kết quả từ 1 tới 11 trên 11

Ðề tài: Nhân Quả !

  1. #1
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định Nhân Quả !

    NHÂN – QUẢ

    Nợ nhân quả lấp vùi tánh đức,
    Biết ngày nào gỡ dứt tiền khiên?
    Trả vay vay trả liền liền,
    Nhơn nào quả nấy, nghiệp duyên buộc mình.

    Bóng cong vạy tại hình cong vạy,
    Tội phước đi qua lại không chừng.
    Xác phàm sung sướng vui mừng,
    Linh hồn phải chịu bâng khuâng não phiền.

    Gieo giống chi mọc liền giống nấy,
    Cảm vật nào vật ấy ứng cho.
    Coi như trong cái xe bò,
    Bánh xe lăn trở kịp giò bước chưn.

    Bò ngừng lại, bánh ngừng đứng lại,
    Chậm hay mau là tại nơi bò.
    Bánh xe nó chạy theo giò,
    Chạy không cũng tại con bò gây ra.

    Xét lỗi người, lỗi ta ai xét,
    Sương nhà người, người quét đặng thôi.
    Muốn mau thoát kiếp luân hồi,
    Kiếp nầy ráng chịu quả nhồi cho mau.

    Đời cũng có nghèo giàu cao thấp,
    Tại nơi người tạo lập nó ra.
    Rồi than oán trách Trời già,
    Không ngờ ta chác lấy ta cho nhiều.

    Lòng tham dục bao nhiêu cho đủ,
    Để thất tình làm chủ lấy tâm.
    Khiến gây tội ác lỗi lầm,
    Người chưng mắc phải vướng nhầm khổ nguy.

    Lòng quấy quá tráo chì thay bạc,
    Mỏi mong lo cố gạt của đời.
    Không dè mắc phải lưới Trời,
    Thưa mà không lọt chuyện người mảy lông.

    Luật báo ứng phép công thưởng phạt,
    Hành hồn rồi hành xác chẳng chơi.
    Nhơn nào quả nấy chẳng rời,
    Đòn cân công luật Phật Trời thưởng răn.

    Đặng quả ngon thì ăn lấy hột,
    Gieo lại mà mai mốt còn ăn.
    Nhược bằng hưởng quả hột quăng,
    Ngày sau thèm khát xin ăn của người.

    Nay đắc thế vui cười cho lắm,
    Sau suy thời bụi bặm lấp thân.
    Biết lo bố đức thi ân,
    Luân hồi trở lại hưởng phần cao sang.

    Nhược tánh ác bạo tàn gây họa,
    Kiếp sau mang nghiệp quả phạt hình.
    Sao người chẳng biết sửa mình,
    Cơ Trời báo ứng hiển linh rõ ràng.

    Người quân tử vững vàng tâm chí,
    Chọn đường ngay trực chỉ Tây phương,
    Kìa là trước mắt muôn đường,
    Lại qua quanh quẹo phải tường chọn đi.

    Thấu lý đạo vô vi thanh tĩnh,
    Thì tâm hồn an tịnh lo tu.
    Thuận theo lẽ đạo ôn nhu,
    Tự nhiên vô sự, võng dù mặc ai.

    Lo nhảy thoát ra ngoài khuôn khổ,
    Để thất tình cám dỗ hư thân.
    Mượn nhành dương quét bụi trần,
    Đặng cho phát triển tinh thần cao siêu.

    Đường quanh cong theo chiều mà bước,
    Chí tâm bền thì được thành công.
    Làm cho chánh lý lưu thông,
    Lập tâm sửa tánh kềm lòng phá mê.

    Kìa biển hẹn non thề phủi dứt,
    Dây buộc mình cắt đứt chớ vương.
    Nhu thắng cang, nhược thắng cường,
    Mềm còn, cứng bể, thấy thường xưa nay.

    Họa phước ấy không sai báo ứng,
    Muộn kiếp nầy, gieo chứng hậu lai.
    Người tài gặp kẻ cao tài,
    Ỷ tài phải chịu mang tai liền liền.
    ( Sưu tầm)
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  2. #2

    Mặc định


    Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội.
    Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng:
    - Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo gì khiến nên như thế?
    Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc.
    Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử: ! Lành thay ! Lành thay ! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ”.
    Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo.
    Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau.
    Phật liền nói bài kệ nhân qủa rằng:
    Giàu sang đều bởi mạng
    Đời trước có tu nhân
    Ai thọ trì kinh nầy,
    Đời đời hưởng phước lộc.
    Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:
    Suy nhớ kinh Nhân Qủa ba đời
    Nhân qủa ba đời việc chẳng nhỏ,
    Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

    1. Đời nay làm quan do nhân gì?
    Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật
    Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa
    Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật.
    Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình.
    Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân.
    Đừng bảo làm quan là chuyện dễ,
    Không tu phước ấy đến từ đâu?

    2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì?
    Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ.

    3. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc?
    Đời trước thí áo giúp Tăng Ni.
    4. Có ăn, có mặc do nhân gì?
    Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống.

    5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi?
    Kiếp trước một nửa không xả thí.
    6. Lầu cao nhà lớn do nhân gì?
    Xưa lên chùa am cúng thí gạo.

    7. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì?
    Xưa lập chùa am cất nhà mát (1)
    8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì?
    Đời trước hoa tươi cúng dường Phật.

    9. Thông minh trí tuệ do nhân gì?
    Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật.
    10. Người thấy vui mừng do nhân gì?
    Xưa kết duyên lành cùng đại chúng.

    11. Chồng vợ bền lâu do nhân gì?
    Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật.
    12. Cha mẹ song toàn do nhân gì?
    Đời trước kính trọng người cô độc.

    13. Không cha mất mẹ do nhân gì?
    Kiếp trước là người đánh bẫy chim.

    14. Con cháu đông nhiều do nhân gì?
    Đời trước mở lồng thả chim thú.

    15. Nuôi con không được do nhân gì?
    Xưa sinh con gái dìm cho chết? (2)
    16. Đời nay không con do nhân gì?
    Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa.

    17. Đời nay sống lâu do nhân gì?
    Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều.
    18. Đời nay mạng yểu do nhân gì?
    Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh

    19. Đời nay không vợ do nhân gì?
    Kiếp trước tham mưu gian vợ người.
    20. Đời nay ở góa do nhân gì?
    Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng.

    21. Làm thân tôi đòi do nhân gì?
    Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa.
    22. Đời nay mắt sáng do nhân gì?
    Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật.

    23. Đời nay đui mù do nhân gì?
    Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh.
    24. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì?
    Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật.
    25. Đời nay câm điếc do nhân gì?
    Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ.

    26. Đời nay lưng gù cho nhân gì?
    Kiếp trước chê cười người lễ Phật.
    27. Tay bị cong quẹo do nhân gì?
    Đời trước đều là người tạo nghiệp.

    28. Chân bị co rút do nhân gì?
    Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người.
    29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì?
    Xưa thiếu nợ người không chịu trả.

    30. Đọa làm heo chó do nhân gì?
    Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người.
    31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì?
    Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật.

    32. Đời nay không bệnh do nhân gì?
    Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân.
    33. Hằng bị lao tù do nhân gì?
    Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người.

    34. Đời nay chết đói do nhân gì?
    Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột
    35. Bị thuốc độc chết do nhân gì?
    Kiếp trước đăng lưới giết hại cá.

    36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì?
    Ác tâm lấn hiếp mưu hại người.
    37. Đời nay lùn bé do nhân gì?
    Kiếp trước xem kinh để dưới đất. (3)

    38. Nay thường thổ huyết do nhân gì?
    Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. (4)
    39. Đời nay ngu điếc do nhân gì?
    Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe.

    40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì?
    Xông hơi thịt cá trước bàn Phật.
    41. Thân có mùi hôi do nhân gì?
    Xưa bán hương thơm trọn dối gian.

    42. Đời nay chết treo do nhân gì?
    Kiếp trước đem dây săn bẫy thú.
    43. Quan, qủa, cô độc do nhân gì?
    Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người.

    44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì?
    Cân non, già, thiếu lòng gian xảo.
    45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì?
    Kiếp trước gây oan tạo đối đầu.
    Muôn việc mình làm lại mình chịu
    Thọ khổ địa ngục oán trách ai?
    Đừng nói nhân qủa người không thấy.
    Xa trả con cháu, gần trả mình.






    46. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước.
    Sẽ tin bố thí với trì trai.
    Kiếp trước tu nhân nay hưởng qủa.
    Đời nầy tu tích để về sau.
    Nếu ai hủy báng kinh Nhân Qủa
    Kiếp sau đọa lạc mất thân người.
    Kẻ nào thọ trì kinh Nhân Qủa.
    Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh.
    Kẻ nào biên chép kinh Nhân Qủa,
    Truyền đời tu học đạo nhà hưng.
    Ai mà mang đội kinh Nhân Qủa,
    Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân.
    Nếu người giản nói kinh nhân qủa
    Đời đời kiếp kiếp được thông minh
    Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Qủa
    Đời sau người thấy sinh cung kính.
    Người nào ấn tống kinh Nhân Qủa.
    Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương.
    Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời trước.
    Chính sự thọ hưởng của đời nay.
    Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời sau.
    Chính sự gây nhân của kiếp này,
    Nếu như nhân qủa không cảm ứng,
    Do đâu Mục Liên cứu được mẹ?
    Người nào tin sâu kinh Nhân Qủa.
    Đồng sinh Tây phương cõi Cực Lạc.
    Nhân qủa ba đời nói không hết.
    Thiên long chẳng bỏ ý người lành.
    Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn,
    Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn.
    Gởi kho bền chắc không hư mất, (5)
    Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng.
    Muốn biết nhân đời trước,
    Xem sự hưởng đời nay,
    Muốn biết qủa đời sau,
    Xem việc làm kiếp này.
    (1) Nhà dưỡng Lão, cô nhi
    (2) Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên dìm cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra.
    (3) Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn.
    (4) Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suýt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suýt đa hàm (7 biến) Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma.
    (5) Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ý nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho.
    http://diendanhoasen.com/?frame=product_detail&id=1132
    Last edited by vuagao; 16-01-2011 at 12:19 AM. Lý do: Thêm địa chỉ nguồn http://diendanhoasen.com/?frame=product_detail&id=1132

  3. #3

    Mặc định

    Kinh Thiện Ác Nhân Quả
    Việt dịch: Thích-Trung-Quán


    Thay Lời Tựa

    Khi nói đến nhân quả nghiệp báo thì không ít người trề môi cười nhạt, họ quan niệm những điều đó như là chuyện cổ tích, luân lý khuyên người, chớ chẳng thực tế, không dính dáng gì với dời sống văn minh tiến bộ ngày nay. Đâu biết rằng khắp cả cuộc sống nhân gian, ngay chính bản thân đời sống của họ, cũng như mọi người không thoát ngoài nhân quả. Đến cả khoa học phát minh ngày nay cũng được xây dựng từ nhân quả. Bình tâm suy nghĩ chín chắn, ta thấy thành quả của khoa học khởi đi từ nhân quả thực nghiệm. Sự thăng trầm của kiếp sống chúng sanh nhân loại liên quan mật thiết với nhân quả thiện ác.

    Chúng ta thử lắng động tâm tư nghĩ kỹ về đời sống con người cho đến sự hình thành hành hoạt của vạn vật có gì vượt ngoài luật nhân quả ? Từ đứa bé chăn trâu, người nông phu cày sâu cuốc bẫm, kẻ buôn bán cho đến vị thẩm phán nắm luật thế gian cũng không thể vượt ngoài nhân quả thiện ác nghiệp báo. Chẳng khác nào nhân loại vạn vật không thể thoát ra ngoài không gian mà sinh hoạt, vượt ra ngoài lớp không khí mà sanh tồn. Giống như thế đó, nhân quả thiện ác nghiệp báo tuy vô hình vô tướng, nhưng chùm khắp chi phối toàn diện tất cả mọi sinh hoạt thịnh suy thăng trầm vinh nhục hạnh phúc khổ đau của muôn loài. Dù đó là Thánh nhân, là Trời, là Thần linh, Thượng đế (nếu thật có) cũng không thể thoát ngoài luật nhân quả thiện ác nghiệp báo chi phối. Có hạng người hoặc nông nổi tự hào, hoặc cuồng tín Thượng đế, hoặc si mê chủ thuyết vô thần chẳng tin nhân quả, từ đó tạo ra vô vàn tội ác khổ đau cho mình và người, gây cho đời nhiều cảnh huống thảm khốc, để rồi đời đời chuốc lấy sự nguyền rủa oán hờn, tiếp theo bị luật nhân quả nghiệp báo mà phải rơi vào cảnh khổ, thọ lấy đời sống tối tăm. Thế gian lắm cảnh sai biệt giầu nghèo, tốt xấu, vinh nhục, thịnh suy tất cả đều do nhân quả chi phối. Tạo nhân nào nhất định chịu quả đó, không sai sót. Cổ đức nói : “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Nghĩa là lưới trời lồng lộng, sợi lông xíu cũng không xót lọt. Thế nên, người tin sâu nhân quả là người tỉnh thức biết sống tiến bộ hướng lên quang lộ thánh thiện, biết nhìn rõ sự thật, biết nhận lấy trách nhiệm của mình.

    Muốn rõ nhân quả thiện ác nhiệp báo như thế nào, xin mời quý vị dù là Phật tử hay không Phật tử, dù là tin Phật hay không tin Phật, thử lần lượt lật trang kinh với cõi lòng vô tư tĩnh lặng từ từ đọc kỹ, hy vọng giúp cho quý vị nhìn rõ hành hoạt và thân phận của muôn loài chúng sanh, rồi lắng lòng suy gẫm, để từ đó xây dựng chánh kiến hướng về nẻo thiện sống hiên hòa sáng sủa hơn, ngõ hầu phản tỉnh quán chiếu để tự cứu mình thăng hoa thánh thiện trong ánh sáng giác ngộ, rồi ra còn có cơ giúp độ gia đình, quyến thuộc bằng hữu và đồng thời đem lại an lạc cho chúng sanh.

    Nhân quả thiện ác nghiệp báo không phải dành riêng cho người tin theo đạo Phật mà cho khắp tất cả những ai muốn có được đời sống hạnh phúc tiến bộ, tránh khỏi trầm luân khổ lụy đọa đầy. Nhân quả là một sự thật, là định luật muôn đời, chi phối khắp cả trời người chúng sanh muôn loại, được tuệ giác đạt đạo của đức Thích-Ca Mâu-Ni thấu suốt chân lý vũ trụ vạn hữu nói ra một cách rành rẽ, để cho muôn loại chúng sanh hiểu rõ, ngõ hầu tự giác tránh gây nhân ác để hướng quả lành, thăng hoa đời mình trong ánh sáng hiền lương thánh thiện, tiến lên đời sống giác ngộ giải thoát của chư Phật Thánh Hiền.

    Để kết thiện duyên Bồ-Đề cho những ai có tâm ý hướng thiện, có chí nguyện tiến lên quả vị giác ngộ giải thoát vòng luân hồi sanh tử, nay Phật-Học-Viện Quốc-Tế phát nguyện in quyển kinh Thiện Ác Nhân Quả này, với sự phát tâm hiến cúng tịnh tài của quý Phật tử gần xa để cho ai nấy thấy rõ thân phận nghiệp báo của mội chúng sanh.

    Xin thành tâm hồi hướng công đức đến Dịch-giả và tán thán công đức quý Phật tử đã phát tâm hiến cúng tịnh tài làm trợ duyên cho kính này tái bản. Tôi thành tâm tùy hỷ công đức và khắp nguyện pháp giới chúng sanh đều được an lành lợi lạc với tâm thức tỏ ngộ khi đọc kinh này.

    Hoa-Kỳ, mùa Phật-Đản 2540-1996.



    THÍCH-ĐỨC-NIỆM
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  4. #4

    Mặc định

    PHẬT NÓI KINH THIỆN ÁC NHÂN QUẢ
    Việt dịch: Thích-Trung-Quán


    Chính tôi được nghe một thời đức Phật ở nước Xá-Vệ, tại vườn ông Cấp-Cô-Độc, rặng cây Thái-tử Kỳ-Đà.

    Khi bấy giờ đức Thế-Tôn thuyết Pháp, có vô lượng Bồ-Tát, trời, người đại chúng vây quanh, yên lặng một lòng nghe nhận. Lúc ấy A-Nan tôi vì chúng sanh nên bạch Phật rằng :

    Kính lạy đức Thế-Tôn ! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có người đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo người giầu, kẻ khổ người vui, kẻ sang người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giầu sang, kẻ rất khỏe mạnh mà thấp kém, có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ở triều ăn mặc tha hồ, có người lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giầu có sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con, hiếu luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không nhà không cửa nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như tổ quạ hang hươu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giầu mà tham sẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí.

    Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại độ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi.

    Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn trương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cúi xin đức Thế-Tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện !

    Khi bấy giờ đức Thế-Tôn bảo A-Nan tôi rằng : Như người hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt. Người đời nay được tâm thân đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được.

    Kẻ bị thân hình xấu xí, là do đời trước ở trong đạo người hay có tánh giận tức.

    Người đời nay bị nghèo cùng, là do đời trước ở trong đạo người có tánh tham sẻn.

    Người đời nay được cao quý, là đời trước hay lễ bái chư Phật mà được.

    Người đời bị hà tiện, là do đời trước hay có tánh kiêu mạn.

    Người to lớn, là do đời trước có tâm cung kính.

    Kẻ bị lùn thấp, là do đời trước mạn Pháp.

    Kẻ ngang tàng ương nghạnh, là do đời trước làm kiếp dê.

    Kẻ bị đen xấu, là do đời trước che ánh sáng của Phật.

    Kẻ bị cứng lưỡi, là do đời trước nếm trai thực cúng dường.

    Kẻ bị đỏ mắt, là do đời trước sẻn tiếc ánh sáng.

    Người đui mắt là do đời trước hay khâu mắt chim ưng.

    Người đời nay câm ngọng, là do đời trước hay phỉ báng chánh Pháp.

    Người đời nay điếc lác, là do đời trước chẳng vui nghe Pháp.

    Người khuyết răng đời nay, là do đời trước ham ăn xương thịt.

    Người tắc mũi đời nay, là do đời trước đốt hương bất hảo cúng dường Phật.

    Người sứt môi đời nay, là do đời trước hay đâm thọc sâu thủng mang hoặc môi cá.

    Người da vàng, là do đời trước hay cạo lông lợn.

    Người căng tai, là do đời trước hay dùi thủng tai sanh vật.

    Kẻ trần hình, là do đời trước hay mặc áo mỏng vào trong chùa đứng trước tượng Phật Bồ-Tát.

    Người sắc đen đời nay, là do đời trước để tượng thờ Phật ở mái hiên làm khói xông tượng.

    Người đời nay bị đi khèo chân, là do đời trước thấy bậc Sư-trưởng không đứng dậy.

    Người đời nay bị lưng còng, là do đời trước mặc áo mỏng ra vào quay lưng vào tượng Phật.

    Người bị trán thấp hoặc trớt, là do đời trước thấy Phật chẳng lễ lạy cầm tay gõ trán.

    Người đời nay rụt cổ, là do đời trước thấy các vị Tôn-trưởng rụt đầu chạy trốn.

    Người đời nay đau tim, là do đời trước hay đâm chém thân thể chúng sanh.

    Người đời nay bị bệnh hủi, là do đời trước lừa gạt lấy tài vật của người ta.

    Người đời nay bị bệnh ho xuyễn, là do đời trước ngày mùa đông gíá rét cho người thức ăn lạnh.

    Người đời nay không có con, là do đời trước hay bắt các chim non giết thịt.

    Người lắm con, là do đời trước hay nuôi dưỡng các sanh vật.

    Người đời nay sống lâu, là do đời trước có từ tâm.

    Người đời nay chết non, là do đời trước hay sát sanh.

    Người đời nay giầu to, là do đời trước hay làm hạnh bố thí.

    Người đời nay có xe ngựa, là do đời trước cúng dường Tam-Bảo bằng xe ngựa.

    Người đời nay thông minh, là do đời trước ham đọc và tụng kinh.

    Người đời nay ám độn, là do đời trước làm súc sanh.

    Người đời nay làm tôi đòi, là do đời trước nghèo mà tham chứa dấu.

    Người đời nay hay nhảy nhót xoay cuồng, là do đời trước làm kiếp khỉ.

    Người đời nay bị bệnh hủi, là do đời trước phá hoại Tam-Bảo.

    Người đời nay tay chân vặn vẹo, là do đời trước hay trói chân tay chúng sanh.

    Người đời nay hay có ác tánh, là do đời trước làm kiếp rắn, rết, bọ cạp.

    Người đời nay sáu căn được đầy đủ là do đời trước chuyên tâm giữ giới.

    Người đời nay các căn tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý không được đầy đủ là do đời trước phá giới.

    Người đời nay hay ăn ở bẩn thủi, là do đời trước làm kiếp lợn.

    Người đời nay hay ham múa hát, là do đời trước làm nghề múa hát ả đào, phường chèo tái sanh.

    Người đa tham đời nay, là do đời trước làm kiếp chó đầu thai.

    Người đời nay có búi thịt đeo lủng lẳng ở cổ (bìu cổ), là do đời trước hay ăn một mình (ăn vụng).

    Người đời nay bị mồm hôi thúi, là do đời trước hay mắng chưởi, rủa, hỗn hào.

    Người đời nay không có nam căn, là do đời trước hay thiến chó, lợn.

    Người đời nay ngắn lưỡi nói ngọng, là do đời trước ngồi ở chỗ vắng hay mạ nhục mắng nhiếc các bậc Tôn-trưởng.

    Người đời nay ham thông dâm với phụ nữ người ta, chết đọa làm loài ngan, vịt.

    Người đời nay hay thông dâm với chính họ, thân chết đọa làm loài chim công, chim sẻ.

    Người sẻn tiếc kinh thư che giấu trí tuệ không chịu nói cho người, chết đọa làm loài trùng ăn đất ăn gỗ (con mọt).

    Người hay đeo cung tên súng đạn, cưỡi ngựa, chết đọa trong loài Lục-di (mường mán mọi rợ).

    Người ham sát sanh, chết đọa trong loài lang thú (hổ, báo, chó sói).

    Người hay đeo tràng hoa, chết đọa vào loài trùng tải trắng (tức sâu trùng mình có hoa).

    Người hay mặc áo dài lượt thượt, chết đọa làm con trùng đuôi dài.

    Người hay nằm ăn, chết đọa vào loài lợn.

    Người ưa thích mạc áo sặc sỡ các sắc lòe loẹt, chết đọa làm loài chim loang lỗ.

    Kẻ hay nhái tiếng người hoặc hài hước điệu người, chết đọa làm loài chim vẹt.

    Kẻ hay chế diễu người, chết đọa làm loài trăn, rắn ác độc.

    Kẻ hay làm buồn não người, chết đọa làm loài trùng ảo não.

    Kẻ hay tuyên truyền điều ác làm cho người ta tin, chết đoạ làm loài chim cú, chim cắt.

    Kẻ hay nói làm cho người ta bị ương họa tù tội, chết đọa làm loài thú dã hổ.

    Kẻ hay làm cho người ta sợ hãi kinh khủng, chết đọa làm loài hươu, nai.

    Người đời trước đi guốc dép vào chùa, đời nay sanh loài có móng như móng ngựa.

    Người đời trước ham phóng hạ khí, đời nay làm loài trùng khí hàn.

    Kẻ đời trước buộc người phải ăn dè sẻn, nghĩa là bớt phần ăn của người, đời nay làm con mọt gặm gỗ.

    Người đời trước dùng cối giã của tang chúng, đời nay bị làm loài trùng gật đầu.

    Làm thân cá giải đời nay, là do đời trước lạm dụng nước của chư tăng.

    Làm bẩn nước chúng tăng, phải đọa làm loài trùng ở chốn bẩn.

    Lấy trộm quả trái của chúng tăng, phải đọa làm loài trùng ăn bùn đất.

    Loài trâu, lừa kéo cối nghiến, là do đời trước làm người ăn trộm của chúng tăng.

    Đời trước cưỡng xin của chúng tăng, đời nay làm loài chim bồ câu trắng.

    Đời trước nhục mạ chúng tăng, đời nay phải làm loài trùng ở cổ trâu.

    Lạm ăn rau của tăng, phải đọa làm loài sâu ở các thứ rau đắng.

    Bất kính ngồi giường của tăng, phải đọa làm loài lươn, loài lịch.

    Lạm dùng các đồ vật của tăng, phải đọa làm loài thiêu thân.

    Nhổ khạc trong đất chùa, đời nay phải đọa làm chim dài mỏ.

    Mặc áo vằn khói, bôi phấn đánh môi son vào chùa, đời nay phải đọa làm chim mỏ đỏ.

    Mặc áo mầu sặc sỡ vào chùa, đời nay đọa làm loài chim lệ.

    Đời trước vợ chồng nằm ngủ với nhau ở trong chùa, đời nay phải đọa làm loài chim trùng Thanh.

    Đời trước ngồi trên hoặc đạp vào tháp thờ Phật, đời nay phải đọa làm loài lạc đà.

    Đời trước đi giầy dép vào chùa hoặc tịnh xá, đời nay phải đọa làm loài ếch, nhái, chuột bọ vân vân.

    Đời trước nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm ồn, đời nay bị làm loài chim bách thiệt.

    Làm ô uế tịnh hạnh của tăng ni, chết đọa vào địa ngục Thiết-Quật, có trăm muôn vòng dao bay xuống một lần chém tan thân thể.

    Khi đó A-Nan tôi bạch Phật rằng : “Lạy đức Thế-Tôn ! Theo như lời Phật nói phạm vào của chúng tăng thật là tội rất nặng, nếu như thế thì bốn chúng đàn việt làm sao đến chùa mà cung kính lễ bái được ?”

    Phật nói : “Người đến chùa tăng có hai thứ tâm : một là thiện tâm, hai là ác tâm.

    Thế nào là thiện tâm ? Người đến chùa tăng thấy Phật thì lễ bái, thấy tăng thì cung kính, thỉnh kinh hỏi nghĩa và thọ giới sám hối, bỏ tiền của ra xây cất chùa chiến, kiến lập Tam-Bảo, không tiếc thân mạng, hộ trì chánh Pháp. Những người như thế cất chân một bước tức là bước lên thiên đàng, đời vị lai hưởng phúc như cây Đề-Gia, đó gọi là người tối thượng thiện.

    Thế nào là ác tâm ? Có những chúng sanh khi tới chùa, chỉ dòm ngó xin chúng tăng như là đòi mượn tiền mượn của, hoặc chỉ trích chư tăng, vạch tỏ những lỗi lầm chuyên chủ phá hoại mà thôi, hoặc ăn của tăng không có tâm hổ thẹn, nào bánh quả rau đậu, cắp mang về nhà, những con người như thế chết đọa vào địa ngục Thiết-Hoàn, vạc nước sôi, lò than, núi dao, rừng kiếm phải bị trừng phạt, đó tức là kẻ tối dạ ác nhân !”

    Phật lại dặn A-Nan tôi rằng : “Phải răn bảo cho đệ tử của đời mai sau, khi đến chùa phải cẩn thận chớ phạm của Tam-Bảo, phải gắng sức tôn sùng thành thật, chớ có thoái tâm, nghe theo lời Phật, tới khi Ngài Di-Lặc xuất thế quyết định được độ thoát không nghi ngờ”.

    Phật nói : Đời nay cướp lột áo của người ta, chết đọa vào địa ngục Hàn-Băng, sau đọa làm loài tầm bị người nung nấu kéo tơ.

    Đời nay chẳng muốn đốt đèn soi kinh, cúng tượng, chết đọa vào địa ngục Hắc-Ám trong núi Thiết-Vi.

    Đời nay làm kẻ đồ tể mổ giết chúng sanh, chết đọa vào trong địa ngục Đao-Sơn Kiếm-Thụ.

    Đời nay ham đi săn bắn, huýt chó thả chim ưng làm mồi, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Cứ.

    Đời nay hay làm hạnh tà dâm, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Đồng-Trụ, Thiết-Sàng.

    Đời nay chứa nhiều vợ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Khải.

    Đời nay chứa nhiều chồng, sau khi chết đọa vào địa ngục Độc-Xà.

    Đời nay hay thui luộc gà, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hôi-Hà.

    Đời nay hay cạo lông lợn, nhổ lông gà, sau khi chết đọa vào địa ngục Hoạch-Thang.

    Đời nay hay hoạn thiến chó lợn, sau khi chết đọa vào địa ngục Tiêm-Thạnh.

    Đời nay hay uống rượu say, sau khi chết đọa vào địa ngục uống nước đồng.

    Đời nay hay cắt chém chúng sanh, sau khi chết đọa vào địa ngục Thiết-Luân.

    Đời nay lấy trộm quả trái của tăng chúng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Hoàn.

    Đời nay hay ham ăn ruột thịt chó lợn, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Phân-nước-giải.

    Đời nay hay ăn gỏi cá, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Đao-Lâm Kiếm-Thụ.

    Đời nay làm mẹ ghẻ cay nghiệt với con chồng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hỏa-Xa.

    Đời nay hay nói lưỡi đôi chiều làm cho người ta ẩu đả nhau, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Lê.

    Đời nay hay nói đâm thọc mạ nhục người, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Bạt-Thiệt.

    Đời nay hay nói dối, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Châm.

    Đời nay hay sát sanh cúng tế tà thần, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Đối.

    Đời nay làm bà đồng khi lên đồng, giả làm lời nói của quỷ thần để dối lừa người ta lấy tiền của, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Nhục-Sơn.

    Đời nay làm bà đồng nhắm mắt nhìn xuống đất dối người lên trời lấy thần hồn, kẻ đó sau khi chết đọa vào trong dịa ngục Trảm-Yêu (chặt ngang lưng).

    Đời nay làm bà đồng bảo người ta sát sanh cúng tế để cầu ông thần lớn hoặc họa ngũ đạo, Thổ-Địa, Thổ-Công, ông hoàng bà chúa, tất cả như thế đều là lừa dối kẻ ngu lấy tiền, sau khi chết đọa vào địa ngục Chước, bị quân ngục tuốt băm chém, mổ xẻ thân thể, lại bị con chim mỏ sắt mổ moi hai mắt.

    Đời nay làm thầy bói phù thủy, ông đồng hoặc thầy địa lý chôn cất mồ mả, xem gia trạch, đoán cát hung, năm họ tiện lợi, an long giận mạch trấn át suy họa để lừa dối kẻ ngu lấy tiền, nói càn những điềm tốt xấu, các bọn người này sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Đồng, có rất nhiều giống chim đậu trên mình kẻ đó để mổ móc thịt ăn, ray rỉa gân xương chịu khổ vô cùng.

    Đời nay làm thầy thuốc lừa dối chữa bệnh người không lành để lấy tiền, sau khi chết đọa vào địa ngục Châm-Chích, toàn thân bị thiêu đốt.

    Đời nay làm kẻ phá tháp phá chùa, lường gạt chư tăng, bất hiếu với cha mẹ, sau khi chết đọa vào đại địa A-Tỳ qua tám địa ngục lớn và các địa ngục nhỏ, một trăm ba mươi sáu sở, lâu một kiếp, hai kiếp, cho đến năm kiếp, rồi sau đó mới được ra, nếu gặp bậc thiện-trị-thức giáo hóa phát tâm bồ-đề, bằng không lại đọa địa ngục.

    Phật nói : Làm thân người rất hôi thối dơ bẩn, đầy lòng giận tức khó gỡ bỏ, phải biết kẻ đó kiếp trước đã làm giống lạc đà nay được tái sanh.

    Người hay đi đây đi đó ăn khỏe, không tránh nguy hiểm khó khăn, kẻ đó trước làm giống ngựa được tái sanh.

    Người hay xông pha đi nắng đi rét tâm không ghi nhớ, kẻ đó trước làm giống trâu được tái sanh.

    Người nói to hồm hỗm, không biết hổ thẹn, nhiếu ái niệm không phân biệt phải trái, kẻ đó trước làm giống lừa được tái sanh.

    Người hay tham ăn thịt, làm gì cũng không sợ, kẻ đó trước làm giống sư tử được tái sanh.

    Người thân cao lớn, mắt tròn, tánh hay lẩn tránh những nơi đồng ruộng và ghét bỏ vợ con, kẻ đó trước làm giống hổ được tái sanh.

    Người lông trên mình dài, mắt nhỏ, không muốn ở yên một chỗ, kẻ đó trước làm giống chim được tái sanh.

    Người có tánh phản phúc, lại hay sát hại sâu trùng, kẻ đó trước làm giống dã hồ mà tái sanh.

    Người có lực khỏe mạnh cường tráng ít dâm dục, không yêu vợ con, kẻ đó trước làm giống chó sói mà tái sanh.

    Người không ham mặc áo đẹp, tánh hay rình bắt kẻ gian phi và ít ngủ, đa sân nộ, kẻ đó trước làm giống chó mà tái sanh.

    Người ham dâm dục và hay nói, lại được nhiều người yêu, kẻ đó trước làm giống chim vẹt mà tái sanh.

    Người hay vui trong nhân chúng, lời nói nhiều phiền phức, kẻ đó trước làm loài chim yểng mà tái sanh.

    Người thể vóc bé nhỏ ham dâm dục ý chẳng chuyên định, thấy sắc đẹp sanh tâm say mê, kẻ đó trước làm loài chim sẻ được tái sanh.

    Người mắt có sắc đỏ răng ngắn, khi nói thì sùi bọt mép như xà bông, nằm thì cuộn mình lại, kẻ đó trước làm loài trăn rắn được tái sanh.

    Người lời nói ra có tánh giận tức, không quan sát nguyên do ý nghĩa, miệng thở ra lửa độc, kẻ đó trước làm giống bọ cạp, rết, mọt gỗ được tái sanh.

    Người hay ngồi một mình ăn, đêm ít ngủ, kẻ đó trước làm loài hồ được tái sanh.

    Kẻ hay đào tường khoét vách ăn trộm, tham của đầy lòng oán giận không có tình thân sơ, kẻ đó trước làm loài chuột được tái sanh.

    Phật nói : “Kẻ phá hoại chùa tháp, cất dấu của Tam-Bảo làm riêng của mình để ăn dùng, chết đọa vào địa ngục A-Tỳ, từ địa ngục được thoát ra lại đọa làm thân súc sanh, như chim bồ câu, chim sẻ, chim uyên ương, chim oanh vũ, chim thanh tước, cá, giải, khỉ, vượn, hươu, nai, nếu được làm người phải đọa thân hoàng môn hoặc con gái hai căn, không căn hay kẻ dâm nữ.

    Làm người hay giận tức, chết đọa làm loài rắn độc, sư tử, hổ, báo, gấu bi, mèo, hồ, chim ưng, gà, nếu được làm người hay nuôi gà lợn, kẻ đồ nhi (mổ giết trâu lợn) kẻ săn bắn, kẻ chài lưới bắt cá và quân canh ngục.

    Làm người gặp Phật pháp mà ngu si chẳng hiểu đạo, khi chết đọa làm loài voi, lợn, trâu, dê, trâu nước, rận, chí, ruồi, muỗi, kiến, các thân hình, nếu được làm người thì mù điếc câm ngọng, gù còng, các căn không đủ, không hay thọ giáo Pháp.

    Làm người hay kiêu mạn, chết đọa làm loài bọ trong đống phân, hoặc làm lừa chở nặng, loài chó loài ngựa, nếu được sanh làm người phải đọa làm thân nô tỳ nghèo cùng ăn mày, bị mọi người khinh rẻ.

    Làm người mà được chức vị quan quyền lại tham lấy của dân, chết đọa vào trong địa ngục Nhục-Sơn, lúc đó có trăm ngàn muôn quỷ thủ lại cắt thịt mà ăn.

    Đời nay phá trai ăn đêm, sau khi chết đọa làm loài quỷ đói, trăm ngàn muôn năm không được ăn uống, lúc bước đi trên đầu phun ra lửa.

    Đời nay ham cởi trần ngồi, sau khi chết đọa làm loài trùng hàn vọ.

    Đời nay hay mang cắp đồ trai dư về ăn uống, chết đọa vào trong địa ngục Nhiệt-Thiết, sau khi sanh vào cõi nhân gian mắc chứng bịnh yết hầu và chết non.

    Đời nay lễ Phật đầu chẳng sát đất, chết đọa vào địa ngục Đảo-Huyền, sau khi sanh vào cõi nhân gian phần nhiều bị lừa dối.

    Đời nay lễ Phật không chấp tay, sau khi chết sanh nơi biên địa, làm nhiều thu hoạch ít.

    Đời nay nghe tiếng chuông không ngồi dậy, sau khi chết đọa vào trong loài trăn, thân to dài bị vi trùng moi rúc ăn.

    Đời nay chấp hai tay vùng lại với nhau để lễ Phật, chết đọa vào địa ngục Phản-Phọc, sau sanh trong đạo người gặp nhiều việc ác.

    Đời nay chấp tay mà năm thể rạp xuống đất chí tâm lễ Phật, đời sau thường được sanh vào nhà tôn quý thụ hưởng khoái lạc.

    Người ưa giận và buồn phiền, là do đời trước có bệnh điên cuồng.

    Người bị con ngươi lệch về một bên (mắt lắc), là do đời trước hay nhìn trộm phụ nữ.

    Người đời nay bênh vợ mắng cha mẹ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Trảm-Thiệt.

    Đời nay lấy nước đổ vào rượu rồi bán cho người ta, sau khi chết phải đọa làm loài trùng trong nước, khi sanh cõi nhân gian mắc chứng bệnh thủng và đoản khí mà chết.

    Phật lại bảo A-Nan tôi rằng : “Như trên ta đã nói rất nhiều các sự đau khổ, đều do nghiệp thập ác mà ra, thượng là nhân duyên địa ngục; trung là nhân duyên súc sanh; hạ là nhân duyên ngạ quỷ.

    Tội sát sanh khiến cho chúng sanh dọa vào địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là chết non, hai là nhiều bệnh.

    Tội trộm cắp cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là nghèo cùng, hai là chung của không được xài tự do.

    Tội tà dâm cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là vợ không trinh lương, hai là hai vợ tranh nhau không theo ý mình.

    Tội nói dối cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là phần nhiều bị người phỉ báng, hai là thường bị người ta lường gạt.

    Tội lưỡng thiệt cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là bị họ hàng phá hoại, hai là bị anh em họ hàng tệ ác.

    Tội ác khẩu cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là thường phải nghe tiếng ác, hai là có nói ra điều gì tranh cãi kiện tụng.

    Tội ỷ ngữ cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là nói phải chẳng ai tin, hai là lời nói không được rành rọt.

    Tội tham dục cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là tham tài không chán, hai là cầu nhiều không toại ý.

    Tội sân giận cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là thường bị người ta chỉ trích tội lỗi, hai là thường bị người ta làm não hại.

    Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là thường sanh vào nhà tà kiến, hai là tâm thường nịnh hót không được ngay thẳng. Các Phật tử nên biết nghiệp thập ác như thế, đều là mọi sự đau khổ, chứa chất một nhân duyên lớn.

    Khi bấy giờ trong đại chúng, có người đã tạo nghiệp thập ác, nghe Phật nói khổ báo của địa ngục như thế, tự kêu khóc sợ hãi mà bạch Phật rằng:

    “Lạy đức Thế-Tôn, đệ tử chúng con phải làm hạnh lành gì mà được thoát khổ ấy, cúi xin đức Thế-Tôn chỉ bảo cho ?”

    Phật nói : “Các ngươi hãy giáo hóa cho hết thảy chúng sanh chung làm nghiệp phước, thế nào là tu phước ?

    Nếu có chúng sanh nào đời nay làm một người Đại hóa chủ đứng ra xây cất chùa, tháp, tinh-xá, đời vị lai được phước làm quốc- vương thống lãnh vạn dân khắp nơi đều quy phục.

    Đời nay làm Ấp vương trung chánh, duy na, luân chủ, đời sau sẽ được làm vương thần, phụ tướng, châu quận đầy đủ tôn sang.

    Đời nay khuyến hóa nhiều người làm các việc công đức, đời vị lai sẽ được làm người trưởng giả giàu sang, mọi người kính nể bốn đường khai thông.

    Đời nay hay đốt đèn nối sáng, đời sau sanh vào cung trời Nhật-Nguyệt Quang-Minh tự chiếu soi.

    Đời nay hay làm việc bố thí và từ tâm nuôi dưỡng sanh mạng, đời sau sanh nơi giầu có ăn mặc tự nhiên.

    Đời nay hay cho người thức ăn uống, đời sau nơi sanh bếp trời tự đem lại, sức lực đầy đủ, thông minh trí tuệ, biện tài, thọ mạng lâu dài.

    Cho thức ăn loài súc sanh được bách bội báo, cho thức ăn kẻ nhứt-xiển-đề được ngàn bội báo.

    Cúng dường thầy tỳ-kheo trì giới được vạn bội báo, nếu cúng dường các vị Pháp-sư lưu thông Đại-thừa giảng tuyên tạng bí mật của Như-Lai, khiến cho đại chúng khai thông tâm mắt được vô lượng báo. Cúng dường Bồ Tát, chư Phật thọ báo vô cùng. Cúng dường ba bậc người phước báo vô tận : một là chư Phật, hai là cha mẹ, ba là bệnh nhân. Một lần cúng món ăn mà được phước báo vô lượng như thế, nếu hay thường thường cúng dường thì phước ấy bao giớ cùng tận được ?

    Đời nay xối nước tắm cho chúng tăng, đời sau sanh chốn áo mặc tự nhiên, có mọi người kính nể, thân hình đoan chánh, mặt mắt tươi đẹp.

    Đời nay hay tán dương Phật và ham đọc tụng kinh Pháp, sanh thân đời sau tiếng nói hòa nhã nhiệm mầu, ai nghe tiếng cũng vui mừng.

    Đời nay hay giữ giới, sanh thân đời sau đoan chánh oai nghi, là bậc tối thắng trong loài người.

    Đời nay hay đào giếng hoặc để chum, để thùng nước cho người qua lại dùng, trồng cây bên đường cho người nghỉ mát, đời sau sanh xứ nào cũng làm nhân vương, trăm mùi ăn uống nghĩ tới là có đưa lại.

    Đời nay hay viết chép kinh Pháp cho người đọc, đời sau sanh xứ nào miệng biện đa tài, học pháp gì, nghe qua một lần đã thấu hiểu, chư Phật Bồ-Tát thường thường gia hộ, là tối thắng trong loài người và thường làm bậc Thượng-Thủ.

    Đời nay hay bắt cầu, hoặc chở thuyền cho người qua sông, đời sau sanh xứ nào đều có đầy dủ bảy báu, mọi người khen kính và chiêm ngưỡng, đi lại ra vào được người nâng đỡ.

    Phật bảo A-Nan tôi rằng : Các chỗ trong kinh như ta nói nhân quả khuyên chúng sanh đọc tụng tu hành được qua khỏi khổ nạn, nếu nghe kinh này sanh lòng phỉ báng, kẻ đó ngay đời hiện tại, lưỡi sẽ bị rơi rụng.

    Khi đó A-Nan tôi bạch Phật rằng : “Lạy đức Thế-Tôn, kinh này tên gọi là gì và khuyến phát thế nào cúi xin Ngài chỉ giáo”.

    Phật bảo A-Nan tôi rằng : “Kinh này tên là Thiện-Ác Nhân-Quả, cũng gọi là kinh Bồ-Tát Phát-Nguyện Tu Hành, Thọ Trì Như Thế”.

    Khi Phật nói kinh xong, trong chúng có tám vạn người, trời phát tâm A-nậu đa-la tam-miệu-tam bồ-đề và có trăm ngàn người con gái chuyển nữ thành nam. Một ngàn hai trăm ác nhân bỏ ý ác biết đời trước của mình. Vô lượng trời người được vô sanh nhẫn, thường được hưởng khoái lạc. Vô lượng thính giả sanh trong cõi Tịnh-Độ cũng được làm bạn với chư Phật Bồ-Tát. Hết thảy đại chúng về nhà làm phước, hoan hỷ phụng hành.

    Phật nói kinh Thiên-Ác Nhân-Quả.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  5. #5

    Mặc định

    tuyệt vời, một lời cảnh tỉnh cho thế gian đang chìm đắm trong dục lạc, sự ích kỷ và lòng tham

  6. #6
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    "Giả sử bá thiên kiếp,
    Sở tác Nghiệp bất vong,
    Hội ngộ nhơn duyên thời,
    Nhân quả hoàn tự thọ."
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  7. #7
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi gioidinhtue Xem Bài Gởi
    "Giả sử bá thiên kiếp,
    Sở tác Nghiệp bất vong,
    Hội ngộ nhơn duyên thời,
    Nhân quả hoàn tự thọ."
    “Giả sử trăm nghìn kiếp,
    nghiệp đã tạo không mất.
    Nhân duyên khi gặp gỡ,
    quả báo lại phải chịu"



    "Ái hà thiên xích lãng
    Khổ hải vạn trùng ba
    Dục thoát luân hồi khổ
    Tảo cấp niệm Di Ðà"
    Nghĩa:
    "Sông ái dài ngàn dặm
    Biển khổ sóng muôn trùng
    Muốn thoát vòng sinh tử
    Hãy gấp niệm Di Đà"


    Đạo hữu thích chữ hán nhỉ :D
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  8. #8
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Cám ơn bác đã "translate". Bác này hay ghê, chữ Hán không biết đọc mà lại biết dịch. Phục bác quá đi mất.
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  9. #9
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi gioidinhtue Xem Bài Gởi
    Cám ơn bác đã "translate". Bác này hay ghê, chữ Hán không biết đọc mà lại biết dịch. Phục bác quá đi mất.
    ây da...thiệt là mệt quá đi
    haiz...........................

  10. #10
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kiếp mù lòa Xem Bài Gởi
    ây da...thiệt là mệt quá đi
    Ý kiến chi đó Thầy. Thầy có cần con mát - xa cho Thầy đỡ mệt không ???:love_struck:
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  11. #11

    Mặc định

    Vũ trụ, vạn vật không phải tuần hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuân theo một cái luật chung. luật đó là luật Ngài nhân quả. Luật nào không phải do một đấng nào, xẫ hội nà đặt ra, mà là một lụat thiên nhiên âm thầm, lặng lẽ, nhưng đúng đẵn vô cùng.

    Người đời vì không quan sát một cách kỹ càng, tường tân nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừu bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân mình và với người chung quanh. Và cùng chính vì thế mà họ đau khổ, lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội lỗi.

    Trái lại, Ðức Phật là vị hoàn toàn giác ngộ, đã phát huy ra cái luật nhân quả đang chi phối, điều hành mọi sự vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đã hành động một cách sáng suốt, lời lạc cho chính mình và chúng sanh.

    Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà đấng từ phu đó phát huy nó như thế nào, để rồi hành động đúng theo như lời Ngài đã làm, hầu đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho mình và cho người chung quanh.

    B. Chánh Ðề
    I. Ðịnh Nghĩa:
    "Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.

    II. Những Ðặc Tính Của Luât Nhân Quả
    1. Nhân thế nào thì quả thế ấy:

    Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.

    2. Một nhân không thể sanh ra quả:

    Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.

    Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: Ộmọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vậtỢ; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.

    3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân:

    Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng tháiũ mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.

    4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả:

    Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất:

    Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên. Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.

    Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.

    Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ.

    Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.

    III. Phân Tích Hành Tướng Của Nhân Quả Trong Thực Tế
    Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tùan tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:

    1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác:

    Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu nagỳ thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.

    2. Nhân quả trong loài thực vật:

    Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.

    3. Nhân quả trong các loài động vật:

    Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả.

    Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.

    4. Nhân quả nơi con người:

    Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.

    Về phương diện tinh thần: Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.

    Ðể nhận rõ cái phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú ý đến hành tướng của nó dưới đây.

    IV. Nhân Quả Về Phương Diện Tinh Thần
    1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:

    Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.

    Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.

    Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.

    Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.

    Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả. Nghiện rượu trà: chung quanh tiện bạc ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.

    Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ thụt két là quả.

    2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:

    Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.

    Người không có tánh tham bỏn sen, thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm; người không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện; người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời; người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến. Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết kình nể, yêu vì...Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc giả cũng chán biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay.

    Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặp thứ ấy. Người Pháp có câu: Mỗi người là con đẻ của công nghiệp mình.

    V. Lợi Ích Ðem Lại Cho Chúng Ta Do Sự Hiểu Biết Và Ap Dụng Luật Nhân Quả.
    1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:

    Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loài. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.

    2. Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chình con người:

    Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.

    3. Lật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế, là chỉ còn lo tự sửa mình, thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.



    VI. Quyết Nghi
    1. Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình?

    Ðáp: Những đọan trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v...

    Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.

    Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói:

    Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
    Chỉ danh lai tảo dữ lai trì
    (Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)

    2. Có người hỏi: Theo luật nhân quả thì làm nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?

    Trả lời: Trong kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp.

    Bật nghiệp là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.

    Cộng nghịêp là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong mọt hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, thì dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; như sanh ở một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương đối được hưởng một dời sống vật chất đầy đủ hơn ở một nước bán khai. Ðã sanh chung một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Sách có câu:

    Nhất nhơn tác phước, thiên nhơn hưởng,
    Ðộc thọ khai hoa, vạn thọ hương.
    (Một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây).

    C. Kết Luận
    Chúng ta đã biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền, siêu nhân
    http://diendanhoasen.com/?frame=product_detail&id=958





























Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 162
    Bài mới gởi: 24-06-2012, 10:16 PM
  2. Kinh Thiện Ác Nhân Quả
    By 123456789 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 21-04-2011, 09:54 PM
  3. Luật Nhân Quả
    By Copykinhsach in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 12-01-2011, 02:06 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •