Phần 01
Thiếu Thời - Quá Khứ Còn Mờ Ảo
Hôm ấy, ngồi đọc Kinh Sử, từ sáng sớm cho đến khi ánh nắng chỉ còn thấp thoáng ngoài dại nứa hiên nhà, tự nhiên chàng trẻ tuổi Chu Văn An thấy thấm mệt hơn mọi ngày.
Qua kẽ hở của dại nứa, một con gà mái, vuốt chân cần mẫn bới cỏ, chốc chốc lại cục cục gọi đàn gà con, lông tơ vàng mịn, mỏ kêu chiếp chiếp, chạy theo đúng chỗ gà mẹ vừa vạch cỏ giữ mồi. Phía xa, cạnh bờ rào dâm bụt, con trống sục vào sát rễ dâm bụt, cũng cục cục mấy tiếng. Vài chú gà con lớn hơn, nhanh chân chạy lại chỗ gà bố, tranh nhau mấy con sâu đang ngoe ngoảy chạy trốn, nhưng vô ích.
Ý tứ trang sach Kinh Sử len lỏi trong đại não, mà chưa bừng sáng, chưa khám phá được chìeu sâu chữ nghĩa, Văn An như phân tán tư tưởng khi nhìn đàn gà, cảnh gà bố gà mẹ cả ngày quanh quẩn tìm mồi ít ỏi để nuôi con.
Lúc ấy, bà Lê Thị Chiêm, về chợ và vào đến cổng, đầu đội thúng gạo, tay cắp bó bã mía. Hình ảnh này, quá quen thuộcvới Chu Văn An. Chàng thừa hiểu ràng, sáng tinh mơ mẹ đi chợ, cái thúng úp trên vai, trong thúng lục cục chỉ có cái đấu mang theo. Có gì đâu, những ngày nông nhàn, mẹ chạy chợ kiếm thêm.
Vốn liếng chẳng có, nhưng nhờ xốc nổi tháo vát, phiên chợ nào cũng vậy, bà đến chỗ người ta lấy thóc nhà ra xay, giã thành gạo bán để mua chịu. Bà Chiêm vục đấu vào đong, đinh giá và sang thúng. Rồi bà nhanh chân, đội thúng gạo ra một phía khác dãy hàng gạo, chờ khách. tính mau mắn, cứ lãi chút ít, bà lại sang thúng bán cho n gười đến chợ chậm hơn. Còn bã mía, bà nhặt ở chợ, bó lại về phơi, tiết kiệm rơm.
Như đã quen biết và thành lệ tin cậy, dù bà chưa có tiền trả người ta vẫn bán gạo trước cho bà, vì họ dư giả hơn, tranh thủ mua sắm, đến khi họ xong việc thì cũng vưa hay bà gặp họ, trả tiền sòng phẳng. Hình như bà Chiêm có duyên bán hàng, nên mỗi phiên chợ, bà cứ vòng quay động tác ấy, chỉ vài lần, đã thúng rỗng mang về. Khác buổi tinh mơ, đi chợ về là có đấu gạo, sóc cua và mớ cá vụn, nhưng còn tươi, đủ hai bữa thức ăn cho mẹ con.
Bà Chiêm đã vào đến sân, Văn An cũng vừa đến chỗ mẹ.
- Mẹ để con đỡ thúng xuống cho nào.
- Dào ơi, thời buổi làm ăn, ngưoiừ khôn của khó, có lẽ mẹ sẽ làm hàng sáo, chịu khó kiếm bữa cho mẹ con ta, mẹ làm được mà!
Cả gà trống, gà mái mẹ, dẫn đàn gà con đi xa hơn, ra phía cổng đầu ngõ, trông vui mắt và hạnh phúc. Trở lại với cảnh đời thường, Văn An rộn lên nỗi thương mẹ và không dấu diếm xúc cảm:
- Mẹ, mẹ quá vất vẻ vì con!
- Dào ơn, con cứ hay nói thế, hoàn cảnh mẹ con ta, mỗi người gắng mỗi việc. Rồi bà âu yếm: mẹ hết lòng nuôi con thành người, còn con hết lòng vào dùi mài kinh sử, đời con được rạng rỡ, mẹ cũng được thơm lây!
- Mẹ, con vẫn thường ghi nhớ lời mẹ dạy, mẹ hãy tin tưởng ở con.
Bà Chiêm như đựoc động viên, nói:
- Khi dạy con, cha con thường chú ý đến đạo học và đạo hiếu...
Bà ngừng nói, nét mặt vương vất trầm tư. Biết cha vắng nhà từ lâu không về, khôgn biết biết vì công việc hoặc gặp rủi ro gì, mẹ nén buồn và dốc vào nuôi mình ăn học. Văn An cả ngày chăm chỉ dùi mài kinh sử.
Hơn lúc nào hết, Văn An thấm thía, anh cởi mở với mẹ:
- Cha con vắng nhà, nhưng con luôn nhờ đến đạo hiếu cha con dặn, mà mẹ cũng vừa nêu.
Những năm tháng làm bạn với chồng, bà cũng thường được nghe chồng nói với Văn An. Dù bà không biết chữ, nhưng tấm lòng người vợ đối với chồng, tấm lòng người mẹ đối với con, từ cõi lòng chân thành, trong sáng của mình, bà cũng thường nói được những lời hay lẽ phải với con, không trái ngược với đạo thánh hiền mà con bà vẫn đọc. Và hôm nay, chạy chợ may mắn kiếm được hơn đấu gạo, gnhe Văn An nhắc đến đạo hiếu, bà như tự dốc lòng bà ra, phụ họa với con để giữa mẹ con, có sự hiểu nhau hơn.
- Chắc concòn nhớ, khi dạy con đạo hiếu, cha con thường nói: "Làm người, chữ hiếu là cái gốc của tất cả đức hạnh, hiếu thảo với cha mẹ và tôn kính anh em, là thuận với đạo đức.
- Con luôn ghi nhớ điều đó: Người xưa nói, lấy hiếu thảo để cai trị thiên hạ, như vậy từ các vị hoàng đé và các quan trong triều đến các chức sắc ở huyện, xã, hương đều phải coi trọng đạo hiếu.
Ánh mắt bà Chiêm như sáng lên, Văn An phấn khởi cởi mở, coi đó là niềm vui và sự cảm giữa mẹ con của một nhà có gia pháp.
- Mẹ ạ, sách xưa còn dạy: bậc trung thần xuất phát từ con người có hiếu, một con ngưoiừ trong nhà không hiếu thảo với cha mẹ sinh ra và duỡng dục làm sao có thể trở nên một tôi trung. Ý tứ của cổ nhân thật là thấu đáo.
Hiểu tâm sự con, bà Chiêm động viên:
- Mẹ không được ăn học, con nhớ sach, hãy bảo cho mẹ nhớ.
- Mẹ ạ, mẹ biết không, câu dó ở sách Luận ngữ, vốn ban đầu là ghi chép câu nói của Đức thánh Khổng Tử với các học trò. Sau, Đức thánh qua đời, các đệ tử của ngài chỉnh lý và Luận ngữ trở thành trước tác kinh điển của Nho gia đời sau.
Chợt nhớ, đi sâu giảng giải sách Luận ngữ cho mẹ, chỉ làm mẹ rối trí và mất thời giờ của mẹ, Văn An đi thẳng vào câu nói kinh điển:
- Mẹ ạ, câu con nói lúc nãy chính là câu chữ Nho: Trung thần tất xuất ư hiếu tử chi môn. Nghĩa là hiếu là cái đức cao nhất mà vua, tôi, kẻ sĩ và thân dân đều phải đề cao và thi hành.
Bà Chiêm mừng rỡ, thâm tâm bà nghĩ, con bà có chí, có tâm, sau này, có nhắm mắt xuôi tay, bà cũng vui lòng, vui dạ. Nghĩ thầm trong bụng thôi, bà đánh trống lảng:
- Kìa, nắng đã chiều gần khắp sân, mẹ còn đi làm cơm sáng cho mẹ con ta ăn.
Nhớ đến giờ này cho đàn gà ăn thêm, bà đứng ở hàng hiên, vãi ít thóc, miệng gọi: chích - chích... bập... bập... Cả con trống, con mái cùng đàn gà con lục tục kéo về. Lấy mỏ quệt thóc lên nền sân gạch, con mái vừa mổ thóc vừa chọn lựa, được hạt thóc mẩy thì cục - cục gọi con, gà mẹ lại ra chỗ thóc khác.
Văn An, cũng ở hàng hiên, bên trong dại nứa, không chán mắt nhìn những chú gà con tranh nhau ăn. Mỗi khi nghe tiếng cục - cục của gà bố hoặc gà mẹ, chúng ùa ra, xô đẩy nhau, non nớt, mảnh khảnh, vui mắt làm sao!
Lúc ấy, một người đàn ông khăn xếp, áo the đã sờn, quần trắng đã ngả sang cháo lòng, từ cổng bước vào sân, theo sau là một chú bé, tóc húi trọc, chỉ để hai trái đào.
Văn An hơi sửng sốt, nếu là người làng quê mẹ, thì anh đã biết. Được mời vào nhà, người đàn ông, mựon cái đĩa cẩn thận xếp lá trầu, quả cau và gói chè. Hai tay chắp trước ngực một cách trịnh trọng, trong khi chú bé vẫn chốn tay vịn mép tràng kỷ, ông lễ phép nói từng tiếng một:
- Thừa thầy, nghe nói thầy sắp mở tràng, tôi có cơi trầu, lòng thành xin thầy cho cháu thọ giáo. Văn An, tai vẫn chăm chú nghe, mắt đưa ngang nhìn cậu bé chống tay, vịn tràng kỷ.
- Kìa con, khoanh tay vào chứ, người đàn ông nhạy bén bảo con. Cậu bé ngoan ngoãn làm theo, đứng thẳng người trước thầy Văn An, hai tay khoanh trứoc ngực, đầu hơi cúi. Văn An nhìn cậu bé:
- Con người ta, học chữ đã khó, nhưng cái khó hơn là phép tắc, chữ lễ, phải rèn luyện và thực hiện suốt đời. Bởi vậy, ông cha ta mới có câu răn dạy học trò đến trường: tiên học lễ, hậu học văn!
Nhìn người đàn ông, Văn An hỏi:
- Sao bác biết tôi sắp mở tràng?
- Tài học của thầy, đạo đức của thầy lừng danh khắp tổng ta, khắp huyện ta, ai cũng cầu mong con cháu đuợc thọ giáo thầy mới yên tâm.
Văn An, cầm chén trà, mời ông ngồi, vui vẻ:
- Ông xấp giọng.
Rồi thủng thẳng:
- Việc mở tràng quả tôi cũng đang tính, phong tôi nơi ấy, tôi đã coi kỹ.
Người đàn ông như đoán được ý thầy:
- Dạ, tôi thấy phong thủy nơi thầy chọn đẹp lắm, làng trên, xóm dưới, ngay cả làng bên cạnh đều khen thầy tinh đời chọn nơi dựng tràng đấy ạ.
Văn An vẫn bình thản và thủng thẳng nói:
- Tôi vẫn nhớ câu Đức thánh Khổng Phu Tử: Phong hồ Vũ vu, dục hồ Nghi, ý nói nơi dạy học của Đức thánh phải là nơi: Hóng gió ở đàn Vũ vu, tắm ở sông Nghi. Cái đó là tính khoáng đạt của Đức Thánh, coi nơi dạy học phải là nơi mở rộng tầm nhìn của các trò, để nghĩa chữ từ sách vở Thánh hiền chắp cánh bay xa.
Mời khách cạn chén trà và tiếp thêm chén trà ngám, bốc khói, Văn An cũng rót chén trà cho mình, xấp giọng rồi nói:
- Tôi đi tìm và cân nhắc mãi, nơi tràng sắp làm là ở cồn đất giáp hai làng. Nhà học, phía trước giáp hồ, có cái tầm thú vị "phong dục vinh quy" như Đức thánh dạy. Tôi tin tưởng từ đất tràng, chí nguyện học lễ trước mới học văn sách sau, các trò ắt thành đạt làm nên người xứng đáng.
Ông khách đứng dậy, xin phép cáo lui. Nhìn trò mới vẫn khoanh tay, đầu hơi cúi, Văn An lòng có chút hồ hởi, bảo cậu bé sắp vào trường:
- Thầy cho phép con bỏ tay xuống ra về với cha, chờ làm xong tràng , khai giảng con đến, nhớ câu: Tiên học lễ, hậu học văn đó!
Chờ hai cha con người xin học ra khỏi cổng, bà Chiêm qua đầu sân, từ bếp lên nhà. Có lẽ nghe câu đuowjc câu chăng, bà Chiêm đoán được việc, hỏi ocn:
- Con định mở trang sao? Thi cử là cái thang để bước lên danh vọng, ý con khác sao?
Văn An ôn tồn:
- Bao giờ con cũng nghĩ mẹ quá vất vả vì con. Nhưng đạo học, dạy người ích lợi rộng rãi hơn cái mũ cánh chuồn:
Văn An không ngờ mẹ lại nói:
- Mẹ có cái thiệt thòi là phận gái không được ăn học. Đến lúc lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng, lại không may ông ấy đi xa biền biệt. Mẹ tin tưởng cha con là người có học, ông ấy biết cư xử làm gương cho con cái và giữ được phép nước. Con có chí hướng thế, mẹ chỉ mong con kiên trì như con thường bảo mẹ: đạo hoclớn và sâu lắm, đỗ đạt làm quan ấy là sung sướng riêng cho bản thân. Nhưng dạy người, người học tấn tới là đạo đức, điều ích lợi này quý bao nhiêu cho đất nước!
Cặp mắt Văn An ánh lên tia sáng tự hào và cảm động, Văn An hơi luống cuống trong niềm vui trong trẻo, sâu lắng:
- Mẹ... mẹ, con cám ơn và ghi nhớ lời mẹ!
Bookmarks