Trang 3 trong 8 Đầu tiênĐầu tiên 12345678 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 41 tới 60 trên 155

Ðề tài: Về sư Thông Lạc: GHPGVN im lặng mới là "hiện tượng"

  1. #41

    Mặc định

    Nhiều khi con ếch nó ở dưới giếng nên nó bảo trời tròn bằng cái miệng giếng . Chúng ta không trách nó được !

    Người không chịu tu rồi nói không có cảnh giới tây phương cực lạc của đức Phật A Di Đà vậy là đâu có được . Có tu đâu mà chứng ? Khi xưa chưa có nhà ngoại cảm như cô Bích Hằng thì nhiều người đâu tin có ma peace

  2. #42

    Mặc định

    nếu như đạo nào tốt thỉ mình nên phát huy chứ cứ la lên là chánh pháp mà không giúp ích được cho đời mà la là chánh pháp thì ...... nên suy nghĩ lại !

  3. #43

    Mặc định

    thế thì như thế nào là chánh pháp ???

  4. #44
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    .............là không phải Tà pháp !!!!!!!!!
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  5. #45

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi gioidinhtue Xem Bài Gởi
    "HỮU XẠ TỰ NHIÊN HƯƠNG". Đức Dalai Lama Tenzin Gyatso XIV đâu có nói mình đã chứng, đã ngộ gì đâu. Qua trí tuệ và lòng từ bi của Ngài, Ngài được mọi người tôn sùng như hóa thân của đức Phật Bi Mẫn Quán Thế Âm đó chớ. Tu chứng thật sự là như vậy đó. Đâu có ai tu chứng mà huênh hoang khoe rằng "Tôi đã chứng Tam Minh, đã làm chủ sinh tử" đâu. Vị nào mà nói như thế chứng tỏ đã đứt giới luật, đã kết đảng với Ma rồi !
    -MỘt vị đã chứng quả A La Hán thì vô cùng kín đáo, bởi các Ngài lúc nào cũng xem mình như cỏ rác.. không dễ gì để lộ quả chứng của mình, chỉ trừ trường hợp được chính Đức Phật tuyên bố.
    -MỘt vị đã chứng quả A la hán tức đã chứng được Tam MInh, Lục Thông, hoàn toàn vô ngã.
    -Là phước điền vô lượng của chúng sinh. Đáng được Trời , Người tán thán, cúng dường.
    -Tha lực từ một bực A La Hán có thể khiến vạn loài phải đãnh lể, làm rung chuyển cả đất trời
    -MỘt lời các Ngài nói ra vô cùng nhẹ nhàng thanh thoát, mà lại trầm hùng như tiếng rống của 1 ngàn con Sư tử chúa.
    - Đó là những đặc điểm phải có của 1 vị A la Hán.
    - Bạn có thể tự cho mình kết quả.
    "Đừng cố sử dụng kiến thức Phật học để thành tín đồ; hãy sử dụng nó để bạn trở nên tốt hơn"

  6. #46

    Mặc định

    huynh giới định tuệ ơi! huynh có thể cho mình biết lý lịch trích ngang của huynh tí hông. Xin lỗi trước nha!!! tùy huynh!!!

  7. #47
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi coithienthu35 Xem Bài Gởi
    huynh giới định tuệ ơi! huynh có thể cho mình biết lý lịch trích ngang của huynh tí hông. Xin lỗi trước nha!!! tùy huynh!!!
    Ờ Ờ ! CÔNG AN hả ?
    Em tên là : Nguyễn Lê Quang Khánh.
    Tuổi: 18.
    Nghề nghiệp: Sinh viên trường Cao Đẳng Kĩ Thuật Y Tế II.
    Nơi ở hiện tại: P. Hải Châu II, Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng.
    Có cần em khai thêm tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi ở của ông, của bà, của ba, của mẹ, của anh, của chị, của em,...và của.............hàng xóm nữa không CA ?????:votay:

    Last edited by gioidinhtue; 11-01-2011 at 08:25 PM.
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  8. #48

    Mặc định

    dạ cần! khai thêm đi anh! em năn nỉ đó. ra giêng em cưới anh. Muốn nói yêu anh nhưng sợ anh uh!!!!!!!!!!!

  9. #49
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Zậy thì anh "uh" cho em sợ nèk. Tưởng hỏi để làm chi, ai dè....................."Oan gia ngõ hẹp". Hahaha.
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  10. #50

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi tam_ha Xem Bài Gởi
    Có người nói thắc mắc nói rằng bồ tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn là lừa đảo, không có thực vì làm gì có chuyện Phật, Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, chuyện đó không bao giờ có vì nếu có được là trái với luật nhân quả vì anh làm ác mà đến khi phải trả quả báo ác rồi anh cầu Bồ Tát nếu được thì không còn công bằng vì họ cứ làm ác đến khi trả nghiệp thì họ lại cầu cứu thì luật nhân quả để làm gì? Người đời sẽ không làm lành lánh dữ nữa mới nghe thì tôi thấy có lý quá nhưng tôi phân tích lại thì thấy thế này xin các thiện hửu tri thức cùng thảo luận.
    Định nghĩa bồ tát: Là người người không những không sát sanh mà còn phóng sanh, không những trộm cắp mà còn bố thí, luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ chúng sanh. Bồ-Tát không chỉ sống riêng cho mình mà còn sống cho kẻ khác nữa. Tinh thần phục vụ vị tha là đức tánh căn bản của tất cả chư vị Bồ-Tát.
    Ta thấy rằng những việc xảy ra hàng ngày ở trên đời này gồm có:
    1. Những người đang trả nghiệp: Bị bệnh tật, tai nạn …do gây nghiệp ác nên theo luật nhân quả họ phải chịu quả báo
    2. Những nạn nhân của kẻ gây nghiệp: Bị giết người,bị sát sanh, bị cướp của.
    Để trừng trị những kẻ ác thì có luật pháp của nhà nước và luật nhân quả nhưng để bảo vệ người bị hại thì có công an, có bồ tát (là người tu theo hạnh bồ tát, hoặc bồ tát trong kinh ĐT) cứu giúp
    Kết luận việc cứu giúp của CA hoặc BT không hề trái luật pháp và nhân quả. Việc cứu giúp này phù hợp với tinh thần ban vui cứu khổ của Phật
    Trước nhất tôi xin tái khẳng định một lần nữa cho các đạo hữu biết "niềm tin là mẹ đẻ của tất cả các công đức". Mọi tôn giáo đều đặt niềm tin vào một chân lý nào đó. và đạo phật đặt niềm tin kiên cố vào lý nhân quả. đó là điều chắc chắn. Thế nhưng hiểu như người này về nhân quả rồi quay lại phỉ báng chư phật và bồ tát quán thế âm thì thật là tội lỗi. Đúng là gieo cái nhân nào thì gặt cái quả đó, nhưng cái gì cũng là tương đối. Nghiệp của người ta cũng là tương đối, có thể cải thiện được. ví dụ như đất cằn cỗi thì bón phân, ruộng hạn thì tưới nước. Do vậy ác nghiệp có thể cải thiện bằng thiện nghiệp qua quá trình tích lũy. Dù là ruộng cày lên sỏi đá mà cố công cải tạo, bòn phân thì đất cằn cỗi cũng sinh được lúa thơm. chỉ sợ người thấy ruộng khô cằn mà bỏ hoang phế thì đói khổ nghèo cùng phước đức. Hạng này mới lãnh thọ quả báo. Có câu đánh kẻ chay đi không ai đánh người chạy lại. Kẻ muốn được cứu độ trước tiên tự mình phải giác ngộ để dừng lại ác nghiệp
    Ðức Phật cảm hóa được kẻ cướp sát nhân Angulimàla
    (Theo Chú giải Kinh Angulimàlasuttavannanà - Bộ chú giải Majjhimapannàsa, kinh Angulimàlasuttavannanà).


    Ðại đức Angulimàla vốn tên thật là Ahimsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn, trong một gia đình quý tộc nhiều đời. Thân mẫu Ngài tên Mantanì; thân phụ Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.
    Trong đêm Ngài sinh ra đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Ðức vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh sáng thép lạnh buốt, làm cho Ðức vua kinh hoàng.
    Ông Bà la môn, thân phụ của Ngài Angulimàla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao "kẻ cướp sát nhân" vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào đời của ông. Sau nầy nó sẽ trở thành tên cướp giết người khét tiếng!
    Là quân sư của Ðức vua, người nắm cán cân công lý và sự an nguy cho xã tắc, ông Bà la môn không cho phép mình vì tình riêng mà dấu kín mầm móng tai họa, nên trời vừa sáng, ông đã vào chầu Ðức vua Pasenadi tâu rằng:
    - Ðêm qua bệ hạ ngủ có được an giấc hay không?
    Ðức vua đáp:
    - Thưa quân sư khả kính, Trẫm có ngủ yên được đâu! Không biết điềm xấu gì xảy ra mà thanh gươm báu của Trẫm đặt ở trong bao lại phát ra ánh sáng chói lòa rất là khủng khiếp. Trẫm lo sợ có điều tai họa gì đó liên quan đến tánh mạng của Trẫm, hoặc có chuyện bất trắc gì xảy ra cho ngai vàng của Trẫm chăng?
    - Tâu bệ hạ - vị quân sư mau mắn đáp - đêm qua hạ thần có xem thiên văn, quả thật có một hung tinh vừa xuất hiện. Nhưng điềm xấu ấy không liên hệ gì đến tánh mạng cũng như ngai vàng của bệ hạ.
    Tâu bệ hạ, không những chỉ riêng thanh gươm báu của bệ hạ, mà còn tất cả các loại vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng; đó là do năng lực ác nghiệp của con trai hạ thần vừa mới ra đời đêm qua.
    Ðức vua ngạc nhiên:
    - Có chuyện như vậy sao! Quân sư hãy nói rõ cho Trẫm nghe!
    - Tâu bệ hạ, con trai hạ thần vừa mới hạ sanh đêm qua ứng vào vị hung tinh ấy. Sau nầy, nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân rất nguy hiểm.
    - Thật vậy sao? Ðức vua hỏi. Nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân? - chỉ là một tên cướp sát nhân thôi, hay là thủ lãnh một nhóm trộm cướp chuyên giết người, cướp của, dã man, tàn bạo, phá xóm, phá làng... và đe dọa cả ngai vàng của Trẫm?
    - Không phải vậy, tâu bệ hạ! Nó chỉ là một tên cướp. Một mình nó thôi. Tuy chẳng tổn thương gì đến bệ hạ và ngai vàng, nhưng để tránh những tai họa về sau, thần xin phép bệ hạ cho thần được giết chết nó khi đang còn nhỏ.
    Ðức vua Pasenadi vốn là một vị vua hiền đức, nghe vậy liền có lời can ngăn:
    - Ðừng nên làm như thế, thưa quân sư khả kính! Nếu chỉ là một mình nó thì không thể gây ra tai họa lớn lao được. Trẫm biết rõ quân sư một đời nghiêm minh, thận trọng, chí công vô tư, không vì tình riêng mà che mờ phép nước. Nhưng đứa trẻ kia vừa mở mắt chào đời, chưa làm gì nên tội, xin quân sư hãy tha mạng sống cho nó.
    Nếu bảo là do năng lực của ác nghiệp, thì quân sư nên tìm cách ngăn chặn, bằng cách nuôi dưỡng nó trong môi trường đạo đức, như vậy thì quả của ác nghiệp khó có cơ hội phát sanh.
    Quân sư hãy chăm sóc, nuôi nấng, dạy bảo nó trở nên con người hiền lương. Ví như thanh gươm nằm trong vỏ, mũi tên nằm trong bao tên, thì nó làm sao có thể hại đến ai được!
    Vậy quân sư nên đặt tên cho đứa trẻ là Ahimsaka (người không làm hại, làm khổ đến ai).
    Bà la môn Gagga nghe vậy, cúi đầu tuân phục, ông cảm kích và tri ân Ðức vua hiền minh không kể xiết.
    Cậu bé Ahimsaka lớn lên, rất thông minh dĩnh ngộ, lại có sức mạnh phi thường, sống trong gia đình dòng dõi Bà la môn có truyền thống đạo đức lâu đời, cho nên cậu bé được nuôi dưỡng và giáo dục tốt trong một môi trường sống hiền hòa, tạo nhân tạo duyên cho thiện pháp phát sanh, những phẩm chất hiền lương của con người càng thêm tăng trưởng.
    Khi đứa bé lớn, đến tuổi đi học, ông Bà la môn Gagga gởi con du học xứ Takkasilà, tại ngôi trường đào tạo các vị Hoàng tử, con cháu Bà la môn từ các quốc độ... có vị đã trở thành đấng minh quân, những nhà lãnh đạo tài ba, những bậc hiền triết uyên thâm....
    Là đứa trẻ vốn có thiên tài xuất chúng, nên bất cứ môn học nào Ahimsaka cũng đều xuất sắc hơn các người học trò khác. Ngoài ra, cậu là người học trò luôn luôn làm tròn tất cả mọi phận sự đối với thầy, mọi lễ nghi phép tắc... không ai có thể chê cậu ở một điểm nhỏ nào. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka đều vẹn toàn, cho nên, người thầy Bà la môn và phu nhân của thầy rất hài lòng, thương yêu Ahimsaka và xem như đứa con ruột của mình.
    Mọi sự việc ấy làm cho bạn bè đồng học ganh tỵ, họ bàn luận với nhau rằng: "Kể từ khi có mặt Ahimsaka nơi nầy, trong chúng ta không có một ai hơn nó, dầu chỉ một bộ môn nào. Nó là người có tài trí hơn hẳn chúng ta về mọi phương diện kể cả đạo đức. Ahimsaka là người học trò tài đức vẹn toàn, luôn luôn được thầy khen, ngược lại tất cả chúng ta là Hoàng tử, công tử... mà thầy quở trách chúng ta. Ðó cũng chỉ vì Ahimsaka quá tài giỏi hơn chúng ta gấp bội, còn chúng ta so với nó thì quá kém cỏi mà thôi".
    - Vậy chúng ta có mưu kế nào để đuổi Ahimsaka ra khỏi trường nầy không?
    - Chúng ta chẳng có cách gì nói xấu Ahimsaka được.
    - Nếu nói Ahimsaka thuộc dòng dõi thấp hèn ư? Chẳng thể nào, vì Ahimsaka thuộc dòng dõi Bà la môn cao quý, là con của ông Gagga, vị quân sư của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.
    - Nếu nói Ahimsaka là đứa học trò không làm tròn bổn phận, vô lễ với thầy ư? Chẳng thể nào vì Ahimsaka là người học trò làm tròn bổn phận, có lễ phép, tôn kính thầy hơn tất cả chúng ta....
    Cuối cùng có một người trong nhóm đưa ý kiến:
    "Tất cả chúng ta chia ra làm ba nhóm, và nhóm nào cũng đều thưa với thầy một điều giống nhau. Ban đầu có lẽ thầy không tin, thầy quở trách, chúng ta phải nên kiên nhẫn chịu đựng, nhưng dần dần thầy sẽ hoang mang ngờ vực và cuối cùng thầy sẽ tin".
    Tất cả xem đó là một mưu kế hay.
    Thế là theo kế hoạch, phải thực hiện tuần tự theo thời gian.
    Ngày hôm sau, vào một dịp thuận lợi nhất, nhóm thứ nhất vào quỳ và thưa thầy rằng:
    - Ai cũng biết bạn Ahimsaka là người học rất giỏi, có tài trí, lễ phép, từ lâu rất được thầy yêu bạn mến, nhưng chúng con nghi y có âm mưu hại thầy, chúng con kính yêu thầy, xin thưa cho thầy biết để đề phòng trước thì hơn.
    Nghe nói vậy, vị thầy rất bực tức quở trách họ, vì cho rằng họ có ác tâm muốn làm tổn thương tình cảm giữa ông và Ahimsaka, người học trò ông rất mực thương yêu như con, bèn xua đuổi nhóm đó đi ra ngoài ngay.
    Một thời gian sau, y theo kế hoạch, nhóm thứ nhì với số người đông hơn, cũng vào quỳ hầu thầy và thưa chuyện với nội dung y như lần trước. Họ cũng bị thầy quở trách rồi đuổi đi ra. Một thời gian lâu sau, nhóm thứ ba cũng thưa như hai nhóm trước, vị thầy cũng đối xử như hai nhóm trước. Mặc dầu vậy, nhóm thứ ba nầy tỏ vẽ khẩn khoản van xin thầy: nếu thầy không tin chúng con, xin thầy xem xét Ahimsaka có tài trí khác thường, nếu y mưu tính việc lớn thì khó ai biết được.
    Sau nhiều lần, vị thầy bắt đầu suy nghĩ: "Sao cả ba nhóm học trò nầy đều thưa một việc giống nhau? và chúng đều có ý lo lắng cho sự an toàn của ta".
    Vị thầy bắt đầu hoang mang ngờ vực, khi đã ngờ vực rồi thì mọi hành vi cử chỉ, lời nói của Ahimsaka cũng đáng nghi cả. Sự nghi ngờ ấy tuy chưa tìm ra chứng cớ rõ ràng, nhưng vị thầy cảm thấy lo sợ, bất an, vị thầy nghĩ: "Cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ sanh mạng của ta là phải tìm kế hạ thủ trước. Nếu tự tay ta đầu độc hoặc giết chết y, bọn học trò sẽ biết, và như vậy thì vua chúa, Bà la môn, quý tộc... cũng sẽ biết, tiếng xấu sẽ lan truyền ra mọi quốc độ rằng: "thầy mà giết chết học trò", thì còn gì là uy tín và đạo đức của ta nữa. Khi thiên hạ mất đức tin ở nơi ta thì họ sẽ không còn gởi con cháu đến đây học nữa. Khi ấy, danh vọng ta sẽ mất mà lợi lộc cũng không còn! Vậy tốt hơn hết ta hãy bày ra một kế để cho người ta giết Ahimsaka".
    Vì nghĩ như thế, nên một hôm ông gọi Ahimsaka lại bảo:
    - Nầy Ahimsaka con yêu quý, con là một người học trò có tài trí phi thường, con rất xứng đáng, nên thầy muốn truyền dạy môn học tột bậc cho con, với điều kiện con phải giết đủ một ngàn người đem trình cho thầy, để ứng dụng vào môn học ấy, cũng đồng thời là sự tạ ơn thầy một cách xứng đáng với công lao nuôi dạy của thầy.
    - Kính thưa thầy, con sanh ra ở dòng dõi Bà la môn cao quý, con không thể nào giết hại người được, bạch thầy - Ahimsaka thưa.
    Vị thầy dạy rằng:
    - Nếu như vậy, con không thể nào thành đạt đến tột cùng môn học, thật là uổng công lao nuôi dạy của thầy! Con không đền đáp được công ơn thầy.
    Ahimsaka nghe thầy nói vậy, bất đắc dĩ phải làm theo lời thầy, xem là việc đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy, nhưng thật tâm hoàn toàn không thích làm việc bất lương như vậy.
    Sau khi lạy từ giã thầy, Ahimsaka mang năm loại vũ khí theo mình đi vào rừng, chờ có ai đi vào rừng hay đi ngang qua rừng sẽ giết. Vì tâm không ham thích giết người, đây chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ nên chàng không nhớ rõ đã giết bao nhiêu người rồi. Sau đó, hễ giết được một người, chàng cắt lấy một đầu ngón tay cho dễ đếm, những ngón tay để rãi rác bị thất lạc, hoặc các loài thú ăn mất. Cuối cùng, Ahimsaka nghĩ ra một cách là xâu những đầu ngón tay nầy thành vòng đeo ở cổ. Từ đó chàng có biệt danh là Angulimàla: có nghĩa là kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ.
    Dân chúng trong thành nghe đến tên cướp sát nhân Angulimàla thảy đều kinh sợ, không ai dám đi một mình qua khu rừng, nhưng dầu đi từng toán từ 10 người - 20 người hay 30 người cũng không một ai thoát khỏi lưỡi đao của Angulimàla.
    Tiếng đồn vang xa từ làng nầy qua làng khác quanh vùng, không ai dám đi ngang qua khu rừng ấy. Thế là bắt buộc Angulimàla phải vào xóm làng tìm người để giết cho đủ số 1000. Dân chúng kinh sợ bỏ xóm làng, đi lánh nạn sang nơi khác cách xa khu rừng ba do tuần.
    Chuyện Angulimàla giết hại mọi người náo động đến kinh thành Sàvatthi. Một nhóm các bô lão đại diện dân chúng xin vào cầu cứu Ðức vua Pasenadi rằng:
    - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu dân vô tội, tên Anguli-màla kẻ cướp giết hại nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ, dân chúng kinh sợ đã bỏ xóm làng đi lánh nạn sang nơi khác, chịu cảnh cực khổ thiếu thốn.
    Kính xin bệ hạ bắt y trị tội để chúng con được trở về quê hương yên ổn làm ăn.
    Nghe dân chúng kêu van thảm thiết như vậy, Ðức vua liền hội triều hỏi ý kiến các quan. Ðức vua quyết định thân chinh cầm đầu dẫn quân truy bắt Angulimàla, tên cướp giết người để trị tội.
    Trong buổi hội triều, vị Bà la môn Gagga, quân sư của Ðức vua Pasenadi có linh tính báo cho biết Angulimàla tên cướp sát nhân ấy không ai khác mà chính là Ahimsaka, con trai yêu quý của ông.
    Bãi triều, về nhà, ông âu sầu kể lại cho bà Mantanì, vợ ông, biết rằng: Nầy phu nhân "tên cướp sát nhân" ấy không phải ai khác mà chính là Ahim-saka, đứa con trai yêu quý của chúng ta.
    Nghe vậy, bà Mantanì khóc lóc cầu xin chồng đi tìm con trở về nộp cho Ðức vua, xin Ðức vua từ bi ân xá tội chết, trước khi Ðức vua truy bắt.
    Ông Bà la môn cũng thương yêu con, nhưng bây giờ nó đã trở thành kẻ cướp sát nhân rồi, ông Bà la môn là bậc trí thức biết suy xét về lời dạy của bậc hiền triết ngàn xưa có dạy rằng: "Có bốn hạng người không nên đặt niềm tin vào họ" :
    - Là tên cướp sát nhân, dầu trước đây hắn là bạn cũ.
    - Là bạn cũ, dầu đã từng sống chung với nhau lâu năm.
    - Là Ðức vua, dầu được Ðức vua tin cẩn.
    - Là đàn bà, dầu trước đây đã từng đối xử rất tốt với bà ta.
    Suy ngẫm bốn hạng người nầy, con trai của ông là một trong những hạng người ấy, không nên đặt niềm tin vào nó. Cho nên, ông Bà la môn từ chối lời yêu cầu của vợ.
    Biết vậy, bà Mantanì rất nóng lòng vì thương yêu đứa con của bà, với tình thương yêu của một người mẹ, bà nghĩ: "nó là gì đi nữa, thì nó cũng chỉ là đứa bé nhỏ dại, đáng thương, đáng yêu của mình, đáng được tha thứ!".
    Thế là chẳng quản gian lao vất vả, nguy hiểm, bà Mantanì quyết đi tìm Ahimsaka, đứa con yêu quý của bà.

    ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA

    Cuối canh chót đêm ấy, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, sau khi xả định, quán xét chúng sanh có duyên lành nên tế độ, Ðức Thế Tôn nhìn thấy Angulimàla hiện trong mạng lưới đại bi của Ngài. Ngài biết rằng: duyên lành của Angulimàla đã đến, Như Lai sẽ tế độ Angulimàla, chỉ cần nghe lời giải đáp xong Angulimàla sẽ phát sanh đức tin trong sạch, từ bỏ mọi vũ khí, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau Angulimàla sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Thánh Quả cùng với Tam minh.
    Ðức Thế Tôn còn thấy rõ rằng: nếu Ngài đến chậm trễ, Angulimàla sẽ giết mẹ, phạm trọng tội trong ngũ vô gián nghiệp thì vô phương cứu thoát.
    Thế rồi, sáng hôm ấy, Ðức Thế Tôn đi vào thành Sàvatthi để khất thực như lệ thường, sau khi độ ngọ xong, dọn dẹp chỗ ở, rồi Ðức Thế Tôn chỉ một mình mặc y, mang bát đi theo con đường mòn nhỏ nhắm hướng đi thẳng đến khu rừng nơi ở của Angulimàla.
    Dân chúng bên đường nhìn thấy Ðức Thế Tôn (không nhận biết được Ðức Phật) đi theo con đường vào khu rừng nơi trú ngụ của Angulimàla, lo sợ Ngài bị giết bèn ra ngăn cản:
    - Kính bạch Sa môn, kính xin Ngài đừng đi theo con đường nầy, ở trong khu rừng kia có tên Angulimàla là kẻ cướp giết người, bất luận là ai y cũng không thương xót. Kẻ cướp sát nhân nầy đã tàn sát dân làng già trẻ, dân chúng còn sống sót kinh sợ đều bỏ làng đi lánh nạn nơi khác. Một vùng đất rộng bên trong kia chỉ còn cảnh tiêu điều vắng vẽ, không một bóng người qua lại.
    - Kính bạch Sa môn, trước đây có những toán người đông 20 người, 30 người, 40 người... đi qua con đường nầy cũng đều bị Angulimàla sát hại, không còn một ai sống sót cả. Kính xin Sa môn đừng vào nơi nguy hiểm ấy.
    Ðức Thế Tôn nghe dân chúng bạch đến ba lần, rồi dạy:
    - Các con hãy an tâm! Không có điều gì xảy đến với Như Lai đâu! Rồi Ngài vẫn tiếp tục đi.
    Hôm ấy, Angulimàla nghĩ rằng: "Ta sống ở đây đã lâu rồi, ta đã giết rất nhiều người, những người chết mà ta đã cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đếm được 999 ngón, chỉ cần giết thêm một người nữa, cắt một đầu ngón tay là tròn đủ 1000 ngón, là đủ 1000 người; ta cần phải ra ven rừng, hễ nhìn thấy người nào trước tiên là giết người ấy cho đủ số, đem về trình cho thầy, để đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy và thầy sẽ truyền đạt bộ môn tột bậc cuối cùng cho ta. Lúc đó ta sẽ cạo râu, cắt tóc thay đổi y phục, xin bái tạ thầy trở về hầu thăm cha mẹ".
    Nghĩ xong, Angulimàla mang vũ khí đi ra ven rừng. Người trước tiên mà y nhìn thấy từ xa đang đi đến là bà Mantanì, mẹ của y. Bà Mantanì nhận ra người cầm gươm kia là con của mình, bà vui mừng gọi tên con Ahimsaka! Ahimsaka! Con yêu quý! Nghe gọi vậy, Angulimàla nhận biết người đàn bà kia là mẹ của mình, nhưng do tà kiến chấp thủ, với ý nghĩ "người nào trước tiên" là giết liền cho đủ số 1000 người, nên y đành lòng phải giết mẹ thôi!
    Angulimàla chạy ra đón đường thì bỗng nhiên nhìn thấy Ðức Phật, xuất hiện ở khoảng giữa y và mẹ của y, Angulimàla liền thay đổi ý định thay vì giết mẹ, thì giết vị Sa môn đi một mình này. Angulimàla cầm gươm đuổi theo Ðức Phật, Ðức Phật dùng thần thông bước đi chậm rãi khoan thai như bình thường, nhưng đằng sau, Angulimàla đã cố chạy đuổi theo hết sức lực mà vẫn không bắt kịp Ngài.
    Angulimàla thoáng nghĩ: "Thật lạ thường thay! Chưa từng có bao giờ! Trước đây dầu voi, ngựa, nai, xe ngựa chạy ta cũng chạy đuổi theo bắt được dễ dàng. Nhưng bây giờ dầu ta đã chạy hết sức mà vẫn không đuổi kịp vị Sa môn đang bước đi khoan thai chậm rãi kia".
    Angulimàla cầm gươm chạy đuổi theo Ðức Phật suốt ba do tuần, đã đuối sức, dừng chân lại, cất tiếng gọi lớn.
    - Này ông Sa môn kia, Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!
    Ðức Phật biết được nhân duyên đã đến, Ngài vừa chậm rãi bước đi, vừa cất giọng phạm âm dạy vọng lại:
    - Này Angulimàla, Như Lai đã dừng lại lâu rồi! Còn chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!
    Nghe vậy, Angulimàla rất ngạc nhiên suy nghĩ: những Sa môn dòng Sakya này là bậc thường hay nói sự thật, nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy. Nhưng tại sao, ở đây, rõ là ông Sa môn này đang bước đi mà nói là: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn ta là người dừng chân lại rồi, ông Sa môn lại nói: "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!", thế là nghĩa làm sao?
    Angulimàla bèn hỏi Ðức Thế Tôn rằng:
    - Này ông Sa môn, rõ ràng ông đang đi mà lại nói: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn tôi thì đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại", nghĩa là sao?
    Ðức Phật thuyết giảng dạy Angulimàla rằng:
    - Này Angulimàla, thật vậy, Như Lai đã dừng lại lâu rồi. Nghĩa là Như Lai đã từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh từ lâu rồi; còn con chưa từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh. Vì vậy, Như Lai mới gọi "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại".
    Angulimàla vừa nghe xong, tỉnh thức ngay, liền ném các loại vũ khí xuống hố sâu bên sườn núi, vì biết rõ vị Sa môn này chính là Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng:
    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài là bậc xứng đáng lễ bái cúng dường của chư thiên, Phạm thiên và nhân loại, với tấm lòng đại bi, Ngài ngự đến khu rừng này, để tế độ cho con thoát khỏi si mê lầm lạc, giúp cho con có được trí tuệ sáng suốt, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con. Kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi tội lỗi do thân, khẩu và ý. Mong Ngài minh chứng cho con, thành tâm sám hối tội lỗi này.
    Angulimàla bạch Ðức Thế Tôn xong, rồi đến quỳ đảnh lễ dưới chân Ðức Phật, cầu xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.
    Với tâm từ bi quảng đại, với Phật nhãn thấy rõ phước duyên của Angulimàla đầy đủ tam y quả bát, các vật dụng của Sa môn, cho nên Ðức Phật đưa bàn tay phải chỉ ngón trỏ vào Angulimàla mà dạy rằng:
    "Ehi bhikkhu......".
    "Con trở thành Tỳ khưu như con đã xin phép. Pháp mà Như Lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, con nên thực hành phạm hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn".
    Ðức Thế Tôn dạy xong, Angulimàla liền trở thành vị Tỳ khưu với tướng mạo và đầy đủ tám món vật dụng của Sa môn, phát sanh do phước duyên từ kiếp trước. Từ đây, Tỳ khưu Angulimàla thu thúc lục căn thanh tịnh như một vị Ðại đức cao hạ. Tế độ Angulimàla xong, Ðức Thế Tôn dẫn vị tân Tỳ khưu theo sau ngự đi về chùa Jetavana.

    đọc xong câu chuyện này ta thấy nghe kẻ tàn ác nhất vẫn có thể độ. chỉ cần biết quay đầu "khấu hạ đồ đao, lập địa thành phật" dĩ nhiên là ác nghiệp gây tạo vẫn phải gánh nhưng bậc giác ngộ an nhiên chấp nhận quả báo mà không sợ hãi (như ngài Mục Kiền Liên). Do vậy phải hiểu rằng chả phải chư phật gia hộ cho kẻ ác, mà chỉ gia hộ cho kẻ ác biết cải tà quy chánh. Đó vừa là trí tuệ và thể hiện sự từ bi vĩ đại và nhân văn của phật giáo vậy

  11. #51

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    Trước nhất tôi xin tái khẳng định một lần nữa cho các đạo hữu biết "niềm tin là mẹ đẻ của tất cả các công đức". Mọi tôn giáo đều đặt niềm tin vào một chân lý nào đó. và đạo phật đặt niềm tin kiên cố vào lý nhân quả. đó là điều chắc chắn. Thế nhưng hiểu như người này về nhân quả rồi quay lại phỉ báng chư phật và bồ tát quán thế âm thì thật là tội lỗi. Đúng là gieo cái nhân nào thì gặt cái quả đó, nhưng cái gì cũng là tương đối. Nghiệp của người ta cũng là tương đối, có thể cải thiện được. ví dụ như đất cằn cỗi thì bón phân, ruộng hạn thì tưới nước. Do vậy ác nghiệp có thể cải thiện bằng thiện nghiệp qua quá trình tích lũy. Dù là ruộng cày lên sỏi đá mà cố công cải tạo, bòn phân thì đất cằn cỗi cũng sinh được lúa thơm. chỉ sợ người thấy ruộng khô cằn mà bỏ hoang phế thì đói khổ nghèo cùng phước đức. Hạng này mới lãnh thọ quả báo. Có câu đánh kẻ chay đi không ai đánh người chạy lại. Kẻ muốn được cứu độ trước tiên tự mình phải giác ngộ để dừng lại ác nghiệp
    Ðức Phật cảm hóa được kẻ cướp sát nhân Angulimàla
    (Theo Chú giải Kinh Angulimàlasuttavannanà - Bộ chú giải Majjhimapannàsa, kinh Angulimàlasuttavannanà).


    Ðại đức Angulimàla vốn tên thật là Ahimsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn, trong một gia đình quý tộc nhiều đời. Thân mẫu Ngài tên Mantanì; thân phụ Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.
    Trong đêm Ngài sinh ra đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Ðức vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh sáng thép lạnh buốt, làm cho Ðức vua kinh hoàng.
    Ông Bà la môn, thân phụ của Ngài Angulimàla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao "kẻ cướp sát nhân" vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào đời của ông. Sau nầy nó sẽ trở thành tên cướp giết người khét tiếng!
    Là quân sư của Ðức vua, người nắm cán cân công lý và sự an nguy cho xã tắc, ông Bà la môn không cho phép mình vì tình riêng mà dấu kín mầm móng tai họa, nên trời vừa sáng, ông đã vào chầu Ðức vua Pasenadi tâu rằng:
    - Ðêm qua bệ hạ ngủ có được an giấc hay không?
    Ðức vua đáp:
    - Thưa quân sư khả kính, Trẫm có ngủ yên được đâu! Không biết điềm xấu gì xảy ra mà thanh gươm báu của Trẫm đặt ở trong bao lại phát ra ánh sáng chói lòa rất là khủng khiếp. Trẫm lo sợ có điều tai họa gì đó liên quan đến tánh mạng của Trẫm, hoặc có chuyện bất trắc gì xảy ra cho ngai vàng của Trẫm chăng?
    - Tâu bệ hạ - vị quân sư mau mắn đáp - đêm qua hạ thần có xem thiên văn, quả thật có một hung tinh vừa xuất hiện. Nhưng điềm xấu ấy không liên hệ gì đến tánh mạng cũng như ngai vàng của bệ hạ.
    Tâu bệ hạ, không những chỉ riêng thanh gươm báu của bệ hạ, mà còn tất cả các loại vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng; đó là do năng lực ác nghiệp của con trai hạ thần vừa mới ra đời đêm qua.
    Ðức vua ngạc nhiên:
    - Có chuyện như vậy sao! Quân sư hãy nói rõ cho Trẫm nghe!
    - Tâu bệ hạ, con trai hạ thần vừa mới hạ sanh đêm qua ứng vào vị hung tinh ấy. Sau nầy, nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân rất nguy hiểm.
    - Thật vậy sao? Ðức vua hỏi. Nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân? - chỉ là một tên cướp sát nhân thôi, hay là thủ lãnh một nhóm trộm cướp chuyên giết người, cướp của, dã man, tàn bạo, phá xóm, phá làng... và đe dọa cả ngai vàng của Trẫm?
    - Không phải vậy, tâu bệ hạ! Nó chỉ là một tên cướp. Một mình nó thôi. Tuy chẳng tổn thương gì đến bệ hạ và ngai vàng, nhưng để tránh những tai họa về sau, thần xin phép bệ hạ cho thần được giết chết nó khi đang còn nhỏ.
    Ðức vua Pasenadi vốn là một vị vua hiền đức, nghe vậy liền có lời can ngăn:
    - Ðừng nên làm như thế, thưa quân sư khả kính! Nếu chỉ là một mình nó thì không thể gây ra tai họa lớn lao được. Trẫm biết rõ quân sư một đời nghiêm minh, thận trọng, chí công vô tư, không vì tình riêng mà che mờ phép nước. Nhưng đứa trẻ kia vừa mở mắt chào đời, chưa làm gì nên tội, xin quân sư hãy tha mạng sống cho nó.
    Nếu bảo là do năng lực của ác nghiệp, thì quân sư nên tìm cách ngăn chặn, bằng cách nuôi dưỡng nó trong môi trường đạo đức, như vậy thì quả của ác nghiệp khó có cơ hội phát sanh.
    Quân sư hãy chăm sóc, nuôi nấng, dạy bảo nó trở nên con người hiền lương. Ví như thanh gươm nằm trong vỏ, mũi tên nằm trong bao tên, thì nó làm sao có thể hại đến ai được!
    Vậy quân sư nên đặt tên cho đứa trẻ là Ahimsaka (người không làm hại, làm khổ đến ai).
    Bà la môn Gagga nghe vậy, cúi đầu tuân phục, ông cảm kích và tri ân Ðức vua hiền minh không kể xiết.
    Cậu bé Ahimsaka lớn lên, rất thông minh dĩnh ngộ, lại có sức mạnh phi thường, sống trong gia đình dòng dõi Bà la môn có truyền thống đạo đức lâu đời, cho nên cậu bé được nuôi dưỡng và giáo dục tốt trong một môi trường sống hiền hòa, tạo nhân tạo duyên cho thiện pháp phát sanh, những phẩm chất hiền lương của con người càng thêm tăng trưởng.
    Khi đứa bé lớn, đến tuổi đi học, ông Bà la môn Gagga gởi con du học xứ Takkasilà, tại ngôi trường đào tạo các vị Hoàng tử, con cháu Bà la môn từ các quốc độ... có vị đã trở thành đấng minh quân, những nhà lãnh đạo tài ba, những bậc hiền triết uyên thâm....
    Là đứa trẻ vốn có thiên tài xuất chúng, nên bất cứ môn học nào Ahimsaka cũng đều xuất sắc hơn các người học trò khác. Ngoài ra, cậu là người học trò luôn luôn làm tròn tất cả mọi phận sự đối với thầy, mọi lễ nghi phép tắc... không ai có thể chê cậu ở một điểm nhỏ nào. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka đều vẹn toàn, cho nên, người thầy Bà la môn và phu nhân của thầy rất hài lòng, thương yêu Ahimsaka và xem như đứa con ruột của mình.
    Mọi sự việc ấy làm cho bạn bè đồng học ganh tỵ, họ bàn luận với nhau rằng: "Kể từ khi có mặt Ahimsaka nơi nầy, trong chúng ta không có một ai hơn nó, dầu chỉ một bộ môn nào. Nó là người có tài trí hơn hẳn chúng ta về mọi phương diện kể cả đạo đức. Ahimsaka là người học trò tài đức vẹn toàn, luôn luôn được thầy khen, ngược lại tất cả chúng ta là Hoàng tử, công tử... mà thầy quở trách chúng ta. Ðó cũng chỉ vì Ahimsaka quá tài giỏi hơn chúng ta gấp bội, còn chúng ta so với nó thì quá kém cỏi mà thôi".
    - Vậy chúng ta có mưu kế nào để đuổi Ahimsaka ra khỏi trường nầy không?
    - Chúng ta chẳng có cách gì nói xấu Ahimsaka được.
    - Nếu nói Ahimsaka thuộc dòng dõi thấp hèn ư? Chẳng thể nào, vì Ahimsaka thuộc dòng dõi Bà la môn cao quý, là con của ông Gagga, vị quân sư của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.
    - Nếu nói Ahimsaka là đứa học trò không làm tròn bổn phận, vô lễ với thầy ư? Chẳng thể nào vì Ahimsaka là người học trò làm tròn bổn phận, có lễ phép, tôn kính thầy hơn tất cả chúng ta....
    Cuối cùng có một người trong nhóm đưa ý kiến:
    "Tất cả chúng ta chia ra làm ba nhóm, và nhóm nào cũng đều thưa với thầy một điều giống nhau. Ban đầu có lẽ thầy không tin, thầy quở trách, chúng ta phải nên kiên nhẫn chịu đựng, nhưng dần dần thầy sẽ hoang mang ngờ vực và cuối cùng thầy sẽ tin".
    Tất cả xem đó là một mưu kế hay.
    Thế là theo kế hoạch, phải thực hiện tuần tự theo thời gian.
    Ngày hôm sau, vào một dịp thuận lợi nhất, nhóm thứ nhất vào quỳ và thưa thầy rằng:
    - Ai cũng biết bạn Ahimsaka là người học rất giỏi, có tài trí, lễ phép, từ lâu rất được thầy yêu bạn mến, nhưng chúng con nghi y có âm mưu hại thầy, chúng con kính yêu thầy, xin thưa cho thầy biết để đề phòng trước thì hơn.
    Nghe nói vậy, vị thầy rất bực tức quở trách họ, vì cho rằng họ có ác tâm muốn làm tổn thương tình cảm giữa ông và Ahimsaka, người học trò ông rất mực thương yêu như con, bèn xua đuổi nhóm đó đi ra ngoài ngay.
    Một thời gian sau, y theo kế hoạch, nhóm thứ nhì với số người đông hơn, cũng vào quỳ hầu thầy và thưa chuyện với nội dung y như lần trước. Họ cũng bị thầy quở trách rồi đuổi đi ra. Một thời gian lâu sau, nhóm thứ ba cũng thưa như hai nhóm trước, vị thầy cũng đối xử như hai nhóm trước. Mặc dầu vậy, nhóm thứ ba nầy tỏ vẽ khẩn khoản van xin thầy: nếu thầy không tin chúng con, xin thầy xem xét Ahimsaka có tài trí khác thường, nếu y mưu tính việc lớn thì khó ai biết được.
    Sau nhiều lần, vị thầy bắt đầu suy nghĩ: "Sao cả ba nhóm học trò nầy đều thưa một việc giống nhau? và chúng đều có ý lo lắng cho sự an toàn của ta".
    Vị thầy bắt đầu hoang mang ngờ vực, khi đã ngờ vực rồi thì mọi hành vi cử chỉ, lời nói của Ahimsaka cũng đáng nghi cả. Sự nghi ngờ ấy tuy chưa tìm ra chứng cớ rõ ràng, nhưng vị thầy cảm thấy lo sợ, bất an, vị thầy nghĩ: "Cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ sanh mạng của ta là phải tìm kế hạ thủ trước. Nếu tự tay ta đầu độc hoặc giết chết y, bọn học trò sẽ biết, và như vậy thì vua chúa, Bà la môn, quý tộc... cũng sẽ biết, tiếng xấu sẽ lan truyền ra mọi quốc độ rằng: "thầy mà giết chết học trò", thì còn gì là uy tín và đạo đức của ta nữa. Khi thiên hạ mất đức tin ở nơi ta thì họ sẽ không còn gởi con cháu đến đây học nữa. Khi ấy, danh vọng ta sẽ mất mà lợi lộc cũng không còn! Vậy tốt hơn hết ta hãy bày ra một kế để cho người ta giết Ahimsaka".
    Vì nghĩ như thế, nên một hôm ông gọi Ahimsaka lại bảo:
    - Nầy Ahimsaka con yêu quý, con là một người học trò có tài trí phi thường, con rất xứng đáng, nên thầy muốn truyền dạy môn học tột bậc cho con, với điều kiện con phải giết đủ một ngàn người đem trình cho thầy, để ứng dụng vào môn học ấy, cũng đồng thời là sự tạ ơn thầy một cách xứng đáng với công lao nuôi dạy của thầy.
    - Kính thưa thầy, con sanh ra ở dòng dõi Bà la môn cao quý, con không thể nào giết hại người được, bạch thầy - Ahimsaka thưa.
    Vị thầy dạy rằng:
    - Nếu như vậy, con không thể nào thành đạt đến tột cùng môn học, thật là uổng công lao nuôi dạy của thầy! Con không đền đáp được công ơn thầy.
    Ahimsaka nghe thầy nói vậy, bất đắc dĩ phải làm theo lời thầy, xem là việc đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy, nhưng thật tâm hoàn toàn không thích làm việc bất lương như vậy.
    Sau khi lạy từ giã thầy, Ahimsaka mang năm loại vũ khí theo mình đi vào rừng, chờ có ai đi vào rừng hay đi ngang qua rừng sẽ giết. Vì tâm không ham thích giết người, đây chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ nên chàng không nhớ rõ đã giết bao nhiêu người rồi. Sau đó, hễ giết được một người, chàng cắt lấy một đầu ngón tay cho dễ đếm, những ngón tay để rãi rác bị thất lạc, hoặc các loài thú ăn mất. Cuối cùng, Ahimsaka nghĩ ra một cách là xâu những đầu ngón tay nầy thành vòng đeo ở cổ. Từ đó chàng có biệt danh là Angulimàla: có nghĩa là kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ.
    Dân chúng trong thành nghe đến tên cướp sát nhân Angulimàla thảy đều kinh sợ, không ai dám đi một mình qua khu rừng, nhưng dầu đi từng toán từ 10 người - 20 người hay 30 người cũng không một ai thoát khỏi lưỡi đao của Angulimàla.
    Tiếng đồn vang xa từ làng nầy qua làng khác quanh vùng, không ai dám đi ngang qua khu rừng ấy. Thế là bắt buộc Angulimàla phải vào xóm làng tìm người để giết cho đủ số 1000. Dân chúng kinh sợ bỏ xóm làng, đi lánh nạn sang nơi khác cách xa khu rừng ba do tuần.
    Chuyện Angulimàla giết hại mọi người náo động đến kinh thành Sàvatthi. Một nhóm các bô lão đại diện dân chúng xin vào cầu cứu Ðức vua Pasenadi rằng:
    - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu dân vô tội, tên Anguli-màla kẻ cướp giết hại nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ, dân chúng kinh sợ đã bỏ xóm làng đi lánh nạn sang nơi khác, chịu cảnh cực khổ thiếu thốn.
    Kính xin bệ hạ bắt y trị tội để chúng con được trở về quê hương yên ổn làm ăn.
    Nghe dân chúng kêu van thảm thiết như vậy, Ðức vua liền hội triều hỏi ý kiến các quan. Ðức vua quyết định thân chinh cầm đầu dẫn quân truy bắt Angulimàla, tên cướp giết người để trị tội.
    Trong buổi hội triều, vị Bà la môn Gagga, quân sư của Ðức vua Pasenadi có linh tính báo cho biết Angulimàla tên cướp sát nhân ấy không ai khác mà chính là Ahimsaka, con trai yêu quý của ông.
    Bãi triều, về nhà, ông âu sầu kể lại cho bà Mantanì, vợ ông, biết rằng: Nầy phu nhân "tên cướp sát nhân" ấy không phải ai khác mà chính là Ahim-saka, đứa con trai yêu quý của chúng ta.
    Nghe vậy, bà Mantanì khóc lóc cầu xin chồng đi tìm con trở về nộp cho Ðức vua, xin Ðức vua từ bi ân xá tội chết, trước khi Ðức vua truy bắt.
    Ông Bà la môn cũng thương yêu con, nhưng bây giờ nó đã trở thành kẻ cướp sát nhân rồi, ông Bà la môn là bậc trí thức biết suy xét về lời dạy của bậc hiền triết ngàn xưa có dạy rằng: "Có bốn hạng người không nên đặt niềm tin vào họ" :
    - Là tên cướp sát nhân, dầu trước đây hắn là bạn cũ.
    - Là bạn cũ, dầu đã từng sống chung với nhau lâu năm.
    - Là Ðức vua, dầu được Ðức vua tin cẩn.
    - Là đàn bà, dầu trước đây đã từng đối xử rất tốt với bà ta.
    Suy ngẫm bốn hạng người nầy, con trai của ông là một trong những hạng người ấy, không nên đặt niềm tin vào nó. Cho nên, ông Bà la môn từ chối lời yêu cầu của vợ.
    Biết vậy, bà Mantanì rất nóng lòng vì thương yêu đứa con của bà, với tình thương yêu của một người mẹ, bà nghĩ: "nó là gì đi nữa, thì nó cũng chỉ là đứa bé nhỏ dại, đáng thương, đáng yêu của mình, đáng được tha thứ!".
    Thế là chẳng quản gian lao vất vả, nguy hiểm, bà Mantanì quyết đi tìm Ahimsaka, đứa con yêu quý của bà.

    ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA

    Cuối canh chót đêm ấy, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, sau khi xả định, quán xét chúng sanh có duyên lành nên tế độ, Ðức Thế Tôn nhìn thấy Angulimàla hiện trong mạng lưới đại bi của Ngài. Ngài biết rằng: duyên lành của Angulimàla đã đến, Như Lai sẽ tế độ Angulimàla, chỉ cần nghe lời giải đáp xong Angulimàla sẽ phát sanh đức tin trong sạch, từ bỏ mọi vũ khí, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau Angulimàla sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Thánh Quả cùng với Tam minh.
    Ðức Thế Tôn còn thấy rõ rằng: nếu Ngài đến chậm trễ, Angulimàla sẽ giết mẹ, phạm trọng tội trong ngũ vô gián nghiệp thì vô phương cứu thoát.
    Thế rồi, sáng hôm ấy, Ðức Thế Tôn đi vào thành Sàvatthi để khất thực như lệ thường, sau khi độ ngọ xong, dọn dẹp chỗ ở, rồi Ðức Thế Tôn chỉ một mình mặc y, mang bát đi theo con đường mòn nhỏ nhắm hướng đi thẳng đến khu rừng nơi ở của Angulimàla.
    Dân chúng bên đường nhìn thấy Ðức Thế Tôn (không nhận biết được Ðức Phật) đi theo con đường vào khu rừng nơi trú ngụ của Angulimàla, lo sợ Ngài bị giết bèn ra ngăn cản:
    - Kính bạch Sa môn, kính xin Ngài đừng đi theo con đường nầy, ở trong khu rừng kia có tên Angulimàla là kẻ cướp giết người, bất luận là ai y cũng không thương xót. Kẻ cướp sát nhân nầy đã tàn sát dân làng già trẻ, dân chúng còn sống sót kinh sợ đều bỏ làng đi lánh nạn nơi khác. Một vùng đất rộng bên trong kia chỉ còn cảnh tiêu điều vắng vẽ, không một bóng người qua lại.
    - Kính bạch Sa môn, trước đây có những toán người đông 20 người, 30 người, 40 người... đi qua con đường nầy cũng đều bị Angulimàla sát hại, không còn một ai sống sót cả. Kính xin Sa môn đừng vào nơi nguy hiểm ấy.
    Ðức Thế Tôn nghe dân chúng bạch đến ba lần, rồi dạy:
    - Các con hãy an tâm! Không có điều gì xảy đến với Như Lai đâu! Rồi Ngài vẫn tiếp tục đi.
    Hôm ấy, Angulimàla nghĩ rằng: "Ta sống ở đây đã lâu rồi, ta đã giết rất nhiều người, những người chết mà ta đã cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đếm được 999 ngón, chỉ cần giết thêm một người nữa, cắt một đầu ngón tay là tròn đủ 1000 ngón, là đủ 1000 người; ta cần phải ra ven rừng, hễ nhìn thấy người nào trước tiên là giết người ấy cho đủ số, đem về trình cho thầy, để đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy và thầy sẽ truyền đạt bộ môn tột bậc cuối cùng cho ta. Lúc đó ta sẽ cạo râu, cắt tóc thay đổi y phục, xin bái tạ thầy trở về hầu thăm cha mẹ".
    Nghĩ xong, Angulimàla mang vũ khí đi ra ven rừng. Người trước tiên mà y nhìn thấy từ xa đang đi đến là bà Mantanì, mẹ của y. Bà Mantanì nhận ra người cầm gươm kia là con của mình, bà vui mừng gọi tên con Ahimsaka! Ahimsaka! Con yêu quý! Nghe gọi vậy, Angulimàla nhận biết người đàn bà kia là mẹ của mình, nhưng do tà kiến chấp thủ, với ý nghĩ "người nào trước tiên" là giết liền cho đủ số 1000 người, nên y đành lòng phải giết mẹ thôi!
    Angulimàla chạy ra đón đường thì bỗng nhiên nhìn thấy Ðức Phật, xuất hiện ở khoảng giữa y và mẹ của y, Angulimàla liền thay đổi ý định thay vì giết mẹ, thì giết vị Sa môn đi một mình này. Angulimàla cầm gươm đuổi theo Ðức Phật, Ðức Phật dùng thần thông bước đi chậm rãi khoan thai như bình thường, nhưng đằng sau, Angulimàla đã cố chạy đuổi theo hết sức lực mà vẫn không bắt kịp Ngài.
    Angulimàla thoáng nghĩ: "Thật lạ thường thay! Chưa từng có bao giờ! Trước đây dầu voi, ngựa, nai, xe ngựa chạy ta cũng chạy đuổi theo bắt được dễ dàng. Nhưng bây giờ dầu ta đã chạy hết sức mà vẫn không đuổi kịp vị Sa môn đang bước đi khoan thai chậm rãi kia".
    Angulimàla cầm gươm chạy đuổi theo Ðức Phật suốt ba do tuần, đã đuối sức, dừng chân lại, cất tiếng gọi lớn.
    - Này ông Sa môn kia, Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!
    Ðức Phật biết được nhân duyên đã đến, Ngài vừa chậm rãi bước đi, vừa cất giọng phạm âm dạy vọng lại:
    - Này Angulimàla, Như Lai đã dừng lại lâu rồi! Còn chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!
    Nghe vậy, Angulimàla rất ngạc nhiên suy nghĩ: những Sa môn dòng Sakya này là bậc thường hay nói sự thật, nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy. Nhưng tại sao, ở đây, rõ là ông Sa môn này đang bước đi mà nói là: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn ta là người dừng chân lại rồi, ông Sa môn lại nói: "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!", thế là nghĩa làm sao?
    Angulimàla bèn hỏi Ðức Thế Tôn rằng:
    - Này ông Sa môn, rõ ràng ông đang đi mà lại nói: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn tôi thì đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại", nghĩa là sao?
    Ðức Phật thuyết giảng dạy Angulimàla rằng:
    - Này Angulimàla, thật vậy, Như Lai đã dừng lại lâu rồi. Nghĩa là Như Lai đã từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh từ lâu rồi; còn con chưa từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh. Vì vậy, Như Lai mới gọi "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại".
    Angulimàla vừa nghe xong, tỉnh thức ngay, liền ném các loại vũ khí xuống hố sâu bên sườn núi, vì biết rõ vị Sa môn này chính là Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng:
    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài là bậc xứng đáng lễ bái cúng dường của chư thiên, Phạm thiên và nhân loại, với tấm lòng đại bi, Ngài ngự đến khu rừng này, để tế độ cho con thoát khỏi si mê lầm lạc, giúp cho con có được trí tuệ sáng suốt, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con. Kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi tội lỗi do thân, khẩu và ý. Mong Ngài minh chứng cho con, thành tâm sám hối tội lỗi này.
    Angulimàla bạch Ðức Thế Tôn xong, rồi đến quỳ đảnh lễ dưới chân Ðức Phật, cầu xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.
    Với tâm từ bi quảng đại, với Phật nhãn thấy rõ phước duyên của Angulimàla đầy đủ tam y quả bát, các vật dụng của Sa môn, cho nên Ðức Phật đưa bàn tay phải chỉ ngón trỏ vào Angulimàla mà dạy rằng:
    "Ehi bhikkhu......".
    "Con trở thành Tỳ khưu như con đã xin phép. Pháp mà Như Lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, con nên thực hành phạm hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn".
    Ðức Thế Tôn dạy xong, Angulimàla liền trở thành vị Tỳ khưu với tướng mạo và đầy đủ tám món vật dụng của Sa môn, phát sanh do phước duyên từ kiếp trước. Từ đây, Tỳ khưu Angulimàla thu thúc lục căn thanh tịnh như một vị Ðại đức cao hạ. Tế độ Angulimàla xong, Ðức Thế Tôn dẫn vị tân Tỳ khưu theo sau ngự đi về chùa Jetavana.

    đọc xong câu chuyện này ta thấy nghe kẻ tàn ác nhất vẫn có thể độ. chỉ cần biết quay đầu "khấu hạ đồ đao, lập địa thành phật" dĩ nhiên là ác nghiệp gây tạo vẫn phải gánh nhưng bậc giác ngộ an nhiên chấp nhận quả báo mà không sợ hãi (như ngài Mục Kiền Liên). Do vậy phải hiểu rằng chả phải chư phật gia hộ cho kẻ ác, mà chỉ gia hộ cho kẻ ác biết cải tà quy chánh. Đó vừa là trí tuệ và thể hiện sự từ bi vĩ đại và nhân văn của phật giáo vậy
    Đạo hửu hiểu lầm đệ tử rồi. Đạo hửu đọc kỹ lại bài của đệ đi. Đệ tử không hề phỉ báng Phật, Bồ Tát. ý của đạo hửu viết trong bài Angulimala đệ tử tính viết ý tuơng tự nhưng chưa kịp viết thì đạo hửu đả viết đó. Nhưng dù sao cung rất cám ơn đạo hửu đã viết bài làm sáng tỏ để mọi người hiểu sâu

  12. #52

    Mặc định

    tôi xin lỗi, ý tôi nói là cái người nói bồ tát quán âm là giả nhưng tôi vô tình trích dẫn bài của đạo hữu, Xin lỗi. Hiện nay trong diễn đàn có nhiều người đang cố tình thuyết pháp sai lạc để tạo sự nghi ngờ với giáo lý của đức phật. Do vậy ta cần kiên cố lòng tin để những kẻ tà ma ngoại đạo không thể đục khoét chánh pháp. Mong chư huynh đệ hãy phát tâm dũng mãnh tin tấn tin sâu vào chánh pháp.

  13. #53
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    tôi xin lỗi, ý tôi nói là cái người nói bồ tát quán âm là giả nhưng tôi vô tình trích dẫn bài của đạo hữu, Xin lỗi. Hiện nay trong diễn đàn có nhiều người đang cố tình thuyết pháp sai lạc để tạo sự nghi ngờ với giáo lý của đức phật. Do vậy ta cần kiên cố lòng tin để những kẻ tà ma ngoại đạo không thể đục khoét chánh pháp. Mong chư huynh đệ hãy phát tâm dũng mãnh tin tấn tin sâu vào chánh pháp.
    Có phải huynh daibatnha đang nói đến em không ??? Buồn quá. Hehehe:surprise:
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  14. #54

    Mặc định

    Tướng cướp đó giết là do ông thầy bảo giết đó là do vô minh.
    Tiền kiếp đã có nhân duyên, phước báo rồi.
    Vạn vật đều theo nhân quả không thể tránh khỏi ( cũng như chuyên đức Phật xuất gia từ bỏ ngai vàng vậy, vua cha đã biết trước và tạo điều kiện để thành vua nhưng nhân duyên đã tới thì khó mà cản trở).

  15. #55
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT !
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  16. #56

    Mặc định

    loạn chữ, càng đọc càng rối, đọc hết chả còn đủ tuệ để phân biệt đúng sai, phải trái nữa. Giờ biết về đâu?

  17. #57

    Mặc định

    nương vào tự thân, lấy giới luật làm thầy, lấy chánh pháp làm đuốc soi đường, lấy tinh tấn làm dép mang, lấy tín tâm làm lương thực, lấy phước báu làm bạn lữ, lấy quả vị cô thượng chánh giác làm đích đến. hành trang đủ rồi đó Lục vân. Khởi hành thôi nào. hihi

  18. #58

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi gioidinhtue Xem Bài Gởi
    Em đồng ý với ý kiến của bác delightdhamma . Hun bác cái :love_struck:
    " Thế tôn nói với Ma Vương :
    Chánh pháp của ta từ tâm lưu xuất, không tự tư tự lợi, đệ tử của ta cũng như thế, Ông lấy gì, nương vào đâu để phá hoại chánh pháp của ta ?

    Ma Vương Ba Tuần nói :

    Ta sẽ đợi, đợi đến 3000 ngàn năm sau khi chánh pháp cua ông suy yếu, ta sẽ bảo ma tử, ma tôn của ta khoát y ca-sa giả kẻ tu hành và phá hoại chánh pháp của ông.

    Thế tôn nghe Ma vương nói như thế, thì không nói gì thêm nữa, chỉ cúi đầu im lặng mà nước mắt tuôn thành dòng." (Trích : Cuộc đời ánh đạo của đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni)
    Theo trong Kinh thì Ma Vương đã qui y với Phật và thành Hộ Pháp rồi.

    Trích Kinh Niết Bàn:
    "Hôm ấy toàn rừng Ta-La bỗng đổi màu trắng như lông bạch hạc. Trên hư không tự nhiên có tòa nhà thất bửu, dưới tòa nhà có ao suối mọc đầy hoa sen xinh đẹp, như vườn hoan hỉ ở Thiên-cung Đao- Lợi. Cả rừng Ta-La cũng biến thành trang nghiêm xinh đẹp khác thường.

    Trời Đế-thích, cũng như Tứ-Thiên-Vương, và chư thiên trong Dục giới đều đem phẩm vật thượng hảo dâng lên đức Phật, mong Phật nhận phần cúng dường cuối cùng của mình hầu được sớm thành tựu pháp bố- thí ba-la-mật, nhưng đức Phật vẫn không hứa nhận. Chư Thiên-Dục giới không được toại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên.

    Đại Phạm-Thiên-vương cùng Chư Thiên Sắc giới đến lễ Phật, tha thiết dưng phẩm vật cõi Sắc. Phật không hứa nhận. Đại Phạm-Thiên và Chư-Thiên Sắc giới không được toại nguyện, lòng rất buồn khổ ngồi qua một bên.

    Bấy giờ Ma-Vương Ba-Tuần cùng quyến thuộc vô lượng đại chúng mở cửa địa ngục ban nước thanh- tịnh, nhơn đó bảo đại chúng rằng : Nay đây các người không làm gì được, chỉ nên chuyên niệm Như- Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, trần thiết lễ tùy hỉ cúng dường cuối cùng, các người sẽ được an vui mãi mãi” . Liền đó, Ma-Ba-Tuần dẹp bỏ dao gươm v.v… , những độc cụ trong địa ngục cùng làm mưa to dập tắt ngọn lửa đang cháy hừng. Do thần lực của Phật, Ma-Vương lại phát tâm lành truyền lệnh cho toàn thể quyến thuộc Ma đều bỏ hết binh khí, rồi mang vô số cúng phẩm cùng nhau đến chổ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật mà bạch rằng :
    "Chúng con từ nay ưa thích và gìn giữ đại thừa. Bạch Thế- Tôn ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì cúng dường, vì sợ hãi, vì phỉnh người, vì tiền của, vì tùy theo người v.v… mà thọ lấy pháp Đại Thừa này hoặc chơn hoặc ngụy chúng con nói chú nầy để trừ diệt sợ hãi của người đó :
    “ Sá chỉ, trá trá la sá chỉ, lô ha lệ, ma ha lô ha lệ, a la, giá la, đa la, tóa ha”.

    Bài chú nầy có thể làm cho người điên cuồng, người kinh sợ, người thuyết pháp, người chẳng dứt chánh pháp đều được an ổn. Vì hàng phục ngoại đạo, vì gìn giữ thân mình, vì hộ trì chánh pháp, vì hộ trì Đại-Thừa, mà chúng con nói bài chú nầy. Nếu người nào thọ trì chú nầy thời không còn sợ voi dữ làm hại; hoặc đi đến rừng hoang, đầm trống, những nơi nguy hiểm chẳng sanh sự kinh sợ; cũng không có những tai nạn nước, lửa, sư tử, cọp, sói, trộm, cướp, vua, quan. Bạch đức Thế-Tôn ! Nay đây, chúng con không vì dua nịnh mà nói những việc nầy. Ai thọ trì bài chú nầy thời con sẽ chí thành ủng hộ làm cho thêm thế lực. Ngửa mong đức Như-Lai thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con”.

    Đức Phật bảo Ma-Vương Ba-Tuần rằng :” Như-Lai không nhận thực phẩm của nhà ngươi dâng, mà chỉ nhận lấy thần chú của người nói, vì Như-Lai muốn cho chúng sanh và bốn bộ chúng được an vui”.

    Ma Vương cầu thỉnh ba lần, mà đức Phật vẫn không hứa nhận. Ma Ba-Tuần không được toại nguyện, lòng rất buồn khổ, ngồi qua một bên."...
    Trích Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni
    Giữa lúc bấy giờ, thiên ma Ba Tuần, có Tha tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Đà la ni, cứu độ trẻ thơ, thì lòng tức giận, phát tiếng dữ dội, lo buồn chẳng vui. Ma vương có ba con gái tuyệt đẹp, ra thưa cha rằng:

    - Chẳng hay vua cha, cớ gì buồn rầu?

    Ma vương liền đáp:

    - Sa môn Cù Đàm, ở thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, đang vì vô lượng, vô biên chúng sanh, nói Kinh Trường Thọ, lan rộng cho khắp tất cả chúng sanh, được vui sống lâu, xâm cảnh giới ta, ta khởi ác tâm, nay muốn đem các quyến thuộc binh ma, đến nơi dẹp trừ. Giả sử chẳng thể ngăn cản Cù Đàm, thì oai lực ta, có thể cản ngăn, bịt tai tất cả, chư Thiên đại chúng, chẳng để cho họ nghe Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội.

    Khi ấy, ba người con gái, con của Ba Tuần, dùng kệ can cha:

    Ba con của thiên ma ba Tuần,

    Cúi đầu trước mặt, thưa với cha,

    Sa môn Cù Đàm, Thầy trời người,

    Chẳng phải sức ma hay ngăn cản,

    Ngày trước, dưới gốc cây Bồ đề,

    Khi Ngài mới ngồi tòa kiết tường,

    Ba đứa chúng con rất xinh đẹp,

    Đệ nhứt trong các hàng thiên nữ,

    Trăm cách cử chỉ gợi dục tình,

    Bồ tát đều không ý đắm nhiễm,

    Xem ba chúng con như mụ già,

    Nay thành bực Thầy Vô thượng giác,

    Vua cha giương cung toan hù dọa,

    Gậy gộc, binh khí bủa hư không,

    Bồ tát xem như trò trẻ nít,

    Không một chút tâm sợ thoái lui,

    Ngày thành đạo làm vua pháp,

    Cúi xin vua cha dứt ác tâm.

    Lúc ấy, thiên ma Ba Tuần, nghe con nói kệ, liền đem quyến thuộc, lén bàn nhau rằng: “Ta với các ngươi đồng đến chỗ Phật, dùng phương tiện khéo, giả vờ thua cuộc, chịu quy hàng Phật, để Phật tin dùng. Nếu được tin rồi sẽ làm mọi cách ma sự, chướng ngại Kinh này”.

    Ngay đó thiên ma, cùng với quyến thuộc, đồng đến chỗ Phật, quanh Phật bảy vòng, rồi bạch lên rằng:

    - Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp, không mỏi mệt chăng? Nay con lãnh đạo, các quyến thuộc ma, đến đây nghe Kinh Trường Thọ Diệt Tội, làm đệ tử Phật, cúi mong Thế Tôn, chớ trái nguyện con.

    Bấy giờ, Đức Phật quở trách Ma vương:

    - Ngươi ở cung ma, tâm sanh giận tức, dầu được đến đây, cũng chỉ giả vờ, rút lui quy hàng. Trong giáo pháp Ta, chẳng chấp nhận sự lừa dối của ngươi.

    Thiên ma Ba Tuần, lấy làm xấu hổ, gương mặt thất sắc, rồi bạch Phật rằng:

    - Kính bạch Thế Tôn! Con tính kế ngu, làm điều dối trá, xin Đức Phật Thế Tôn, với lòng đại bi, tha thứ tội lỗi. Nay con được nghe, Kinh chú Trường Thọ Bảo Vệ Trẻ Thơ, con xin phát nguyện:

    Nếu đời sau này, người nào thọ trì, Kinh Trường Thọ đây, biên chép đọc tụng, bất cứ chỗ nào, con cũng ủng hộ, không để ác quỷ, rình tìm tiện lợi. Dầu ở địa ngục, nếu tội nhân nào, trong khoảng giây lát, nhớ nghĩ Kinh này, con sẽ sử dụng, thần lực vĩ đại, lấy nước biển lớn, tưới xuống tội nhân, khiến địa ngục lớn, biến thành ao sen.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  19. #59

    Mặc định

    ai cũng nghĩ ma vương là một nhân vật cực kỳ xấu ác, nhưng kỳ thực phải hiệu rõ ma là thế nào.
    Ma tiếng phạn gọi là Ma-la, trung hoa dịch là sát. Bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí tuệ của người tu. Ma cũng chỉ cho những chướng duyên phá hoại người tu, làm cho hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác rồi kết cục bị sa đọa. Người tu càng lâu, đạo càng cao mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thịnh. Ma có nội ma, ngoại ma và thiên ma.
    1. Nội ma chỉ cho phiền não, ái dục, tham, giận, si mê tà kiến, những điều này khiến cho đạo nghiệp bị chướng nạn khó thể tiến tu nên gọi là ma.
    2. Ngoại ma: chỉ những việc ác, người ác vì tâm bất thiện mà phá hoại chánh kiến, phỉ báng người tu chân chính, làm mọi việc ngăn cản thiện nghiệp và trí tuệ của chúng sanh nên đó gọi là ngoại ma.
    3. Thiên ma:Là ma ở cõi Tha Hóa Tự Tại thuộc sáu tầng trời dục giới. Loại ma này có phước báo, hưởng sự vui mầu nhiệm, nắm giữ sự dục nhiễm của thế gian. nên khi ai phát tâm tinh tấn tu hành và có khả năng giác ngộ chúng liền kéo tới tạo ra ác duyên chướng nạn để ngăn trở hành giả trên con đường giải thoát.
    Trong 3 thứ ma trên, nội ma hay tâm ma là nguy hiểm nhất. ví như một cơn lốc xoáy có thể cuốn mọi thứ về tâm của nó, tâm ma cũng thế, khi dấy khởi một niệm ái nhiễm nó sẽ lôi kéo ngoại ma đến làm quyến thuộc cùng với thiên ma làm thối thất đạo tâm của ta. nếu như tâm ta hướng thiện thì tuy ma cảnh có đến ta vẫn ung dung hóa giải được (đây là trường hợp đức thích ca hàn phục thiên ma mà thành phật.) ví như 2 người đang nói chuyện với nhau, mình có chú tâm nghe thì người ta mới nói, nay người ta nói mà mình không nghe, không tiếp thu thì người ta chẳng hứng thú để nói. do vậy tâm ta lắng đọng tham giận ngu si, dẹp được phiền não, chẳng còn tà kiến chấp giữ thì dù ngoại ma hay thiên ma có tới cũng chẳng làm gì được ta.

  20. #60

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    nương vào tự thân, lấy giới luật làm thầy, lấy chánh pháp làm đuốc soi đường, lấy tinh tấn làm dép mang, lấy tín tâm làm lương thực, lấy phước báu làm bạn lữ, lấy quả vị cô thượng chánh giác làm đích đến. hành trang đủ rồi đó Lục vân. Khởi hành thôi nào. hihi
    Cho hỏi chánh pháp là những pháp nào?
    Tín tâm là tâm làm sao?
    Phước báu gồm những phước gì?
    Quả vị cô thượng chánh giác mọc ở đâu?

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Những mẫu truyện linh ứng về Đức Phật Dược Sư
    By Chieuthanhnghia in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 04-06-2019, 10:35 PM
  2. Xin các bác tu Mật chỉ giáo?
    By bienvasong in forum Mật Tông
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 23-12-2010, 11:06 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •