có ông Bạch Sỉ điều hòa hôm mai
    Đoạn này dùng khoa chiêm tinh , tính chu kỳ tinh đẩu để tìm ra thời
    thánh xuất, sự tụ hội của các vì sao trên nền trời nước Việt, ở đây là
    sao Ngưu ( chủ tinh, xem phần chữ Nho ) và sao Đẩu, sao Thai trên
    phương Bắc vốn là phương chính khí theo Dịch lý. Danh hiệu Bạch Sỉ
    của Thánh nhân được nhắc tới nhiều lần trong bộ Sấm. Bạch liên hệ
    tới tên Thánh, Sỉ hàm chữ Nhân, tức thánh Tản Viên. Tản Viên Sơn
    Thánh là một trong tứ bất tử của dân tộc Việt, ngài hóa thân vào một
    nhân vật để trị nước an dân.
    2- Lại nói sự Đà giang sinh thánh
    Hoàng phúc xưa đã định Tây phong
    lầu lầu thế giới sáng trong
    lồ lộ mặt rồng, đầu có chữ vương
    rõ sinh tài lạ khác thường
    Thuấn Nghiêu là chí, Cao Quang là tài
    Chữ Đà giang bị vua Tự Đức đổi là Hoàng giang, một con sông gần
    vùng phát tích của họ Nguyễn ( Gia Miêu, Thanh Hóa ), đổi như vậy
    dễ nhận ra vì câu sau Tây phong ( Tây phương ? ) ăn khớp với Đà
    giang, thuộc phương Tây đối với Thăng Long hoặc đối với Bạch Vân
    Am nơi Trạng Trình nhìn sao chép Sấm. Sau này có cơ quan tuyên
    truyền đổi thành : Lại nói sự Nam Đàn sinh thánh, Nam Đàn thuộc
    Nghệ An, phía Nam !
    ( Ông Phan Khắc Hòe cũng đã thuật lại năm 1945 chính ông đã đặt
    ra câu sấm : Đụn sơn phân giái, Bò đái thất thanh, Nam đàn sinh
    thánh để thuyết Bảo Đại thoái vị- Tạp chí CS 11-82 Hà Nội ).
    Đại Ý : Thánh nhân trị nước thanh bình nhân đạo như thời Nghiêu
    Thuấn, tài giỏi như Hán Cao Tổ, Quang Vũ Đế trong sử Trung Hoa..
    3- Đời này thánh kế vi vương
    Đủ no đạo đức văn chương trong mình
    Uy nghi dung mạo khác hình
    Thác cư một góc kim tinh phương đoài
    Đoạn này mô tả dung mạo đức độ thánh quân vương, ngài xuất từ
    phương Đoài ( tây phương, kim tinh ). Thể thơ lục bát cho thấy đoạn
    sấm được viết vào thời sau, thế kỷ 18-19-20, như một công trình chú
    giải Sấm Trạng Trình bằng thơ nôm. Có thể đưa ra giả thuyết là Trạng
    Trình không viết Sấm, chỉ đọc một số quẻ Dịch ( như quẻ Càn thuần
    quái cho học trò là Trương Thời Cử ) hoặc quẻ Thái Ất... các môn
    sinh ghi nhớ sao chép lại, từ đấy lời Sấm được truyền đi, bằng chữ
    hoặc bằng lời. Một số quẻ tiên tri như vậy dần dần được chú giải
    thêm bằng thơ nôm sau này trong giới nhà Nho, nhà Chùa...tới thời
    hiện đại Sấm Trạng Trình trở thành một công trình tập thể.
    3- Nói cho hay Khảm cung rồng dấy
    chí anh hùng xem lấy mới ngoan
    chữ rằng lục thất nguyệt gian
    ai mà nghĩ được mới gan anh tài
    Thánh nhân ( rồng ) dấy lên ở phương Bắc ( Khảm cung ), vào thời
    gian lục thất. Lục thất nguyệt gian có thể dựa trên lịch Thái Ất ( ? ),
    trên vận thất khai ( ? ), cụ Ba La không giải rõ mà chỉ nói Thánh nhân
    xuất vào thời này, nhưng trước khi xuất thì " phương Bắc phải mạnh
    lên đã rồi mới tới đúng thời ". Chữ lục thất giống sấm Nostradamus
    nói về tháng 7 tháng 8 dương lịch 1999, tức tháng 6 tháng 7 âm lịch
    chăng ? Nếu vậy thì đây là đoạn sấm tính chu kỳ tinh đẩu kỹ càng
    như sấm Nostradamus. Chúng tôi nghĩ chữ lục thất đã được xử dụng
    trong cả bài sấm của Sư Vạn Hạnh, như vậy đây là một ẩn ngữ hoặc
    một cách tính chiêm tinh lý số mà bây giờ không mấy ai thấu triệt.
    4- Bốn phương chẳng động can qua
    quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
    bấy giờ rộng mở quy khôi
    thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn
    Thánh nhân xuất bốn phương an tĩnh, mọi người mọi phe qui phục,
    bờ cõi mở rộng, thần châu bao gồm châu Kinh châu Dương khi xưa
    thuộc địa phận Bách Việt sẽ thu lại vẹn toàn cho nòi giống.
    5- Xem tượng trời biết đường đời trị
    Ngẫm về sau họ Lý xưa nên
    Dòng nhà để thấy dấu truyền
    Ngẫm xem bốn báu còn in đời đời
    Xem thiên văn biết nước Việt sẽ tới đời thịnh trị, nhà Lý thời xưa về
    sau lại dấy nghiệp lên. Bốn báu đời Lý để lại cho nước Nam ta là
    Tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Phả Lại,
    còn gọi là An Nam tứ khí do quốc sư Nguyễn Minh Không chủ xướng
    như là dấu ấn của triều đại vương đạo thịnh trị.
    Triều Lý khởi đầu vào năm Canh Tuất 1010, được 215 năm, thì bị họ
    Trần diệt. Trong các vương triều Việt Nam, đây là vương triều dài liên
    tiếp nhất và tương đối nhân đạo nhất sau đời Hùng Vương.
    Đồng dao có câu :
    Bao giờ rừng Báng hết cây Đầm Long hết nước Lý nay lại về
    Rừng Báng và Đầm Long gần Đình Bảng, đất phát tích của họ Lý một
    ngàn năm trước. Nay rừng Báng cây đã chặt hết, đầm Long đã lấp từ
    lâu, vậy là tới chu kỳ họ Lý trở lại chăng ?
    6- Lại nói sự Đà giang sinh thánh
    sông Bảo giang thiên định ai hay
    lục thất cho biết ngày đây
    phụ nguyên ấy thực ở rày Tào khê
    có thầy Nhân Thập đi về
    tả phù hữu trì cây cỏ làm binh
    giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
    giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
    ra tay điều đỉnh hộ mai
    bấy giờ mới biết là tài yên dân
    lọ là phải nhọc kéo quân
    thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về
    Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng
    lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh
    ơn trên vũ thí vân hành
    kẻ thơ Ký túy, kẻ canh Xuân đài
    bản đồ chẳng sót cho ai
    nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn
    Đoạn này nhắc lại Bảo giang và lục thất, hai chữ lục thất chưa thấy
    tài liệu nào giải được rành mạch. Có thể chắc rằng đây là một cách
    tính trong kinh Dịch, Thái Ất... để cho mốc thời gian từ đó có thể tính
    ra chính xác thời điểm xuất hiện của " Ngưu tinh tụ Bảo giang " và "
    Đại nhân cư chính trung ". Trong đoạn sấm khác cũng có câu tương
    tự :
    Quyển vàng mở thấy sấm trời từ Đinh đổi đời chí lục thất
    gian
    Trong khi chờ đợi các bậc cao minh nghiên cứu lý số tinh đẩu để xác
    định, may thay trong đoạn số 5 và số 6 người xưa đã cẩn mật để
    thêm một mốc nữa đánh dấu thời điểm thánh xuất : Câu " Ngẫm về
    sau họ Lý xưa nên " được nối tiếp ở đoạn sau : " Nghìn năm lại thấy
    mọi nơi vẹn toàn ". Như vậy đã khá rõ khi ta đọc liền lại hai câu là
    nghìn năm sau họ Lý lại thấy mọi nơi vẹn toàn. Triều Lý khởi đầu
    năm 1010, khoảng nghìn năm sau là 2010, hợp với câu Sấm : Canh,
    Tân, tàn phá ( Canh Thìn 2000, Tân Tỵ 2001 ), Tuất, Hợi phục sinh
    ( 2006-2007 ), nhị ngũ dư bình ( nhị ngũ có thể là năm nhuận tháng
    5 ? ) sẽ thái bình.
    Hai câu sấm khác cũng diễn tả tương tự
    Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh chúa ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày
    Chó là năm Tuất, Lợn là năm Hợi, cùng hợp vào câu " Tuất,Hợi, phục
    sinh ".
    Câu " thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về " và câu trên " có thầy
    Nhân Thập đi về " nhấn mạnh khéo léo những chữ Nhân ám chỉ tên
    thánh Tản và cũng hàm ý nhân nghĩa đạo đức của bậc Thánh quân
    vương.
    Chữ Giáp Tý có thể bị vua Tự Đức đổi vì năm Giáp Tý ( 1804 ) là
    năm vua Gia Long được Tầu phong vương mặc dù lên ngôi từ năm
    Nhâm Tuất ( 1802 ). Nếu suy diễn một nghìn năm sau nhà Lý đúng,
    thì câu đó phải đọc là năm Mậu Tý 2008 đi liền sau 2 năm phục sinh
    Bính Tuất 2006 và Đinh Hợi 2007. Nếu là năm Giáp Tý chu kỳ sau,
    2044, thì lại không ứng hợp với câu nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn
    toàn ( sau nhà Lý ).
    Chữ Đà giang bị đổi thành Hoàng giang, chữ phụ nguyên ( chiết tự
    thành chữ Nguyễn ) cũng có thể đã bị sửa vào đời Nguyễn.
    Tưởng cũng nên kể ra ở đây một sự kiện lịch sử lý thú là con cháu
    Hoàng tử Lý Long Tường lưu lạc sang Hãn Quốc từ bảy trăm năm
    nay , đã trở về thăm đền Lý Bát Đế tại Đình Bảng, Kinh Bắc, và lễ tổ
    vào năm 1997. Như vậy một phần nào lời Sấm đã bắt đầu ứng
    nghiệm và đang mở dần dần ra.
    * Theo lời Bốc sư Ba La, Sư Vạn Hạnh đã biết núi TảnViên là tổ sơn,
    Bảo giang, Bảo Sơn có đại thế phong thủy nên đã đặt đất cho nhà Lý
    để nghìn năm sau tái phát thánh vương, lấy đại địa tối linh phối hóa
    vào Nhân Thập Bạch Sỉ với đại hồng vận non sông.
    * Năm 1963, một nhà Chiêm tinh Ấn Độ sang Việt Nam và đã nhìn
    thấy ma khí trong dinh Độc Lập, sau ngày chính biến 11-1963, ký gia
    Phan Nghị trên báo Ngôn Luận đã tường thuật cuộc phỏng vấn bị
    kiểm duyệt trước đó, bài tường thuật có 2 điểm rất đáng chú ý :
    Một là nước Việt Nam có nhiều cơ hội để thống nhất, hai là ông
    ( Chiêm tinh gia Ấn ) nhìn thấy một vì sao rất sáng trên vòm trời
    Khảm phương nước Việt, báo hiệu sự giáng thế của một đại nhân.
    7- Chờ cho động đất chuyển trời bấy giờ Thánh mới nên trai anh
    hùng dù cho ai chửa biết tường nhất thổ thời sĩ khảm phương thuở
    này
    ý ra lục thất gian nay thời vận đã định tuần này hưng vương trí xem
    nhiệm nhặt cho tường Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này
    Trong 8 câu này lại thấy Bảo giang,Khảm phương chỉ phương hướng
    thánh xuất, ba chữ lục thất gian chỉ định tuần này hưng vương. Đọc
    đoạn này càng thấy rõ hai chữ lục thất là chìa khóa Tử vi tinh đẩu
    xác định thời điểm hưng vương, thánh Tản hóa thân xuất hiện trên
    vòm trời Việt với chủ tinh sao Ngưu ở trung ương và các phụ tinh rực
    sáng chung quanh Khảm phương. Chìa khóa đó nằm trong Thái Ất,
    Tổng Trì Tam Ma Địa, Quẻ Dịch...mà hiện tại không còn mấy ai thấu
    triệt. Có thể Trạng Trình đã xử dụng nhiều khoa lý số- trong đó phải
    có khoa chiêm tinh- để đi đến một quẻ tiên tri vận số quốc gia ngũ
    bách niên hậu. Điều này Sư Vạn Hạnh đã làm trước Trạng Trình
    500 năm và đã xử dụng khoa Tổng trì Tam Ma Địa với ảnh hưởng
    chiêm tinh học Tuyết sơn Hy Mã do các nhà sư Tây Trúc mang sang
    trung tâm Luy Lâu ( thuộc Kinh Bắc ). Bài Sấm của Vạn Hạnh được
    ghi trong chính sử có ba câu kết đáng chú ý :
    Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian thiên hạ thái bình.
    Đoài cung, phương Tây, và lục thất gian được nhắc đi nhắc lại rất
    nhiều lần trong Sấm Trạng Trình. Có thể Trạng Trình chỉ xác định lại
    lời tiên tri của Vạn Hạnh. Vạn Hạnh nhìn ra ẩn tinh một ngàn năm
    sau và Trạng Trình cũng nhìn ra năm trăm năm sau bằng cùng một
    khoa lý số học. ( Xin xem phần Sấm Vạn Hạnh ) .
    8- Tìm lên đến Thạch Bàn Khê có đất sinh Thánh bên kia cuối
    làng ..........chẳng tìm thì đến Bình gia Thánh chưa sinh Thánh báo
    ca địa hình nhìn xem phong cảnh cũng xinh Tả long triều lại có
    thành đợt vây Hữu hổ uốn khúc giang này Minh đường thất diệu
    trước bày mặt tai đằng xa thấy một con voi cúi đầu quen bụi, trông
    về hồ sau ấy điềm Thiên tử về chầu tượng trưng Đế thánh, tộ lâu trị
    đời ..........Đến đời thịnh trị còn lâu....
    Đoạn này của hậu thế dựa trên Sấm Trạng đi tìm đất sinh Thánh và
    mô tả phong thủy địa lý của ngôi đại địa đó. Thạch Bàn Khê là khe
    suối Thạch Bàn nơi Sơn Tinh tức Thánh Tản lựa chọn ngự giá : "
    Vương đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở..." theo Lĩnh
    Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp.
    Câu Thánh chưa sinh Thánh có nghĩa là Thánh Tản chưa hóa thân
    vào một vị Thánh vương.Về phương diện phong thủy người ngắm đất
    thấy Tả long, Hữu hổ, Minh đường và một thế đất hình con voi. Hữu
    hổ uốn khúc giang này cho biết tay hổ bên dòng sông, Bảo giang tức
    Đà giang vốn là tay hổ ( tả long hữu hổ ) theo địa lý vùng đất Hồng
    Đà, Tam Đảo Tản Viên. Đến đời thịnh trị còn lâu cho thấy đoạn này
    đã được viết khá lâu, có thể từ thế kỷ XVIII- XIX.
    9- Trí xem nghiêm ngặt cho tường Bảo giang Thánh xuất trung ương
    thuở này Vua ngự Thạch Bàn xa thay đại ngàn vắng vẻ những cây
    cùng rừng
    Vua còn cuốc nguyệt cày mây phong điều vũ thuận thú rày an thân
    phong đăng, hòa cốc chứa chan Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
    Chính cung phương Khảm vần xoay thực thay Thiên tử là tay trị
    đời...
    Đoạn này mở rộng đoạn trước : Vua ở Thạch Bàn bên Bảo giang trong
    khu rừng vắng vẻ. Vua chưa xuất, còn cuốc trăng cày mây chờ thời.
    Người biết chiêm tinh lý số thấy được mây ngũ sắc hiện ra nơi Khảm
    cung phương Bắc, thấy chu kỳ tinh đẩu tụ hội trên giang sơn gấm vóc
    với sao Ngưu tinh trung ương rực rỡ.
    Có thể đoạn Sấm này được viết ra không lâu ( thế kỷ XIX ? ) vì người
    viết đã thấy ngũ sắc mây tức điềm lành, mà điềm lành không thể
    hiện ra mấy trăm năm trước.
    10- Đời ấy những quỷ cùng ma chẳng còn ở thật người ta đâu
    là .....cây bay lá lửa đòi ngàn một làng còn mấy chim đàn bay ra bốn
    phương cùng có can qua làm sao cho biết nơi hòa bảo thân .....chiến
    trường chốn chốn cát lầm kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
    Nói về cảnh tao loạn. Lúc sinh thời, Trạng Trình đã sống trong nội
    chiến, ông tiên đoán 8 đời sau " binh qua khởi trùng trùng " cho tới
    thời " Ngưu tinh tụ Bảo giang " mới thanh bình thật sự. Những câu
    trên không biết ứng vào thời loạn nào, không thể xác định được thời
    gian.
    11- Xem Đoài cung đến thời bất tạo thấy vĩ tinh liệu dạo cho mau
    nguôi lòng tham tước tham giầu tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
    trẻ con mang lệnh tướng quân ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã
    nhường...
    Vĩ tinh, sao chổi, là điềm rất xấu đối với Đông và Tây. Năm 1910
    sao chổi Halley có đuôi dài hết chân trời, các lần xuất hiện trước
    vào năm 1531, 1607, 1682, 1758... lần gần đây nhất là năm 1986.
    Cổ nhân thấy sao chổi, mây thành ( mây đen kín và thẳng băng chân
    trời như bức thành đen dài ) chiêm nghiệm là loạn lạc binh biến xẩy
    ra. Năm 1949 có mây thành xuất hiện ở miền Bắc và chiến tranh
    kéo dài suốt 25 năm.
    Hai câu cuối nhiều người cho là ứng vào cuộc chiến Việt Nam vừa
    qua, đàn bà trẻ con thiếu niên cũng được dùng vào chiến trận. Nơi
    tam hiểm có người cho là núi cao, sông sâu, rừng rậm, nhưng nếu
    ẩn thân vào những nơi đó thì phải vào thời xưa mới bảo thân được,
    thời nay chiến tranh bom đạn không còn nơi nào trốn tránh an toàn.
    12- Một cơn sấm dậy đất bằng Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh
    linh lược thao văn vũ tài tình mới hay phú quí hiển vinh lạ lùng Tam
    công gập hội vui mừng bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông bõ khi
    chém rắn vẽ rồng bõ khi non Bắc ải Đông mịt mù bõ khi kẻ Việt
    người Hồ bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường.
    Sau chiến tranh khốc liệt, Thánh nhân mới xuất để trị dân vỗ về
    trăm họ.Ba bậc hiền thần-Tam công- sẽ cùng Thánh vương gánh vác
    non sông, bõ khi xa cách mỗi người một phương. Đoạn này có thể
    ứng vào giai đoạn hiện tại khi dân Việt tản mát khắp năm châu, kẻ
    Việt người Hồ, kẻ Ngô người Sở. Có câu Sấm khác : Tỵ nhân vi
    tướng, Thìn, Tuất vi quân sư, có thể ứng vào ba vị Tam công cột trụ
    đó không ?
    13- Đoài phương thực có chân nhân quần tiên khởi nghĩa chẳng
    phân hại người vững nền Vương cha truyền con nối dõi muôn đời
    một mối xa thư bể kình tăm lặng bằng tờ trăng thanh ai chẳng ơn
    nhờ gió xuân Âu vàng khỏe đặt vững chân càng bền thế nước Vạn
    Xuân lâu dài.
    Bậc chân nhân xuất ở phương Tây cùng thất thập nhị hiền tướng
    ( xem phần Sấm chữ Nho ), phân phân tùng bách khởi, nhiễu nhiễu
    xuất Đông chinh,đây là cuộc đại tập hợp dân tộc, lấy nhân nghĩa
    thắng hung tàn của quần tiên phá chấp, từ bi đại lượng, không một
    giọt máu đổ. Lúc ấy núi sông sẽ vững âu vàng, thế nước Vạn Xuân
    lâu dài Vương đạo.

    GAN LOC SẤM BẢN
    Qua 13 đoạn Sấm gồm 105 câu kể trên, chúng tôi hy vọng đã chắt
    lọc được những ý chính của tập Sấm quốc ngữ khoảng 400 câu tương
    truyền là Sấm Trạng Trình. Những câu khác, khoảng 300 câu, chúng
    tôi không bàn luận vì rơi vào những trường hợp sau :

    1- NHỮNG CÂU KHÔNG PHẢI LÀ SẤM TRẠNG
    Những câu Sấm ( 16 câu ) do cụ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng sáng
    tác vào thời 1930 sau khi Pháp thả bom Cổ Am để tiêu diệt các nhà
    ái quốc :
    ... Tan tác Kiến kiều An đất nước
    Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
    ... Cha con nhà Vĩnh, Bảo cho hay
    Các địa danh Kiến An, Vĩnh Bảo, Cổ Am thuộc vùng khởi nghĩa của
    Quốc Dân Đảng Việt Nam.
    Hoặc câu : Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây
    Tám gà chữ Nho là Bát Kê, ám chỉ Toàn quyền Thực dân Pasquier
    ( đọc âm giống chữ Bát kê ! ) bị nạn máy bay chết cháy thời đó. Một
    nhà Nho cùng thế hệ với các cụ Sở Cuồng, Nguyễn Can Mộng... là cụ
    Ba La ( 1870 ?-1973 ) cho biết thời 1930, để thức tỉnh lòng yêu nước
    và vận động tinh thần chống Pháp, một số nhà Nho đã đặt ra nhiều
    bài thơ loại bí hiểm như sấm ký để truyền trong quần chúng. Cụ Phó
    Bảng Nguyễn Can Mộng cũng là người viết ra bài Văn tế Cá Sấu với
    tên Hàn Thuyên để đề cao văn chương chữ Nôm đã có dấu tích từ
    thế kỷ XII ! Nhưng cũng chính nhờ các nhà Nho yêu nước đó mà mọi
    người mới tìm về cội nguồn dân tộc và hãnh diện với kho tàng tinh
    thần của tổ tiên lưu truyền lại.

    2- LẪN LỘN :
    Ngoài vài bản đáng tin cậy nhất như bản của Sở
    Cuồng ( 1930 ), bản Nam Ký ( 1945 ), nhiều bản sau này in lẫn cả
    bài Sấm của Sư Vạn Hạnh vào Sấm Trạng Trình :
    Hòa đao mộc lạc
    thập bát tử thành..
    Hoặc những câu đồng dao, ca dao như :
    Bao giờ ngựa đá qua sông
    thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng
    Có khi người sau dựa vào một biến cố lịch sử rồi viết ra cũng gọi là
    sấm :
    Đầu cha lộn xuống chân con
    mười bốn năm tròn hết số thì thôi
    Chữ Quang ( Quang Trung ) có chữ Tiểu ở trên, chữ Cảnh ( Cảnh
    Thịnh con vua Quang Trung ) cũng có chữ Tiểu ở dưới, được 14 năm
    thì dứt.
    3- Rất nhiều câu thơ đặt ra với dụng ý TUYÊN TRUYỀN hoặc chống
    đối , rồi gán cho Sấm Trạng Trình từ thời nhà Nguyễn tới hiện đại :
    ... Dục lòng chinh chích u mê
    thập trên tư dưới nhất đề chữ tâm
    để loài bạch quỷ Nam xâm...
    Thập trên tứ dưới là chữ Đức, với chữ Dục ở câu trên là vua Dục Đức
    hay Tự Đức, để Pháp xâm chiếm Việt Nam.
    Đến thời thiên hạ vô quân
    làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
    gà kêu cho khỉ dậy nhanh
    phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
    Năm Gà ( Dậu 1945 ), năm Khỉ ( Thân 1944 ), nhà Nguyễn ( phụ
    nguyên ) hết số.
    Sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản lại thấy truyền khẩu
    hai câu :
    Nguyên tử giản cầu kinh Nhật Bản
    Phong lôi hỏa thạch chấn Hoa Kỳ
    Hai câu khác :
    Chừng nào sen mọc biển Đông
    cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi...
    Có người giải là hoa Sen ( Liên hoa ) chỉ Liên Sô bành trướng về
    phương Đông, có người giải là thời Nhật mang Sen thả ở sông ao, là
    lúc nhà Nguyễn phải ra đi.
    Sau này câu trên được đổi thành :
    Chừng nào trúc mọc quanh thành...
    để chỉ huy hiệu cây trúc của họ Ngô ở miền Nam !
    Khi Phan Bá Vành khởi loạn ( 1827 thời Minh Mệnh ) cũng đặt ra
    câu sấm :
    Trên trời có sao tua rua
    duới đất có vua Ba Vành

    Bao giờ đường sắt đen xì
    Voi đi trên giấy Tây thì về Tây
    cũng là loại sấm bình dân sáng tác văn chương truyền khẩu mà
    thôi.
    Tất nhiên cho tới hiện tại vẫn còn những câu sấm bịa đặt do các
    phe phái truyền ra như " lại nói sự Nam Đàn sinh thánh " của phe
    này, hoặc câu " bao giờ diều đỏ đứt dây, ma vương điện toán cộng
    thây đầy đường " của phe khác, càng chứng tỏ tầm ảnh hưởng của
    Sấm Trạng Trình mỗi ngày một lan rộng và vì thế việc phân định
    chính giả lại càng cần thiết hơn.
    4- Những câu không có giá trị tiên tri, chỉ là lời thơ mang chất đạo
    đức KHUYÊN RĂN như :
    Một câu là một nhiệm mầu
    anh hùng ngẫm được mới hầu giá cao
    Chốn Đông Nam là lò khổ ải
    tránh cho xa kẻo mắc đao binh
    Lại giận đấng nam nhi chí cả
    chớ vội vàng tất tả chạy rông
    học cho biết lý cát hung...
    5- Những câu chứa đựng NĂM THÁNG MƠ HỒ không thể định
    mốc thời gian như :
    Hùm già lạc dấu khôn về
    mèo non chi chí tìm về cố hương
    Tý, Sửu, Dần, hội Thánh hội Thần...
    hội Tiên hội Phật hội ông lão già...
    Gà đâu sớm gáy bên đường
    chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
    có thể là những câu làm ra từ thời xưa, ứng với một hoàn cảnh lịch
    sử nào đó vào năm Tý năm Sửu, năm Gà năm Mèo... từ những thế
    kỷ trước mà nay không còn giá trị tiên đoán tương lai nữa.
    Hàng trăm câu sấm trong nhiều bản in rơi vào trường hợp 4 và 5,
    không liên hệ tới chủ đề Thánh nhân xuất của Sấm Trạng Trình.


    TRÍCH TRONG CUỐN VIỆT SỬ SIÊU LINH của LƯU VĂN VỊNH .
    dienbatn giới thiệu .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  11. #31

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi dienbatn Xem Bài Gởi
    Việc nữa là bà mẹ cụ Trạng là bà NHỮ THỊ ĐỊNH ( Theo tương truyền là mẹ của cụ Trạng Bùng , hoặc có giai thoại là liên Quan tới MẠC ĐĂNG DUNG , khi chết không chôn theo chồng mà lại táng ở bên ngoại . Điều đó là một bí ẩn , vì từ xưa " Thuyền theo lái - Gái theo chồng , sống làm dâu , chết làm ma nhà người . Có lẽ đây là hai điều bí ẩn lớn nhất mà chưa có lời giải đáp[/color]
    Việc tại sao mẹ cụ Trạng lại táng ở bên ngoại thì không biết tại sao. Còn việc bà là mẹ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đã được học giả Lê Anh Chí chứng minh không phải như sau:


    1) Mẹ Trạng Trình kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi thấy ông Văn Định có tướng sinh quý tử mới lấy.Nghĩa là lúc lấy chồng bà khoảng 24-28 tuổi. Đúng luật thì 28 tuổi ( nói ‘ngoài hai mươi tuổi’ thì là vậy, sách vở phải viết như vậy, để tránh cho phụ nữ tiếng ‘gái già’) , nhưng thôi tính giảm thiểu đi, cho bà lấy chồng năm 24 tuổi. Năm sau, Trạng Trình chào đời, tức là lúc đó bà (ít nhất) 25 tuổi

    2) Trạng Trình sinh năm 1491, Trạng Bùng sinh năm 1528: Trạng Trình hơn Trạng Bùng 37 tuổi ! Vậy nếu mẹ Trạng Trình sinh Trạng Bùng thì lúc đó bà phải: 25 + 37 = 62 tuổi ! ( ít nhất 62 tuổi)

    Chẳng thể nào được !

    Nói một cách chắc ăn hơn: Xác suất 99,999% là hai Trạng không thể nào cùng một mẹ ruột sinh ra !

    (Năm sinh của hai người đúng đó: Khi Trạng Trình 45 tuổi thi tiến sĩ thì vào thời Mạc Đăng Doanh (đầu nhà Mạc), khi Trạng Bùng vào khoảng tuổi đó, thì nhà Lê bắt đầu quật khởi lên lại, nhà Mạc sắp mất: Tức là cách nhau khoảng 40 năm !)

    Đáp Án: Hai Trạng chẳng thể cùng mẹ !

    Tại sao có truyền thuyết hai Trạng cùng mẹ ?

    Tại sao có truyền thuyết hai Trạng cùng mẹ? Tôi đoán rằng: Vì thiên hạ thấy hai Trạng xưng hô là anh em, thay vì thầy trò. Giả thuyết 2 của tôi: Mẹ của hai Trạng là chị em (chị em thì có thể cách xa nhau 40 tuổi, chỉ cần ông ngoại của Trạng Trình có hai vợ). Giả thuyết 3 của tôi: Hai chị em bà này cùng lấy cha Phùng Khắc Khoan, do đó Phùng Khắc Khoan cũng gọi mẹ Trạng Trình là mẹ.

    Vậy thì, hai Trạng là anh em con dì, chớ không phải anh em cùng mẹ.

    Giả thuyết này có cơ sở vì: Nghề thuật số bí truyền, Trạng Trình chỉ truyền cho Trạng Bùng và Lương Hữu Khánh mà thôi. Lương Hữu Khánh là con ông Lương Đắc Bằng, thầy Trạng Trình; còn Trạng Bùng là bà con thân thiết.

    Trích từ trang: http://www.tvvn.org/news/article/102...%BA%A1ng-bung/

  12. #32
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    BÀI VIẾT MỚI CỦA KTS. PHẠM VŨ HỘI .


    Thân gửi ông Bùi Quốc Hùng- Bút danh DIENBATN
    Trung Tâm Nghiên cứu lý học Đông Phương
    Bài viết để đăng tìm về nghiệm lý Sấm Ký Trạng Trình.

    Hướng về quê Trạng
    (Nhân việc lập dự án Quy Hoạch quê hương Trạng Trình 2000-2001 bài viết cho Tạp Chí Cửa Biển HP)

    ----------------------------------------------------------------
    Kiến Trúc Sư Phạm Vũ Hội- Chủ trì dự án

    Năm 1985 kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người dân Việt Nam được biết thêm câu thơ : "Bao giờ Tiên Lãng chia đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về...". Đó qủa là điều kỳ diệu - Kỳ diệu không phải chỉ ở lời và ý mà thực tế, kỳ diệu ở cái nghĩa đen - Một cầu phao sông Hàn được nối lại để dẫn khách về, một con sông đào được khơi thông... Đôi lần tôi cùng bạn bè trong Hội văn học nghệ thuật về thắp hương đền Trạng, nhìn dòng sông Hàn mà bâng khuâng... Người xưa đã về đó chăng? Những cuộc hội thảo, một vài bài báo đã giới thiệu về Sấm ký; rồi trong hiệu sách có quyển Giai thoại và Sấm ký Trạng Trình (Phạm Đan Quế- sưu tầm biên soạn - NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1994), tuy chưa đầy đủ, nhiều chỗ còn chấm lửng... nhưng lạ và thích thú như đọc Tam quốc chí, Tây du ký vậy. Bởi hồi nhỏ tôi vốn được nghe các cụ nói về Sấm ký, kí ức vẫn nhớ được đôi câu. Có một thời Sấm ký vắng bóng; dạo cải cách 1955-1956, tôi chứng kiến hàng đống sách chữ Tây, chữ Tàu bị đốt ở cửa Điếm Bến quê tôi, người lớn bo nó là văn hoá Phong Kiến Đế Quốc; thật tội lỗi, có cả những cuốn gia phả, bây giờ chúng tôi phải tìm hiểu lại. Trẻ con chúng tôi cuỗm một vài cuốn giấy bản để phất diều, bố tôi còn giằng lại trộ: cán bộ nó biết thì chết đấy con ạ! chắc mẩm bị liệt vào loại sách mê tín dị đoan.
    Thế rồi năm 2000 nhân dịp lập dự án đầu tư xây dựng quê hương Trạng tôi có dịp cùng các anh phụ trách xã Lý Học (quê nội), xã Kiến Thiết (quê ngoại) và các cụ già đi thực địa... lại được nghe thêm nhiều giai thoại. Quê nội quê ngoại Trạng Trình chỉ cách nhau con sông Hàn - còn gọi là sông Tuyết, qua lại tại bến đò Tăng Thịnh. Bờ đê cũ năm nào còn đó... còn bờ đê nay do đổi dòng đã lấn sang phía làng Am xấp xỉ hàng kilômét... bởi thế càng có lý khi nhớ đến câu: "Hà thời thạch mã độ giang - Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu- 何 時 石 馬 渡 江 此 時 永 吏 迎 昂 公 侯 " Vậy thì ngựa đá hẳn còn bị thời gian vùi lấp đâu đó... Từng địa danh vẫn như vang mãi: Bạch Vân Am (đền Trạng), quán Trung Tân, chùa Song Mai, Bút Kình Thiên, Nghiên Long Đồ, bãi Lý Ngư Quần Ngọc, khu Dương Phần nằm trên thế đất hình nhân bái tướng có 5 lá cờ thần ... Nơi quê ngoại có khu Mả Nghè nổi tiếng rộng khoảng 5.000 m2 mấy trăm năm rồi mà chỉ có 3 ngôi mộ nằm giữa khu đất. Đó là mộ chí hai cụ Nhữ Văn Lan và con gái là bà Nhữ Thị Thục - mẹ Đức Trạng Trình; các vùng lân cận có chùa Thiên Hưng, đền Thạch Khánh, cầu Trường Xuân, xuôi về phía biển có chùa Thái Bình... Mỗi nơi phong cách như đều đọng lại với lòng dân về những dấu tích bước chân của một danh nhân văn hoá kỳ vĩ và đầy ắp huyền thoại.
    Tôi đã đề xuất một dự án đầu tư xây dựng liên hoàn bao gồm cả quê nội - quê ngoại Trạng Trình, dựa vào 3 nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch: Một là gìn giữ trung thực phong cách truyền thống kiến trúc đồng bằng Bắc Bộ. Hai là xây dựng mà không "đô thị hoá". Ba là giữ nguyên chân long... tức là vỉa gạch các đường thôn ngõ xóm theo lối truyền thống; tu tạo các cồn tre bụi cây rặng nhãn, khóm trúc; lập các tam quan tứ trụ, cây đa giếng nước; tượng đài có mái che, bình phong hoa văn tùng bách; có hồ Thái Nhâm, Thái Ât; sân dạo lát gạch bát tràng... Nhưng rồi dự án mà tôi đề xuất chỉ thực hiện một phần bên quê nội mà ba nguyên tắc đặt ra đều chẳng được tôn trọng gì - Lẽ ra chỉ đầu tư chiều sâu tinh tế vào khu Am (đền Trạng) thì ở đây người ta đã mở ra một khu quy hoạch rộng, áp dụng hệ thống giao thông bàn cờ; lại thêm những cột điện bê tông, đèn xoè hình lá chuối. Một số rặng cây bị chặt quang làm đường dạo lát gạch lá dừa - Thật chẳng khác gì một công viên trong đô thị hiện đại. ấy là chưa nói đến việc đào hồ lớn,ảnh hưởng đến chân long - Một yếu tố phong thuỷ đang gắng được gìn giữ trong các yếu tố nhân văn truyền thống!
    Đô thị hoá một di tích nổi tiếng là một nguy cơ đáng lo ngại, cần phải can ngăn - Thế nhưng can ngăn làm sao được khi mọi người đang hồ hởi xây dựng với một tư duy bề bộn hình thức, khuyếch trương để kịp với ngày kỷ niệm to tát cuối năm. Cho nên biết vậy mà vẫn phải chờ đợi ... chờ đợi một sự đồng nhất của tư duy. Bỗng tôi nhớ tới mấy câu của Trạng: "Long xà an sở ngộ - Đĩnh xuất tử tôn hiền - Nội ngoại phi nhị chí - Chung thuỷ như nhất yên- 龍 蛇 安 所 遇, 挺 出 子 孫 賢, 內 外 非 二 志, 終 始 如 一 安 ”. Cứ ngờ ngợ Long Xà nào đây bởi con đường từ quê nội sang quê ngoại Trạng chỉ đáng đi bộ 2 tiếng đồng hồ mà bây giờ vẫn xa lắc xa lơ ; nội ngoại tuy gần mà vẫn cách ngăn biền biệt. Nguyễn Nhữ từ đường cũng còn đương lạnh lẽo khói hương, nền cũ, rêu mờ, cỏ lấp. Thật là “quê cha quê mẹ còn nghèo, chỉ mong có được cầu kiều bắc sang, cánh buồm nhẹ lướt Hàn giang, bể Đông mây trắng từng làn trắng mây, chuông chùa Thạch Khánh khô gầy, Thiên Hưng nẻo khuất thuyền đầy khách thăm, Tràng Xuân Kiều lặng bâng khuâng, Thái Bình choi chói một vùng Trấn Dương, ngao du Đông Hải Đồ Sơn, lại về Kính Chủ- Động Tiên sớm chiều, sự già vui bạn theo theo, văn chưng tri ngộ điều điều tự tâm, mặc ai xua đuổi hươu Tần, trăng lên lầu Hán hỏi thăm mệnh trời, dở hay thôi tự lòng người bút hoa soi chép những lời thần tiên, chữ đề Sấm ký –bí truyền! chữ Tâm thực sáng, chữ Thiền thực cao, chữ Tài, chữ Tuệ siêu sao, Trung Thiên Như Nhật vọng vào ngàn năm...!”
    Mấy trăm năm qua Trạng Trình được nhân dân ta nhắc đến và rất mực kính trọng. Tôi được chứng kiến lúc còn nhỏ ngồi vào lòng ông, nghe các cụ đàm đạo Sấm ký mỗi khi thời thế đổi thay. Câu chuyện chỉ xẩy ra trong lán thợ, càng đậm đà bởi đám thợ nghèo hứng khởi với mấy củ khoai luộc, nải chuối chín vàng, bát nước chè xanh - Có người vừa bình vừa thở khói thuốc lào mà chuyện về Trạng vẫn rất say sưa thú vị, mô tả rất mực huyền diệu về một bậc kỳ tài có một không hai của nước Việt ta. Cụ bà tiếp nước thì nhai trầu bỏm bẻm mà rằng: "Sao lại có người tài giỏi đến như vậy nhỉ?". Còn cụ ông thì câu cửa miệng là: "Ôi dào Sấm đã dạy, sai làm sao được!".
    Còn nhớ những năm 1959 - 1960 khi quê tôi vận động nông dân vào hợp tác xã - làng trên đã tổ chức xong, xóm dưới còn lưỡng lự. Rồi sau hn 4 năm đã hình thành hợp tác xã toàn xã... Mấy năm sau công việc đồng áng đôi phần loạc choạc, có cụ tán: "Phá điền thiên tử xuất- 破 田 天 子 出”- Thay đổi, đồng ruộng thẳng cánh cò bay mà lại!", một cụ khác lắc đầu: " Tam thập niên điền hoàn chủ-三 十 年 田 還 主”- đấy để rồi xem!" Nào ngờ đến năm 1992, đúng 30 năm sau, tôi về quê, mẹ tôi đã 80 tuổi nhận khoán 2 sào ruộng kéo tôi đi tát nước giúp bà, ruộng lại chia cho mọi người. Cụ già làng năm nào nhắc tới lời Sấm đã không được chứng kiến cái cảnh hôm nay, người nông dân hồ hởi bởi lao động có lợi ích thiết thân, cánh đồng như trở vận, một màu xanh ngút ngát tận chân trời. Ngẫm lại câu Sấm mà thấy đúng.
    Các cụ xưa kể: Trạng là người tài giỏi, học một biết mười. Điềm trời về ngày sinh ra Trạng thật là huyền bí. Thoại truyền là một ngày gió mưa vần vụ mịt mù, trời đất tối đen như mực, cả nhà Trạng đã rất mong đợi đến ngày này. Mọi người như biết trước thời khắc một con người sẽ sinh ra. Mẹ Trạng là người thông hiểu lý số kinh dịch - Bà biết rõ hơn ai hết... Nửa đêm mọi người còn quây quần bên bếp lửa hồng, bỗng cả khu Dương Phần bừng sáng. Dưới ánh hào quang một con rồng đất nổi nên giữa nhà chạy suốt 5 gian. Hương thơm từ căn buồng thân mẫu toả ra, mọi người mừng rối rít, ấy chính là thời điểm chào đời của Trạng Trình, bậc kỳ tài của nước Việt ta. Chuyện còn kể chỉ một ngày sau đó, quan thiên văn bên Tàu chuyên theo dõi thiên tượng đã dâng tấu biểu lên vua Tầu về vượng khí xuất hiện một vì sao to như cái đấu ở phương Nam- ứng với một chân nhân đã ra đời... Vua Tàu nhân đó đã cho người sang chúc mừng nước Nam và cho rằng chỉ trong một vài năm sau sẽ khắc biết; thì sau đó 4 năm một thầy Tàu đã được phái đến miền Hải Đông nước Việt để tìm kiếm một bậc kỳ tài và nhanh chóng biết đích xác về cậu bé thần đồng làng Trung Am - Cổ Am - Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Thày Tàu nhìn cậu bé từ đầu tới chân rồi than: "Qủa là bậc kỳ nhân của thời thịnh trị, mà nay thì loạn lạc kéo dài, tiếc lắm thay!" Cậu bé thần đồng ấy chính là Nguyễn Tất Đạt hồi nhỏ và là Nguyễn Bỉnh Khiêm - Trạng Trình sau này! - "Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ".
    Tôi còn đựoc nghe các cụ đọc những câu: "Bao giờ đá nổi lông chìm - Đồng khô hồ cạn con tìm thấy cha - Mười phần mất bảy còn ba - Mất hai còn một mới ra thái bình" hoặc "Ai ơi chớ vội làm giàu - Thằng Tây nó tếch thằng Tàu nó qua". Khi ấy một cụ vỗ tay vào đùi đánh đét :ờ thì Tưởng Giới Thạch bị đánh bật ra đảo Đài Loan đấy thôi! Thạch là đá chả nổi phềnh phềnh ấy là gì? còn Mao Trạch Đông? mao là lông có chìm đâu? làm sao mà chìm được? Rồi cụ nhìn đám trẻ hóng chuyện, chỉ vào tôi - đến đời cái thằng này may ra mới vỡ nhẽ cháu ạ? đời ông thì thân kề miệng lỗ rồi!”; còn câu sau được giải nghĩa với cuộc chiến tranh của nhân dân ta mấy chục năm sau ngày gỉai phóng 1975 thì 1979 - 1980 lại xẩy ra chiến tranh biên giới phía Bắc- Trung Quốc dạy cho Việt Nam một bài học!?
    Năm Tân Tỵ - 2001 một sự kiện kinh hoàng xảy ra tại nước Mỹ - ngày 11/9 hai toà tháp - Trụ sở thương mại thế giới ở Niu Oóc bị đánh sập, lại nhớ câu Sấm "Bò men lên núi Vu Sơn - Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù - ấy là những binh phù thui thủi - Lòng trời xui ai dễ biết đâu", có sách chép “Man mác một dải Hoành Sơn- Thừa cơ...”. Người ta thấy sau khi Taliban thắng thế ở Apganistan năm 1989 - 1992 đã tập hợp phe cánh xây dựng một Chính thể theo đạo Hồi dòng chính thống. Phái này coi Mỹ là kẻ thù chính, vì chính nước Mỹ luôn đi đầu cổ súy cho nền chính trị độc lập, đa nguyên dân quyền dân chủ, và điều đó cũng là nguyên nhân chính trong việc chia rẽ đạo Hồi thành nhiều quốc gia dân tộc riêng rẽ? Họ đã lợi dụng Mỹ lật đổ chính quyền C.S Brak Cacman do Liên Xô hậu thuẫn, vốn thành lập hồi 1978, để nắm quyền; còn bây giờ thì họ quay sang khủng bố nước Mỹ. Đạo quân cảm tử lặng lẽ - mà Sấm gọi là "thui thủi" làm cái việc ghê gớm ấy; họ trà trộn, khăn bịt mặt, chất nổ quấn đầy mình, nổ cái “đùng” và cùng chết luôn, đúng là “thui thủi” chưa? Vu Sơn xưa là nơi tiên thánh ở hay chính là nơi bức tượng Phật hơn ngàn năm - Di sản văn hoá thế giới được Liên hiệp quốc bảo vệ đã bị Taliban phá huỷ hồi tháng 3-2001 vừa qua. Cái hay của lời Sấm còn tinh tế ở chỗ người dân Afganistan đại bộ phận trước kia sống bằng chăn nuôi bò- thì lời Sấm nêu “bò men...”; còn một ý khác là thời chính quyền Brak Cac man, dân Afganisstan bỏ chạy thì nay quay về miền núi lưng chừng Himalaiya- vậy thì cách đi không thể khác là “men theo” các sườn núi! thật sống động và hình ảnh “bò men lên núi Vu Sơn!”? Sấm dạy “cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao!” Ôi! Thế thì câu hát ru - Lời đồng dao - hay câu Sấm các cụ truyền lại bí ẩn và thú vị biết chừng nào!
    Tôn vinh Trạng Trình - Xây dựng quê hương Người - cùng với sưu tầm thơ văn Sấm ký của Trạng là những việc rất tự hào. Tôi hy vọng một ngày nào đó dự án tổng thể mà tôi đề xuất sẽ được mọi người ủng hộ. Mỗi một huyền thoại hay giai thoại sẽ gắn với một địa danh, một công trình kiến trúc xứng đáng với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và miền đất Hải Đông nổi tiếng xưa nay.
    (12-2001- P. V. H)
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  13. #33
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Thân gửi ông Bùi Quốc Hùng- Bút danh DIENBATN
    Trung Tâm Nghiên cứu lý học Đông Phương
    Bài viết để đăng tải về nghiệm lý Sấm Ký Trạng Trình (tiếp tục...).

    Hư thực muôn đời
    (Hay chuyện kể về Sấm Trạng Trình)KTS: Phạm Vũ Hội
    Truyện- 2


    “...Cơ tạo hóa phép màu khôn tỏ
    Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao
    Thấy Sấm từ nay chép vào
    Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa
    Thần Kinh Thái Ấ suy ra
    để dành con cháu gần xa nghiệm bàn!...”
    (Sấm Trạng Trình)

    ...Chúng ta đang ngồi trong vùng trời mọng đầy hơi nước, khi đó ánh mặt trời trở nên bàng bạc nhạt nhòa, không thể biết rằng ta ngồi trong quãng sáng của bảy sắc cầu vồng. Hay chạy tới chân trời tít tắp xa kia ngoái đầu nhìn lại... thì trời ơ! bảy sắc màu sặc sỡ mới thực sự hiện ra... “Hư thực muôn đời -2” muốn tiếp tục cái nhìn như vậy...
    *

    Thập kỷ 60... Nắng hầm hập như đổ lửa... tiếng trống HTX từ Miếu Làng Tư đổ hồi... Mấy lảo nông trên mình khoác chiếc áo nâu đụp đẫm mồ hôi, khuôn mặt sạm đen, mắt cứ nheo xoắn lại dưới nắng trưa hè, tất cả rời tay cuốc ải vội về làng, họ đổ vào nhà Cụ Lý ở ngay đầu làng nghỉ tạm... chia nhau từng điếu thuốc, bát nước, chuyện nở như pháo ran, thỉnh thong bắt gặp một cơn gió mát...
    Thằng Cóc đưa cái “đóm” cho cụ Lý, rồi chui vào lòng cụ lúc nào không biết nữa... Lúc cụ hút thuốc cứ phải gập người xuống mà hút, nó còn cầm nối cái “đóm” để tay cụ châm mồi lửa tới đâu, tay nó cũng rê tới đấy tỏ vẻ thích chí. Bình thường thì cụ bảo nó “xê ra cho ông hút!” nhưng có mấy lão làng ngồi quanh, nên cụ cũng thây kệ. Cụ Lý chụm môi chẹp chẹp năm bảy cái cho điếu thuốc cháy đượm xong rít một hơi rõ dài tụt cả điếu thuốc vào trong nõ, rồi nghểnh mặt nhả khói, đoạn lấy tay đẩy cái điếu bát cho ông Nguyên. Đến lượt ông Nguyên lấy cái soi điếu sọc sọc... Khói thuốc cuồn cuộn bay thong thả quấn quít cả mặt thằng Cóc. Nhả khói xong cụ ầm ừ ngâm nga trong cổ họng theo điệu trống quân:
    “Hoành sơn(ư...) là lối(chứ...) ra... (ưừ...) vào!
    Cuốc kêu(mà...) vọng đế(ýchứ...) Cáo gào (mà...) Hà (hừư...) vương
    Cung trăng(mà...) đã sẵn (ý chứ...) lời chương
    Gió mưa(mà...) lại mở(chứ ý...) một trường(mà...) Xuân(ý...) Thu...
    Tên treo(mà...) ba mũi(chứ...) phục(hư ừ...) thù...!
    Khen thay(mà...) khắc dụng(chứ...) bày trò... (mà) chóó... con...
    Ngọn cờ(mà...) nhấp nhô(chứ...) đầu(hừư...) non
    Thạch thành mèo lại (chứứ...) bon bon (hưư...) chạy (ưhừ) về
    đầy đường(mà...) lai láng(chứ) máu (ứ ừ...) dê
    con quay(mà...) ngã trắng(chứ...) ba que (ư) cuộc (ưhừ...) tàn...!
    Trời Nam(mà...) trở lại(mà... hục!... hục ục!)....!”
    Mọi người nghe cụ Lý ư..ử như cụ hát, đến đấy thì cụ ho ùng ục... Thằng Cóc lấy tay vuốt lên ngực cụ Lý mà cười... “Ông tớ cứ hút là ho...” nó mách với bọn bạn. Nó và tôi chơi với nhau cùng mấy đứa nữa, rất hay hóng chuyện các cụ. Bấy giờ Cóc chỉ độ bảy tám tuổi được cụ Lý rất chiều, tôi nhỉnh hơn nó, đều rất thích nghe cụ Lý kể về Sấm Trạng. Tôi đế vào:
    -Cụ ơi Sấm Trạng ấy hả cụ?
    -Thì Sấm Trạng chứ còn gì! rồi cụ thở dài, chà chiến tranh, cứ là tranh cướp nhau cả đấy, ai mà biết là nó muốn cướp nước mình, nó siểm nịnh, mình bùi tai thì hóa ra mất nước, rồi nhớ nước mà hóa thành con chim Cuốc!... Xuân Thu cũng là một duộc, Sấm Ngài cũng cứ lấy tích xưa mà dạy, mà dẫn chuyện đời nay ấy... đúng chứ hử?. Cụ lại hát thay cho nói:
    “mấy ai(mà...) bá đạo (ýchứ...) đồ (ư) vương
    mà không(ừhừ...) mưu sự(ýchứ...) chiến trường(ừhừ..) can (ư) qua...”
    Xuân với chả Thu, thật thâm hiểm bất nhẫn vô lưng, hử? Sấm Trạng cả đấy! Chả thể vất đi đâu!?... Trước kia Sấm dạy “Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong- 黎 存 鄭 在 黎 敗 鄭 亡”, thì là nghiệm rõ vào các năm (1784-1789) khi Tây Sơn nổi lên đem quân đánh ra Bắc, nhà Lê mất nhà Chúa cũng mất theo! Sử sách nước nhà ghi chép cả!... Lại có câu “kể từ tự xưng Lê nay, tam phân rồi chẳng được gì cả ba...” thì đấy thực rành rẽ... từ lúc kéo cờ phù Lê, 1777 thụ phong Quảng Nam trấn thủ tuyên uý đại sứ quốc công, khuynh đảo... đến khi diệt Trịnh xong, thì ba anh em Tây Sơn chia nước làm ba mỗi người một khúc, mỗi kẻ một nhà, đều xưng đế xưng vương... cuối cùng cũng chẳng nên cơ ngũ gì, qúa đúng nhá! Sau nhà Nguyễn lại lấy lại được, bấy giờ nhà nước ta mới thống nhất một mối, Gia Long lên ngôi 1802 mà đặt tên nước là Việt Nam... Rồi tới khi Pháp đến có câu “để loài bạch quỷ lăng xâm, làm cho thiên hạ khổ trầm lưu ly...” thì lại có câu “Phụ nguyên trì thống, đế phế vi đinh -阝 元 馳 統- 帝 廢 為 丁” ở đây chữ “phụ-阝” với chữ “nguyên-元” ghép lại thành chữ “nguyễn-阮”, tức là Nhà Nguyễn để mất nước vào tay Pháp, nhưng vẫn được duy trì quyền chính... là “trì thống” mãi tới ông vua cuối cùng Bảo Đại bị phế bỏ mà thành bạch đinh tức “vi đinh” hử? Trạng tiên tri thực tài tình, thời nào cũng có, ấy cho nên “cuốc kêu vọng đế cáo gào hà vương, cung trăng đã sẵn lời chương...” cứ nhớ lấy mà gẫm, hử?...
    Ông Tịnh có người con lớn đi quân ngũ, nhìn cụ Lý bảo:
    -Làng ta bao nhiêu người hay chữ chỉ còn Cụ... Cụ biết chữ nho chữ nhe chữ Tây chữ Tàu, cụ hiểu, thì cụ bảo thế chứ Hoành Sơn chỗ nào, Cuốc là gì? Cáo là gì, hay là sự dối trá? tôi chả được học hành, một chữ bẻ đôi cũng chả biết, xin chịu. Anh lớn nhà tôi cùng với bố cậu Cóc đi quân ngũ từ bấy dễ dăm năm rồi... bây giờ cứ bặt tăm tằm tằm...? “Hòa bình” rồi mà chả thấy về... Theo cụ thì cơ chừng thế nào nào... ruột tôi cứ như lửa... ơi dào..!
    -Còn thế nào?.. cũng may cái ngày ấy tôi bảo tôi chả biết cái chữ mẹ nào, chứ anh phán Kỳ mà tôi hay học mót chữ của anh ấy thì đã bỏ xác đâu đó có trời mà biết! Thuở bé tôi toàn học lỏm, viết lên đất, ngồi nhìn trộm sách người mà học chứ trường lớp gì... đến khi thấy người ta mách hễ cứ biết chữ thì bị liệt vào “trí thức”là phi “đào tận gốc...” tôi “sợ vãi...” cả ra... biết chữ biết nghĩa mà thành tội thì cứ bảo tôi chả biết gì sất hử!... Mà tôi là cái anh thợ, hết làm ruộng ở nhà... ngày ba tháng tám lại lên rừng làm thuê chặt củi, kéo cưa lừa xẻ... đen trùi trũi, quần áo chằng đụp lấy đâu ra “trí với chả thức”... Ngoảnh đi ngoảnh lại cái lứa tôi người giỏi, có học... chẳng còn thì cũng phiêu bạt... mới bảo loạn lạc sống chết chả biết đâu mà lần, hừm... Rồi cụ Lý lại hắng giọng ngâm nga:
    “Bao giờ (mà...) đá nổi (chứ...) lông (ư hừ...) chìm
    Đồng khô (mà...) hồ cạn (ý...) con tìm (mà...) thấy (ýứ) cha
    Mười phần (mà...) mất bảy (chứ...) còn (hừ...) ba
    Mất hai còn một (chứ...) mới ra (hư...) thái (ư hừ...) bình...”
    -Thế bao giời thì như thế để cháu được gặp bố cháu, thằng Cóc hỏi.
    -Đến lượt lũ các anh đi lính thì có khi ở ngoài trận mạc bố con mới gặp nhau ấy chứ! Cụ Lý phỏng chừng... cũng khối người như thế! Tôi nhớ Sấm Ngài còn dạy “điền vô nhân canh, lộ vô nhân hành, thị vô nhân chí, thiên hạ cộng vi binh-田 無 人 耕, 路 無 人 行, 市 無 人 至, 天 下 共 為 兵” là đồng ruộng không có người canh tác, đường xá không ai đi lại, chợ búa không người đến, tất cả bàn dân đều làm lính cả... đấy để rồi các cụ gẫm... chắc chỉ mươi năm nữa là biết thôi hử?...
    -Ui chết... chiến tranh dài đến thế cơ á..!? Cậu Cóc ngần này mà lớn vẫn phải đi trận thì hàng chục năm nữa vẫn chiến tranh ư? chậc!... Chết mất thôi, mấy người thốt lên cùng lúc!
    -Suỵt! khẽ cái mồm, là theo Sấm Trạng mà phỏng thế, để rồi xem...
    Ông Nguyên từ nãy tới giờ vẫn ngồi nghe, gõ cạch cái xe điếu một cái, hai tay chụm lấy cái đóm định hút, nhưng rồi chống nó vào cằm, cái đóm vẫn cháy trong tay, nghiêng sang cụ Lý nói:
    -Thế như nghe cụ đọc Sấm Ngài dạy đấy thì tôi cho là ngược đời cả, mà chết mẹ... nó cả bàn dân thiên hạ chứ còn đâu là dân tình nữa? Thì “đá nổi lông chìm” chả ngược đời là gì? có khác nào “Chạch đẻ ngọn đa, sáo đẻ dưới nước”. Còn “đồng khô hồ cạn” thì họa có chăng giờ đã nhỡn tiền... hử?
    -Phải đấy các cụ nhỉ!?...ông Tịnh nói chen vào...
    -Cụ ơi cánh đồng Chằm bên Tía sâu thế, mọi năm cháu chống thuyền lội đến tận cổ mà bây giờ cạn tiệt ấy thôi? “ếch kêu uôm uôm ao chuôm đầy nước!” mà cái chuôm làng mình cũng khô khốc... tôi hét lên cho cụ Lý nghe.
    -Rõ thật...! Cụ Lý nheo nheo mắt nhìn mọi người, ánh mắt cụ sáng lên mà sâu thẳm, hiểu Sấm Ngài như nhà các ông, có mà lộ sạch cơ trời hử? Rồi cụ lại ngân nga theo điệu sa mạc giọng cứ dính bết lại:
    “Cơ tạo hóa..(óa...) phép màu...(hàu) khô...(ôn) tỏ...(ỏ)!..
    Cuộc (hừ ừ...) tàn rồi...(ồi) mới rõ (ứ...) thấp (hứ) cao...!”
    Đã “tàn” đâu mà biết!? hử? Lại vừa dự bị vừa sắp tổng động viên rồi kia kìa... Nam Bắc, hai phe hai miền, mỗi anh theo một bên, một anh thì công hữu, xã hội chủ nghĩa, có Liên Xô Trung Quốc viện trợ, một anh thì tư hữu, tư bản chủ nghĩa, có Hoa Kỳ đỡ đầu, phe nào ủng hộ phe ấy, súng ống đạn dược cứ đầy ra, mình là tiền đồn... chả anh nào chịu anh nào hử... Lại bảo sau hai năm thì hiệp thương mà có thấy đâu? đánh nhau là cái chắc hử... Lũ trẻ ranh này cũng đi quân ngũ hết cho mà xem... Còn “đá nổi lông chìm đồng khô hồ cạn” đâu phải như các ông các bà nghĩ ra thế...
    -Ây thì hôm qua tôi được mời đi nghe cán bộ cấp trên phổ biến cho các gia đình thành phần “cốt cán”. Họ bảo là “quán triệt” đường lối chủ trương... “quán triệt” là gì tôi đâu có hiểu... nhưng thằng Thịnh nhà tôi chắc là nhập ngũ kỳ này rồi, trước là Nam tiến, giờ là đi B, C gì gì ấy, tôi cũng chả nhớ nữa. Tôi bảo nó lấy vợ rồi hãy đi! Thằng anh nó bặt tăm, thì nó phải lấy vợ mới cho đi... tôi cứ nói thế, ông Tịnh lên tiếng như mếu máo.
    Bà cụ Lý dọn dẹp quanh quẩn nghe các cụ ông nói chuyện, chạy ra vuốt đầu lũ trẻ chúng tôi một lượt, nói cứ như muốn khóc:
    -Chết mất! các cháu tôi phổng phao thế này nay mai chưa kịp lớn lại phải ra trận mà chết ư? “Mười phần mất bảy còn ba” chả hóa chết hết à? Tôi cứ lạy Trời khấn Phật, Sấm Ngài đúng tất tật ở đâu kệ!... riêng cái câu này đừng có đúng! ôi khốn khổ khốn nạn các cháu của bà! đời bà đã phải chạy loạn ngược xuôi khổ cũng cam... Cụ sụt sịt mắt ngân ngấn... “mất bảy còn ba” thì vợi cả làng cả nước còn gì?.. Ông Nguyên ngắt lời cụ bà:
    -Cụ ơi! cánh thanh niên nó có sợ ối! cứ rời cái đồng đất này, thành người của dân của nước thì nó thích bỏ sừ!... Hừm... tôi cũng cứ xưa nay nghĩ ngợi... trước có nghe ông Đồ, còn mải ông ấy hay nói về Sấm, đúng đáo để... tôi bây giờ chả nhớ mấy, Sấm Trạng mà dạy đúng như cụ nói, chả vất đi đâu được!... Hôm nay Cụ gỉải lại xem nào? “hoành sơn... xuân thu” là thế nào Cụ nhỉ?. Rồi ông Nguyên sơ hoa rằng trước kia cụ Đồ đã bảo “đá nổi” ấy là Tưởng Giới Thạch, Thạch là đá, Lông là Mao, là Mao Trạch Đông... Tưởng Giới Thạch bị đánh chạy ra Đài Loan, cái đảo to ngoài biển, thì ấy “đá nổi” rồi còn gì. Còn “lông chìm” hừ... thì chìm thế nào được... “Đông phương hồng ánh mặt trời lên, Trung hoa ta có Mao Trạch Đông...” cơ mà? ông Đồng, ông Hồ, đều là lãnh tụ đang gánh vác việc nước trọng đại... Không lẽ là các vị ấy viên tịch hết thì mới hết chiến tranh mọi người mới đoàn tụ? “con tìm thấy cha” mà lỵ, hử?...
    -Phả đấy! Cứ để gẫm xem... trước kia tôi với ông ấy cũng hay chuyện về Sấm Trạng cứ phải hàng buổi... Còn “hoành sơn” là gì? là cái ý chừng... như là rừng núi là dãy núi nằm ngang, ở đâu ấy à? Dãy núi phía tây kia... từ tấm bé tôi thấy các cụ gọi là Vu Sơn, nơi Tiên Phật ở, có người bảo ở Trung bộ tận Quảng bình Quảng trị phía nam... hay Hoành sơn là Hòa bình nhưng lâu ngày mọi việc tôi cũng không nhớ hết. Cụ Lý bắt đầu giải thích... thì tôi cũng đi Sơn La Hòa Bình cả rồi, bằng thằng cháu Cóc này tôi đã giúp tay cưa tay xẻ cho mấy cụ Cả lên tận ấy mà làm ăn... núi non đi cả ngày, lên cao xuống thấp cây cối rừng sâu rậm rịt, chà... một bước đi một bước sợ... rắn rết, muỗi vắt, sợ cả ông “ba mươi”, tối phải đốt lửa. Ông “ba mươi” cứ vác một người, hai người như bỡn, có toán thợ sáng ra mới biết là mất người nhà mình, khiếp lắm... Cũng đi như thế có người về ngã nước mà chết đấy! ấy nhưng tôi thì chả khác gì cục đất thó vất đâu cũng được, hừ...
    Nghe cụ Lý nói tôi chả hiểu mô tê mộc tệch gì “thế ông ba mươi là ai, sao lại bắt người ạ?”. Tôi hỏi.
    -Chậc! ông “ba mươi hay ông cọp cũng thế cả” hiểu chưa hử? cụ Lý gỉai thích cho cánh trẻ.
    -Ô lạ nhỉ? ông cọp lại là ông ba mươi, cứ như người ấy, thảo nào các cụ cứ hay bảo “khoẻ như ông ba mưi” thằng Cóc đập vào người tôi khoái chí.
    -Còn Xuân Thu là thời các nhà nước phong kiến ở bên Tàu hình thành, cát cứ... Sử sách ai học thì mới biết, như nước Tần, nước Tấn, nước Sở, nước Ngô nước Tề... nhiều lắm!.. Tôi thì tôi cũng đọc sách của các cụ mà biết ấy thôi, xa lắc xa l... trước cả cái “năm Tây lịch, kỷ nguyên Cơ Đốc giáo” vài trăm năm kia, lâu lắm... Thời Xuân Thu là thời vua chúa lập quốc, rồi sau sinh ra chiến tranh mưu đồ bá bá vương vương, thì gọi là thời Chiến quốc. Các cụ ta dạy bấy giờ anh Tàu có bảy nước Tần, Sở, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên, về sau các nước đều thua nước Tần cả, mà sinh ra cái anh Tần Thủy Hoàng, kiêm tính hết, người đời vẫn gọi là bạo chúa, chuyên đốt sách chôn sống học trò... Hừm, giờ thì tôi bảo các ông các bà i! vắt tay lên trán gẫm cho kỹ mới thấy Sấm Trạng cứ là đúng như bật mực: này nhé trước Thế Chiến thứ Nhất một loạt nước Tư bản được thành lập theo chế độ Cộng Hòa lập hiến: Anh, Ytalia, Pháp, Đức, Ao- Hung, Nhật bản, Hoa Kỳ... rồi chiến tranh tranh giành thuộc địa... Sau Thế Chiến Hai lại hình thành một lọat nước theo đường lối Cộng sản, những là mười hai mười ba nước xã hội chủ nghĩa như bây giờ gồm: Liên Xô, Nam Tư, Ba Lan, Lỗ ma ni, Bo gia lợi... Ngay ở phương Đông A thì có Trung Quốc, Triều Tiên, đến Phi luật tân, In-đô -nê-xia, Ân độ, Mã lai, cả ta nữa... Vậy cứ gẫm thật xa, đừng phụ thuộc vào bát cơm thường nhật... hừm chả phải một “trường Xuân Thu” là gì hử?... Lại gẫm câu Sấm: “Chấn cung hiện nhật quang minh, sóng lay khôn chống trường thành bền cho, Đoài cung vẻ rạng trăng thu, ra tay mở lấy đế đô vạn toàn” thì cứ là càng rõ mồn một hử? Chấn cung là phương Đông sinh ra cái anh Nhật Bản có ông Minh Trị Thiên Hoàng biết canh tân đất nước chỉ trong ba chục năm kể từ 1868 trở đi tới đầu thế kỷ mười chín XIX, mà Nhật đã sánh ngang các cường quốc Thế Giới, rồi cũng ra tranh cướp thiên hạ, thành Phát xít hóa... đến khi thất trận, phải bồi thường chiến phí nặng nề... Vì ở giữa biển, thiếu thốn đủ thứ ấy chứ, vậy mà cho đến giờ thập kỷ 60 này, lại vẫn vươn lên hùng mạnh, cho nên Trạng dạy “sóng lay không chống trường thành bền cho” là cái ý ấy! Còn phương Tây là Đoài cung, thì phát triển các thể chế dân chủ dân quyền cộng hòa lập hiến, tư bản hàng hóa, đua nhau tìm kiếm thuộc địa... các nước phương Tây đều xây dựng các đế đô tươi đẹp như: Lixbon (Bồ đào nha); London (Anh); Newook (Hoa Kỳ); Marđrit (Tâybannha); Pariss (Pháp);Viên (Ao); Rôma (Ytalia); Henxinhki (Phần lan); Oslo (Na uy), Stockhon (Thụyđiển)... nhà cửa lâu đài của họ to tát lắm! qủa đúng y mực hệt “ra tay mở các đế đô vạn toàn” bền vững đến tận giờ... ấy là gẫm ra chả sai một ly một lai hử?... Còn bài Sấm nói về ta? Cuốc là gì à? tích các cụ xưa để lại là con chim Cuốc, mà lại chính là do An Dương Vương hóa kiếp ra đấy! Đó là truyền thuyết bảo rằng đương thời Vua An Dương Vương quá tin vào viên Tể Tướng Miết Linh... Hắn cứ xiểm nịnh Ngài rồi nhân một lần săn bắn trong rừng sâu, sau đêm hoan lạc, Vua say bí tỷ ngủ lăn ra, hắn bỏ Ngài lại nơi ấy... Sáng bảnh mắt nhà Vua gọi quân hầu chẳng còn ai, mới biết mình bị lừa... Bấy giờ người còn ít, rừng rậm mịt mù biết lối nào mà đi... Rồi Ngài cứ theo ánh mặt trời, định hướng tìm về kinh thành, đi về hướng Đông, đi mãi đi mãi, kiệt sức chết hóa thành con Cuốc, cứ kêu “cuốc! cuốc! nước! nước!...” Tiếng chim Cuốc nghe thất thanh lạc lõng trong rừng, bên vách núi, nghe thiểu não quá mà sau người đời mới gọi An Dương Vương là Vọng Đế, nghĩa là nhớ nước!... Thế là có thoại tích cả đấy, hừ...
    -Thế còn “tên treo ba mũi phục thù” là thế nào? “khắc dụng bày trò chó con” là thế nào? mà “cáo gào hà vương” thì thật kinh khủng, âm khí như quỷ ma ấy!... Trước nay các cụ cũng chả rõ làm sao sất!.. tôi cũng chưa được nghe cụ Đồ gỉai cụ ạ?.. Ông Nguyên có ý hỏi.
    -Chà! Kể ra thì cũng khó thật, cụ Lý nói thong thả, mình là hậu sinh lại mà gẫm cái chuyện ông Bành Tổ, hử? Tôi thì tôi gẫm phép Độn Giáp thì có dạy đấy! Cứ lấy Tam kỳ, Lục Nghi mà tính... mà ra Trực trù, Trực sử lại lâm vào Bát môn, mà ra quẻ Bát Quái, rồi lấy phép Ngũ Hành mà tính thì mới rõ là “Sinh” hay là “Khắc”, “Thể” khắc “Dụng” hay là “Dụng” khắc “Thể”, hử? ấy nhưng tôi cũng chưa hiểu nổi!..Còn “cáo gào Hà vương” thì tôi dám chắc Sấm dạy cốt đem cái ý ẩn vào mấy chữ tượng hình mà mình biết cả đấy!.. Nhưng ai có “Nho học” mới hiểu được, mà vẫn phải tinh ý một tý là rõ cả thôi...
    -Cụ dạy chúng tôi xem nào! ông Tịnh bảo, liệu có can hệ gì tới thời nay không ý?...
    -Sao lại không? Sấm Trạng là để gẫm thời gẫm thế chứ đâu phải chuyện đùa... Thì đây, xem tôi vẽ ra đây... Trong chữ Nho ta học có nhiều chữ đa nghĩa, mặt chữ khác nhau mà đồng âm, ví như hai chữ hồ, ở đây nói ẩn con cáo cũng nên... đều đọc là hồ cả mà ý nghĩa thì khác nhau, một chữ là “hồ- 弧 - là chỉ cái cung” còn một chữ “hồ - 胡 - là chỉ kẻ lừa đảo, càn, bậy, mọi rợ, cũng là chỉ tên dòng họ”, mà phép ngữ vựng thì đều là loại danh từ cả... Tôi cứ vẽ ra là các ông, các bà biết ngay thôi... Thế là cụ Lý lấy ngón tay trỏ chấm vào bát nước chè đang uống viết hai chữ lên cái quạt mo, cụ cứ phết đi phết lại cho thật đậm sũng cả nước... mọi người châu lại mà nhìn. Tôi cũng ngắm cái chữ viết như vẽ ấy, chỉ thấy ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo... bụng nghĩ đúng là chữ tượng hình...
    -Hay nhỉ, thằng Cóc hích vào tôi, sao bây giờ chúng cháu không học chữ ấy ông nhỉ?
    -Học làm gì! nhà nước đã liệt chữ Nho vào loại chữ nghĩa phong kiến, chẳng đã lệnh khắp nơi bắt phải đem nộp mà đốt đi ấy thôi? Nhìn này! trong chữ hồ là nghĩa cái cung thì có bộ “弓”- gọi là bộ cung, hử? còn chữ hồ nghĩa là kẻ càn bậy, mọi rợ lại có bộ “月”- gọi là bộ nguyệt, mà nguyệt là ông trăng... thấy chưa, chắp lại là thấy ngay? cho nên Sấm mới dạy là “cung trăng đã sẵn lời chương” thế là ẩn ý hết cả vào đấy rồi còn gì?.. là cái cơ trời sắp sẵn cả!... sẽ như thế chả thể tránh được... hử? Cho nên thời ta giờ mọi người cứ bảo không có số, không có mệnh hay vận, hạn gì là cứ nói lấy được thôi! tôi cho là phải gẫm... mới vỡ lẽ!... vận trời sinh ra mưa gió cả, thì cũng sinh ra loạn lạc, lành dữ, hử?...
    -Cụ dạy thế cánh tôi mới mở mắt ra được chứ!.. Ông Nguyên đỡ lời Cụ Lý. Chà đúng lắm, Sấm Trạng rất nhiều chỗ lẫy tượng chữ! Tôi nho nhe thì bập bẹ, may có tý quốc ngữ... Các cụ thân sinh tôi gia cảnh cũng khá, cho tôi đi học, nhưng tôi rát đòn, cụ Đồ giắt cái roi mây to trên vách, tôi sợ... toàn bỏ trốn... Trước tôi có nghe cụ Đồ có đọc câu Sấm “hà thời biện lại vi vương, thử thời bắc tận nam trường xuất bôn- 何 時 辯 吏 為 王,此 時 北 濜 南 長 出 奔... đầu cha lộn xuống chân con, mười bốn năm tròn hết số thì thôi...” Cụ Đồ nói quan biện lại Nguyễn Nhạc thu thuế một vùng đem chi cờ chi bạc hết sạch, bị triều đình hỏi tội mới phất cờ chống lại, ai dè lại thắng cả ngoài bắc trong nam làm chúa Nguyễn mất nước, bôn ba tới 30 năm trời mới lấy lại được, thì rõ là “biện lại lên ngôi vua- vi vương!...” và thế sự cũng xảy ra đúng như vậy! cứ là tăm tắp?. Còn câu sau phép gỉải cũng là phép lẫy tượng chữ! thì ra là chữ quang “光” có bộ tiểu “小” trên đầu mới lộn xuống chân chữ cảnh “景”... ông Nguyên cũng chấm tay vào bát nước mà vạch ra đất... đúng chưa? mà rõ ra là Quang Trung “光 中” soán vua năm năm (1789-1793), còn Cảnh Thịnh “景 盛” thì soán chín năm (1793-1802) cộng là mười bốn năm... Qủa là “mười bốn năm tròn hết số thì thôi...” đúng nhá? chà tài thật! Sấm Trạng cứ y như đặt... Sách quốc ngữ lâu nay tôi đã xem không sai... hỏi rằng Thánh nhân xưa có sách độn toán mà tiên tri được sao lại không khoa học cơ chứ?... Giờ gẫm ra thì mấy ngàn năm ông cha mình dạy có trời có đất có thần có thánh, có số mệnh vận hạn!... đến thời ta chỉ là một mẩu sáu bảy chục năm bác hết cả vận nhà trời thì hẳn không phải rồi!.. có điều mình dốt mình phải chịu. Ông Nguyên cười ềnh ệch... Đúng thế không ạ? Sấm còn dạy “Tây sơn sừng sực kéo ra, nghiệm trong thế tục còn là hiệu chi...” thì là ý làm sao tôi cũng chưa biết? xin Cụ gỉải nghĩa xem nào?...
    -Cái ý rõ mồn một ấy thôi!... là “sừng sực” thể hiện mạnh mà nóng như trưa nắng hè ấy... ngột ngạt... mà có thực không hẵng? Như tôi gẫm bảo là chỉ một trận hàng vạn quân Thanh thây chết chất lên nhau mà thành gò Đống Đa, thì tôi chưa thấy sử chép về cái sự hôi thối ngoài vạn dặm, hử? Nếu thế còn bệnh dịch nữa ấy chứ?... mà bao năm nay có khai quật gò Đống Đa thì thử tính được bao bộ hài cốt của giặc? Vậy cho nên Sấm dạy “còn là hiệu chi” là cái ý chỗ ấy, tức là hiệu chỉnh... Tôi gẫm là hậu sinh còn phải xem xét lại kia đấy? Thì là “hiệu chi” hay hiệu chỉnh cũng thế cả, cho đúng đắn lại, hử?... cho nên các chuyện lịch sử nhốn nháo sai lệch thì hậu sinh phải sáng suốt mà hiệu chỉnh lại hử?
    -Cụ nói chí phải! trước còn ma Cụ Đồ cũng chỉ bảo là phải hiểu lại cho rõ còn rõ thế nào thì chịu, hừ sao hay thế chứ... Cụ nói tiếp đi xem nào... còn mấy câu “ngọn cờ nhấp nhô đầu non, thạch thành mèo lại bon non chạy về, đầy đường lai láng máu dê...” là ra làm sao nữa, nghe mà chết khiếp đi được?... Mà cụ chưa hát hết bài Sấm ấy thì phải!?... Tôi nhớ mang máng còn một đoạn nữa cơ!...
    -Phải rồi! Bài Sấm ấy lắm sự tích lạ, tôi nghe các cụ dặn sau này cứ thế mà gẫm để biết cơ trời... mà còn dặn kỹ phải truyền cho con cháu, tôi thuộc cứ như in!... Đến đấy thì cụ Lý hắng giọng vẫn theo điệu trống quân:
    “Trời nam (mà...) trở lại (chứ...) đế(hứư).. vương
    thân nhân(mà...) không phải(chứ...) là phường(mà...) thầy (hừư) tăng
    đồng dao(mà...) đã có(chứ...) câu ư... rằng
    non xanh mà(mà...) mọc(chứ...) trắng căng(chứ...) mới (ưhừ...) kỳ?
    bấy giờ(mà...) quét sạch(chứ...) thú (ý) ly!...
    ai i(mà...) nhớ lấy(chứ...) Sấm ghi (ư) kẻo (ưhừ...) lầm!
    trong khi(mà...) Sấm chớp(chứ...) ầm (ưhừ...) ầm
    chẳng qua(mà...) có số(chứ...) để găm(ư) trị(ưhừ...) bình
    thất phu(mà...) dám chống(chứ...) thư (hừ) sinh
    sông Ô(mà...) chấp cả(chứ...) mấy anh(ưhư...) Thủy (yhì...) Hoàng...
    nực cười(mà...) những kẻ(chứ...) bàng(ưhư) quang
    cờ tàn lại tính(chứ...) toan đường(mà...) đấm(ứhư...) xe?
    thôi thôi(mà...) mặc lũ(chứ..ư) thằng(ưhừ...) hề
    gió mây(mà...) ta lại (chứ...) theo về(mà...) gió (hư..) mây!...”
    Câu cuối cùng thì thằng Cóc và tôi được nghe cụ Lý hát nhiều lần nên đắc chí hát theo “thôi thôi mặc lũ thằng hề, gió mây ta lại theo về gió mây...” rồi mấy đứa nhìn nhau phá lên cười... Thằng Cóc nói “cứ như chúng mình cùng với ông mình bay theo mây mây gió gió ấy nhỉ...”.
    -Gió mây ta lại theo về gió mây- nghĩa là chết đấy “ông” ạ, tôi bảo Cóc.
    -Thì chết sợ gì!... thằng Cóc càng khoái!... Tôi cứ thấy nôn nao, cũng hét lên với các cụ:
    -Tiếc thế! giá chúng cháu được học chữ Nho như các Cụ nhỉ, cháu muốn đọc quyển sách mà Cụ cất trong cái tráp ấy?
    -Thì rồi cũng cũng có lúc quay lại học chữ Nho, Sấm dạy “bao giờ bạc giấy ra tro, cua còng đổi gọng nhà Nho lại dùng”... thì phải đợi... Cụ Lý nói riêng với tôi và thằng Cóc... Ui a!... tôi ớ cả người, sao lại phải đợi đến lúc đốt hết tiền bạc đi, lấy gì mà mua các thứ? Eo i... lạ thế?.
    -Yên mà nghe!... ông Nguyên hẩy bọn trẻ... Sao lại “trời nam trở lại đế vương?” Theo tôi gẫm ra... thì ở khổ Sấm này Ngài dạy nước ta sẽ chỉ luẩn quẩn đế đế vương vương mà thôi phải không ạ?... Chính người nhà mình làm khổ dân mình chứ chẳng phải “thầy tăng” hừ... nghĩa là chẳng phải thằng tây... tức là thằng Pháp thằng phiếc gì... phải không cụ Lý nhỉ? Lại còn “trắng căng mới kỳ”... tôi còn nghe là “trắng căng mấy kỳ” chứ chả phải là “mới kỳ” tức là cơ vận nước ta chẳng tới nơi tới chốn gì, ôi dào thì mấy kỳ hay mới kỳ cũng thế! buồn nẫu cả ruột!... Ông Nguyên nhanh nhẹn chất vấn...
    -Hừm...! cái ý xem ra cũng là thế rồi... gẫm cho kỹ thì từ ngày có thằng Tây, thì dân mình “khôn” được ối ra ấy chứ!?... Từ cái đèn dầu lạc, đến cái đèn Hoa kỳ, đến cái bóng điện thì ai bảo là không phải vậy? rồi từ cái quạt mo, quạt nan... đến cái quạt điện, cái nhà lầu thành phố, cái cầu sắt Long Biên... Lại cái máy hát, cái ra-đi-ô, cái xe máy... lại cái “phép” làm sách báo Tân Văn xuất bản... ôi chà! đến cả thằng Tàu... chả học thằng Tây thì học ở đâu? Trường Tây học cũng rèn cho ta ối người tài... Sấm dạy “đoài phương phúc địa giáng linh, cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân” là đấy chứ đâu xa!?... Đoài phương là phương Tây, là cái đất học, công nghiệp kỹ nghệ, cách vật phát triển, ấy là nơi “phúc địa”... mình học họ không hết ấy chứ? Mình bắt chước theo họ từ cách ăn mặc, đi đứng bắt tay giao tiếp... ấy là sự “giáng linh” đấy? đúng chưa? hừm... Có điều người mình cứ phải đi phu đi phen phục dịch bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc... mình thành nước thuộc địa, nghĩ cũng tức, nên chẳng nghĩ sâu nghĩ xa gì, hử? Bây giờ nhà nước ta đang nêu đánh đổ đế quốc phong kiến mà ở đây Sấm lại dạy “trở lại đế vương...” thì cũng lạ thật? hay là nói cái thói quyền huynh thế phụ, cứ hễ “vận động” lại thành “nghị quyết” mà ra trói nhau, hằm nhau... Cứ phải gẫm... chờ thời thế thay đổi xem sao... không thể đi trái cơ vận dân sinh dân chủ dân quyền được đâu!... Cụ Lý chỉ vào tôi và mấy đứa nói, mấy câu Sấm ấy phải đợi đến lũ trẻ này may ra mới vỡ nhẽ... tôi và các ông ra đống Ma Nác là vừa, hử? “Đầy đường lai láng máu dê” hừm... thì nhân gian này hẳn chiến tranh còn dài lắm thôi... “cuộc chưa tàn” chưa thể biết hết. Bỗng cụ quay sang hỏi ông Tịnh:
    -Thế thằng cháu Thịnh bao giờ lên đường nhập ngũ đấy! Bảo nó sang tôi ăn bữa cơm hẵng đi nhá!... kẻo nó đi ông cháu chẳng có được câu chuyện... cơm dưa mắm thôi...
    Ông Tịnh mặt buồn rười rượi:
    -Sóng to gió lớn chả biết đâu mà lần, nhưng nó chưa lấy vợ tôi chưa đồng ý để nó đi, tôi nói giữa cuộc họp rồi cụ ạ!...
    Đúng lúc ấy hồi trống HTX từ Miếu Làng Tư lại dóng dả vọng đến, các lão nông lại đứng dậy ra đồng...
    Trời cứ nắng trang trang, đồng đất cuốc ải từ cánh Mẵn trước cửa xóm Bến xuống Cầu Đá làng Vũ Đại cứ trắng xóa đến nhức mắt...
    *
    Thập kỷ 70... Tôi và Thằng Cóc tình cờ gặp nhau tại Thành phố Vinh. Đó là vào một buổi tối... cách nhà Máy Nước Vinh không xa... trên đường về cơ quan, một anh bộ đội đi ngược chiều hỏi tôi đường đến cửa Nam... Bụi và cái nóng gió Lào, làm cát bay mù mịt lại gặp một đoàn xe tải đầy ắp đạn dược lao về phía Bến thuỷ... Chúng tôi đứng lại tránh cái đoàn xe dài dằng dặc gầm gừ không dứt với những ánh đèn gầm... và từng tốp bộ đội mang theo súng đạn, ba lô con cóc gập người nối đuôi nhau... ồn quá chẳng nghe được gì... đành nhìn nhau dưới ánh sáng lu lu mịt mịt... Không thể biết có biết bao sự tình cờ... nghe giọng anh ta nói tôi đã ngợ... “Có phải Cóc đấy không?” Cu cậu giật mình “ừ! Cậu là...” “Là Tía đây!”. Hai năm rõ mười... khoảnh khắc nhận ra... chúng tôi ôm chầm lấy nhau...
    -Cậu đi đâu thế này? Tôi hỏi.
    -Nghỉ phép xong bây giờ đi vào, đang hỏi thăm theo đường Bò Lăn... lẽ ra cùng đi với mấy tay nữa nhưng tao bị lạc, một thằng ở Hà Bắc cùng đi, bị sốt rét ác tính, tịch ở đoạn Nga Sơn, trên đường đi, giờ tao đành cứ đi bừa... hành quân một mình cũng quen cả rồi!.. Còn cậu, sao lớ ngớ mà gặp nhau ở đây...
    -Tao gần đây thôi, cơ quan ở toà nhà bị sập dở dang kia kìa... Tao vừa công tác ở Đô Lương về... Vào tao nghỉ mai hẵng đi...
    Thế là chúng tôi hai thằng trẻ ranh thuở nào bây giờ đã là những chàng trai vạm vỡ quân phục từ đầu tới chân... lại được xưng mày tao chi tớ như hồi ở nhà, ngay nơi tiền tuyến bom rơi đạn nổ... Ngày chúng tôi xa nhau đến thời điểm ấy đã có gần chục năm... Chúng tôi có nhiều chuyện kể cho nhau nghe... cuối cùng chúng tôi nhớ về Cụ Lý và những lời Sấm chưa có sự tri nghiệm... Thằng Cóc nói ông nó đi xa như cái đèn cạn dầu... chỉ buổi tối tắm rửa xong đi nằm, Cụ nói với cụ bà và mẹ con thằng Cóc là cụ sẽ đi... và sáng ra cụ đi thật. Đám ma Cụ được tổ chức bình dị như bao đám khác. Cuối năm ấy Cóc nhập ngũ... Tôi nhắc lại chuyện có lần Cóc đem một nắm lông gà lông vịt quăng xuống ao, rồi lại nhặt những hòn đá lần lượt ném... mong có sự ngược đời xảy ra để có thể gặp bố mình... Trẻ con thật ngốc nghếch... chúng tôi cười ra nước mắt... Tôi kể cho Cóc nghe đã có lần tôi đi ngang Bara Nam Đàn có tạt vào Rú Đụn tức Núi Đụn để thăm khe Bò Đái, bởi có câu Sấm truyền “bao giờ bò đái thất thanh, ấy điềm sinh thành rành mạch chẳng nghi...”; Theo Hán Nôm thì là “Đụn sơn phân gỉai, bò đái thất thanh, Nam đàn sinh thánh,庉 山 分 獬, 爬 戴 匹 聲, 南 檀 生 聖”... Có người nói khe ấy ở Bắc Giang, nhưng ở Nam Đàn cũng có... thì ai mà biết được, Rú Đụn thuộc xã Nam Lĩnh cũng có cái khe, cũng tên là Bò Đái... Tôi kể cho Cóc nghe tôi đã gặp cụ Quế người Nam Lĩnh, bấy giờ ngoài 70 sống ở quê từ tấm bé... Cụ cho biết trước kia khe Bò Đái chỉ là cái khe nhỏ, có tiếng nước chảy sè! sè!.. đi ngoài đường 15 có thể nghe được... còn giờ thì rộng toác mà nước thì không thấy? Cụ chẳng để ý chuyện “thất thanh“ tức là mất tiếng... lúc nào... Tôi và Cóc nhắc lại câu Sấm “điền vô nhân canh, lộ vô nhân hành, thị vô nhân chí, thiên hạ cộng vi binh” mà Cụ Lý đã gỉảng... thì rõ là chính thời chúng tôi đang sống, ở nhà chỉ còn các cụ già và một số nữ dân quân, lao động nam giới “lực điền” ra chiến trường hầu như tất tật...? đương nhiên thập niên 70 dọc đường quốc lộ 1A chỉ có lính hành quân, hừ? mà chúng tôi cùng tham gia và chứng kiến, người dân có đi đâu xa, toàn tìm lối đi tắt nẻo, it khi theo ra những con đường lớn... ấy là “lộ vô nhân hành”?... Chợ thì làm gì có? cửa hàng mậu dịch phân phối tiêu chuẩn lương thực thực phẩm, mua một lần hết luôn, hử? Công nhân nông dân đều có súng khoác vai, đều là quân dự bị? Rõ là “thiên hạ cộng vi binh” còn gì? Thằng Cóc xuýt xoa... Tuyệt thật! Sấm Ngài... Còn câu “Thập niên dư chiến, thiên hạ cửu bình, 十 年 餘 戰, 天 下 九 平...” gẫm ra... như cuộc kháng chiến của ta gọi là 9 năm chống Pháp nhưng sự bắt nguồn từ những năm tháng 1944-1945 đến ngày 15-3-1955 tên lính Pháp cuối cùng rời Bến Nghiêng, Đồ sơn- Hải phòng... thì theo thời gian là hơn mốc quy ước hiệp thương giữa năm 1956 đến ngày 5-8-1964 xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ, bắt đầu nổ ra chiến sự... tính là 9 năm thì rõ là “thiên hạ cửu bình” đúng tắp lự nhé, hừm?
    -Đúng thật đấy! tao đồng ý với mày! tuyệt.. Thằng Cóc huých mạnh vào tôi, thì các cụ vẫn bảo Sấm Trạng chỉ có đúng mà lỵ!.. chẳng dè chúng mình là những can dự... mà “cuộc đã tàn” chưa ấy nhỉ? mong sao chiến tranh kết thúc, chúng mình về quê, mà gẫm, mà bàn chuyện Sấm Trạng như các cụ đã từng bàn...
    Đêm ấy chúng tôi nằm cạnh nhau, thật khó ngủ, câu chuyện vài lần bị gián đoạn bởi pháo sáng và máy bay Mỹ gầm rú... Có tiếng gà gáy. Cóc huých vào tôi “Vẫn thức đấy chứ?... ừ hừ!...
    -Mày có nhớ 4 câu Sấm “Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh, can qua xứ xứ khởi đao binh, mã đề dương cước anh hùng tận, thân dậu niên lai kiến thái bình-龍 尾 蛇 頭 苦 戰 爭, 干 戈 處 處 起 刀 兵, 馬 蹄 羊 腳 英 雄 盡, 申 酉 年 來 見 太 平” không? Nó hỏi.
    -Đó là ứng vào Đại Chiến Thê Giới II, Cụ Lý đã gỉai thích... thật chính xác đấy... tôi trả lời...
    -Mày không thấy ngờ ngợ sao?... Và thế là Cóc nói rằng nó cũng cứ gẫm mãi về mấy câu Sấm ấy... liệu lịch sử có thể lập lại một điều gì đó không? Nó gỉai thích rằng Ngày 5-8-64 sự kiện Việt Nam bắn chìm một tàu khu trục Mỹ, rồi Mỹ cho ném bom miền Bắc... và từ 1965 cuộc chiến chống Mỹ cứu nước... mỗi ngày một mở rộng... chả phải ấy là từ Giáp Thìn sang Ât Tỵ, cũng là “long vĩ xà đầu khổ chiến tranh...”đấy chứ? Ngoài chiến trường trận Âp Bắc, trận Bình Giã, Núi Thành, chiến dịch Khe Xanh Đường 9 Nam Lào, cả Đông Dương như bốc lửa... chả phải “can qua xứ xứ khởi đao binh...” là gì? Cuối năm 1967- Đinh Mùi, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tử trận, phía Mỹ và bọn đánh thuê Pắc Chung Hy, bị bổ chửng phải tính đến kế hoạch “Việt nam hóa”... Tao ngờ ngợ cũng là “mã đề dương cước... móng ngựa chân dê... anh hùng tận...” ấy nhé!... Chúng tao nghe đồn sắp có bài chúc tết Mậu Thân-1968 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đại loại “Năm qua thắng lợi vẻ vang, năm nay tiền tuyến lại càng thắng to, vì độc lập vì tự do, đánh cho Mỹ cút đánh cho Nguỵ nhào, tiến lên chiến sỹ đồng bào, Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn!” hoặc là “Xuân này hản hẳn mấy xuân qua, thắng trận tin vui khắp nước nhà, Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ, tiến lên toàn thắng ắt về ta”... thế là cái gì? Thì tao nghĩ “Thân dậu niên lai kiến thái bình...” cũng có vẻ như là cầm chắc?. Bây giờ thì đến lượt tôi huých vào người nó và hét lên:
    -Eo ơi! chú mày suy gẫm ghớm thế! Là mày mong chiến tranh sớm kết thúc, hay là diễn biến cái lý của thiên cơ có vẻ như mày muốn vãng lai một sự trùng lặp? Nên phải hiểu “thiên cơ xuất kỳ bất ý...” chứ?. Thực ra tao nghĩ khổ Sấm ấy các cụ trải nghiệm về Thế Chiến II là chính xác rồi, vì chữ “xứ xứ khởi đao binh!” là ý rằng chỗ này chỗ khác... còn “ta” chỉ tóm lại là một “xứ An Nam” hay gọi chung là “xứ Đông Dương” thôi, lấy đâu ra “xứ xứ”...? Cụ Lý đã có lần gỉai thích ấy thôi?.
    -Hừm!... Tao chịu mày! lẽ ra có thêm xứ Tàu xứ Tây gì gì nữa nhỉ... cứ cho là như thế, là tao cũng gẫm liên chi hồ điệp đấy! đợi “cuộc tàn” xem sao. Và cả hai chúng tôi ôm nhau cười. “hãy cứ gẫm liên chi hồ điệp!...” tôi nhắc lại...
    *
    Thâp kỷ 80... Cuộc chiến tranh gỉai phóng miền Nam thống nhất đất nước kết thúc vào 30-4-1975, theo các nhà nghiên cứu có vẻ thật sự bất ngờ... nhưng khi trải nghiệm Sấm Trạng... thì nhịp bước của thiên cơ không thể không bảo là không định sẵn!.. Thú vị của suy gẫm chính là như thế! và Sấm Trạng là đề tài lôi cuốn tôi và “ông” Cóc từ thuở ấu thơ, vốn được các lão làng truyền khẩu... Bấy giờ tôi đã chuyển công tác về Hải phòng và đang học một khóa nâng cao tay nghề, tôi tranh thủ tạt vê quê. Cũng đã gần chục năm, tôi lại có dịp được đi bộ trên đồng đất cũ, cánh đồng lúa xanh đang trổ đòng, mùi lúa thơm lan nhè nhẹ. Những cánh ruộng trũng xưa nay đã thay đổi, có thể trồng màu. Cánh Mẵn, chân ruộng cao trước kia nay đã trồng được hai vụ ngô, khoai... Con mương chìm sâu thẳm, dạo nào tôi từng ra đánh dậm bắt cua, nay chuyển thành mương nổi... Được biết người nông dân quê tôi thời nay không thiết tha với đồng áng cho lắm, vào thời vụ này họ hay kéo nhau đi làm gạch tận Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoà Bình... để kiếm thêm đồng tiền bát gạo...
    Bạn bè trang lứa với tôi ở quê, đều có gia đình, một hai con cả rồi, có người đã có cháu, nếp nhà phần nhiều do các cụ để lại, vài nóc nhà lấn ra chân dược mạ. Ông Cóc biết tôi về đã bỏ cuộc họp ở xã chờ... vừa về tới ngõ Ông Cóc đã ra đón. Thấy đầu tôi đã hoa râm Cóc xuýt xoa “Chà Bác Tía, vất vả lắm hay sao mà đầu trắng phếch cả thế! chết thật...” Tôi ôm lấy Cóc, ngắm thằng Cóc năm nào:
    -Thật khó truyện trò xưng hô mày tao nữa rồi! Lên ông lên bà thôi! Chúng ta đầu đều bạc cả... trên dưới ngũ tuần rồi còn gì? nhanh quá! Qua thời binh lửa, sống sót được thế này là may lắm hừm? Sau cái ngày gặp nhau tình cờ ấy, ông Cóc tìm được đn vị rồi tham gia cuộc tổng tấn công vào Quảng Trị- Đông Hà, bảo rằng bị vùi dưới đất, hai ba ngày, chuẩn bị rút lui... đồng đội đi rà soát, tình cờ phát hiện Cóc còn thở thoi thóp, đem cấp cứu kịp về tuyến sau, chỉ phải cưa mất bàn tay... Âu là cái số tôi thế! Cóc nói đầu gật gật...
    Những người xung quanh kéo đến hỏi thăm uống nước... các Cụ xưa đều đã đi xa... Tầm tôi và ông Cóc đã là bậc vai vế trong thôn rồi... Cũng như ngày xưa lũ trẻ vây lấy người lớn mà hóng chuyện. Câu chuyện xoay quanh những khó khăn, năng suất nông nghiệp thấp, nạn đói... Sau ngày thống nhất kinh tế cứ tụt dần... những chuyện phiếm như “mỗi người làm việc bằng hai... bằng ba, để cho lãnh đạo xây nhà xây sân... mua đài mua xe... hoặc: bầm ơi có rét không bầm? von ga con dận gà hầm con xơi...” đem ra làm trò cười mà sảng khoái!... Rồi chuyện cấm chợ ngăn sông, cấm tiểu thương buôn bán... Ông Cóc nói:
    -Tôi cứ cho là con người có số mệnh, đất nước có vận trời cả, Bác Tía nghĩ sao? các cụ dạy Sấm Trạng cứ nghiệm dần dần, cuộc tàn mới rõ! như cánh mình đã nghe, đã biết đều là đúng... Cụ tôi trước có chấm cho tôi lá số, bảo hiển nhiên chưa... Vậy gỉai thích đi... Tôi còn nhớ trước khi Cụ tôi đi xa bảo tôi chép mấy câu để mà gẫm, ấy là “Phá điền than đến đàn dê, hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng, dê đi dê lại tuồn luồn, đàn đi nó cũng một muôn phù trì...”. Bác có khi cũng biết mấy câu ấy... liệu có gẫm ra không hử?...
    -Sao lại không... giờ thì Tôi và Ông lại giống các cụ xưa, tôi nói với ông Cóc, vẫn nhớ những câu Sấm Trạng... có thể người đời chả mấy để ý đến... nhưng tôi lúc nào cũng gẫm... như trước kia ông từng bảo “cứ gẫm liên chi hồ điệp...” hử? Thì mấy câu Sấm ấy “phá điền than đến đàn dê...” hừ? Muốn hiểu ta phải xác định “dê là ai?” mà “phá điền” mới “than đến”... Trước kia các cụ nhầm ở chỗ không xác định đưc “dê là ai?” cứ suy diễn “dê là dương” là người Tây dương!... Nhớ rằng hai câu sau mới rõ nghĩa “dê đi dê lại tuồn luồn, đàn đi nó cũng một muôn phù trì!” vốn khẳng định cái tính chất quần sinh dân tộc... dân tộc nào cũng cứ “phù trì” cho dân tộc ấy! chữ “tuồn luồn” là chỉ cái tính cố hữu khó thay đổi của bất kỳ tộc người nào... ấy cho nên đàn dê cứ theo con đầu đàn, cũng giống như bên Tây người ta gọi lê dân, con chiên ngoan đạo là “bầy cừu của chúa” bầy cừu cũng như bầy dê vậy... Chính là ám chỉ những người dân lành... cứ “phù trì” cho quốc gia dân tộc mình một cách cố hữu... Thì đấy kẻ cầm đầu đàn dê “hô” đi xâm lược... là “đàn dê” cũng đi, ra “lệnh” tấn công là “đàn dê” cứ xông lên! Than ôi tính chất “một muôn phù trì của đàn dê”... phi lý tính, vô thiện cảm thật đáng thương!.. Lịch sử thế giới từ cổ chí kim, ít nhất là đến thời nay ta từng chứng kiến “kẻ cầm đầu-con đầu dàn” dẫn đàn, xua đàn dê này lấn át, xâm lược đàn dê khác mà cái sự “tuồn luồn... một muôn phù trì” vẫn diễn ra chỗ nọ chỗ kia thật cứ nhỡn tiền!... Thì đấy! Chữ “điền-田” bỏ ô vuông “phá điền” chỉ còn chữ thập “十”là “tung và hoành” là ám thị rằng thời loạn, can qua chỉ khổ cho đàn dê... tức cho dân mà thôi!? tiếp đến câu “hễ mà chuột rúc” tức như ta nôm na là “chuột thổi còi!”... Sao lại bảo thổi còi? Thì ta biết ngày 26-1-1973 Hiệp nghị Paris được ký kết, nhưng Âm lịch đó là ngày 23 tháng Chạp Nhâm Tí, vẫn thuộc về năm con chuột, và con “chuột rúc” là “đàn dê về chuồng” tức là theo Hiệp nghị, phía Mỹ phải rút hết quân ở Việt Nam về nước trước ngày 29-3-1973. Qủa đúng, theo lệnh người cầm đầu- con đầu đàn, quân Mỹ rút hết! ấy “...thì dê về chuồng” hử?...
    -Bác gỉai thích em nghe thật thủng? Có thế chứ! ông Cụ tôi vẫn bảo chỉ thằng Tía là suy đoán khá hơn, sau này hỏi nó!... Thế bác còn nhớ bài Sấm dài Cụ tôi đọc anh em mình đã nghe... “hoành sơn là lối ra vào...” chứ?
    -Có nhưng sau hẵng luận về mấy câu ấy!... Bây giờ “dê về chuồng...” thì cơ trời thế nào? Nhớ rằng có mấy câu Sấm “kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc, ngưu xuất lam điền nhật chính đông, nhược đãi ưng lai sư tử thượng, bốn phưng thiên hạ thái bình phong, 雞 盟 玉 受 天 傾 北, 牛 出 嵐 田 日 正 東, 弱 殆 應 來 溮 死 尚, 四 方 天 下 太 平 風”... Vậy là rõ “ngọc thụ” tức là ấn quốc bảo nghiêng về phương Bắc... là cái Cơ Trời nó thế... mới dạy rằng “thiên khuynh Bắc”... Còn “ngưu xuất lam điền” là gì? thì là năm 1973- Quý Sửu, Con Trâu xuất hiện, nhưng sao lại bảo là lam điền? Muốn hiểu thì phải biết Quý Sửu là năm- theo gốc địa chi... Thìn Tuất Sửu Mùi, vốn thuộc Thổ là con của Hoàng Đế, nhưng phép Ngũ Hành năm Nhâm Tý và năm Quý Sửu đều thuộc Tang Đồ Mộc, gỗ cây dâu, ta bắt gặp mấy câu của Đoàn Thi Điểm “...càng trông lại, lại càng chẳng thấy, thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu... ngàn dâu xanh ngắt một màu, lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Đó là nỗi buồn của người chinh phụ... hoặc theo cách nhìn nhân thế “cuộc đời bể dâu” Ta hình dung năm Quý Sửu là cánh đồng đất bát ngát, tang đồ mộc, ngàn dâu biêng biếc... và “ngưu xuất lam điền” làm nên một ngữ cảnh, ngữ cảnh ấy sẽ mở ra... Tiếp theo “nhật chính đông”. Sao lại bảo là nhật chính đông? Chỗ này trước hết phải hiểu thường nhật- thường ngày thì “nhật là ngày!” thế là: ngày chính đông? Vậy chính đông là gì? xin thưa ai đã quen dùng địa chi ở phép tính độn Thái Ât, hay phép Tử Vi, Hà Lạc thì hay dùng Tí Ngọ Mão Dậu- để chỉ Bắc Nam Đông Tây các phương vị Bát Quái, ấy thì “nhật chính đông” tức là “ngày chính Mão”. Đến đây tức khắc cần phải nhớ và cần phải biết “một ngày của Trời là một năm của đât!”... Vậy là “nhật chính đông” là ngày Mão, tất cũng là chính Thái ất.. ? hiểu ra: chính là Năm ất Mão mà năm Mão có điểm xuất phát là “ngưu xuất lam điền”... Đó là năm 1975- Ât Mão xuất phát từ “...lam điền” năm 1973- Quý Sửu, sau khi Chuột rúc “...dê về chuồng” vào năm 1972- Nhâm Tí (23 tháng chạp)... Đúng là một ngữ cảnh mở ra cái cơ trời trước mắt... “ngàn dâu xanh ngắt một màu!” biêng biếc mênh mang...
    -Eo ơi sao ông gỉai thích kéo cái nọ sang cái kia lê thê lề thề như gỡ bối chỉ ấy? Chúng cháu chả hiểu được... Mấy đứa bé tròn xoe mắt, thằng cháu đích của cụ Lý kêu lên! Ông Tía vội hét:
    -Để Bác nói cho mà nghe!.. các con muốn hiểu phải bảy bồ cám tám bồ bèo, hừm... mà phải nghe cái đã! hử?... Chà! Bác “lý” ra cái cơ vận... tuyệt thật! rõ là Sấm Ngài cứ tăm tắp ấy nhỉ... Không đọc sách làm sao mà biết... Bác gỉai tiếp đi...
    -Thì tôi cứ bắt chước các Cụ, cứ gẫm liên chi hồ điệp mà lại... Thế rồi “Nhược đãi ưng lai sư tử thượng” có vẻ khó hử? ấy nhưng câu này ta đọc lên phải lấy “Sư tử” làm chủ ngữ, thì “sư tử thượng” là gì? nôm na là con sư tử nhảy thượng lên một cái, nhưng cái trạng thái bùng lên, thượng lên ấy ngầm hiểu là trạng thái khiếp nhược đã bày sẵn... mới dạy là “nhược đãi ưng lai” như thể tự nguyện, như thể bằng lòng, như thôi kệ... muốn ra sao thì ra, hử?.. Đây là nói về cái cơ vận diễn biến mặc lòng... cho nên mới tiếp “bốn phưng thiên hạ thái bình phong” ấy là vào năm 1975- Ât Mão, thời điểm Chính thể Việt Nam Cộng Hòa bị nguy ngập đến thế, Bắc Việt tấn công từ mọi phía ào ạt đến thế, thế giới bấy giờ gần như bằng an... như “bất động” kể cả Mỹ cũng chẳng dòm ngó gì nữa, cũng thây kệ! Chà...chà! “Thiên hạ, đứng chào cờ im ắng, nào ai cứu vớt, qủa đúng “bốn phương...thái bình phong” tức đứng im mà nhìn, hử?... Thế là rõ cả chưa nào?
    -Đúng thế! Mỹ là nước trong cuộc cũng cứ tháo thân, mặc cho Việt Nam Cộng Hòa ra sao thì ra, chán lặc rồi hử? chính chúng ta cũng thấy lạ... hử? Sấm Trạng thực như mực hệt cả về sự mô tả ý nghĩa trạng thái, vận khí... ngữ cảnh! Ôi ai bảo là không có thiên cơ... Rồi sao nữa... Ông Cóc hỏi.
    -Thì đấy! Rồi ta biết cuộc tổng tấn công mùa xuân vào chính đông tức 1975- Ât Mão, sau hồi “chuột rúc, ngưu xuất lam điền” ngữ cảnh diễn ra là “ngọn cờ nhấp nhô đầu non...” ấy là “Quân Bắc Việt” từ trên thẳm rừng ngàn sâu đổ xuống như thác lũ, triều dâng, thần tốc, táo bạo... (theo Anmanach những nền Văn minh Thế Gíơi- NXB VH TT)... Bắt đầu chiến dịch Quảng Đà (29-3-1975), tiếp chiến dịch Tây Nguyên (từ 4-3 tới 3-4-1975) và đến chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26-4 tới 30-4-1975)... Số liệu theo đó gồm 15 sư đoàn+4 trung, lữ đoàn tăng thiết giáp+ 6 trung đoàn đặc công+ kỹ thuật+ hỏa lực... Tổng cộng 280.000 quân, 400 tăng thiết giáp, 420 pháo... Các mũi tiến công từ Xuân Lộc, từ Buôn Mê Thuột, từ Tây Ninh An Giang... hành tiến nhằm thẳng hướng Sài Gòn, ấy là “Thạch thành mèo lại bon bon chạy về”... Đến đây thì... cần biết thế nào là “thạch thành?” xin thưa: Ai từng học về Kiến trúc, Xây dựng chắc không thể không biết rằng nước ta có một cái thành cổ: Thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc Thanh Hóa, thành này được xây bằng đá, cổng thành cao rộng tới 8 mét, với những tảng đá nặng từ 2 tới 8 tấn chồng lên! được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ XV, là di tích đã được xếp hạng, xưa các cụ ta cũng quen gọi là Thạch Thành, trước kia địa phưng ấy tên hành chính cũng gọi là huyện Thạch Thành. Và ta thấy hiện ra trước mắt: chiến dịch Hồ Chí Minh, đúng vào năm ất Mão, năm con mèo!.. một sự trùng hợp kỳ lạ? ấy là “...mèo lại bon bon chạy về!”... Câu tiếp theo “đầy đường lai láng máu dê!” thì... sự đương nhiên, không khó hiểu lắm! máu dê hay máu dân? ấy là biết bao dân lành, chiến sĩ anh hùng đã hy sinh cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này để giành sự toàn thắng? lệnh, giờ phút quyết định, tiến! Và điều làm ta càng ngạc nhiên không thể tưởng tượng là câu tiếp “con quay ngả trắng ba que cuộc tàn!”... Một lời than, hay một sự kết cục của thiên cơ... Chẳng phi thế cờ đã kết thúc đấy ư? Sự thật đến lạnh lùng, thì đấy “con quay ngả trắng!” -trắng phớ giữa thanh thiên bạch nhật! Và kia lá cờ “vàng ba sọc đỏ” lá cờ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, biểu tượng của quẻ Càn, máu đỏ da vàng, với khí dương cương kiện, một thời kiêu hùng tung bay dưới trời Đông Nam á, vốn luôn bị mỉa mai là “lá cờ ba que”... thực sự hết vận! Qủa đúng như lời Sấm năm trăm năm trước “ba que cuộc tàn”... và “trời nam trở lại đế vương!...” thì tôi và ông đã được nghe Cụ Lý cùng các cụ ta suy gẫm cả rồi, hử... đúng chưa nào?
    -Đúng! Thật đúng đến cuộc tàn mới biết! Ông Cóc nói, chính chúng ta chứng kiến... Ai bảo là thêm thêm bớt bớt gì đâu? Sấm Trạng không thể sai được, toàn những câu bác và tôi đều đã nghe từ tấm bé, từ lúc còn điếu đóm... suy gẫm thế thì em chịu bác rồi!... Tôi nhớ là các cụ còn nhiều chỗ chưa gỉai thích được, như “tên treo ba mũi phục thù, khen thay khắc dụng bày trò chó con” là thế nào? sao lại “sông ô chấp cả mấy anh thủy hoàng ”.
    -Câu Sấm ấy tôi vẫn nhớ như in... Các cụ ta vốn nhầm ở chỗ cứ vận vào phép Bói Dịch, Độn Giáp... cho nên gẫm mãi không ra “khắc dụng” là thế nào, cứ luận hết thể dụng lại sinh khắc... Không ngờ Sấm Trạng đã mượn một câu truyện có thật trong Lịch sử.... Đó là câu chuyện về một nhân vật cụ thể Lý Khắc Dụng thời Đường bên Tàu... Xin ngược dòng lịch sử nước Tàu, khoảng năm 874-884 sau CN, nhà Đường đại loạn, có cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào, Vua Đường sai Lý Khắc Dụng, Tiết độ sứ Hà Đông và Chu Ôn, tiết độ sứ Tuyên Vũ đi đánh dẹp. Không ngờ Hoàng Sào đánh bại Chu Ôn và vây hãm trị sở Tuyên Vũ của Chu Ôn khiến Ôn phải cầu Lý Khắc Dụng đến gỉai cứu... Lý Khắc Dụng đã đánh bại Hoàng Sào, cứu được Chu Ôn... đến khi vào thành, Chu Ôn nảy ra mưu độc vờ bày tiệc đãi ân nhân, rồi chuốc rượu cho Lý say sỉn định giết đi. Lý Khắc Dụng nhờ đám tuỳ tướng tả xung hữu đột mà chạy thoát... Từ đó Lý vô cùng căm ghét Chu... Bấy giờ Quân Chu Ôn ngày càng lớn mạnh, Lý Khắc Dụng muốn cùng với Lưu Nhân Cung, vốn trước là một nha tướng của Lý, nhờ Lý tiến cử, nay cũng trở thành Tiết độ sứ Ung Châu, để đánh Chu Ôn, không dè Nhân Cung lại theo đuôi Chu Ôn mà chống lại Lý... Lý Khắc Dụng vô cùng bực tức bèn sang gặp Vua Kim kết nghĩa uống máu ăn thề tiêu diệt Ôn... khi Lý về bản doanh Vua Kim là Da Luật A Báo lại nuốt ngay lời hứa, thấy thanh thế quân Chu Ôn quá mạnh, quay sang liên kết cùng Chu tiêu diệt Lý... Tất cả những sự việc tráo trở ấy qủa thật đã àm Lý Khắc Dụng phải diêđầu. Khắc Dụng phảiượng sức phòng thủ chống lại Chu Ôn, rồi bực tức mà sinh bệnh... ny ra cái nhọt lớn trên người. Biết không qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo, trước khi chết, Lý Khắc Dụng gọi con là Lý Tồn Húc, đang làm bộ tướng, giao lại ấn tín và dặn dò “Chu Ôn là kẻ bất nhân, cuồng bạo Cha cứu hắn, hắn lại lấy oán tr ân; Lưu Nhân Cung là kẻ bất nghĩa, ăn lộc chủ mà theo giặc làm phn, Da Luật A Báo là kẻ bội tín, đã cắt máu ăn thề, nay lại nuốt lời theo giặc chống lại cha, con gắng luyện tập quân mã, tích trữ lưng thảo trả thù cho cha, tiêu diệt bằng được chúng, ba mối thù ấy không trả được thì dưới hoàng tuyền cha không thể nào nhắm mắt!...” Nói đoạn sai người lấy 3 mũi tên giao cho Lý Tồn Húc “ba mũi tên này con phải tiêu diệt ba tên giặc ấy và thế lực của chúng!” Sau đó Lý Khắc Dụng ho dốc... thổ ra huyết rồi chết.
    Lý Tồn Húc lo tang Cha chu đáo, đem ba mũi tên cho vào một túi gấm đẹp đặt lên bàn thờ nguyện thực hiện y lời! Khi đi đánh trận mang theo ba mũi tên bên mình, khi về lại đặt lên bàn thờ mà cầu nguyện... Sau 10 năm Lý Tồn Húc đã rửa hận cho cha, tiêu diệt cả ba thế lực kể trên, thu hồi toàn bộ đất đai của Chu Ôn, Lưu Nhân Cung, cả một phần đất do A Báo chiếm... Năm 923 Lý Tồn Húc lên ngôi Hoàng đế lập ra nhà Hậu Đường...
    -Vậy là câu chuyện có thật trong sử sách của bên Tàu, mà cái tên riêng rất dễ lẫn lộn vào hình thái của phép bói dịch, được Đức Trạng lấy làm dẫn đề cho một khổ Sấm... thì ra những ai ít hiểu biết về thông sử làm sao có thể hiểu nổi?... ngay lịch sử nước nhà các bậc túc nho cũng còn chưa hiểu hết nữa là? Ông Cóc bàn thêm với tôi... Nhưng bác có thấy lạ là Đức Trạng nêu lên như một sự so sánh của cái cách trả thù và xem ấy chỉ là “bày trò chó con!..” theo tôi chắc có uẩn khúc gì đây? Còn như ta hiểu đến tận cùng thì ấy là mạch lý của thiên cơ, thiên vận vậy! Bời thế Sấm có nhắc “thần cơ quy nỗ ở trời, làm thành thần khí thửa nơi trị trường!” phải vây chăng? thì ở đây Ngài cũng dạy “...bấy giờ quét sạch thú ly, ai ơi nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm, trong khi sấm chớp ầm ầm, chẳng qua có số để găm trị bình!” Ây là điều chúng ta cần triêm nghiệm? Mấy câu sau nữa thì bác gẫm ra sao?
    -Nói đúng lắm, bởi thế mà Sấm Trạng còn có câu “xem ra cũng bởi số trời, suy thông mới thấy sự đời nhường bao!” tức là hiểu ra, sự đời chỉ nhường ấy! Mấy câu sau thì như một điều răn vậy.. Sông Ô xưa cũng như bao dòng sông khác, chuyên chở nước nguồn để nuôi dưỡng trăm họ chứ đâu để nhấn chìm Hạng Vũ, một người vốn có sức mạnh phi thường nhấc được cái Vạc lớn ngàn cân chạy không biết mệt! ấy vậy mà hết số thì cũng tự mình đến với cái chết! Huống chi Tần Thủy Hoàng, bạo chúa dẫu lúc nào cũng lấy sự giết làm lẽ sống, kiêm tính thiên hạ! lại sợ chết sai người đi tìm thuốc trường sinh tận chân trời góc biển? Mà nào có thoát. Cho nên mới bo “thất phu dám chống thư sinh, Sông Ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng, nực cười những kẻ bàng quang, cờ tàn lại tính toan đường đấm xe?”. Cái xe cái pháo đắc lực một thời, với con người thì nghĩa cử làm trọng, có đâu khi tàn cuộc lại bắt chước cách chi cờ mà dùng mẹo đấm thí!... ấy là cái ẩn ý trong lời Sấm vậy! cho nên Ngài mới nói như buông thõng “thôi thôi mặc lũ thằng hề, gió mây ta lại theo về gió mây!”
    -Cho đến nay tôi và Bác vẫn gẫm mà chưa thể hết! Sấm Trạng thực tài... Chả trách Cụ tôi xưa suốt này trăn trở ngâm vịnh... Quyển Sấm lúc nào cũng gối ở đầu giường...
    .....
    Hi-Phòng 04-2008
    P.V.H
    ************************************



    Mậu tý diễn nghĩa – 2008
    Phạm Vũ Hội
    I/ Thiên tượng
    Khắp trời sùm sụp mù mưa.
    Miếng ăn là cái tranh đua tối ngày.
    Quen ngồi miệng tiếng biếng tay.
    Lại quen trấn đoạt tính này tật kia.
    Dê đàn tan tác ai xua.
    Lê dân thất vật sớm trưa dật dờ.
    “ Đáo tầm sử địa”* làm ng.
    Củi khô“Trư thử” ho chờ “Giang Đông”*
    Thế thời gậy đập lưng ông.
    “Thắt lưng lột lại” anh hùng đo điên .
    Chấn cung sấm động vang rền.
    Canh tân núi lửa hai miền lại reo.
    Giang sơn nên vững tay chèo.
    Chờ cơn gió thổi đặt lèo mà đi.
    II / Nhân sự
    Quỉ ma háo sự gầm ghì.
    Dê đàn lại húc đôi thì dậu thưa.
    Giêng, Hai đánh trống phất cờ.
    Ba,Tư sóng vỗ đôi bờ biển xanh.
    Chín, Mười vỗ xuống mặt thành.
    Làm cho nhốn nháo âm thanh hãi hùng.
    Đêm tàn Chuột chạy lung tung.
    Nghe từ Đông Bắc rùng rùng đạn bom.
    Nhất chu khí vận quay tròn.
    Thuỷ chung-chung thuỷ âm dưng chuyển hồi.
    III/ Thiên tặc
    Dầm dề giông bão khắp ni .
    Đại dương nước mặn đầy vơi lại tràn.
    Bắc phương gió lạnh khô khan.
    Nam phương hanh kiệt hồng hoang bãi bờ.
    Tây phương trời đất tối mù.
    Đông phương lửa gió xuân thu trái mùa.
    Thiên thời dịch khí đong đưa.
    Cuối niên động đất đuổi xua dân lành.
    TB . 10-4-2007-DL
    ________________________ 23-2 Đinh Hợi
    “ * ” Lẫy ý từ Sấm Trạng Trình
    Chiêm lịch 2008 – Mậu Tý
    Stt Ngày tháng
    Dương lịch
    Biến cố
    Binh cách Biến cố
    Ngũ tặc Phương vị
    (+ -1ngày)
    1 10 -2
    28-2
    18-3 Binh cách
    - Bùng nổ
    --------- Mưa lũ
    Bệnh dịch Tây Nam
    Tây
    2 27-3
    24-4
    22-5 Bùng nổ -
    Căng thẳng
    Xung đột Hạn
    Nóng Bắc
    Đông bắc

    3 31-5
    18-6
    6-7 Chiến tranh –
    Binh lửa
    Xung đột Hạn
    Dịch Bắc ...
    Tây bắc

    4 14-7
    12-8*
    10-9 Căng thẳng
    Hội họp Lũ
    Mù mịt Đông bắc
    Đông...

    5 18-9
    17-10
    15-11 Hội họp
    Tụ tập

    Động đất – Dịch
    ------
    Đông nam

    6 23-11
    23-12
    21-1-2009 ------
    Xung đột Động đất
    Sóng thần
    ------ Tây nam
    -----
    TB- 12/4/2007-DL
    (25/2Đinh Hợi )
    kỷ sửu diễn nghĩa – 2009
    Phạm Vũ Hội
    I/ Thiên tượng
    ý trời vốn đã đăng trình.
    “Đoài phương phúc địa giáng linh”theo dòng
    Ngày xưa đi cấy lấy công.
    Ngày nay lắm việc ngóng trông nhiều bề
    Trông cho dân trí hả hê.
    Chữ dân chữ chủ đuề huề chuyển xoay
    Trông cho khắp đó cùng đây.
    “ Cua còng đổi gọng ” sắp rày thửa nên
    “ Lục thất NON ngũ bách niên”.
    Mong trời bão táp chớ nên ầm ầm…
    “ Thiên sinh hữu nhất anh hùng”.
    Không ngoài “ hữu nhất” trừ hung diệt tà
    “ Tuệ tinh xuất đả Long Xà”.
    Hiển linh “tỵ tỵ gia gia ”ứng mùa…
    II / Nhân sự
    Cờ tàn mấy nẻo chịu thua?
    khéo cho con tạo vẫn xua dê đàn…
    Thiên xung bể Bắc đùng đoàng.
    Giêng hai sùng sục khói loang bụi mờ
    Bốn,năm,sáu gió thay mùa.
    Cơ yên địa lạc thắng thua lại đòi
    Chấn cung xao xuyến bồi hồi.
    Chữ rằng Hoàng Cái chực ngồi Quý phương
    Đông tây bôn tẩu dặm trường.
    Hỏa thiên tích lịch cảm đương tu về
    Người đi khắp chợ cùng quê.
    Bảo cho con cháu mau về gặp cha…
    III/ Thiên tặc
    Dè chừng gió giập mưa sa.
    Thiên thời thất vật lép xa lép gần
    Lửa thiêu mà nước rùng rùng.
    Chấn cung lắm cảnh ruộng đồng mênh mang
    Đoài phương lạnh tít cung thang-
    Khảm phương tuyết lở tuyết tan thêm nhiều
    Kim sinh thuỷ- Thuỷ cường triều.
    Thiên nhân hợp diệu sinh điều nghịch nhiên
    Bao giờ công trả lại thiên-
    Dở hay tạo hoá trắng đen mới tường...
    TB. 25-3-2008 ________________________ (18/2 Mậu tý)
    “ * ” Lẫy ý từ Sấm Trạng Trình
    Chiêm lịch 2009- Kỷ Sửu
    Stt Ngày tháng
    Dương lịch
    Biến cố
    Binh cách Biến cố
    Ngũ tặc Phương vị
    (+ -1ngày)
    1 11 -2
    03-3
    24-3 Binh cách
    --------------
    - Bùng nổ Hạn khô nóng
    Động đất - Bệnh dịch khí Đông-Nam
    ------------
    Tây Bắc - Tây
    2 02-4
    22-4
    11-5 Bùng nổ – binh lửa
    -------------
    Xung đột Khô hạn
    Gió lốc cuồng phong
    -------------- Tây Bắc
    Đông bắc
    Đông Nam
    3 23-5
    12-6
    02-7 ----------- Binh cách
    -----------
    ----------Chiến sự Nóng hạn
    -------------
    ---Gió lốc cuồng phong Bắc ...
    ------------
    Đông-Đôngbắc
    4 11-7
    01-8
    21-8 Binh lửa
    -----------
    ----------- Dịch bệnh khí
    --------------
    Lốc - Mưa lũ…. Tây Nam
    Đông nam
    Tây -Đông...
    5 31-8
    03-10
    04-11 ------------
    ------------
    -----------Chiến sự Lũ lụt-----
    Mưa lụt ---
    ---------- Bắc-Tây Bắc
    Đông-Đông bắc
    6 15-11
    18-12
    08-2-2010 Chiến sự
    ------------
    ------------ Động đất
    ------------
    Dịch----- Tây - Bắc
    Đông ----
    Nam ------
    TB- 25/3/2008DL
    (18/2Mậu tý )
    TB:Nguyên văn bài Sấm tôi được nghe từ những năm 1955-1960
    “Hoành sơn là lối ra vào!
    Cuốc kêu vọng đế Cáo gào Hà vưng
    cung trăng đã sẵn lời chương
    gió mưa lại mở một trường Xuân Thu...
    tên treo ba mũi phục thù
    Khen thay khắc dụng bày trò chó con...
    ngọn cờ nhấp nhô đầu non
    thạch thành mèo lại bon bon chạy về
    đầy đường lai láng máu dê
    con quay ngã trắng ba que cuộc tàn...!
    Trời Nam trở lại đế vương
    thân nhân không phải là phường thầy tăng
    đồng dao đã có câu rằng
    non xanh mà mọc trắng căng mấy kỳ
    bấy giờ quét sạch thú ly!...
    ai ơi nhớ lấy Sấm ghi kẻo lầm!
    trong khi Sấm chớp ầm ầm
    chẳng qua có số để găm trị bình
    thất phu dám chống thư sinh
    sông Ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng...
    nực cười những kẻ bàng quang
    cờ tàn lại tính toan đường đấm xe
    thôi thôI mặc lũ thằng hề
    gió mây ta lại theo về gió mây!...”
    Nhân việc thực địa lập quy hoạch khu di tích Trạng Trình
    (Chép lại tại Hải Phòng năm 2000-Phạm Vũ Hội)


    .
    Last edited by dienbatn; 19-05-2008 at 01:17 AM.
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  14. #34

    Mặc định

    Dạo này bác đi đâu lâu quá vậy ta. Lâu lâu, bác cho bon em một bãi thế này cũng được. Quả là Voi ị nó cung phải khác bác nhỉ hihi.
    Nhưng mà bác cũng phải nhớ là bác đẻ ra Hội thì rồi bác cũng phải quan tâm đến nó tý chứ nhỉ.
    Vài lời tếu táo mong bác và mọi người ko chấp.

  15. #35

    Mặc định

    Bác lại con rận rồi hay sao mà chẳng thấy post tiếp bài gì nữa. Bác có giận thì giận em thôi nhé, chứ để cho Anh/ Chị em trong DD mất nhờ thì chắc em chẳng gánh nổi đâu hihi.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •