kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: ban tay anh sang(phan 2.2)

  1. #1

    Smile ban tay anh sang(phan 2.2)

    Barbara Ann Brennan

    BÀN TAY ÁNH SÁNG

    Dịch giả : Lê Trọng Bổng

    CHƯƠNG 7A




    TRƯỜNG NĂNG LƯỢNG CON NGƯỜI HAY HÀO QUANG CON NGƯỜI
    Trường năng lượng con người là biểu hiệu của năng lượng vũ trụ có liên quan mật thiết với đời sống con người. Nó có thể được mô tả như là một cơ thể sáng rực bao quanh và thâm nhập vào thân thể, phát ra các bức xạ đặc thù của riêng nó và thường được gọi là “hào quang”. Hào quang là cái phần của vũ trụ kết hợp với các đối tượng.
    Hào quang con người hay trường năng lượng con người là cái phần của năng lượng vũ trụ kết hợp với thân thể.
    Các nhà nghiên cứu, dựa vào những quan sát của mình, đã tạo ra những mô hình lý thuyết phân chia hào quang thành mấy vầng. Các vầng nầy đôi khi được gọi là cơ thể, chúng thâm nhập và bao quanh thành từng vầng liên tục.
    Mỗi cơ thể kế tiếp gồm những chất tinh khiết và có “rung động” cao hơn của cơ thể mà nó bao quanh và thâm nhập.
    Tập nhìn thấy hào quang con người.
    Cách dễ nhất để bắt đầu cảm nhận trường năng lượng con người là tập như sau: Nếu bạn ở trong một nhóm người, hãy cầm tay nhau thành vòng tròn và nắm tay lại. Hãy để cho năng lượng trường hào quang của bạn chảy xung quanh vòng tròn. Hãy cảm nhận dòng chảy phập phồng đó một lát. Nó đang đi theo lối nào? Hãy nhìn xem người đang ở bên cạnh bạn cảm nhận đó bằng cách nào. Có tương quan nhau không?
    Bây giờ, vẫn không thay đổi vật gì và không động tay, bạn hãy ngắt dòng chảy năng lượng lại. Giữ như thế một lát (mọi người cùng lúc), rồi để cho năng lượng chảy tiếp. Hãy làm thử lần nữa. Bạn có cảm thấy được chỗ khác nhau không ?
    Bạn thích cái nào hơn? Lúc nầy hãy cùng với một người bạn nào đó cùng làm tương tự như trên.
    Hai người hãy ngồi đối diện, hay lòng bàn tay áp vào nhau. Để cho năng lượng chảy tự nhiên. Nó đi theo đường nào? Hãy phát năng lượng ra khỏi lòng bàn tay trái; đoạn để nó đi vào tay phải. Rồi làm ngược lại. Xong ngắt dòng chảy. Bạn hãy thử cùng một lúc đẩy dòng chảy ra khỏi cả hai tay. Đoạn hút nó vào cả hai tay một lúc. Các động tác đẩy, kéo và ngừng là ba biện pháp cơ bản để thao tác năng lượng trong chữa trị. Hãy thực hành các động tác đó.
    Bây giờ bạn hãy buông tay ra; giữ hai lòng bàn tay xa nhau khoảng 2-5 in; từ từ đưa tay ra ra vào vào, tăng giảm khoảng cách. Hãy tạo ra một cái gì đó giữa hai bàn tay. Bạn có cảm nhận được nó không? Nó giống cái gì? Hãy đưa hai tay ra xa nhau hơn, khoảng 8-10 in,rồi từ từ đưa lại gần nhau cho đến khi bạn cảm thấy có một sức ép đẩy hai tay bạn trở lại làm cho bạn phải ráng thêm một chút mới áp được hai tay vào nhau.
    Lúc nầy, bạn đã áp các rìa cơ thể năng lượng của mình với nhau. Nếu tay bạn cách nhau 1-1 ¼ in là bạn đã áp rìa các cơ thể etheric của mình (vầng đầu tiên của hào quang). Nếu tay bạn cách nhau 3-4 in là bạn đã áp các rìa ngoài cơ thể cảm xúc của bạn (vầng thứ nhì của hào quang).
    Lúc nầy bạn hãy hết sức thận trọng đưa hai tay vào gần nhau hơn nữa cho đến khi bạn có thể thực sự cảm thấy rìa nngoài cơ thể cảm xúc của bạn hay trường năng lượng bàn tay phải áp ào da bàn tay trái. Hãy đưa lòng bàn tay phải gần lòng bàn tay trái thêm khoảng một in. Hãy cảm nhận hiện tượng ngứa ran trên mu bàn tay trái khi mà rìa trường năng lượng của bạn áp vào đó. Trường năng lượng của bàn tay phải đã xuyên đúng qua bàn tay trái của bạn!
    Giờ thì bạn lại đưa hai tay ra xa nhau hơn và giữ khoảng cách chừng 7 in. Hướng ngón trỏ phải vào lòng bàn tay trái, sao cho đầu ngón cách lòng bàn tay độ ½-1 in. Lúc nầy bạn hãy vẽ nhiều vòng tròn lên lòng bàn tay. Bạn cảm thấy gì? Nó có làm cho bạn nhột không? Cái gì vậy ?
    Trong ánh sáng mờ mờ của căn phòng, bạn hãy giữ bàn tay bạn sao cho các đầu ngón tay hướng về từng người. Giữ hai tay trước mặt mình ở khoảng chừng 2 feet. Đảm bảo có một bức tường nhẫn màu trắng làm nền phía sau. Hãy để cho mắt thư giãn và dịu dàng nhìn chăm chú vào khoảng trống giữa các đầu ngón cách xa chừng 1-1 ½ in. Đừng nhìn vào ánh sáng chói chang. Hãy để cho mắt thư giãn. Bạn thấy gì không? Đưa các đầu ngón tay lại gần nhau rồi xa nhau hơn nữa. Điều gì xẩy ra ở khoảng cách giữa các ngón? Bạn thấy gì xung quanh bàn tay? Hãy nhẹ nhàng đưa môt bàn tay lên phía trên, bàn tay kia xuống duới, sao cho các ngón ở tay nọ hướng về các ngón ở tay kia. Lúc nầy có xẩy ra điều gì không? 94% số người làm thử bài tập nầy nhìn thấy một cái gì đó. Tất cả mọi người cảm nhận một cái gì đó. Về những câu trả lời cho các câu hỏi trên, xin tham khảo phần cuối chương nầy.
    Sau khi bạn thực hành các bài tập nầy và các bài tập ở chương 9 quan sát hào quang của người khác, bạn có thể bắt đầu nhìn thấy vài vầng đầu tiên như hình 7-1A. Muộn hơn, sau khi bạn đã quen nhìn thấy các vầng thấp, bạn có thể thực hành các bài tập nhận thức bằng tri giác cao cấp như mô tả trong các chương 17, 18, 19. Khi đuợc khai mở hơn con mắt thứ ba (luân xa 6), bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy các vầng cao hơn của hào quang (hình 7-1B).
    Đến đây, khi phần lớn chúng ta đã cảm nhận, nhìn thấy và trải nghiệm các vầng thấp của hào quang, xin hãy tiếp tục mô tả chúng.


    Giải phẩu hào quang
    Có nhiều hệ thống mà người ta đã tạo ra từ những quan sát của họ để xác định trường hào quang.
    Tất cả hệ thống nấy đều chia hào quang thành vầng và xác định vị trí, màu sắc, độ sáng, hình thù, mật độ, độ lỏng và chức năng. Mỗi hệ thống đều hướng về loại công việc mà cá thể đang “tiến hành” với hào quang.
    Có hai hệ thống giống với hệ thống của tôi nhất: hệ thống do Jack Schwarz sử dụng, gồm hơn bảy vầng, và được mô tả trong cuốn cũa ông nhan đề.
    Các hệ thống năng lưọng con người; và hệ thống do Đức Rosalyn Bruyère thuộc Trung Tâm chữa trị bằng ánh sáng, Glendale, California, sử dụng. Hệ thống nầy gồm bảy vầng và đưọc mô tả trong cuốn sách của tác giả nhan đề Bánh xe ánh sáng, công trình nghiên cứu về luân xa .
    Bảy vầng của trường hào quang
    Tôi đã quan sát thấy bảy vầng của hào quang trong thời gian làm việc với cương vị cố vấn và cương vị thầy chữa.
    Lúc đầu, tôi chỉ nhìn thấy được các vầng thấp, phần lớn đậm đặc và dễ thấy. Càng làm việc lâu, tôi càng thấy được thêm các vầng khác. Vầng càng cao thì tôi càng phải bành trường ý thức của mình thêm để cảm nhận nó. Nghĩa là nhằm mục đích nhìn thấy các vầng cao hơn, như vầng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, tôi phải đi vào trạng thái thiền định, thường là nhắm mắt. Sau nhiều năm thực hành, thậm chí tôi đã bắt đầu thấy vượt qua cả vầng thứ bảy, như sẽ được luận bàn ngắn gọn ở cuối chương nầy.
    Các quan sát về hào quang cho tôi thấy một mô hình trường nhị nguyên thú vị. Các vầng khác của trường có cấu trúc cao, tựa như những làn sóng đứng của các mô hình ánh sáng, trong khi các vầng ở khoảng giữa hiện ra gồm các chất lỏng có màu chuyển động liên tục. Những chất lỏng nầy chảy qua một hình thái dựng nên bởi những làn sóng ánh sáng đứng lung linh. Hướng của dòng chảy phần nào được hình thái ánh sáng đứng điều khiển, vì chất lỏng chảy dọc theo các vệt ánh sáng đứng.
    Bản thân những hình thái ánh sáng đứng cũng lóng lánh, y như thể chúng gồm có những sợi dây của nhiều ánh sáng nhỏ xíu, nhấp nháy dồn dập, mỗi cái nhấp nháy theo một tốc độ khác nhau. Những vệt ánh sáng đứng nầy hiện ra có những vật mang nhỏ xíu chuyển động dọc theo chúng.
    Như vậy, các vầng thứ nhất, thứ ba, thứ năm và thứ bảy đều có cấu trúc rõ ràng, trong khi các vầng thứ hai, thứ tư và thứ sáu gồm những chất tựa lỏng không có cấu trúc đặc thù. Chúng đảm nhiệm hình thái là do chúng chảy qua cấu trúc của các vầng số lẻ và vì vậy phần nào đảm nhiệm hình thái của các vầng có cấu trúc.
    Mỗi vầng kế tiếp thâm nhập hoàn toàn vào tất cả các vầng bên dưới nó, kể cả thân thể. Vì vậy cơ thể cảm xúc lan ra quá cơ thể etheric và bao gồm cả cơ thể etheric lẫn thân thể. Thực tế, mỗi cơ thể không hề là một “vầng", dù rằng đó là cái ta có thể nhìn thấy. Đúng hơn, nó là dạng bao quát hơn của bản thân chúng ta vốn mang sẵn bên trong mình những hình thái khác hạn chế hơn.
    Từ quan điểm của nhà khoa học, có thể coi mỗi vầng như một mức của các rung động cao hơn, chiếm lĩnh cùng khoảng không như những mức rung động phía dưới nó và vượt ra xa hơn. Để nhìn thấy được từng mức tiếp liền nhau, người quan sát phải tiến lên với ý thức về mỗi mức tần số mới. Vậy là ta có bảy cơ thể, tất cả chiếm cùng một khoảng không vào cùng một thời điểm, cái nào cũng vượt ra quá cái kế bên, điều mà chúng ta không quen trong đời sống “bình thường" hằng ngày. Nhiều người nhầm lẫn coi hào quang như một củ hành có thể bóc ra thành từng lớp liên tiếp. Không phải như vậy.
    Các vầng có cấu trúc chứa đựng mọi hình thái mà thân thể có, kể cả nội tạng, mạch máu … và những hình thái bổ sung mà trong thân thể không có. Có một dòng chảy năng lượng thẳng đứng rung động bên trên và bên dưới trường hào quang trong tủy sống. Nó vượt quá ra ngoài thân thể, phía trên đầu và phía dưới xương cụt. Tôi gọi nó là dòng năng lượng chủ yếu. Có những cuộn xoáy hình nón xoay tròn mệnh danh là các luân xa trong trường hào quang. Chóp của chúng hướng vào bên trong dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu và nền khai mở của chúng kéo dài tới rìa từng vầng của trường hào quang nơi chúng khu trú.
    Bảy vầng và bảy luân xa của trường hào quang
    Mỗi vầng hiện ra khác nhau và có chức năng đặc thù cho mỗi vầng. Mỗi vầng hào quang kết hợp với một luân xa. Nghĩa là vầng thứ nhất kết hợp với luân xa 1, vầng thứ hai với luân xa 2, và cứ thế.
    Đây là những khái niệm chung sẽ phức tạp hơn khi ta nghiên cứu sâu thêm vào chủ đề này. Còn bây giờ chỉ liệt kê danh sách để cung cấp cho bạn một cái nhìn chung toàn cục.
    Vầng thứ nhất của trường hào quang và luân xa 1 kết hợp với hoạt động thể chất và cảm xúc-cảm tính thể chất, sự đau đớn thể chất hay niềm vui. Vầng thứ nhất kết hợp với hoạt động tự động và tự quản của thân thể.
    Vầng thứ hai và luân xa 2 thường kết hợp với dạng cảm xúc của con người. Chúng là những cỗ xe qua đó ta có đời sống cảm xúc và các cảm nghĩ.
    Vầng thứ ba kết hợp với đời sống tâm thần, với tư duy tuyến tính.
    Vầng thứ tư kết hợp với luân xa tim, là cỗ xe qua đó ta có yêu thương, không chỉ có vợ chồng mà có cả nhân loại nói chung . Luân xa bốn là luân xa chuyẻn hóa năng lượng yêu thương.
    Vầng thứ năm là mức kết hợp với một ý chí cao cấp có quan hệ chặt chẽ hơn với ý chí siêu phàm. Luân xa năm kết hợp với sức mạnh của lời nói, sự phát biểu mọi điều vào trong tồn tại, lắng nghe và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vầng thứ sáu và luân xa 6 kết hợp với yêu thương thượng giới. Nó là yêu thương vượt ra khỏi giới hạn yêu thương của con người và ôm lấy mọi cuộc đời. Nó tạo nên sự bày tỏ quan tâm và ủng hộ việc bảo vệ và dinh dưỡng mọi cuộc đời. Nó giữ cho mọi hình thái cuộc đời như là những biểu hiện quí giá nhất của Thượng đế.
    Vầng thứ bảy và luân xa 7 kết hợp với trí tụê bậc cao, hiểu biết và sự hợp nhất bản chất tâm linh và thể chất.
    Như vậy là có các vị trí đặc trưng bên trong hệ thống năng lượng con người về cảm giác, xúc cảm, ý nghĩ, ký ức và những trải nghiệm phi thể chất khác mà ta kể lại cho các thầy thuốc của mình. Việc hiểu được các triệu chứng thể chất liên quan như thế nào với những vị trí ấy sẽ giúp ta hiểu bản chất của các bịnh khác nhau cũng như bản chất sức khỏe và bịnh tật. Thế thì việc nghiên cứu hào quang có thể là nhịp cầu giữa y học truyền thống và những trăn trở tâm lý học của ta.

    Như vậy là có các vị trí đặc trưng bên trong hệ thống năng lượng con người về cảm giác, xúc cảm, ý nghĩ, ký ức và những trải nghiệm phi thể chất khác mà ta kể lại cho các thầy thuốc của mình. Việc hiểu được các triệu chứng thể chất liên quan như thế nào với những vị trí ấy sẽ giúp ta hiểu bản chất của các bịnh khác nhau cũng như bản chất sức khỏe và bịnh tật. Thế thì việc nghiên cứu hào quang có thể là nhịp cầu giữa y học truyền thống và những trăn trở tâm lý học của ta.

    Vị trí của bảy luân xa


    Vị trí của bảy luân xa chính trong thân thể được trình bày ở Hình 7-2A tương ứng với bảy đám rối thần kinh chính của người trong từng vùng thân thể.
    BS David Tanseley, chuyên viên về bức xạ học, trong cuốn sách của mình nhan đề Bức xạ học và các cơ thể tinh tế của con người, nói rỏ rằng bảy luân xa chính được hình thành tạI những điểm mà ở đó các vạch ánh sáng thẳng đứng giao nhau 21 lần.
    21 luân xa phụ khu trú tại những điểm mà ở đó các thành phần năng lượng giao nhau 14 lần ( Xem Hình 7-2B ). Chúng khu trú lần lượt như sau: 2 trước tai, 2 trên vú, 1 tạI nơi hai xương đòn gặp nhau, 2 trong lòng bàn tay, 2 ở gót chân, 2 ở ngay phía sau mắt ( không có trênhình vẽ )

    hình 2



    Hình 7-2: Vị trí các luân xa
    ( Tài liệu chuẩn đoán )
    2 liên hệ với cơ quan sinh dục, 1 cạnh gan, 1 liên kết với dạ dầy (bao tử), 2 liên kết với lách, 2 ở khoe chân (sau đầu gối), 1 cạnh tuyến ức và 1 cạnh đám rối thái dương. Các luân xa này có đường kính khoảng 3 in tại nơi cách mặt da 1 in.
    Hai luân xa phụ ở lòng bàn tay rất quan trọng trong chữa trị. Nơi mà các vạch năng lượng giao nhau 7 lần, còn có những cuộn xoáy nhỏ hơn được tạo ra.
    Có nhiều trung tâm năng lượng tí xíu tại những nơi mà các vạch năng lượng giao nhau ít lần hơn. Tanseley nói rằng những cuộn xoáy tí xíu này có thể rất trùng khớp với các huyệt châm cứu trong y học Trung Hoa.
    Mỗi luân xa chính ở phía trước cặp đôi với một luân xa tương ứng ở phía sau, đều được coi như tiền diện mạo và hậu diện mạo của luân xa. Tiền diện mạo liên quan với cảm nhận, hậu diện mạo liên quan với ý chí, và ba diện mạo trên đầu liên quan với các quá trình tâm thần của con người, như được trình bày ở Hình 7-3.
    Như vậy, luân xa 2 có các thành phần 2A và 2B, luân xa #3 có 3A và 3B, cứ thế cho tới luân xa thứ 6. Có thể coi các luân xa 1 và 7 là cặp đôi với nhau nếu ai đó muốn thế, bởi vì chúng là những điểm tận cùng được khai mở của dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu chảy lên chảy xuống dọc theo cột sống mà toàn bộ luân xa hướng vào.
    Mũi nhọn hay đỉnh của các luân xa, nơi chúng liên kết với dòng năng lượng chủ yếu, được gọi là rễ hoặc tâm của luân xa. Bên trong các tâm này là những dấu niêm kiểm soát sự trao đổi năng lượng giữa các vầng hào quang qua luân xa đó. Nghĩa là mỗi một trong số bảy luân xa đều có bảy vầng, mỗi vầng tương ứng với một vầng của trường hào quang. Mỗi luân xa có vẻ khác biệt trên từng vầng đó, như sẽ được nói chi tiết trong miêu tả của mỗi vầng. Năng lượng nào muốn chảy từ vầng nọ sang vầng kia qua luân xa phải đi qua các dấu niêm trong rễ luân xa đó. Hình 7-4 cho thấy trường hào quang với toàn bộ bảy vầng thâm nhập và toàn bộ bảy vầng thâm nhập của các luân xa.
    Có thể nhìn thấy năng lượng tuôn chảy vào trong toàn bộ những luân xa này từ trường năng lượng vũ trụ ( Hình 7-3 ). Từng cuộn xoáy năng lượng hiện ra đang hút hoặc để cho năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ đi vào. Chúng hiện ra đang hoạt động giống như các cuộn xoáy chất lỏng mà chúng thường gặp trong nước hay trong không khí, như: xoáy nước, khí xoáy tụ, cột nước và bão. Chỗ tận cùng của một luân xa bình thường mở ra vầng hào quang thứ nhất có đường kính khoảng 6 in, cách mặt da khoảng 1 in.

    CHƯƠNG 7B



    Chức năng của bảy luân xa





    Mỗi cuộn xoáy nói trên trao đổi năng lượng với trường năng lượng vũ trụ. Như vậy, khi ta nói về cảm giác “khai mở" thì đó là có thật theo đúng nghĩa của từ. Toàn bộ luân xa chính, luân xa phụ, luân xa bé hơn nữa và các huyệt châm cứu là những lỗ cho năng lượng đi vào và đi ra khỏi hào quang. Ta tựa như bọt biển giữa đại dương năng lượng bao quanh. Vì năng lượng này luôn kết hợp với một hình thái ý thức cho nên ta trải nghiệm năng lượng mà mình trao đổi bằng các thuật ngữ nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, cảm thấy, bằng trực giác hay trực tiếp biết được.
    Do đó, ta có thể thấy rằng nói “khai mở" có hai nghĩa.
    Đầu tiên, nó có nghĩa là chuyển hóa nhiều năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ qua mọi luân xa lớn nhỏ.
    Thứ nhì, nó có nghĩa là đưa vào và phần nào có quan hệ với toàn bộ ý thức được kết hợp với năng lượng chảy qua ta.
    Đó không phải chuyện dễ, và phần đông chúng ta không làm được. Đơn giản là có quá nhiều cái đưa vào.
    Chất liệu tâm lý liên quan đến từng luân xa được đưa vào ý thức bằng cách tăng dòng chảy năng lượng qua luân xa đó. Rất nhiều chất liệu tâm lý có thể sẽ được giải phóng do một dòng chảy năng lượng đột ngột, và ta có thể chế biến được tất cả. Vì vậy, ta hoạt động trong bất cứ quá trình sinh trưởng nào mà mình hiện diện ở đó để từ từ khai mở từng luân xa, có thể ta mới có thời gian để chế biến chất liệu riêng giải phóng ra và để hòa nhập thông tin mới này vào đời sống của mình.
    Việc khai mở luân xa và tăng cường dòng chảy năng lượng là quan trọng, vì càng cho năng lượng chảy bao nhiêu ta càng khỏe mạnh bấy nhiêu. Bệnh tật xảy ra trong hệ thống là do thiếu cân bằng năng lượng hay do tắc nghẽn dòng chảy năng lượng. Nói cách khác, sự thiếu dòng chảy trong hệ thống năng lượng con người cuối cùng sẽ dẫn đến bệnh tật. Nó cũng làm méo mó tri giác và làm nhụt cảm giác, do đó gây trở ngại cho việc bình yên trải nghiệm trọn vẹn cuộc đời.
    Tuy nhiên, chúng ta vốn không được chuẩn bị về tâm lý để vẫn khai mở mà không làm việc cũng như phát triển tính chín chắn và trong sáng của mình.
    Mỗi một trong số năm giác quan phối hợp với một luân xa.
    Xúc giác kết hợp với luân xa 1; thính giác, khứu giác và vị giác với luân xa 5 (hay luân xa họng); và vị giác với luân xa 6 (hay luân xa con mắt thứ ba). Điều này được luận bàn chi tiết trong chương nói về tri giác.












    Các luân xa của cơ thể hào quang có ba chức năng chính:
    1. Tiếp sinh khí cho từng cơ thể hào quang và do đó tiếp sinh khí cho thân thể.
    2. Tạo ra sự phát triển những diện mạo khác nhau của ý thức về bản thân. Mỗi luân xa có liên quan đến một chức năng tâm lý đặc hiệu. Chương 11 bàn về tác động tâm lý của các luân xa đặc hiệu khai mở trong các cơ thể etheric. cảm xúc và tâm thần.
    3. Truyền năng lượng giữa các mức hào quang. Mỗi vầng hào quang có riêng một bộ bảy luân xa chính, mỗi cái khu trú ở cùng chỗ trên thân thể. Vì từng vầng hào quang tăng tiến tồn tại trong những quản tám luôn lên cao của tần số cho nên điều này có thể xảy ra. Chẳng hạn, với luân xa 4, thực tế có bảy luân xa, mỗi cái thuộc một dải tần số cao hơn cái ở thấp. Những luân xa này dường như lồng vào nhau tựa chồng cốc chén. Mỗi luân xa ở từng vầng lan rộng ra xa hơn trong trường hào quang (tới rìa từng vầng hào quang) và hơi rộng hơn cái ở dưới nó.
    Năng lượng được truyền từ một vầng sang vầng bên cạnh qua những hành lang ở đỉnh luân xa. Ở số đông người, các hành lang này đóng kín. Chúng khai mở là do kết quả của việc thanh khiết hóa tâm linh và vì thế luân xa trở thành vật truyền năng lượng từ vầng này sang vầng khác. Mỗi luân xa trong vầng etheric trực tiếp liên kết với cùng luạn xa ấy trong cơ thể mịn hơn bên cạnh vẫn bao quanh và thâm nhập nó. Các luân xa trong cơ thể cảm xúc liên kết với các luân xa trong cơ thể mịn hơn bên cạnh là cơ thể tâm thần v.v. cứ thế cho toàn bộ bảy vầng.
    Trong y văn bí truyền phương Đông, mỗi luân xa được nhìn thấy có một số cánh hoa nào đó. Tìm tòi nghiên cứu tỉ mỉ hơn, thấy các cánh hoa này hiện ra như những cuộn xoáy nhỏ xoay tròn với tốc độ rất lớn. Mỗi cuộn xoáy chuyển hóa một rung động năng lượng cộng hưởng ở tần số xoay đặc thù của nó. Chẳng hạn, luân xa xương mu có bốn cuộn xoáy nhỏ.


    Hình 7 – 5





    CÁC LUÂN XA CHÍNH VÀ VÙNG THÂN THỂ ĐƯỢC CHÚNG DINH DƯỠNG
    SỐ CUỘN TUYẾN VÙNG ĐƯỢC


    LUÂN XA XOÁY NHỎ NỘI TIẾT DINH DƯỠNG


    7-Đỉnh đầu 972 Tím-Trắng Tuyến tùng Não trên. Mắt phải


    6-Trán 96 Chàm Tuyến yên Não dưới. Mắt trái. Tai. Mũi.Hệ thần kinh


    5-Họng 16 Xanh Tuyến giáp Phế quản và cơ quan phát âm. Phổi. Ống tiêu hóa


    4-Tim 12 Lục Tuyến ức Tim. Máu. Dây X. Hệ tuần hoàn


    3-Đám rối 10 Vàng Tuyến tụy Dạ dày (bao tử). Gan. Túi mật thái dương Hệ thần kinh


    2-Xương cùng 6 Da cam Tuyến sinh dục Hệ sinh sản


    1-Nền 4 Đỏ Tuyến thượng thận Cột sống. Thận


    và chuyển hóa bốn tần số cơ bản của năng lượng. Màu sắc quan sát được tại mỗi luân xa có liên quan đến tần số của năng lượng được chuyển hóa ở tốc độ đặc thù của nó.


    Vì luân xa dùng để tiếp sinh khí cho thân thể nên chúng trực tiếp liên quan đến mọi bịnh lý trong thân thể. Hình 7-5 liệt kê bảy luân xa chính dọc cột sống và những vùng chúng chi phối. Mỗi luân xa kết hợp với một tuyến nội tiết và một đám rối thần kinh chủ yếu. Các luân xa hấp thụ năng lượng vũ trụ, còn gọi là năng lượng nguyên sinh (“khí". Orgone, prana, v.v.), đập vỡ ra làm những phần hợp thành rồi gởi theo những dòng năng lượng gọi là kênh dẫn đi tới hệ thần kinh, các tuyến nội tiết, sau đó vào máu để dinh dưỡng thân thể, như được trình bày ở hình 7-6.
    Hoạt động tâm lý động lực học của luân xa, sẽ được luận bàn chi tiết, liên quan chủ yếu đến ba cơ thể đầu tiên của hào quang; ba cơ thể này kết hợp với các tương tác thể chất, tâm thần và cảm xúc trên bình diện trái đất. Chẳng hạn, khi luân xa tim của một người hoạt động chính xác thì người đó rất tử tế khi yêu thương. Khi luân xa 1 hoạt động khỏe khoắn, con người thường có ý chí mạnh mẽ muốn sống và liên kết chặt chẻ với đất. Đây là người tiếp đất tốt trong cuộc sống. Khi luân xa 6 và 3 của ai đó hoạt động tốt, anh ta sẽ suy nghĩ sáng suốt. Nếu các luân xa này không hoạt động tốt, tư duy anh ta sẽ lẫn lộn.



    Cơ thể etheric ( Vầng thứ nhất )
    Cơ thể etheric ( do từ “ ether ”, trạng thái nằm giữa năng lượng và vật chất ) gồm các vạch năng lượng nhỏ xíu “như một mạng lấp lánh các tia sáng” giống các vạch của màn hình vô tuyến ( Hình 7-7 ).
    Nó có cùng cấu trúc với thân thể bao gồm tất cả các bộ phận giải phẩu học và toàn thể các cơ quan.
    Cơ thể etheric gồm có một cấu trúc xác định của các vạch năng lượng, hay ma trận năng lượng, trên đó thể chất các mô của thân thể hình thành và bám chắc vào. Các mô thể chất tồn tại như vậy chỉ là nhờ trường sinh lực ở phía sau chúng; nghĩa là trường này có trước thân thể chứ không phải là kết quả của thân thể. Mối quan hệ đó đã được chứng minh trong các quan sát về sinh trưởng của thực vật do BS John Pierrakos và tôi tiến hành. Qua sử dụng tri giác cao cấp, chúng tôi quan sát thấy một ma trận trường năng lượng trong bóng dáng chiếc lá đã được chiếu lên trước khi chiếc lá sinh trưởng, và sau đó chiếc lá mới lớn lên trong hình thái tồn tại đã sẵn có đó.
    Cấu trúc “giống tấm mạng” của cơ thể etheric chuyển động không ngừng.
    Người có tầm nhìn thấu thị sẽ thấy những tia sáng màu trắng hơi xanh chuyển dịch dọc theo các vạch.
    Hình 7-6 : Con đường chuyển hóa của năng lượng nguyên sinh đi vào Năng lượng của nó khắp toàn bộ thân thể đậm đặc. Cơ thể etheric vượt ra khỏi mặt da khoảng ¼ - 2 in và rung động khoảng 15-20 chu kỳ/phút.
    Màu sắc của cơ thể etheric thay đổi từ xanh nhạt sang xám. Màu xanh nhạt đã liên kết với một hình thái tinh tế hơn màu xám. Nghĩa là một người nhạy cảm hơn, với một cơ thể nhạy cảm, sẽ có khuynh hướng có vầng thứ nhất màu hơi xanh, trái lại, một người loại lực lưỡng khỏe mạnh sẽ có khuynh hướng có cơ thể etheric màu xám nhạt hơn. Tất cả các luân xa của vầng này cùng màu với cơ thể hào quang. Nghĩa là màu của chúng cũng sẽ nằm trong giới hạn xanh và xám. Các luân xa trông tựa như những cuộn xoáy làm bằng mạng lưới ánh sáng, y hệt như phần còn lại của cơ thể etheric. Người ta có thể thấy được tất cả các bộ phận của thân thể, nhưng chúng được tạo nên bằng ánh sáng xanh nhạt lấp lánh này. Như trong hệ thống năng lượng của lá, cấu trúc etheric này dựng nên ma trận để cho các tế bào sinh trưởng, nghĩa là các tế bào của thân thể lớn lên dọc theo những vạch năng lượng của ma trận etheric, và ma trận này có mặt tại đó trước khi các tế bào nảy nở. Nếu như phải cô lập cơ thể etheric và chỉ nhìn vào nó thì sẽ thấy nó tựa như người đàn ông hay người đàn bà làm bằng những vạch ánh sáng xanh nhạt nhấp nháy liên tục, tựa như Người Nhện thì đúng hơn.
    Quan sát vai của người nào đó trong ánh sáng mờ mờ trước một nền thật trắng, thật đen hoặc xanh thẫm, bạn sẽ có thể thấy những rung động của cơ thể etheric này. Rung động dâng lên, lưu lại ở vai rồi lan xuống cánh tay, như làn sóng. Nếu bạn nhìn gần hơn thì thấy một khoảng trống giữa vai và ánh sáng xanh lờ mờ; tiếp theo là một lớp mù có màu xanh sáng hơn cứ nhạt dần khi tỏa rộng ra từ thân thể. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng ta vừa nhìn thấy thì nó đã đi mất, vì nó chuyển động quá nhanh. Nó sẽ lại rung động ở dưới cánh tay rồi, đúng vào lúc bạn nhìn lần nữa để tự mình kiểm tra lại. Hãy thử nữa đi. Bạn sẽ bắt gặp rung động kế đó.
    Cơ thể cảm xúc ( Vầng thứ hai )
    Cơ thể hào quang thứ hai ( Hình 7-8 ) hay là cơ thể mịn thứ nhì sau cơ thể etheric, thường được mệnh danh là cơ thể cảm xúc và kết hợp với các cảm giác. Nó bám sát đường nét của thân thể. Cấu trúc của nó lỏng hơn nhiều so với cơ thể etheric và không sao chép lại thân thể. Đúng hơn, nó hiện ra như những đám mây màu một chất mịn đang trong trạng thái liên tục chuyển động lỏng. Nó vượt ra quá mặt da khoảng 1-3 in.
    Cơ thể này thâm nhập những cơ thể đậm đặc hơn mà nó bao quanh. Màu của nó thay đổi từ những màu sáng chói đến những màu xám xỉn, tùy theo tình trạng sáng suốt hay lẫn lộn của cảm giác hay của năng lượng sản sinh ra chúng. Những cảm giác trong sạch và có năng lượng cao như yêu thương, kích động, vui mừng hay giận dữ thì sáng và trong trẻo; những cảm giác rối rắm thì tối và xám xịt. Vì những cảm giác này trở thành có năng lượng qua tương tác cá nhân, qua tâm lý trị liệu, v.v. cho nên các màu tách ra, đi vào màu sắc nguyên thủy của chúng và bừng lên. Chương 9 sẽ đề cập quá trình đó.
    Cơ thể này chứa tất cả màu sắc của cầu vồng. Từng luân xa trông giống như một cuộn xoáy nhiều màu và theo các màu sắc của cầu vồng. Bảng liệt kê dưới đây trình bày các luân xa của cơ thể cảm xúc và màu sắc của chúng:
    Luân xa 1 = đỏ
    2 = đỏ-da cam
    3 = vàng
    4 = nõn chuối
    5 = xanh da trời
    6 = chàm
    7 = trắng
    Chương 9 cung cấp một số quan sát về cơ thể cảm xúc trong các buổi chữa. Nói chung, cơ thể này hiện ra như những đốm màu chuyển động trong ma trận của trường etheric và cũng vượt qua nó một chút. Đôi lúc con người có thể ném ra những đốm màu năng lượng vào không khí xung quanh. Đặc biệt, có thể quan sát được hiện tượng này khi ai đó đang thả lỏng các cảm giác trong buổi chữa.


    CHƯƠNG 7C




    Cơ thể tâm thần ( Vầng thứ ba )
    Cơ thể hào quang thứ ba là cơ thể tâm thần ( Hình 7-9 ). Cơ thể này vượt qua cơ thể cảm xúc và gồm có những chất thường là mịn hơn kết hợp với tư duy và các hóa trình tâm thần. Cơ thể này thường hiện ra như một ánh sáng màu vàng chói lọi bức xạ quanh đầu, vai, và chạy vòng quanh toàn bộ thân thể. Nó lan rộng và trở nên rực rỡ hơn khi người đó tập trung vào các quá trình tâm thần. Nó vượt ra quá mặt da khoảng 3-8 in.
    Cơ thể tâm thần cũng là một cơ thể có cấu trúc. Nó chứa đựng cấu trúc các ý niệm của ta. Cơ thể này màu vàng là chính. Có thể nhìn thấy các hình thái tư tưởng trong trường này hiện ra dưới dạng những đốm có độ sáng và hình thù thay đổi. Những hình thái tư tưởng này có các màu phụ xếp chồng lên thực sự bắt nguồn từ mức cảm xúc. Màu sắc đại diện cho cảm xúc của con người liên kết với hình thái tư tưởng. Ý niệm càng trong sáng và hình thành tốt bao nhiêu thì hình thái tư tưởng kết hợp với ý niệm đó càng trong sáng và hình thành tốt bấy nhiêu. Ta nâng cao những hình thái tư tưởng này bằng cách tập trung vào những tư tưởng mà chúng đại diện. Những tư tưởng quen thuộc trở thành những lực “ kiến tạo tốt „ mạnh mẽ sẽ tác động đến cuộc đời của ta.
    Cơ thể này từng là cơ thể khó quan sát nhất đối với tôi, một phần có thể do con người thực sự chỉ mới bắt đầu phát triển cơ thể tâm thần và chỉ mới bắt đầu sử dụng hiểu biết của mình vào những hướng đi trong sáng. Vì lý do đó, ta sẽ có ý thức cao về hoạt động tâm thần và tự coi mình là một xã hội mang tính phân tích.
    Vượt qua thế giới thể chất
    Trong hệ thống mà tôi sử dụng để chữa trị ( Hình 7-4 ), ba vầng hào quang bên dưới kết hợp với và chuyển hóa những năng lượng liên quan đến thế giới thể chất, và ba lớp bên trên chuyển hóa những năng lượng liên quan đến thế giới tâm linh. Vầng thứ tư hay mức tinh tú kết hợp với luân xa tim, là lò thử thách việc cải biến mà mọi năng lượng phải trải qua khi đi từ thế giới này sang thế giới khác. Nghĩa là năng lượng tâm linh phải đi qua lửa của tim để được cải biến thành những năng lượng thể chất bậc thấp, và các năng lượng thể chất ( của ba vầng hào quang bên dưới ) phải đi qua ngọn lửa cải biến của tim để trở thành các năng lượng tâm linh. Và có bản chất của ta. Số đông chúng ta trải nghiệm các thực tại này trong giấc ngủ mà không nhớ lại được. Một số trong chúng ta có thể đi vào những trạng thái ấy của thực tại bằng cách bành trướng ý thức qua các kỹ thuật thiền định. Những kỹ thuật thìền định này khai mở các dấu niệm giữa rễ của các vầng luân xa, và nhờ đó cung cấp ô cửa cho ý thức đi qua. Để luận bàn tiếp, tôi sẽ chỉ tập trung vào việc mô tả các vầng hào quang và các chức năng hạn chế của chúng. Cuối cuốn sách này sẽ có nhiều luận bàn hơn về các vầng cao hơn hay các « tần số của thực tại ».
    Cơ thể tinh tú ( Vầng thứ tư )
    Cơ thể tinh tú ( Hình 7-10 ) không có hình dạng nhất định và gồm những đám mây màu đẹp hơn của cơ thể cảm xúc. Cơ thể tinh tú có khuynh hướng có một bộ màu tương tự, nhưng màu sắc thường pha trộn với ánh sáng màu hồng của yêu thương. Nó vượt ra quá mặt da khỏang 1/2 – 1 fut. Các luân xa là quãng tám tương tự các màu sắc như cầu vồng của cơ thể cảm xúc, nhưng mỗi cái lại pha trộn với màu hồng của yêu thương. Luân xa tim của người đang yêu tràn trề ánh sáng màu hồng ở mức tinh tú.
    Khi người ta yêu nhau thì có thể thấy những vòng cung rực rỡ ánh sáng màu hồng nối liền tim họ, và thấy trong tuyến yên có thêm một màu hồng rất đẹp bên cạnh những rung động óng vàng thông thường mà tôi quan sát được. Khi người ta hình thành mối quan hệ với ai thì họ để cho những sợi dây nảy sinh từ các luân xa vươn dài ra liên kết lại. Những sợi dây này tồn tại ở nhiều mức của trường hào quang, bổ sung thêm cho cơ thể tinh tú. Mối quan hệ càng lâu dài, càng sâu nặng thì càng có nhiều sợi dây và các sợi dây càng chắc. Khi chấm dứt quan hệ thì các sợi dây này bị xé, lắm khi gây nên nhiều nổi đau. Thời kỳ « khắc phục » mối liên hệ thường là thời kỳ tháo gỡ những sợi dây đó ở các mức thấp của trường hào quang và cho bắt rễ lại vào bản ngã.
    Nhiều tương tác xảy ra ở mức tinh tú với một số người. Những đốm màu lớn hình thù khác nhau lướt nhanh qua căn phòng giữa nhiều người. Điều đó có phần vui, có phần không vui. Bạn có thể nhận ra được chỗ khác nhau. Có thể bạn thấy thiếu thoải mái về ai đó trong phòng mang dáng vẻ thờ ơ khi bạn hiện dìện ; vậy mà lại xảy ra nhiều chuyện ở một mức khác của trường hào quang. Tôi đã thấy nhiều người đứng sát lại thành nhóm, giả bộ không chú ý đến nhau, trong khi ở mức năng lượng lại có giao lưu trọn vẹn bằng nhiều hình thái năng lượng chuyển động giữa bọn họ. Chắc chắn bạn đã từng tự trải nghiệm về điều này, đặc biệt giữa nam và nữ. Đúng nó không phải là ngôn ngữ con người ; đó là một hiện tượng năng lượng thực sự mà ta có thể cảm nhận được. Chẳng hạn, khi người đàn ông hay người đàn bà tưởng tượng ra chuyện làm tình với ai đó, họ nói tại quán rượu hay bữa tiệc, thì trong các trường năng lượng của họ xảy ra một cuộc thử thật sự để xem hai trường hào quang có đồng bộ không và họ tương hợp hay không tương hợp. Sẽ có thêm các ví dụ về hiện tượng tương tác hào quang nầy được giới thiệu trong Chương 9.
    Cơ thể etheric mẫu ( Vầng thứ năm )
    Tôi gọi lớp thứ năm của hào quang là cơ thể etheric mẫu ( Hình 7-11) vì nó chứa đựng tất cả các hình thái tồn tại trên bình diện thể chất trong sơ đồ hay hình thái mẫu. Nghĩa là trông nó giống âm bản ảnh nhiều hơn. Nó là hình thái mẫu cho vầng etheric vốn là hình thái mẫu cho thân thể như đã định. Vầng etheric của trường năng lượng có nguồn gốc cấu trúc từ vầng etheric mẫu. Nó là sơ đồ hay hình thái hoàn hảo cho vầng etheric. Nó vượt ra quá mặt da khoảng 1/2 – 2 fut. Trong bệnh tật, khi vầng etheric trở nên méo mó thì hoạt động của vầng etheric mẫu là cần thiết để hỗ trợ cho vầng etheric trong hình thái mẫu nguyên thủy của nó. Nó là mức hào quang mà ở đó âm thanh tạo nên vật chất. Sử dụng âm thanh để chữa trị có hiệu quả nhất tại mức này. Vấn đề sẽ được luận bàn thêm trong Chương 23 nói về chữa trị. Theo sức nhìn thấu thị của tôi, thấy những hình thái này hiện ra như những vạch trong hoặc trong suốt trên nền xanh cobalt, rất giống sơ đồ kiến trúc, chỉ có điều là sơ đồ này tồn tại trong một chiều khác. Như thể nó là một hình thái tạo nên bởi hiện tượng lấp đầy trọn vẹn trong không gian phía sau, và khoảng trống rớt lại đã tạo nên hình thái đó.
    Có thể lấy ví dụ về cung cách tạo khối cầu torng hình ọc Euclide để so sánh với cung cách tạo trong khoảng không etheric. Trong hình ọc Euclide, muốn tạo khối cầu, trước hết người ta xác định một điểm. Bán kính kéo từ điểm đó hướng ra cả ba chiều sẽ tạo nên mặt phẳng của khối cầu. Nhưng trong khoảng không etheric, có thể gọi được là khoảng âm, khi tạo khối cầu lại xảy ra quá trình trái ngược. Hằng hà sa số các bình diện từ bốn phương tám hướng đến và lấp đầy toàn bộ khoảng không, trừ một vùng hình cầu được để trống. Cái này xác định khối cầu. Nó là vùng không được lấp đầy bởi vì tất cả bình diện đã gặp nhau, vùng này sau đó xác định khoảng trống hình cầu.
    Như vậy, mức etheric mẫu của hào quang tạo nên một khoảng trống hay một khoảng âm trong đó tồntại mức thứ nhất hay mức etheric của hào quang. Mức etheric mẫu là mẫu cho cơ thể etheric, cơ thể này về sau tạo ra cấu trúc kẻ ô trường năng lượng được cấu trúc). Trên đó thân thể nảy nở. Do vậy mà mức etheric mẫu của trường năng lượng chứa đựng mọi hình thù và hình thái tồn tại trên bình diện thể chất, trừ ở trên mức mẫu. Những hình thái này tồn tại trong khoảng âm, tạo nên một khoảng trống trong đó cấu trúc kẻ ô etheric nảy nở, tà trên đó tồn tại mọi biểu hiện thể chất.
    Bằng cách chỉ tập trung vào tần số rung dòng của mức thứ năm khi quan sát trường hào quan của người nào đó, ta có thể cô lập được vầng thứ năm của hào quang. Khi tôi làm như thế, tôi nhìn thấy hình thái trường hào quang của người đó vượt ra quá mặt da khoảng 2 ½ fut. Trông nó giống như hìn htrái xoan hơi thuôn. Nó chứa đựng cấu trúc trọn vẹn của trường hào quang, bao gồm các luân xa, các cơ quan của thân thể và dạng thể chất (bạch mạch, v.v. . ) toàn bộ ở hình thái âm. Tất cả các cấu trúc này hiện ra như được tạo thành từ những vạch trong suốt trên một nền xanh thẩm là không gian chất rắn. Khi hòa đồng vào mức này, tôi cũng nhìn thấy được tất cả hình thái khác nhau xung quanh tôi trong phối cảnh ấy. Điều đó dường như tự động xảy ra khi tôi chuyển cơ cấu tri giác của mình sang dãy tâầ số này. Nghĩa là trước tiên tôi chú ý tới mức thư năm chung chung; sau đó tôi tập trung người đặc biệt mà mình đang quan sát.
    Cơ thể thượng giới (Vầng thứ sáu)
    Mức thứ saú làm ức cảm xúc của bình diện tâm linh, được gọi là cơ thể thượng giới (hình 7-12) . Nó vượt ra quá mặt da – 2 = 2/3 fut. Nó là mức hào quang qua đó ta trải nghiểm hứng khởi tâm linh. Ta có thể đi tới nó qua thiền định và nhiều những hình thức khác của công trình cải biến mà tôi đề cập trong cuốn sách này. Khi ta tới điểm của “tồn tại”, nơi ta biết được mối liên kết của mình với toàn vũ trụ, khi ta nhìn thấy ánh sáng và yêu thương trong mọi vật hiện hữu, khi ta chìm ngập trong ánh sáng, thì ta cảm thấy ta là của vũ trụ và vũ trụ là của ta, và cảm thấy rằng ta với Thượng đế là một, bấy giờ là lúc ta đã nâng ý thức của mình tới mức thứ sau của hào quang.
    Yêu thương vô điều kiện luôn chảy khi có liên kết giữa luân xa tim khai mở và luân xa thượng giới khai mở. Trong liên kết đó, ta kết hợp lòng yêu thương nhân loại – lòng yêu thương cơ bản của con người đối với những đồng loại bằng xương bằng thịt của mình - với hứng khởi tâm linh tìm thấy trong yêu thương tâm linh vốn vượt ra ngoài thực tại thể chất để đi tới mọi lĩnh vực của cuộc sống. Việc kết hợp cả hai tạo nên trải nghiệm về yêu thương vô điều kiện.
    Cơ thể thượng giới hiện ra với tôi trong ánh sáng lung linh rất đẹp, gồm chủ yếu các màu phấn. Ánh sáng này có một tia màu của vàng bạc và trắng sữa tựa như mặt xà cừ. Hình thái của nó ít được xác định hơn hình thái của mức etheric mẫu ở chỗ nó chỉ đơn giản hiện ra gồm có ánh sáng bức xạ từ thân thể, giống như lớp sáng xung quanh cây nến. Giữa lớp sáng này còn có thêm những tia sáng chói hơn, mạnh hơn.
    Cơ thể Ketherric mẫu hay cơ thể nhân quả ( Vầng thứ bảy)
    Mức thứ bảy làm ức tâm thần của bình diện tâm linh, được gọi là cơ thể Ketheric mẫu (hình 7-13) Nó vượt ra quá mặt da khoảng 2 ½ - 31/2 fut. Khi ta đưa ý thức của mình tới vầng thứ bảy của hào quang thì ta biết được rằng ta với tạo hóa là một. Hình thái ngoài cùng này là dạng quả trứng của cơ thể hào quang và chứa đựng tất cả các cơ thể hào quang kết hợp với sự hóa thân hiện tại mà cá thể đang trải qua. Cơ thể này cũng có một mẫu cấu trúc cao cấp. Nó hiện ra trước mắt tôi như gồm những sợi tơ ánh sáng của vàng bạc tồn tại rất lâu giữ toàn bộ hình thái hào quang lại với nhau. Nó chứa đựng một cấu trúc kẻ ô của thân thể và tất cả luân xa.
    Khi “hòa đồng” vào mức tần số của vầng thứ bảy, tôi thấy ánh sáng óng vàng lung linh rất đẹp rung động nhanh tới mức tôi phải dùng từ “lung linh” . Trông nó giống như ngàn sợi tơ óng vàng. Hình thái quả trứng óng vàng vượt ra quá mặt da khoảng 3 – 31/2 fut tùy người, với cực bé nhất ở dưới chân và cực lớn nhất ở khoảng 3 fut trên đầu. Nó có thể lan rộng ra hơn nếu đó dồi dào nghị lực. Đối với tôi, rìa ngoài cùng quả thật giống cái vỏ trứng. nó hiện ra có bề dày khoảng ¼ - ½ in. Phần ngoài cùng này của vầng thứ bảy rất khoẻ và thun giãn, chống thâm nhập và bảo vệ trường hào quang đứng như võ trứng bảo vệ gà con. Tất cả các luân xa và các dạng thể chất hiện ra như được làm bằng ánh sáng óng vàng ở mức này. Đây là mức khoẻ nhất, thun giãn nhất của trường hào quang.
    Có thể so sánh nó với một làn sóng ánh sáng đứng có hình thù và hình thái rối rắm rung động với tốc độ cực lớn. Hầu như người ta có thể nghe được âm thanh khi nhìn vào nó. Tôi chắc chắn rằng có thể nghe được âm thanh nếu con người thiền định trước một bức tranh như vậy. Mức mẫu óng vàng này cũng chứa đựng dòng chảy năng lượng chủ yếu lên xuống theo cột sống, nó mang năng lượng qua rễ của từng luân xa và liên kết các năng lượng đã được lấy vào qua từng luân xa.
    Dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu này cảm ứng những dòng khác bên các góc phải của nó để tạo thành những đuôi nheo óng vàng trực tiếp vượt ra ngoài cơ thể. Chúng ta lần lượt cảm ứng dòng khác chảy chảy vòng tròn xung quanh trường hào quang, đến mức trường hao quang trọn vẹn và tất cả các mức bên dưới nó đều được bao quanh và giữ lại trong mạng lưới hình giỏ này. Mạng lưới đó cho thấy sức mạnh của ánh sáng óng vàng, trí tuệ siêu phàm nắm giữ toàn bộ trường hào quang trong sự toàn vẹn và nguyên trạng của nó.
    Thêm vào đó, tại mức ketheric mẫu của hào quang cũng có những dải tiền kiếp bên trong vỏ trứng. chúng là những dải màu của ánh sáng bao quanh toàn bộ hào quang và có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên bề mặt vỏ trứng này. Dải ở cạnh vùng đầu cổ thường là dải chứa đựng tiền kiếp mà bạn đang tiến hành thanh lọc trong hoàn cảnh cuộc sống hiện tại của bạn, Jack Schwarz nói về những dải đó và cách xác định ý nghĩa của chúng bằng màu sắc. Sau này, trong phần chữa trị tiền kiếp tôi sẽ mô tả các thao tác với những dải này. Mức Katheric là mức hào quang cuối cùng trong bình diện tâm linh. Nó chứa đựng sơ đồ cuộc sống và là mức cuối cùng quan hệ trực tiếp đến lần hóa thân này. Vượt ra quá mức đó là bình diện vũ trụ, bình diện không thể trải nghiệm được từ quan điểm hạn hẹp của một lần hoá thân mà thôi.
    Bình diện vũ trụ
    Hai mức bên trên mức thứ bảy mà tôi có thể nhìn thấy ở thời điểm này là mức thứ tám và thứ chín. Mỗi vầng kết hợp với các luân xa thứ tám và thứ chín phía trên đầu. Mỗi vầng hiện ra trong suốt như pha lê và gồm những rung động cao rất tinh tế. Các mức thứ tám và thứ chín có vẻ như theo khuôn mẫu chung và luân phiên giữa vật chất (mức thứ tán) và hình thái (mức thứ chín), trong đó vầng thứ tám hiện ra chủ yếu dưới dạng chất lỏng và vầng thứ chín hiện ra như một mẫu giống pha lê của mỗicái bên dưới nó. Trong các văn bản tham khảo, tôi không tìm thấy những tài liệu nói về các mức này mặc dầu chúng có thể hiện hữu. Tôi biết rất ít về những mức này, ngoại trừ một số thực hành chữa trị rất có hiệu lực mà tôi được các hướng đạo dạy cho. Tôi sẽ luận bàn những phương pháp này trong Chương 22.


    Cảm nhận trường hào quang
    Điều quan trọng cần nhớ là khi bạn khai mở tầm nhìn thấu thị của mình chắc bạn sẽ chỉ thấy các vầng đầu tiên của hào quang. Chắc bạn cũng sẽ không phân biệt được giữa các vầng. Chắc bạn sẽ thấy cả các màu sắc lẫn các hình thái. Khi tiến lên nữa, bạn sẽ tăng nhạy cảm tới những tầng số ngày càng cao, đến mức bạn có thể thấy các cơ thể cao hơn. Bạn cũng sẽ có khả năng phân biệt các vầng và có khả năng tập trung vào vầng nào mà mình chọn.
    Phần lớn những hình vẽ minh hoạ torng một số chương tới chỉ trình bày được ba hay bốn cơ thể hào quang bên dưới. Không phân biết được giữa các vầng. Dường như chúng hòa lẫn với nhau và tác động lên nhau trong phần lớn các tương tác được mô tả. Phần lớn thời gian ta có các xúc cảm bậc thấp, các quá trình tư duy cơ bản và các cản nghĩ giữa cá nhân với nhau pha trộn và rối rắm. Ta không thành thạo torng việc phân biệt chúng bên torng ta. Một vài cái pha trộn đó thậm chí trông rõ trong hào quang. nhiều các cơ thể tâm thần và cảm xúc hiện ra tác động như một hình thái rối rắm.
    Trong những hình vẽ minh hoạ về các quá trình chữa trị sau đây, không có phân biệt gì nhiều trong các cơ thể.
    Tuy vậy, qua quá trình điều trị hay bất cứ quá trình sinh trưởng nào khác, các vầng hào quang con người trở nên rõ rệt hơn. Bệnh nhân ngày càng có thêm khả năng phân biệt giữa các xúc cảm nền,các quá trình tư duy và những xúc cảm bậc cao của yêu thương vô điều kiện kết hợp với các mức cao của hào quang.
    Sư phân biệt này xảy ra qua quá trình nhận thức về quan hệ nhân quả mô tả trong Chương 15. Nghĩa là bệnh nhân bắt đầu hiểu bằng cách nào hệ thống niềm tin của họ tác động đến các ý niệm trong cơ thể tâm thần, bằng cách nào hệ thống này lần lượt tác động đến các xúc cảm, sau đó đến cơ thể etheric và cuối cùng đến thân thể. Với hiểu biết này, bấy giờ con người có thể phân biệt giữa các vầng của trường hào quang. Các vầng của trường hào quang trở nên sáng sủa hơn và rõ rật hơn vì bệnh nhân trở nên trong sạch hơn với nhiều hiểu biết về bản thân giữa những cảm giác thể chất, những xúc cảm và những tư tưởng cùng hành động phù hợp. Về sau, trong các buổi chữa trị tiếp theo, điều rất quan trọng là phân biệt được giữa các vầng hào quang.
    Trả lời câu hỏi trong các bài tập nhìn thấy hào quang con người.
    Năng lượng phần lớn chuyển động luôn luôn từ trái sang phải xung quanh vòng tròn. Thật khó chịu phải ngắt lại ,và thường không thể ngắt được toàn bộ dòng chảy. Cảm giác tạo được cái gì đó giữa hai bàn tay là cảm giác ngứa ran cùng với áp lực, một cái gì đó tựa như tỉnh điện. Khi các rìa của cơ thể năng lượng chạm vào da thì xảy ra cảm giác ngứa ran cùng với áp lực trên mặt da. Khi bạn vẽ các vòng tròn lên lòng bàn tay, bạn có thể cảm thấy ngứa ran trên các đường vẻ đó.
    Số đông thấy một đám mù xung quanh các ngón và bàn tay khi cố gắng cảm nhận hào quang. Nó có vẻ như cái gì đó giống như làn sóng nhiệt bên trên lò sưỡi. Đôi khi thấy được bằng màu sắc, chẳng hạn màu xanh. Thông thường số đông thấy nó không màu vào lúc bắt đầu. Các cơ thể năng lượng thun giãn như kẹo mạch nha giữa các ngón trong khi đám mù từ mỗi đầu ngón liên kết với đám mù ở đầu ngón tương ứng bên tay kia. Khi bạn chuyển dịch các ngón sao cho một ngón khác đối diện với nó thì đám mù lúc đầu còn theo ngón cũ, về sau nhảy sang đầu ngón kế bên (hình 7 – 14) .
    Điểm lại chương 7
    1. Mối quan hệ giữa trường năng lượng vũ trụ và trường năng lượng con người là gì ?
    2. Cơ thể etheric giống cái gì ? Nó khác cơ thể cảm xúc như thế nào?
    3. Ba chức năng chủ yếu của các luân xa là gì ?
    4. Tại sao luân xa lại có một màu nào đó.
    5. Tâm của luân xa ở đâu ?
    6. Các luân xa có liên quan đến những cấu trúc giải phẩu nào ?
    7. Hãy mô tả bảy vầng thấp nhất của trường hào quang và chức năng của chúng.
    8. Hãy mô tả mối quan hệ giữa các luân xa và các vầng hào quang.
    9. Các luân xa 8 và 9 khu trú ở đâu ?
    10. Hãy mô tả một luân xa ở vầng thứ bảy của trường hào quang.
    11. Dòng chảy năng lượng thẳng đứng chủ yếu khu trú ở đâu ?
    12. Vầng nào giữ trường năng lượng con người lại với nhau ?
    13. Các xúc cản hiện ra ở vầng nào của trường năng lượng con người.

  2. #2

    Mặc định

    ban tay anh sang(phan2.3)
    Barbara Ann Brennan

    BÀN TAY ÁNH SÁNG

    Dịch giả : Lê Trọng Bổng

    CHƯƠNG 8

    PHẦN III
    CÁC ĐỘNG LỰC TÂM LÝ VÀ TRƯỜNG NĂNG LỰƠNG CON NGƯỜI



    "Ánh sáng óng vàng của ngọn bạch lạp ngự trên chiếc ngai tối tăm của mẫu bấc đèn"
    The Zohar
    Nhập Đề

    Trải nghiệm chữa bệnh
    Trong khung cảnh tâm lý trị liệu, lần đầu tiên tôi bắt đầu thấy lại các hào quang một cách hữu thức với tư cách người lớn. Đây là một khung cảnh trong đó tôi hổ không những “được phép" quan sát kỹ lưỡng mọi người mà còn được khuyến khich làm đìều đó. Suốt trong nhiều giờ thực hành, tôi quan sát động lực của nhiều người.
    Đây là một đặc ân thực sự, bởi lẽ nền đạo đức của xã hội bình thường định ra những biên giới rõ ràng trong cách ứng xử như thế. Tôi tin chắc rằng bạn đã từng kinh qua chuyện chú ý đến một nguời khách nước ngoài đặc biệt trên xe buýt hay trong quán cà phê, khi mà chỉ trong giây lát quan sát, người đó bắt gặp cái nhìn của bạn và, bằng những lời lẽ không phải là thiếu chắc chắn trong ánh mắt, anh ta cho bạn biết rằng bạn nên thôi nhìn anh ta thì tốt hơn.
    Lúc ấy, trườc hết, bằng cách nào mà anh ta biết được là bạn đang nhìn? Anh ta thấy bạn qua trường năng lượng.
    Thứ nữa, tại sao anh ta bảo bạn thôi? Nhiều người dễ bực mình khi bị người khác nhìn. Phần đông chúng ta không muốn người khác biết về động lực của riêng mình. Phần đông thấy xấu hổ về chuyện có cái gì đó sẽ bị nhìn thấy nếu có ngưòi khác nhìn mình chăm chú quá. Tất cả chúng ta đều có những vấn đề; tất cả chúng ta đều tìm cách ít nhất là tránh mặt một số người. Trong phần này, tôi muốn luận bàn về những trải nghiệm riêng tư, kể cả những vấn đề của chúng ta, lộ ra trong hào quang như thế nào. Tôi sẽ liên hệ chuyện đó với tâm lý trị liệu và với cấu trúc cá tính, như đã được xác định bằng năng lượng sinh học. Nhưng trước hết chúng ta hãy bắt đầu trên cơ sở tâm lý trị liệu với sự phát triển tuổi thơ.
    Đã có nhiều nghiên cứu về sinh trưởng và phát triển của con người. Erik Erikson nổi tiếng vì công trình của ông về các giai đoạn phác hoạ của sinh trưởng và phát triển có liên quan đến tuổi.
    Các giai đoạn khác nhau này đã trở thành một phần của ngôn ngữ thông thường, như giai đoạn học nói, tuổi thiếu niên, tuổi dậy thì, v.v. Không một nghiên cứu nào trong số này nói đến hào quang, vì phần đông những người làm việc trong lãnh vực tâm lý học không biết đến nó. Tuy nhiên, khi được quan sát, thấy hào quang cung cấp rất nhiều thông tin về bản chất tâm lý và quá trình sinh trưởng riêng của người đó. Cái phát triển trong hào quang ở giai đoạn sinh trưởng nào thì trực tiếp liên quan với sự phát triển tâm lý ở giai đoạn đó. Tóm lại là khi được nhìn từ quan đìểm hào quang, sự phát triển ở đó có thể được thấy như là hậu quả tự nhiên của cái đang xảy ra trong các trường hào quang. Hãy nhìn xem trường năng lượng của ta thường phát triển như thế nào từ khi ta lọt lòng đến khi ta chết.
    Sinh trưởng và phát triển của con người trong hào quang
    Để băng qua phạm vi trải nghiệm của con người từ khi lọt lòng đến khi qua đời và vượt xa hơn, tôi sẽ sử dụng cả hai truyền thống tâm lý học và siêu hình học như những phương sách. Nếu siêu hình học làm bạn lo âu, xin hãy lấy nó làm phép ẩn dụ.
    Hóa Thân
    Quá trình hóa thân chiếm cả cuộc đời. Nó không phải là cái gì đó xảy ra lúc lọt lòng rồi chấm dứt. Để mô tả nó, ta phải dùng các thuật ngữ siêu hình. Hóa thân là chuyển động có tổ chức của linh hồn trong đó những rung động cao hơn, tinh tế hơn, hay những diện mạo linh hồn, không ngừng bức xạ xuống qua các cơ thể hào quang mịn hơn mà đi vào những cơ thể hào quang khác đậm đặc hơn và cuối cùng vào thân thể. Những năng lượng kế tiếp này được cá thể sử dụng trong sinh trưởng suốt cả cuộc đời.
    Mỗi giai đoạn chủ yếu của cuộc đời tương ứng với những rung động mới cao hơn và sự hoạt hoá của các luân xa khác nhau. Vì thế, tại mỗi giai đoạn, năng lượng mới và ý thức mới sẵn sàng được sử dụng cho việc phát triển nhân cách.Mỗi giai đoạn đưa ra những phạm vi trải nghiệm và học hỏi. Được nhìn từ quan điểm này, cuộc đời đầy khám phá lý thú và thách thức đối với linh hồn.
    Quá trình hóa thân được bản ngã cao cấp chỉ đạo. Mô hình cuộc đời được giữ tại vầng thứ bảy của hào quang, mức ketheric mẫu. Nó là mẫu động lực luôn thay đổi vì cá thể tự nguyện lựa chọn trong quá trình sống và sinh trưởng. Do có sinh trưởng, cá thể khai mở khả năng chịu đựng những mức cao hơn của rung động / năng lượng / ý thức đi vào và qua các phương tiện truyền đạt của anh ta, các cơ thể hào quang và luân xa. Như vậy là có thể lợi dụng những thực tại mở rộng lớn hơn trong khi anh ta tiến triển trên đường đời. Vì từng cá thể tiến triển, toàn nhân loại cũng vậy. Mỗi thế hệ thường có khả năng chịu đựng cao hơn thế hệ trước, do đó toàn nhân loại chuyển dịch trong sơ đồ tiến hóa tới những tần số cao hơn và những thực tại mở rộng hơn. Nguyên lý tiến triển này của loài nguời được nói đến trong nhiều văn bản tôn giáo như Kabbalah, Bhagavad Gita, Upanishads và các văn bản khác.
    Quá trình hóa thân trước lúc thụ thai đã được bà Blavatsky luận bàn, và gần đây hơn là Alice Bailey, Phoebe Bendit và Eva Pierrakos. Theo Pierrakos, linh hồn hóa thân gặp gỡ các hướng đạo tâm linh để dự kiến cuộc đời sắp tới. Trong cuộc gặp gỡ này, linh hồn và hướng đạo xem xét những nhiệm vụ mà linh hồn phải hoàn thành trong quá trình sinh trưởng của nó, cái mà nghiệp (căn) đòi hỏi được đáp ứng và quan hệ, cùng những hệ thống niềm tin tiêu cực mà nó phải thanh lọc qua trải nghiệm. Nhiệm vụ cuộc đời này thường được quy là nhiệm vụ cá nhân.
    Chẳng hạn, con người có thể cần phát triển khả năng lãnh đạo. Người đó, khi đi vào cuộc sống thể chất, sẽ tìm thấy bản thân trong những tình thế mà ở đó khả năng lãnh đạo là lối thoát then chốt. Hoàn cảnh từng người sẽ hoàn toàn khác nhau, nhưng trung tâm vẫn là khả năng lãnh đạo. Một người có thể sinh vào một gia đình kế thừa nhiều khả năng lãnh đạo, như một dòng dõi lâu đời các chủ tịch hội được kính trọng, hoặc các nhà lãnh đạo chính trị, trong khi người khác có thể sinh vào một gia đình không ai có khả năng lãnh đạo và tại đó các nhà lãnh đạo bị coi là những nhà chức trách tiêu cực cần đánh đổ hoặc cần nổi lên chống lại. Nhiệm vụ con người là học hỏi để chấp nhận lối thoát đó bằng biện pháp cân bằng và thoải mái.
    Theo Eva Pierrakos, số lần các hướng đạo chỉ bảo cho linh hồn trong việc xác định cuộc đời sắp tới tùy thuộc vào sự thành thực của anh ta. Cha mẹ được chọn làm người cung cấp trải nghiệm cần thiết về môi trường và thể chất. Những lựa chọn này định rõ hỗn hợp năng lượng rốt cuộc sẽ tạo thành cỗ xe thể chất mà linh hồn sẽ hóa thân vào để thực hiện nhiệm vụ của nó. Những năng lượng này rất chính xác và trang bị cho linh hồn đúng cái mà nó cần để thực thi nhiệm vụ. Linh hồn đảm nhiệm cả nhiệm vụ cá nhân là học hỏi ( như khả năng lãnh đạo ) lẫn “ nhiệm vụ trần gian „ đem lại một tài năng cho đời. Phác họa này duy nhất đến nỗi khi hoàn tất nhiệm vụ cá nhân, con người cũng được chuẩn bị để hoàn tất nhiệm vụ trần gian.
    Thêm vào ví dụ kể trên về khả năng lãnh đạo, cá thể sẽ cần phải học hỏi đức tính hoặc kỹ năng đó trước khi chuyển dịch vào vai trò lãnh đạo trong lĩnh vực công việc đã chọn. Cá thể có thể cảm thấy e sợ trước dòng dõi lâu đời của tổ tiên là những nhà lãnh đạo xuất sắc; phản ứng trước di sản đó có thể lại là một hứng khởi toàn diện muốn tiến lên phía trước trong khả năng lãnh đạo của chính mình. Mỗi trường hợp một khác và rất riêng tư tùy theo tính duy nhất của linh hồn đang đi học hỏi.
    Dự kiến cuộc đời chứa đựng nhiều thực tại có khả năng xảy ra, cho phép lựa chọn rộng rãi một cách tự nguyện. Hòa trộn vào trong kết cấu cuộc đời này là tác động nhân quả. Ta sáng tạo ra thực tại của riêng mình. Sáng tạo này nảy sinh từ nhiều phần khác nhau trong bản chất của ta. Sáng tạo không phải lúc nào cũng dễ hiểu từ một mức nhân quả giản đơn, mặc dầu phần lớn trải nghiệm của ta có thể được hiểu theo quan niệm đó. Bạn sáng tạo ra theo đúng nghĩa của từ, cái mà bạn muốn. Cái mà bạn muốn sẽ được giữ trong ý thức, vô thức, siêu thức và ý thức cộng đồng. Tất cả các lực sáng tạo này hòa trộn lại để sáng tạo ra trải nghiệm tại nhiều mức tồn tại của ta khi ta tiến triển qua cuộc đời. Cái được mệnh danh là nghiệp ( căn ) đối với tôi là nhân quả dài lâu, cũng từ nhiều mức tồn tại khác nhau của ta. Do đó ta sáng tạo từ nguồn gốc cá nhân và nguồn gốc nhóm, dĩ nhiên là có những nhóm nhỏ giữa các nhóm lớn, tất cả cộng thêm vào kết cấu to lớn trải nghiệm sáng tạo về cuộc đời. Từ quan điểm này sẽ dễ dàng nhìn vào tính phong phú của cuộc đời bằng nỗi ngạc nhiên trẻ thơ.
    Sau khi “đặt kế hoạch", linh hồn đi vào một quá trình mất dần ý thức của thế giới tâm linh. Lúc thụ thai, một mắt xích năng lượng hình thành giữa linh hồn và trứng đã thụ tinh. Vào lúc đó, một dạ con etheric cũng hình thành, bảo vệ cho linh hồn nhập khỏi bị ảnh hưởng từ bên ngoài ngoại trừ ảnh hưởng của người mẹ. Trong khi thai lớn lên trong bụng mẹ, linh hồn dần dà bắt đầu cảm thấy nó “ lề mề „ và dần dà trở nên liên kết có ý thức với thân thể. Tới một thời điểm nào đó, đột nhiên linh hồn nhận thức được mối liên kết này; có một tia năng lượng ý thức rất mạnh lóc xuống đi vào thân thể đang hình thành. Lúc nầy linh hồn lại mất ý thức lần nữa , và chỉ tỉnh lại từ từ vào trong thế giới thể chất. Tia sáng mạnh ấy của ý thức phù hợp với thời điểm người mẹ thấy thai đạp trong bụng.
    Chào đời
    Chào đời diễn ra vào một thời điểm duy nhất cho linh hồn nhập. Lúc bấy giờ, linh hồn mất dạ con etheric bảo vệ nó và lần đầu tiên nó phải chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh. Lần đầu tiên nó đơn độc giữa đại dương năng lượng vẫn bao quanh tất cả chúng ta. Nó bị trường năng lượng này đụng chạm đến. Những trường lớn hơn, mạnh hơn của các thiên thể cũng lần đầu tiên ảnh hưởng đến trường năng lượng mới của linh hồn vào lúc chào đời. Và tất nhiên ở thời điểm này, đại dương năng lượng cũng chịu ảnh hưởng của một trường mới khác cọng thêm vào làm cho phong phú thêm. Cứ như thể có một nốt nhạc khác vang lên bổ sung vào bản giao hưởng đã có của cuộc đời.
    Thơ ấu
    Quá trình tỉnh lại từ từ vào trong thế giới thể chất tiếp tục sau khi lọt lòng. Trẻ sơ sinh ngủ nhiều trong thời gian này; linh hồn làm chủ các cơ thể năng lượng cao cấp của nó. Nó rời bỏ các cơ thể thể chất và etheric đã tách ra, và để cho chúng bận rộn với công việc tạo dựng thân thể.
    Trong những giai đoạn đầu của cuộc đời, công việc của đứa bé là quen dần với những mặt hạn chế của cảm giác thể chất và với thế giới ba chiều. Tôi đã nhìn thấy nhiều sơ sinh vật lộn với quá trình này. Chúng vẫn còn có một vài nhận thức trong thế giới tâm linh, và Tôi thấy chúng vật lộn để những hình bóng tâm linh của các bạn chơi và bố mẹ cũ ra đi, và để chuyển tình cảm sang bố mẹ mới. Những trẻ sơ sinh tôi quan sát được đều có luân xa đỉnh đầu khai mở rất rộng ( Hình 8-1 ). Chúng vật lộn để tự ép mình vào những giới hạn tù túng của một thân thể hài nhi bé xíu. Khi tôi thấy chúng rời thân thể dưới dạng những cơ thể cao hơn, nhiều khi trông chúng tựa như những thần linh cao khoảng 12 feet ( 3,6 m – ND ). Chúng chịu đựng một cuộc vật lộn gay go trong việc khai mở luân xa nền bên dưới và liên kết với đất.
    Một ví dụ về điều này là một cháu trai ra đời muộn hơn một tháng so với dự kiến. Lọt lòng rất nhanh, sau đó cháu bị sốt. Các bác sĩ tiến hành chọc tủy sống để kiểm tra bệnh viêm não. Chọc tủy ở vùng của luân xa xương cùng. Cháu đang vật lộn để hai ban chơi và một nữ thần linh ra đi, nhưng họ không muốn thế. Trong cuộc vật lộn này, cháu thường khai mở và liên kết với đất mỗi khi có mặt hướng đạo của nó. Sau đó, việc tiếp xúc của cháu với hướng đạo thường bị đứt quãng, cháu thường thấy các bạn chơi của mình và người đàn bà, cháu vật lộn dữ dội giữa hai thế giới. Những lần như thế, cháu cảm thấy nữ thần linh hấp dẫn hơn mẹ ruột. Trong cuộc vật lộn để không hóa thân, cháu thường phát năng lượng ra khỏi luân xa xương cùng và sang phải để không cho các rễ phát triển thẳng xuống luân xa nền ( luân xa 1 ). Cháu có thể phần nào làm được điều đó vì có lỗ thủng hào quang do chọc tủy sống để lại. Sau một thời gian vật lộn, cháu lại liên kết được với hướng đạo của nó và dịu dần, khai mở nền và bắt đầu lại quá trình nhập.
    Tôi thử chữa trị cho cháu. Lần đầu, cháu hơi chấp thuận, nhưng sau đó lại từ chối. Mỗi lần tôi tìm cách đưa năng lượng vào hào quang của cháu là cháu cứ nhặng xị lên. Cháu biết tôi định làm gì và không cho tôi tới gần. Điều tôi định làm là vá lỗ thủng ở luân xa xương cùng trên vầng hào quang thứ bảy của cháu và điều khiển năng lượng cho đi trở lại xuống dưới. Cháu thường không cho tôi làm việc này. Tôi còn tới gần khi cháu ngủ say. Khi tôi đến cách khoảng 1 fut là cháu thường thức giấc và gào thét dữ dội. Rõ ràng đây là một cuộc vật lộn sâu kín, và cháu không muốn ai giúp đở cả. Một trong những vấn đề thể chất thứ yếu nảy sinh ra từ cuộc vật lộn căn bản này thuộc về đường tiêu hóa của cháu, do chỗ sử dụng liên tục quá mức luân xa đám rối thái dương kèm theo gào thét khóc lóc. Cháu được chữa trị về vấn đề nầy sau khi cháu cuối cùng đã lựa chọn, không ra khỏi bình diện thể chất. Sơ đồ chiêm tinh học cho thấy cháu sẽ là một nhà lãnh đạo có năng lực.
    Như thế, linh hồn nhập thường đi vào và rời bỏ thân thể qua luân xa đỉnh đầu khi nó bắt đầu công việc khai mở luân xa nền để phát triển các rễ vào trong bình diện thể chất. Ở giai đoạn này, luân xa nền trông như một cái phễu rất hẹp, còn luân xa đỉnh đầu giống một cái phễu rất rộng. Các luân xa khác trông tựa như cái chén uống trà Trung Quốc nóng nhỏ, với một vạch năng lượng dẫn trở vào thân thể đến tủy sống ( Hình 8-1 ). Toàn bộ trường hào quang của trẻ nhỏ thì vô định hình, không có dáng vẻ rõ rệt và màu hơi xanh hoặc hơi xám.
    Khi trẻ nhỏ chú ý đến một đồ vật trong bình diện thể chất thì hào quang căng ra và sáng lên đặc biệt xung quanh đầu. Sau đó, khi trẻ giảm chú ý, hào quang cũng nhạt đi; tuy nhiên nó giữ lại một ít trải nghiệm trong hình thù của màu ở hào quang. Mỗi lần trải nghiệm thì lại thêm một ít màu cho hào quang và nâng cao cá tính của nó. Như vậy, công việc kiến tạo hào quang cũng tiếp tục và cứ như thế kéo dài suốt cuộc đời, đến mức mà mọi trải nghiệm cuộc đời con người có thể tìm thấy ở đó.
    Sau khi sinh nở, vẫn còn liên kết năng lượng chặt chẽ giữa mẹ và con. Liên kết nầy đôi khi được quy cho là Plasma phôi, mạnh nhất giữa mẹ và con lúc lọt lòng và sẽ tồn tại suốt đời, mặc dù người ta sẽ không tuyên bố như thế khi đứa trẻ lớn lên. Cái rốn tâm linh này là liên kết qua đó con cái duy trì tiếp xúc với bố mẹ qua nhiều năm tháng. Nhiều khi người này nhận biết được người kia bị chấn thương mặc dù họ sống rất xa nhau ở thể chất. Trường hào quang của trẻ em hoàn toàn khai mở và có thể bị bầu không khí xung quanh tác hại. Dù có gì hay không có gì “ ở ngoài trời ”, trẻ vẫn cảm nhận cái đang diễn ra giữa bố mẹ nó. Trẻ thường xuyên phản ứng với môi trường năng lượng xung quanh một cách phù hợp với tính khí của nó. Nó có thể có những nỗi lo sợ mơ hồ, những ý nghĩ kỳ quặc, cơn tam bành hoặc bị ốm đau. Các luân xa của trẻ khai mở toàn bộ, có nghĩa là không có màn bảo vệ phủ lên luân xa để che chắn những ảnh hưởng tâm lý đi vào. điều này làm cho trẻ dễ tổn thương và dể xúc cảm. Do đó, mặc dù các luân xa của trẻ chưa phát triển như của người lớn và năng lượng đi vào người nó kinh qua một con đường mơ hồ, nhưng năng lượng vẫn đi thẳng vào trường hào quang của nó, và trẻ phải xử lý bằng cách nào đó. ( Xem Hình 8-2 để so sánh luân xa người lớn và trẻ em ).
    Tới khoảng bảy tuổi, một màn chắn bảo vệ được hình thành trên những chỗ khai mở của luân xa, lọc bỏ được nhiều ảnh hưởng từ trường năng lượng vũ trụ đi vào. Nhờ đó trẻ không còn dễ tổn thương như trước. Cần thấy rõ giai đoạn này khi trẻ lớn lên và định hình cá tính, gần đến lúc lý tính hé rạng.
    Nhiều khi ta có thể thấy một cháu bé ngồi tựa lưng và nép mình trong vạt áo của bố hay của mẹ như thế nào. Trẻ được bảo vệ chống lại những ảnh hưởng bên ngoài nhờ trường hào quang của bố mẹ. Do chỗ trẻ dễ tổn thương, tôi luôn bảo lưu ý kiến của mình đối với việc để trẻ ở cùng nhóm chữa với người lớn. Người lớn không hình dung được cái mà trẻ cảm nhận, trừ phi họ lùi trở lại trạng thái dễ tổn thương đó. Tôi đã thấy nhiều ông bố bà mẹ vô tình bắt con cái chịu đựng những tổn thương tâm lý không cần thiết bằng cách bắt chúng chữa bệnh theo nhóm, nghĩ rằng đó là điều tiến bộ, hoặc chịu thua những áp lực của nhóm. Cơn thịnh nộ của người lớn gây sốc cho hệ thần kinh của trẻ như một chấn thương thể chất, trong khi đau buồn và chán nản tràn ngập nó tựa đám sương mù.
    Cộng với dinh dưỡng thể chất, việc cho bú mang lại năng lượng etheric cho trẻ. Có một luân xa nhỏ ở mỗi núm vú cung cấp năng lượng cho trẻ. Nhớ rằng các luân xa của trẻ chưa phát triển và không chuyển hóa được tất cả các năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ cần thiết để giữ vững sự sống.
    Tuổi nhỏ
    Trong khi trẻ lớn lên và luân xa 2 bắt đầu phát triển, đời sống của trẻ trở nên phong phú. trẻ tạo ra những thế giới tưởng tượng để sống trong đó, trẻ bắt đầu cảm thấy mình là người không dính dáng đến mẹ, và những thế giới kia giúp trẻ hình thành phân ly này. Bên trong những thế giới tưởng tượng ấy là tài sản của trẻ. Trẻ sẽ gửi các hình chiếu tựa amip từ trường etheric của nó ra xung quanh các đồ vật này. Đồ vật càng quan trọng trong việc xây dựng thế giới tưởng tượng thì càng có nhiều năng lượng – ý thức được lấy từ trường hào quang ra mà trẻ dùng để bao quanh đồ vật. Đồ vật trở thành một phần của bản thân. Khi nó bị tước đoạt thô bạo khỏi tay trẻ, sẽ làm rách trường hào quang và gây đau đớn cho trẻ cả về thể chất lẫn cảm xúc.
    Bắt đầu sang khoảng hai tuổi, trẻ thấy như bố mẹ thuộc về nó, “em, bố của em, mẹ của em, v.v." . Màu da cam ngả đỏ, màu hồng trở nên dễ thấy hơn trong hào quang. Trẻ học hỏi cách liên hệ với người khác, học hỏi tính chất cơ bản của yêu thương. Trong những giới hạn của hào quang, trẻ có khả năng tách mình ra khỏi trường hào quang của mẹ, với rốn etheric vẫn còn đang liên kết hai người. Do vậy mà bắt đầu quá trình phân ly và độc lập cá tính. Trẻ tạo ra một không gian tưởng tượng, sống trong đó, song vẫn còn mẹ vốn được liên kết với trẻ qua rốn etheric. Trẻ có thể vẫn thường nhìn lại và thấy rằng mẹ không ở quá xa. Nơi nhà thấu thị. Không gian này hiện ra như gồm có năng lượng phần lớn từ mức màu xanh, hay mức etheric. Đấy là không gian trong đó trẻ thích chơi một mình, hoặc nếu có bạn chơi nào được phép vào thì bạn này được trông chừng cẩn thận để không có quá nhiều nhiểu loạn trong đó.
    Ở giai đoạn nầy, trẻ chưa có một bản ngã đủ mạnh để duy trì sự minh bạch thực sự giữa bản thân và người khác. Trẻ vật lộn để tìm tính duy nhất của mình, và còn hay cảm thấy liên kết chặt chẽ với mọi vật. Những đồ vật riêng trở thành những phương tiện xác định sự cá tính hóa. Không gian năng lượng riêng này giúp cho việc xác định đó. Vì thế mà khi có đứa trẻ khác đến thăm căn phòng cũ đã có năm bảy năm về trước, thì chủ nhà vật lộn giữa ý muốn liên hệ với cháu này và ý định bảo toàn hình ảnh bản thân. Cứ thế, trẻ vật lộn để kiểm tra các đồ vật riêng giúp xác định nó là ai, những đồ vật mà trẻ đã đặt năng lượng ý thức của chính mình ra xung quanh. Vật lộn ở đây là để thừa nhận và duy trì sự cá tính hóa bản thân và còn cảm nhận mối liên kết với một “cá thể" khác.
    Khoảng lên bảy, trẻ bắt đầu bày ra nhiều năng lượng quý giá vào không gian nói trên. Không gian nầy trở nên tự do hơn, thoáng đảng hơn, ít liên kết với mẹ hơn và mở rộng hơn cho khách khứa. Trẻ lúc này đã có ý thức rõ rệt hơn về bản thân và bắt đầu thấy những điểm tương tự giữa mình và người khác. Trẻ đã có thể cho phép “người khác" tự biểu hiện rõ nét hơn giữa không gian riêng của nó. Khách được phép tạo ra các loại hình năng lượng giữa không gian riêng này.
    Điều nầy làm cho mọi vật trở nên “ngộ" hơn, “giống thật" hơn và đề cao cuộc sống đầy tưởng tượng.
    Trẻ đi vào giai đoạn “đàn đúm".
    Một trong những điều làm cho mọi chuyện có thể xảy ra được là ở chỗ: Vào khoảng bảy tuổi, tất cả các luân xa bấy giờ có một màn chắn bảo vệ đậy lên, lọc bỏ những ảnh hưởng năng lượng do trường năng lượng bao quanh trẻ. Trẻ cảm thấy “an toàn hơn” vì nó đã thực sự hiện hữu trong các cơ thể hào quang của mình.
    Tập cảm nhận các không gian tâm lý
    Người lớn cũng rót đầy không gian của mình bằng năng lượng bản thân. Những không gian tâm lý nầy là chỗ ẩn náo an toàn, nơi họ sống và có được bản chất. Bạn hãy thử cảm nhận những không gian tâm lý mà người ta tạo ra. Từ những không gian nầy, bạn có thể học hỏi được nhiều điều về chính mình và về chủ nhân của chúng.
    Bạn hãy thử bắt đầu hòa đồng vào những không gian mà bạn lui tới. Bạn hãy đi bách bộ trong căn phòng của người thân. Bạn thấy thế nào ? Có thích căn phòng không ? Bạn muốn ở lại, hay bạn muốn bỏ đi ?
    Nếu bạn có con, hãy đi vào từng căn phòng của chúng. Hãy cảm nhận sự khác nhau trong năng lượng ở mỗi nơi. Căn phòng cân xứng với con bạn ở chỗ nào ? Nó biểu hiện cái gì của con bạn ? Căn phòng có màu sắc thính hợp với con bạn, hay là màu của bạn đã áp đặt ? Bạn hãy suy nghĩ về căn phòng.
    Bạn hãy thử làm như trên với những cửa hàng bách hóa khác nhau mà bạn đi vào. Tôi thấy không thể nán lại trong một số cửa hàng, nguyên nhân do năng lượng phát ra tại đó.
    Bây giờ bạn hãy thử nghiệm với đồ vật. Trong một nhóm người không đông lắm ( những người mà bạn không biết gì nhiều thì hay hơn), bạn hãy đặt các đồ vật cá nhân của họ ở giữa và chọn cái nào hấp dẫn bạn. Hãy cầm nó trong tay. Nó thế nào ? Nặng trĩu, ấm áp, thân thiện, thù nghịch, rầu rĩ, vui sướng, an toàn, nguy hiểm, khỏe mạnh, ốm yếu ? Bạn có vớ được tranh ảnh gì không ? Hãy dành thời gian hòa nhập vào những tranh ảnh đó. Hãy kiểm tra lại cho rõ cùng với chủ nhân của đồ vật. Tôi đánh cuộc là bạn sẽ nhận xét đúng về những đồ vật vớ được. Hãy thực hành đi, và bạn sẽ làm tốt hơn lần trước.
    Phát triển cá tính
    Trong khi trẻ lớn lên vào vai đoạn phát triển cá tính giữa bảy tuổi và tuổi dậy thì, thêm nhiều khả năng trí tuệ được mở mang, theo sự phát triển của luân xa 3. Nhiều màu vàng tâm thần hơn được bổ sung vào hào quang ở thời gian này. Mặc dầu luân xa này khai mở các năng lượng tâm thần và trẻ đã đi học, các năng lượng tâm thần được sử dụng chủ yếu để làm nổi bật cuộc sống đầy tưởng tượng của trẻ. Tại đây, những thôi thúc thâm trầm về mục đích và những liên kết sâu sắc với sự phát triển lâu dài đã qua của nhân loại bắt đầu hoạt động. Trẻ trở thành thủ lĩnh người da đỏ, công chúa, nữ thần đồng. Đó là những thôi thúc tâm tưởng sâu sắc bộc lộ khát vọng của linh hồn và phần lớn chắc có liên quan đến nhiệm vụ trần gian của nó. Giữa những hình thái nguyên mẫu này, còn thấy những khao khát tâm linh sâu sắc của cá thể, những mục tiêu và ước vọng được biểu lộ bởi những tính cách thể hiện ra trên sân sau nhà hoặc sân trường. Lúc này ta thấy ba trung tâm đầu tiên – các trung tâm thể chất, cảm xúc và tâm thần của bình diện trái đất – cùng nhau hoạt động để thể hiện giai đoạn hóa thân thứ nhất của linh hồn.
    Vị thành niên
    Sự thách thức của tuổi vị thành niên, cũng như trong mọi giai đoạn sinh trưởng, là tìm thấy bản thân và vẫn chân thực với bản thân trong toàn bộ hỗn loạn những đổi thay thể chất và cảm xúc, những mong ước ngọt ngào và những loại trừ đau đớn.
    Khi trẻ gần đến tuổi dậy thì, nhiều thay đổi lớn xảy ra trong toàn bộ thân thể và trường năng lực bao quanh. Thêm nhiều màu lục được bổ sung vào hào quang và không gian riêng của cá thể. Không gian này thấm đầy những “làn sóng viba” của bạn bè. Trong khi luân xa tim khai mở tới những mức mới của cảm tính và buổi sơ khai của ái tình cùng với yêu thương nảy sinh từ trong sâu thẳm tâm hồn, thì màu hồng rực rỡ cũng chan hòa trường năng lượng. Tuyến yên (luân xa con mắt thứ ba) được hoạt hóa, và thân thể bắt đầu trưởng thành bằng người lớn. Tất cả các luân xa đều bị những thay đổi đó làm ảnh hưởng. Những rung động mới cao hơn lắm lúc đi đôi với trạng thái kích thích của cá thể và vào lúc khác lại bị ghét bỏ vì chúng mang theo khát vọng mới vá tính dễ tổn thương mới mà cá thể chưa trải nghiệm. Đôi khi toàn bộ trưóng hào quang bị phá vỡ và các luân xa sau đó hoàn toàn mất cân bằng, vào lúc khác mọi vật lại nhịp nhàng trôi chảy. Vậy là cá thể trải qua qua những thay đổi lớn lao của thực tại cảm xúc, và hành động của cậu ta biểu hiện rối loạn ấy. Lúc cậu là trẻ con, lúc khác cậu lại là người lớn.
    Cá thể lúc nầy lặp lại tất cả các giai đoạn trưởng thành đã trải nghiệm nhưng với một điều khác biệt. Ba giai đoạn đầu tiên bao hàm cả bản thân như là trung tâm vũ trụ. Đó là tớ, bố của tớ, mẹ của tớ, bạn của tớ v.v. Bây giờ là mối quan hệ "Tớ - cậu". "Tớ“ không tồn tại đơn độc, và hạnh phúc của tớ lúc nầy tùy thuộc vào những điều chỉnh riêng cho quan hệ ‚ "không-Tớ". Nguyên nhân một phần do chỗ cá thể không còn là "chủ“ của đồ vật mình yêu thích. Như cái kiểu ứng xử với hố, mẹ hoặc với đồ chơi trước đây. Bây giờ hạnh phúc của cá thể túy thuôc vào sự cân nhắc hành vi của bản thân nhằm "thuyết phục“ đồ vật mình yêu thích cũng yêu thích lại mình hoặc cũng tin theo cái mà mình tin.
    Điều nầy nói lên tình trạng tâm hồn bị căng ra giữa người mà nó nghĩ là nó và người mà nó nghĩ rằng phải là nó (y theo điều nó nghĩ là nàng muốn nó như thề và ngược lại). Dĩ nhiên, chuyện nầy đã từng có trong khi ứng xử với bố, mẹ. Nhưng giờ đây được bộc lộ ra bên ngoài nhiều hơn, bởi lẽ một con người uđuợc yêu thươngthì bất cứ lúc nào cũng có thể chọn lựa người khác. Và nhiều khi chọn lựa một cách công nhiên.
    Khôn lớn
    Cuối tuổi vị thành niên, các luân xa và các mẫu năng lượng do cá thể sử dụng trở nên ổn định. Tất cả luân xa đều đã có hình thái của người lớn. Vào thời điểm nầy,cá thể có thể cốgắng ổn định, không thay đổi nữa. Một số có khả năng hoàn tát việc nầy và nếu được như thế, họ sẽ làm cho đời sống của mình trở nên tù hãm trong két bạc, máy thu hình là những mô hình xác định và hạn hẹp của thực tại. Phần đông thì bị lay chuyển mạnh bởi những trải nghiệm của họ về cuộc đời. Lại thấy không thể dễ dàng xác định thực tại đó, và họ suốt đời tìm kiếm cái ý nghĩa đáng giá dẫn dắt họ qua thử thách thường xuyên tới những trải nghiệm sâu sắc hơn về việc hoàn tất nhiệm vụ.
    Khi đã thành thục, quan hệ „Tớ-cậu „ mở rộng ra để bao gồm gia đình của cá thể. Diều nầy tạo nên những hình thái năng lượng mới của chính anh ta. Thêm nhiều năng lượng chảy qua luân xa họng, giúp anh ta cho và nhận. Cùng với thời gian, quan hệ „Tớ-cậu „ có thể mở rộng đẻ bao gồm cá thể và nhóm. Luân xa tim có thể khai mở để không chỉ bao gồm tình thương yêu vợ, chồng, con cái mà còn bao gồm cả tình yêu thương nhân loại. Trong hào uang lúc nầy có màu hoa cà rất đẹp. Điều nầy ăn khớp với việc hợp nhất bản thân, ý thức về người khác và ý thức về nhóm. Khi con mắt thứ ba khai mở cho những ruing động cao hơn thì cá thể bắt đầu nhin thấy tính đồng nhất của mõi vật và có thể nhận ra qự quý giá vô song của mỗi linh hồn cá thể bên trong sự đồng nhất ấy.
    Thành thục
    Khi cá thể gần tới tuổi già và từ giã cõi đời thêm nhiều loại rung động cao hơn có thể là bổ sung cho các co thể năng lưọng. Tóc chuyển bạc trong khi dòng ánh sáng trắng chạy xuyên qua người làm tăng ái lực của tóc đối với thế giới tâm linh. Bây giờ thi quan hệ "Tớ-cậu" được bổ sung thêm một quan hệ riêng rất sâu sắc với Thượng Đế.
    Năng lượng ở tháp của đất được chuyển hóa qua các luân xa phía dưới, giảm xuống vá được thay thế đều đặn bằng nhũng năng lượng tinh tế cao cấp hơn làm được nhiều việc với thế giới tâm linh hơn là với cuộc đời trong bình diện thể chất. Con người chuẩn bị trở về lại thế giới tâm linh. Khi các quá trình tự nhiên nấy được hiểu và được phép bộc lộ ra từ bên trong tâm hồn thì cuộc đời riêng tư của cá thể dào dạt yên bình và yêu thương.
    Mọi vật lại rơi về chỗ mà từ đó toàn bộ quá trình sinh trưởng đã diễn ra qua bao năm tháng. Luân xa ắm rối thái dương trở nên hài hòa hơn. Mặc dù khả năng thể chất bị suy giảm, con người có khả năng tăng độ sâu tri giác làm cho cuộc đời thành nơi thường xuyên nuôi dưỡng niềm vui và là làm giàu thêm trải nghiệm.
    Điều đáng tiếc là nền văn hóa của chúng ta không quan tâm và sử dụng phương sách vô cùng khôn ngoan và sáng tỏ nầy như các nền văn hóa khác, nền văn hóa của thổ dân da đỏ Bắc Mỹ chẳng hạn, trong đó các ông già, bà cố nắm quyền quyết định công việc của cộng đồng.
    Qua đời
    Theo Phoebe Bendit thì lúc chết có một tia sáng lóe lên đi ra khỏi đỉnh đầu lúc con người lìa bỏ bình diện trái đất qua luân xa đỉnh đầu. Trải nghiệm về việc ra khỏi đỉnh đầu nầy thường được mô tả như là đi theo con đường hầm giữa cuộc đời và cõi chết. Người ta thấy một đường hầm dài tối tăm với ánh sáng chói chang ở tận cuối. "Trải nghiệm đưòng hầm cũng có thể được diễn đạt như là việc linh hồn đi lên theo dòng năng lượng chủ yếu của thân thể dọc cột sống và ra đi tại điểm sáng chói của luân xa đỉnh đầu.
    Khi chết, những bạn cũ đã quá cố vá các hướng đạo tâm linh tới gặp linh hồn. Lúc bấy giờ, linh hồn nhìn thấy toàn bộ cuộc đời mình trôi qua rất nhanh vá rõ ràng đến nỗi có thể không thấy lỗi lầm gì trong những việc như: vừa xẩy ra chuyện gì, đã lựa chọn những gì, đã học được những bài học gì và còn lại bài học nào cho cuộc hóa thân sắp tới, tiếp đến một thời gian chúc tụng kỷ niệm nhiệm vụ đã hoàn tất và linh hồn lưu lại một thời gian trong thế giới tâm linh trước khi tiến hành cuộc hóa thân mới.
    Trong những trường hợp tử vong vì bịnh tật kéo dài, tôi thường thấy họ yên nghỉ một thời gian sau khi chết giữa vầng ánh sáng trắng, dường như họ đang được trông nom trong vài lọai bịnh viện ở phía bên kia.
    Tôi đã quan sát hai người hấp hối trong hai ngày tước khi chết. Cả hai đều chết vì ung thư và cùng bị ốm một thời gian.
    Ba cơ thể hào quang bên dưới bị vỡ và đi ra khỏi thân thể như những đóm mây màu trắng sữa.
    Điều nầy làm cho họ cómột vẻ bề ngoài máu tráng sữa. Ba luân x bên dưới cũng bị vỡ, với nhiều sợi dài năng lượng đi ra khỏi đám rối thái dương. Bốn luân xa bên trên hiện ra rất khai mở, phần lớn như những lỗ thủng toan hoác. Không còn màu chắn bên trên các luân xa. Họ đang qua nốt chặng đường, phần lớn thời gian nầy họ ở bên ngoài và cách xa thân thể mình. Rõ ràng là họ đang ở với các hướng đạo tâm linh tại một nơi nào đó. Khi họ nằm trong thân thể của mình thì có nhiều thần linh xung quanh căn phòng. Một lần tôi thấy Azrael đang canh cổng. Khi thấy người kia đau ghê gớm, tôi hỏi Azrael tại sao Ngài không giúp họ chết đi thì Ngài nói: "Tôi chưa nhận được lịnh“ (Azrael là Thần Chết, theo tôi, trông Ngai cường tráng và rất đẹp chứ không kinh khủng như một số nguồn mang hàm ý nầy).
    Heyoan nói về cái chết
    Hướng đạo của tôi đã thuyết trình về quá trình chết, và tôi muốn trích dẫn Người ở đây. Đầu tiên, Người nói rằng chết không phải cái mà chúng ta thường hiểu, mà là một chuyển tiếp từ trạng thái ý thức nấy sang trạng thái ý thức khác.Heyoan nói răng khi ta quên con người thực của mình thì lúc đó ta đã chết. Những phần bị quên lãng đó của ta được dựng thành bức tường phân cách với thực tại và ta đã đi vào hóa thân để thu hồi chúng. Vì thế, mặc dù ta vốn sợ chết, Người vẫn nói rằng ta đã chết, và trong quá trình hóa thân thể để tái hợp nhất với bản chất lớn lao của mình, ta thực sự thấy sống được nhiều hơn. Người nói rằng cái duy nhất chết đi là cái chết.
    Trong cuộc đời mình, ta dựng một bức tường phân cách gồm những trải nghiệmmà mình muốn lãng quên.
    Ta làm việc đó có kết quả đến nỗi không còn nhớ lại được bao lăm.
    Ta sớm bắt đầu quá trình dựng tường phân cách nầy tứ khi còn thơ ấu. Và suốt đời tiếp tục làm việc đó. Những mảnh ý thức của ta đã dựng thành tường phân cách đó có thể nhìn thấy được lại trường hào quang với tên gọi là tắc nghẽn : Vấn đề nầy sẽ được luận bàn trong chương nói vế tâm lý động lực học. Heyoan nói răng cái chết thực sự xẩy ra trong hình thái của bức tường nội tâm đó.
    Như bạn đã biết, cái duy nhất tách bạn ra khỏi mọi thứ lại chính là bản thân của bạn. Và điều quan trọng nhất là : cái chết đã xẩy ra trong những phần đã dựng thành tường phân cách đó của bản thân bạn. Nhìn từ lợi thế của bạn, có lẽ đó là định nghĩa rõ ràng nhất của cái mà nhân loại gọi là cái chết. Nó là dựng tường phân cách. Nó là lãng quên. Nó là lãng quên con người thực của bạn. Và điều đó chính là cái chết. Bạn đã chết rồi. Bạn đã thực sự hóa thân để mang lại cho đời những mảnh của bản thân là nơi bạn đã đứng trong đó để gọi cái chết, nếu như chúng ta thậm chí phải dùng từ nầy. Những phần đó đã chết.
    Quá trình chết, mà ta vẫn thường gọi là sự chuyển tiếp lên nhận thức cao hơn, có thể được coi như một quá trình trong trường năng lượng. Chúng tôi sẽ mô tả điều nầy ngay bây giờ để giúp bạn hiểu được quá trình chết, từ quan điểm trường hào quang. Trường hào quang lúc nầy được rữa ráy, tất cả các luân xa được thanh lọc, đưọc khai mở. Khi bạn chết, bạn sẽ đi theo một chiều khác của không gian. Ba luân xa bên dưới bị phân hủy. Ba cơ thể hào quang bên dưới bị phân hủy. Và bạn hãy lưu ý rằng chúng tôi nói "phân hủy".
    Một số trong các bạn đã quan sát người chết và nhìn thấy tay, mặt, da của họ có màu trắng sữa. Khi cá thể chết, có một màu trắng xà cừ và có những đám mây sữa rất đẹp lãng đãng thoát ra. Những đám nây đó là những cơ thể năng lượng ở thấp dùng để cấu trúc thân thể. Chúng đang tan rã. Chúng lãng đãng thoát ra. Các luân xa ở đó khai mở và có những sợi dây năng lưọng đi ra ngoài. Các luân xa bên trên là những lỗ rộng mở vào những chiều khác của không gian. Đó là những giai đoạnmở đầu cái chết khi mà tường năng lượng bắt đầu tách ra. Những phần dưới của trường năng lượng tách ra khỏi những phần trên. Sau đó, trong khoảng ba tiếng đồng hồ, thân thể được tắm gội, được rửa tội, một lễ rửa tội tâm linh cho thân thể lúc nầy đang để cho nang lăuợng phun ra như suối dọc theo dòng năng lượng thẳng đừng chú ( ?).
    Một suối ánh sáng óng vàng phun ra và tất cả những tắc nghẽn được thanh toán. Và hào quang có màu vàng nhạt. Cá thể đag chết sẽ trải nghiệm việc nầy như thế nào, trong những giới hạng của ký ức ? Các bạn đã nghe nói điều nầy. Con người nhìn thấy toàn bộ cuộc đời mình được những giới hạn nầy rửa sạch. Đúng như vậy. Có hiẹn tượng trường năng lượng song hành trong việc rửa sạch hào quang. Mọi tắc nghẽn đều được cho qua. Mọi trải nghiệm cuộc đời bị lãng quên đều được khai thông. Tất cả đều chảy theo ý thức. Như vậy, mọi chuyện trên đời nầy chảy theo ý thức. Và khi con người ra đi thì ý thức cũng ra đi. Đó là sự phân hủy các bức tường được tạo ra trước đó để bước vào qú trình cải biến trong cuộc đời đặc biệt nầy. Đó là một sư hợp nhất dữ dội. Với sự phân hủy các bức tưòng của lãng quên trong nội tâm bạn, bạn nhớ lại được rằng bạn đích thực là ai. Bạn trở nên hợp nhất với bản ngã tolớn của mình vá cảm nhận tình thoáng đạt và bao la của nó. Vậy thi cài chết, trái với quan niệm dân gian, là trải nghiệm hết sức kỳ diệu. Nhiều bạn đã xem những mô tả các trường hợp gọi là chết lâm sàng sau đó sống lại. Tất cả những người ấy đều nói đến một đường hầm mà ở tận cùng ció ánh sáng chói chang. Họ nói về cuộc gặp gỡ với một con ngưới kỳ lạ ở cuối đường hầm đó. Phần đông đều xem xét lại cuộc đời và luận bàn về cuộc đời đó với con người nói trên. Phần đông bộc lộ rằng họ đã tự mình quyết định trở lại cuộc đời thể chất để hoàn thành việc học hỏi dù rằng nơi họ đến rất đẹp. Phần đông không còn sợ cái chết, má nhìn về hưóng cái chết phía trưóc như một sự giải thoát vào trong yên bình.
    Bức tường phân cách bạn với sự thật nầy là như vầy : Cái mà bạn gọi cái chết thực ra là sự chuyển tiếp vào trong ánh sáng. Cái chết mà bạn hình dung bạn sẽ trải nghiệm, bạn có thể tìm thấy nó bên trong bức tường của bạn. Mỗi lần, bằng cách nào đó, bạn tách bản thân mình ra, là lần đó bạn chết đi một ít. Mỗi lần bạn ngăn cản sinh lực kỳ diệu của mình không cho nó chảy, là lần đó bạn tạo ra một ít cái chết. Do đó, khi bạn nhớ lại những phần tách ra của con người bạn và tái hòa nhập chúng vào trong bản thân mình, là bạn đã chết. Bạn trở về lại với cuộc đời. Khi bạn mở rộng nhận thức thì bức tường đứng giữa thế giới, bức tường đúng giữa thực tại tâm linh và thực tại thể chất cũng tan rã. Như vậy , cái chết tan rã không phải là cái gì khác ngoài sự giải tỏa búc tường ảo ảnh nầy vào lúc bạn sẳn sàng tiến lên. Và con người thật của bạn được tái định nghĩa là thực tại vĩ đại. Bạn vẫn là bản ngã cá thể của mình ; khi bạn buông rơi thân thể mình, bạn sẽ giữ lại tinh chất của bản ngã. Bạn có thể cảm thấy tinh chất ấy trong những suy ngẫm vị lai/quá khứ (sễ đưọoc trình bài ở chương 27 nói về tự chữa trị). Thân thể của bạn chết, nhưng bạn chuyển dịch vào một bình diện khác của thực tại. Bạn giữ lại tính chất ấy của bản ngã bên ngoài thân thể, bên ngoài hóa thân. Và khi bạn từ giã thân thể mình, bạn có thể cảm thấy bản thân là một điểm ánh sáng vàng óng, nhưng bạn sẽ vẫn cảm nhận được bản thân.
    CHƯƠNG 9
    CHỨC NĂNG TÂM LÝ CỦA BẢY LUÂN XA CHÍNH

    Trong khi con người trưởng thành thì các luân xa phát triển, mỗi luân xa đại diện cho các mô hình tâm lý tiến hóa trong đời sống của cá thể. Phần lớn chúng ta thường phản ứng lại trước những trải nghiệm khó chịu bằng cách ngăn chặn cảm giác và bít một lượng lớn dòng chảy năng lượng tự nhiên của mình lại. Điều nầy ảnh hưởng đến sự phát triển và trưởng thành của các luân xa, dẫn tới kết quả là ức chế chức năng tâm lý đã hoàn toàn cân bằng. Chẳng hạn, nếu một đứa trẻ bị từ chối nhiêù lần khi nó tìm cách gửi gắm yêu thương cho người khác thì chắc hẳn nó sẽ thôi không tìm cách gửi gắm yêu thương nữa. để làm việc nầy, chắc hẳn nó sẽ tìm cách ngăn chặn các cảm giác yêu thương trong nội tâm mà nó đang đáp ứng lại bằng hành động. Để làm việc nầy, nó sẽ phải bít kín dòng chảy năng lượng qua luân xa tim. Khi dòng chảy năng lượng qua luân xa tim bị bít kín hoặc chặn bớt thì sự phát triển của luân xa tim bị ảnh hưởng. Cuối cùng, hậu quả là có một vấn đề thể chất sẽ xảy ra giống hệt.
    Quá trình tượng tự nầy tác động lên mọi luân xa. Mỗi lần ta ngăn chặn một trải nghiệm nào đó đang diễn biến thì ta lần lượt bít kín các luân xa làm cho chúng cuối cùng trở nên méo mó . Các luân xa trở nên “tắc nghẽn”, bị năng lượng ứ đọng bít lại, xoay không đêù hoặc xoay ngược (ngược chiêù kim đồng hồ) và lại còn trở nên vặn vẹo hoặc vị xé tách nghiêm trọng trong trường hợp có bệnh.
    Khi luân xa hoạt động bình thường, từng luân xa sẽ “khai mở”, xoay thuận chiêù kim đồng hồ để chuyển hoá những năng lượng đặc biệt thiết yếu từ trường năng lượng vũ trụ. Động tác xoay thuận chiêù kim đồng hồ thu hút năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ vào luân xa, rất giống với quy luật xoáy về phiá phải trong hiện tượng điện từ, được biểu diễn bằng sự thay đổi tư trường xung quanh một sợi dây sẽ cảm ứng dòng điện trong sợi dây ấy. Tay phải nắm chặt sợi dây, hướng các ngón tay về phía cực từ dương. Ngón tay cái sẽ tự động hướng về dòng điện cảm ứng. Những quy luật như thế thực sự xảy ra cho các luân xa. Nếu bạn đặt bàn tay phải lên một luân xa, làm thế nào để cho các ngón tay xoắn thuận chiêù kim đồng hồ xung quanh bờ ngoài cùng của luân xa thì ngón tay cái của bạn sẽ chỉ về phía thân thể và theo hướng đi của “luồng”. do vậy, ta mệnh danh luân xa là “mở” cho năng lượng đi vào. Trái lại, nếu bạn xoắn các ngón của bàn tay phải ngược chiêù kim đồng hồ xung quanh luân xa thì ngón tay cái sẽ chỉ ra ngoài , theo hướng của dòng chảy. Khi luân xa xoay ngược chiêù kim đồng hồ, luồng sẽ chảy ra khỏi thân thể, như vậy là gây trở ngại cho chuyển hóa. Nói cách khác , khi luân xa xoay ngược chiêù kim đồng hồ thì những năng lượng đang cần và được ta trải nghiệm như một thực tế tâm lý không chảy vào trong luân xa. Do vậy ,ta mệnh danh luân xa là “bít” không cho năng lượng vào.
    Phần lớn những người tôi quan sát được đêù có ba hoặc bốn luân xa xoay ngược chiều kim đồng hồ từng lúc. Thông thường, khi được chữa trị, các luân xa nầy ngày càng khai mở thêm. Do chỗ luân xa không những là nơi chuyển hoá năng lượng mà còn là thiết bị cảm nhận năng lượng, cho nên luân xa dùng để mách bảo cho ta về thế giới quanh ta. Nếu ta “đóng” luân xa lại thì ta không cho thông tin đó đi vào. Như vâỵ, khi ta làm cho luân xa xoay ngược chiêù kim đồng hồ, ta tỏa năng lượng của mình vào thế giới , ta cảm nhận rằng năng lượng là cái mà ta tỏa ra và bảo rằng nó là thế giới. Điều này, trong tâm lý học họi là hiện tượng chiếu.
    Cái hiện thực tưởng tưởng mà ta chiếu lên thế giới của mình có liên quan đến “hình ảnh” của cái ta đã kết luận về thế giới giống theo trải nghiệm thời thơ ấu của ta và theo trí nhớ của cậu bé hồi đó là ta. Do chỗ mỗi luân xa liên quan đến một chức năng tâm lý đặc hiệu, cái được ta chiếu qua nó, khi đã vào trong hệ thống các luân xa, thì sẽ là cái mà mỗi luân xa thực hiện chức năng và sẽ thành cái rất riêng cho từng người, bởi vì mỗi trải nghiệm cuộc đời của con người là duy nhất. Vâỵ là nhờ đo được tình trạng các luân xa, ta có thể xác định các vấn đề toàn cục lâu dài cũng như của cuộc sống hiện nay.
    John Pierrakos và tôi đã liên hệ hiện tượng rối loạn chức năng trong từng luân xa với tối loạn tâm lý. Bất cứ nhiễu loạn nào trong luân xa như đã được đo đặc bằng các kỹ thuật thăm dò, cũng cho thấy có rối loạn chức năng trong khu vực tâm lý riêng có liên quan (Xem Chương 10 nói về kỹ thuật thăm dò). Do đó, bằng cách đo đặc tình trạng các luân xa, ta có thể chẩn đoán các nhu câù tâm lý của bệnh nhân. Tôi cũng trực tiếp thao tác lên các luân xa để đem lại thay đổi tâm lý. Ngược lại, ta đã thấy rằng những mô hình tâm lý được các nhà điều trị học mô tả có liên quan đến trường năng lượng con người về vị trí, hình dạng và màu sắc có thể đoán trước được.
    Hình 7 -3 cho thấy vị trí của bảy trung tâm năng lượng chính của các luân xa được dùng để chẩn đoán các tình trạng tâm lý. Chúng được chia thành trung tâm tâm thần , trung tâm ý chí và trung tâm cảm giác. Đối với sức khoẻ tâm lý toàn bộ ba loại luân xa: lý trí, ý chí và cảm xúc phải ở thế cân bằng và khai mở. Ba luân xa ở đầu và họng cai quản lý trí, các luân xa ở trán cai quản cácxúc cảm: những điểm tương ứng ở lưng của các luân xa này cai quản ý chí. Hình 9-1 cung cấp một bảng các luân xa chính và chức năng tâm lý của chúng.
    Ta hãy nhìn vào những khu vực tâm lý chính thực hiện chức năng từng luân xa.
    Luân xa 1, trung tâm xương cụt, có liên quan đến số năng lượng thể chất và ý muốn được sống trong thực tại thể chất. Nó là biểu hiện đâù tiên của sinh lực trong thế giới thể chất. Khi sinh lực hoạt động đầy đủ qua trung tâm naỳ thì con người có ý muốn mạnh mẽ được sống trong thực tại thể chất. Khi sinh lực hoạt động đầy đủ qua ba luân xa bên dưới phối hợp với một dòng chảy mạnh xuống chân thì hiện hữu trực tiếp và thông suốt của sự hùng mạnh thể chất cũng đi theo tới đó. Xương cụt tác động như một cái bơm năng lượng vào mức etheric giúp cho dòng chảy năng lượng từ cột sống đi ra được thẳng.
    Hiện hữu của sự hùng mạnh thể chất phối hợp với ý muốn được sống, đưa lại cho cá thể “sự hiện diện” của quyền lực và sinh khí . Anh ta sẽ tạo nên hiện hữu ?Ta có mặt đây nầy? Và thành đành đáng tin cậy trong thực tại thể chất. “Sự hiện diện” của quyền lực và sinh khí bắt nguồn từ trong anh ta dưới dạng năng lượng sống .Anh ta thường hay tác động như một máy phát điện bằng cách tạo năng lượng cho những gì ở quanh mình, nạp lại các hệ thống năng lượng của chúng. Anh ta có ý muốn mạnh mẽ được sống.
    Khi trung tâm xương cụt bị nghẽn hoặc bị bít, phần lớn sinh khí thể chất của sinh lực bị nghẽn, và con người không tạo được ấn tượng rõ rệt trong thế giới thể chất. Anh ta không có mặt “tại đây” . Anh ta sẽ tránh né hoạt động thể chất, có mức năng lượng tháp và thậm chí có thể bị “đau yếu”. anh ta sẽ thiếu sức mạnh thể chất.
    Trung tâm xương mu (luân xa 2 A) liên quan đến phẩm chất của tình yêu đối với người khác giới mà con người có thể có. Khi luân xa nay khai mở nó tạo thuận lợi cho việc cho và nhận lạc thú tình dục và thể chất. Nếu trung tâm nầy khai mở thì có thể con người sẽ được thích thú khi giao hợp và có thể có cực khoái. Tuy nhiên, cực khoái trọn vẹn của thân thể lại đòi hỏi toàn bộ các trung tâm phải khai mở
    Hình 9 -1
    ---------------------------------------
    CÁC LUÂN XA CHÍNH VÀ CHỨC NĂNG TÂM LÝ KẾT HỢP
    CÁC TRUNG TÂM TÂM THẦN …KẾT HỢP VỚI
    7. Trung tâm đỉnh đầu ….......…Sự hợp nhất của toàn bộ cá tính với cuộc sống , và các diện mạo tâm linh của con người.
    6.A trung tâm trán ……….......…Khả năng hình dung và hiểu thấu các khái niệm tâm thần.
    6B Thừa hành tâm thần…....... Khả năng thực hiện các ý đồ một cách thực tế .

    CÁC TRUNG TÂM Ý CHÍ
    5b Nền cổ ……………...........…..Ý thức về bản thân, trong xã hội và trong nghề nghiệp của mình.
    4B Giữa hai xương vai ….........Ý chí cái tôi, hoặc ý chí đối với thế giới bên ngoài.
    3B Trung tâm cơ hoành …........Chữa trị, quan tâm đến sức khỏe của mình.
    2B Trung tâm xương cùng ........Số năng lượng tình dục.
    1 Trung tâm xương cụt …......... Số năng lượng thể chất, ý muốn được sống.
    CÁC TRUNG TÂM CẢM GIÁC

    5A Trung tâm họng …...........…. Thu nhận và đồng hóa.
    4A Trung tâm tim ………............. Cảm nhận của tâm hồn về tình yêu thường đồng loại, cởi mở với đời.
    3A đám rối thái dương …............ Niềm vui lớn và tính chan hòa, kiến thức tâm linh và ý thức về tính thoàn thể của cuộc sống.
    ANH LÀ AI GIỮA VŨ TRỤ
    2A Trung tâm xương mu …..........Phẩm chất của tình yêu đối với người khác giới, cho và nhận niềm vui thể chất, tâm thần và tâm linh.
    ----------------------------
    Trung tâm xương cùng (luân xa 2B) liên quan đến số năng lượng tình dục của con người. Với luân xa nầy khi mở, con người cảm nhận được quyền lực tình dục của mình. Nếu con người làm nghẽn luân xa đặc biệt nầy thì sức lực và sự hùng mạnh tình dục nào của anh ta cũng sẽ thành yếu đuối và không được thoả mãn. Có thể anh ta sẽ có nhiều nỗ lực tính dục, có khuynh hướng tránh né giao hợp và không công nhận tầm quan trọng và lạc thú của tình dục, dẫn tới chỗ làm cho khu vực nầy bị thiếu dinh dưỡng. Vì cực khoái tắm thân thể trong năng lượng sống, cho nên thân thể của con người này sẽ không được dinh dưỡng theo cách đó và nó sẽ không được sự cảm thông và sự gần gũi thân thể với người khác dinh dưỡng cho về tâm lý.
    Quan hệ giữa các luân xa 2A và 2B . Luân xa xương cùng tác động như cặp đôi với luân xa xương mu. Tại hai điểm mà các trung tâm phía trước và phía sau đi tới nhau, trong lõi của luân xa, trong xương sống, sinh lực bộc lộ sự thôi thúc thể chất mạnh mẽ bậc nhì và mục đích của nó – mong muốn kết hợp lứa đôi. Sức mạnh lớn lao nầy vượt qua các chướng ngại tự đặt ra giữa hai người và lôi cuốn họ gần gũi nhau hơn.
    Như vâỵ, bản năng giới tính của từng người liên kết với sinh lực của họ. (dĩ nhiên đây là điều có thực của mọi trung tâm: bất cứ trung tâm nào bị nghẽn cũng làm tắc sinh lực tại khu vực có liên quan). Vì vùng xương mu là nguồn của sinh khí, bất cứ trung tâm nào bị nghẽn trong vùng đó cũng sẽ có tác động làm giảm sinh khí thể chất và sinh khí tình dục. Đối với phần lớn nhân loại thì trong cực khoái, năng lượng tình dục chuyển dịch qua hai luân xa giới tính nầy, nạp năng lượng và xã năng lượng cho chúng. Chuyển động nầy lại tiếp sinh khí cho thân thể và tính khiết hoá nó bằng tắm năng lượng. Việc nầy giải phóng hệ thống thân thể khỏi số năng lượng tắc nghẽn, các chất thải và sự căng thẳng sâu sắc. Cực khoái tình dục là quan trọng đối với hạnh phúc thể chất của con người.
    Với những ai đã hoàn thành cảm thông đó và đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau theo con đường tâm linh thì một vài phương cách rèn luyện tâm linh như Yoga Kundalini và truyền thống Tantric đã nói rõ rằng việc xả năng lượng đó không còn cần thiết đối với hạnh phúc con người (Phần đông nhân loại không thuộc loại nầy). Nhiều thực hành tâm linh sử dụng thiền định để kiềm chế, cải biến và đưa lại lần nữa năng lượng sinh dục đi theo những kênh năng lượng khác nhau, chuyển dịch nó theo dòng năng lượng thẳng đứng từ cột sống đi ra để cái biến thành năng lượng có rung động cao hơn, năng lượng nầy sau đó được dùng để tạo nên những cơ thể năng lượng tâm linh cao hơn. Đó là một thực hành rất mạnh mẽ và nguy hiểm, phải được tiến hành có hướng dẫn, Gopi Krishna, trong cuốn sách Kundalini, nói về việc cải biến hạt giống của thân thể mình – tinh dịch – thành năng lượng tâm linh hay Kundalini (hỏa xà – N1) bằng phương pháp nầy. Nhiều thực hành tâm linh chủ trương giữ tinh dịch hay hạt giống tâm linh lại để cải biến.
    Tắc nghẽn ở các luân xa 2A và 2B. Tắc nghẽn của trung tâm xương mu có thể dẫn đến bất lực trong thực hiện cực khoái ở người phụ nữ nào không thể khai mở được và không thể thu nhận dinh dưỡng tình dục từ phía người bạn tình. Người phụ nữ đó chắc hẳn sẽ không liên hệ được với âm đạo của mình và có thể không có khoái cảm giao hợp. Chị ta có thể thiên về khoái cảm khi kích thích âm vật hơn là khi giao hợp. Chị ta có thể ước muốn luôn luôn làm kẻ tấn công trong động tác tình dục, nghĩa là nằm trên và khởi xướng phần lớn các động tác. Sự biến dạng ở đây là chị ta phải luôn luôn có quyền lực. Trong trạng thái sức khỏe tốt, khi thì chị ta muốn tích cực, khi khác lại chỉ muốn tiếp nhận, tuy nhiên, ở trường hợp nầy, trong tiềm thức chị ta vẫn sợ sức mạnh của chồng. Với sự chăm sóc và chấp thuận nhẹ nhàng, kiên nhẫn của chồng, sau một thời gian, chị ta có thể dần dần khai mở luân xa xương mu để nhận và có khoái cảm giao hợp. Chị ta cũng phải trải qua những cảm giác sợ hãi sâu sắc hơn và trải qua sự từ chối của chồng, đi đôi với điều kiện của chị là tìm những hình tượng làm điểm xuất phát cho các cảm giác đó, như được mô tả trong chương này. Tôi không có ý nói rằng phụ nữ không được là kẻ tấn công trong tình dục. Tôi sẽ nói thêm về một loại hình thiếu cân bằng trong cho và nhận.
    Tắc nghẽn nghiêm trọng tại luân xa xương mu ở đàn ông thường kèm theo cực khoái sớm hoặc không cương được. Ở mức độ sau nào đó, anh ta sợ phải trao sức mạnh tình dục đầy đủ của mình, và cứ thế anh ta từ chối việc đó. Dòng chảy năng lượng của anh ta thường hay gián đoạn, tắc nghẽn hoặc bị đưa lại lần nữa về phía sau, ra khỏi luân xa xương cùng, đến nỗi mà khi cực khoái anh ta phóng năng lượng ra khỏi luân xa 2 B thay vì ra khỏi dương vật. Trải nghiệm nay đôi khi đau đớn, dẫn đến ác cảm đối với cực khoái và tránh né giao hợp. Điều nầy làm cho sớm nảy sinh những khó khăn đối với người vợ ở các mức độ khác nhau, tương tự như đối với một phụ nữ không có cực khoái. Dĩ nhiên, nhiêù lần, theo quy luật “giống nhau thì hút nhau”, những người này tìm được và chia sẽ vấn đề chung đó. Đã quá nhiều lần cách giải quyết “giả hiệu” là đổ lỗi cho người kia và thử đi tìm vợ khác. Việc đó chỉ làm tình hình trở nên vĩnh viễn cho đến khi “người chủ” của vấn đề cuối cùng phải thừa nhận vai trò của mình. Tới lúc ấy, có thể bắt đâù công việc bới tìm những hình tượng khởi đầu hoặc những niềm tin.
    Trong những trường hợp này, thật hạnh phúc nếu được người bạn đời chấp nhận, hiểu rõ và có thể gửi gắm vững vàng. Nếu cả hai, thay vì đỗ lỗi cho người kia, chấp nhận khó khăn chung thì rồi họ có thể tập trung vào việc trao yêu thương cho nhau, hiểu nhau và khuyến khích nhau, nhờ vậy mà phát triển hình thái qua lại mới. Loại phát triển này đòi hỏi thời gian và lòng kiên nhẫn. Nó thật sự cho mà không bắt người kia đáp ứng điều mình muốn. Lúc đó, vì sự tin cậy nhau và lòng tự trọng phát triển từ chỗ thôi đổ lỗi cho nhau và trao yêu thương cho nhau, cho nên bản băng sinh dục thường được khai mở và trở thành trao đổi dinh dưỡng cho nhau. Không có gì bất thường khi một trong số các trung tâm nầy bít lại lúc cái kia khai mở. Nhiều khi đó chính là cung cách hoạt động của từng cặp luân xa (trước/sau). Có thể là ở luân xa nầy họat động quá mức, còn ở luân xa kia hoạt động không đạt yêu câù, bởi vì con người không chịu đựng được khả năng có hai diện mạo của một luân xa cùng hoạt động đồng thời. Chẳng hạn, với một số người rất khó cảm nhận cả hai sức mạnh tình dục dữ dội và khó khai mở để cho và nhận từ người kia trong khi giao hợp. Nhiều lúc người ra để cho sức mạnh tình dục trở thành hình ảnh tưởng tượng hơn là để cho bộc lộ ra một cách bình thường bằng cách nhấn chìm bản ngã vào trong những nỗi niềm thầm kín và bí mật riêng tư của bạn tình. Nhân loại là những kỳ quan đẹp vô biên và phức tạp. Rất hiếm khi ta cho phép mình đi lang thang tự do vào trong vẻ đẹp và điều kỳ lạ ấy. Những vấn đề tâm lý kèm theo, xuất phát từ tình trạng thiếu cân bằng tại luân xa 2A và 2B, dẫn tới những tình huống bất như ý trong cuộc sống.
    Chẳng hạn, khi trung tâm phía sau mạnh theo chiêù kim đồng hồ và trung tâm phía trước yếu hoặc nghẽn, con người sẽ có nổ lực tình dục mạnh và chắc hẳn có đòi hỏi nhiều về giao hợp . Vấn đề là ở chỗ số năng lượng tình dục và yêu cầu thì nhiều nhưng lại không kèm theo khả năng cho và nhận tình dục. Như vậy sẽ rất gay go trong việc đáp ứng một nổ lực lớn. Nếu trung tâm phía sau mạnh theo ngược chiêù kim đồng hồ thì điều tương tự là có thật; tuy nhiên, nỗ lực chắc hẳn cũng sẽ đi cùng với những hình tượng tiêu cực, thậm chí có thể là những hình ảnh tưởng tượng dữ dội về tình dục. Dĩ nhiều điều nầy càng làm cho việc thoả mãn nỗ lực trở nên khó khăn hơn, và người mang dung mạo như vậy có thể lý tưởng hóa nhiêù điều nhằm mục đích tránh né lối thoát, hoàn toàn do xâú hổ về những cảm nghĩ thầm kín đó. Mặt khác, có thể người đó có nhiều bạn tình và vì vậy mà thiếu cảm thông giữa hai tâm hồn trong hoạt động tình dục. Có thể người đó cắt đứt các ràng buộc hoặc không tạo được bất kỳ ràng buộc nào có liên quan đến tình dục.
    Đám rối thái dương (luân xa 3A) kết hợp với niềm vui lớn xuất phát từ chỗ nhận biết sâu sắc về vị trí duy nhất và có liên kết của mình trong lòng vũ trụ. Người có luân xa 3A khai mở có thể nhìn lên những khoảng trời đầy sao ban đêm và cảm thấy mình thuộc về những khoảng trời đó. Anh ta được đặt vững chắc vào vị trí của mình giữa vũ trụ. Anh ta là trung tâm diện mạo duy nhất của riêng mình về biểu hiện vũ trụ hiển nhiên, và từ đó anh ta thu được kiến thức tâm linh.
    Mặc dù luân xa đám rối thái dương là luân xa tâm thần, hoạt động lành lặn của nó liên quan trựctiếp đến đời sống cảm xúc của cá thể. Điều này có thật, bởi vì trí tuệ hoặc quá trình tâm thần được dùng như những máy điều chỉnh đời sống cảm xúc. Hiểu biết tâm thần về các xúc cảm đặt chúng vào khuông khổ của trật tự và xác định thực tại một cách thoả đáng.
    Nếu trung tâm này khai mở và hoạt động nhip nhàng thì cá thể sẽ có đời sống cảm xúc đáp ứng sâu sắc không lấn át anh ta. Tuy nhiên, khi trung tâm này khai mở nhưng màn bảo vệ trên nó bị rách thì anh ta sẽ có những thái độ xúc cảm to lớn không kiểm soát được. Anh ta có thể bị ảnh hưởng của những nguồn lực bên ngoài xuất phát từ tinh tú làm cho lẫn lộn. Anh ta có thể bị lạc giữa vũ trụ và các vì sao. Anh ta cuối cùng sẽ bị đau đớn thể chất trong khu vực đó do sử dụng quá mức luân xa ấy và cuối cùng có thể gây ra bệnh tật, như suy tuyến thượng thận chẳng hạn.
    Nêú luân xa này bị bít, anh ta sẽ ngăn chận các cảm giác, có thể là không cảm thấy gì hết. Anh ta sẽ không nhận thức được ý nghĩa sâu xa hơn của những xúc cảm đem lại cuộc sống một chiều khác nữa. Anh ta có thể không liên kết được với tính duy nhất của bản thân trong lòng vũ trụ và với mục đích vĩ đại của mình.
    Nhiều khi trung tâm này được dùng như một vật chướng ngại giữa trái tim và bản năng sinh dục. Nếu cả hai cái kia được khai mở và đám rối thái dương bị nghẽn, thì cả hai sẽ hoạt động riêng rẽ, nghĩa là tình dục sẽ không liên kết sâu sắc với tình yêu và ngược lại. Cả hai liên kết với nhau rất tế nhị khi con người nhận thức được về hiện hữu cắm rễ chắc chắn trong vũ trụ thể chất của mình và về con đường lịch sử lâu dài của nhân loại dùng để tạo nên bánh xe thể chất mà người ấy có được hiện nay. Ta không bao giờ được đánh giá thấp tính sâu sắc về thể chất của mỗi con người.
    Trung tâm đám rối thái dương là trung tâm rất quan trọng đối với mối liên kết của nhân loại. Khi đứa trẻ ra đời, vẫn tồn tại cái rốn etheric liên kết mẹ với con. Những sợi dây này đại diện cho quan hệ của nhân loại . Bất cứ lúc nào con người tạo mối quan hệ với người khác là lúc đó các sợi dây nảy nở giữa hai luân xa 3A. Mối quan hệ giữa hai người càng chặt chẽ thì những sợi dây càng mạnh mẽ và càng nhiều. Trong những trường hợp chấm dứt quan hệ, chúng dần dần rời nhau ra.
    Các sợi dây cũng phát triển giữa các luân xa khác của những người có quan hệ, tuy nhiên các sợi dây luân xa 3 dường như là sự tái lập liên kết phụ thuộc con/mẹ và rất quan trọng trong những điều kiện phân tích ứng xử khi tiến hành chữa bệnh. Phân tích ứng xử là phương pháp xác định bản chất ứng xử của bạn đối với những người khác. Bạn có ứng xử với họ như con đối với bố mẹ (con/bố mẹ) không? Hay bạn ứng xử như chính họ là trẻ em, còn bạn là người lớn (người lớn / trẻ em) Hay bạn ứng xử như giữa hai người lớn với nhau? Loại phân tích nầy khám phá được nhiêù điều về các phản ứng của con người đối với người khác. Bản chất của những sợi dây luân xa mà bạn xây dựng tại gia đình đâù tiên của mình sẽ được lặp lại trong toàn bộ các mối quan hệ tiếp theo mà về sau bạn tạo ra được. Là đứa con, thì các sợi dây con/mẹ hình dung đúng như vậy, mối quan hệ con/mẹ . Là người lớn , bạn sẽ thích nhất các sợi dây phụ thuộc con/mẹ nảy nở giữa bạn và bạn tình của mình. Trong khi bạn chuyển dịch qua cuộc đời và trưởng thành, bạn cải tiến từng bước các sợi dây con/mẹ thành những sợi dây người lớn/người lớn.
    Trung tâm cơ hoành (luân xa 3B) khu trú đàng sau đám rối thái dương, kết hợp với quan tâm đến sức khoẻ thể chất của mình. Nêú ai đó tha thiết với sức khoẻ của thân thể mình và có ý định giữ cho thân thể khoẻ mạnh cũng được mệnh danh là trung tâm chữa trị và kết hợp với chữa trị tâm linh. Người ta nói rằng ở một số thầy chữa, trung tâm này rất rộng và phát triển. Nhưng nó cũng là một trung tâm ý chí như cái khu trú giữa hai xương vai và được dùng ít hơn các trung tâm ý chí khác, trừ ở những người có khả năng chữa trị. Trung tâm nầy kết hợp với trung tâm đám rối thái dương ở đàng trước và được sử dụng ở trạng thái khai mở và do đó liên kết với vị trí của anh ta trong vũ trụ, chấp nhận rằng mình thích hợp hoàn toàn như mỗi lá cỏ và “những bông huệ đồng nội”. thì sự tự chấp nhận của người đó sẽ biểu hiện ở mức thể chất như là sức khoẻ thể chất. Toàn bộ sức khoẻ - tâm thần, cảm xúc và tam linh – đòi hỏi tất cả các trung tâm phải khia mở và cân bằng.
    Bạn sẽ thấy, khi ta chuyển dịch qua các loại luân xa thì các tiền diện mạo và hậu diện mạo của mỗi loại cùng nhau hoạt động cặp đôi, và việc tạo cân bằng giữa từng loại là quan trọng hơn việc chỉ tìm cách khai mở một cái ra thật rộng.
    Luân xa tim (luân xa 4A) là trung tâm qua đó ta yêu thương. Qua luân xa nầy, luôn chảy dòng năng lượng quan hệ với toàn bộ cuộc sống. Trung tâm này càng khia mở bao nhiêu thì khả năng của ta yêu thương một phạm vi luôn mở rộng của cuộc sống càng lớn bấy nhiêu. Khi trung tâm naỳ hoạt động, ta yêu bản thân, yêu con cái, vợ chồng, gia đình vật cưng, bạn hữu, xón giềng, đồng bào, đồng loại và mọi sinh vật trên trái đất.
    Qua trung tâm nầy, ta liên kết các sợi dây với trung tâm tim của những ai mà ta có mối quan hệ yêu thương. Điều ấy bao gồm cả con cái và bố mẹ cũng như người yêu và vợ chồng. Chắc bạn đã nghe thấy thuật ngữ “tơ lòng” án chỉ những sợi dây này. Những cảm nhận yêu thương chảy qua luân xa này thường làm ta rơi lệ. Chỉ một lần trải nghiệm trạng thái yêu thương bộc bạch này là ta thấy rõ mình nhớ nhung biết chừng nào, nhớ đến phát khóc. Khi luân xa này khai mở, con người có thể thấy toàn bộ cá thể trong đồng loại của mình. Anh ta có thể thấy tính duy nhất, cái đẹp bên trong và ánh sáng trong mỗi cá thể cũng như những mặt tiêu cực và kém phát triển. Trong trạng thái tiêu cực (bị bít luân xa), con người bị rối loạn trong yêu thương, yêu thương với nghĩa cho mà không mong chờ đền đáp.
    Luân xa tim là luân xa quan trọng nhất sử dụng trong quá trình chữa trị. Toàn bộ năng lượng được chuyển hoá qua các luân xa di chuyển lên theo dòng năng lượng thẳng đứng qua gốc của các luân xa và đi vào luân xa tim trước khi ra khỏi tay hay mắt của thầy chữa. Trong quá trình chữa trị, tim biến hoá năng lượng phẳng của đất thành năng lượng tâm linh và năng lượng tâm linh thành năng lượng phẳng của đất cho bệnh nhân sử dụng. Điều nầy sẽ được luận bàn chi tiết hơn trong chương nói về chữa trị.
    Nằm chính giữa khoảng cách hai xương bả vai, luân xa 4B kết hợp với ý chí cái tôi, hay ý chí phía ngoài. Đây là trung tâm từ đó ta hành động trong thế giới thể chất. Ta tìm kiếm cái ta muốn có.
    Nếu trung tâm này xoay thuận chiêù kiêm đồng hồ , ta sẽ có thái độ tích cực trong việc hoàn thành các việc trong đời sống và thấy người khác là chỗ dựa cho việc đó. Bấy giờ ta sẽ có những trải nghiệm để ủng hộ cách nhìn này vì ta thực hiện được nó. Ta sẽ trải nghiệm ý chí của ta và ý chí siêu phàm phù hợp. Ta sẽ nhìn thấy ý chí của bằng hữu đứng về phía ý chí của ta. Chẳng hạn, nếu bạn muốn viết một cuốc sách, bạn sẽ hình dung là bằng hữu giúp đỡ bạn và cuốn sách được nhà xuất bản nhận in theo cách nói: Vâng, đây đúng là cái chúng tôi tìm kiếm từ lâu nay?
    Mặt khác, nếu trung tâm này xoay ngược chiều kim đồng hồ thì điều trái lại là có thật. Ta sẽ có quan niệm sai cho rằng ý chí Thượng đế và ý chí của người khác đối lập với ý chí của ta. Mọi người sẽ hiện ra như là những chướng ngại trên đường ta đi kiếm cái ta muốn có hay trong khi ta hoàn thành việc gì đó. Ta sẽ phải đi xuyên hay vượt qua mọi người để kiếm cái ta muốn có, hơn là nhìn thấy họ như kiếm cái ta muốn có, hơn là nhìn thấy họ như đang giúp đỡ ta. Ta sẽ tin vào những lời tuyên bố như “ý chí của tôi hơn của anh” và “ý chí của tôi hơn ý chí thượng đế”. Những niềm tin, thầm kín liên quan đến việc vũ trụ thực hiện chức năng ra sao, ở đây trở nên rối rắm.
    Một hình tượng, trong đó vũ trụ bị coi như một nơi về căn bản là thù nghịch, nơi mà những kẻ gây hấn hùng mạnh sẽ tồn tại, hình tượng nầy đôi khi tóm gọn lại thành câu “không theo phương cách của ta thì có nghĩa là sự tồn tại tối thượng của ta không còn nữa” Người nầy hoạt động bằng kiểm soát và cố sức làm cho thế giới của mìn han toàn bằng cách kiểm soát những người khác. Giải pháp đối với người này là thâý cho được cung cách anh ta tạo ra môi trường thù nghịch thông qua việc gây hấn; sau đó cứ phó mặc cho may rủi và xem thử nếu thiếu kiểm soát thì có thể sống sót được không. Phó mặc cho may rủi như vậy cuối cùng sẽ dẫn đến những trải nghiệm về một vũ trụ nhân từ, phong phú và an toàn, nơi mà cuộc sống của người đó được toàn thể ủng hộ.
    Trong trường hợp khác, trung tâm nầy có thể hoạt động quá mức. Nó có thể rất rộng, xoay thuận chiêù kim đồng hồ, kèm theo đó là luân xa tim nhỏ xoay thuận hoặc ngược chiêù kim đồng hồ. Trong trường hợp này, ý chí con người không đặt biệt tiêu cực; nó đúng là được sử dụng để đáp ứng chức năng đáng lẽ do luân xa tim đảm nhiệm. Thay vì khả năng buông lỏng trách nhiệm và lòng yêu thương, tức là cho chảy nhiều năng lượng hơn qua luân xa tim (4A). Người đó bù lại bằng ý chí của mình. Anh ta cho chảy thêm năng lượng qua hậu diện mạo của luân xa 4 nằm giữa hai xương bả vai. Có thể người nầy nói vụng trộm ?Tôi cần việc tôi chứ không cần quan tâm đến nhân loại các anh”. Người nầy hành động chủ yếu xuất phát từ ý chí hơn là từ yêu thương, hay từ sức mạnh bao trùm hơn là từ sức mạnh bên trong. Nó là biến dạng làm cho con người muốn “làm chủ” bạn tình của mình hơn là tự coi mình bình đẳng.
    Luân xa họng (5A) khu trú ở trước họng, kết hợp với việc nhận trách nhiệm về các nhu cầu riêng tư của con người. Trẻ sơ sinh được cho bú, nhưng nó phải mút vú mới có dinh dưỡng. Nguyên tắc tương tự có giá trị suốt cả cuộc đời. Trong khi con người trưởng thành. việc đáp ứng các nhu câù vẫn ngày càng đưa vào bản thân anh ta. Con người trở nên chính chắn, và luân xa này hoạt động chính xác khi con người ngừng đổ lỗi cho người khác về những thiêú thốn của mình trong cuộc sống và ra ra đi để tạo nên những cái mình cần và mong ước.
    Trung tâm này cũng cho thấy trạng thái con người đối với việc nhận bất cứ cái gì đang đến với anh ta. Nếu trung tâm nầy xoay ngược chiều kim đồng hồ thì người đó không nắm bắt được cái đưa đến cho anh ta.
    Điều nầy thường kết hợp với một hình ảnh về cái đang đến với anh ta là cái gì trước nhât. Có nghĩa rằng nếu quan niệm thế giới là nơi tiêu cực, thường là thù nghịch, thì anh ta sẽ thận trọng và có những dự tính tiêu cực về biện pháp sắp tới của mình. Có thể anh ta chờ đợi sự thù nghịch, bạo lực hay lăng nhục hơn là chờ đợi yêu thương và dinh dưỡng. Vì anh ta dựng lên một trường lực âm tính cùng với những dự tính tiêu cực, cho nên anh ta sẽ thu hút luồng tiêu cực đi vào. Đó là nếu anh ta chờ đợi bạo lực thì anh ta có bạo lực ngay trong bản thân và vì vậy anh ta thu hút bạo lực vào mình theo quy luật “giống nhau thì hút nhau” như đã giải thích ở Chương 6 về bản chất trường năng lượng vũ trụ.
    Khi khai mở trung tâm họng, anh ta sẽ từng bước hấp dẫn nhiều dinh dưỡng hơn, đến mức có khả năng thu hút chừng nào mà anh ta còn giữ được trung tâm họng khai mở lâu nhất. Trong thời gian quá độ, có thể anh ta thu hút rất mạnh luồng tiêu cực đi vào, chẳng mấy chốc sau khi khai mở trung tâm này, do chỗ anh ta tìn rằng đó là cái sẽ đến. Khi anh ta có khả năng kinh qua trải nghiệm nay, liên kết được với cội nguồn trong bản thân mình và tìm lại niềm tin thầm kín lẫn nữa, thì anh ta sẽ mở luân xa họng. Quá trình mở và đóng này tiếp tục cho đến khi những quan niệm sai lầm về thu nhận hoặc dẫn nhập được cải biến thành niềm tin vào một vũ trụ nhân từ hằng dinh dưỡng cho ta.
    Hiện tượng hấp thu xảy ra ở phía sau của luân xa thứ năm (5B) đôi khi được xem như trung tâm nghề nghiệp, kết hợp với giác quan của bản thân con người trong lòng xã hội, nghề nghiệp của anh ta và với những người có cùng địa vị xã hội. Nếu con người không thoải mái trong phạm vi nầy của cuộc sống thì bấy giờ điều khó chịu đó có thể được che đậy rất khéo bằng kiêu hãnh nhằm bù đắp cho thiếu tự trọng.
    Trung tâm phía sau cổ thường khai mở nếu con người thành đạt và thích hợp với công việc của mình, thoả mãn với công việc mà anh ta coi như một nghĩa vụ trong đời. Nếu con người đã chọn được một nghề vừa đòi hỏi vừa đáp ứng và đang cố gắng hết sức cho công việc đó thì trung tâm này sẽ vô cùng rực rỡ. Anh ta sẽ thành đạt trong nghề nghiệp và nhận được sự ủng hộ của vũ trụ về dinh dưỡng. Nếu không phải như vậy thì anh ta sẽ quay lui, không ráng sức. Anh ta sẽ không thành đạt và sẽ giấu diếm điều gì bằng kiêu hãnh. Anh ta âm thầm :biết : là mình đã có thể trở nên “tốt hơn” nếu cố gắng hết sức hoặc có được một công việc mang nhiều thách thức hơn. Vì lý do nào khác, người nầy không khi nào làm thế và vẫn bảo vệ niềm kiêu hãnh để tránh né nỗi thất vọng có thực trong lòng . Anh ta biết rõ ràng mình không thành công trong đời, chắc anh ta sẽ đóng vai nạn nhân, tuyên bố rằng đời đã không cho mình cơ hội như thế nào để có thể phát triển tài năn. Kiêu hãnh này cần được thanh toán, và đau khổ cùng thất vọng nguôi đi và cũng được thanh toán.
    Trong trung tâm này, ta cũng sẽ để lộ nỗi lo sợ thất bại hằng gây trở ngại cho việc nắm bắt thời cơ để ra đi và tạo dựng cái mà ta thiết tha mong muốn. Nó cũng giữ cho quan hệ riêng tư của con người và đời sống xã hội nói chung được đúng đắn . Do tránh né tiếp xúc, một mặt người này tránh luôn cả bộc lộ bản thân và cảm giác lo sợ không được yêu chuộng, mặt khác, trong ganh đua và kiêu hãnh lại nghĩ: “Tôi tốt hơn anh; anh không đủ tốt đối với tôi” Do chỗ cảm giác muốn bác bỏ được hình thành trong nội tâm ta rồi được ta đem chiếu lên người khác, ta liền tránh né người đó để tránh né việc bác bỏ. Nắm lấy thời cơ đi tìm nghề nghiệp mà bạn mong mỏi, chuyển dịch về phía những tiếp xúc mà bạn mong chờ, đồng thời bộc lộ cảm nghĩ của bạn về việc đó, là những phương cách làm dịu cảm giác nói trên và nhờ đó khai mở được luân xa nầy.
    Trung tâm trán (luân xa 6A) kết hợp với khả năng hình dung và hiểu thấu các khái niệm tâm thần. Điều nầy bao gồm các khái niệm của con người về thực tại và về vũ trụ, hay là cách anh ta nhìn thế giới và cách anh ta nghĩ về thế giới sẽ đáp lại giống anh ta. Nếu trung tâm nầy xoay ngược chiều kim đồng hồ, con người có những khaí niệm tâm thần lẫn lộn hay những hình ảnh không thật về thực tại và thường là tiêu cực. Người này giữ những hình ảnh ấy và đem chiếu chúng lên thế giới, lấy chúng để tạo ra thế giới của mình. Nếu trung tâm này tắc nghẽn hoặc yếu đuối, con người thường bị trở ngại trong các ý đồ sáng tạo, đơn giản chỉ vì số năng lượng chảy qua trung tâm này ít ỏi. Nếu lại phối hợp thêm với một trung tâm điều hành – khu trú phía sau đầu (luân xa 6B) Hoạt động mạnh mẽ nữa, thì điều đó có thể gây nên tàn phá trong cuộc đời người.
    Trong quá trình điều trị bằng thanh khiếtt hóa hoặc phân loại các hình ảnh của niềm tin tiêu cực, khi một hình ảnh xuất hiện tại hệ thống năng lượng và bắt đâù hoạt động áp đảo, thì có thể trung tâm nầy sẽ xoay ngược chiều kim đồng hồ, cho dù thông thường nó vẫn xoay thuận. Qúa trình điều trị này đưa hình ảnh ra phía trước, khiến nó phải biểu lộ ra trong cuộc đời con người. Nhờ được chữa, người đó sẽ hiểu thấu và nhì nthấy hình ảnh một cách sáng tỏ khác trước. Trung tâm này bấy giờ sẽ xoay và xoay thuận chiêù kim đồng hồ. Thường thì người thầy thu6óc dày dạn có thể phát hiện ra loại chuyển động xoay ngược chiêù kim đồng hồ nói trên, bởi vì chuyển động ngược đó đi kèm theo tính thiếu ổn định của cảm giác. Rõ ràng người thấỳ thuốc sẽ thấy đây không phải là trạng thái bình thường của các vấn đề. Chẳng hạn, luân xa này thậm chí có thể cho thâý một chuyển động hỗn loạn nói lên rằng lối thoát liên quan đến một trong các khái niệm của người này về thực tại đang lung lay nhân cách anh ta.
    Trung tâm thừa hành tâm thần (luân xa 6B) khu trú ở phía sau đâù, kết hợp với việc thi hành những ý đồ sáng tạo hình thành qua trung tâm ở trán. Nếu trung tâm ý chí thừa hành khai mở thì những ý định của co nngười đi kèm với hành động thích hợp khiến chúng thành sự thật trong thế giới thế chất. Nếu trung tâm này không khai mở, con người mất một thời gian gay go mang các ý đồ của mình ra thực hiện.
    Đặc biệt nản lòng khi có trung tâm đàng trước (6A) khai mở, còn trung tâm phía sau bị bít. Một người có nhiều ý đồ sáng tạo nhưng dường như không khi nào thực hiện được. thường kèm theo lời cáo lỗi đổ tội cho vấn đề ở thế giới bên ngoài. Thường người này chỉ đơn giản cần được huấn lyện cách thực hiện từng bước điều mà anh ta muốn hoàn thành. Khi tiến hành loại công việc từng bước đó, sẽ nảy sinh nhiêù cảm nghĩ. “Ta không thể đứng chờ lâu thế này”; “Ta không muốn nhận trách nhiệm về chuyện xảy ra này”; “Ta không muốn kiểm tra ý đồ này trong thực tại thể chất”; “Ta không chấp nhận quá trình sáng trạo lâu thế này, ta chỉ muốn sáng tạo mà không mất nhiều công đên1thế”, “Cậu cứ làm việc đi, tôi là người có nhiêù sáng kiến”. Chắc là anh ta cũng chống lại chuyện phải sống trong thực tại thể chất và trong địa vị người học việc.
    Mặt khác, nếu trung tâm nầy xoay theo chiêù kim đồng hồ và trung tâm ý đồ xoay ngược lại thì ta có một mối tình trạng thậm chí lộn xộn hơn. Co dù những khái niệm của con người không nằm trong thực tại, nó vẫn tiếp tục thực hiện các khái niệm méo mó với một số kết quả. Chẳng hạn, nếu bạn tin rằng thế giới nầy là một nơi dơ daý, ở đó “mọi người đều đi ra ngoài có việc, do đó bạn có thể lấy cái gì bạn muốn”, và bạn có khả năng làm như vậy vì bạn biết cách làm, có nghĩa lá ý chí thừa hành của bạn hoạt động, bấy giờ bạn có thể xử sự như một tên tội phạm. Trong trường hợp nầy, trái tim chắc cũng tắc nghẽn. Cuộc sống của bạn sẽ chứng minh ý đồ của bạn bởi một chừng mực nào đó. Bạn sẽ thành công tới một phạm vi nào đó cho đến khi bạn bị bắt. Hoặc với loại dung mạo này có thể bạn cố gắng làm xảy ra điêù gì đó , cái điều không thể thực hiện được trong thế giới thể chất. Hoặc có thể bạn là động lực thực hiện ý đồ của người khác, cho dù ý đồ đó như thế nào.
    Trung tâm đỉnh đầu (luân xa 7) có liên quan đến mối liên kết của con người với đời sống tâm linh của mình và sự hợp thành của toàn bộ con người anh ta về thể chất, cảm xúc, tâm thần và tâm linh. Nếu trung tâm này tắc nghẽn, chắc hẳn con người không có liên hệ trải nghiệm với đời sống tâm linh của mình. Chắc hẳn anh ta không có “cảm tính vũ trụ” và không hiểu điều thiên hạ nói khi họ phát biểu về những trải nghiệm tâm linh của họ. Nếu trung tâm này khai mở, chắc là anh ta thường hay trải nghiệm đời sống tâm linh của mình trong một hình thái cá biệt, độc nhất cho cá thể đó. Đời sống tâm linh nầy không phải là cái có thể định rõ bằng giáo lý hoặc dễ dàng thuật lại bằng lời. Nó là trạng thái tồn tại, một trạng thái siêu nghiệm của thực tại thế tục đi vào vô biên. Nó vượt qua thế giới thể chất và tạo ra trong cá thể một tri giác về trọn vẹn, yên bình và tin cậy, mang lại ý thức về mục đích cuộc sống cho anh ta.

    BÀN TAY ÁNH SÁNG

    Dịch giả : Lê Trọng Bổng

    CHƯƠNG 10A




    CHẨN ĐOÁN LUÂN XA
    HAY CHẨN ĐOÁN TRUNG TÂM NĂNG LƯỢNG

    Có vài phương pháp đánh giá tình trạng các luân xa Khi bắt đầu, bạn cần thăm dò xem thực hành nào dễ nhất và bổ ích nhất cho bạn.
    Phương pháp tốt nhất mà tôi đã tìm ra để cảm nhận tình trạng các luân xa là sử dụng con lắc. Dụng cụ này giúp nâng cao tính nhạy cảm của hạn đối với dòng chảy năng lượng, vì nó tác động như một máy khuếch đạị. Những con lắc tốt nhất mà tôi tìm ra để dùng vào mục đích này làm bằng gỗ sồi và hình quả lê, đường
    kính 1 in. dài 11/2 in. Trường năng lượng của chúng lan tỏa, dễ thấm qua và cũng hình quả lê. Con lắc đối xứng xung quanh trục thẳng
    đứng của nó, là điều quan trọng đối với kiểu đo
    đạc này (Các con lắc bằng gỗ sồi có thể mua tại Metaphysical . Research Group, Archers Court, stonestile . Lane, Hastings, Sussex, Anh Quốc).
    Nếu bạn đã phát triển được một ít nhạy cảm ở bàn tay mình hay cảm nhận được bằng xúc giác thì bạn có thể thực hành cảm nhận bằng hai tay năng lượng vào ra qua các luân xa. Việc này giúp ta biết được năng lượng chãy tự do hay tắc nghẽn, yếu hay mạnh. Bạn có thể làm như vậy với một huyệt châm cứu bằng cách đặt một đầu ngón tay lên. Làm theo cách này, thậm chí bạn có thế có những đáp
    ứng cảm giác thể chất nào đó ngay trong thân thể mình, cung cấp cho bạn thông tin mà bạn cần biết .
    Cuối cùng, sau khi bạn phát triển tri giác cao cấp của mình lên trình độ cao hơn, có thể bạn có khả năng chỉ đơn giản nhìn vào các luân xa là biết được chúng đang xoay như thế nào (đều hay không đều). màu sắc của chúng ra sao tối và tấc nghẽn. đã được rửa sạch và
    yếu hay là trong trẻo, chói sáng và màu sắc khoẻ khoắn). Có thể bạn cũng sẽ nhìn thấy được một cách chính xác chúng biến dạng như
    thế nàọ Và cuối cùng có thể bạn cũng nhìn thấy được chúng trên từng vầng của hào quang.
    Nhưng trước hết ta hãy thực hành sử dụng con lắc
    Tập chẩn đoán các luân xa bằng con lắc
    Để đo đạc các quân xa phía trước, bạn hãy để bệnh nhân nằm ngửa Để đo đạc các luân xa phía sau, để bệnh nhân nầm sấp.
    Để đo đạc tình trạng của luân xa, bạn giữ con lắc bằng một sợi dây đài khoảng 6 in trên bề mặt luân xa, và hãy trút khỏi tâm trí mọi thành
    kiến về tình trạng của luân xa (Điều này là phần khó khăn nhất, đòi hỏi thực hành nhiều). Đảm bảo cho con lắc gần thân thể tối đa mà không chạm vào da . Năng lượng của bạn chảy vào
    trường năng lượng của con lắc để tiếp sức cho nó. Trường năng lượng phối hợp của con lắc và của bạn lúc này tương tác với trường năng lượng của bệnh nhân làm cho con lắc chuyển động (Xem
    H 10-1). Chắc là nó sẽ chuyển động trong một mẫu hình tròn bao quanh một hình tròn tưởng tượng phía trên mặt da của bệnh nhân (Có thể nó lắc tới lắc lui theo một chuyển động elip hoặc theo đường thẳng. có thể nó chuyển động thất thường. Kích thước và hướng chuyển động của con lắc cho ta thấy mức và hướng của dòng chảy
    năng lượng qua luân xa.
    BS John Pierrakos thấy rằng chuyển động thuận chiều kim đồng hồ của con lắc biểu thị một luân xa được khai mở về tâm lý động lực học . Điều đó có nghĩa là các cảm giác cũng như trải nghiệm tâm lý, do luân xa này chi phố và tuôn chảy qua luân xa này, đều rất cân bằng vàp hong phú trong cuộc đời người ấy. Nêú con lắc chuyển động ngược chiêù kim đồng hồ tức là luân xa đó bị bít về tâm lý động lực học, chỉ rõ một khu vực có vấn đề trong diện mạo tâm lý tương ứng của nó. Điều đó có nghĩa là các cảm giác và các trải nghiêm tâm lý chi phối bởi dòng chảy qua luân va đó đều không cân bằng do năng lượng bị tắc nghẽn, và chắc là người đó có những trải nghiệm tiêu cực cùng phối hợp.
    Kích thước của vòng tròn do con lắc tạo nên có liên quan đến sức khoẻ của luân xa và mức năng lượng chảy quan. Nó cũng liên quan đến mức năng lượng của thầy chữa và bệnh nhân hôm đó. Nêú con lắc vẽ một hình tròn lớn thì có nhiều năng lượng chảy quan. Nếu hình tròn bé thì có ít.
    Điều quan trọng cần nhớ kỹ là k1ich thước luân xa không phải là đường kính của hình tròn do con lắc vẽ nên, mà là do con lắc chỉ ra. Kích thước vòng tròn của con lắc là hàm số tương tác của cả ba trường năng lượng (của bệnh nhân, của thầy chữa và của con lắc) như đã nói ở trên. Nếu năng lượng của cả ba thâấ thì tất cả luân xa hiện ra bé hơn. Nếu năng lượng cao thì tất cả luân xa hiện ra to hơn. Phải tập trụng so sánh các kích thước tương đối giữa các luân xa. Sức khỏe đạt được nhờ sự cân bằng các luân xa để tạo dòng chảy năng lượng qua mọi luân xa. Vậy tất cả luân xa phải có kích thước gần giống nhau để đảm bào sức khỏe.
    Có nhiêù thay đổi giữa các hình thái cơ bản xoay thuận chiều và ngược chiều kim đồng hồ chỉ rõ các trạng thái tâm lý khác nhau. Hình 10-2 là bảng các hình thù khác nhau do con lắc vẽ nên. Thoạt đầu nhìn vào bảng này có vẻ hơi phức tạp nhưng thực ra nó rất đơn giản. Mỗi chuyển động do con lắc vẽ nên là một biến thiên giữa các cực của một luân xa khai mở hoàn toàn, xoay thuận chiêù kim đồng hồ, đường kính 6 in. Th.6 hoặc của một luân xa bị bít hoàn toàn xoay ngược chiều kim đồng hồ, đường kính 6in. Ng6. Hiếm khi tôi thấy những đường kính lớn hơn 6 in, trừ khi người đó sử dụng quá mức một luân xa đặc thù hoặc người đó ở trạng thái rất khai mở sau một trải nghiệm tâm linh khi mà phần lớn luân xa đều khai mở. tôi đã đo được tới th 10 (thuận chiều kim đồng hồ với đường kính 10 in).
    Trường hợp ngoại lệ duy nhất về suy giảm giữa Th6 và Ng6 là luân xa hoàn toàn im ắng (l) mà ở đó con lắc không chuyển động mảy maỵ Trong trường hợp này ( hoặc là luân xa đảo ngược chiều xoay của nó, hoặc là cá thể đã từng sử dụng quá mức hay bất phải lệ thuộc và làm tắc nghẽn chức năng tâm lý đặc thù vốn kết hợp với luân xa đó, một luân xa đã ngừng xoay hoàn toàn và không còn chuyển hóa năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ. Đây là trạng thái mà nếu cứ tlếp tục lâu ngâỵ thì chắc chắn phần nhiều sẽ dẫn đến bệnh tật. do chỗ thân thể không hoạt động khoẻ khoắn được vì mất khả năng sử dụng năng lượng bản ngả . (Xem Chương 15 về mối quan hệ giữa bệnh tật và các luân xa).
    Bất cứ đu đưa hình elíp nào của con lắc cũng biểu thị sự thiếu cân bằng lệch phải/lệch tráì của dòng chảy năng lượng trong thân thể
    Nói bên trái hay hên phải là bên trái hay bển phải của bệnh nhân
    phải của thân thể hệnh nhân. nghĩa là con lắc đu đưa sang trái (ThET) hoặc sang phải (ThEP) của thân thể bệnh nhân. Điều này cũng cho biết rằng một bên khỏe hơn bên kia. Phía phảì (THẼ NGEP) đại dìện cho bản chất chủ động. hung hăng. nam tính hoặc dương
    Phía trái (THET, NGET) đại diện cho bản chất thụ động
    thụ động, dễ tiếp thu, nữ tính hoặc âm. Khi con: lẩc vẽ một hình elip trệch sang bên phải của thân thể bệnh nhân, BS John Pierrakov
    nhận thấy nhân cách đồ có diện mạo nam giới phát triển hơn là. nữ giớ Con người như vậy chắc sẽ quá tích cực theo nghĩa anh ta thường vẫn hung hăng vào những lúc mà tính dễ tiếp thu lại thích hợp ơn. Điều này sẽ xảy ra đối với những hiệu quả trực tiếp liên quan đến khu vực hoạt động tâm lý chi phố luân xa đặc thù đã biểu lộ chuyển động hình elip.

  3. #3

    Mặc định

    CHƯƠNG 10B

    Nhớ rằng các ký hiệu được vẽ khi ta nhìn thẳng vào phía trước của thân thể bệnh nhân.

    Tại luân xa nào mà hình elip của con lắc đu đưa hướng sang trái (ThET, NgET) thì người đó đa phần là thụ động trong những hoàn cảnh có liên quan với những hậu quả dính líu đến các diện mạo tâm lý đặc thù đó luân xa đó chị phối. ví dụ, nếu trung tâm ý chí giữa hai xương vai (4B) ghi thụ động (hình elip hướng sang trái), thì người này sẽ không thể với tới được cái mình muốn có. Anh ta sẽ vẫn thụ động khi cần phải có hành động hung hăng. Anh ta sẽ chờ sai đó tiến hành việc ấy, hoặc ai đó đem cho anh ta cái ấy. Anh ta cũng sẽ không thể đứng lên bảo vệ quyền lợi hoặc mục đích của mình. Nhiêù khi anh ta phô ra một sự thụ động của mình, song thực tế anh ta sợ phải hung hăng, thường là do một vài hình ảnh sâu sắc về ý nghĩa của hành động hung hăng.
    Hình ảnh về tính hung hăng xuất phát trực tiếp từ trải nghiệm tuôỉ thơ. chẳng hạn, một đứa trẻ có ông bố rất hung hăng, thường hay áp đảo hoặc làm nhục nó mỗi lần nó với tới cái nó muốn có. Điêù này làm cho nó tin rằng việc với tới cái mình muốn có như vậy không phải là biện pháp tốt để thu được cái muốn có. Trẻ em rất sáng tạo, cho nên thằng bé chắc phải trải nghiệm nhiêù biện pháp để thu được cái nó muốn có hoặc ít nhất cũng thu lấy cái gì bù cho cái nó muốn có. Bất cứ biện pháp nào có hiệu quả là trẻ sẽ chấp nhận, coi đó là cách ứng xử tự nhiên. Trẻ sẽ tiếp tục ứng xử như vậy cho đến khi nào biện pháp đó kém hiệu lực trong đời sống của nó. Thật đáng tiếc, tập quán rất khó thay đổi, và việc chuyển sang đi tìm các biện pháp mới đòi hỏi công sức, bởi vì tính hung hăng thoạt đầu được coi là tiêu cực. Bên dưới toàn bộ sự thụ động thường có một thành phần hung hăng rất thù nghịch của nhân cách chỉ chực làm nổ tung cảm giác mà không có gì kiềm chế được và chiếm lâý cái nó muốn có. Nếu điều này được tiến hành lập đi lập lại trong môi trường chữa bệnh thì người đó cuối cùng sẽ có khả năng hợp nhất tính hung hăng lành mạnh của anh ta với phần còn lại của nhân cách mình. Thao tác tấn công này cần được tiến hành song song với thao tác chuyển tính thụ động thành tính dễ tiếp htu lành mạnh .
    Chuyển động hình tròn của con lắc bên trên luân xa càng méo mó thì biến dạng tâm lý càng nghiêm trong. Phân tách phải / trái nghiêm trọng nhất được chỉ rõ bằng chuyển động đi tới của con lắc tại một góc 45 độ với trục dọc của thân thể (P3, T4 ở Hình 10-2) . chuyển động con lắc càng lớn thì số năng lượng chứa trong biến dạng này càng nhiều. chẳng hạn, kích thước P6 của luân xa 4B chỉ rõ người đó sẽ lấy cái mà họ muốn có một cách đơn giản và hung hăng, bất chấp hoàn cảnh lúc đó.
    Quy luật chung tương tự về đo đặc mức độ nghiêm trọng vẫn đúng trong trường hợp con lắc đu đưa lui tới thẳng đứng (song song với trục dọc của thân thể (Đ) hoặc nằm ngang (thẳng góc với trục dọc của thân thể 9N). Diện mạo thẳng đứng chỉ rõ rằng cá thể này đang làm trệch hướng năng lượng lên xuống theo phương thẳng đứng, điều đó có nghĩa là anh ta đang tránh né tương tác cá nhân . Chuyển động nằm ngang của con lắc chỉ rõ rằng cá thể này đang nén ép và kết đọng dòng chảy năng lượng cũng như cảm giác, nhằm tránh né tương tác cá nhân. Chẳng hạn, số ghi Đ5 của con lắc tại luân xa 3A chỉ rõ rằng người này đang tập trung liên kết riêng của mình theo phương thẳng đứng, theo hướng tâm linh, và ĐANG TRÁNH NÉ QUAN HỆ CÁ NHÂN VỚI NGƯỜI KHÁC. Anh ta xác định mình là ai trong vũ trụ theo quan điểm của niềm tin tâm linh và tách ra khỏi diện mạo của con người có liên kết với người khác. Trái lại, số ghi N5 của con lắc tại cùng luân xa vừa rồi thường chỉ rõ rằng người đó đang không có liên kết với bất kỳ ai, ở mức tâm linh cũng như ở mức con người. điều này có thể dẫn đến sự cô lập cá nhân. Chuyển động đặc biệt này có thể đi vào trong một luân xa và im lắng (I) do ít sử dụng và kết đọng. Trường hợp như vậy cần phải tiến hành thao tác tâm lý động lực học mạnh mẽ lên thân thể .
    Khi một cá thể tập trung tác động tâm lý lên một diện mạo đặc biệt của mình do quyết định làm việc ấy xuất phát từ trong nội tâm hoặc do bị bắt buộc vì một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, thì luân xa hoặc các luân xa đăc thù có liên quan chắc sẽ biêủ lộ ra một chuyển động hỗn loạn hay không đối xứng (ThE trục thay đổi, NgE trục thay đổi như ở Hình 10-2. Chuyển động này sẽ làm cho con lắc đu đưa hỗn loạn, thường biểu hiện bằng một chuyển động elip phối hợp với một thay đổi trục. Trước hết, chuyển động này có thể làm cho người mới học bị lẫn lộn; tuy nhiên nêú con lắc được giữ bên trên luân xa trong thời gian lâu, thì có thể quan sát được thay đổi trục. Mô hình vòng tròn của con lắc trông tựa như hai mục cuối ở hình 10-2. Bất cứ lúc nào quan sát thấy kiểu chuyển động này, người thầy thuốc cũng biết được nhiêù điều tiếp diễn ở bệnh nhân. Đó là lúc phải tác động sâu sắc lên các vấn đề liên quan, nhưng cùng lúc đó lại phải cho bệnh nhân có thời gian và không gian riêng để tự mình tiến hành kiểm tra/ cải biến bản thân. Nêú có thể nghỉ công việc được một số ngày vào thời gian này và không bị chuyện làm ăn quấy rối, thì người ấy có khả năng tận dụng thời kỳ thay đổi lớn này của bản thân. Tôi thường thấy hiện tượng đó ở những người đang trải qua việc cải biến bản thân sâu sắc tiến hành tại cơ sở chữa trị tích cực hằng tuần.
    Khi đã sử dụng con lắc thành thạo hơn, thầy thuốc sẽ bắt đâù quan sát thấy thêm nhiều “đặc tính” trong các số đo. Tốc độ đu đưa (con lắc chuyển động nhanh ra sao) chỉ rõ số năng lượng chuyển hoá qua luân xa đó. Khi thực hành, thầy thuốc cũng có thể nắm bắt được” các đặc tính như khít khao, căng thẳng, hồ hởi, chán nản, u buồn, sầu khổ, yên bình và sáng sủa. Một đu đưa nhanh có thể là nhanh và khít khao, biểu thị sự làm việc quá sức, căng thẳng và thúc bách trong khu vực. Như vậy là do phát triển được thêm nhiều cảm giác nhạy bén đối với đặc tính của năng lượng chảy qua luân xa, thầy thuốc có thể biết được nhiều hơn về tình trạng bệnh nhân. Thầy thuốc có thể nói luân xa ổn định như thế nào, đã ổn định như vâỵ khoảng bao lâu, nó có thay đổi lui tới giữa hai trạng thái không và thêm nữa . Một luân xa có thể khai mở trong 20% hoặc 80% thời gian. Điều đó, người thầy thuốc có rèn luyện về cảm giác có thể “nắm bắt được” Dĩ nhiên, muốn được như vậy phải thực hành kèm theo xác minh.
    Các luân xa trải qua những giai đoạn khác nhau khi thay đổi từ bị bịt thành khai mở qua thao tác tích cực trong điêù trị. Quá trình thay đôỉ hệ thống niềm tin của con người lại chi phối lần nữa chuyển động của luân xa Một luân xa liên tục bị bít tại một đường kính lớn (Ng6) qua một thời gian sẽ có những lần giảm đường kính, xoay vòng lại rồi tăng đường kính theo hướng hài hòa cho đến khi trở thành Th6. Hoặc, hay gặp hơn, một luân xa Ng6, ví dụ ở luân xa tim hay luân xa đám rối thái dương trong vòng chừng dăm phút cá thể khóc nức nở, có thể xoay vòng lại thành Th6. Kiểu thay đổi này sẽ không giữ được lâu bởi vì khi người đó tiếp tục thao tác một thời gian dài thì luân xa có khuynh hướng cử “bỏ ngỏ” lâu hơn là mỗi lần nó khai mở. Điều này nâng cao tổng thời gian phần trăm của hoạt động hài hòa, và người đó tự cảm thấy vui vẻ trong những khoảng thời gian dài hơn. Lâu ngày, luân xa sẽ ổn định về tư thế khai mở và sẽ hiếm khi bị bít. Bấy giờ cá thể thường tiến lên thao tác trên luân xa bên cạnh đang hoạt động kèm hài hòa quấy rầy hạnh phúc thường ngày của mình.
    Tôi đã thấy rằng khi một luân xa bị bít mãn tính nay được khai mở trong buổi chữa thì một luân xa khác ngày thường vẫn khai mở bổng nhiên bít lại để bù trừ. Tính cách con người không thể chịu được trạng thái “bỏ ngỏ” mới mà không có một vài mức độ “bảo vệ” tưởng tượng nào đó vào lúc mới bắt đầu.
    Nghiên cứu một trường hợp tái chữa trị tích cực.
    Bây giờ chúng ta hãy xem xét các dung mạo luân xa được đo đạc thực sự trong trong một trường hợp. Đó là một phụ nữ tới Trung tâm Phoenicia Pathwork ở Phoenicia, New York , hai lần cách xa nhau để được tái chữa trị hằng tuần, bao gồm thao tác rất mạnh. Lần đầu vào năm 1979, lần thứ hai vào năm 1981. Lần sau chị đến cùng với người chồng mới, và cả hai được thao tác rất mạnh theo cặp. Các số đo của luân xa được lấy trước khi thao tác và sau khi hoàn tất tuần chữa trị. Mọi số đo đều được lấy khi bệnh nhân ở trạng thái rất thanh thản, và trước đó một thời gian cũng đã thanh thản như vậy cho tới ngày đo. Số liệu được trình bày trên Hình 10-3. Để hiểu được các số đo này, bạn cần sử dụng Hình 7-3, Hình 9-1 và Hình 10-2 trong chương này về chú giải của từng luân xa .
    Như bạn có thể thấy qua các số đo, các trung tâm hoạt động hài hòa nhất là trung tâm lý trí, rồi đến trung tâm cảm giác, kém nhất là trung tâm ý chí. điều đó có nghĩa là chị ta có trí tuệ tốt, đặc biệt trong các khái niệm về thực tại (6A) và trong sự hợp nhất nhân cách và tâm linh (7)
    Hình 10-3


    Trung tâm ý chí thừa hành tâm thần (6B) có phân tách phải/trái trong phần lớn thời gian điều này có nghĩa là chị có khuynh hướng trở nên hung hăng đúng vào thời điểm mà nếu chị trở nên dễ tiếp thu thì sẽ thích hợp hơn trước các tình huống liên quan đến việc thực hiện từng bước những ý đồ của chị. Chị sẽ quyết định làm gì và sẽ tiếp tục làm gì đó từng bước, mà chẳng cần biết đã đúng lúc bắt đầu hay chưa. Khi chị tới chữa trị lần đầu, trung tâm này rất hung hăng. Đợt chữa thứ nhất kết thúc, trung tâm này dịu xuống, không còn hung hăng và phần nào im ắng. Dạng hình im ắng này không duy trì được hoặc không chuyển được sang trạng thái hài hòa như vẫn thường có trước đó. Hai năm sau, khi chị trở lại, trung tâm đó lại hung hăng; và tình hình này không thay đổi trong suốt đợt chữa trị thứ hai. Vào thời gian đọc luân xa lần cuối, chị vẫn hung hăng quá mức khi thực hiện các ý đồ. Đây là trường hợp duy nhất không có thay đổi gì trong các luân xa. Mọi luân xa ở người khác thì đến cuối đợt chữa thứ nhì là cân bằng.
    Các trung tâm ý chí khác của chị cũng cho thấy có vấn đề, với một trung tâm không hoạt động ở thời điển này hay thời điểm khác trong suốt nhiều tuần. Khi chị tới vào năm 1979, các luân xa 5B, 3B và 2 B đều không hoạt động chính xác. Điều đó có nghĩa là chị hung hăng một cách tiêu cực trong giới hạn của kiêu hãnh (luân xa 3B) , và làm nhụt sức mạnh tình dục của mình. Chị làm nhụt sức mạnh tình dục của chị bằng cách tách dòng chảy năng lượng ở luân xa 2B thành bốn phần (con lắc cho thấy 4 vòng tròn rõ rệt và riêng rẽ) và sử dụng dòng chảy năng lượng theo những cung cách tiêu cực, như mâu thuẫn với chồng cũ chẳng hạn. Sau đợt chữa thứ nhất, tiến bộ duy nhất trong hoạt động ý chí của chị nằm trong khu vực kiêu hãnh bấy giờ đã giảm bớt và trở thành hoạt động tích cực trong khu vực nghề nghiệp (5B). Nó vẫn còn có một thành phần quá nhanh nhảu lúc đó thay cho kiêu hãnh để bù đắp vào cảm giác hụt hẩng trong khu vực đó. Khi chị trở lại chữa đợt thứ nhì sau hai năm, chị vẫn còn mang theo mình những vấn đề tương tự về ý chí. Trong thời gian điều trị đợt thứ nhì này, các vấn đề đó đã được giải quyết và tất cả các trung tâm ý chí bắt đâù hoạt động bình thường.
    Các trung tâm cảm giác cho thấy một số khó khăn, nhưng không nhiều như ở các trung tâm ý chí. Trung tâm tim (4A) vẫn khai mở suốt cả hai năm (chị này tốt bụng khi yêu thương). Trung tâm họng (5A) cho thấy có rối loạn kèm theo hạn chế dinh dưỡng và khăng khăng phủ nhận các nhu cầu. Tình hình này dịu đi khi kết thúc đợt điều trị thứ nhất, và hai năm sau khi chị trở lại thì đã được giải quyết, phần lớn qua việc xây dựng mối quan hệ rất tử tế với người đàn ông mà chị yêu. Mặt khác, trung tâm đám rối thái dương (3A) , liên quan đến con người thực sự của ta trong vũ trụ, bị bít khi chị đến lần đầu . Trong đợt chữa thứ nhất, luân xa này khai mở, nhưng sau đó, sang năm thứ hai thì lại bị bít. Cuối đợt chữa thứ hai, luân xa này lại khai mở và chuyển hóa nhiều năng lượng hơn.
    Bạn có thể thấy rằng trung tâm sức mạnh tình dục của chị trở nên sáng sủa khi mối quan hệ của chị với bạn tình ổn định và được xác định rõ ràng qua thao tác chữa trị theo cặp.
    Trong đợt điều trị đâù tiên, chị đã khai mở các trung tâm cảm giác của mình và bắt đâù thấy an toàn trong thế giới cảm giác của vũ trụ. Trong đợt điều trị thứ hai, khi thao tác nhiều lên các trung tâm cảm giác vốn không bị bít nhiêù như các trung tâm ý chí, chị đã có thể đương đâù với sự lạm dụng ý chí của mình và làm cho nó cân bằng lại. Như bạn đã thấy trên các số đo, phần nhiều các luân xa cho thấy những đường kính lớn, nghĩa là người có hệ thống năng lượng này rất có năng lực.
    Thật thú vị ghi nhận rằng các trung tâm đỉnh đâù, con mắt thứ ba và tim đều vẫn khai mở trong thời gian hai năm liền. Điều này có nghĩa là chị liên kết chặt chẽ với thế giớ tâm linh, với thực tại nhậnthức và có khả năng yêu thương. Đây, bức tranh toàn bộ nhân cách chị. Chức năng sáng suốt chủ yếu của chị là lý trí và là cái mà chị bù đắp cho cũng như bảo vệ chống lại các cảm giác dễ tổn thương bằng ý chí quá hung hăng.
    Như tôi đã nói ở trên, vào cuối đợt điều trị thứ hai, toàn bộ các trung tâm, ngoại trừ trung tâm thừa hành ý chí, đã hoạt động tốt. Chừng nào mà chúng giữ được như thế thì chị còn được cần bằng về lý trí, ý chí, về các chức năng cảm xúc , sẽ dẫn tới một cuộc sống hạnh phúc và cân bằng hơn .
    Điểm lại Chương 10
    1. Số đo Th6 của con lắc có ý nghĩa gì đối với tiền diện mạo của luân xa 4?
    2. Số đo Ng5 của con lắc có ý nghĩa gì đối với hậu diện mạo của luân xa 3?
    3. Số đo Đ6 của con lắc có ý nghĩa gì đối với tiền diện mạo của luân xa 2?
    4. Số đó Ng4 của con lắc có ý nghĩa gì đối với luân xa 5 phía trước về thể chất cũng như về tâm lý.
    5. Số đo N5 của con lắc có ý nghĩa gì với hậu diện mạo của luân xa 2?
    Để làm động não .
    6. Nếu bạn thao tác với ai đó để khai mở các trung tâm tim và sinh dục và bạn thành công, tại sao có thể họ bít luân xa đám rối thái dương lại? Như vậy có tốt không?

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •