kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Ở Việt Nam

  1. #1

    Mặc định Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Ở Việt Nam

    NGƯỜI TÂY PHƯƠNG ĐẶT CHÂN LÊN ĐẤT VIỆT NAM

    Âu và Á châu cùng ở trên cựu lục địa, từ đời thượng cổ đã giao thông với nhau, việc giao thông đó không phải thường có luôn. Sử Tàu chép: năm 166 (sau Thiên Chúa giáng sinh) đã có những lái buôn La Mã, mà người Tàu gọi là sứ thần, đến triều đình Trung Quốc sau khi qua nước ta. Đến năm 226, trong đời Tam quốc, lại có một lái buôn La Mã đến thủ đô quận Giao chỉ, viên thái thú quận đó cho thủ hạ đưa người này đến kinh đô nước Ngô vì lúc đó đất Giao chỉ thuộc về Đông Ngô cai trị.

    Ở thế kỷ thứ 7, mấy người theo đạo Giatô về phái Cảnh giáo (Nestoriens) đã sang Tàu. Người thứ nhất mà người Tàu gọi là Olopen từ Ba Tư sang Tàu, nhưng chắc hẳn những người về phái Cản giáo đó không đi qua nước Đại Cồ Việt và kinh đô Hoa Lư của vua Đinh và vua Lê Hoàn.

    Đến thế kỷ 13, vì quân Mông Cổ sang xâm lược Âu châu, đến tận miền Trung Âu, nên Đức Giáo Hoàng(1) mới phái người sang Tàu để điều đình với các vua Mông Cổ (2). Năm 1271, hai người trong họ Polo ở thành Venise là Nicolo và Mattéo đã sang Trung Quốc đến tận kinh đô của nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt. Lại đến năm 1275, Marco Polo3 là con Nicolo cùng cha và chú lại do đường bộ qua miền Cận Đông và Trung Á, cao nguyên Parmir sang nước Tàu đến kinh đô của Hốt Tất Liệt hồi đó là Cambaluc ở gần Bắc Kinh. Marco Polo rất được Nguyên chúa tin dùng, giao cho nhiều công việc trọng đại. Khi thì Marco Polo ở trong triều giúp các việc chính trị và hành chính, khi thì được vua phái đi sứ ở các miền Hoa trung, Hoa nam cùng Vân Nam và các nước lân cận Trung Hoa như Chiêm Thành, Ba Tư, có khi lại được cử làm tổng trấn một tỉnh lớn. Chắc hẳn trong khi từ Vân Nam sang Chiêm Thành, viên “sứ thần Mông Cổ”, Marco Polo, có đi qua nước Việt Nam vì trong cuốn “Thế giới kỳ quan” (Les Merveilles du monde) Marco Polo cũng có nói qua xứ Bắc Kỳ. Sau 17 năm ở Tàu, ba người trong họ Polo mới có dịp về Âu Châu. Năm 1291, Nguyên Thế Tổ sai ba người này đi đường bể đưa một công chúa Mông Cổ sang Ba Tư để gả cho vua Mông Cổ ở xứ Ba Tư là Arghoun vừa mới góa vợ. Marco Polo từ giã Nguyên chúa và mang theo thư của ngài gửi cho Đức Giáo Hoàng và vua các nước Pháp, Anh cùng Castille rồi xuống tàu qua bể Trung Quốc, Ấn Độ dương đến Ormuz (Ba Tư). Marco Polo chắc hẳn có ghé lại kinh đô Đồ Bàn của người Chàm và vì ngược gió nên phải dừng ở bờ bể Sumatra trong năm tháng. Khi Marco Polo đưa công chúa Mông Cổ đến nơi thì vua Ba Tư đã chết, người con vừa lên nối ngôi lại thay cha lấy công chúa. Ba người trong họ Polo từ Ba Tư đi đường bộ Tanris, Azerbeidjan và Trébizonde đến Constantinople và năm 1295 mới về đến Venise.4

    Đến thế kỷ 15, ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) mới dùng địa bàn chỉ nam5 định đi qua Đại Tây Dương để tìm đường thuỷ sang Ấn Độ, nhưng lại tìm thấy A-mỵ-lợi-gia (Amérique) tức Tân Thế giới 6. Năm 1497, người Bồ Đào Nha (Portugal) là ông Vasco de Gama đi vòng qua Hải Vọng giác (Cap Bonne Esperance) ở phía nam Phi châu sang Ấn Độ Dương vào đất Ấn Độ. Năm 1521, lại có người Tây Ban Nha (Espagne) là Magellan đi qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương đến quần đảo Phi luật tân. Chính nhà thám hiểm này đã đi vòng quanh thế giới lần đầu tiên và tìm ra eo biển Magellan ở phía Nam Mỹ châu, nhưng sau ông bị giết ở Phi luật tân.

    Từ đó về sau người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha và người Hà Lan mới tranh nhau sang Á Đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn bán ở nhiều nơi. Năm quý hợi (1563) về đời Gia Tĩnh nhà Minh, người Bồ Đào Nha đến đất Áo Môn (Macao) ở bờ bể nước Tàu. Năm mậu thìn (1568), người Tây Ban Nha sang chiếm quần đảo Phi luật tân. Năm 1596, người Hà Lan lấy đất Chà-và (Java) làm thuộc địa. Về sau dần dần người Bồ Đào Nha, người Anh-cát-lợi và người Pháp-lan-tây mới đến Ấn Độ.

    Ngay từ thế kỷ 15, 16, người Âu châu đã biết bờ bể của nước ta, nhưng mãi đến đầu thế kỷ 17 thì người Tây phương mới bắt đầu giao thiệp với người Việt Nam ta. Lẽ tự nhiên là những người Âu đã ở cõi Á Đông trong hồi đó để chân lên đất Việt Nam trước tiên. Người Bồ Đào Nha thì từ Áo Môn đến trong khi có gió mùa đông bắc, người Tây Ban Nha từ Manille đến, người Hà Lan từ Chà-và và người Pháp và người Anh thì từ Ấn Độ sang. Người Âu châu bắt đầu tiếp xúc với người nước Nam ở xứ Đàng Trong (Cochinchine) trước 7, rồi sau mới dần dần ra Bắc. Chỗ người Âu đến buôn bán và mở cửa hàng trước hết là ở Hội An (Faifo), một nơi người Tàu và người Nhật đã đến từ trước. Mỗi lần đến, họ đem nhiều hàng hóa đến bán, rồi lại mua các sản vật của nước ta chở về nước.

    Các chúa Nguyễn cai trị trong Nam hồi đó đang đánh nhau với chúa Trịnh, tưởng có thể lợi dụng được người Âu giúp mình đánh kẻ thù, nên tiếp đãi họ rất tử tế, lại cho phép được thương đi lại buôn bán. Chúa Nguyễn hay giao thiệp với người Bồ Đào Nha. Một người nước đó tên là Jean de la Croix năm 1614 (?) đã đến ở gần Huế mở lò đúc súng tại đấy, ngày nay vẫn gọi là Thợ Đúc hay là phường Đúc8 và được chúa Sãi cho phép mở nhà thờ và tiếp giáo sĩ trong nhà 9. Về việc đóng tàu, thì người Đàng Trong cũng học người Âu Châu nhiều. Có sách lại nói chính nhờ người Bồ Đào Nha giúp đỡ, nên quân chúa Nguyễn mới thắng nổi quân Trịnh.

    Sau đó ít lâu người Tây phương mới đến Bắc Kỳ và các tàu của người Âu châu mới vào cửa Thái Bình và cửa Luộc.

    Người Bồ Đào Nha không lập nhà buôn ở trong xứ, chỉ vào khoảng hai tháng décembre và janvier thì tàu buôn của họ từ Áo Môn đến Bắc Kỳ chỉ ở lại ít lâu để bán hàng hóa và mua các sản vật trong xứ để chở về. Khác với người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người Anh, người Pháp lại xin phép mở hiệu buôn ở Phố Hiến hay là Phố Khách gần tỉnh lỵ Hưng Yên ngày nay. Người Anh và người Hà Lan lại được phép mở cả hiệu buôn ở phố bờ sông kinh đô Kẻ Chợ tức Hà Nội ngày nay. Người Hà Lan được phép mở hiệu buôn từ năm 1637 dưới đời vua Lê Thần Tôn và chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng. Đến năm 1672, đời vua Lê Hi Tôn chiếc tàu Zant của người Anh do Andrew Parrick làm hạm trưởng, mới đến Bắc Kỳ, có cả người lái buôn tên là William Gifforp và năm người làm cho công ty Ấn Độ của người Anh cũng đáp tàu đến. Chúa Trịnh Tạc cho phép người Anh ở Hiến Nam.

    Về người Pháp thì từ năm 1669 mới có tàu của Pháp vào xin mở cửa hàng ở Phố Hiến. Mấy năm sau 1682, lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Xiêm La sang đem phẩm vật và thư của vua Louis XIV dâng vua Lê Hi Tôn và chúa Trịnh.

    Ở miền Nam, năm 1686, có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù lao Côn Lôn. Đến hơn 50 năm sau, 1749, lại có một người Pháp là Pierre le Poivre vừa là giáo sĩ, vừa là một công chức ở đảo France, vừa là nhà buôn do công ty Ấn Độ của người Pháp phái sang xứ Đàng Trong để giao thiệp, gây tình thân thiện và mở thêm một đường thông thương mới cho người Pháp. Pierre Poivre trước đã từng có ở bên Tàu. Ngày 29 tháng tám 1749, ông đáp tàu Machault đến Hội An (Faifo). Poivre ở Hội An ít lâu rồi đi đường bộ đến Thuận Hóa vào yết kiến Võ vương để dâng lễ vật và thư xin thông thương. Võ vương tiếp P.Poivre rất tử tế và cho phép được đi lại buôn bán. Nhưng về sau vì công ty Ấn Độ của Pháp bãi đi và nhiều việc khó khăn khác nên việc thông thương cũng không thể tiếp tục được.

    Các công ty thương mãi của người Âu lập ra hồi đầu thập thất thế kỷ vẫn để ý đến nước Việt Nam và việc mở mang sự buôn bán với nước ta, nhưng sau cả người Anh và người Hà Lan đã mở cửa hàng cũng phải bỏ đi, có lẽ là vì việc buôn bán ở ta hồi đó không được lợi lắm.

    Trong các người Anh đến Nam kỳ về hồi cuối thế kỷ 17, nên kể đến Thomas Bouyear là người đã đến kinh đô Thuận Hóa vào năm 1695 dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu hay là Quốc chúa niên hiệu là Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế, người Âu thường gọi là Minh Vương, vị chúa Nguyễn thứ sáu. Người Anh này cũng đem phẩm vật đến dâng chúa Nguyễn để điều đình việc thông thương; nhưng sau cuộc điều đình không có kết quả mấy.
    Đồng thời với các tàu buôn Âu châu, ngay từ thế kỷ 16 đã có một vài giáo sĩ Tây phương đến xứ ta; nhưng cũng chỉ đến, rồi ở ít lâu lại cùng đi với các tàu đó. Bước sang đầu thế kỷ thứ 17, số giáo sĩ sang nước ta mới càng ngày càng nhiều, việc truyền giáo mỗi ngày mỗi thịnh và số giáo dân trong nước ở Bắc Kỳ cũng như ở trong Nam càng ngày càng nhiều thêm. Trong số các giáo sĩ không những là người Âu châu mà lại có cả các giáo sĩ và các thầy giáo lý người Nhật Bản… vì đạo Thiên Chúa bắt đầu truyền từ giữa thế kỷ 16 và đã có hồi rất thịnh hành ở xứ đó.

    Xem thế ta biết rằng các giáo sĩ đi truyền đạo sang Á Đông không phải đã đến nước ta trước hết.

    Người Việt Nam ta vốn tính tình nhã nhặn, trung hậu, không hề có ý ác cảm với người ngoài như các giáo sĩ và các người Tây phương đầu tiên đã công nhận. Vì thế mà khi các giáo sĩ mới vào nước ta đều được dân ta tỏ vẻ hoan nghênh. Cả đến các vua quan nước ta, trong hồi bấy giờ cũng có ý muốn thân thiện với người ngoại dương, để bắt chước những điều khôn ngoan của họ, để mở mang việc buôn bán trong nước và có khi cũng để lợi dụng sức mạnh và sự tài giỏi của người vào việc mình. Nhưng về sau chỉ vì nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc mà gây nên một mối nghi kỵ giữa người ngoài và người Việt Nam ta.

    Hồi đó cả các giáo sĩ và các nhà buôn Tây phương vẫn thường bị coi là những kẻ do thám hoặc những người đưa đường dẫn lối cho các nước thực dân Âu châu, có ý muốn dòm dõi nước ta.

    Đạo Thiên Chúa thì bị coi lầm là một tà đạo, có thể làm hại đến thuần phong mỹ tục và những tập quán cổ truyền trong nước; còn những kẻ theo đạo thì cũng bị người khác cho là những kẻ đã đi ngược với luân thường đạo lý, có thể làm đảo lộn trật tự cựu truyền và lay chuyển cả nền tảng luân lý và có thể đưa nước nhà đến sự nguy vong. Một ít việc bất ngờ xảy ra và một số người ghen ghét, đố kỵ hoặc cạnh tranh về vấn đề tôn giáo lại càng giúp cho mối ngờ vực đó tăng thêm, để đến nỗi đã phải gây ra bao cảnh thê thảm, bao cuộc xung đột lưu huyết như ta đã thấy.

    Cũng do mối nghi kỵ đó mà sau này gây nên nhiều vấn đề chính trị và tôn giáo có quan hệ đến cuộc giao thiệp của nước ta với các nước Âu châu và đến vận mệnh cả một dân tộc hơn 20 triệu người ở trên bán đảo Ấn độ China này.

    Chú thích

    (1) Giáo hoàng Nicolas IV. Lúc ấy nước ta thuộc về đời vua Trần Nhân Tôn Thiệu Bảo, bên Tàu thuộc về đời nhà Nguyên vua Thế Tổ.

    (2) Dân Mông Cổ vào thế kỷ XIII đã thâu nhập cả Á châu, phá tan Nga, đi đến trung tâm Âu Châu và trận đại thắng ở Lignitz (1241) đã đem dân Mông Cổ lên làm bá chủ một phần lớn ở cựu lục địa.

    (3) Marco Polo sinh tại thành Venise (Ý) năm 1254, sau mấy năm làm thượng quan cho Hoàng đế nhà Nguyên, Marco Polo trở về tổ quốc, và đến năm 1325 ông chết tại Venise.

    (4) Do người Tàu biết dùng từ 1000 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, sau dạy cho người Ả Rập và đến thế kỷ 13 người Ả Rập mới truyền cho người Âu châu.

    (5) Sau 24 năm sống ở nước Trung Quốc, lúc ấy Venise với Gênes đương kịch liệt cạnh tranh để dành ngôi bá chủ ở Địa Trung Hải.

    (6) Cha dòng Dominicô Diègo Déza làm phụ cánh cho Infant de Castille đã giúp Christophe Colomb một cách đắc lực trong việc này. Tối ngày 11 rạng ngày 12 Octobre 1492, đoàn tàu Kha Luân Bố tới đảo Guanahamt.

    (7) Gaspard de Santa Crux tới Cần Cao năm 1550 (theo Déb.du Christ par Bonifacy).

    (8) Ở Dương Xuân Hạ, hiện nhà thờ phường Đúc là nhà thờ xưa nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế và có lẽ cứ theo anh Thanh Tịnh, là nhà thờ đầu tiên của Hội Thánh dựng nên ở đất Đàng Trong. Nhà thờ này năm 1905 Đức cha Lý và cố Kính đã tu bổ lại.
    Ở tại họ thợ Đúc ngày 30 Novembre 1835 cố Du (Joseph Marchaud) đã chịu xử bá đao. Chính tại chỗ nhà thờ Thợ Đúc, ngày 23 Octobre 1833 ông đội Paul Bường xin chịu chém, nhưng đoàn lính dẫn ông thấy trời tối (lúc ấy vào khoảng 8 giờ) bèn ngừng lại trước nhà con gái ông… rồi hạ đao. Hiện nay có hai cái bia của Đức cha Gaspar xây ghi nhớ hai nơi các thánh tử đạo.

    (9) Chuyện người thợ đúc Jean de la Croix sẽ kể rõ sau. Người lái Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha này đến Thuận Hóa từ năm nào sử không chép rõ, nhưng có lẽ là sau năm 1614 như cuốn Nam sử của C.Maybon đã chép.

    Bản viết của Hồng Lam
    Chú giải của L.Cadière
    Coppi:Bộ Xương đẹp trai một mái
    Người đạo sĩ cuối cùng

  2. #2

    Mặc định

    Thiên Chúa Giáo

    Vì tôn thờ đức Chúa Trời nên gọi là Thiên Chúa giáo, từ Ki Tô giáo là phiên âm chữ Christ, còn Gia Tô là phiên âm chữ Catho từ Hy lạp có nghĩa là toàn cầu, gọi là Công Giáo chỉ riêng người Việt Nam dùng, Jesus được tôn sùng là đấng Christ con của Ðức Chúa Trời.

    Chúa Jesus có tên thật theo tiếng Do Thái là Joshua (có nghĩa Chúa là đấng cứu thế) hay Jesua hoặc Jesu (theo tiếng Aramê), đây là tên thông dụng thời bấy giờ. Cha ngài là Joseph làm nghề thợ mộc và mẹ ngài là Mary (theo nguyên ngữ cha ngài là Joses và mẹ là Mirjam), sinh sống tại Nazareth, xứ Galilee, nhưng họ phải đi đến Bethlelem ở xứ Judea là quê mẹ vì cuộc điều tra dân số.

    Chúa Jesus sinh ra nơi cánh đồng cỏ, khoảng tháng 4 năm 4 trước tây lịch, tại Bethlelem, gần cuối triều đại của Herod the Great. (đến năm 523 Giáo Hoàng John I cho một tu sĩ ở toà thánh làm lịch và lấy mốc năm sinh của chúa Jesus là năm 1 của Dương lịch (còn gọi là Tây lịch hay công nguyên, nhưng thực ra đã bị sai, vì năm 1 đó, Jesus đã được sinh ra đến 4 năm rồi).

    Thánh kinh ghi rằng khi chúa Jesus sinh ra, ba nhà chiêm gia ở Ðông phương thấy có sao lạ xuất hiện trên trời, biết là có thánh nhân xuất hiện, nên tìm đến triều đình vua Herod hỏi thăm cho biết nơi nào để ra mắt thánh nhân, nhưng triều đình cũng không biết, nên vua yêu cầu ba chiêm tinh khi biết thánh nhân mới sinh ấy ở đâu, thì cho nhà vua biết để vua chào mừng thánh nhân. Sau khi ba chiêm tinh gia gặp được chúa Jesus, hiến dâng vàng bạc rồi trở về phương Ðông mà không cho vua biết, vua Herod tức giận vì không biết tung tích, nên ra lệnh giết tất cả trẻ con từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Bethlelem.

    Trước đó Joseph được thiên sứ báo mộng nên đã đưa vợ và chúa Jesus qua lánh nạn ở Ai Cập, nên đã thoát nạn. Sau khi vua Herod băng hà, con lên nối ngôi, Joseph mới đưa gia đình về Nazareth, chúa Jesus đã trưởng thành ở tại xứ Galillee nầy.

    Khoảng 26 hay 27 tuổi, có John bà con họ với chúa Jesus, là con của Zachariach bắt đầu giảng đạo và làm phép rửa tội tại xứ Galillee, chúa Jesus là một trong những người đến rửa tội với John ở sông Jordan. Sau đó Chúa Jesus giảng đạo và hình thành giáo đoàn của mình, làm tăng thêm tín đồ và có 12 sứ đồ ở cạnh. Chúa Jesus dạy người ta phải kính yêu Chúa Trời và người lân cận - bất kỳ ai, dù là người lạ hay kẻ thù. Người dạy rằng sự cứu rỗi còn tùy thuộc sự thành thật tận tâm đối với Chúa Trời hơn là chỉ theo từ ngữ trong giới luật tôn giáo.

    Vào khoảng 29 hay 30 tuổi Chúa Jesus và những sứ đồ đi đến thành phố Jesusalem trước lễ Vượt qua của Do Thái. Thành phố đón mừng người, do đó người biết nhiệm vụ của người ở trần thế cũng sắp chấm dứt. Một nhóm nhỏ trong hệ thống giáo quyền của Ðền Thờ tại thành phố Jesusalem lo sợ Chúa Jesus là nguồn gốc rắc rối cho họ, nên tìm cách loại trừ Chúa Jesus. Vài ngày sau khi Chúa Jesus đến thành phố Jesusalem, Người tập họp 12 sứ đồ lại trong bửa tiệc Ly (Last Supper). Chính trong buổi tiệc nầy Người đã cho biết có một sứ đồ phản Chúa, khi Juda hỏi Chúa: ?? - Thưa thầy có phải tôi chăng ??? Chúa đáp : ?? - Thật như ngươi đã nói.??.

    Sau đó, Chúa lấy bánh tạ ơn rồi, bẻ đưa cho môn đồ và nói : ?? - Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta.?? Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ và nói rằng: ?? - Hết thảy hãy uống đi, vì đây là huyết ta, huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều người được tha tội. Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở nơi nước cha ta ??. Ðó là sự kiện tạo ra lễ ban thánh thể (Holy Communion) sau nầy. Cùng đêm đó, do Juda chỉ điểm, Chúa đã bị người của Ðền Thờ bắt giữ, kết án đã mạo danh Christ là con đức Chúa Trời, rồi giải tới quan Tổng Trấn La Mã Pontius Pilate, sau đó đến vua Do Thái Herod. Cuối cùng vụ án giao cho Tổng Trấn Pilas, Pilas đã y án theo phán quyết của Hội Ðồng Thượng tế, Ký lục và Kỳ lão của Ðền Thờ tại thành Jesusalem gồm có 70 người, đã phán quyết đóng đinh Chúa Jesus trên thập tự giá vì tội xưng vua xứ Do Thái, tội ấy bị phạt đánh roi rồi xử treo hay đóng đinh trên cây thập tự ở ngoại thành Jesusalem. Chúa phải vác cây thập tự đi một đoạn đường chừng 6 cây số ngàn để ra khỏi thành Jesusalem, đến địa điểm thi hành án. Sau 3 giờ bị đóng đinh trên cây thập tự, Chúa Jesus chết rồi đem chôn. Ngày thứ ba, mộ của Chúa Jesus được phát hiện là trống trơn. 9 lần Chúa đã hiện ra cho các tông đồ thấy và 40 ngày sau Chúa đã phục sinh và vào cõi Thiên đàng.

    Những người Thiên Chúa Giáo tin tưởng Chúa Jesus là đấng Christ là Con của Chúa Trời, người sống như con người để mang thông điệp của Chúa Trời cho thế gian. Người ta cũng tin rằng Chúa Jesus là một với Chúa Trời.

    Do Thái là đạo có nguồn gốc từ thõa hiệp, còn Thiên Chúa là đạo có nguồn gốc từ lòng Bác ái của Chúa Trời mà ra, như có người cật vấn Chúa Jesus : ?? - Thưa thầy, trong luật pháp, điều răn nào là quan trọng hơn hết ???. Chúa Jesus trả lời : ??- Ngươi hãy đem hết lòng, đem hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhứt và lớn hơn hết. Còn điều răn thứ hai, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận mình. Hết thảy luật pháp và lời tiên tri đều bởi hai điều răn đó mà ra.??. Vậy Thiên Chúa giáo căn bản vẫn là từ Do Thái giáo mà ra, cho nên vấn đề nguồn gốc Vũ trụ và Con người Thiên Chúa Giáo cũng tin giống như Do Thái giáo là Thiên Chúa đã tạo dựng ra Vũ trụ và con người.

    Về mặt lịch sử tôn giáo, như trên vừa đề cập Thiên Chúa giáo cơ bản là Do Thái giáo nhưng theo hình thái phương Tây, lần đầu tiên Thiên Chúa giáo phân chia giữa nhà thờ Ðông và Tây Phương. Ðến thế kỷ XVI có sự Cải cách bắt đầu tại nước Ðức, sau ở trong các nhà thờ tại Anh quốc, sau dẫn đến sự triển khai về Tin lành (Protestantism có nghĩa là phản đối, tức phản đối uy quyền của Giáo hoàng La Mã), do đức Chúa Jesus đem đến tin lành về sự cứu rỗi linh hồn con người.

    Ngày nay Thiên Chúa giáo chia ra, phần lớn là Thiên Chúa giáo La mã (Roman Catholicisn), Chính Thống giáo (Orthodox) và Tin Lành (Protestantism). Chính Thống giáo có Linh mục hành lễ, còn Tin Lành có Mục sư (là người có gia đình) hành lễ, cả hai đều không thừa nhận giáo quyền Toà thánh La Mã. Theo thống kê Thiên Chúa Giáo có 1,995 triệu tín đồ trên khắp thế giới.
    Người đạo sĩ cuối cùng

  3. #3

    Mặc định

    8 mối phúc

    1. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”
    2. “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”
    3. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”
    4. “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”
    5. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”
    6. “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”
    7. “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”
    8. “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ"

    “Phúc thay anh em vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế”
    Người đạo sĩ cuối cùng

  4. #4

    Mặc định

    Trước đó Joseph được thiên sứ báo mộng nên đã đưa vợ và chúa Jesus qua lánh nạn ở Ai Cập, nên đã thoát nạn. Sau khi vua Herod băng hà, con lên nối ngôi, Joseph mới đưa gia đình về Nazareth, chúa Jesus đã trưởng thành ở tại xứ Galillee nầy.
    Vào khoảng 29 hay 30 tuổi Chúa Jesus và những sứ đồ đi đến thành phố Jesusalem trước lễ Vượt qua của Do Thái. Thành phố đón mừng người, do đó người biết nhiệm vụ của người ở trần thế cũng sắp chấm dứt. Một nhóm nhỏ trong hệ thống giáo quyền của Ðền Thờ tại thành phố Jesusalem lo sợ Chúa Jesus là nguồn gốc rắc rối cho họ, nên tìm cách loại trừ Chúa Jesus. Vài ngày sau khi Chúa Jesus đến thành phố Jesusalem, Người tập họp 12 sứ đồ lại trong bửa tiệc Ly (Last Supper). Chính trong buổi tiệc nầy Người đã cho biết có một sứ đồ phản Chúa, khi Juda hỏi Chúa: ?? - Thưa thầy có phải tôi chăng ??? Chúa đáp : ?? - Thật như ngươi đã n

    Bạn bộ xương cho hỏi là Đức Chúa Jesus trong khoảng từ lúc sinh ra tới năm 26 tuổi cuộc sống của Ngài ra sao .???

    Chân thành cảm ơn.

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vô Trí Xem Bài Gởi
    Trước đó Joseph được thiên sứ báo mộng nên đã đưa vợ và chúa Jesus qua lánh nạn ở Ai Cập, nên đã thoát nạn. Sau khi vua Herod băng hà, con lên nối ngôi, Joseph mới đưa gia đình về Nazareth, chúa Jesus đã trưởng thành ở tại xứ Galillee nầy.
    Vào khoảng 29 hay 30 tuổi Chúa Jesus và những sứ đồ đi đến thành phố Jesusalem trước lễ Vượt qua của Do Thái. Thành phố đón mừng người, do đó người biết nhiệm vụ của người ở trần thế cũng sắp chấm dứt. Một nhóm nhỏ trong hệ thống giáo quyền của Ðền Thờ tại thành phố Jesusalem lo sợ Chúa Jesus là nguồn gốc rắc rối cho họ, nên tìm cách loại trừ Chúa Jesus. Vài ngày sau khi Chúa Jesus đến thành phố Jesusalem, Người tập họp 12 sứ đồ lại trong bửa tiệc Ly (Last Supper). Chính trong buổi tiệc nầy Người đã cho biết có một sứ đồ phản Chúa, khi Juda hỏi Chúa: ?? - Thưa thầy có phải tôi chăng ??? Chúa đáp : ?? - Thật như ngươi đã n

    Bạn bộ xương cho hỏi là Đức Chúa Jesus trong khoảng từ lúc sinh ra tới năm 26 tuổi cuộc sống của Ngài ra sao .???

    Chân thành cảm ơn.
    Làm thợ mộc

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vô Trí Xem Bài Gởi
    Trước đó Joseph được thiên sứ báo mộng nên đã đưa vợ và chúa Jesus qua lánh nạn ở Ai Cập, nên đã thoát nạn. Sau khi vua Herod băng hà, con lên nối ngôi, Joseph mới đưa gia đình về Nazareth, chúa Jesus đã trưởng thành ở tại xứ Galillee nầy.
    Vào khoảng 29 hay 30 tuổi Chúa Jesus và những sứ đồ đi đến thành phố Jesusalem trước lễ Vượt qua của Do Thái. Thành phố đón mừng người, do đó người biết nhiệm vụ của người ở trần thế cũng sắp chấm dứt. Một nhóm nhỏ trong hệ thống giáo quyền của Ðền Thờ tại thành phố Jesusalem lo sợ Chúa Jesus là nguồn gốc rắc rối cho họ, nên tìm cách loại trừ Chúa Jesus. Vài ngày sau khi Chúa Jesus đến thành phố Jesusalem, Người tập họp 12 sứ đồ lại trong bửa tiệc Ly (Last Supper). Chính trong buổi tiệc nầy Người đã cho biết có một sứ đồ phản Chúa, khi Juda hỏi Chúa: ?? - Thưa thầy có phải tôi chăng ??? Chúa đáp : ?? - Thật như ngươi đã n

    Bạn bộ xương cho hỏi là Đức Chúa Jesus trong khoảng từ lúc sinh ra tới năm 26 tuổi cuộc sống của Ngài ra sao .???

    Chân thành cảm ơn.
    cuộc sống bình lặng của một thợ mộc
    Người đạo sĩ cuối cùng

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Lịch sử cần sự thật
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 27
    Bài mới gởi: 18-05-2014, 04:40 PM
  2. Thần Đồng Phật Pháp tại Việt Nam!
    By vietnamese in forum Đạo Phật
    Trả lời: 44
    Bài mới gởi: 09-02-2012, 10:09 PM
  3. Lịch sử kỳ diệu của con đường quân sự vĩ đại nhất thế giới
    By Bin571 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 16-12-2010, 12:47 AM
  4. Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ qua đời
    By Bin571 in forum Chân dung & Đối Thoại
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 14-12-2010, 10:13 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •