Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 24

Ðề tài: Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm

  1. #1

    Mặc định Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm

    Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm (I)
    Giới Minh

    Thực tế không có phép lạ nào cả, nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu về Phật pháp, chúng ta sẽ tự có lời giải cho bản thân mà không cảm thấy lạ lẫm gì những chuyện mà những năm qua rộ lên về khả năng của các nhà ngoại cảm.

    Không hiểu do duyên định hay một điều gì khác, từ nhỏ tôi đã rất thích tìm hiểu về tâm linh, các hiện tượng tâm linh, nhưng tôi chỉ có điều kiện tiếp xúc thực tế khi từ Nghệ An về Hà Nội học đại học.

    Đó là có điều kiện đến một số cơ quan chính thức nghiên cứu về các hiện tượng tâm linh, ngoại cảm để xin các tài liệu, băng, đĩa, sách về xem, đọc và tìm hiểu. Những câu chuyện tâm linh bao giờ cũng đầy màu sắc và hấp dẫn, do vậy với tôi nghe kể không thì chưa làm căn cứ để tin mà chỉ là “lưu tâm, để ý”.

    Càng có dịp tìm hiểu, gặp gỡ thực tế với một số nhà ngoại cảm mà báo chí đã từng viết, với kinh nghiệm nhỏ của bản thân, cũng như một ít hiểu biết về Phật giáo, tôi sẽ kể những câu chuyện sau, như một trải nghiệm và sự chia sẻ. Còn việc khẳng định khả năng này, khả năng kia của một nhà ngoại cảm ở góc độ cụ thể nào đó; đó là việc của các nhà khoa học, và nằm ngoài khả năng của tôi.

    Tôi là một Phật tử có niềm tin kiên định với Phật pháp, tin theo Phật pháp thì chuyện linh hồn không có gì lạ ngạc nhiên và bí ẩn, nếu quán chiếu theo kinh sách và sự hiểu biết của tôi về Phật pháp.

    Chuyện linh hồn là có thật, chuyện khả năng này, khả năng kia của một số nhà ngoại cảm là có thật. Ít nhất là với sự chiêm nghiệm và nhận thức của tôi. Tôi không ngầm có ý chứng minh, và cũng không đủ hiếu biết, trí tuệ để chứng minh những câu chuyện có thật về thế giới bên kia với bất kỳ ai, mà chỉ là một sự chiêm nghiệm và thực chứng của cá nhân.

    Song, đó là một câu chuyện khác, trong bài viết này, tôi chỉ đề cập đến những chuyện “nực cười” những đã thu phục được niềm tin của không ít tín đồ, đáng tiếc trong đó có những người có bằng cấp, có học hàm, học vị, có địa vị xã hội,…

    Riêng những mặt trái và mê tín thái quá này, thì dẫu bài viết không có ý chứng minh cũng đủ để chứng minh những hoang tưởng thái quá của một số nhà ngoại cảm…và niềm tin “mù quáng” của không ít người vào những chuyện hoang đường.

    Kỳ I: Gặp những “dị nhân” tự nhận có khả năng của Chúa

    Khi bước vào học cấp II, tôi đã được những bạn người công giáo học cùng lớp kể cho nghe câu chuyện sáng tạo của Chúa, quả thật quả cách kể của các bạn, tôi cảm thấy rất cuốn hút và hấp dẫn. Trẻ con vốn ngây ngô, nghe những câu chuyện kể ly kỳ và đầy màu sắc huyền bí bao giờ cũng để lại những ấn tượng khó quên.

    Tôi còn nhớ chi tiết, chuyện kể Chúa sáng tạo ra vũ trụ, cỏ cây muôn vật trong 6 ngày. Cụ thể là:

    Ngày thứ nhất, Thiên Chúa sáng tạo ánh sáng và bóng tối, ngày và đêm

    Ngày thứ hai, Thiên Chúa sáng tạo trời biển.

    Ngày thứ ba, Thiên Chúa sáng tạo đất đai, thảo mộc

    Ngày thứ tư, Thiên Chúa sáng tạo mặt trời, mặt trăng.

    Ngày thứ năm, Thiên Chúa sáng tạo cá biển, chim trời.

    Ngày thứ sáu, Thiên Chúa sáng tạo súc vật, con người.

    Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

    Bạn tôi không chỉ kể mà còn tặng tôi quyển sách kinh, mà bạn đã cẩn thận gạch đỏ những dòng sau.

    "Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh Thiên Chúa Người đã dựng nên nó. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng. Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng và Thiên Chúa đã phán bảo chúng:
    Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất. Và hãy bá chủ nó! Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi sinh vật nhung nhúc trên đất" (Kn 1:28).

    Tiếc thay, lúc đó tôi còn dại quá, và cũng tiếc thay lúc đó ở Việt Nam chưa có nhiều “dị nhân” có khả năng, ít nhất là làm một phần công việc của Chúa để có thể nêu các thắc mắc với bạn.

    Trước hết, nếu đúng như quan niệm của người công giáo thì Chúa toàn năng sáng tạo ra vụ trụ, Chúa có trước và người là đấng sáng tạo duy nhất, thì liệu ngày nay những “sản phẩm” hậu duệ của Chúa – tức là các “dị nhân” thời nay có thể can thiệp vào sự sáng tạo của Chúa được không?

    Nếu đúng như lời họ tuyên bố là có khả năng ngăn mưa, đuổi bão, có khả năng làm sạch nước Hồ Tây chỉ bằng con lắc, có khả năng xuất hồn lên sao hỏa, phá cửa địa ngục…toàn là những việc “thay trời, đổi đất” thì rõ ràng họ đang muốn chứng minh là mình có thể làm thay việc của Chúa, hoặc ít ra cũng là tiếp sức để chứng minh câu chuyện về khả năng của Chúa trời là có thật.

    Mục sở thị “dị nhân” đuổi bão

    Tôi nghe kể bà H ở Hòa Bình với những câu chuyện rất lạ như bà đã từng chết sau 7 ngày thì sống lại, và bà đẹp như một bà tiên cải lão hoàn đồng, 90 tuổi hơn mà nhìn như mới trên 50 tuổi. Đó là tôi nghe kể lại từ những người đã từng tiếp xúc với bà. Và duyên may đã đến, tôi có dịp gặp bà ở Hà Nội tại nhà của một Phật tử.

    Đúng với bà ngay từ buổi tiếp xúc đầu đã để lại cho tôi những ấn tượng lạ. Nhìn dáng bề ngoài tôi đoán bà khoảng chừng 70 tuổi, tóc bạc, nhưng bà tự xưng thì bà đã trên 80, lúc khác bà lại bảo 90, ai thắc mắc thì bà bảo bà đang “thực hiện nhiệm vụ tâm linh”, tóm lại là không cần biết bà bao nhiêu tuổi.

    Và rồi tôi cũng cho qua, không quan tâm đến những tiểu tiết không quan trọng đó, phải công nhận bà có tài làm thơ thuộc dạng ứng khẩu rất xuất sắc, bà ngâm thơ cũng rất hay, và có cách nói chuyện hết sức lôi cuốn và hấp dẫn.

    Đó là một khả năng trời phú, không thể phủ định. Nhưng điều tôi quan tâm không phải là những chuyện đó, tôi quan tâm đến khả năng tâm linh của bà, và rồi bà cũng kể câu chuyện về những “khả năng, siêu nhiên” của bà.

    Bà cho biết bà ở Hòa Bình, nhưng quê gốc ở Nghệ An, và nhờ năng của bà, mà Nghệ An 20 năm nay không có bão lớn tàn phá, và từ nay trở đi (thời điểm 2009) Nghệ An sẽ không còn bão, bà đã trấn yểm việc này.

    Quả thật, bản thân tôi cũng là một người dân xứ Nghệ, tôi biết dải đất Nghệ An là nơi mà chịu nhiều thiên tai, trước đây không có năm nào lại không có bão, gió. Song từ gần 20 năm nay, may mắn Nghệ An rất ít bị bão, khi nghe qua bà H nói vậy, tôi cũng bán tin, bán nghi.

    Nhưng đến tháng 8 vừa qua, cơn bão số 3 của năm 2010 đã gây ra những hậu quả điêu đứng cho người dân xứ Nghệ, tôi cầm điện thoại liên hệ với bà H thì được bà trả lời rất “ngoại giao”, tôi đang bận lúc khác anh gọi lại nhé.

    Lại nữa, bà còn kể câu chuyện, cách đây mấy năm Nghệ An, Hà Tĩnh có hàng ngàn cháu bị bệnh teo hóa cơ delta, Bộ Y tế đã cử các đoàn chuyên gia vào tìm hiểu nguyên nhân và tiến hành phẫu thuật cho các cháu, những một thời gian ngắn sau đó, các cháu lại bị trở lại căn bệnh đó.

    Theo bà sở dĩ bị căn bệnh đó là do ở Diễn Châu – Nghệ An có núi Hai Vai, đã bị người ta xẻ thịt một vai, nên đã linh ứng và chỉ người xứ Nghệ mới bị căn bệnh đó.

    Bà cho biết, bà và nhóm tâm linh của bà đã trấn yểm lại, và từ đó trên mảnh đất Nghệ An, Hà Tĩnh đã mất hẳn căn bệnh đó, mà các nhà chuyên môn không một lời giải thích được theo góc độ y khoa?!

    Với những lập luận theo tư duy rất thực tế như vậy đã thu phục được rất nhiều “tín đồ”, trong đó có không ít vị có học thức tin một cách nhiệt thành mà nhiều khi không cần kiểm chứng.

    Tôi thì chưa vội tin ngay, khi về nhà vào mạng, tìm hiểu và được biết nguyên nhân của bệnh là “Xơ hóa cơ delta không phải là một bệnh mới. Từ những năm 1960, trên y văn tiếng Anh đã có báo cáo về bệnh này. Tuy nhiên, trước năm 1960, một số trường hợp bệnh được phát hiện và mô tả khá chi tiết trong các nước đang phát triển. Sau Thế chiến thứ 2, nhiều loại thuốc như trụ sinh và chống sốt rét được sử dụng phổ biến qua đường tiêm chích. Tần số các trường hợp xơ hóa cơ delta tăng dần với việc gia tăng tiêm thuốc trong cơ. Do đó, giới y khoa cho rằng bệnh xơ hóa cơ delta là hệ quả của tiêm thuốc”.

    Sự việc đến đây thì đã rõ, không phải Bộ y tế không kết luận được như bà H từng tuyên bố, nếu như chúng ta chịu khó tìm hiểu kiến thức về căn bệnh này.

    Tháng 9 năm nay, nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội với tuyên bố dùng năng lượng cơ thể đẩy đuổi nhưng cơn mưa khỏi Hà Nội của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã được nhiều báo đăng tải thông tin trao đi đổi lại, với không ít lần đính chính, lúc thì can thiệp bằng khả năng tâm linh, bị cật vấn nhiều lại chuyển sang đó là khả năng dự báo chứ không phải là tác động của cá nhân để thay ý của tự nhiên.

    Tuy nhiên, so với một số “siêu nhân” khác, thì tuyên bố của ông Tuấn Anh còn khiêm tốn chán, vì dẫu sao ông còn chừng mực và biết cách rào trước, chắn sau.

    Và tiên đoán kiểu tương tự như ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì người bình thường cũng dự đoán được, đó là tỷ lệ 50/50, đúng là thời tiết đẹp, không có mưa, nhưng hào quang rực rõ như “siêu nhân” dự báo thì chẳng thấy đâu?!

    Xung quanh sự kiện 10/10/2010, có lẽ do cả ngàn năm mới có một lần, và đặc biệt hơn là con số 10 trùng đến 3 lần, nên thời gian trong 3 năm qua, không riêng gì ông Tuấn Anh mà có nhiều nhà ngoại cảm khác như ông NTT, bà VT, ông TVT…tiên đoán, nào là vào ngày này trời mưa ngập lụt Hà Nội, cây đổ xiêu vẹo do bão siêu cấp 13, Hà Nội sẽ có động đất…thì nhiều vô kể.

    Đúng sai ra sao, đến hôm nay bạn đọc đã có thể tự kết luận. Những tiên đoán trên là tiên đoán mà người viết trực tiếp nghe từ các nhà ngoại cảm hoang tưởng. Hoàn toàn không phải chuyện bịa đặt của một ai đó rồi gắn vào là tiên đoán của nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng như trên mạng thời gian qua.

    Với giới ngoại cảm và bạn đọc yêu thích ngoại cảm thì nhà nghiên kứu GHN là một cái tên quen thuộc. Ngày mùng 4 Tết năm 2010, tôi được một nhà ngoại cảm rủ đến nhà ông chơi. Đến nhà ông, thấy ông đang bàn chuyện “siêu nhân” với vài, ba nhà ngoại cảm tại mâm cơm gia đình. Ông đã vội xua tay, mời anh thông cảm ra ngoài quán nước đầu ngõ, ngồi đợi ông và các nhà ngoại cảm bàn xong việc “quốc gia, đại sự” hãy vào.

    Tôi lủi thủi ra quán nước đợi hơn 2h đồng hồ, lúc thấy các nhà ngoại cảm ra đến đầu con ngõ nhỏ, tôi quay vào và nói một câu bâng quơ, tất cả chuyện bác kể cháu đã biết hết.

    Ông GHN ngạc nhiên, anh kể lại vài chuyện xem nào? Tôi nhăn mặt, giả vờ như “vận công”, những thực tình khi gặp các nhà ngoại cảm đầu ngõ, tôi đã tranh thủ “phỏng vấn” và nắm bắt được câu chuyện, nên tôi đã kể rất rành mạch…

    Ông GHN vỗ vào vai tôi cái đét. – Cậu là trường hợp mà tôi phải nghiên cứu, cậu có khả năng thần giao cách cảm rất tốt..???!!!

    Tôi được một trận bấm bụng cười, trong câu chuyện sau đó, ông còn khoe với tôi là ông ta nắm được danh sách một số dĩ nhân có khả năng ngăn mưa, đuổi bão, nhưng khi hỏi địa chỉ thì lại bí mật “vì chúng tôi đang trong vòng nghiên cứu”.

    Sở dĩ ông được phong là nhà "nghiên cứu", và có lúc trả lời phỏng vấn và đã đăng trên báo GĐ & XH ông còn nổ là GS, chúng tôi tìm hiểu và được biết ông là cử nhân, và cái danh nhà "nghiên cứu" là do các báo tự đặt, và nhiều báo đã phỏng vấn, viết bài đăng tải bài của ông và từ đó ông trở thành nhà "nghiên cứu".

    Phải công nhận ông là người rất nhiệt tình trong việc tìm hiểu các hiện tượng lạ và tâm linh trong hàng chục năm qua, điều đó thật đáng trân trọng. Nhưng một đồng nghiệp của ông tiết lộ: Ông là người rất mê tín và do vậy không ít lần tham gia các thí nghiệm đã bị một số nhà ngoại cảm qua mặt, cũng như có một số nhà ngoại cảm có một số khả năng nhất định, nhưng từ đó họ đã đi quá xa và góp phần vào sự đi quá xa này có công không ít của các nhà "nghiên cứu", không riêng gì ông GHN.

    Khi trò chuyện về những dĩ nhân, ông Vũ Thế Khanh đã hứa là ông có đủ dữ liệu để tôi có thể điểm mặt chân dung “siêu nhân” trong hàng tháng trời với những câu chuyện vô tiền khoáng hậu như thưở mới khai thiên lập địa chắc sẽ có không ít người tin.

    Có một thời gian, những cơn bão mạnh thật may mắn không vào nước ta, lập tức có siêu nhân tuyên bố công trạng đó là do ông ta đẩy được bão cấp 15, 16 ra khỏi biển Đông. Siêu đẳng hơn nữa là “siêu nhân” dùng năng lượng cảm xạ lọc nước Hồ Tây trong mấy tiếng đồng hồ. Kỳ dị hơn là siêu nhân xuất hồn lên… sao Hỏa, chu du vũ trụ và xuống địa ngục cứu rỗi các linh hồn, cũng như ông đã tự tay mở cửa địa ngục cứu thoát hàng chục triệu linh hồn, hàng trăm triệu linh hồn từ xa xưa còn đau khổ ở địa ngục.

    Cách đây 4 năm, tại số 1, phố Đông Tác – Hà Nội đã có một cuộc khảo nghiệm đặc biệt. Nhân vật trong cuộc khảo nghiệm đó là ông Đinh Văn nghị, 60 tuổi, quê ở thị trấn Xuân Mai (Hà Nội).

    Đó là người đàn ông có dáng dấp đạo mạo, trán cao, tóc bạc. Ông Nghị từng là một cán bộ đã về hưu, có bằng cấp. Ông từng tham gia một lớp học cảm xạ và có tham gia một số việc liên quan đến phong thủy, chữa bệnh.

    Trước mắt đông đảo các nhà khoa học, ông Nghị tuyên bố, ông đã ứng dụng sức mạnh của mình vào việc đẩy đuổi các cơn bão ra khỏi biển Đông, tránh cho nước ta không biết bao nhiêu là thiệt hại, có thể tính bằng cả tỉ đô la. Ông Nghị đưa ra các bằng chứng cụ thể từng năm: Chẳng hạn như năm X, có 14 cơn bão tràn qua Philippines vào biển đông, nhưng ông đẩy được 13 cơn bão. Năm Y có 12 cơn bão, thì ông đuổi được 11 cơn, và năm Z có 9 cơn bão thì ông đấy được 7 cơn bão…

    Ông Nghị yêu cầu các nhà khoa học cho làm cuộc khảo nghiệm ngay với cơn bão đang chuẩn bị vào biển Đông nước ta.

    Trước khi thí nghiệm ông Nghị cho biết về năng lượng của cơn bão, nội lực công phá bão của ông mạnh bằng cả ngàn quả bom nguyên tử. Ông Vũ Thế Khanh giám đốc trung tâm UIA đơn vị chủ trì cuộc thí nghiệm, đã khéo léo gài bẫy: “Bác cho biết sức gió của cơn bão so với cái quạt điện thế nào?”. “Bằng tỉ tỉ cái quạt điện” – ông Nghị trả lời.

    Khi nghe ông Nghị nói vậy, ông Khanh bê chiếc quạt có 5 số đặt ở góc nhà rồi bật số 5. Ông yêu cầu: “Bác chỉ cần chuyển sức gió của quạt, hoặc lái gió của quạt sang một bên là cuộc thí nghiệm thành công”.

    Mọi người cùng vỗ tay tán đồng vì cuộc khảo nghiệm khá đơn giản. Ông Nghị cũng không thể nghĩ ra lí do gì để từ chối cuộc khảo nghiệm này.

    Ông Nghị ngồi xuống nền nhà, mắt nhắm nghiền vận công nhằm vào chiếc quạt. Ông phóng vã cả mồ hôi mà cái quạt vẫn quay vù vù, thổi bay cả tóc với tà áo của ông.

    Sau khi phóng hết năng lượng, người ngợm mệt nhoài, ông Nghị đành thú nhận…thua cuộc. Sau vụ đó, không thấy ông Nghị có tuyên bố động trời nào nữa.

    Gặp “siêu nhân” trên tầng trời sao Hỏa

    Ngoài những “siêu nhân” hô mưa, đuổi bão, khử ô nhiễm môi trường, truyền năng lượng chữa bệnh (số “siêu nhân” tuyên bố có khả năng truyền năng lượng chữa bệnh nhiều vô số kể), còn có “siêu nhân” tuyên bố có khả năng “đi mây về gió”, chả khác gì Tôn Ngộ Không.

    Siêu nhân có khả năng “xuất hồn” kiểu như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Kí là ông Trần Quang Bình, 70 tuổi, ở Hà Nội. Ông này hoang tưởng rằng ông thường xuyên đi chu du thiên hạ không những ở cõi trái đất mà còn đủ các cõi do ông tự nghĩ ra.

    Ông khỏe thường xuyên “xuất hồn” sang tận tháp Eiffel ở Pháp, để chứng minh thêm khả năng của mình, với ông chu du trái đất chưa đủ mà ông còn bay lên tận mặt Trăng, sao Hỏa! Hoặc ông có thể xuất hồn để biết về quá khứ hàng ngàn năm, hoặc xuất hồn xuống thế giới âm phủ xem ma qủy sống thế nào.

    Ông Khanh yêu cầu ông Bình xuất hồn sang tháp Eiffel, thì thấy ông ta “xuất” đi một lúc, khi quay về, tả ngôi tháp khá tận tường. Rồi ông ta tiếp tục xuất hồn về chùa Đậu mấy trăm năm về trước, sau đó tả vanh vách: “Tôi nhìn thấy thiền sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh ngồi thiền trên giàn hỏa. Các đệ tử ngồi dưới sân. Hơi nóng và khói từ từ bốc lên. Một tuần sau cơ thể từ từ khô đét lại và tồn tại cho đến ngày nay”.

    Nghe thấy ông Bình tả thế, ông Khanh đã thấy nhảm nhí và phản khoa học rồi. Để làm khảo nghiệm, ông Khanh chuẩn bị hai chiếc camera rồi cài đặt đồng hồ hiện lên màn hình. Ông Khanh đề nghị các nhà khoa học mang một chiếc đặt trong phòng khách nhà ông Bình, một chiếc quay cuộc khảo nghiệm.

    Ông Khanh nói: “Tôi không yêu cầu bác xuất hồn lên sao Hỏa, chỉ cần xuất hồn về nhà bác, tính ra đường chim bay có 2 cây số, như vậy không thể nói hồn bác đi nhầm đường vào nhà khác được. Sẽ có một nhà khoa học làm việc ở nhà bác.

    Bác hãy xuất hồn về và kể những việc làm của họ”.

    Ông Bình nhắm mắt… dẫn hồn về nhà mình và tả rành rọt mọi thứ. Nào là ông A đang đi lại, cô B ngồi uống nước, anh C đi vào nhà vệ sinh.

    Cuộc khảo nghiệm xuất hồn kết thúc. Chiếc camera được mang về. Hai chiếc camera được cắm vào 2 tivi và cùng chạy lại cuốn băng. Thời gian hiện trên màn hình của hai chiếc đều trùng khớp.

    Màn hình ghi lại lời ông Bình tả thao thao bất tuyệt. Nhưng màn hình kia thì chỉ thấy có một ngôi nhà trống trơn. Chẳng có bóng người nào. Ông Bình thừa nhận đấy đích xác là ngôi nhà mà gia đình ông đang ở. Cuốn băng chạy chưa hết, mọi người nhìn lại không thấy bóng dáng ông Bình đâu cả. Hóa ra ông đã lặng lẽ rút êm khi nào, mà mọi người mải mê xem mà không để ý đến ông.

    …đến “dị nhân” làm sạch nước Hồ Tây

    Khi tôi đặt vấn đề tìm hiểu về những dĩ nhân có khả năng làm việc của Chúa, ông Khanh đã cung cấp cho tôi một số bài báo đã viết rất kỹ về trường hợp ông Nguyễn Văn Thanh ở Hà Nội. Ông cũng từng học cảm xạ, và không biết ông đo lắc thế nào, bỗng đến một ngày đẹp trời, ông hùng hồn tuyên bố, ông có khả năng làm sạch nước Hồ Tây chỉ bằng con lắc và tốn kém chỉ 1000 đồng. Thời điểm đó, cả Hà Nội đang xôn xao với dự án mấy chục triệu usd để làm sạch nước Hồ Tây, thì khả năng của ông Thanh quả thật rất đúng lúc và hợp thời.

    Thí nghiệm mà ông Khanh đưa ra hết sức đơn giản, với 3 chén nước tinh khiết. Ông vắt 1 quả chanh cho vào chén thứ nhất, nhỏ vài giọt dầu gió vào chén thứ hai, còn chén thứ 3 ông để nguyên nước trắng. Ông yêu cầu “siêu nhân” Nguyễn Văn Thanh dùng năng lượng khử mùi chén có dầu gió đang bốc mùi ngào ngạt và khử màu đục của chén nước bị vắt quả chanh. Khi nào hai chén nước trong suốt và không có mùi như chén thứ 3 thì sẽ làm khảo nghiệm tiếp.

    Ông Thanh đã dùng con lắc để phóng năng lượng cảm xạ suốt 3 giờ đồng hồ mà chẳng ăn thua. Chén nước chanh vẫn đục, chén nước dầu gió vẫn bốc mùi. Vậy là, cuộc khảo nghiệm thành công, còn khả năng của “siêu nhân” Nguyễn Văn Thanh thì từ đó đi vào dị vãng.

    Theo lời ông Khanh, nhưng người có tuyên bố động trời, làm được những việc phi thường hầu hết đều là những người mắc bệnh hoang tưởng. Họ có thể là tri thức, là người bình thường nhưng vì môn cảm xạ học, khai mở huyệt đạo không đúng cách nên bị “tẩu hỏa nhập ma”.

    Nhiều người chỉ vì đọc lắm sách thần bí, sách luyện công nhảm nhí, rồi tập luyện theo, nên bị ám thị, viễn tưởng rằng mình có năng lượng siêu phàm. Căn bệnh của những người này sẽ mỗi ngày một nặng thêm, nếu không được điều trị kịp thời, đúng cách.

    Ở góc độ khác, tôi chỉ muốn chia sẻ một kinh nghiệm để chúng ta tránh đi quá xa và đừng quá tin vào những điều mơ hồ có phần hoang tưởng, phần nhiều là hoang tưởng, phần khác là do bị ma vương hay trong dân gian gọi là âm binh điều khiển theo kiểu “tầu hỏa nhập ma”, cũng có hiện tượng khác đó là mạo xưng để trục lợi bằng cách lừa người cả tin, hoặc người có sự hiểu biết còn mơ hồ, chưa sâu, nên khi “thuyết pháp” các vị “siêu nhân” này thường đưa vào đủ học thuyết, mà không học thuyết nào đúng cả, đó chỉ là một mớ hổ lốn.

    Quả thật, như Đức Phật đã dạy, nếu chúng ta có niềm tin mà không có lý trí, trí tuệ để tin thì niềm tin đó dễ dẫn đến mù quáng, mê tín.

    Kết luận

    Với những câu chuyện tâm linh khi nghe kể dù trực tiếp hay gián tiếp thì hãy cố gắng kiểm chứng, không vội tin ngay, dù người kể lại cho mình là một cựu quan chức đã về hưu, một nhà khoa học, hay bất kỳ ai.

    Những câu chuyện trên, nếu không chịu khó tìm hiểu về mặt khoa học là mình đã tin vội vàng và thiếu thực tế, mặc dù nghe qua thì rất có lý và cũng rất tâm linh. Vì bản thân ít nhiều những nhân vật kể trên, cũng có những khả năng ngoại cảm nhất định, nhưng thường thì có một mà họ hoang tưởng ra thành “siêu nhân” và có những “phép lạ”.

    Thực tế không có phép lạ nào cả, nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu về Phật pháp, chúng ta sẽ tự có lời giải cho bản thân mà không cảm thấy lạ lẫm gì những chuyện mà những năm qua rộ lên về khả năng của các nhà ngoại cảm.

    Khả năng ngoại cảm dù có thật, cũng không có gì là thần bí và siêu nhiên cả, nếu đã nắm được bí quyết Phật pháp và có sự am hiểu Phật pháp chúng ta sẽ nhìn sự việc đơn giản hơn và tránh màu sắc huyền bí, mê tín dĩ đoan.

    Còn nữa

    theo ( Phật tử Việt nam)
    Last edited by Bin571; 15-12-2010 at 09:53 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Công nhận với những gì huynh GM chia sẻ thì đúng là chẳng có gì bí ẩn thật, chờ tiếp kì sau xem điều thần bí như thế nào...
    Ngoài tâm không động
    Ðộng chẳng phải tâm
    Tâm chẳng phải động
    Ðộng vốn không tâm
    Tâm vốn không động
    Ðộng không lìa tâm
    Tâm chẳng lìa động
    Ðộng là dụng của tâm
    Dụng là cái tâm động

  3. #3

    Mặc định

    Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm (2)
    13/10/2010 08:14 Giới Minh


    Có nhà khoa học, trí thức sau một thời gian vốn không mấy tin về chuyện tâm linh, ngoại cảm,….nhưng khi thực chứng những chuyện như gọi hồn, áp vong, và đúng là người cõi âm là có thật thì lại tin theo một cách thái quá, nếu không muốn nói là mê tín.


    Kỳ II: Những trí thức theo tà đạo Ty


    Sở dĩ có tên gọi đạo Ty, là vì giáo chủ của tà đạo này tên là Lưu Văn Ty ở Hà Tĩnh, có lẽ đến nay không biết bao nhiêu gia đình ở Nghệ An và Hà Tĩnh cũng như ở một số tỉnh miền Bắc đã tan nát vì cái tà đạo quái gở này.

    Để tìm hiểu về tà đạo này, bạn chỉ cần lên mạng và gõ chữ “tà đạo Ty” trong mục tìm kiếm, bạn sẽ có ngay kết quả, tiểu sử của giáo chủ tà đạo này, cũng đã có hàng chục bài báo vạch trần chân tướng của tà đạo Ty.

    Với một tà đạo như vậy, tại sao có không ít trí thức lại mê tít và theo Lưu Văn Ty như bùa mê thuốc lú?

    Câu trả lời rất đơn giản: Sinh năm 1954 ở xóm Thanh Phú, xã Thạch Trung, TP Hà Tĩnh, với trình độ chưa hết lớp 8, nhưng Lưu Văn Ty lại có giọng đọc truyền cảm, có chút hiểu biết về kinh sách, Lưu Văn Ty đã tự hành hạ thân xác mình để làm cho mọi người tin là "Phật", là "Thánh".

    Và đặc biệt hơn với một số trí thức có hiểu biết Phật pháp nhưng chưa sâu thì khi tiếp xúc với Lưu Văn Ty rất dễ tin Ty là “chính đạo”, vì Ty có tài vừa xuyên tạc, vừa thêm thắt, mượn kinh sách để thực hiện cái gọi là "các pháp tu", các khóa tu…

    Khi tôi viết những dòng này, trung tuần tháng 10 năm 2010, nhà giáo Đào Quang Tiến ở phố Lý Nam Đế - Hà Nội đã khẩn khoản mong tôi viết thật nhanh, để nhà giáo mang bài báo này cứu vợ của một ông bạn là Gs.QN có vợ là P.Gs.Ts V hiện đang công tác tại một trường đại học, là tín đồ mê mệt của tà đạo Ty.

    Từ ngày bà theo tà đạo Ty, gia đình bà trở nên không còn hạnh phúc như trước đây, mặc cho người thân quen khuyên ngăn, bà vẫn âm thầm thực hiện “nếp sống” của tà đạo Ty trong gia đình.

    Có thời để cho các đệ tử tin, Ty có kiểu hành đạo rất “hành xác” như cạo cho chân tay mình chảy máu để mưng mủ lên và tuyên bố với đám đệ tử là "bố thí cho ma vương, ma quỷ", tự cứa cho ngón tay chảy máu rồi vẩy lên người các đệ tử ngồi chung quanh.

    Trước đây, Ty còn tổ chức các loại "lễ, khóa lễ" quái đản như bắt các đệ tử nam, nữ cởi bỏ hết quần áo vứt vào lò nhảy múa trần truồng quanh đống lửa sau đó thì quan hệ tình dục với nhau theo kiểu nguyên thủy ("lễ"diệt dục).

    Với lễ "tiêu tội" và "diệt nghiệp", Ty thực hiện việc đốt tài sản có trộn các loại hóa chất như xà - phòng, mì tôm, dầu hỏa... mà đệ tử đem đến, cho họ phơi người trên đống lửa nói là để chữa bệnh.

    Ty chỉ đạo đệ tử đốt phá hết tài sản của mình rồi cạo trọc đầu mặc quần áo nâu sồng giả danh là người của Phật giáo đi lang thang xin tiền đem về "cúng dường" cho "thầy".

    Bà V đã theo triết lý quái gở của Ty, đêm đêm không nằm ngủ cùng chồng, mà cởi bỏ hết quần áo ngủ dưới nền nhà, lấy hết sổ tiết kiệm của gia đình để đi công đức cho “giáo chủ” và đồng đạo.

    Đáng tiếc, chuyện người dân quê ít học đã mê tín bỏ bê gia đình, con cái chạy theo tà đạo quái gở trên là một điều đáng tiếc, đằng này có những vị có học thức hẳn hỏi theo một cái tà đạo quái gở, đến không thể tin nổi.

    Ông NBH là một nhà văn cũng có tiếng và chức sắc trong lĩnh vực văn chương, không nói đến các bạn đồng nghiệp, người quen mà ngay cả vợ con cũng không thể tin nổi, ông lại tin theo cái tà đạo đó, bình thường ban ngày ông vẫn thắt com lê, cà vạt đi làm bình thường, nhưng đêm về khi đi ngủ, ông không ngủ trên giường mà cởi bỏ hết quần áo, nằm trong bao tải và ngủ dưới đất (nền nhà).

    Ông làm như vậy, là vì ông tin theo “thánh chủ” của mình, tin theo cái học thuyết quải gở là theo đạo trở về bản thể, sống tự nhiên, không cần quần áo, tài sản, gia đình, vợ con….

    Cũng may, ông chỉ theo có độ 3 tháng, sau đó do sự can đảm khuyên ngăn của một ông bạn, khi vô tình biết chuyện, nên ông NBH đã tỉnh ngộ được một phần, chứ nếu ông theo lâu và các đồng nghiệp biết chuyện thì chắc chắn ông sẽ không được như bây giờ trong cái nhìn của mọi người, và hiện tại ông NBH cũng là một nhà văn có tiếng và có chức vế vọng trọng, hiện đang sinh sống tại Hà Nội.

    Đến thời điểm này, được biết, ông NBH cũng chưa từ bỏ hẳn tà đạo Ty, ông vẫn lén lút theo mặc dù không còn mê muội như trước.

    Khi viết những dòng này, để kiểm chứng lại một cách chính xác, tôi liên hệ với Phóng viên Đài PT & TH Hà Tĩnh nhờ xác minh thực tế, và được biết, thời điểm hiện tại Lưu Văn Ty đã cơ bản từ bỏ đạo của mình với tư cách có tổ chức và ở nhà mở trang trại chăn nuôi lợn.



    “Giáo chủ” thì đã biết phục thiện, nhưng đáng tiếc một số tín đồ thì lại coi việc “giáo chủ phục thiện” là do sức ép của dư luận…, còn chân lý của tà đạo thì không thay đổi, và do vậy họ vẫn mê mệt theo và thực hành chỉ huấn của Lưu văn Ty từ những ‘giáo chỉ” thời còn “vàng son” của tà đạo này.

    Kết luận

    Niềm tin là quyền của mỗi người, niềm tin của cá nhân thì không ảnh hưởng đến ai nhưng khi niềm tin đó bằng cách này hay cách khác trở thành niềm tin của một bộ phận quần chúng trong xã hội, bên cạnh mặt tích cực đã có không ít hệ lụy.

    Tôi rất trân trọng các nhà khoa học khi họ say mê nghiên cứu về những điều mới lạ, tôi chưa có kiến thức để tìm hiểu thực tế các nhà khoa học quốc tế họ nghiên cứu vấn đề này ra sao, nhưng một số nhà khoa học, một số bậc trí thức trong nước bên cạnh những nhà khoa học, trí thức có uy tín, cẩn trọng trong quá trình nghiên cứu, lại cũng có nhà khoa học, trí thức sau một thời gian vốn không mấy tin về chuyện tâm linh, ngoại cảm,….nhưng khi thực chứng những chuyện như gọi hồn, áp vong, và đúng là người cõi âm là có thật thì lại tin theo một cách thái quá, nếu không muốn nói là mê tín.

    Việc một số người có học hàm, học vị có thể coi họ là có trí thức theo tà đạo Ty... đã thật sự là một hồi chuông báo động.

    Còn nữa

    * Tác giả đã gặp gỡ nhà văn NBH, sử dụng tư liệu do nhà giáo Đào Quang Tiến và tư liệu do đồng nghiệp công tác tại Đài PT & TH Hà Tĩnh cung cấp.
    Last edited by Bin571; 15-12-2010 at 08:58 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4

    Mặc định

    Kỳ 3 loạt bài Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm.

    Phật ngoại ra đi, Phật Việt Nam ở lại!
    14/10/2010 21:15 Giới Minh

    Kỳ III: Hoang tưởng về siêu cường tâm linh

    Qua tiếp xúc và tìm hiểu thực tế, tôi biết hiện có nhiều cá nhân, nhóm tự nhận mình là nhà ngoại cảm, nhóm - đoàn tâm linh… trong số đó có người có năng lực ngoại cảm, nhưng dù có khả năng thì khả năng đó cũng chỉ giới hạn ở những lĩnh vực, góc độ và mức độ nhất định, khả năng đó vận dụng đúng nhân sinh thì sẽ có những đóng góp hữu ích, khả năng đó lệch lạc sẽ nguy hiểm và hệ lụy, bên cạnh đó lại có sự tham gia và ủng hộ của một số nhà nghiên cứu thì ảnh hưởng đến không chỉ cá nhân mà nhiều mặt dư luận, nhận thức xã hội.

    Có người có chút khả năng ngoại cảm, do không hiểu bản chất của thần thông nên đã sớm hoang tưởng, tiên đoán những điều mang tính hoang tưởng.

    Cũng có những hiện tượng không phải là có khả năng ngoại cảm như một số nhà khoa học lầm tưởng. Cá biệt có nhà nghiên cứu cứ nghĩ rằng có tiếp xúc được với các chúng sinh ở cõi âm thì gọi là ngoại cảm, thực tế trong dân gian gọi hiện tượng đó là “tàu hỏa nhập ma”, hay “ma làm”, “bị người âm điều khiển”, bị một thế lực vô hình nào đó ở cõi Atula điều khiển như một cuộc chơi của họ,…lợi lạc thì không có, nhưng những “cuộc chơi” kiểu này mà được một số nhà nghiên cứu cổ vũ và tôn thành khả năng ngoại cảm thì quả thật rất nguy hiểm.

    Hoang tưởng, hoang đường thậm chí cả mê tín ở một góc độ nào đó là chuyện cá nhân, và có thể viết thành những tập sách dày về những câu chuyện tương tự, với hàng trăm trường hợp khác nhau có dán mác tâm linh, ngoại cảm.

    Ở đây, chúng tôi chỉ xin lược thuật một dạng hoang tưởng có ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội. Như hoang tưởng về siêu cường tâm linh theo kiểu: Việt Nam sắp thành siêu cường tâm linh, Việt Nam sắp giàu nhất thế giới vì các nhà ngoại cảm đã phát hiện ra kho vàng hàng ngàn tấn, nào là ở tỉnh X có kho 4000 tấn, ở tỉnh Y có kho 8000 tấn, ở đảo TS có mỏ vàng với trữ lượng hàng triệu tấn vàng…

    Thậm chí lại còn có hoang tưởng về chính trị, như nhân vật X đã chết cách đây 50 năm nay chuẩn bị sống lại, ông Y một nhân vật lịch sử đã mất, nay lại tuyên bố nhận được linh giáng từ hồn linh “thánh” XYZ là ông Y chưa chết, nhân vật B sắp lên chức Vua để cai quản đất nước…

    Hoang tưởng và dự báo thì có nhiều dạng, nhưng những hoang tưởng của không ít cá nhân, nhóm tâm linh mà chúng tôi sẽ nêu cụ thể trong bài viết này thuộc dạng “siêu hoang tưởng” vì nó toàn những vấn đề lớn, liên quan đến qui mô quốc gia, qui mô toàn cầu và thậm chí là cả vũ trụ…

    Anh NKT là tiến sĩ, tự nhận mình là nhà nghiên cứu tâm linh, hiểu biết về tâm linh, khi gặp tôi trong một chuyến đi lên một ngôi Đền ở Ba Vì – Hà Nội, về đã nhắn tin vào máy điện thoại của tôi, mấy câu thơ (thẩn) sau:

    Nay, thể kỷ đã thời chuyển dịch
    Sự giao ban đã rất rõ ràng
    Phật ngoại bang đã không còn phép
    Chức, Quyền, Ngôi đã đổi sang trang
    Phật Việt Nam tỏa ánh hào quang
    Soi Thiên Âm rõ ràng mạch lạc


    Một điều thật là nhảm nhí, câu thơ trên còn phân biệt Phật nội và Phật ngoại, tôi hỏi anh lấy từ đâu, anh đã trả lời coi vẻ rất bí mật và “thiên cơ”: - Thông điệp nhận được linh giáng từ một nhà ngoại cảm “tài ba”.

    Đối với những ai đã thấm nhuần Phật pháp, thì những câu thơ trên thuộc lại “đặc cán me” không biết gì về Phật pháp. Song đối với những người không biết Phật pháp nghe qua lại có vẻ rất có lý, rất thuyết phục, đánh vào tinh thần tự hào rất Việt Nam, rất dân tộc.

    Cũng theo niềm tin của anh thì trong những năm sắp tới đây Việt Nam sẽ trở thành cường quốc về tâm linh, và sẽ dẫn đầu toàn cầu về mọi mặt.

    Trường hợp khác là Ts.Phạm Văn Khiển, hiện là Tổng biên tập một tờ Tạp chí chuyên ngành của Bộ Y tế, đọc những tài liệu do ông viết để giới thiệu về trường hợp nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Xuyến ở Hải Dương và một số nhà ngoại cảm khác quả thật chúng tôi hết sức lo ngại cho các đề tài nghiên cứu kiểu này.

    Trong những năm qua, với riêng cá nhân tôi những đóng góp của Trung tâm NCTNCN là rất trân trọng, có những đề tài công phu đóng góp hữu ích vào nền tảng của đời sống nhân văn, giúp xã hội có cái nhìn khách quan hơn về các hiện tượng tâm linh, cũng như thừa nhận các hiện tượng, thực thể tâm linh là tồn tại khách quan.

    Bên cạnh đó, vẫn còn có một số đề tài mà chúng tôi không thể hiểu được cách đặt vấn đề của một số nhà nghiên cứu. Tư liệu để chứng minh thì có nhiều, nhưng trong bài viết này, chúng tôi nêu tên một đề tài cụ thể để bạn đọc thấy rõ…

    Đó là đề tài “Nghiên cứu một số người có khả năng nhận thông tin từ vong linh các danh nhân” do Ts.Phạm Văn Khiển làm chủ nhiệm. Trong đề tài của ông Khiển có nêu trường hợp nhiều nhà ngoại cảm, song trong bài viết này chúng tôi chỉ nêu một trường hợp, thiết nghĩ duy nhất một trường hợp cũng đã đủ để bạn đọc thấy tư duy nghiên cứu của ông Khiển đến mức độ nào.

    Những nội dung được ông Khiển trích lại trong đề tài của ông, có một số đoạn như sau:

    Việc xuất hồn các tượng Phật nước ngoài:

    Việc xuất hồn các tượng Phật nước ngoài được nói rõ trong bài “Lời tâm linh của Tòa Tiên Thánh” viết theo lời Thánh đọc tại Đền Hòa Bình ngày 13/08/2008 (tập bìa xanh: Gửi Trung tâm NCTNCN, trang 1 – 13) và một số bài khác.

    Ở đoạn khác là: Hiện nay, đạo nước ngoài tràn lan, dân ta u mê trong đạo nước ngoài, coi Phật Thánh nước nhà là hàng thứ yếu, coi thường tiên tổ. Khi chủ đạo (ý nói đạo Việt Nam do bà Xuyến nhận được linh giáng) đứng lên kêu gọi vì Đạo, dân theo Đạo phải nghe theo…

    Viết đến đây chắc bạn đọc đã ngao ngán và bái lạy Ts.Khiển. Tất cả mớ nhảm nhí đó, nếu sau khi Ts.Phạm Văn Khiển nghiên cứu và đề xuất Nhà nước hãy cấm những tà đạo đó tuyên truyền trái phép nhân danh Đạo mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới thì còn gọi là nghiên cứu, đằng này, ông còn mang tính cổ vũ và như một phát hiện mới về tâm linh khi ông viết: “Chúng tôi đã có đủ những cơ sở khoa học, những bằng chứng xác thực, dễ kiểm định và sẽ sớm báo cáo trong đề tài của Trung tâm NCTNCN….”

    Tài năng và khả năng ngoại cảm của bà Xuyến ra sao, xin dành cho bạn đọc nhận định, duy chỉ có điều đa số các nhà ngoại cảm, trong đó có bà Xuyến đều tự nhận mình là chính đạo, và coi các nhóm khác là tà đạo. Hiện nay, có nhiều nhóm tự xưng là nhà ngoại cảm tự phát, bản thân tác giả khi trực tiếp chứng kiến các nhóm “bình loạn nhau”, cũng đã thấy nực cười.

    Nhóm TLQM thì cho các nhóm tâm linh, ngoại cảm khác là tà, nhóm TLQM thì cho rằng nhóm bà Xuyến là tà, trong khi bà Xuyến lại tự cho mình là chính đạo, dường như chưa đủ thuyết phục, bà còn cẩn thận lên gân cốt: “Điều đặc biệt là mấy chục năm qua, có nhiều đồng tà cũng đã nhận được những linh ứng ngoại cảm phụ hoạ sự bịa đặt, chỉ có nhóm của bà mới có quyền năng do Thánh thần ban cho mới nhận được chỉ giáng tâm linh chuẩn nhất”.

    Trong nhiều nhận định của bà, được một số nhà nghiên cứu cẩn thận ghi chép lại theo dạng đề tài và đã được báo cáo tại Trung tâm NCTNCN, rất may tại buổi báo cáo có nhiều ý kiến phản biện, bác bỏ, đề tài trên nếu được thông qua thì người viết đảm bảo chắc rằng Trung tâm NCTNCN sẽ tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.

    Không dừng lại ở đó, đề tài có sự xuyên tạc và xúc phạm đạo Phật và một số tôn giáo khác ở mức độ nghiêm trọng. - Một nhà khoa học trong nhóm thẩm định đề tài cho chúng tôi biết như vậy.

    Trong nội dung bài viết, tôi chỉ xin trích lại “cái tà” của bà Nguyễn Thị Xuyến mà theo bà là nhận được là sự linh ứng chính đạo, được một số nhà nghiên cứu “cổ vũ”, mà nội dung thuộc dạng, như sau:

    Ngọc Phật Hồ Chí Minh - Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam và là danh nhân nổi tiếng thế giới. Nhưng khi thấy nhiều bài giáng bút nói đến danh vị tâm linh mười năm nay của Người là Ngọc Phật Hồ Chí Minh do Trời ban chức ở vị trí cao nhất Toà Phật - Toà Thánh và vượt xa Phật hoàng Trần Nhân Tông, Phật Thích Ca và Phật Bà, thì nhiều người phân vân. Đây thực sự là điều đáng tiếc và cần được làm sáng tỏ.


    Theo tư liệu ngoại cảm, sau khi mất Hồn Bác đã nhận công việc Thiên của Toà Phật - Toà Thánh toàn cầu, ngày đêm dồn mọi sức lực và tâm trí để lo gấp việc đời, việc trời của nước ta và thế giới. Công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Toà Trời đánh giá vượt bậc. Hơn nữa, vì Bác là tái thế của Hồn Thuỷ Tổ dòng tộc Việt và Lạc Long Quân là Con Trưởng của Cha Thiên Mẹ Địa, cho nên Người được Thiên tin cậy trao trọng trách tối thượng vào thời điểm giao ban thiên niên kỷ - Ngọc Phật Hồ Chí Minh mãi mãi đứng đầu hàng Phật hàng Thánh trên Trời, dưới Đời. Đó là ân phúc vô cùng lớn của dòng tộc Bách Việt đã được Trời Đất ưu ái và cho sinh dưỡng những người con xuất chúng để gánh vác vai trò tâm linh số một của Nước Con Đầu trong Thiên niên kỷ này.


    Và ở đoạn khác là:

    “Theo thuyết huyền bí và các tư liệu ngoại cảm, thế giới tâm linh được quy ước chia thành 3 cõi là cõi Âm, cõi Thiên (cõi Trời) và cõi Phật. Hầu hết mọi người và loài vật sau khi chết đều tồn tại ở cõi Âm. Theo luật luân hồi, một số thực thể cõi Âm có cơ duyên đầu thai trở lại cõi Trần (thế giới hữu hình) nhằm mục đích rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm, trả nghiệp...


    Các sinh linh tại cõi Thiên vi tế hơn cư dân cõi Âm, các vị thường được gọi là Phật, Tiên, Thánh hoặc Thần. Mọi sinh linh ở cõi Trần, cõi Âm và cõi Thiên đều bị chi phối bởi luật âm dương, mà một hệ quả tất yếu là những suy nghĩ, cảm xúc và hành động của họ đều thuộc một trong hai mặt trái ngược của đời sống là “thiện” hoặc “ác”.


    Với mục đích trợ giúp hoặc gây biến động cho một số quốc gia hoặc toàn cầu, có nhiều vị Phật, Thánh, Thần từ cõi Thiên đã hoặc đang giáng Trần qua kiếp sống con người hay ở dạng tâm linh. Việc nhận thức đúng đắn điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các quốc gia, đặc biệt là những nước có lực lượng tâm linh hùng mạnh như Việt Nam. Việc tìm hiểu tổ chức và đời sống của các sinh linh ở cõi Âm có vai trò to lớn và thiết thực vì có quan hệ mật thiết với cõi Trần và đó là nơi cư ngụ lâu dài của mỗi người chúng ta sau khi từ giã đời này.


    Cõi Phật chỉ gồm những vị Phật và những sinh thể dạng sóng đã tiến hoá rất cao.


    Các sinh linh cõi Phật không bị chi phối bởi luật âm dương. Họ tồn tại một cách “vô ngã” và không trực tiếp can thiệp vào những cõi thấp hơn.


    Như trong phần “Có tồn tại thế giới tâm linh?” đã đề cập tới, cơ thể con người bao gồm một lớp vật chất hữu hình (phần xác) và nhiều lớp vật chất vô hình (phần hồn). Một số nguồn tư liệu ngoại cảm cho biết rằng, mỗi vị thánh thần cao siêu khi đầu thai xuống cõi Trần vẫn được kết nối với một cấu trúc vật chất tinh tế trường tồn ở cõi Thiên, đó là “hồn thiên” hay “hồn trời”. Ngoài ra, một người như vậy khi sống ở cõi Trần còn có “hồn đời” là phần cơ thể vô hình thích ứng với thế giới vật lý.


    Nội dung của nhiều bài ngoại cảm còn cho thấy: một số người xuất chúng không cùng thời có thể có chung “hồn thiên” trong khi “hồn đời” khác nhau. Đó là hiện tượng “tái hồn” hay “tái thế”. Cần phân biệt hiện tượng này với sự luân hồi ở cõi Âm - “hồn đời” của một người quá cố được tái sinh trở lại cõi Trần”.

    Ở đoạn khác:

    Thành tựu to lớn đầu tiên của quá trình hiện ….bước sang Thiên niên kỷ mới là Thánh Thần Việt Nam đã trục xuất toàn bộ hồn tượng của các nhân vật ngoại quốc không còn được phép cư trú tại nước ta kể từ ngày 31-12-2000. Gần mười năm nay, Tâm Linh nước nhà cũng đã nhiều lần đưa ra lời cảnh cáo lặp đi lặp lại: việc tiếp tục xây chùa, đúc tượng và hành đạo ngoại lai là vô ích, vi phạm luật thiên âm, phản lại tổ tông và sẽ bị trừng trị tương xứng. Thật tiếc là thông tin trên đây không có tác dụng đáng kể đối với những người có trách nhiệm. Nguyên nhân có thể là do hầu hết người trần chỉ là những cá nhân vừa mù vừa điếc trước thế giới tâm linh và tự tin thái quá.
    Tóm lại những nội dung mà bà tự hào bà nhận được sẽ ghi nhận Việt Nam là một cường quốc về tâm linh, sẽ dẫn đầu kỷ nguyên mới.

    Trong hơn 10 năm qua, tôi đã gặp không dưới 15 nhóm, cá nhân ở cả 3 miền bắc – trung – nam đều có những dạng hoang tưởng theo kiểu tâm linh dân tộc cực đoan và dự báo từ năm 2000 đến sau năm 2012 Việt Nam sẽ trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới, Việt Nam sẽ trở thành siêu cường về tâm linh, Việt Nam là cái nôi của loài người phát sinh trên trái đất…

    Nhưng có một điểm chung là gần như không nhóm nào phục nhóm nào, nhóm nào cũng tự nhận mình là chính đạo, còn các nhóm còn lại là bị tà điều khiển, bị vong ma nhập vào…

    Lời kết:
    Niềm tin cá nhân là quyền của mỗi người, những với những hiểu biết với kiến thức trên, dù bà Xuyến nhận được của bất kỳ ai ở cõi nào theo hiện tượng linh giáng, hay nhập đồng như trong dân gian vẫn tồn tại hàng ngàn năm qua thì đó là việc của bà.

    Nhưng những mớ nhảm nhí đó – theo thiển ý hiểu biết của riêng tôi, mà nhận được sự “quan tâm nghiên cứu” và được coi là hiện tượng tâm linh và tài năng tâm linh thì quả thật tôi xin bái phục Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu này trên mọi phương diện.

    Ông đã góp phần giúp bà Xuyến ngày càng hoang tưởng hơn, nếu do bà tự chế ra những điều nhảm nhí kể trên, còn trường hợp bà bị điều khiển bởi một tha lực xấu ở bên ngoài (cõi Atula) thì đó là một câu chuyện đáng lo khác.

    Theo một nhà nghiên cứu khi thẩm định đề tài của Ts.Khiển cho biết, trong mấy năm gần đây, Ts.Khiển rất nhiệt tình nghiên cứu tâm linh và tự nhận mình là nhà nghiên cứu.

    Chuyện nghiên cứu là chuyện của các nhà khoa học, tôi rất trân trọng, nhưng những kiến thức của Ts.Khiển về Phật học thì thật “khủng khiếp”, kiến thức sơ đẳng cũng chưa có, nhưng lại lấy danh Ts và TBT một tờ Tạp chí để gửi thư và tổ chức các buổi hội thảo dạng những đề tài này thì Việt Nam trở thành cường quốc tâm linh đâu chưa thấy, đã thấy hiển hiện sự loạn tâm và bát nháo nhà ngoại cảm, trong đó điều đáng phê bình là loạn các nhà nghiên cứu kiểu như ông Ts.Phạm Văn Khiển.

    Còn nữa

    theo ( Phật tử Việt nam)
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #5

    Mặc định

    Phật pháp giúp các nhà ngoại cảm tránh bị hoang tưởng
    17/10/2010 21:07
    Giới Minh

    Kỳ 4 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với sự chia sẻ của một số nhà ngoại cảm về áp dụng Phật pháp trong mối liên hệ với khả năng đặc biệt của mình.

    Kỳ IV: Họa sĩ Phùng Long Biên: Phật pháp giúp tôi không rơi vào hoang tưởng…

    Sau khi kỳ I, II III của bài “Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm” được đăng tải, anh TVK đã gọi điện thoại phê bình tác giả, vì với gia đình anh hạnh phúc lớn nhất là tìm được mộ của người thân. Anh TVK cho biết, anh vốn là một nhà khoa học tự nhiên, trước đây không bao giờ tin vào chuyện tâm linh, ngoại cảm.

    Nhưng sau khi tìm được mộ của người thân, với những tình tiết ly kỳ, và rất mầu nhiệm trong suốt hành trình tìm kiếm, anh rất tin vào khả năng của một nhà ngoại cảm được nêu tên trong kỳ I. Anh còn cẩn thận cho biết, anh đã xét nghiệm ADN và kết quả là chính xác 100%.

    Trong khi đó cũng có người đã bị không ít nhà ngoại cảm đạo hạnh kém lừa đảo, sau bao nhiêu năm rong ruổi theo đuổi “sư phụ” khi tỉnh ngộ thì không dám nói ra, vì “xấu thầy thì hổ ai?”, nói ra biết đâu lại còn bị chê là mê tín, nên tốt nhất là “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Với những người này, ngoại cảm là một trò đùa.

    Có Phật tử đã khuyên tôi nên dành thời gian để tu tập, viết những điều trên nào phỏng có lợi ích gì cho việc tu tập của bản thân, chỉ rơi vào tranh luận vô ích. Tôi lại có suy nghĩ khác, mình là Phật tử trẻ sống trong cuộc sống đời thường, cha ông đã từng dạy “nói mà không làm là bất tín, biết mà không nói là bất nhân”.

    Tôi không dám nhận mình “biết” hiểu theo nghĩa giác ngộ, nhưng tôi biết để có môi trường tu tập tốt, tinh thần của người Phật tử đâu chỉ tu cho bản thân, mà còn tinh thần hoằng pháp, tinh thần xả thân, dám đấu tranh bảo vệ đạo pháp, phê bình những sai trái, lệch lạc. Đó cũng là một cách tu giản dị và khiêm nhường trong cuộc sống đời thường, chứ không phải cứ “mũ ni, che tai” mới là tu thân.

    Cũng có nhà khoa học nhắc nhở, viết về hiện tượng tâm linh và ngoại cảm nên cẩn trọng, vì lĩnh vực ngoại cảm “không đơn giản”, tri thức hiểu biết của cá nhân thì nhỏ bé mà bể học thì khôn cùng…

    Trân trọng cảm ơn các quí vị đã quan tâm và có lời căn dặn tác giả. Chính vì ý thức rất rõ về một lĩnh vực “không dễ”, lâu nay trong dư luận xã hội đã tồn tại những luồng thông tin trái – nghịch. Hiểu được điều đó, tác giả đã rất cẩn trọng:

    Thứ nhất, không viết theo cảm tính, không vì những tính chất riêng lẻ, sự vụ để khái quát thành sự khẳng định hay phủ định về một nhân vật cụ thể là có khả năng hay không có khả năng ngoại cảm, khi chưa có bằng chứng xác quyết.

    Tác giả không đánh giá và không đủ khả năng để đánh giá theo kiểu công nhận hay phủ định khả năng nào của bất kỳ nhà ngoại cảm nào theo kiểu suy diễn hay cảm tính, thậm chí cả ở góc độ khoa học, vì trình độ khoa học của tác giả có hạn.

    Thứ hai, bài viết không có ý phủ định khả năng ngoại là có thật ở một số người, chỉ phê bình các câu chuyện hoang tưởng mà một số nhà ngoại cảm và tự xưng là ngoại cảm đã tuyên bố, thời gian kiểm chứng đã qua, nên đủ để kết luận.

    Thứ ba, hiện tại tác giả có đủ tư liệu về những tuyên bố hùng hồn của một vài nhà ngoại cảm và tự xưng là ngoại cảm về những chuyện dự báo sẽ xảy ra trong cuối năm 2010 đến 2012 như sẽ có động đất toàn cầu cỡ 16 độ richte trở lên, trong khi tác giả tìm hiểu và được biết thang độ richte chỉ dừng lại ở con số 10. Đến nay các nhà khoa học cũng chưa ghi nhận có trận động đất nào vượt con số này.

    Hay những dự báo như sẽ xảy ra chiến tranh thế giới thứ 3 vào ngày X tháng Z năm 2010, đến hết năm 2012 thế giới sẽ chỉ còn lại hơn 2 tỷ người,….đó là những tuyên bố rất mạnh, so với những tuyên bố liên quan đến sự kiện kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội thì những tuyên bố trên còn thuộc dạng “chấn động” hơn rất nhiều. Song tác giả - Giới Minh chưa đưa vào bài viết này.

    Do mốc thời gian chưa tới, nên tác giả không đưa vào bài viết và chưa có bình luận nào về những câu tuyên bố trên (đợi thời gian sẽ biết) là sự chính xác đến từng chi tiết (hay sai đến từng chi tiết).

    Sở dĩ, tác giả viết lên những điều này là vì có nhà ngoại cảm được một phần “cảm” mà chín phần “hoang” lại rất tự tin tuyên bố trong các buổi sinh hoạt có sự tham gia của không ít các nhà khoa học, cán bộ lão thành cách mạng, nhân sĩ trí thức cao tuổi….

    Trong khi đó, ở góc độ Phật pháp kể cả những dự báo trên là đúng, cũng không có gì gây nhạc nhiên, vì mọi sự vật hiện tượng đều bị chi phối bởi luật vô thường. Hiểu được như vậy, chúng ta không câu chấp vào những câu chuyện đúng như tinh thần “không cần tranh luận, vô ích”. Nếu…

    …Nếu ai cũng hiểu vậy, sự việc sẽ đơn giản. Thực tế lại không như vậy, có nhà nghiên cứu, có nhà khoa học…như trong bài viết đã nêu còn nhầm đường thì sự hoang mang của dư luận xã hội về hiện tượng ngoại cảm là có thật, và do vậy chúng ta không thể không lên tiếng.

    Nếu ai cũng có sự giác ngộ đến mức đủ để “miễn dịch” thì các nhà ngoại cảm hoang đường, các ông đồng, bà cốt sẽ không có đất để “nói bậy”. Đáng tiếc, “kháng thể” đó chưa nhiều trong nhận thức của nhiều người, và do vậy những dự báo “linh tinh”, những câu chuyện hoang đường đã làm phiền não không ít gia đình, không ít người…khi tin vào nó.

    Qua tiếp xúc, tìm hiểu thực tế, chúng tôi nhận thấy, trong các nhà ngoại cảm được các cơ quan nghiên cứu công nhận, hay những nhân vật có những khả năng đặc biệt có tính chất ngoại cảm, nhân vật nào có sự am hiểu Đạo Phật thì họ đều có sự cư xử chừng mực với chính khả năng của mình, tránh đi quá xa, rơi vào sự thái quá theo kiểu hoang tưởng…để vận dụng khả năng của mình đóng góp vào tinh thần giúp đời, cầu đạo (cầu sự giác ngộ Phật pháp).

    Một số trường hợp, đó là:

    Bác Phùng Long Biên - họa sĩ, thương binh hạng ¼ ở xóm 9 xã Nghi Hương – Cửa Lò – Nghệ An tuy không nhận mình là nhà ngoại cảm, nhưng trong 20 năm là công việc tâm linh bác đã chữa cho hàng trăm bệnh nhân (theo thống kê của bác Biên, có đầy đủ địa chỉ và số điện thoại liên hệ).

    Chúng tôi không xác quyết con số thống kê này, tuy nhiên căn cứ vào danh sách đó, chúng tôi đã liên hệ với một số bệnh nhân và xác thực ghi chép của bác về quá trình chữa bệnh của các trường hợp liên hệ là chính xác, có nhiều trường hợp kỳ lạ, rất khó giải thích theo góc độ khoa học.

    Tất cả tên, tuổi, địa chỉ của bệnh nhân đều được bác ghi công khai trong quyển “Giấc mơ tiên” khi gửi đến Trung tâm NCTNCN để các nhà khoa học, bạn đọc có điều kiện kiểm chứng tính trung thực của quyển nhật ký “Giấc mơ tiên” mà chính bác là người đã thực hành gần 20 năm nay.

    Mến mộ tinh thần cầu đạo và sự cẩn trọng của bác Phùng Long Biên, tôi đã vào Nghệ An và hỏi về khả năng của bác, cũng như đi thực tế để xác minh về nhật ký của bác, quả thực bác cũng là một hiện tượng rất lạ.

    Bác đã rất chân thành cho biết, khả năng đó, bác cũng không thể tự lý giải được, nhưng bác không bao giờ đi quá xa để trở thành hoang tưởng, vì với bác Phật pháp đã trở thành bệ đỡ để rèn tâm và bình thản trước những khả năng “lạ” của chính bản thân mình. Đọc những tâm sự của bác trong thư gửi về Trung tâm NCTNCN trong quyển nhật ký “Giấc mơ tiên”, là một Phật tử tôi rất cảm động, bác viết:

    “Ngoại cảm có đầy đủ yếu tố của sự “thiên biến, vạn hóa” tùy theo nhận thức và trình độ giác ngộ của con người.


    Chính vì sự thiên biến, vạn hóa ấy mà không ít người có khả năng đã lợi dụng những mục đích thiếu trong sáng.


    Cũng vì sự thiên biến vạn hóa ấy mà không ít người khi làm được một việc gì đó nhầm tưởng mình đã cầm chắc bí mật vũ trụ trong tay nên làm những điều trái quấy, nói những điều hoang đường.


    Bể học trần gian đã khôn cùng, pháp môn của Phật lại càng vô lượng thì làm sao lấy trí tuệ hữu lậu để áp đặt lý giải trí huệ vô lậu của Đức Phật được.


    Vì vậy, trách nhiệm đặt ra cho những người làm việc tâm linh là phải toàn tâm, toàn lực, khiêm tốn, từ bi, nhẫn nhục, phá chấp để yêu thương, vị tha, độ lượng mới mong nhận được điển linh của vũ trụ mà tự độ cho mình và tận độ giúp người.

    Huyền linh cứu độ nhân trần
    Tùy duyên, tùy phúc hồng ân trao truyền”.

    Bác Nguyễn Kim Hệ ở số 5 Quang Trung – Hà Nội cũng là một hiện tượng lạ, chúng tôi chưa đủ khả năng và dữ liệu cần có để khẳng định hay phủ định những chuyện lạ xảy ra với bác Nguyễn Kim Hệ.

    Là một cán bộ công tác tại Bộ GD & ĐT đã về hưu, bác cho biết khi làm công tác tâm linh bác làm theo một sự mách bảo ngoài nhận thức chủ quan, nhưng về mặt trí tuệ bác luôn hoài nghi không biết việc mình làm là đúng, hay sai, chính đạo hay sái đạo?!

    Với bác Nguyễn Kim Hệ, Phật giáo là đỉnh cao của nhận thức, là tôn giáo của trí tuệ và khoa học và do vậy bác rất mong các nhà khoa học, các quí Phật tử, quí Thầy giúp bác trả lời các hiện tượng tâm linh dưới góc độ Phật giáo một cách riết ráo để bác luôn cầu đạo, cầu thị ánh sáng của chân lý và điều chỉnh bản thân.

    Chị Phan Thị Bích Hằng đã rất tự hào chuyện chị được khai tâm, mở trí khi đến với đạo Phật, theo chị việc có được khả năng ngoại cảm sau khi bị chó dại cắn, trước đây chị coi đó là một điều kỳ lạ và cũng không thể lý giải chính bản thân. Tuy nhiên, sau khi có duyên đến với Phật pháp chị đã ngộ ra nhiều điều, chị coi duyên đến với Phật pháp còn mầu nhiệm hơn chính khả năng ngoại cảm, và Phật pháp giúp cho con đường ngoại cảm của chị đi đúng hướng hơn.

    Khi đã hiểu đạo Phật, chị bình tâm hơn trước các thị phi của cuộc đời và trước các tin đồn xuyên tạc. Chị cho biết, làm ngoại cảm quả thật không có ai có thể tự tin được vào khả năng của mình mà không có sai số. Trong công việc tìm mộ liệt sĩ đem lại niềm an ủi tâm linh cho các gia đình thân nhân liệt sĩ, đó là cách mà chị luôn cố gắng trong khả năng “ngoại cảm” của mình.

    Chị cũng khuyên, bên cạnh yếu tố có duyên, có phúc, và có các điều kiện khách quan để tìm được mộ hay không, và kể cả khi tìm được cũng nên kết hợp các phương pháp suy luận logic, hoặc các phương pháp khoa học như xét nghiệm ADN, và một số phương pháp khác để công việc được thẩm định kỹ càng hơn, niềm tin của gia đình thân nhân liệt sĩ cũng kiên cố hơn.

    Chị Hằng tâm sự: “Từ khi trở thành Phật tử cách nhìn của chị về ngoại cảm đã thay đổi nhiều so với trước đây, và từ nay trở đi chị phát nguyện gắng sức góp phần tìm mộ liệt sĩ, cùng với các quí Thầy tham gia các đàn lễ cầu siêu độ cho các anh hùng liệt sĩ, nhân dân và đồng bào đã chết trong các hoàn cảnh khác nhau…đó là hạnh nguyện của một người Phật tử có khả năng ngoại cảm”.

    PGs.Ts. vật lý Hà Vĩnh Tân là một người nghiên cứu tâm linh, và cũng làm chủ nhiệm một số đề tài tâm linh, thành viên Hội đồng khoa học của Trung tâm NCTNCN cho biết, là một Phật tử, PGs.Ts Hà Vĩnh Tân rất trân trọng khả năng của một số nhà ngoại cảm, đồng thời rất cẩn trọng trước các hiện tượng lạ, và dù lạ đến đâu cũng không đi ra ngoài những lý giải của của kinh sách Phật giáo đã chỉ dạy rõ ràng.

    PGs.Ts Hà Vĩnh Tân cho biết: Càng đi sâu tìm hiểu, càng thấy sự diệu kỳ của Phật pháp, và hiểu về Phật pháp giúp mình hiểu và sẻ chia hơn với các nhà ngoại cảm, đồng thời giúp cho quá trình nghiên cứu tiếp cận tâm linh theo góc độ khoa học một cách sâu sắc, không sa đà vào mê tín, dĩ đoan…

    Với những nhà ngoại cảm nêu trên, cũng như một số nhà ngoại cảm như bà Nguyễn Thị Nghi ở Hải Dương, anh Nhã ở Tp.HCM, … cùng các nhà nghiên cứu có am hiểu Phật pháp và lấy Phật pháp làm kim chỉ nam, qua thực chứng tiếp xúc, gặp gỡ tìm hiểu trong thời gian dài, chúng tôi nhận thấy Phật pháp là bệ đỡ cho họ tránh sai lầm như một số nhà ngoại cảm, và những người có những khả năng đặc biệt (phi truyền thống) khác.

    Chúng tôi không có ý ca ngợi, hay công nhận khả năng của những nhà ngoại cảm, những nhà nghiên cứu có tên nêu trên, vì nó nằm ngoài khả năng của tôi về cả mặt khoa học cũng như chức trách.

    Ở góc độ của một người Phật tử, chúng tôi bày tỏ sự trân trọng tinh thần cầu thị, sự khiêm nhường của họ, dù họ có khả năng hay không, và khả năng của họ đến đâu, đó là một câu chuyện khác.

    Còn tiếp
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  6. #6

    Mặc định

    Nhờ Phật pháp để không trở thành nhà “ngoại cảm”19/10/2010 23:05
    Giới Minh


    Trong kỳ IV bạn đọc đã biết đến trường hợp một số nhà ngoại cảm nhờ ơn Phật pháp để không rơi vào hoang tưởng, để khả năng ngoại cảm được phát huy đúng nghĩa. Trong kỳ này (kỳ V) bạn đọc lại chứng kiến một trường hợp nhờ ơn Phật pháp để không trở thành “nhà ngoại cảm”, ở một góc độ khác.

    Kỳ V: Nhờ Phật pháp để không trở thành nhà “ngoại cảm”

    Trước khi thử đưa ra sự lý giải về các hiện tượng ngoại cảm theo góc nhìn của đạo Phật vào các kỳ tiếp theo. Tôi xin kể trường hợp: Nhờ ơn Phật pháp để không trở thành nhà “ngoại cảm”– nguyên văn lời của “nhân vật”.

    Tôi quen biết anh Nguyễn Quốc Dũng ở số nhà 23/96 Lò Đúc – Hà Nội và cũng là đồng nghiệp của chúng tôi trên 10 năm nay, sở dĩ tôi viết như vậy là để biết, tôi và anh Nguyễn Quốc Dũng có sự gần gũi và thân thiết.

    Vào ngày 16 tháng 10 năm 2009, chúng tôi đi cùng một đoàn tâm linh lên Cổng trời Trà Lĩnh – Cao Bằng, đêm đó đoàn tâm linh tổ chức lễ cúng và an vị bát hương ở đó, anh Nguyễn Quốc Dũng là người chụp ảnh (xem ảnh), trong bức ảnh có một số dấu hiệu lạ, những vòng tròn sáng, trong một số vòng tròn còn có những hình ảnh nhìn kỹ thì giống hình người (chúng tôi không có khả năng ngoại cảm nên không kết luận đó là những bức ảnh có yếu tố tâm linh hay không, hay là một sự “bí ẩn” kỹ thuật nào đó?!).







    Sau thời gian đó, về Hà Nội, anh Nguyễn Quốc Dũng có một số hiện tượng lạ như nghe âm thanh nói bên tai (giống như có người nói thì thầm), và ở anh xuất hiện khả năng thần thông, cũng có nhiều lúc là có hiện tượng nhập đồng (vong linh nào đó nhập vào).

    Là một người có chút hiểu biết Phật pháp và là chỗ tin cậy, anh thường hỏi tôi về những hiện tượng lạ trên. Tôi luôn căn dặn anh Dũng hãy cẩn thận vì đó là tha lực, chưa phải là khả năng do mình tu luyện ngay trong kiếp này mà có (cũng có thể là một nhân duyên từ kiếp trước), nên hãy bình tĩnh theo dõi một thời gian xem sao, trước khi kết luận.

    Tôi đã thử anh Dũng nhiều lần, như có lần tôi ở khách sạn Melia có đoàn Phật giáo Miến Điện đang ở đó, tôi gọi điện thoại hỏi anh Dũng đang ở cách xa mấy km, đoán xem có bao nhiêu người đang ở cạnh chúng tôi, anh đã trả lời chính xác.

    Một điều lạ nữa, trước đây anh Dũng không biết làm thơ, nhưng từ ngày gặp chuyện lạ, như có ai đọc bên tai cho anh chép ra, có những bài thơ hay, có vần điệu rõ ràng, mạch lạc.

    Song song đó là khả năng viết chữ Hán, chữ Nôm và có cả chữ ký tự như chữ sanskrit khi có hiện tượng giáng linh (nhập đồng)… trong khoảng 6 tháng với sự ngộ nhận của bản thân anh Dũng còn đưa khả năng của mình trở thành khả năng chữa bệnh, khả năng tiên đoán các sự kiện, tất nhiên cách thể hiện ra bên ngoài của anh rất khiêm tốn, giản dị…(vì anh coi tất cả là một sự chiêm nghiệm, không vội kết luận), nên những người tiếp xúc, đặc biệt là những người gần gũi đã bắt đầu tin anh có khả năng ngoại cảm.

    Căn cứ trên những báo cáo của một số đề tài của Trung tâm NCTNCN, Liên hiệp khoa học công nghệ - tin học ứng dụng (UIA) và một số cá nhân, tổ chức khác khi đề cập về các trường hợp nhà “ngoại cảm” A, nhà “ngoại cảm” B…., tôi chắc rằng trường hợp của anh Dũng có nhiều điều kỳ lạ hơn một số nhân vật được một số nhà nghiên cứu các đề tài đó tôn thành danh xưng “nhà ngoại cảm”, như bà NTX ở Hải Dương, bà NTĐ ở Hà Tây (cũ),…

    Vì sao, tôi lại nhận xét như vậy, vì đọc những vần thơ ngây ngô, sai chính tả be bét, vần điệu tréo ngoe của bà Xuyến, bà Đ ở Hà Tây (cũ), bà X ở Thanh Hóa, cô N ở Phú Thọ….thì những vần thơ qua hiện tượng nhập đồng ở anh Dũng có vần điệu và chứa đựng nội dung hơn rất nhiều!

    Ví dụ như bài dự báo về năm 2012:

    Chao ôi hỡi bão thiên hà
    Địa cầu nghiêng ngả, băng tan, bão từ
    Lệch trục ấy mối hiểm nguy
    Chỉ trong chốc lát, sóng ngầm tan hoang
    Nước Nga ấy vốn huy hoàng
    Vậy mà phút chốc phần ba tan tành.
    Mỹ kia bá chủ hoành hành
    Hơn nửa đất nước tan tành một khi
    Na Uy, đến Thổ Nhĩ Kỳ
    Một cơn quét sạch hơn ba thành trì,
    Rồi Pháp, với Hungary
    Chao đảo động đất, lấy gì đỡ đây
    Phần Lan phút chốc nghiêng thây
    Bao nhiêu thành phố lấp đầy còn đâu
    Phút chốc hơn nửa Bắc Âu
    Khi chìm trong nước, khi tâm địa cầu.
    Trung Quốc nào có đợi lâu
    Chỉ trong một chốc tan hai, ba phần
    Lửa kia sao đến thật gần
    Thiêu vùi nước Nhật trăm phần nan nguy
    Nê Pan, Hà Quốc một khi
    Lúc thì nghiêng ngả, lúc thì tan hoang
    Huy hoàng hỡi nước Thái Lan
    Một cơn địa chấn tan hoang cửa nhà
    Triều Tiên khi ấy mới là
    Cớ sao tự nổ tan nhà người ơi?
    I Ran, I Rắc một thời
    Tả tơi, rơi rụng đắm chìm khổ đau
    Nước Ý khi ấy mau mau
    Cùng nhau ghép lại mảnh trì Thành Rome.
    Anh Quốc đang buổi hoàng hôn
    Một cơn bão đến Luân Đôn không còn
    Động đất cứ thế hoành hành
    Nước Anh chao đảo, than ôi còn gì
    Tỉnh dậy đã thấy một khi
    Ba phần đất nước tan rồi còn đâu.
    Tính ra nguy khốn châu Âu
    Hơn 30 nước tan hoang không còn.
    Nước Nam vững tấm lòng son
    Nghiêng mình mà vẫn vững vàng người ơi
    Hỏi sao tận thế hả trời
    Mà Nam nước ấy không nguy nan gì
    Nào ai có ngẫm một khi
    Năm châu, Thần Thánh hộ trì Linh Sơn
    Một ngày, chưa đến ngày hơn
    Năm châu, linh Thánh nước Nam tụ về
    Nơi thì vững chắc bờ đê
    Nơi thì án ngự tứ bề không trung
    Chỉ tay vẽ một vòng cung
    Hào quang tỏa sáng khắp cùng nước Nam
    Tuy gió nổi, đất có rung
    Nhưng Nam nước ấy không cùng nguy nan.
    Tránh sao cho khỏi vỡ tan
    Địa cầu rung chuyển, Hai ngàn mười hai.

    Những nội dung “dự báo” qua hiện tượng “nhập đồng” mốc thời gian đã qua thì không chính xác, ví như những sự kiện nói về ngày 10 tháng 10 năm 2010…và một số sự kiện khác.

    Riêng bài thơ trên về mốc thời gian chưa đến thì hãy chờ xem?! Vì tôi không vội kết luận cái điều chưa xảy ra, đơn giản tôi không có khả năng “ngoại cảm” để kết luận khi sở cứ về từng vấn đề, từng sự kiện chưa đủ.

    Trở lại trường hợp của anh Dũng. Sau một thời gian quan sát, tôi đã khuyên anh Dũng nên từ bỏ khả năng “ngoại cảm” của mình. Vì cùng với sự hiểu biết Phật pháp, anh cũng thừa nhận lời khuyên là sự hợp lý.

    Với các nhà “ngoại cảm” khác thường chỉ sau một thời gian ngắn tiếp xúc là tôi có thể hiểu được và cảm nhận được cho riêng mình về khả năng của họ. Song với anh Dũng, tôi đã mất khá nhiều thời gian, có lúc đã có sự lầm lẫn, tin tưởng vào những điều hoang báo qua hiện tượng “nhập đồng”.

    Tôi kể ra những chi tiết này cũng là có lời nhắn gửi một số nhà nghiên cứu hãy cẩn trọng trong quá trình nghiên cứu tâm linh, nếu không cẩn trọng rất dễ rơi vào bẫy của một thế lực vô hình nào đó, và từ nhà khoa học trở thành mê tín thái quá cũng là con đường không xa.

    Trong thời gian có khả năng đó (hay bị có khả năng đó?), anh Dũng đã gặp “nhà ngoại cảm” NK, ông NK nổi tiếng với những tiên tri động trời, và thuộc dạng “siêu khủng”, sau đó còn có một số người khác có “khả năng” tương tự anh Dũng cùng sinh hoạt trao đổi trong một nhóm, gọi là nhóm tâm linh VM.

    Trong quá trình “lắng nghe” và ‘chiêm nghiệm”, tôi nhận thấy có một số nội dung được “linh giáng” qua anh Dũng, hay qua một vài thành viên trong nhóm VM một cách độc lập với nhau nhưng rất “trùng khớp” nhau…. về những dự báo những chuyện rất lớn như động đất, sóng thần, bão lửa, bão từ…cùng một số thông tin về thế sự, xã hội.

    Điều này đã thuyết phục tôi tin, niềm tin này tồn tại trong tôi khoảng 6 tháng, tôi tin nhưng không đưa ra kết luận nào, chỉ âm thầm theo dõi và quan sát. Tôi đã tin (sau này tôi mới nghĩ niềm tin đó đã sai, ít nhất với những dự báo mà mốc thời gian đã qua), vì giữa tôi và anh Dũng là người thân quen, anh Dũng là người có đức hạnh, không lý gì anh lại lừa tôi, và gần như có điều gì anh cũng hỏi và tham khảo ý kiến của tôi.

    Sau này, qua tìm hiểu và được biết, trong quá trình “nhập linh”, có một vong nào đó đã điều khiển anh, cùng hiện tượng hiệu ứng tâm lý thôi miên, anh Dũng hay chị NNĐ (có thể là những người yếu bóng vía chăng?) khi tiếp xúc với vong linh đã bị vong linh điều khiển (hay là các hiệu ứng tâm lý?) bỗng dưng trở thành ghế đồng, để cho một vong nào đó nhập vào (có phải là âm binh như dân gian vẫn thường gọi?) với nhiều danh xưng khác nhau, lúc thì xưng là một nhân vật lịch sử của Việt Nam, lúc khác lại là một tướng A, tướng B trong Tam Quốc chí của Trung Quốc, lúc lại xưng một nhân vật ở cung Thiên (như Ngọc Hoàng, Mẫu Thiên…) cùng nói lên một số dự báo về những chuyện sẽ xảy ra từ năm 2010 đến 2012.

    Chúng tôi luôn nghĩ rằng, trình độ hiểu biết của mình có hạn, nên “thuật nhi bất tác”, không bình luận tính đúng – sai khi mốc thời gian chưa đến, song có nhiều “dự báo” mốc thời gian đã qua… nhưng sự thực thì các dự báo đó đã không đúng.

    Tâm sự này cũng chính là lời cảnh tỉnh, là bài học với bản thân, quả thật nếu không có Phật pháp và niềm tin Phật pháp thì không riêng gì tôi mà bất kỳ ai, dù là có thể là nhà khoa học hay nhà nghiên cứu cũng có thể bị cuốn vào vòng mê tín lúc nào không hay. Vì những chuyện “lạ” và câu chuyện tâm linh bao giờ cũng hấp dẫn và đầy kỳ bí không chỉ qua chuyện kể, truyền tai mà cả thực tế được (bị?) tiếp xúc, chứng kiến trực tiếp với những nhân chứng sống động.

    Sau những sự kiện đã qua không đúng như các dự báo, tôi đã đề nghị anh Dũng chuyên tâm thực hành nếp sống theo đạo Phật, quên hết chuyện “ngoại cảm” và khả năng này, khả năng kia (Vì nếu kể cả các câu chuyện dự báo có xảy ra thì nó cũng chỉ là lẽ vô thường của các sự vật hiện tượng, không có gì thần bí cả, nếu chiếu theo kinh sách nhà Phật).

    Như một sự kỳ diệu, chỉ trong vài đêm chuyên đọc kinh Chánh pháp Sangata, và trong thời gian này như có một duyên định, tôi có người quen bên Ấn Độ mang về tặng một số lá bồ đề lấy từ cây hậu duệ của cây nơi đức Phật đã ngồi thiền định, tôi mang tặng anh Dũng một lá.

    Anh Dũng kể lại, từ khi nhận được lá bồ đề, đêm về anh chuyên tâm đọc kinh, đầu óc dứt khỏi sự âm u, mê mê tỉnh tỉnh thì tự nhiên mọi khả năng “ngoại cảm” của anh biến mất, trở lại cuộc sống bình thường, căng thẳng gia đình cũng đã qua, vì không còn cảnh đêm đêm chồng cứ làm việc với người âm, mà vợ thì ngơ ngác không hiểu chồng mình là ai.

    Anh Dũng cho biết từ hai tháng nay thoát được vấn nạn “khả năng ngoại cảm”, anh thấy thật thoải mái, vì không bị vong linh điều khiển bản thân như trước đây, mặc dù khi vong linh điều khiển, anh có một số khả năng nhất định.

    Với anh hạnh phúc này là nhờ duyên với đạo Phật, anh đã tâm sự chân thành thật là duyên phúc, nhờ ơn Phật pháp để “may mắn” chưa trở thành “nhà ngoại cảm”… anh cũng chia sẻ chỉ cần một sự ngợi ca hay công nhận của giới nghiên cứu (vì cũng đã có nhà nghiên cứu đề cập nghiên cứu trường hợp của anh, mà bước đầu họ nói là kỳ lạ, hứa hẹn là một “tài năng”) về “khả năng đó”, thì anh cũng sẽ không tránh khỏi bánh xe hoang tưởng.

    Tuy nhiên, là một Phật tử với pháp danh Chánh Thường, anh cho biết nếu sau này ở anh có khả năng ngoại cảm thật sự (chứ không phải là khả năng hoang cảm mà nhiều người lầm là ngoại cảm), anh sẽ hướng khả năng đó vào phục vụ khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ đạo pháp…

    Còn nữa…



    Lưu ý: Thuật ngữ “ngoại cảm” trong bài viết này, chúng tôi để trong “…”, để phân biệt với những nhân vật đặc biệt có khả năng ngoại cảm thật sự và cũng để phân biệt với thuật ngữ ngoại cảm không dùng trong dấu “…”.

    Anh Nguyễn Quốc Dũng còn nhận được nhiều bài thơ bằng ngôn ngữ Việt, Nôm và ngôn ngữ lạ, gọi là chữ Thiên, hoặc gần giống tiếng Sanskrit…thông qua hiện tượng nhập đồng, sang tai, và nhìn vào khoảng trống hiện ra như chiếc ti vi trước mặt…


    Theo Phật tử VN
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  7. #7

    Mặc định

    Phật tử nhìn nhận về hiện tượng ngoại cảm như thế nào?
    21:2 | 29/10/2010

    Kỳ 6 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với những phân tích về hiện tượng ngoại cảm dưới góc nhìn Phật giáo.

    Kỳ VI: Người Phật tử nhìn nhận về hiện tượng ngoại cảm như thế nào?


    Người Phật tử nhìn nhận về hiện tượng ngoại cảm như thế nào? Câu trả lời ngắn gọn, người Phật tử nhìn nhận về hiện tượng ngoại cảm “lạ” mà không lạ.

    Vì sao vậy? “Lạ” là vì khả năng ngoại cảm không nảy sinh từ các giác quan thông thường (5 giác quan: thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác) (1).

    Không lạ. Là vì khả năng ngoại cảm chính là khả năng thần thông như trong quan niệm của đạo Phật.

    Tất nhiên, người tu chứng thần thông trong kiếp hiện tại thường có một phần không liên tục của một loại thần thông, hay chứng được một hay 2 khả năng…trong lục thông (6 loại thần thông), hoặc đọc kinh sách Phật giáo, chúng ta cũng biết có được một vài đệ tử của đức Phật đã chứng được lục thông.

    Qua quan sát, với tri thức nhỏ bé của bản thân, chúng tôi nhận thấy các nhà ngoại cảm dù là nổi tiếng nhất trong những năm qua, cũng chỉ có một vài nhà ngoại cảm có được một hoặc 2 loại khả năng thần thông.

    Tuy nhiên, cái một hay hai đó không liên tục, lúc có – lúc không, có tính gián đoạn…

    Tại sao khả năng đó lại không nảy sinh (phân biệt từ “nảy sinh” và ‘chứng đắc”) liên tục dù là một khả năng thần thông, là vì với nhà ngoại cảm không phải họ tu chứng đắc ngay trong kiếp này mà có (Tâm định khai mở nhãn tức thì), mà là khả năng ngoại cảm (quả) có được là hệ quả hồi dư từ (nhân) của kiếp trước.

    Như thế nào thì được gọi là nhà ngoại cảm?

    Trước hết thuật ngữ ngoại cảm theo nghĩa nôm na của tiếng Việt, “ngoại” là có khả năng ngoài tính thông thường (5 giác quan), “cảm” là “biết”, khả năng để “nhận biết” được bằng các kênh phi truyền thống (không phải 5 giác quan nêu trên) thì được gọi là có khả năng ngoại cảm.

    Tất nhiên, mọi khái niệm cũng chỉ là giới hạn, tri thức mà con người dùng để diễn giải cũng chỉ được truyền tải bằng ngôn ngữ với các khái niệm qui ước.

    Nếu theo quan điểm đó, thì những người mà có khả năng phi truyền thống (xét riêng lẻ một cá nhân) nhưng sử dụng kênh trung gian sẽ không được coi là có khả năng ngoại cảm như lâu nay Trung tâm NCTNCN và UIA đặt tên là “nhà ngoại cảm” cho một số nhân vật.

    Trong sự hiểu biết khiêm hạ, thử phác thảo phân tích sau:

    Ví dụ: Chị Phan Thị Bích Hằng có thể nghe được, thấy được người ở cõi giới khác, dù là cái nghe và thấy có thể không liên tục, không bao hàm nhiều cõi giới, nhưng cái “thấy”, cái “nghe” đấy nằm ngoài các giác quan thông thường thì có thể gọi là nhà ngoại cảm là chính xác.

    Tương tự là anh Dương Mạnh Hùng khi qua cách bắt mạch (xúc giác), sau đó lại chuyển tín hiệu qua kênh khác (ngoài 5 giác quan thông thường) lại “nghe” được, “thấy” được chúng sinh ở cõi giới khác cũng được gọi là nhà ngoại cảm.

    ….Và như thế nào thì không nên gọi là “nhà ngoại cảm”

    Còn một loạt các “nhà ngoại cảm” mà các nhà nghiên cứu gắn danh xưng khác như chị Nguyễn Thị Kim Chinh (Hà Nội), Nguyễn Thị Xuyến (Hải Dương), cô Phương (Thanh Hóa), bà Điền (Hà Tây cũ), cô Phú (Thái Nguyên),….là không đúng, nếu xét theo khái niệm ngoại cảm theo cách hiểu như trên.

    Mặc dù các nhận vật nêu trên cũng có “thấy”, có “biết” được một phần nào ngoài các giác quan thông thường nhưng là thấy, biết trong lúc có “vong” nhập, hoặc sự hỗ trợ của vong để phục vụ cho cái “thấy”, cái “biết” nêu trên. Nên không được gọi là “nhà ngoại cảm”.

    Vì cái “thấy”, cái “nghe” của họ không phải là “nội lực: mà họ dựa vào nhân vật trung gian, chẳng qua với chúng ta nhân vật đó ở cõi giới khác thì chúng ta thấy họ khác nhân vật trung gian khác ngay trong một hệ qui chiếu mà thôi.
    Ví dụ: Ông A nghe bà B kể về ông C, qua đó ông A tả về ông C chính xác cho các nhà nghiên cứu nghe. Như vậy, ông A không phải là có khả năng ngoại cảm.

    Theo quan điểm Phật giáo dù chúng sinh đang sống (có thân xác vật lý) hay đã mất (không còn thân xác vật lý) thì vẫn là chúng sinh, các nhân vật “nhà ngoại cảm” nêu trên sử dụng kênh trung gian, nhờ vào “tha lực” – tức là “nội lực” của chúng sinh ở cõi khác, nên không phải họ khai mở khả năng từ chính họ, bằng các giác quan ngoài 5 giác quan truyền thống, nên không gọi họ là nhà ngoại cảm như sự nhầm lẫn của một số nhà nghiên cứu lâu nay.

    Thực chất họ chỉ đóng vài là ghế đồng để “tha lực” mượn thân xác vật lý trong những khoảng thời gian nhất định.

    Đơn giản và dễ hiểu hơn, những nhân vật trên là những cô đồng, ghế đồng để cho các chúng sinh khác mượn thân xác để truyền tải thông điệp, nên dù họ có nói chính xác về một vấn đề nào đó (thực tế đa số là nói sai, lúc đúng – lúc sai…) nên không thể gọi là “nhà ngoại cảm”.

    Với cách hiểu này, chúng tôi tin rằng ở Việt Nam số người có khả năng ngoại cảm không nhiều, đa số thời gian qua rộ lên phong trào ngoại cảm và loạn “nhà ngoại cảm” là từ các cô đồng, lính ghế được nhiều nhà nghiên cứu tôn thành “nhà ngoại cảm”.

    Ngoại cảm và người chứng đắc thần thông = nhau và không = nhau

    Như vậy, nếu đặt vấn đề khả năng ngoại cảm là như vậy thì nhà ngoại cảm không khác gì những người chứng đắc các quả vị thần thông trong Phật giáo về mặt khả năng ngoại cảm nói chung (tuy mức độ có thể khác nhau giữa từng người, và bản thân một người trong từng thời điểm cũng khác nhau về khả năng đó).

    Sự khác nhau là nằm ở chỗ vận dụng và sử dụng khả năng thần thông đó vào mục đích gì?!


    Tại sao có thể nói nhà ngoại cảm = người chứng đắc thần thông?


    Bạn đọc hình dung sơ đồ sau:

    - Nhân duyên quá khứ (kiếp trước) = người tu hành (hiện tại) = chứng đắc thần thông (a)

    - Nhân duyên quá khứ (kiếp trước) = người bình thường (trả qua 1 trong 4 con đường nêu sau) = nhà ngoại cảm = có khả năng thần thông (b)


    Phật giáo khi nhìn nhận sự vật hiện tượng nhìn trong tính liên tục - luôn hồi, và tính nhân – quả. Tất nhiên các mức độ giữa (a) và (b) có thể như nhau và không như nhau.

    Ông Nguyễn Phúc Giác Hải ở Trung tâm NCTNCN cho rằng có 4 con đường dẫn đến khả năng ngoại cảm: Thứ nhất là bẩm sinh, tức sinh ra đã có khả năng ngoại cảm. Thứ hai, sau những trận ốm thập tử nhất sinh, tai nạn… bỗng phát hiện ra khả năng này. Thứ ba, các thiền sư tu hành lâu năm, đắc đạo. Thứ tư, do được đào tạo.

    Theo hiểu biết hạn hẹp của cá nhân tôi, về mặt hình thức nhận biết qua các giác quan thông thường (nghe, thấy) thì cách phân loại ra 4 con đường dẫn đến có khả năng ngoại cảm như nêu trên là không sai. Nhưng chúng ta là Phật tử, chúng ta hiểu không có nguyên nhân gì là ngẫu nhiên, là “bỗng dưng” nảy sinh, tất cả đều bắt nguồn từ nhân duyên và là “quả” của “nhân” và ngược lại của qui trình đó. Qui trình nhân – quả.

    Do vậy, đối với những người có khả năng ngoại cảm sau khi tai nạn, ốm đau, hay bẩm sinh thì đều là do nhân duyên tu tập từ kiếp trước mà có. Và do vậy, về mặt “có khả năng ngoại cảm” xét theo hình tướng là “có” thì giữa các vị tu hành chứng được trong kiếp này và các nhà ngoại cảm là không khác nhau.

    Và điểm khác là gì?

    Với những vị tu chứng thần thông ngay trong một kiếp (trần gian) – (sở dĩ chúng tôi chú thích một kiếp – trần gian, là vì cách hiểu như thế nào được gọi là một kiếp cũng là một thuật ngữ không đơn giản về nghĩa), thường họ ẩn mình, và ít khi tuyên bố về khả năng chứng đắc của mình, trừ các trường hợp đặc biệt, vì lý do phục vụ chúng sinh và đạo Pháp.

    Còn với các nhà ngoại cảm thì khi đã có danh xưng nhà ngoại cảm, có nghĩa họ là người của công chúng. Có 2 cách nhìn để nói về khả năng của họ.

    Đạo Phật là đạo giải thoát, do vậy dù có hay không có khả năng ngoại cảm thì nếu ai đã đặt quyết tâm tu để giải thoát đều phải hướng tất cả vào mục đích tối thượng đó. Dù có chứng được thần thông, cũng quên đi sự ‘chứng” đó, để đạt quả vị giải thoát và chí ít là hướng đến mục tiêu giải thoát. Nếu mải mê theo sự “chứng” sẽ là một chướng duyên cho con đường tu chứng và giải thoát - hiểu theo nghĩa rốt ráo.

    Chúng tôi nghĩ rằng, với những trường hợp nhà ngoại cảm dùng khả năng đó để khoe khoang (danh), và tư lợi (lợi), thì thật uổng phí cái sự chứng mà chưa chứng thần thông.

    Còn những nhà ngoại cảm phát tâm hạnh nguyện dùng “khả năng ngoại cảm” đó để phục vụ khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ chúng sinh thì cũng thật đáng biểu dương và trọng thị, vì cái nổi tiếng của họ có được là hệ quả của Tâm trong sáng – vị sinh chứ không phải vị danh. Do vậy, đó cũng là một hạnh nguyện của tu đạo, cũng là hạnh nguyện hướng đến bờ giải thoát về sau.

    Theo thiển ý nhỏ bé của cá nhân tôi, là người Phật tử, chúng ta không nên nghĩ các nhà ngoại cảm có khả năng thật sự đều là đi sai đường. Một số người có cách suy nghĩ này, họ nghĩ hạn hẹp rằng, vì đạo Phật hay thời đức Phật ngăn cản các đệ tử sử dụng thần thông, nên ai sử dụng thần thông cũng đều sai đường.

    Thực ra, đức Phật không ngăn cản ai sử dụng thần thông, vì cái sự “ngăn, khuyên” ở đây nếu hiểu theo nghĩa đen lại trái lời Phật dạy, mà “ngăn, khuyên” là tránh cái chướng của “ngã”, say sưa tự đắc với sự chứng thần thông, chứ bản thân “thần thông” không có ngăn mà cũng không có không “ngăn” khi đã hiểu theo nghĩa ‘chứng đắc” mà có được.

    Với cách hiểu bát nhã như vậy trong trường hợp thần thông là tương xứng, vì để đạt (chứng) được thần thông cũng là điều không giản đơn, người bình thường đâu dễ để có (chứng).

    Còn nữa….
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  8. #8

    Mặc định

    Vì sao tôi chọn Phật giáo để giải thích về ngoại cảm?
    24/10/2010 21:14
    Giới Minh


    Kỳ 7 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với sự giải thích của tác giả về lý do chọn Phật giáo để giải thích ngoại cảm.

    Kỳ VII: Vì sao tôi chọn Phật giáo để giải thích về ngoại cảm?

    Ở kỳ trước, tác giả với hiểu biết nhỏ bé của mình đã thử đưa ra cái nhìn về ngoại cảm theo quan niệm của đạo Phật, và dự định kết thúc bài viết ở kỳ VII để trả lời câu hỏi có hay không việc nhà ngoại cảm nói chuyện được với chúng sinh ở cõi âm, cõi âm gồm những chúng sinh thuộc dạng nào…(cõi âm là theo cách gọi dân gian - ở đây tạm gọi là cõi vô hình, không còn thân xác vật lý, cõi vô hình thực chất cũng không phải là vô hình) – xem giải thích ở phần sau của bài viết.

    Chủ đề trên xin được chuyển sang kỳ VIII, tác giả dành trọn kỳ này để trả lời chất vấn của một nhà nghiên cứu tâm linh, ngoại cảm đã được nêu tên trong bài viết ở các kỳ trước (“nhà nghiên cứu” có một đề nghị là không nêu tên lên bài viết, nếu tác giả đăng báo những điều trao đổi này).

    “Nhà nghiên cứu” đã gọi điện thoại chất vấn tác giả, ông nói: Chúng tôi là nhà khoa học, chúng tôi quan tâm sự giải thích ở góc độ khoa học, còn tác giả - Giới Minh là Phật tử nên có sự thiên vị đạo Phật khi giải thích về các hiện tượng tâm linh, ngoại cảm theo góc độ của đạo Phật. Đạo Phật có quan niệm của đạo Phật thì các tôn giáo khác họ có quan niệm của họ, ai đúng – ai sai xin tác giả cho biết?

    Trước hết xin được thành tâm cảm tạ và tri ân “nhà nghiên cứu” đã dành cho tác giả sự gợi ý chân thành để chúng tôi mở rộng vấn đề, cùng trao đổi để học hỏi.

    Bể học thì khôn cùng, tác giả tri thức nhỏ bé, nhưng cũng xin sẵn sàng thảo luận cùng ông để làm sáng tỏ vấn đề, trên tinh thần cầu thị, học hỏi, và mong nhận được sự chỉ giáo của mọi thành phần để bể học không bao giờ là đủ mà để ngày càng mở rộng, để cùng tiến bộ.

    Khi trả lời “nhà nghiên cứu”, chúng tôi hỏi ông:

    - Trong đề tài nghiên cứu của ông, có đề cập nhiều luận điểm để nghiên cứu thế giới vô hình, xin ông cho biết thế giới vô hình là như thế nào theo góc nhìn của khoa học?

    Ông kể: - Nhà ngoại cảm A kể họ sinh hoạt và sinh sống như cõi dương, trần sao – âm vậy, nhà ngoại cảm B đã kể rõ về thế giới vô hình và những hình phạt cho người có tội khi đang sống...

    Chúng tôi hỏi tiếp: - Theo ông thì có thế giới vô hình không?

    Ông trả lời rất tự tin là: - “có”.

    - Có thế giới vô hình sao ông không thấy?

    - “Tôi không phải là nhà ngoại cảm”.

    Tôi hỏi tiếp:

    - Nhà ngoại cảm thấy thế giới vô hình, thì đối với nhà ngoại cảm thế giới vô hình thực chất đã không còn là vô hình nữa. Như vậy, vì chúng ta nhìn bằng các giác quan thông thường thì chúng ta tưởng là vô hình, còn khi chúng ta nhìn thấy như các nhà ngoại cảm thì đâu còn là thế giới vô hình.

    Ở đây không phải là sự câu chấp về câu chữ, hay đòi hỏi đặt lại, định nghĩa lại các khái niệm để nghiên cứu, mà nếu có phép quán tưởng chúng ta sẽ thấy.

    Thực ra không có thế giới vô hình, vì khi một số nhà ngoại cảm hay một số người chứng đắc được thần thông thấy được thì đâu còn là vô hình nữa. Vô hình là vô hình trước các giác quan thông thường (5 giác quan thông thường), và không phải là vô hình trước các khả năng thần thông.

    Đến đây, chúng ta thấy sự diệu kỳ của “sắc sắc không không” theo quan niệm của Phật giáo. Vô hình mà không phải là vô hình, không phải vô hình mà là vô hình, nó phụ thuộc vào khả năng thần thông của ta, hay cao hơn là sự giác ngộ của chúng ta. Mà sự giác ngộ thì không ai có thể làm thay ta được, ngoài chính ta, đức Phật là bậc THẦY VĨ ĐẠI đã cho chúng ta giáo án, việc chúng ta học và tiếp thu ra sao mà thôi…

    Nhà nghiên cứu công nhận có thế giới vô hình và có “linh hồn”, “vong”…* sau khi thân xác vật lý bị phân rã. Ông công nhận, nhưng chưa chứng minh được và đến nay khoa học cũng chưa chứng minh được. Song với trường phái khoa học thực nghiệm thì đã có quá nhiều thí nghiệm không thể phủ bác về sự tồn tại của linh hồn.

    Chúng tôi chỉ là một Phật tử sơ cơ, chỉ mới nêu một luận điểm là khái niệm về thế giới vô hình, và như thế nào thì được gọi là có khả năng ngoại cảm để ông có nhiều thời gian thoải mái trao đổi và phản biện.

    Với 2 khái niệm nêu trên ông thu nhận được thành tựu khoa học nào chỉ ra xác đáng hơn, tôn giáo nào có luận điểm xác quyết hơn, xin mời ông chỉ ra, chúng tôi sẽ ngàn lần cảm tạ và thành tâm tiếp thu trên tinh thần hoan hỉ.

    Trong thời gian chờ ý kiến của ông, để tiếp tục trao đổi: Vì sao tôi chọn Phật giáo để thử giải thích về các hiện tượng tâm linh và ngoại cảm sẽ không còn là một lý do cảm tính, tình cảm tôn giáo mà là vì lý do khoa học của tôn giáo này, lý do khách quan trên cơ sở sự kết gặp giữa khoa học và Phật giáo trong nhiều vấn đề, trong đó có tâm linh và ngoại cảm.

    Về mặt lý luận chung

    Có ý kiến cho rằng khoa học không bao giờ giải thích được tận cùng thế giới, vì khoa học nghiên cứu thế giới vật chất thuộc về sắc tướng. Trong khi đang song hành cùng thế giới sắc tướng là một thế giới vô hình hiện hữu.

    Các tôn giáo đặt vấn đề giải thích thế giới dựa trên các quan niệm và học thuyết tôn giáo của mình.

    Lịch sử đã minh chứng, giữa khoa học và tôn giáo trong chiều dài hàng ngàn năm qua đã có không ít lần trải qua sự điều chỉnh, bổ sung và thậm chí là phủ định.

    Có khi khoa học điều chỉnh khoa học, vì tầm nhận thức của nhân loại đã thay đổi, như kiểu phát minh sau làm thay đổi nhận thức của phát minh trước đó, hoặc phát minh sau, thành tựu khoa học sau phủ định nhận định phát minh và quan điểm khoa học trước đó…

    Trong khi đó, trong các tôn giáo, đặc biệt là các tôn giáo lớn cũng đã có không ít lần có sự điều chỉnh nhận thức của mình (hay cách khác là điều chỉnh kinh sách) cho thích nghi với khoa học hiện đại, như quan niệm về địa ngục, thiên đường, quan niệm về Trời, về các hiện tượng tự nhiên như mặt trời, mặt trăng, sự hình thành vụ trũ, sự hình thành loài người, sự vận hành của trái đất ….

    Ví dụ: Trong ngày khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10 năm 1962 , Giáo Hoàng John XXIII nói: “Những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác."

    Năm 1981, Vatican đã mời một số nhà khoa học đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, John Paul II nói với các khoa học “cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế.”

    Lần khác, cũng chính Giáo hoàng John Paul II khi nói về thiên đường và địa ngục đã mặc nhiên phủ định kinh thánh, ông nói “Thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này."

    Phật giáo có nằm trong số các tôn giáo đó không? Có phải điều chỉnh những nguyên lý căn bản, nền tảng của mình để thích nghi với sự tiến bộ về tư duy nhận thức của nhân loại? Có lẽ không có câu trả lời nào hay hơn, lời của nhà bác học trác kiệt, uyên thâm Albert Einsein.

    "Nếu có một tôn giáo nào tương hợp khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".

    "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein].

    Trò chuyện với một số tín đồ theo đạo Công giáo, Tin lành họ không tin vào chuyện nhà ngoại cảm có thể trò chuyện được với các linh hồn. Vì theo kinh sách mà họ được chỉ dạy sẽ không có chuyện có thể trò chuyện được với linh hồn, khi linh hồn một là ở thiên đàng, hai là đã ở địa ngục.

    Các tôn giáo thờ đấng tối cao với thuộc tính toàn năng (sáng tạo ra muôn loài) coi linh hồn là đời sống mãi mãi, trong khi Phật giáo coi linh hồn chỉ là một giai đoạn chuyển đổi trong chu kỳ luân – hồi liên tục, chuyển kiếp luân hồi.

    GS.TS Bùi Duy Tâm, Việt kiều ở California – Mỹ sinh ra trong một gia đình 3 đời theo đạo Thiên Chúa là người đã bỏ công rất lớn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới, với tri thức khoa học có được ông luôn hoài nghi những điều trong kinh sách được giảng của tôn giáo mình, nên ông đã đi khắp nhiều nẻo đường ở nhiều nước để nghiên cứu về tôn giáo, và tìm hiểu về cái gọi là “linh hồn” song ông chưa tự lý giải được cho riêng mình là có linh hồn hay không trên cơ sở thực chứng.

    Trong khoảng 15 năm gần đây, trong các chuyến đi thực tế ở Việt Nam thực chứng với nhiều thí nghiệm, ông công nhận là có linh hồn, và con người có thể giao tiếp được với linh hồn...(bạn đọc có thể tìm đọc trên mạng Internet những nhận định về tâm linh của GS.TS Bùi Duy Tâm, hoặc trong bản báo cáo Đề tài NCKH năm 2008 của Trung tâm NCTNCN.

    Thực tế trong cuộc sống hàng ngày không chỉ ở riêng Việt Nam mà ở nhiều nơi trên thế giới xuất hiện những hiện tượng lạ, chuyện lạ …nếu xét theo quan điểm khoa học (chí ít là tầm nhận thức và tri thức khoa học đến thời điểm này) sẽ chưa thể giải thích được. Có thể lấy những ví dụ mà bạn đọc dễ kiểm chứng:

    Nhiều môn phái võ, có những võ sư có thể đi trên mặt nước, hay có thể khinh công bay lên không trung trong một thời gian nhất định, có người nhịn ăn hàng chục năm mà không hề hấn gì…Khi chưa giải thích được ở góc độ khoa học, họ cho rằng “con người là một tiểu vũ trụ” nhiều huyền diệu và bí ẩn?!

    Trở về hiện tượng ngoại cảm nở rộ trong khoảng vài chục năm trở lại đây ở nước ta, khoa học có thể giải thích được không? Liệu có không sự tương hợp dung thông giữa khoa học và Phật giáo để thử giải thích các hiện tượng trên?

    Khoa học có giải thích được không? Câu trả lời đang chờ từ phía các nhà khoa học. Bản thân tôi cho rằng, khoa học đã có những đóng góp rất lớn vào việc thẩm định khả năng của các nhà ngoại cảm, sự đóng góp đó mang tính xác quyết, không thể phủ định.

    Ví dụ: Một nhà ngoại cảm tìm mộ ông A, nếu không có khoa học xét nghiệm ADN thì dù có tìm đúng, chúng ta cũng sẽ hoài nghi, song nhờ thành tựu của khoa học với công nghệ xét nghiệm ADN, chúng ta đã có sở cứ với xác suất sai số là 1/10.000.000 để khẳng định xem việc tìm mộ đó đúng hay sai.

    Hay một trong những luận điểm lớn trong kinh sách Phật giáo mà đức Phật nói là mọi sự vật hiện tượng đều không thoát khỏi vô thường. Bạn có thể chưa tin, nhưng bạn hãy lấy ví dụ ngược lại xem có sự vật hiện tượng vật chất nào thoát khỏi bánh xe của qui luật vô thường?

    Ví dụ: Khi nhìn về một sự vật hiện tượng mà chu kỳ “sinh – diệt” ngắn, ngắn hơn đời sống của chúng ta, chúng ta sẽ thấy Vô thường là chính xác. Nhưng khi nêu vấn đề mặt trời, mặt trăng và cả vụ trũ sẽ có ngày tan hủy…để chuyển sang chu kỳ khác.

    Tuổi thọ của mặt trời là hàng tỷ năm, thậm chí hàng chục tỷ năm. Nên sẽ có người hoài nghi, nếu họ không có sự giác ngộ Phật giáo, hoặc am hiểu khoa học. Họ hoài nghi vì họ tin vào sự quyết định đưa ra bởi một đấng quyền năng nào đó về mặt trời, mặt trăng, vụ trũ… chẳng hạn.

    Khoa học qua các thí nghiệm, mô phỏng và phân tích, chứng minh mặt trời, mặt trăng hay cả vụ trũ cũng vậy, đến một ngày sẽ bị tiêu hủy để chuyển sang một chu kỳ tiếp theo…

    Phật giáo và khoa học hai cách tiếp cận khác nhau, đều công nhận như vậy. Khoa học công nhận là việc để các nhà khoa học giải thích kỹ hơn với bạn đọc về góc độ chuyên môn. Còn tại sao khi hiểu Phật giáo ta lại tin vào điều đó. Niềm tin này không phải là niềm tin mù quáng theo kiểu “thánh chủ” nói bắt ta phải “nô lệ” và tin theo. Hay chúng ta dẫn giải theo kiểu sách kinh nói thế, tôn giáo mình dạy như vậy.

    Niềm tin nảy sinh trên cơ sở phương pháp luận thực chứng, suy luận logic và quan trọng hơn đó là sự quán tưởng. Đó là cách tiếp cận và phương pháp suy luận khoa học của đạo Phật.

    Các nhà khoa học với nền tảng khoa học của mình, khi tiếp cận với các hiện tượng lạ, hiện tượng tâm linh mà được kết hợp với cái duyên của Phật pháp, thiển nghĩ rằng sẽ rất tuyệt vời. Tôi cho đó là điểm chung của sự khai mở và nâng tầm nhận thức của nhân loại trong tương lai.

    Với cách hiểu như vậy, cũng đã trả lời câu hỏi, vì sao tôi chọn Phật giáo để thử giải thích về các hiện tượng tâm linh, ngoại cảm. Minh triết Phật giáo vượt lên tư duy cảm tính tôn giáo, hay sự thiên lạc kém hiểu biết, giúp chúng ta có sự kết hợp dung thông giữa khoa học, khoa học thực chứng và phương pháp Luận của đạo Phật.

    Còn nữa…
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  9. #9

    Mặc định

    Người ngoài hành tinh thuộc cõi nào trong lục đạo luân hồi?
    28/10/2010 13:11
    Giới Minh


    Kỳ 8 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với những phân tích của tác giả về lục đạo, kỳ này cũng giải thích và trả lời câu hỏi, người ngoài hành tinh (nếu có)( 1) thuộc cõi nào trong lục đạo luân hồi.

    Ở kỳ VI & VII, tác giả đã phân tích, như thế nào thì được gọi là ngoại cảm và nhà ngoại cảm; như thế nào thì không nên gọi là “nhà ngoại cảm”, cách phân tích này khác với cách gọi “nhà ngoại cảm” của một số nhà nghiên cứu ở Trung tâm NCTNCN, Liên hiệp khoa học công nghệ - tin học ứng dụng (UIA) và một số cơ quan nghiên cứu khác khi quan niệm và định nghĩa, danh xưng về “nhà ngoại cảm” trong một số đề tài nghiên cứu đã công bố.

    Có bạn đọc cho rằng, hiện tượng ngoại cảm và khả năng thần thông của các vị tu hành là khác nhau, đọc một số bài viết tập hợp trong tài liệu báo cáo hàng năm của Trung tâm NCTNCN cũng có những nhận định như vậy. Rất tiếc, bạn đọc đó lại không phân tích là vì sao, và sở cứ nào để đưa ra nhận định như vậy, để tác giả có thể trao đổi.

    Sự khác và giống nhau giữa nhà ngoại cảm và vị tu hành chứng đắc thần thông, tác giả đã phân tích ở kỳ VI. Mức độ, cường độ và khả năng thần thông có thể khác nhau, nhưng bản chất, “quả” của “nhân” về sự chứng đắc của “hiện tượng” thần thông là cùng một cơ chế, không khác nhau.

    Theo sự tiếp xúc và quan sát của chúng tôi, ở nước ta có nhiều người có những khả năng lạ (khoa học đến thời điểm này chưa giải thích được), trong số những người có khả năng lạ đó, có những người có khả năng ngoại cảm, nhưng không nhiều (theo cách hiểu tính chất ngoại cảm như chúng tôi đã phân tích ở các kỳ trước).

    Trong số những nhà ngoại cảm đó (ở đây là những người có khả năng ngoại cảm thật sự = chứng đắc thần thông, không bàn đến việc chứng đắc bao nhiêu quả vị {phép} thần thông), có người làm việc độ đời, phục vụ chúng sinh nhưng âm thầm, có người làm việc thầm lặng, vị nhân nhưng sau một thời gian nhiều người biết và trở thành nổi tiếng ngoài mong muốn của họ, có người đạo hạnh không cao, còn nặng danh, lợi quá mức….

    Đa số các nhà ngoại cảm, họ cũng như bao nhiêu người khác, có cuộc sống gia đình, nên có bạn đọc cho rằng cơ chế thần thông của họ khác với cơ chế để có thần thông của các vị tu hành. Và các vị tu hành thì thường ẩn mình, không màng danh, lợi, …trong khi các nhà ngoại cảm thì là người nổi tiếng, người của công chúng.

    Hiểu như vậy, là vì bạn đang quan sát các hiện tượng bên ngoài trong ngắn hạn (trong đạo Phật gọi là chấp đoạn, chia ra một giai đoạn nhất định trong kiếp này, hoặc ngay trong cả kiếp trần gian này) nên cho là việc chứng đắc thần thông của vị tu hành và khả năng của nhà ngoại cảm về mặt hiện tượng “thần thông” là khác nhau, khác nhau hoàn toàn.

    Giả sử xét về mục đích chính là làm giàu (tạo nhân cho quả báo làm giàu), chúng ta có ví dụ:

    Có ông A đi buôn, sau 5 năm ông ấy có 1 tỷ USD, ông B đi buôn đến tận 30 năm sau mới giàu có, nhưng sự giàu của ông hơn ông A nhiều lần, ông B có 5 tỷ USD, ông C đi buôn có lúc đã có sự giàu có hơn ông B, nhưng đến 40 năm sau, thì tài sản chẳng có gì.

    Khi suy nghĩ và quán tưởng về ví dụ nêu trên, chúng ta rút ra kết luận gì giữa ba nhân vật A, B, C.

    Cả 3 đều với mục đích làm giàu, nhưng đến cuối đời chỉ có 2 vị giàu, một vì giàu vừa, một vị giàu sụ, và một vị phá sản không có gì. Đó là chúng ta xét sau 40 năm, còn nếu xét sau 4 năm thì kết quả sẽ khác, sau 29 năm thì kết quả sẽ không như sau 40 năm. Kể cả chúng ta nhìn xa hơn nữa là sau 100 năm (làm tròn số) thì cũng chỉ giới hạn trong một kiếp trần gian thì biết đâu kết quả cũng sẽ khác.

    Qua ví dụ trên ta có thể rút ra kết luận, trong phạm vi thời gian X về quả báo về nhân – quả của sự giàu có, ta rút ra kết luận:

    Quả báo về sự giàu có của ông A đến sớm.

    Quả báo về sự giàu có của ông B đến muộn hơn, nhưng sự giàu có cao hơn, nhiều hơn.

    Quả báo về sự giàu có của ông C là không có, phá sản.

    Phật giáo nhìn sự vật, hiện tượng và căn cơ của từng chúng sinh trong tính luôn hồi liên tục (không còn hạn hẹp trong một X thời gian).

    Xin đừng thấy một số nhà ngoại cảm họ vì danh, lợi, họ có gia đình cũng bình thường như bao nhiêu người bình thường khác mà nghĩ rằng kiếp trước họ chưa tu, nên khả năng thần thông họ có được là do tai nạn, do bẩm sinh tức là tác động vật lý vào thân thể vật lý và sinh học của hệ thần kinh qui định một cách khách quan, ngẫu nhiên về “khả năng ngoại cảm, thần thông” đó.

    Trường hợp này là kiếp trước họ có tu, nhưng quả vị thần thông đến muộn hơn, còn các vị tu hành ngay trong kiếp hiện tại mà chứng đắc thần thông là quả vị đến ngay trong hiện tại, tạm quên quả vị đó, thì sẽ hướng tiếp đến sự giác ngộ, đến giải thoát khỏi luân hồi.

    Nếu không nâng niu, giữ gìn hoặc gieo và gặp những nghịch duyên thì sẽ trở thành nghèo khó (hết phúc tu hành) và trở thành người bình thường, thậm chí không được như người bình thường mà trở thành nghèo khó như ví dụ nêu trên.

    Như vậy, chúng ta thấy dù là quả báo hay nói giản đơn hơn là kết quả của công phu tu tập đến sớm hay đến muộn còn phụ thuộc nhiều nhân duyên khác nhau, và dù đến lúc nào và với ai, từ vị tu hành đến nhà ngoại cảm thì cũng phải hướng đến mục đích tối thượng là tu hành giải thoát khỏi luân hồi, còn nếu lạm dụng thần thông vì các mục đích khác vì danh, lợi sẽ thật uổng phí cho sự chứng đắc đó. (Để rõ hơn, mời bạn đọc xem kỳ VI, tác giả đã phân tích).

    Không chỉ quả báo về sự giàu có, quả báo về sự chứng đắc thần thông, có khả năng ngoại cảm….mà còn có vô số quả báo khác xảy ra có khi là trong cùng một kiếp, có khi là không trong cùng một kiếp, mà nối tiếp sang kiếp sau, hoặc cách quãng ra nhiều kiếp về sau.

    Để hiểu được điều đó, cần vận dụng sự quán tưởng và suy luận logic, chúng ta cũng sẽ có lời giải cho các hiện tượng thần đồng, có những đứa trẻ mới 3 tháng tuổi đã biết nói, 3 năm tuổi đã đọc, viết thành thạo, 6 tuổi làm thơ xuất sắc, 10 tuổi giảng Phật pháp siêu đẳng như cô BÉ BÚP BÊ ở Đồng Tháp mà bạn đọc đã đọc trên Phattuvietnam.net…đều là do những quả báo của đời trước hồi dư, biệt báo và nối tiếp sang kiếp hiện tại.

    ***********

    Phân tích những ý trên là tác giả làm rõ hơn thắc mắc của một số bạn đọc khi đọc kỳ VI & VII. Đến đây, tạm gác lại vấn đề trên, chúng ta tiếp tục thử phân tích câu hỏi có hay không nhà ngoại cảm nói chuyện được với “linh hồn”, và “linh hồn” đó ở cõi giới nào theo quan niệm của đạo Phật.

    Trước hết, đây là một chủ đề không đơn giản, rất khó và tế nhị. Tác giả chỉ phân tích như một cách nêu luận điểm để mong được các bậc cao minh, bạn đọc phản biện để cùng tìm ra những vấn đáp khả dĩ, phục vụ cho việc tìm tòi và nâng cao sự hiểu biết, phục vụ con đường tu tập và rèn luyện đạo đức, cũng như xây dựng nhân sinh quan chung.

    Điều hoan hỉ của tác giả là nhận được phản biện và phân tích của quí bạn đọc, chỉ ra những luận điểm để khai quang nhận thức không chỉ cho tác giả mà cho sự hiểu biết chung của nhận thức xã hội.

    Trước khi thử phân tích câu hỏi, nhà ngoại cảm có nói chuyện được với “linh hồn” hay không? Chúng tôi đã vào mạng Internet, trên trang Phattuvietnam.net, để đọc các tài liệu đã đề cập đến chủ đề này và được biết.

    Có tác giả đã phỏng vấn một vị tu hành, và vị đó phủ định hoàn toàn chuyện người sống có thể giao tiếp được với “linh hồn” người đã khuất. (Trang Phattuvietnam.net đã đăng lại bài viết này, bạn đọc có thể tìm đọc). (2)

    Riêng bản thân tôi cho rằng nhà ngoại cảm có thể giao tiếp được với “linh hồn”; nếu hiểu “linh hồn” là một dạng tâm thức của chúng sinh, không hiểu “linh hồn” là chỉ khái niệm chung chung là tất cả các trạng thái sau cái chết vật lý của con người.

    Theo Phật giáo dòng tâm thức sau cái chết vật lý của con người… khác hoàn toàn với quan niệm của đạo Hồi, Tin lành, Công giáo. Các đạo đó cho rằng, linh hồn là thường hằng bất biến, và sau khi chết vật lý và sinh học thì “linh hồn” chỉ có 2 cõi để trú ngụ, ở thiên đường hoặc ở địa ngục.

    Quan niệm của Phật giáo cũng khác với cách hiểu trong quan niệm dân gian, “linh hồn” là một dạng thể sau khi chết thì ở cõi âm, đối lập với cõi dương (người sống), đó là cách hiểu chỉ có 2 cõi là cõi dương và cõi âm.

    Để phân tích kỹ hơn, chúng ta tìm hiểu xem Phật giáo quan niệm về các cõi trong vũ trụ như thế nào:

    Vũ trụ là bao la, vô thủy vô chung, không có điểm kết thúc và không có điểm bắt đầu, tất cả mọi sự vật hiện tượng vật chất, kể cả vũ trụ mà chúng ta nhìn được bằng các giác quan thông thường (5 giác quan) đều chi phối bởi luật Vô thường. Cái “thực” mà chúng ta nhìn thấy là “giả”, vì do nhân duyên chi phối, chúng ta nhận biết ra chúng tồn tại là bởi “ảo ảnh” của 5 giác quan mà thôi. Nên mới có câu “sắc sắc không không”.

    Ví dụ: Chúng ta nhìn thấy bông hoa hồng màu đỏ, nhưng một người mù màu họ sẽ không thấy bông hoa hồng màu đỏ. Và ai đúng – ai sai? Không có ai đúng mà cũng chẳng có ai sai.

    Sở dĩ chúng ta thấy màu đỏ là vì chúng ta lệ thuộc vào giác quan (thị giác). Và thế giới này chúng ta thấy hiện hữu (hữu hình) cũng bởi là vì chúng ta thâu nhận được từ 5 giác quan này, hay nói cách khác là lệ thuộc vào 5 giác quan này.

    Khi chúng ta có khả năng vượt ra ngoài 5 giác quan này, thế giới mà chúng ta nhìn thấy sẽ rất khác. Đó chính là cách chúng ta quán về “sắc sắc không không” để có sự thấu hiểu.

    Để hiểu được điều đó, chúng ta phải dùng phép quán tưởng, như tác giả đã phân tích ở kỳ VI, vô hình mà không phải là vô hình, không phải là vô hình mà là vô hình. Trong bài viết này, xin chưa đề cập đến Bốn quả vị Thánh (Thanh văn – duyên giác, Bồ Tát, A la hán, Phật), chúng ta tập trung phân tích về lục đạo.

    Trong vũ trụ bao la đó, quan niệm về lục đạo trong Phật giáo như sau:

    Do nhân duyên tu tập mà mọi chúng sinh (chưa đạt đến quả vị giải thoát) liên tục luân hồi trong các trạng thái của lục đạo. Sáu cõi luân hồi (Thiên, người, Atula, súc sinh, ngã quỷ và địa ngục).

    Thiên: Là người sống làm nhiều điều thiện, làm nhiều việc giúp đỡ người khác, khi chết (vật lý & sinh học) được quả báo sinh về cõi trời…

    Nhân: Là người sống đúng nhân cách, không thiện nhiều, nhưng cũng không làm ác thì được tái sinh trở lại làm người…

    A tu la: Là những người lúc sinh thời hay nóng giận, sân hận, không ác, không thiện thì sinh vào cõi A tu la, được ví như một cõi chuyển tiếp để chuyển lên cõi cao hơn hay thấp hơn, các quan niệm về vong linh, Thần..như trong quan niệm dân gian nếu chiếu theo kinh sách Phật giáo là ở cõi này,…

    Súc sinh: Chỉ chung là các loại động vật, các loài có thân xác vật lý mà không phải là con người, do quả báo của kiếp trước mà bị đọa lạc làm thân súc sinh…

    Ngạ quỷ: Là những chúng sinh sau khi thân xác vật lý chết, chưa được siêu thoát, và do quả báo nên thần thức của họ chịu nhiều khổ đau, dân gian gọi là ma, quỉ…ở trong cõi này. Phật giáo gọi là thần thức hay A lại da thức...

    Địa ngục: Là những người lúc sống tạo nhiều nghiệp ác về thân, khẩu, ý nên khi chết (cái chết vật lý) bị đọa vào địa ngục…(3).

    Chúng sinh cứ theo dòng luân hồi chuyển kiếp trong lục đạo, hết địa ngục lên ngã quỷ, hết ngã quỷ lên súc sinh, thành người, thành thiên nhân và ngược lại.

    Để hiểu được vòng luân hồi vô tận đó, đạo Phật không chấp thường và chấp đoạn.

    Chấp thường là cho rằng chết thì có linh hồn, linh hồn tồn tại mãi mãi như trong quan niệm của đa số các tôn giáo khác.

    Chấp đoạn là con người chết (chết vật lý & sinh học) là hết, không có linh hồn, không có luân hồi, không có chuyển kiếp.

    Ở kỳ trước tác giả đã phân tích khái niệm vô hình và hữu hình. Xin được tóm lược lại để bạn đọc hình dung.

    Theo cách phân loại lục đạo như trên của Phật giáo, chúng ta thấy chỉ có 2 cõi Nhân, và Súc sinh là cõi hữu hình. Cõi hữu hình có nghĩa là cảm nhận được bằng 5 giác quan thông thường, còn các cõi còn lại là vô hình, không thể cảm nhận được bằng các giác quan thông thường, chỉ có các nhà nhà ngoại cảm, các vị chứng đắc thần thông, các vị tu hành giác ngộ cao mới biết được một phần hoặc nhiều phần của các cõi kia tùy theo khả năng thần thông và sự chứng đắc giác ngộ của họ đến đâu.

    Như vậy, các cõi còn lại là trạng thái tâm thức thọ cảm của “linh hồn” khi không còn chi phối bởi thân xác vật lý và sinh học.

    Cách hiểu này cũng không đồng quan điểm về cách giải thích của một vị sư trong một bài giảng, khi có Phật tử hỏi:

    - Theo thầy người ngoài hành tinh là ở cõi Thiên hay cõi nào trong lục đạo?

    Vị đó đã trả lời:

    - Người ngoài hành tinh là thuộc cõi Thiên.

    Chúng tôi cho rằng cách hiểu đó không chính xác. Về mặt niềm tin, tôi tin rằng có người ngoài hành tinh, vì vũ trụ vô thủy, vô chung, bao la như vậy, việc có sự sống (theo định nghĩa của khoa học) nói chung và có người ngoài hành tinh nói riêng là có xác suất rất cao.

    Tuy nhiên, đến thời điểm này loài người trên trái đất chưa tìm ra người ngoài hành tinh, nên tôi tạm gọi là người ngoài hành tinh (nếu có) cũng thuộc cõi người như chúng ta, vì chúng ta nhìn thấy họ bằng các giác quan thông thường (theo cách hiểu người hành tinh như bấy lâu nay chúng ta giả thiết, còn nếu hiểu người ngoài hành tinh theo một cách hiểu khác thì chúng ta chưa bàn đến).

    Tôi cũng cho rằng, câu hỏi của vị Phật tử đó rất hay, câu hỏi này mặc nhiên phủ định kinh sách và quan niệm của đạo Tin lành, Công giáo, Hồi giáo (bạn đọc đừng ngạc nhiên, đọc kỳ VII sẽ thấy Giáo hoàng cũng đã nhiều lần đình chính, bổ sung và thậm chí là phủ định kinh sách của chính tôn giáo mình về quan niệm linh hồn, địa ngục, thiên đường, sự hình thành vũ trụ, loài người …).

    Tại sao lại gọi là mặc nhiên phủ định? Vì nếu theo kinh sách của các tôn giáo trên, cung Thiên đường có nghĩa là ở trên trời (hiểu theo khái niệm vật lý và hình học) ở nơi có mặt trời, mặt trăng, và các vì sao…thì chắc chắn người ngoài hành tinh phải ở cung Thiên hay cõi Thiên đường, trong khi họ đâu phải là “linh hồn” thường hằng, họ vẫn có thân xác vật lý bình thường như chúng ta. Điều đó cho thấy cách lý giải về thế giới tự nhiên và vũ trụ trong kinh sách của các tôn giáo khác (trừ đạo Phật) rất hạn chế, và ngày nay khoa học đã chứng minh cách hiểu đó không đúng.

    Như vậy, dù là người ngoài hành tinh, hay sự sống theo quan niệm của khoa học dù ở đâu trong cả vũ trụ bao la này (nếu phát hiện ra) đều thuộc cõi người và cõi súc sinh và là 2 trong sáu cõi luân hồi nêu trên.

    Đến đây, có người sẽ thắc mắc, vi khuẩn, cũng như vô số loài chúng sinh khác có thân xác sinh học và vật lý nhưng chúng ta không nhìn thấy bằng mắt thường, thì thuộc cõi nào. Xin thưa! Là thuộc cõi súc sinh.

    Vi khuẩn chúng ta không nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng qua kính hiển vi chúng ta nhìn thấy được, và kính hiển vi được phát triển bởi các nguyên lý vật lý, và nguyên lý của nó hay của bất kỳ một thành tựu khoa học nào cũng không ra ngoài sự cảm nhận (thọ cảm) của 5 giác quan thông thường.

    2 cõi đó, khác 4 cõi còn lại ở điểm nào? Và các nhà ngoại cảm đã có thể nói chuyện với những chúng sinh nào ở 4 cõi đó và vô số thế giới khác có đúng không? Mời bạn đọc đón đọc tiếp kỳ IX.

    Còn tiếp….



    Chú thích:

    (1) Với người ngoài hành tinh tôi tin là có, tuy nhiên hiện nay loài người trên trái đất chưa tiếp xúc, nên chúng tôi dùng từ “nếu có”. Và người ngoài hành tinh ở đây là người như lâu nay chúng ta quan niệm, có thân xác vật lý, sống ở một hành tinh xa xôi nào đó của vụ trụ.

    (2) Chúng tôi không cho rằng quan niệm của vị sư đó là sai, vì chúng tôi không đủ sự giác ngộ để xác quyết, tuy nhiên, tác giả không nhận thức như vậy.

    (3) Cũng có nhà nghiên cứu Phật học cho rằng, Phật giáo nguyên thủy chỉ chia các cõi trong luân hồi là 5 cõi, riêng cõi địa ngục là vay mượn từ đạo Bà la môn.

    Chú ý:

    Chúng tôi công nhận chuyện giao tiếp với người cõi âm là có thật, song không cổ vũ những giao tiếp đó, nếu không vì mục đích nhân văn, hướng thiện và đạo hạnh…thậm chí có những giao tiếp rất có hại, không mang lại lợi lạc nào.

    Hiện nay, có người coi việc áp vong, gọi hồn như một cách thường xuyên, áp dụng liên tục, thích là làm…Theo chúng tôi không nên như vậy. Để ghi chép lại những câu chuyện có thật như sự minh họa sống động, chúng tôi sẽ tiếp tục phản ánh bằng các bài viết cụ thể đăng trên Phattuvietnam.net.

    Hy vọng qua đó, bạn đọc có thể tự rút ra những kinh nghiệm bổ ích và tự trả lời câu hỏi nên hay không nên áp vong, gọi hồn người đã khuất…
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  10. #10

    Mặc định

    Nhà ngoại cảm chỉ nói chuyện được với các “oan hồn”?
    01/11/2010 09:3
    Giới Minh

    Kỳ 9 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với những phân tích của tác giả về "linh hồn" dưới góc nhìn Phật giáo.

    Kỳ IX: Nhà ngoại cảm chỉ nói chuyện được với các “oan hồn”?

    Nhà ngoại cảm chỉ nói chuyện được với các “oan hồn”? Có bài viết đã khẳng định như vậy, cho rằng nhà ngoại cảm chỉ có thể nói chuyện được với các “oan hồn” và chúng sinh ở cõi ngã quỷ, họ không thể tiếp xúc được với các “linh hồn”- chúng sinh ở cõi khác. Có đúng vậy không?

    Trong dân gian, tuy không có định nghĩa rõ ràng, nhưng đa số sự hiểu “linh hồn” là chỉ chung chung tất cả các trạng thái sau cái chết vật lý và sinh học của thân xác.

    Chúng tôi có cách hiểu, sau cái chết vật lý và sinh học của thân xác, trải qua 49 ngày thân trung ấm, “linh hồn” vẫn có thể đang tiếp tục trải qua giai đoạn trung gian (thân trung ấm), có thể đã đầu thai vào cõi súc sinh, cõi Nhân (có thân xác vật lý và sinh học), hoặc tái sinh vào một trong 4 cõi (không có thân xác vật lý và sinh học), tức là đã thành chúng sinh ở các cõi khác trong lục đạo luân hồi.

    Do vậy, “linh hồn” phải được hiểu trong tính luân hồi liên tục, không đơn giản là “linh hồn” ở cõi âm, còn người sống ở cõi dương như trong dân gian thường quan niệm.

    Kể cả “linh hồn” đó đã đầu thai trở lại thành người, thì xác suất để trở thành người trên trái đất cũng không cao, nếu xét theo xác suất toán học, vì cõi Nhân cũng bao la trong vũ trụ (xem kỳ VIII).

    Chúng tôi cũng đã đọc một số tài liệu của một số tác giả, các tài liệu đó trích dẫn kinh điển, một số vị đã phân tích và cho rằng trong đạo Phật không công nhận có “linh hồn”.

    Bạn đọc nào trao đổi, có ý kiến thắc mắc, phản biện xin lưu ý là trước khi trao đổi nên làm rõ khái niệm “linh hồn” theo cách hiểu nào?

    Nếu theo cách hiểu “linh hồn” là thường hằng bất biến thì đạo Phật không công nhận, còn “linh hồn” chỉ là một giai đoạn của chu kỳ luân hồi liên tục trong lục đạo, hoặc “linh hồn” trong trường hợp đã đầu thai và thành chúng sinh ở cõi khác (cõi vô hình, hoặc hữu hình) thì khái niệm “linh hồn” đã rất khác xa cách hiểu như trong quan niệm dân gian.

    Theo cách hiểu như vậy, chúng tôi có đôi điều trao đổi về nội dung của hai bài báo sau:

    Bài “Cõi âm và khả năng ngoại cảm” đăng trên báo Giác Ngộ, trang Phattuvietnam.net đã đăng lại tại đường link: http://www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/2057.html

    Bài phỏng vấn Thượng tọa Thích Thanh Duệ với tiêu đề “Ngoại cảm không "nói chuyện" với hồn” đường link: http://www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/2434.html, nội dung bài báo cho rằng, không có chuyện nhà ngoại cảm nói chuyện và tiếp xúc được với “linh hồn”.

    Trước hết xin được trao đổi và thảo luận, chúng tôi không đơn giản nghĩ rằng là sự hiểu của mình đã đúng, nhưng mọi sự trao đổi chân thành sẽ có lợi cho nhận thức chung.

    Thứ nhất, nhận định cho rằng nhà ngoại cảm không thể nói chuyện được với “linh hồn” sau cái chết sinh học và vật lý của thân xác, chúng tôi không nhận định như vậy.

    Thứ hai, nhận định cho rằng nhà ngoại cảm chỉ nói chuyện được với các “oan hồn”, chúng tôi cho đó là một kết luận vội vàng và chưa thỏa đáng.

    Ở góc độ khoa học xã hội và nhân văn khi nhận định như vậy là rất thiếu “tế nhị”.

    Trong bài viết này, chúng tôi thành tâm trao đổi trên tinh thần cầu thị, hoan hỉ lắng nghe để điều chỉnh tư duy, tiếp thu và học hỏi.

    Sự trao đổi của chúng tôi, dựa theo kinh sách Phật giáo và thực chứng cá nhân, cộng với phép suy luận logic, quán tưởng và phân tích.

    Bài “Cõi âm và khả năng ngoại cảm” có đoạn “Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sinh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức.

    Nếu đã tái sinh vào cõi khác thì "ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách nay hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? "Cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo”.

    Và ở đoạn khác:

    “Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sinh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục.

    Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sinh.

    Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sinh trong loài Ngạ quỷ”

    “Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sinh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sinh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ”.

    Khi đọc những nhận định trên, chúng tôi có 3 góc độ để trao đổi lại, dựa trên những sở cứ, như sau:

    Thứ nhất, ở góc độ chính trị - khoa học xã hội và nhân văn, không phải là chúng tôi cố gắng chính trị hóa vấn đề tâm linh, nhưng khi nhận định như trên, tuy vô tình nhưng đã đụng chạm đến tình cảm, niềm tin của hàng triệu gia đình có người mất trong chiến tranh, loạn lạc, đói khổ, đặc biệt hơn trong đó có hàng trăm ngàn gia đình liệt sĩ.

    Thời gian qua, ở nước ta rộ lên chuyện các nhà ngoại cảm, nổi tiếng nhất về thành tích của họ là tìm mộ liệt sĩ bằng nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp “nói chuyện” với “linh hồn”, lẽ nào các liệt sĩ chỉ là các “oan hồn”?

    Nhiều vị tu hành khi trao đổi với tác giả - Giới Minh, cũng bày tỏ băn khoăn về bài báo nêu trên.

    Ở nước ta, sau nhiều cuộc chiến tranh, đã có hàng triệu người hy sinh, xả thân cho Tổ quốc khi cần, đó là những tấm gương sáng, “sống anh hùng, chết vẻ vang”.

    Như vậy, ở góc độ xã hội và lịch sử, sự hy sinh của họ được ghi nhận xứng đáng.

    Nếu đúng như kết luận của tác giả, nhà ngoại cảm chỉ nói chuyện được với các “oan hồn”, thì khi xảy ra chiến tranh, “chết cho Tổ quốc sống”, để mà trở thành các “oan hồn” thì ai còn dám hy sinh?

    Lịch sử dân tộc ta là lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta muốn hòa bình, nhưng các thế lực hiếu chiến cứ luôn đe dọa cuộc sống bình yên của xứ sở này, do vậy tinh thần xả thân vì Tổ quốc khi cần đã trở thành tính cách anh hùng trong huyết quản của người Việt mọi thời đại.

    Nhận định như vậy, tuy tác giả vô tình, nhưng các gia đình liệt sĩ kể cả tin, hay không tin vào nhận định đó, họ sẽ không vui, hương hồn các anh không vui,…

    Sau chiến tranh có hàng triệu người chết, nhiều trong số đó là của các anh hùng, liệt sĩ chưa biết hài cốt ở đâu, trong khi văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam rất trân trọng “chết có mồ, có mả”, “sống cậy nhà, chết cậy mồ”, hay “sống dù bôn ba, chết về quê nhà”…nên không chỉ Nhà nước mà nhiều cá nhân, tổ chức thiện nguyện đã có rất nhiều công sức, tâm huyết của mình, trong đó có sự đóng góp lớn của giới ngoại cảm và những người có khả năng đặc biệt trong việc tìm mộ liệt sĩ qua nhiều hình thức, trong đó có hình thức ngoại cảm, hình thức gọi hồn, áp vong….

    Thứ hai là ở góc độ thực chứng, chúng tôi trên tinh thần cầu thị và chiêm nghiệm, chưa đủ khả năng giác ngộ để kết luận, nhưng đã quan sát rất nhiều cuộc gọi hồn, trò chuyện đối thoại giữa nhà ngoại cảm, các thanh đồng và “hương linh” các liệt sĩ, đặc biệt hơn cả là qua phương pháp áp vong, mời vong các anh hùng liệt sĩ nhập vào người thân để chỉ cho biết hài cốt ở đâu, còn hay không….tất nhiên không phải lần nào cũng thành công, và cũng không phải “liệt sĩ” nào về cũng khai khẩu được.

    Chúng tôi nhận thấy có một sự lạ? Gần như trên 90% “linh hồn” gia tiên mà trước đây chết do bệnh, chết già, do tai nạn, ốm đau,…qua phương pháp áp vong thì hành động đầu tiên khi nhập vào con cháu là khóc, sau đó mới khai khẩu và trò chuyện. Có “linh hồn” nhập về chỉ khóc và sau đó “thăng”.

    Phải chăng lâu ngày gặp lại con cháu ở trần gian, họ còn luyến nhớ nên khóc vui có, khóc nhớ nhưng, khóc tiếc nuối có?

    Trong khi “linh hồn” các liệt sĩ nhập về rất ít khi khóc, họ nói chuyện rất lạc quan, thậm chí còn chủ động an ủi người thân đừng buồn phiền làm gì, tinh thần đồng đội của họ rất cao, có người về còn động viên người yêu đi lấy chồng, sao cứ ở mãi một mình vậy. Dấu hiệu như thế, theo chúng tôi chứng tỏ họ rất “giác ngộ” và “hoan hỉ”, sao lại có thể là “oan hồn”?.

    Ở đây chúng tôi nói chung chung các liệt sĩ là “họ”, không nói riêng một vài trường hợp riêng lẻ.

    Bạn đọc nào chưa tin những điều trên, xin mời đến các cơ sở áp vong để có thống kê, ghi chép và thực chứng quan sát, tự mình rút ra sự chiêm nghiệm.

    Nhận xét nêu trên của chúng tôi là thực chứng khách quan, không “lái” vấn đề, để chính trị hóa nhận thức.

    Chúng tôi tạm suy luận, vì chưa đủ sự giác ngộ để kết luận, nhưng những trạng thái đó của đa số “linh hồn” các liệt sĩ là những trạng thái rất lạc quan, vui vẻ và họ không tiếc nuối sự hy sinh bản thân mình cho Tổ quốc, thì không thể nào là các “oan hồn”.

    Lưu ý: Tôi có anh bạn, có mẹ là một cô giáo, do bị oan trong việc va chạm cuộc sống đời thường, bác đã thắt cổ chết (tự tử), bạn tôi đã nhiều lần qua nhiều thanh đồng khác nhau, đi gọi hồn và không gọi được. Nhờ một vài nhà ngoại cảm “giao tiếp” cũng không thành. Bản thân tôi cũng chưa hiểu vì sao?

    Thứ ba: Trong Phật pháp coi việc bố thí thân xác, quên cả mạng sống (mạng sống là hy sinh thân xác, còn sự sống lại theo nghĩa khác) của mình vì Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân, đồng bào là một trong những hình thức bố thí cao cả nhất. (1)

    Ở góc độ kinh sách Phật giáo, trong nhiều quyển Kinh đã ghi chép cụ thể chuyện đức Phật lúc giảng giải Phật pháp, đã có vô số chúng sinh ở các cõi vân du, hội tụ để nghe giảng Kinh, các vị Bồ Tát, các đệ tử chứng đắc thần thông dùng khả năng của mình để biết được các “linh hồn” đang ở cõi nào, hay tái sinh vào cõi nào” là có.

    Với người chứng đắc thần thông, có sự giác ngộ cao và có thể giao tiếp được với các “linh hồn” như vậy, thì có lý gì mà các nhà ngoại cảm lại không nói chuyện được với “linh hồn” - chúng sinh ở các cõi giới khác?

    Đó là xét về mặt lý thuyết, thực tế để có thể nói chuyện được hay không, ta phân tích một ví dụ thông thường với 1 điều kiện cần và 4 điều kiện đủ, sau đây:

    Điều kiện cần: Vì đây là cuộc trò chuyện giữa chúng sinh cõi hữu hình và chúng sinh ở cõi vô hình, nên đòi hỏi người đối thoại, nhà ngoại cảm có khả năng thần thông đến đâu, ở mức độ nào, đạo hạnh, mục đích cuộc “nói chuyện”….

    Điều kiện đủ: Ví dụ, chưa nói là cuộc trò chuyện giữa cõi này và cõi kia (cõi ở đây cần hiểu theo cách phân loại của Phật giáo), mà ngay cùng một cõi Nhân (theo phân loại lục đạo), chẳng hạn ông A ở Việt Nam muốn nói chuyện với ông B ở Nam Phi, sự kiện đó muốn diễn ra cũng phải có các điều kiện:

    Thứ nhất, ông A đóng vai trò chủ động khi muốn trò chuyện với ông B.

    Thứ hai, ông A phải sang tận nơi gặp ông B, điều này còn phụ thuộc vào kinh phí, phương tiện đi lại, phiên dịch viên (nếu ông A và ông B không hiểu ngôn ngữ của nhau), thủ tục đi lại…trong trường hợp này dù rất khó khăn, nhưng xét về tính khả thi là có.

    Trường hợp khác, ông A mà muốn nói chuyện với ông C (ở hành tinh X) cùng thuộc cõi Nhân như ông A, thì tính khả thi (đến thời điểm khoa học kỹ thuật hiện nay) là = không.

    Thứ ba, sự phát triển của khoa học kỹ thuật giúp sức, trong trường hợp bỏ qua điều thứ hai, ông A và ông B có điện thoại, email…cũng có thể liên lạc được với nhau.

    Thứ tư, dù các điều kiện trên là đủ, nhưng ông B không muốn nói chuyện với ông A thì cuộc nói chuyện cũng khó diễn ra.

    Hiểu như vậy, chúng ta cũng thông cảm hơn cho các nhà ngoại cảm, khi muốn trò chuyện được với chúng sinh cõi giới khác còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đâu phải cứ đơn giản muốn là được, có kinh phí nhờ họ như kiểu thuê nhân công là xong, kết nối nói chuyện được thì khen là tài năng, không được thì lại chê bai không có khả năng…

    Trở lại vấn đề, ở cả 2 bài báo nêu trên, có những nhận định giống nhau như: “Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sinh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sinh vào cõi khác thì "ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm?"

    Còn nữa…



    Kỳ X tác giả sẽ tiếp tục lý giải băn khoăn nêu trên, Mời bạn đọc đón đọc,…

    Chú thích:

    (1), là một trong những hình thức bố thí cao nhất, còn các hình thức bố thí xả thân vì đạo Pháp…

    Trong hai kỳ IX và X, về mặt lý thuyết chung, chúng tôi tin rằng nhà ngoại cảm, người tu chứng đắc thần thông có thể nói chuyện được với “linh hồn”, còn việc có nên giao tiếp không, và trong trường hợp nào thì không nên, chúng tôi sẽ phân tích ở các kỳ tiếp theo…




    ================================================




    Ngoại cảm trò chuyện với “linh hồn” người chết cách hàng ngàn năm: Bịa đặt?
    04/11/2010 09:56
    Giới Minh

    Nhà ngoại cảm, các vị tu hành chứng đắc, và bất cứ ai có khả năng thần thông ở mức độ nào đó đều có thể trò chuyện được với chúng sinh ở các cảnh giới, cõi giới khác trong lục đạo. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam thời gian qua, trong sự hiểu biết hạn hẹp và suy luận, chúng tôi cho rằng đa số là nói chuyện với chúng sinh ở cõi Atula…

    Kỳ X: Nhà ngoại cảm trò chuyện với “linh hồn” người chết cách đây hàng ngàn năm – có phải là sự bịa đặt? (tiếp theo kỳ IX)

    Ở bài “Ngoại cảm không "nói chuyện" với hồn”, không rõ tác giả khi phỏng vấn có hiểu sai ý của Thượng tọa Thích Thanh Duệ hay không? Vì tít báo thì như vậy, nhưng trong nội dung thì vẫn có đoạn: “Có thể những nhà ngoại cảm ở đây nghĩ rằng họ "tiếp xúc" được với thế giới Atula. Trong kinh Lăng Nghiêm nói, khi con người thiên vào những cái đó, coi trọng cái đó thì thế giới Atula sẽ nhập vào người đó.


    Ví dụ như ở nơi nào chính quyền công an vững thì trộm cắp sẽ ít. Nơi nào công an yếu, trật tự an ninh dân phòng yếu thì thế giới trộm cắp phát triển. Cái thế giới đó như người ta gọi là âm thịnh thì dương suy mà dương suy thì âm thịnh. Khi ổn định trật xã hội an toàn thì thế giới đó bị giảm bớt, bị coi thường. Khi trật tự an toàn xã hội kém, thì thế giới đó phát triển”.

    Ở bài “Cõi âm và khả năng ngoại cảm”, tác giả bài báo cho rằng: Sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sinh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sinh vào cõi khác thì "ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm?

    Với cách đặt vấn đề như vậy, tác giả bài báo nhận định: Đúng là có chuyện nhà ngoại cảm nói chuyện được với “linh hồn”, song đó chỉ là các “oan hồn” chưa được tái sinh, và chúng sinh ở cõi ngã quỷ.

    Đúng là trong kinh sách có nói sau cái chết vật lý và sinh học, đa số các trường hợp thì “thần thức” con người trải qua 49 ngày trung gian, ở trạng thái thân trung ấm, sau đó sẽ đầu thai vào cõi giới khác, đầu thai vào cõi giới, cảnh giới nào thì tùy theo nghiệp lực.

    Tuy nhiên theo ghi chép và mô tả của các vị Thiền sư, cao tăng đắc đạo vẫn có những trường hợp ngoại lệ, sau 49 ngày mà chưa có sự đầu thai vào cõi giới khác trong Lục đạo, mà vẫn duy trì trạng thái thân trung ấm kéo dài.

    Cũng có những trường hợp đặc biệt hơn, “linh hồn” không trải qua giai đoạn thân trung ấm, ngay sau khi “linh hồn” rời khỏi thân xác, lập tức tái sinh vào những cảnh giới cao, hoặc thù thắng nhập cõi Niết bàn. Đó là trường hợp của các vị tu hành đắc đạo, những người tạo nhiều nhân lành, luôn vì chúng sinh và vì đạo Pháp,…

    Ở kỳ VIII, tác giả đã phân tích trong 6 cõi Lục đạo, thì có 2 cõi (cõi Nhân, cõi súc sinh) chúng ta có thể cảm nhận được một phần nào đó bằng 5 giác quan thông thường hoặc thông qua sự hộ trợ của khoa học kỹ thuật, nhưng nguyên lý thụ cảm cũng không ngoài 5 giác quan thông thường.

    Trong khi đó ở 4 cõi (Thiên, Atula, ngã quỷ, địa ngục) chúng ta không cảm nhận được bằng 5 giác quan thông thường, mà chỉ có các nhà ngoại cảm, các vị tu hành đắc đạo, tùy theo mức độ giác ngộ mà cảm nhận được một phần, hoặc từng phần, nhiều phần các cảnh giới, cõi giới đó…

    Và ngay trong cõi Nhân, chúng ta đã cảm nhận hết chưa? Nếu chỉ dựa vào 5 giác quan thông thường, chúng ta không bao giờ cảm nhận được hết? Vì người ngoài hành tinh (nếu có) cũng thuộc cõi Nhân, và cả vụ trũ bao la vô thủy, vô chung…có bao nhiêu hành tinh có sự sống (theo cách định nghĩa về sự sống của khoa học)?

    Trong vô số thế giới, vô số hành tinh đó, loài người trên trái đất đến bao giờ sẽ tri kiến và cảm nhận được thấu đất – trời bao la?

    Một cõi Nhân đã bao la như vậy, chúng ta chưa sao (thấy, biết) được trọn vẹn thì tưởng tượng xem sự vô biên của cõi Thiên, Atula, Ngã quỷ, địa ngục…sẽ như thế nào?!

    Sau 49 ngày nếu không còn trạng thái trung gian là thân trung ấm, thì “linh hồn” đầu thai vào một trong 6 cõi, trong đó có thể là 2 cõi hữu hình, có thể là 4 cõi còn lại.

    Không phải là sau 49 ngày thì chỉ đầu thai vào thành súc sinh hay người (để nhìn thấy được), rồi tác giả kết luận là không có chuyện nói chuyện được với “linh hồn” vì “linh hồn” đã tái sinh.

    Có lẽ ở chi tiết này, nội dung 2 bài báo đã có sự nhầm lẫn xảy ra ở suy luận trên. Nhầm lẫn là vì khi chúng ta tư duy theo logic thông thường, đã đầu thai thì phải thành người, hay súc sinh, vô tình quên mất còn vô số thế giới và nhiều cõi giới vô hình khác.

    Đúng là kinh sách có viết sau 49 ngày thì “linh hồn” đầu thai tái sinh, nên có người cho rằng đã thành người, hay xấu hơn là đầu thai thành một loại súc sinh thì nhà ngoại cảm làm sao tiếp xúc được, nói chuyện được với “linh hồn”?

    Hiểu như thế là vô tình quên mất còn 4 cõi vô hình mà “linh hồn” tùy theo nghiệp lực có thể đã tái sinh trong cảnh giới đó.

    Một cõi Nhân đã bao la không cùng tận, bạn đọc thử tưởng tượng ở 4 cõi vô hình thì sự không cùng tận sẽ như thế nào?

    Ở cõi Nhân, xét riêng trên trái đất tính tại thời điểm hiện tại (thể kỷ XXI) bình quân tuổi thọ của con người chưa tới 75 tuổi, so với tuổi thọ của chúng sinh ở cõi khác e rằng lấy phút giây so với tháng, năm; lấy ngày so với thập kỷ; lấy năm so với thiên niên kỷ.

    Đức Phật đã nhiều lần giảng cho các đệ tử nghe về điều này, khi có đệ tử hỏi về tuổi thọ của chúng sinh ở các cõi khác.

    Do vậy, có người chết hàng trăm năm (chết vật lý và sinh học), hàng ngàn năm mà nhà ngoại cảm có thể trò chuyện được với “linh hồn” đó – thực chất là một chúng sinh ở cõi khác, âu cũng không có gì là lạ, là thần bí. Vì hai hệ qui chiếu thời gian khác nhau, và tuổi thọ của chúng sinh ở 4 cõi vô hình so với 2 cõi hữu hình, so với tuổi thọ ở thế gian thì thật khập khiễng.

    Đúng hơn là sau 49 ngày khó có thể nói chuyện được với “thần thức” – nếu hiểu “thần thức” là giai đoạn trung gian trong 49 ngày của thân trung ấm, còn sau 49 ngày với đa số các trường hợp, “thần thức” đó đã thành một chúng sinh ở một trong 6 cõi, thì nhà ngoại cảm không thể nói chuyện được với những “thần thức” đã đầu thai vào cõi (súc sinh, Nhân) - nếu không gặp trực tiếp họ bằng các giác quan thông thường.

    Trong khi đó, còn vào vô số thế giới, hằng hà sa số thế giới của 4 cõi kia…thì về mặt lý thuyết, các vị tu hành đắc đạo, nhà ngoại cảm …có khả năng ngoài 5 giác quan truyền thống có thể trò chuyện được với chúng sinh (đây là chúng sinh, không phải là thần thức như trong 49 ngày sau cái chết sinh học và vật lý) ở 1 trong 4 cõi đó.

    Tất nhiên đó là về mặt lý thuyết. Còn nói chuyện được hay không thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đã phân tích ở kỳ IX.

    Chúng tôi cho rằng, có nhà ngoại cảm có khoảnh khắc nào đó có thể nói chuyện được với người chết cách đây hàng trăm năm, thậm chí cả ngàn năm cũng không có gì là lạ. Tuy nhiên, các trường hợp này không nhiều, vì nhân duyên giữa người đối thoại và chúng sinh đó cũng không quá mạnh liệt, lưu tâm.

    Thực tế khi có một cuộc nói chuyện như vậy diễn ra, về mặt khoa học để kiểm chứng, cũng không dễ, chúng ta chỉ có tin vào sự thành thật của các nhà ngoại cảm, hoặc có các sở cứ để xác quyết, ví dụ có ngôn ngữ, chữ viết đã bị mai một trong lịch sử, nhưng có “linh hồn” thời kỳ đó qua một phương thức nào đó, có thể tái hiện và minh chứng, thể hiện được đúng là người của thời kỳ đó,…

    Qua thực chứng, chúng tôi nhận thấy có một số trường hợp, có “vong linh” nào đó cũng có những lúc mạo xưng các danh xưng khác nhau như người trần gian hay gọi là “lừa đảo, mạo xưng” vậy.

    Chúng tôi cho rằng, về mặt lý thuyết nhà ngoại cảm, các vị tu hành chứng đắc, và bất cứ ai có khả năng thần thông ở mức độ nào đó đều có thể trò chuyện được với chúng sinh ở các cảnh giới, cõi giới khác trong lục đạo. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam thời gian qua, trong sự hiểu biết hạn hẹp và suy luận, chúng tôi cho rằng đa số là nói chuyện với chúng sinh ở cõi Atula…

    Như có bạn đọc đã phân tích, đúng là các nhà ngoại cảm có khi cũng bị lừa bởi các chúng sinh có tâm chưa tốt, vì bản thân nhà ngoại cảm ở đây mới chỉ có phần nào đó của khả năng thần thông (một phần không liên tục của Thiên nhãn thông và Thiên nhĩ thông, cũng có trường hợp có thêm mức độ sơ cơ của Túc mệnh thông – biết được một phần của kiếp trước) để nghe thấy, nhìn thấy, trò chuyện, mà chưa chứng “Tha tâm thông” để thấy được bản tính, tâm tính của chúng sinh mà mình đang đối thoại, nên cũng rất có thể bị “mắc lừa” bởi cả người âm lẫn người dương.

    Ngoài ra, trên thực tế có “linh hồn” mà nhà ngoại cảm không thể biết gì về họ mặc dù đã rất cố gắng liên hệ, gia đình cũng đi nhiều cô đồng để gọi hồn và kể cả phương pháp áp vong, mời “linh hồn” nhập vào con, cháu nhưng không thành.

    Trong trường hợp đó, có thể xảy ra một trong các khả năng sau. Có thể do khả năng của nhà ngoại cảm, các thanh đồng chưa có thể giao tiếp được với họ. Hay vì họ không muốn giao tiếp với thân nhân. Cũng có thể họ đã đầu thai thành người, bị đọa trong cõi súc sinh ở một phương nào đó. Cũng có thể ví lý do đặc biệt họ đang trong giai đoạn thân trung ấm kéo dài….

    Tất cả, tác giả chỉ dùng từ “có thể”.

    Dù có chứng đắc bao nhiêu quả vị thần thông, dù khả năng của nhà ngoại cảm giỏi đến đâu cũng không thể hiểu được ngay trong một cõi (cõi mình đang tái sinh) một cách rốt ráo. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể “thấy, biết” và hiểu được một phần, hoặc một số phần của cõi giới khác, cảnh giới khác, nếu có khả năng ngoại cảm, chứng đắc thần thông.

    Chỉ có con đường duy nhất để hiểu rốt ráo và giác ngộ hoàn toàn, thấu triệt hoàn toàn mọi cõi giới, mọi thế giới. Đó là tu thành Phật.
    Last edited by Bin571; 25-12-2010 at 06:25 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  11. #11

    Mặc định

    Nên hay không nên việc áp vong, gọi hồn?
    2:21 | 13/11/2010

    Kỳ 11 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với những phân tích của tác giả về việc có nên giao tiếp với chúng sinh "cõi âm" không.




    Luận giải một cách nhìn…


    Những câu chuyện về tâm linh, “linh hồn”, các khả năng lạ…đã đi theo lịch sử loài người từ hàng ngàn năm qua, nhưng trong vài chục năm gần đây đã rộ lên trong nhận thức xã hội những luồng thông tin, nhận định khác nhau là bởi ba nguyên nhân chính.

    Nguyên nhân thứ nhất là sự xuất hiện những người có khả năng ngoại cảm, một số người có khả năng đặc biệt, khả năng lạ, cùng với đó là các hiện tượng giáng linh, vong nhập, áp vong, ốp vong, gọi hồn qua các thanh đồng, cô đồng….

    Nguyên nhân thứ hai là không phải trong chiều dài lịch sử nhân loại không có các hiện tượng trên, nhưng những năm qua nhờ sự phát triển của các phương tiện truyền thông, nên dư luận xã hội nhanh chóng nắm bắt hơn, dù có thể chưa phải là thông tin đã khách quan, phản ánh đúng tính chất của các hiện tượng trên…

    Nguyên nhân thứ ba là sự nhận thức khác nhau của các tôn giáo, các nhóm tín ngưỡng, trình độ giác ngộ của từng cá nhân, của từng cộng đồng xã hội…đã tạo nên những cách hiểu khác nhau, những cách tin và không tin cũng khác nhau…

    Đứng trước 3 nhóm nguyên nhân đó tạo thành một bức tranh nhận thức chung – tổng thể của xã hội, chúng tôi tạm chia thành những nhóm người có quan điểm sau đây.

    Nhóm tin chuyện tâm linh và ngoại cảm, linh hồn là có thật, nhưng không quá tin và bận tâm nhiều về chuyện đó, vì mỗi người tùy theo tôn giáo, tín ngưỡng, có nhận thức khác nhau, cách luận giải khác nhau…

    Nhóm không tin, coi đó là bịa đặt, hoang đường… Họ phủ định hoàn toàn, không tin chuyện ngoại cảm, gọi hồn, áp vong, vong linh giáng về. Họ không chịu khó dùng trí tuệ để kiểm chứng, mà vì vốn đã tin không có tâm linh, không có “linh hồn”, “người âm”, …nên vẫn giữ quan điểm đó.

    Nhóm quá tin, thì lại có xu hướng “thần thánh hóa” những chuyện đó quá mức và có nhiều biểu hiện lệch lạc, cho dù niềm tin đó về mặt hiện tượng là đúng, nhưng hành động lại biến thái thành mê tín, dĩ đoan…

    Dù ở cõi nào, “linh hồn” cũng là chúng sinh – như chúng ta muôn một

    Trong bài viết này, chúng tôi lưu ý đến một bộ phận trong những người thuộc nhóm tin nhưng không để ý, không bận tâm, tin là tin có tâm linh, có “linh hồn” nhưng không tin chuyện ngoại cảm có thể trò chuyện được với “vong linh”, hay tin các hiện tượng nhập đồng, linh giáng là có thật…

    Thậm chí có người còn cho rằng tin vào chuyện đó là trái tinh thần Phật giáo, trong Phật giáo không công nhận có chuyện đó. Thực tế, cách hiểu đó đã đúng chưa?

    Một bộ phận nhỏ những Phật tử coi chuyện giao tiếp với “linh hồn” đa số là ma quỉ, là oan hồn,… với một góc nhìn không mấy thiện cảm.

    Theo chúng tôi, dù chúng sinh mà nhà ngoại cảm gặp gỡ và trò chuyện đang ở cõi nào trong lục đạo, chúng ta cũng cần có cái nhìn trân trọng, vì “tất cả chúng sinh đều bình đẳng, ai ai cũng có tâm bản thể là tâm Phật”.

    Tránh cái nhìn của sự “kiêu ngạo giác ngộ”, cho rằng họ là ma quỉ, là các “oan hồn”…mình hiểu thế này, thế kia, thế nọ…là mình cao hơn họ?

    Trường hợp khác lại có cái nhìn lệch lạc, theo kiểu kể cả chúng sinh ở cõi Thiên cũng chỉ là lục đạo luân hồi, cõi Niết bàn mới là cao, Tứ Thánh quả mới là cao, nên tỏ ra coi thường các chúng sinh trong lục đạo, mà quên rằng mình là ai, mình cũng chỉ là chúng sinh như muôn một mà thôi.

    Tâm lý này thường nảy sinh ở những người có hiểu biết về lục đạo, về đạo Phật nhưng chưa sâu, và chưa có cách nhìn thấu đạo lời đức Phật đã dạy “Tất cả chúng sinh đều bình đẳng, đều là Phật sẽ thành”.

    Hiểu biết về lục đạo và cách phân loại cũng sẽ giúp ích cho chúng ta thêm nghị lực và quyết tâm trong việc tu tập, giác ngộ.

    Để tránh cái nhìn “kiêu ngạo giác ngộ”, tạo nhân cho sự chấp trược, khinh mạn; chúng ta quán tưởng và hình dung, ngay trong cõi Nhân (Người) cùng là một cõi giới mà sao có người thông minh, có kẻ ngu đần, có người trở thành bác học, có người là nhà tu hành đáng kính, có cả Phật, có Bồ Tát, có Thánh và cũng có cả người bình thường…còn chúng ta - chúng ta là ai?

    Theo chúng tôi, khi áp dụng cách nhìn của đạo Phật trước các hiện tượng như ngoại cảm, gọi hồn, áp vong, lên đồng…chúng ta cũng nên hiểu như sự đa dạng trong cõi Nhân, với đủ các hạng, bậc chúng sinh khác nhau, thì ở các cõi giới khác cũng vậy.

    Là Phật tử, chúng tin là có Nhân – Quả, có Luân – Hồi, và chúng sinh dù ở cõi nào, cũng cầu mong cho họ sớm giác ngộ, đặng bề tu tập, hướng đến cảnh giới, cõi giới cao hơn,…Họ như chúng ta, chúng ta như họ, họ cũng như bao người xung quanh ta, với đầy đủ các hạng, bậc, có chúng sinh tốt, có chúng sinh chưa tốt,…tất cả đang hiện hữu như trong cõi Nhân này.

    Trong khi đó, có những người lại quá thần thánh hóa “linh hồn”, quá đề cao quyền năng của các “linh hồn” và vẽ ra nhiều câu chuyện hoang đường, chúng tôi đã có những thống kê ngẫu nhiên trong 30 chục trường hợp với câu hỏi khi thắp hương cho ông bà tiên tổ, quí vị thường khấn gì? Nội dung như thế nào? (có thể việc cầu khấn chỉ mang yếu tố nghi lễ và văn hóa, nhưng qua đó cũng thể hiện việc thần thánh hóa linh hồn?)

    Nhận được kết quả, tạm phân loại theo lời cầu khấn, như sau:

    25 người cầu mong ông bà tổ tiên phù hộ cho sức khỏe, làm ăn phát đạt…
    3 người xin sám hối tội lỗi với gia tiên, ngoài ra không cầu xin gì…
    12 người cầu cho con cái học giỏi, cháu, con thi đậu đại học,…
    5 người cầu cho con cháu bớt hư, mong ông bà gia tiên giúp giáo dục con cháu…
    4 người cầu cho được lên chức, sinh con trai…


    Rất may trong số 30 người chúng tôi phỏng vấn ngẫu nhiên để thử làm một trắc nghiệm nhỏ, không có ai cầu cho việc buôn bán, làm ăn bất chính.

    Có lần đọc trên báo ANTG, có phạm nhân phạm tội buôn bán ma túy, đã kể lại cho phóng viên nhà báo rất thật thà, trước lúc bị bắt cháu vừa ra mộ thắp hương cho mẹ và cầu được mẹ che chở, vì mẹ cháu thương cháu lắm, vậy mà….

    Bài viết chỉ đề cập một trường hợp cụ thể về chuyện áp vong,…và hiểu tại sao đức Phật không khuyến khích chuyện giao tiếp với các cõi giới, cảnh giới vô hình khác.

    “Áp vong” để “chơi” chứng khoán….

    Tôi có anh bạn, làm giám đốc một Công ty Nhà nước khá lớn ở Thanh Hóa, biết tôi có quen biết một vài người có khả năng lạ, như khả năng áp vong, anh đã nhờ tôi liên hệ với một nhân vật có khả năng áp vong, để cả nhà anh đi áp vong.

    Nhà anh có 5 người ra Hà Nội, hôm đó có mấy vong linh gia tiên anh nhập vào con cháu, nhưng đáng lưu ý hơn là vong bà cụ mẹ của anh nhập về hơn 3h đồng hồ, bà cụ nhập vào cháu nội, con gái anh – cháu mới 14 tuổi.

    Theo anh kể bình thường tính cách cháu rất hay sợ ma, ghét nghe mùi lá trầu không, và vụng tính, không để ý chuyện gì trong gia đình, và những chuyện thời bố mẹ, ông bà cháu gần như không nắm được, vì bà nội mất lúc cháu chưa sinh.

    “Bà cụ” nhập về qua cô cháu nội đã kể những chuyện rất đúng mà theo anh không ai khác có thể kiểm chứng ngoài anh, như chuyện anh bị đứa bạn ném đá vào đầu để lại vết sẹo ra sao lúc bé, theo anh chuyện này vợ, con anh không thể biết được. Sau hơn 2h với đủ các câu chuyện riêng của gia đình, thấy cụ chưa “thăng”, anh hỏi thêm chuyện anh dự định mua miếng đất ở thành phố Thanh Hóa có được không?

    Cụ trả lời: - Con cứ mua đi, được đó, mẹ phù hộ cho.

    Anh còn hỏi bạn bè rủ rê con chơi chứng khoán, theo mẹ con có nên không?

    Bà cụ trả lời rất giọng dạc và còn cười rất đắc chí: - Con cứ nghe bạn chơi đi, bạn bè giúp con đó, phát lắm đấy…

    ….6 tháng sau buổi áp vong đầy hân hoan trở về, bỗng dưng chúng tôi nhận được điện thoại của anh tỏ vẻ băn khoăn hoài nghi không biết có phải mẹ anh nhập về hay không, hay có vong nào mạo danh? Nghe giọng anh rất nặng nề, làm tôi cũng hết sức băn khoăn, mẹ anh đã nói và tâm sự như vậy thì còn ai vào đấy nữa? Tôi khẳng định dứt khoát với anh, theo kinh nghiệm của bản thân, tôi dám chắc 100% là mẹ anh.

    Lúc này, anh mới trút bầu tâm sự, sau buổi áp vong về anh đã mua miếng đất đó và sau mới biết miếng đất đó có nhiều vấn đề phức tạp về pháp lý, anh đã phải thua lỗ hơn một tỷ đồng, còn chơi chứng khoán thì mất những 400 triệu…

    Đến lúc này, tôi mới có dịp giãi bày cùng anh, tội cho con cháu đã khiến bà cụ phải trở thành nhà tư vấn bất động sản và chứng khoán bất đắc dĩ.

    Vốn là người thông minh, nhưng là một người nông dân thuần túy, cả đời bà cụ, tôi dám chắc chưa khi nào nghe đến từ chứng khoán, vì bà mất lúc thị trường chứng khoán Việt Nam chưa ra đời, thế mà anh lại đi hỏi và tin lời cụ như là chuyên gia.

    Chúng tôi cho rằng, với “linh hồn” – chúng sinh ở cõi khác trong lục đạo dù còn nhân duyên và có những ảnh hưởng qua lại theo hướng tốt – xấu với cõi Nhân, hiểu nôm na là phù hộ hay làm hại cho con cháu là có. Những điều này chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn ở các kỳ sau, kể cả hiện tượng “linh hồn” về chữa bệnh cho người dương…

    Nhưng chúng ta quá tin vào chuyện đó, là đánh mất sự tự tin của chính mình và như câu chuyện trên thành ra mê tín dị đoan. Có những câu chuyện lại mê tín đến mức, có người lúc sống còn không giải quyết nổi những câu chuyện thực tế, nhưng lúc thác đi lại được các nhà ngoại cảm dỏm, các thanh đồng, tôn thành nhân vật có khả năng can thiệp vào đủ chuyện ở cõi Nhân và các câu chuyện thế sự với một sức mạnh tâm linh phi thường?!

    Trường hợp trên, nếu anh nghĩ bà cụ cũng là một chúng sinh bình thường, như lúc sống, có những việc có thể giúp con cháu, với những giới hạn nhất định, và có những việc là không thể thì mọi việc sẽ khác, trong khi đa số mọi người lại có xu hướng “thần thánh hóa” phần “linh hồn” sau khi chết với những quyền năng lớn hơn lúc sống?

    Điều đó có phần đúng, và có phần sai, chúng tôi sẽ giải thích kỹ hơn vào các kỳ tiếp theo.

    Tại sao đức Phật khuyên không nên giao tiếp với cõi giới khác? Hiểu lời khuyên này như thế nào cho đúng?

    Để trả lời đúng trọng tâm của kỳ này, nên hay không việc gọi hồn, áp vong và quan điểm của Phật giáo ra sao về vấn đề, chúng tôi cho rằng, một số quí Thầy khi trả lời cho quí Phật tử những câu hỏi tương tự thường nói là không nên, vì đa số những người giữ quan điểm này cho rằng, việc giao tiếp với các “linh hồn” không mang lại lợi lạc nào, mà chỉ dẫn đến mê tín, dị đoan…và việc giao tiếp đó, ảnh hưởng đến cả người sống lẫn người đã khuất.

    Việc này làm cho các “thần thức” lại cứ luẩn quẩn và quyến luyến không lợi lạc cho chính họ trong việc đầu thai, tái sinh, kéo dài mãi tình trạng bám kẹt và cố chấp thân xác (hài cốt) nên họ khó có sự tái sinh, chuyển kiếp.

    Chúng tôi lại có cách hiểu, về mặt lý thuyết nhà ngoại cảm có thể “trò chuyện” được với chúng sinh ở tất cả các cõi giới khác, tuy nhiên để giao tiếp được hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đã phân tích ở các bài viết trước.

    Theo nhận thức sơ cơ của chúng tôi, đa số các giao tiếp đó là với chúng sinh ở cõi Atula, cõi Thiên….và họ chính là chúng ta và chúng ta chính là họ.

    Thời đức Phật không khuyến khích những người có khả năng thần thông giao tiếp với họ là ý cắt bớt nhân duyên để tăng bề tinh tấn tu tập, hướng đến con đường giải thoát giác ngộ.

    Đức Phật khuyên các đệ tử là gắng công tu tập, nâng cao hạnh quả…để hồi hướng công đức đó cho khắp tất cả đệ tử và chúng sinh để ai ai cũng có công đức, duyên lành để tu tập.

    Sự giao tiếp du ở bất kỳ cõi nào, kể cả cõi mà chúng ta đang sống cũng không nên giao du với bạn xấu…., song đó là các mối giao duyên không tốt, nói cách khác là không nên chơi với bạn xấu để bị bạn xấu “cải hóa ngược”, còn giao tiếp mà mang lại lợi lạc về đạo Pháp, hay giác ngộ được đối tượng giao tiếp thì dù họ là cõi nào cũng phúc đẳng hà sa….

    Hiểu như vậy, để chúng ta đừng nghĩ các chúng sinh ở cõi vô hình như là gì đó xấu xa chúng ta phải xa lánh họ, cũng đừng thần thánh họ với những quyền năng và khả năng này nọ một cách quá mức thành ra mê tín, hoang đường.

    Hiểu như thế cũng đã trả lời cho câu hỏi nên hay không nên áp vong, gọi hồn và quí vị tự có câu trả lời cho các trường hợp cụ thể của mình…

    Vì bên cạnh những người am hiểu đạo Phật, còn nhiều loại hình thức tín ngưỡng khác, nhận thức khác trong xã hội…

    Đâu phải chúng sinh ở các cõi vô hình, mà ngay trong cõi Nhân cũng có kẻ tốt, người xấu, chúng ta sẽ chọn sự giao tiếp và trò chuyện với ai.

    Tất nhiên, đức Phật cũng khuyên chúng ta chọn người tốt để bạn cùng “đồng tu”, nhưng nếu gặp kẻ xấu mà có duyên có thể giúp họ cải huấn trở thành người tốt thì sao không gặp? – tinh thần Phật pháp là ở đấy chứ ở đâu?!

    Tất nhiên còn tùy thuộc nhiều yếu tố như nhân duyên, khả năng, thời gian, mục đích…và không nhất thiết làm nếu không có hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả về hoằng pháp, trợ duyên giúp họ giác ngộ.

    Có lẽ thấu được nhân duyên của chúng sinh, nên chúng tôi hiểu trong một số câu hỏi của đệ tử: - Đức Phật đã im lặng, không trả lời.

    Thực ra đức Phật không trả lời đã là một cách trả lời Vì, có những điều “bất khả tư nghị”, không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả được, phàm đã “nói” là “sai”, đã “viết” là “sai”.

    Những điều nói, viết chỉ mục đích duy nhất là để chúng sinh tăng tiến phần trí tuệ để hướng đến khai mở trí huệ, khi đã có trí huệ thì chúng ta tự trả lời được những câu hỏi mà đức Phật đã im lặng.

    Sự im lặng ở đây, là một câu trả lời rất uyên thâm, đúng là không chứng không hiểu, không hiểu thì không biết. Đó là “bất khả tư nghị”.

    Đức Phật đã từng khuyên các đệ tử: Có bốn hiện tượng bất khả tư nghị, này tỉ-khâu, bốn trường hợp mà người ta không nên suy ngẫm, đó là: năng lực của một vị Phật (pi. buddhavisaya), Định lực (pi. jhāna-visaya), nghiệp lực (pi. kamma-visaya) và suy ngẫm, tìm hiểu thế giới (pi. lokacintā)…" (Tăng nhất bộ kinh, IV. 77).

    Trong trường hợp tâm linh và ngoại cảm, theo chúng tôi trong một số phẩm đoạn trong các quyển kinh, đức Phật khuyên các đệ tử có khả năng thần thông có thể giao tiếp trò chuyện được với chúng sinh ở các cõi giới khác không nên chạy theo cái “khả năng thần thông” để giao tiếp với họ là vì e rằng chúng sinh đi sai đường, vì mải mê cho cái chứng đó, mà quên mất con đường chính đạo.

    Hơn nữa, hơn ai hết đức Phật đã nhìn thấu căn cơ của chúng sinh, nên nếu khuyến khích thì với căn cơ của đa số chúng sinh sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường? Do vậy, đức Phật đã khuyên không nên giao tiếp, coi trọng cái đó?

    Khi miêu tả về hình dáng, kích thước của chúng sinh trong cõi Atula và một số cõi giới khác, có nhà nghiên cứu cho rằng, các đệ tử sau này khi viết lại lời Phật dạy, vẫn có những lúc có thêm bớt và mượn các hình ảnh trong đạo Bà la môn?! Điều này chúng tôi sẽ phân tích ở nhiều kỳ tiếp theo.

    Đó là cách miêu tả về hình dáng, kích thước chúng sinh,….thậm chí theo quan niệm dân gian Việt Nam thì “trần sao, âm vậy” – nhiều người lại càng tin hơn khi một số nhà ngoại cảm miêu tả “cõi âm” như “cõi trần” vậy, có tổ chức xã hội, có người làm to, kẻ làm nhỏ, có kẻ không có áo cơm và có kẻ giàu sang đầy đủ vàng, bạc, châu báu…

    Chúng tôi không cho rằng miêu tả đó là đúng, nhưng tại sao một số nhà ngoại cảm lại miêu tả như vậy?

    Theo chúng tôi, trình độ giác ngộ của chúng sinh ở các cõi khác, hoặc ngay trong từng cõi cũng ở các mức độ giác ngộ khác nhau, chúng tôi không tin chuyện “trần sao, âm vậy”, nên đã chất vấn một số nhà ngoại cảm và thấy họ bị ảnh hưởng bởi sự hiểu biết của mình rất nhiều (chi phối bởi 5 giác quan thông thường) khi nhìn vào cảnh giới vô hình.

    Bạn đọc có tin không? Đó là quyền của bạn đọc. Để tự rút ra chiêm nghiệm của bản thân, bạn đọc thử trực tiếp phỏng vấn các nhà ngoại cảm có am hiểu đạo Phật, và nhà ngoại cảm chưa am hiểu nhiều về đạo Phật sẽ thấy những so sánh thú vị…..

    Và với các dẫn chứng thực tế, chúng tôi sẽ thử giải thích ở các kỳ tiếp theo những câu hỏi từ thực tiễn, nêu trên.

    Còn về tính chất, tính cách khi miêu tả về chúng sinh ở cõi Atula thì có nét riêng, ít bị ảnh hưởng bởi cái tính chất miêu tả mang tính hình ảnh của tôn giáo khác có trước khi đạo Phật ra đời – với tư cách là một tôn giáo.

    Một trong các nét tính cách đó là, sự hiếu thắng, thích chinh phục…nên khi giao tiếp với con người họ rất hay thể hiện tính cách này, con người nếu mà quá tin vào đó sẽ dẫn đến mê tín, dị đoan và lệch lạc trong nhận thức, trong tư duy giác ngộ đạo Pháp? (ở đây vì tập trung phân tích cõi Atula, nên chúng tôi chỉ nhắc đến cõi này).

    Theo chúng tôi, đức Phật khuyên là không nên có những giao tiếp giữa con người và chúng sinh ở cõi khác là vì hiểu theo cái căn cơ đó của chúng sinh ở từng cõi khác nhau (trừ trường hợp những người có sự hiểu biết và giác ngộ đạo Pháp, thì dù ở cõi nào cũng là trường hợp khác)?

    Còn thực chất, đức Phật không cấm, nếu chúng ta ý thức rõ về sự giao tiếp đó – có mang lại sự lợi lạc nào không, đặc biệt là sự lợi lạc về đạo pháp, sự tinh tấn về đạo hạnh.

    Trong không ít đoạn, phẩm kinh đã miêu tả cảnh nhiều cõi giới, chúng sinh với các căn cơ khác nhau vân du về nghe các vị đại Bồ Tát, đức Phật giảng giải Phật pháp đó sao? Sự giao tiếp vì lý do đạo Pháp như vậy, đức Phật đâu có cấm…

    Trong cuộc sống, chúng ta quan sát và nhận thấy có hai nhóm người có thể giao tiếp với các “linh hồn” theo các cách khác nhau.

    Cách thứ nhất là giao tiếp song đôi, giữa người có khả năng đặc biệt và các “linh hồn”, chủ yếu ở dạng nghe thấy, một ít khác là nhìn thấy,…các trường hợp này đa số là các nhà ngoại cảm…

    Cách thứ hai là qua các hiện tượng nhập vong qua cô đồng, áp vong, gọi hồn…đa số là qua các thanh đồng, ghế đồng….

    Bạn đọc thử so sánh, trong cuộc sống đời thường, loại bỏ yếu tố đạo hạnh, thì giữa các nhà ngoại cảm và các cô đồng, thanh đồng… có điều gì khác nhau? {lưu ý, chúng tôi phân biệt giữa nhà ngoại cảm và các cô đồng, thanh đồng, không như cách đặt vấn đề của một số nhà nghiên cứu, sử dụng thuật ngữ “ngoại cảm” để gọi một số thanh đồng, ghế đồng là nhà ngoại cảm….

    Trong thực tế có người vừa có khả năng ngoại cảm + vừa kết hợp vai trò là ghế đồng, thanh đồng}.

    Điều khác nhau, cơ bản đó là các nhà ngoại cảm về mặt tâm lý, sinh lý họ cũng là những người bình thường (trừ trường hợp cá biệt), còn các thanh đồng, ghế đồng thì như dân gian thường gọi là đồng bóng, hay “ghen như ghen đồng”, “dân đồng bóng”; “chiều như chiều vong”…. “sáng nắng, chiều mưa”…Điều đó có phải do Tâm họ chưa định? Vì sự giao tiếp theo hình thức bị “vong” điều khiển,…nên ảnh hưởng đến đời sống tâm, sinh lý và thể trạng….?

    Sự giải thích đang chờ từ các nhà nghiên cứu.

    Chúng tôi hiểu, lời khuyên của đức Phật trong các trường hợp này thật hữu lý, vì không riêng gì các thanh đồng, ghế đồng, mà ngay cả một số nhà nghiên cứu (lưu ý: một số nhỏ, không phải là tất cả), sau khi tiếp xúc với nhiều cách nói chuyện khác nhau của các “vong linh” cũng đâm ra hoảng loạn, càng tìm hiểu càng không thể hiểu nổi “cõi âm” như thế nào – có 2 nhà nghiên cứu có danh vừa tâm sự, vừa chia sẻ về sự hoang mang với tác giả như vậy khi nhận định về “cõi âm”.

    Sự hoang mang ở đây, cũng dễ hiểu, vì có vong linh khi tiếp xúc về kêu than con cháu “thiêu” cụ nóng quá….thế là nhà nghiên cứu A đã vội kết luận là với người chết không nên thiêu mà nên chọn hình thức địa táng….

    Một thời gian sau, có vong linh khác khi tiếp xúc lại khen là thiêu thì thân xác sạch sẽ, không cảm thấy bị thối, rữa, giun, dế gặm, nhấm,…nên rất hoan hỉ…đến đây, nhà nghiên cứu A quá tin lời của “vong” bắt đầu rơi vào tình trạng không hiểu nổi “cõi âm” là gì? Tại sao trước, sau bất nhất?

    Không riêng những câu chuyện trên mà có vô vàn những câu chuyện khác, có vong về đòi đốt vàng mã, có vong về nói thẳng là không nên, đốt như thế là hoang phí, là mê muội….Tại sao lại như vậy?

    Chúng tôi lại có cách hiểu khác, qua phép quán tưởng, ngay cõi Nhân chúng ta, nếu không phải là bậc giác ngộ rốt ráo thì cho dù là thánh nhân lời của họ nói ra đâu phải đã là chân lý? Một cõi Nhân – như chúng ta thấy có Phật, có Bồ Tát, có Nhà khoa học, có công nhân, nông dân, có người mù chữ, có kẻ ác hơn cả ác quỉ….

    Vậy sao cứ lấy lời của một vài chúng sinh để luận là “cõi âm” thế này, “cõi âm” thế kia….? Liệu có đáng tin cậy không?

    Đó là chưa kể với nhà ngoại cảm, đặc biệt là các thanh đồng, ghế đồng (ở đây loại bỏ hiện tượng lừa đảo) kể cả khi họ giao tiếp thật sự với chúng sinh ở các cõi giới vô hình ít nhiều bị ảnh hưởng bởi nhận thức của chính mình, sự hiểu biết của mình.

    Điều này đã được chúng tôi thực hiện nhiều thí nghiệm, và ở các thanh đồng, ghế đồng cũng có các trạng thái khác nhau như đồng tỉnh, đồng mê, …có lúc dân gian hay gọi là nhập sâu, hay nhập cạn.

    Có phải vì có 3 hồn 7 vía, 3 hồn 9 vía và tùy theo các vía nhập vào ở mức độ nào đó mới có hiện tượng đồng tỉnh, đồng mê không? Điều này, chúng tôi cũng mong các bậc cao minh chỉ giáo.

    Riêng bản thân chúng tôi qua quan sát từ các nhân vật có khả năng ngoại cảm, khả năng gọi hồn, áp vong và từ bản thân mình, chúng tôi hiểu sự ảnh hưởng thông tin trong nhận thức của “chủ thể” là rất cao, sự ảnh hưởng ở đây có 2 trạng thái, ảnh hưởng khách quan (có khi vong nhập vào, bị ảnh hưởng nhưng ghế đồng, thanh đồng không ý thức được sự ảnh hưởng đó) và ảnh hưởng chủ quan (ảnh hưởng mà thanh đồng, ghế đồng ý thức được, song ở trình trạng tự động bị điều khiển, hoặc thanh đồng, ghế đồng chủ động sử dụng ý thức để áp đặt và lẫn lộn tình trạng lời của vong, lời của bản thân đan – xen…

    Đó là một cách để hình dung, thực tế để tả lại trạng thái thân xác mình bị điều khiển bởi “linh hồn khác” quả thật là rất khó diễn tả bằng ngôn ngữ…

    Có phải vậy không, các nhà ngoại cảm, bạn đọc rất muốn nghe các nhà ngoại cảm, đặc biệt là những nhà ngoại cảm nổi tiếng, có am hiểu đạo Phật, hoặc trước đây chưa hiểu lắm, nhưng sau khi tìm hiểu đạo Phật đã có sự thấu hiểu sâu mật hơn, xin mời quí vị lên tiếng, để bạn đọc bớt chút băn khoăn,…Coi đó như thêm một kênh để tham khảo.

    Còn nữa…




    Trân trọng cảm ơn Quí đạo hữu:

    Chúng tôi rất hoan hỉ khi nhận được chất vấn của bạn đọc. Tác giả khởi tâm cầu thị học hỏi từ các bậc cao minh, các nhà tu hành, từ quí đạo hữu và quí vị,…ở các kỳ tiếp theo, tác giả thử đưa ra cách lý giải về những câu hỏi tập trung vào các ý sau:

    “Cõi âm” – theo quan niệm trong dân gian mà nhà ngoại cảm giao tiếp với các “linh hồn”, tương ứng với cõi nào theo cách phân loại của Phật giáo?

    Thánh thần trong quan niệm của đạo Mẫu, đạo Tứ phủ đang ngự ở cõi nào theo cách chia cõi của đạo Phật?

    “Linh hồn” thông minh hơn lúc đang còn thân xác. Tại sao?

    ….Và nhiều câu hỏi khác, toàn những câu “rất khó”, nhưng càng khó càng hay. Sự thắc mắc, nêu câu hỏi của quí vị - chứng tỏ sự quan tâm của quí vị đúng tinh thần Phật pháp, điều đó giúp cho phật tử sơ cơ Giới Minh được thêm phần học hỏi từ quí vị rất nhiều.

    Xin được gửi lời tri ân và lòng cảm tạ, phần luận giải sai Giới Minh xin được lãĩnh nhận, phần đúng – sự lợi lạc (nếu có) xin được gửi tặng cho tất cả quí đạo hữu, quí vị và các bạn.

    Tinh thần của đạo Phật là tinh thần hãy hoài nghi, phản biện, và quan trọng hơn là tu tập theo lời Phật dạy, tự thực chứng, tự rút ra kết luận, tự chiêm nghiệm…

    Giới Minh
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  12. #12

    Mặc định

    Kỳ XII: Ngoại cảm nói chuyện chúng sinh cõi âm, đa số ở cõi Atula

    Kỳ 12: Ngoại cảm nói chuyện chúng sinh cõi âm, đa số ở cõi Atula
    19/11/2010 13:32
    Giới Minh

    Có một số nhận định cho rằng, người “cõi âm” thuộc chúng sinh Thân trung ấm. Chúng tôi cho rằng nhận định đó không sai, nhưng chưa đủ.

    Chúng tôi không bao giờ đặt vấn đề người cõi âm thuộc chúng sinh Thân trung ấm, vì sao: Vì cõi âm theo quan niệm dân gian bao trùm lên tất cả 6 cõi trong Lục đạo.

    Vấn đề mà nhiều bạn đọc băn khoăn là lâu nay nhà ngoại cảm trò chuyện được với “linh hồn” ở cõi âm trong quan niệm dân gian tương ứng với cõi giới nào trong Lục đạo luân hồi (theo quan niệm của Phật giáo).

    Trước khi giải thích, chúng ta phải làm rõ khái niệm cõi giới trong quan niệm dân gian Việt Nam và quan niệm của đạo Phật là khác nhau, khác nhau cả về khái niệm, khác nhau cả về nội hàm.

    Một số tôn giáo như đạo Công giáo, Tin lành, Hồi giáo….quan niệm con người là sản phẩm của chúa Trời, và sau khi chết thì “linh hồn” có thể trú ngụ ở một trong 2 cõi giới tương ứng, đó là Thiên đường hoặc Địa ngục.

    Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung và tín ngưỡng của một số Tôn giáo mang yếu tố thuần Việt như đạo Mẫu, đạo Tứ phủ….quan niệm sau khi chết, linh hồn con người trú ngụ ở cõi âm, còn đang sống ở trần gian là cõi dương.

    Quan niệm này xuất phát từ tín ngưỡng về Cha trời (dương) và Mẹ đất (âm) kết hợp hai chiều âm & dương để sản sinh ra muôn vạn vật, trong đó có con người.

    Con người sau khi chết (sau cái chết về vật lý & sinh học) theo quan niệm của Phật giáo thì trong một giai đoạn nào đó (vì đạo Phật không công nhận linh hồn là bất tử, mà chỉ là một giai đoạn của chu kỳ luân hồi) tương ứng vào một trong các cõi giới trong Lục đạo (giai đoạn Thân trung ấm, cõi Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, Nhân, Atula, Thiên)

    {Lưu ý, nội dung trong Kỳ này chưa phân tích các cảnh giới của Tứ thánh quả, Niết bàn}.

    Quan niệm của đạo Phật khác với quan niệm của các tôn giáo như Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo…là về tính “vĩnh cửu” của linh hồn sau khi chết. Phật giáo quan niệm Linh hồn” là dòng chảy liên tục của các trạng thái khác nhau của đời sống của chúng sinh trong Lục đạo. Chỉ khi nào tu hành đắc đạo, chấm dứt được dòng sinh – tử thì mới thoát ra khỏi dòng luân hồi của lục đạo.

    Như vậy, nếu đưa khái niệm cõi âm trong quan niệm dân gian Việt Nam vào qui chiếu với Lục đạo của đạo Phật thì cõi âm bao trùm lên cả 6 cõi trong lục đạo. Vì con người sau cái chết, trong một giai đoạn nhất định (đang xét) thì có thể đang ở giai đoạn Thân trung ấm, có thể đã đầu thai tái sinh vào một trong 6 cõi của Lục đạo. Trong khi quan niệm dân gian chỉ gọi chung, trạng thái của “linh hồn” sau khi chết là cõi âm.

    Quan niệm của Phật giáo:

    Sau cái chết = linh hồn - “thần thức” - chúng sinh có thể thuộc cõi Địa ngục, Ngã quỉ, súc sinh, Nhân, Atula, Thiên hoặc giai đoạn Thân trung ấm. (1)

    Quan niệm của tín ngưỡng dân gian Việt Nam:

    Sau cái chết = linh hồn = cõi âm (ma, quỉ, thần, thánh….) (2)

    Như vậy, so sánh giữa (1) & (2), có thể khẳng định, quan niệm cõi âm trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam bao trùm lên cả 6 cõi của Lục đạo, đến đây có chút mâu thuẫn, vì theo đạo Phật sau khi chết con người có thể đầu thai lại thành Người (nếu xét theo quan niệm tín ngưỡng dân gian Việt Nam thì Người lại không thuộc cõi âm). Sở dĩ có điều “lệch pha” như trên, là vì:

    Dùng khái niệm của hệ qui chiếu này giải thích về hệ qui chiếu khác, khi chưa làm rõ cách hiểu, nội hàm của khái niệm, thì theo chúng tôi, đó không phải là phương pháp luận logic và khoa học.

    Chính vì dùng hệ qui chiếu này để hiểu hệ qui chiếu khác, mà chưa làm rõ khái niệm, nội hàm nên đã có không ít nhầm lẫn xảy ra trong quá trình tiếp cận vấn đề để nghiên cứu về tâm linh và ngoại cảm của không ít nhà khoa học.

    Ở đây, chúng tôi cũng lưu ý thêm, tuy tín ngưỡng dân gian Việt Nam không đề cập đến linh hồn đầu thai, tái sinh, nhưng trong rất nhiều ví dụ và câu chuyện kể lại có yếu tố tái sinh, đầu thai, chuyển cõi, như ở cõi Thiên đầu thai xuống trần gian (cõi Nhân),….Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa âm sinh ra dương, người cõi âm đàu thai, cực âm (- -) sinh ra dương (- ), dương hợp nhất âm (- - -) sinh ra muôn vạn vật, cũng thật triết lý.

    Nhà ngoại cảm trò chuyện, với đa số trường hợp là chúng sinh ở cõi Atula. Vì sao?

    Câu hỏi được nhiều người quan tâm là lâu nay nhà ngoại cảm trò chuyện được với “linh hồn” thì “linh hồn” đó thuộc chúng sinh cõi giới nào theo quan niệm của đạo Phật.

    Trước hết, chúng tôi cũng nhắc lại khái niệm trong dân gian về “linh hồn”, đó là một cách gọi chung nhất, ngoài ra để chỉ các cấp độ về quyền năng và khả năng khác nhau của “linh hồn” thì có các cách gọi như: Ma, quỉ, vong linh, hồn linh, hương linh, Thần, Thánh,…

    Còn với Phật giáo vì không chấp đoạn, mà xét trong tính luân hồi liên tục nên chúng ta thống nhất cách gọi là chúng sinh, tương ứng với 6 cõi giới khác nhau, và một giai đoạn đặc biệt, sau khi chết, trong vòng 49 ngày được gọi là giai đoạn Thân trung ấm.

    Giai đoạn này có người sau khi chết không trải qua, mà ngay lập tức đầu thai vào các cảnh giới khác, có người kéo dài hơn 49 ngày – nhưng đó là các trường hợp cá biệt và đặc biệt, còn thông thường với đã số trường hợp thì sau 49 ngày là “linh hồn” tức “thần thức” đó đã đầu thai vào cõi Súc sinh, cõi Nhân hoặc “Thần thức” đó đang trải qua kiếp sống của chúng sinh ở một trong 4 cõi (Địa ngục, Ngã Quỉ, Atula, Thiên).

    Sở dĩ chúng tôi làm rõ và có sự so sánh các khái niệm giữa quan niệm dân gian bản địa và quan niệm của đạo Phật là để hiểu đạo Phật vào Việt Nam có sự giao thoa, ảnh hưởng bởi tín ngưỡng bản địa, cho nên với các Phật tử khi thấy các hiện tượng như ngoại cảm, gọi hồn, áp vong, nhà ngoại cảm trò chuyện với cõi âm….đều có một sự liên hệ xem nó tương ứng với điều gì trong quan niệm của đạo Phật? Đó là một sự liên hệ thường trực.

    Trở về thời đức Phật, trước khi đức Phật Thích Ca đắc đạo, thì ở Ấn Độ tôn giáo chủ đạo lúc đó là đạo Bà La Môn, nên khi các đệ tử, các học trò, và kẻ ngoại đạo hỏi đức Phật, đức Phật cũng thường mượn các hình ảnh trong đạo Bà Là Môn để giải thích cho các học trò hiểu, …và do vậy, không có gì ngạc nhiên khi trong nhiều quyển kinh của Phật giáo, có rất nhiều ví dụ, khái niệm, thuật ngữ của đạo Bà La Môn ở trong đó. (Về những luận điểm này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích ở một bài viết khác)

    Chúng tôi, có phân tích vài luận điểm như vậy để hiểu là về nghi lễ tôn giáo, có thể đâu đó có những điều khúc xạ so với thời đức Phật ở hình thức nghi lễ, các hình ảnh ẩn dụ, minh họa về các cõi giới, qua các lăng kính tín ngưỡng, nhận thức để hình thành các nghi lễ và biểu tượng nghi lễ khác nhau, mặc dù đều gọi là đạo Phật.

    Đó là cái vỏ bề ngoài của tôn giáo – nếu hiểu đạo Phật với tư cách là một tôn giáo. Trong khi với chúng tôi lại đề cao đạo Phật ở góc độ minh triết, góc độ tư duy, góc độ bản thể mà muốn chứng phải tu, không có con đường nào khác. Những luận điểm gốc căn bản ưu trội của đạo Phật so với các tôn giáo khác, theo chúng tôi thì có rất nhiều những tựu chung lại là bộ 3 của các hệ qui luật: Luật Luân hồi, Vô thường, Nhân – Quả….

    Trở về câu hỏi lâu nay, nhà ngoại cảm trò chuyện với “linh hồn” – chúng sinh, thì chúng sinh đó tương ứng với cõi nào trong lục đạo theo quan niệm của Phật giáo. Đó là một trong những hình ảnh dễ bắt gặp nhất trong thực tiễn, nên có nhiều quí Phật tử đã hỏi các quí Thầy và các quí thầy cũng có những cách trả lời khác nhau, trong các cách trả lời khác nhau đó, đa số các ý kiến tập trung vào hai luận điểm chính…

    Luận điểm thứ nhất: Cho rằng nhà ngoại cảm trò chuyện với các chúng sinh ở cõi âm theo quan niệm dân gian là tương ứng với chúng sinh cõi Atula theo quan niệm của đạo Phật.

    Luận điểm thứ hai: bác bỏ luận điểm nhứ nhất và cho rằng nhà ngoại cảm chỉ trò chuyện với chúng sinh đang ở giai đoạn Thân trung ấm….

    Chúng tôi với tri thức nhỏ bé, và là một Phật tử có niềm tin mạnh liệt với đạo Phật, nhưng trình độ giác ngộ còn sơ cơ, có nhận định:

    Những người tu hành chứng đắc thần thông ngay tại kiếp hiện tại thì thường đạo quả sâu dày miên mật, do vậy độ “chứng” của thần thông thường hiểu là sự kết hợp giữa chứng về nội dung và hình thức biểu hiện ra ngoài.

    Còn với nhà ngoại cảm thì là “quả” của “nhân” từ kiếp trước, nên việc chứng là hệ quả hồi dư từ kiếp quá khứ, do vậy, nặng về tính hiện tượng – tức là có khả năng thần thông như nghe thấy, nhìn thấy…một phần không liên tục của các cõi giới khác, nhưng tâm vẫn chưa định, thậm chí “chứng về hiện tượng” nhưng chưa hiểu về bản chất….(xem phân tích ở Kỳ VI)

    Do vậy, về mặt lý thuyết, nhà ngoại cảm có thể trò chuyện được với tất cả các “linh hồn” – chúng sinh ở trong cả 6 cõi Lục đạo và giai đoạn Thân Trung ấm.

    Tuy nhiên, theo chúng tôi đã số (đa số chứ không phải là tất cả) các cuộc trò chuyện mà lâu nay trong dư luận xã hội quan niệm và chúng ta ghi nhận được là với chúng sinh thuộc cõi Atula…các trường hợp đặc biệt khác là thuộc chúng sinh ở các cõi địa ngục, Ngã quỷ, Thiên.

    Trường hợp đặc biệt khác là chúng sinh đã đầu thai thành Người, Súc sinh có thân xác vật lý và sinh học thì nhà ngoại cảm phải gặp trực tiếp (Nhân) hoặc chứng Tha tâm thông để hiểu được Tâm của muôn loài để có thể trò chuyện được với chúng sinh ở cõi giới súc sinh.

    Một số quan niệm cho rằng, nhà ngoại cảm chỉ trò chuyện được với chúng sinh ở giai đoạn Thân Trung Ấm, vì dựa trên các lập luận như:

    Theo các nhà ngoại cảm mô tả khi gặp các “linh hồn” – chúng sinh thì thấy cảnh người cõi âm trước khi chết ra sao, bị thương cụt tay, cụt chân như thế nào, chú bộ đội cầm súng ra sao,….vẫn còn cảnh người sao – âm vậy, nên chúng sinh như vậy thì chỉ có trong giai đoạn Thân trung ấm.

    Nhà ngoại cảm chưa bao giờ thấy Địa ngục (dẫn lời chị Phan Bích Hằng), chưa thấy các cảnh giới khác như cõi Thiên, cõi Atula, cõi Ngã quỉ….Nên những chúng sinh mà nhà ngoại cảm trò chuyện được chỉ có thể là đang trong giai đoạn Thân trung ấm.

    Có ý kiến lại cho rằng, vì có việc nhà ngoại cảm trò chuyện được với “linh hồn” cách đây hàng trăm năm, hàng ngàn năm nên chúng sinh đó đang kéo dài tình trạng Thân trung ấm, mà chưa tái sinh ở các cõi khác trong lục đạo, nhưng họ vẫn là chúng sinh, nên nhà ngoại cảm vẫn có thể trò chuyện được.

    Trong khi lại có ý kiến cho rằng, theo kinh sách Phật giáo với đã số trường hợp thì sau 49 ngày là linh hồn đã đầu thai nhưng vì Việt Nam có phong tục thờ cúng ông bà tổ tiên, nên có lẽ đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc “thần thức” còn quyến luyến và họ bám chấp vào đó, quyến luyến người thân, nên kéo dài tình trạng Thân trung ấm mà chưa thể tái sinh vào các cảnh giới khác.

    Cũng có nhận định như tác giả khi trích Kinh sách về cõi Atula với các miêu tả chúng sinh ở cõi Atula sinh ra từ trứng của loài Rồng, nên không có nguồn gốc từ loài người, và do đó không thể có chuyện chúng sinh ở cõi Atula là thân nhân những người nhờ nhà ngoại cảm trò chuyện được….

    Lại cũng có nhận định cho rằng, đã đầu thai thành chúng sinh ở cõi giới khác thì họ đã quên hết thông tin quá khứ, làm sao mà có thể quyến luyến và biết về kiếp trước để có thể nói chuyện được với nhà ngoại cảm, nhập “linh hồn” về để trò chuyện về kiếp trước (tức khi còn sống ở cõi trần gian) với thân nhân được….

    Với tất cả những lập luận theo các ý trên, chúng tôi lại có cách hiểu khác những cách hiểu trên, và do vậy chúng tôi có nhận định khác về chuyện lâu nay nhà ngoại cảm không phải trò chuyện với chúng sinh đang ở giai đoạn Thân Trung ấm mà là ở cõi Atula…đó là chủ yếu (chiếm đa số), chúng tôi không loại trừ kể cả chúng sinh ở cõi giới khác theo hai phương diện.

    Phương diện thứ nhất là về mặt lý thuyết, nhà ngoại cảm có thể trò chuyện được với bất kỳ chúng sinh cõi giới nào, khó khăn hơn cả là với cõi giới Thân Trung ấm…

    Phương diện thứ hai là do đặc thù của chúng sinh ở cõi Atula và chúng sinh cõi Nhân là có ảnh hưởng qua lại và cũng có nhiều đặc tính gần nhau nhất so với các cõi còn lại trong lục đạo. Đó là xét trên bình diện chung, không xét riêng lẻ một, vài trường hợp, hoặc câu chuyện cá thể, riêng biệt của một vài chúng sinh. (điều này chúng tôi sẽ đi sâu giải thích ở những Kỳ sau của loạt bài viết)

    Để phân tích kỹ từng luận điểm, trước hết chúng tôi xin nhắc lại trong Phật giáo không chấp thường và không chấp đoạn, chính vì vậy trong Lục đạo Luân hồi chỉ có cõi Nhân và cõi Súc sinh, chúng ta (con người) có thể cảm nhận được bằng các giác quan thông thường, còn 4 cõi còn lại là cõi Ngã Quỉ, địa ngục, Atula và Thiên là các cõi vô hình. Vô hình mà không phải là vô hình. Vô hình là vô hình trước các giác quan thông thường, còn với những người chứng đắc thần thông, và có khả năng ngoại cảm thì đã nhìn thấy, nhận thấy, biết thấy một phần nhiều hay ít tùy vào khả năng, có nghĩa là đã không còn là vô hình. Tuy các cõi giới đó chưa phải là vi tế nhất nhưng qua đó cũng cho phép chúng ta hình dung ra sự diệu kỳ trong quan niệm sắc – sắc không – không của Phật giáo.

    Không riêng gì giới cư sĩ, tu sĩ, và Phật tử quan tâm tìm hiểu xem chúng sinh mà lâu nay nhà ngoại cảm giao tiếp được thuộc tình trạng Thân trung ấm hay cõi Atula, hay còn thuộc cõi giới nào khác, và thực sự “linh hồn” có tồn tại hay không cũng là điều mà các nhà khoa học cũng rất quan tâm.

    Ở góc độ khoa học, có 3 dòng quan điểm:

    Dòng quan điểm thứ nhất của một số nhà khoa học tự nhiên khi nghiên cứu về ngoại cảm, tâm linh thì cho rằng, “linh hồn” là phi vật chất và không thể phủ định chuyện có “linh hồn” mà bằng chứng qua thực nghiệm thì rất nhiều. Và do là phi vật chất nên không thể tiếp cận bằng các thí nghiệm khoa học theo kiểu đúng với mọi trường hợp trong từng điều kiện cụ thể như nhau. Chỉ có qua thực nghiệm thực tiễn, nhưng cũng không thể rút ra các quan niệm chung nhất để định nghĩa về “linh hồn” và chứng minh được sự tồn tại của linh hồn ở góc độ của khoa học.

    Tiêu biểu cho dòng quan điểm này là cách đặt vấn đề của một số nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người và UIA, cùng một số nhà nghiên cứu độc lập khác.

    Với dòng quan điểm này chúng tôi nhận thấy, họ cũng sẽ bế tắc, vì một mặt thì coi “linh hồn” là phi vật chất, nhưng khi cố gắng tiếp cận và giải thích thì lại dùng các thuật ngữ và kiến thức của vật lý, sinh học để qui chiếu như: vòng tròn năng lượng, năng lượng của vong, bức xạ tàn dư, trường năng lượng, phả hệ ADN, gen, cấu trúc lượng tử của linh hồn,….

    Dòng quan điểm thứ hai tin là có linh hồn song lại cố gắng giải thích theo góc độ “linh hồn” cũng là một dạng vật chất đặc biệt, và do vậy có thể đến một giai đoạn nào đó, khoa học sẽ chứng minh được sự tồn tại của linh hồn.

    Theo chúng tôi việc định nghĩa “linh hồn” là vật chất hay không phải là vật chất cũng không quá quan trọng, vì sao. Vì khái niệm như thế nào là vật chất, biết đâu sau này khi tư duy khoa học phát triển, tầm nhận thức của nhân loại được nâng lên thì việc đặt lại định nghĩa là hoàn toàn có thể.

    Do vậy, khi không câu chấp về câu chữ và giới hạn bởi các khái niệm do chính con người đặt ra thì mọi việc sẽ được giải quyết nhẹ nhàng hơn. Về mặt khoa học chúng tôi nhận thấy tư duy đặt vấn đề như dòng quan điểm này có tính chặt chẽ và khoa học so với dòng quan điểm thứ nhất.

    Dòng quan điểm thứ ba thì cho rằng không tồn tại linh hồn, và “linh hồn” là sản phẩm bịa đặt, sản phẩm của niềm tin, thực tế “linh hồn” không tồn tại.

    Tiêu biểu cho dòng quan điểm này là Đại tá, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường, công tác tại Viện Vật lý Y Sinh học - Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng trong một bài trả lời phỏng vấn đăng trên VietnamNet.

    Chúng tôi không đồng quan điểm về nhận định của Ts.Đỗ Kiên Cường khi khẳng định ngoại cảm không nói chuyện được với “linh hồn” và “linh hồn” là sản phẩm của niềm tin, nó không tồn tại.

    Dù vậy, ở góc độ xã hội, chúng tôi đánh giá rất cao cách đặt vấn đề của nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường, bạn đọc có thể tìm đọc trên mạng các bài viết phản biện về ngoại cảm, ngoại cảm không có thật của Ts. Đỗ Kiên Cường để tham khảo thêm.

    Trình độ nhận thức của xã hội thì khác nhau, trong khi hiện tượng tâm linh và ngoại cảm nở rộ nên đã có không ít nhà ngoại cảm dỏm, khả năng có một thì hoang tưởng thành mười, cũng như có không ít điều bịa đặt, kiếm tiền, trục lợi trên niềm tin của nhân dân, đồng bào. Đó là điều hết sức đáng lên án.

    Với nhân dân thì họ chỉ biết tin vào các cơ quan chính thức nghiên cứu như Trung tâm NCTNCN và UIA để họ dặt niềm tin, nên chúng tôi biết có không ít nhà ngoại cảm đã mạo danh là người của hai cơ quan trên khi in danh thiếp để gây niềm tin và trục lợi trong quá trình tư vấn tâm linh cho không ít người. Trong thực tế qua tìm hiểu của chúng tôi, tại hai cơ quan trên không nhà ngoại cảm nào công tác tại đó, chỉ có một số nhà ngoại cảm cộng tác để làm các đề tài, và sau đó họ đi đâu, làm gì thì không thuộc sự quản lý và thẩm định của hai cơ quan trên.
    Trong bài phỏng vấn, có đoạn nhà ghiên cứu Đỗ Kiên Cường nhận định: “Có nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là không ai trong nhóm tác giả có kiến thức cần thiết về ngoại cảm. Tôi khẳng định như vậy vì sau đó tôi đã gặp một phó giám đốc một trung tâm nghiên cứu chuyên về tiềm năng con người, còn viện trưởng một viện nghiên cứu thì nhờ tôi tìm tài liệu. Chính vì thiếu kiến thức chuyên ngành nên họ không thiết kế được thí nghiệm có kiểm soát và bị nhà ngoại cảm “làm xiếc”.
    Chúng tôi cho rằng nhận định này và nhiều nhận định khác của Ts.Đỗ Kiên Cường tại đường link http://vietnamnet.vnhttp//www.vietim...078/index.viet là cũng hết sức đáng lưu ý.

    Vì qua quan sát, đọc một số đề tài nghiên cứu được thẩm định và thông qua Hội đồng khoa học, cũng như chưa được thông qua…chúng tôi nhận thấy, đa số các đề tài của hai cơ quan nghiên cứu nêu trên mới ở dạng ghi chép, và phản ánh lại các hiện tượng tâm linh và ngoại cảm, chưa có yếu tố nghiên cứu, phản biện và xây dựng tư duy tiếp cận theo đúng tên gọi là nghiên cứu tâm linh và ngoại cảm.

    Chúng tôi cũng nhận thấy sự dễ dãi trong nghiên cứu, sự đề cao quá mức của các nhà khoa học có tên tuổi trước các hiện tượng lạ, hiện tượng ngoại cảm, sự tâng bốc quá lên của báo chí đã có phần nào đó góp phần để một số nhà ngoại cảm, người có khả năng đặc biệt, có khả năng lạ đi quá xa….và biến thái quá mức.

    Đáng tiếc, khi thấy thực tiễn như vậy, cộng với vốn không tin linh hồn tồn tại, và cố gắng khoa học hóa và chứng minh “linh hồn” theo các thí nghiệm đúng với mọi tiêu bản, mọi thí nghiệm như qui trình thí nghiệm của môn sinh học, vật lý,…và thấy ngoại cảm không đạt tiêu chuẩn đó, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường đã phủ định hiện tượng tâm linh, ngoại cảm và không tin là có linh hồn.
    Chúng tôi thuộc dòng quan điểm thứ tư, vì chúng tôi muốn dung thông góc nhìn biện chứng của khoa học, tư duy thực chứng của Phật giáo, phép quán tưởng và suy luận logic của cả khoa học và Phật giáo. Tiêu biểu đi theo dòng này, chúng tôi tạm mượn lời của nhà bác học trác kiệt, uyên thâm Albert Einsein.
    "Nếu có một tôn giáo nào tương hợp khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".
    "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein].
    Để hiểu vì sao chúng tôi chọn Phật giáo để giải thích về hiện tượng tâm linh, ngoại cảm không phải là một tư duy tình cảm tôn giáo mà là tư duy khoa học và vượt lên trên khoa học (mời bạn đọc, đọc kỳ VII đã đăng).

    Chúng tôi tin có “linh hồn” tồn tại, và lâu nay nhà ngoại cảm có thể trò chuyện được với chúng sinh ở các cõi giới khác là có thật. Và trong kỳ XII và XIII chúng tôi sẽ phân tích và phản biện lại các luận điểm nhận định chúng sinh cõi âm mà lâu nay nhà ngoại cảm trò chuyện được thuộc giai đoạn Thân trung ấm, để hầu mong các bậc cao minh chỉ giáo, để Phật tử sơ cơ Giới Minh được đặng bề học hỏi.

    Về luận điểm thứ nhất, nhận định:

    Theo các nhà ngoại cảm mô tả khi gặp các “linh hồn” – chúng sinh thì thấy cảnh người cõi âm trước khi chết ra sao, bị thương cụt tay, cụt chân như thế nào, chú bộ đội cầm súng ra sao,….vẫn còn cảnh người sao – âm vậy, nên chúng sinh như vậy thì chỉ có trong giai đoạn Thân trung ấm.

    Nhà ngoại cảm chưa bao giờ thấy địa ngục (dẫn lời chị Phan Bích Hằng), chưa thấy các cảnh giới khác như cõi Thiên, cõi Atula, cõi Ngã Quỉ….Nên những chúng sinh mà nhà ngoại cảm trò chuyện được chỉ có thể là đang trong giai đoạn Thân trung ấm.

    Trước khi phản biện luận điểm trên, chúng tôi lưu ý phương pháp tiếp cận tâm linh, ngoại cảm…để tin hay không thì tùy theo “niềm tin” đó là quyền của mỗi cá nhân. Nhưng trước khi tin hãy “hoài nghi” và tự sự hoài nghi hãy cố gắng tiếp cận các nhà ngoại cảm để kiểm chứng đừng vội tin ngay, vì do họ kể lại như vậy, hay do báo chí đăng như thế…Theo chúng tôi đó là một cách tiếp cận để chí ít là chúng ta xem về mặt hiện tượng có đúng không? Có phải vậy không? Nếu về mặt hiện tượng mà cũng bị nâng lên quá mức, thành hoang đường thì hậu quả sẽ rất tai hại, mà điều này theo chúng tôi là có rất nhiều.

    Với nhận định trên, chúng tôi chưa ghi nhận được bất cứ một nhà ngoại cảm nào thấy được cảnh giới của 4 cõi (Địa ngục, Ngã quỉ, Atula, Thiên, và giai đoạn thân trung ấm) để có thể khẳng định chúng sinh đó thuộc cõi nào. Nhà ngoại cảm nào muốn phản biện và khẳng định là họ đã thấy và biết được chúng sinh nào thuộc cõi nào, và “cõi âm” ra sao, xin mời lên tiếng? Chúng tôi sẵn lòng lắng nghe.

    Chúng tôi chỉ là một Phật tử sơ cơ, chưa đủ sự giác ngộ - khai mở được trí huệ để có thể chứng minh được là nhà ngoại cảm nào chứng được Túc mệnh thông, Tha tâm thông (vì theo nguyên tắc chỉ có người giác ngộ cao hơn, mới chứng được quả vị cho người giác ngộ thấp hơn).

    Do vậy, nếu có Phật tử nào hỏi là Giới Minh đã biết và gặp ai chứng được quả vị Túc mệnh thông, Tha tâm thông.. chưa thì chúng tôi đành chịu (mang tính kết luận khẳng định). Vì biết đâu có những người quanh ta chứng được khả năng này, mà ta chưa nhận ra đó thôi???

    Nhưng chúng tôi đủ hiểu biết để bác bỏ được sự hiểu sai lệch hay mạo danh là chứng được các quả vị đó của bất kỳ một nhà ngoại cảm nào (mang tính kết luận phủ định), nếu họ tuyên bố là như vậy, và với những hình ảnh mà họ kể lại về cõi âm cõi như họ đã từng thấy?

    Vì sao, họ chưa thấy 4 cõi giới đó, và cả giai đoạn Thân Trung Ấm ra sao, xin thưa! Là vì 2 sở cứ sau:

    Sở cứ thứ nhất, nếu chứng được Tha tâm thông, Túc mệnh thông thì họ sẽ hiểu được các cảnh giới vô hình phát khởi từ tâm của chúng sinh, và do vậy những người chứng được quả vị này, họ sẽ thấy được cảnh giới của Tâm một cách bản thể và chân thân, và do vậy họ không mô tả cõi âm như một số nhà ngoại cảm đã mô tả.

    Sở cứ thứ hai, là vì khả năng ngoại cảm của một số nhà ngoại cảm mới ở mức sơ cơ, và là Quả (chứng) của Nhân (tu kiếp trước) qua một tác nhân nào đó (tác nhân này thuộc vào một trong 4 điều mà đức Phật đã dặn với căn cơ của chúng sinh thì bất khả tư nghị) để nảy sinh = khả năng ngoại cảm (mà khả năng này lại không liên tục, mới được vài phần của những quả vị ngoại cảm, ngay trong một quả vị cũng không liên tục, bị gián đoạn).

    Điều mà lâu nay nhà ngoại cảm thấy, như chú bộ đội trước lúc hy sinh ra sao, người trước khi chết họ bị cụt tay thì nhà ngoại cảm thấy họ bị cụt tay tương ứng như vậy, hay cụ già tóc dai, bạc phơ….họ tả lại cho con cháu và con cháu thấy đúng. Đừng vì thấy đúng như vậy mà vội suy là trần sao, âm vậy. Hay thấy họ có hình dáng gần gũi với lúc sống, nên vội suy luận chỉ có thể là giai đoạn Thân Trung ấm, chứ còn đã tái sinh vào cõi Atula, địa ngục, Ngã quỉ hay Thiên thì hình dáng phải khác…nhìn nhận như thế là sai biệt.

    Vì, trong 6 cõi của Lục đạo trừ hai cõi Nhân, Súc Sinh là có thân xác vật lý và sinh học, còn 4 cõi còn lại và giai đoạn Thân Trung Ấm là cảnh giới của Thần thức, không có hình dáng cố định và tương đối ổn định như tưởng tượng của chúng ta. Nghiệp lực qui định cảnh giới tương ứng của họ một cách Automatic (tự động) theo đúng định lực Nghiệp – Quả, nên làm gì có thân xác, hình dáng mà chúng ta mô tả….

    Hệ qui chiếu ở 4 cõi đó là hệ qui chiếu khác với hệ qui chiếu của cõi Nhân, trường hợp chúng ta muốn thấy hình dáng của họ thì tùy theo định lực và nghiệp quả Phước của “linh hồn” – chúng sinh đó của các kiếp quá khứ, họ có thể thị hiện thành bất kỳ hình dáng nào – điều đó gọi là thị hiện, hiển linh (như các vị Bồ Tát hóa thân vào các cõi giới, cảnh giới khác nhau).

    Tuy nhiên, ở đây đang xét trong Lục đạo, ở các mức độ khác nhau, “linh hồn” đó cũng có thể có các cách thị hiện với các hình ảnh, mức độ khác nhau (không phải “linh hồn” – chúng sinh nào cũng thực hiện được, cái này là do nghiệp lực qui định). Trong dân gian Việt Nam có cách hiểu rất hay, và theo chúng tôi là không thể hay hơn khi dùng từ hiển linh, sự linh ứng, hiển linh tương ứng bằng một hình ảnh nào đó, để có sự linh ứng thì tùy thuộc vào nghiệp lực và Phước của “linh hồn” đó.

    Dân gian dùng từ “hiển linh” là để chỉ các vị đã hóa Thần, hóa Thánh theo quan niệm dân gian, ma quỉ, vong cũng có những hình thức hiển linh khác nhưng thường được mô tả là các hình ảnh xấu xí, như quỉ đói thì bụng to, cổ nhỏ, miệng nhỏ, hay như trong kinh sách miêu tả là thấy cảnh chúng sinh ở cõi địa ngục đau khổ bê bát cơm lên ăn thì bị quỉ đói cướp, rót lửa vào mồm, dùng kìm bẻ răng không cho ăn ….

    Trong dân gian thì mô tả hình phạt của Diêm Vương,…như bỏ vào vạc dầu…tất cả những hình ảnh đó là cách mô tả cái “thần thức” đó đang chịu nghiệp lực đau khổ như vậy trong Tâm (thần thức) chứ không phải là có cảnh giới thật như vậy, hiểu theo nghĩa ngoại cảnh tác động, cảnh giới đó hay cảnh giới sung sướng ở cõi Thiên là cảnh giới của “thần thức” – không phải là cảnh giới mà chúng ta cảm nhận được bằng các giác quan thông thường. Sự miêu tả bằng hình ảnh về lục đạo, bằng ngôn ngữ diễn tả là để chúng ta hiểu và hình dung. Ở đây cần tư duy quán tưởng để hiểu được tâm ý đó.

    Cùng suy ngẫm: “Khai quyền thì phương tiện có muôn pháp, hiển thật thì hội ngộ về một tâm”; “Diệu lý của Phật pháp chẳng dính dáng gì đến văn tự ngôn ngữ, bặt hết mọi hý luận, bản tế trong lặng tròn đầy, ba đời chư Phật cuối cùng đành ngậm miệng không lời, nhiều đời chư tổ rốt ráo cũng im hơi lặng tiếng. Nên Đức Thế Tôn giơ cành hoa chỉ cho đại chúng, ngài Ma-ha-ca-diếp khế hội mỉm cười, thầy trò bốn mắt nhìn nhau, huệ nhãn chiếu sáng lẫn nhau, thầm lặng ấn tâm, phó pháp truyền y nối vị Tổ” (trích lời Thiền Sư Chân Nguyên).

    Tuy nhiên, với trường hợp các nhà ngoại cảm cảnh giới cõi âm đã số là không phải sự “hiển linh” mà thấy quá khứ của “linh hồn” – chúng sinh đó, nên mới thấy cảnh cụt tay, cảnh cầm súng, cảnh người già trước lúc chết thì con cháu tề tựu ra sao….tất cả hình ảnh đó không phải là hình ảnh hiện tại của chúng sinh đó, mà là hình ảnh quá khứ lúc còn sống, lúc gần chết, và sau khi chết một thời gian ngắn…Điều đó có khác gì chúng ta xem lại một đoạn phim, một cuốn phim về nhân vật đó, mà chúng ta không biết hiện tại nhân vật đó ở cõi giới khác ra sao?!

    Trong cuộc đời này, chúng ta làm gì, dù là hình ảnh nhỏ nhất, vi tế nhất, sau khi chúng ta chết, nó đều tái hiện lại và “thần thức” phải đối diện với tất cả những điều đó, chính nó chứ không phải ai khác quyết định cảnh giới mà linh hồn sẽ tái sinh. Bằng một tác nhân nào đó (tác nhân này đức Phật đã dạy là bất khả tư nghị, nếu không khai mở được trí huệ để giác ngộ thì không thể luận bàn bằng lời, bằng ngôn ngữ) nên tác giả không thử giải thích ý đó trong bài viết này.

    Trên cơ sở đó, chúng ta tưởng tượng cảnh mà các nhà ngoại cảm thấy lại như một đoạn phim của quá khứ (chính điều này như tác giả đã có lần phân tích là có một số nhà ngoại cảm ở VN thấy được một phần của kiếp trước của chúng sinh đó).

    Trong dòng chảy bất tận và luân hồi (lặp đi lặp lại) của dòng “tâm thức” đó, đa số nhà ngoại cảm thường mượn ảnh, xem ảnh của người chết, hay xem lại một di vật như quyển sổ, chiếc lược, hay có thân nhân…..đi cùng là vì để cắt ngang một đoạn trong dòng chảy liên tục và luân hồi đó của hình ảnh “tâm thức” để có thể tiếp chuyện chúng sinh đó, và để có thể tìm hài cốt là vì vậy.

    Nếu không có một “ký ức” hình ảnh đang hiện hữu thì nhà ngoại cảm khó có thể nắm bắt được thông tin của chúng sinh đó, vì không có sở cứ để nắm bắt, hoặc nếu không có thông tin điều kiện, cứ liệu để nắm bắt được, nếu có thấy hình ảnh cũng sẽ thấy một dòng “thần thức” của từ vô thủy kiếp tua đi tua lại liên tục, nếu không có một mức độ chứng đắc cao hơn, sẽ không nắm bắt được?!

    Đến đây, có người sẽ nêu câu hỏi là có thể họ “linh hồn” – chúng sinh đó về cảnh giới mà họ đang ngự hay không?

    Theo chúng tôi, nhà ngoại cảm có thể hỏi được, nhưng họ sẽ không trả lời được, vì đó là cảnh giới của thần thức (không phải là cảnh giới của hình ảnh theo giác quan nhãn thị của con người như chúng ta thấy để định vị về họ), họ chỉ trả lời được khi họ có sự giác ngộ cao và chứng đắc Phật pháp.

    Chính vì sự đặc thù của 4 cõi vô hình đó, nên đức Phật đã từng nói làm thân người khó làm sao, vì chính là ở đặc thù này. Khi có thân xác, chúng ta có thể tu tập được theo sự điều khiển tác nhân qua lại của Thân – Tâm (ý) – Khẩu…

    Lưu ý, cảnh giới mà như một số nhà ngoại cảm mô tả không phải là dòng ký ức lưu lại ở dạng vật chất (như cuộn phim, băng, đĩa). Một số nhà nghiên cứu đi theo hướng này, nên không công nhận có “linh hồn”, mà họ cho rằng đó chỉ là cảnh được lưu lại trong phả hệ ADN, hay trong gen, hoặc một tác nhân vật chất nào đó, nó chỉ thể hiện lại ở dạng “tàn dư”. Họ không công nhận “linh hồn” là một thực thể chúng sinh với các trạng thái thọ cảm khác nhau.

    Chúng tôi không nhận định như vậy, mà cho rằng, cảnh giới đó là dòng luân hồi của tâm thức, hay nói cách khác, cảnh giới đó là một giai đoạn của dòng luân hồi bất tận các cảnh giới mà chúng sinh đó đã trải qua trong vô số kiếp.

    Đa số nhà ngoại cảm chỉ thấy các cảnh giới trước lúc chết, gần lúc chết, và sau lúc chết một thời gian ngắn (thời gian những ngày đầu sau khi chết mà bản thân “linh hồn” đó vẫn chưa ý thức được cái chết của mình) là do họ nhận thông tin đầu vào tương ứng với “đoạn thần thức” đó và bắt gặp lại một số cảnh giới đó.

    Để hình dung, điều này bạn đọc hãy tưởng tượng, bạn tìm kiếm một thuật ngữ nào trên máy tính, bạn gõ thuật ngữ đó vào ô tìm kiếm, thì thuật ngữ bạn cần tìm kiếm sẽ hiện ra, trong khi bản thân thuật ngữ đó, và hàng triệu triệu thuật ngữ khác vẫn tồn tại trên môi trường Internet như vốn nó vẫn vậy.

    Hình ảnh mà nhà ngoại cảm nhìn thấy về cõi âm là hình ảnh nhà ngoại cảm muốn tìm kiếm trong muôn vàn hình ảnh đang luân hồi bất tận, liên tục, - ứng với dòng tâm thức của chúng sinh đó.

    Còn nữa….mời bạn đọc xem tiếp giải thích của tác giả ở kỳ XIII.
    Last edited by Bin571; 25-12-2010 at 08:29 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  13. #13

    Mặc định

    Ngoại cảm trò chuyện với chúng sinh cõi Atula hay thân trung ấm?
    05/12/2010 22:41
    Giới Minh

    Kỳ 13 loạt bài "Chuyện kể của Phật tử khi gặp một số nhà ngoại cảm" với những phân tích của tác giả bác bỏ quan điểm chúng sinh mà đa số các nhà ngoại cảm giao tiếp được thuộc về giai đoạn thân trung ấm.

    Kỳ XIII: Nhà ngoại cảm trò chuyện với chúng sinh cõi Atula: “Máy bay là con chuồn chuồn, con chuồn chuồn là máy bay”…

    Sau khi kỳ XII được đăng tải trên trang phattuvietnam.net, có bạn đọc đã góp ý comment chân thành với tác giả, không nên viết dài, hãy khẳng định dứt khoát là người cõi âm mà lâu nay nhà ngoại cảm trò chuyện là chúng sinh thuộc cõi nào trong Lục đạo Luân hồi?!

    Tác giả đã trả lời rất rõ ràng, đa số là chúng sinh cõi Atula. Có bạn đọc góp ý nên dùng danh từ số đếm là “phần nhiều” thay cho “đa số”, tác giả nhận thấy cũng rất hữu lý.

    Chúng tôi, dùng Luận (Kinh – Luật – Luận) để thử lý giải, vì đã gọi là “thử lý giải” thì bản chất đã là sự Luận. Luận theo kinh sách, luận theo trải nghiệm với các hiện tượng thực tế xảy ra, mà bản thân đã chứng kiến, tiếp xúc, thực hành.

    Sở dĩ chúng tôi chưa trích kinh sách để trả lời câu hỏi, lâu nay chúng sinh mà nhà ngoại cảm trò chuyện được, họ thuộc cõi nào trong Lục đạo, vì, các luận điểm cho rằng thuộc giai đoạn Thân trung ấm, cũng chủ yếu Luận theo những dẫn chứng mang tính kinh nghiệm bản thân, nên tác giả - Giới Minh tập trung phân tích, trao đổi lại với các lập luận đó. Việc trích kinh sách chứng minh, sẽ được dẫn giải ở kỳ XIV của loạt bài viết này.

    Trở lại vấn đề, một số bài viết, ý kiến comment dưới các bài viết đăng tải trên trang Phattuvietnam.net và trên mạng Internet, cho rằng, nhà ngoại cảm chỉ trò chuyện được với chúng sinh ở giai đoạn Thân trung ấm, vì dựa trên các lập luận như:

    Lập luận 1:
    Theo các nhà ngoại cảm mô tả khi gặp các “linh hồn” – chúng sinh thì thấy cảnh người cõi âm trước khi chết ra sao, bị thương cụt tay, cụt chân như thế nào, chú bộ đội cầm súng ra sao,….vẫn còn cảnh người sao – âm vậy, nên chúng sinh như vậy thì chỉ có trong giai đoạn Thân trung ấm?!

    Nhà ngoại cảm chưa bao giờ thấy Địa ngục (dẫn lời chị Phan Bích Hằng), chưa thấy các cảnh giới khác như cõi Thiên, Atula, Ngã quỷ….Nên những chúng sinh mà nhà ngoại cảm trò chuyện được chỉ có thể là đang trong giai đoạn Thân trung ấm.

    Tác giả đã phân tích ở kỳ XII, hình ảnh mà nhà ngoại cảm thấy, không phải là hình ảnh hiện tại của chúng sinh đó ở cõi nào trong Lục đạo, mà là hình ảnh quá khứ, trong một giai đoạn của dòng luân hồi liên tục, bất tận của tâm thức.

    Điều này không khác gì chúng ta xem lại một cuốn phim về người thân mất cách đây hàng chục năm, mà không thể biết tình trạng hiện tại của chúng sinh đó trong Lục đạo.

    Với kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi sẵn sàng thảo luận với bất kỳ nhà ngoại cảm nào, nếu họ mô tả cõi âm như nêu trên, thì có thể khẳng định họ chưa phân biệt được các cõi khác và giống nhau ra sao; chưa thể biết chúng sinh đó thuộc cõi nào.

    Lập luận 2: Có ý kiến cho rằng, vì nhà ngoại cảm trò chuyện được với “linh hồn” cách đây hàng chục năm, hàng trăm năm, hàng ngàn năm nên chúng sinh đó đang kéo dài tình trạng Thân trung ấm, mà chưa thể tái sinh ở các cõi khác trong lục đạo, nhưng họ vẫn là chúng sinh, nên nhà ngoại cảm vẫn có thể trò chuyện được.

    Chúng tôi cho rằng, theo quan niệm của Phật giáo có Lục đạo, và một giai đoạn trung gian gọi là Thân trung ấm. Nếu quả thật giai đoạn này kéo dài đến hàng chục, hàng trăm, thậm chí cả ngàn năm sau cái chết thân xác và vật lý của con người, thì sao Phật giáo không qui thành một Cõi tương ứng để thành Thất đạo luân hồi, mà lại chỉ là Lục đạo luân hồi?

    Nếu có phép quán tưởng, chúng ta sẽ tránh rơi vào “tranh luận” không cần thiết, vì thực chất Lục đạo cũng chỉ có thể là một cõi, gọi là cõi Luân hồi; các giai đoạn khác nhau của chúng sinh, do có những đặc thù riêng nên có sự phân chia cõi giới và giai đoạn Thân trung ấm để chỉ ra các trạng thái khác nhau của Tâm thức, việc phân giai đoạn và phân cõi cũng chỉ mang tính tương đối.

    Ví dụ: Chúng sinh A, cách đây X năm là chúng sinh ở cõi Thiên. Hiện tại là chúng sinh cõi Nhân, cách đây Y năm là chúng sinh ở Địa ngục, cách đây Z năm là chúng sinh ở cõi Atula…dòng luân hồi cứ thế liên tục, bất tận cho đến khi thoát ra khỏi qui luật sinh – tử.

    Do vậy, có bạn đọc nêu câu hỏi và đề nghị tác giả khẳng định dứt khoát xem con người sau khi chết thuộc cõi nào trong lục đạo thì chúng tôi đành chịu! Vì, khẳng định dứt khoát có nghĩa là phủ định Luân hồi, phủ định Nhân – Quả.

    Trả lời câu hỏi, chúng sinh mà lâu nay nhà ngoại cảm trò chuyện thuộc cõi nào, chỉ là cách tạm hiểu, với chúng tôi đa số trong giai đoạn đang xét (nhà ngoại cảm trò chuyện), họ (đa số) là chúng sinh cõi Atula. Đa số chứ không phải tất cả, vì nếu tất cả mọi người sau cái chết vật lý và sinh học của thân xác đều trở thành chúng sinh cõi Atula thì còn đâu Lục đạo, Nhân – Quả, Luân hồi?

    Cách trả lời như vậy, không loại trừ những trường hợp khác, nhà ngoại cảm đã trò chuyện với chúng sinh ở cõi Địa ngục, Ngã quỷ, Thiên…thậm chí cũng có trường hợp không thể gọi hồn được, có thể do họ đã đầu thai trở lại làm Người, hoặc bị đọa bởi đường Súc sinh, hoặc do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác.

    Trở lại câu hỏi, tại sao gọi là giai đoạn Thân trung ấm mà không gọi là cõi Thân trung ấm? Chưa gọi là cõi vì dòng Tâm thức chưa có tính ổn định, mang tính tương đối, trong một giai đoạn nhất định như các trạng thái trong Lục đạo.

    Ví dụ: Có cách phân loại, con người có 3 giai đoạn chính, giai đoạn tiền vận (dưới 30 tuổi), giai đoạn trung vận (30 – 50) và giai đoạn hậu vận (50 – đến già)….thì đó cũng chỉ là cách phân loại để hiểu, dựa trên những đặc tính sinh học và sự phát triển của cơ thể. Nhưng nếu có cách hiểu khác thì cả đời người cũng chỉ là một giai đoạn ngắn trong dòng luân hồi liên tục của Lục đạo.

    Còn với giai đoạn Thân trung ấm, đa số trường hợp là sau 49 ngày thì tái sinh vào các cảnh giới và cõi giới khác. Vì giai đoạn trung gian này xảy ra trong một thời gian ngắn, nên có lẽ đã không được gọi là cõi, mà chỉ gọi là giai đoạn Thân trung ấm?

    Việc phân loại cõi, là dựa vào những đặc điểm phổ quát nhất của thần thức (với 4 cõi vô hình) và dựa trên đặc điểm về thân xác vật lý, sinh học với 2 cõi (Nhân, Súc sinh), dựa trên những đặc tính bước đệm trước khi ổn định với cách phân loại tương ứng với các cõi trong Lục đạo thì gọi là giai đoạn Thân trung ấm.

    Thực tế, như chúng ta thấy trong 2 cõi có thân xác vật lý, sinh học và có sự sống theo định nghĩa của khoa học, thì con người được gọi là cõi Nhân, còn tất cả các trạng thái sống khác, đều được gọi chung là Súc sinh.

    Ở cõi Nhân (con người) cũng có Người tu thành Phật, có Người trở thành Bồ Tát, A La hán, có người còn ác hơn cả ác quỷ,…nhưng so với “tổng số dân số” thì các trường hợp đặc biệt trên không phải là số đông, đa số vẫn là con người với những đặc thù có lành, có dữ, có điều thiện, và có ác nghiệp nhất định, nên được gọi chung là cõi Nhân, vì dựa trên những đặc tính phổ quát nhất, đặc thù nhất của cả Tâm thức và thân xác vật lý, sinh học.

    Cách phân loại cõi là mang tính tương đối để cắt nghĩa, giải thích mang hàm nghĩa tương đối, không nên tuyệt đối hóa cách phân cõi và hiểu cách phân cõi một cách tuyệt đối.

    Lập luận 3
    : Có ý kiến cho rằng, theo kinh sách Phật giáo với đã số trường hợp thì sau 49 ngày là linh hồn đã đầu thai nhưng vì Việt Nam có phong tục thờ cúng ông bà tổ tiên, nên có lẽ đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc “thần thức” còn quyến luyến và họ bám chấp vào đó, quyến luyến người thân, nên kéo dài tình trạng Thân trung ấm mà chưa thể tái sinh vào các cảnh giới khác?

    Từng tham dự một số buổi sinh hoạt của một số đạo tràng, chúng tôi nhận thấy, có nhiều Phật tử hay hỏi các quí thầy, đặc biệt là nhân dịp gặp các quí thầy ở Tây Tạng, Nê Pan, Ấn Độ, Miến Điện…sang Việt Nam hoằng pháp.

    Câu hỏi đại ý là, đức Phật dạy không thờ cúng quỷ, thần, ma vong ngoại đạo, trong khi ở Việt Nam có phong tục thờ cúng tổ tiên thì điều đó có làm cho thần thức quyến luyến, dẫn đến việc bám, chấp và khó đầu thai hay không? Việc thờ cúng như vậy, có trái lời Phật dạy hay không?

    Các quí thầy có cách trả lời khác nhau, song tựu chung lại chưa có quí thầy nào phản đối việc thờ cúng đó. Chúng tôi nhận thức, việc thờ cúng ông bà, cha mẹ, gia tiên…là một truyền thống văn hóa đáng tự hào của người Việt. Lời dạy của đức Phật về việc không thờ cúng ma quỷ, thần linh ngoại đạo là ở ý nghĩa khác.

    Danh, tính từ “thờ cúng” ở đây không đơn giản mang hàm nghĩa là lập bàn thờ, thờ và cúng, mà là sự tôn thờ ở trong Tâm, “ngoại đạo” ở đây không còn là ý nghĩa chúng sinh mà chúng ta thờ, cúng theo tôn giáo khác, mà “đạo” và “ngoại” ở đây là không thờ cúng thần linh, ma quỷ mà chúng ta không hướng đến chính đạo, sự giải thoát cho họ, mà lại hướng đến ý thức “ngoại đạo” trong Tâm, và bị “ngoại đạo” chi phối Tâm ta – tâm người thờ.

    Đã là Phật tử chúng ta không thờ, cúng các thần linh, ma quỷ ngoại đạo, có nghĩa là không thờ cúng thần, linh, ma quỷ mà không hướng tâm, hồi hướng đến sự giải thoát, hướng đến chánh đạo (trong đạo) để hồi hướng giải thoát cho họ. Tất cả sự tối cao là hướng đến điều đó, không gì khác, trên, trong, ngoài điều đó.

    Do vậy, việc việc thờ, cúng ông bà, cha mẹ, gia tiên bằng con tâm chính đạo là một đạo đức cao cả, cho dù ông, bà, cha mẹ gia tiên của ta có theo bất kỳ một tôn giáo nào khác.

    Chúng ta hướng tâm đến chính đạo chứ không phải “ngoại đạo” ở trong Tâm của người thờ, chứ không phải chúng sinh được thờ, hay thần linh, ma quỷ đó theo tôn giáo khác là “ngoại đạo”, là không nên thờ, cúng, không nên hồi hướng công đức cho họ…(hồi hướng khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh đặng tròn thành Phật đạo).

    Khi chúng ta thờ, cúng bất cứ chúng sinh nào với cái Tâm chính đạo (không phải cái Tâm ngoại đạo) thì dù chúng sinh đó là ông bà, cha mẹ, gia tiên, hay ma, quỷ, thần linh…đều là những vị “Phật” của tương lai.

    Chúng ta hãy lấy đó là niềm tự hào về truyền thống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.

    Quí Phật tử nào chưa tin, còn phân vân, hãy đọc kỹ bài kinh thứ 9 trong quyển Kinh 42 bài do Hòa Thượng Trí Quang dịch và chú giải, có đoạn Phật nói: «đãi cơm một trăm ngươi thường không bằng một người tốt. Đãi cơm một ngàn người tốt không bằng một người giữ năm giới. Đãi cơm một vạn người giữ năm giới không bằng một vị Tu đà hàm.

    Hiến cơm ngàn vạn Tu đà hàm không bằng một vị A na hàm. Hiến cơm một ức A na hàm không bằng một vi A la hán. Hiến cơm mười ức A la hán không bằng một vị Bích chi Phật. Hiến cơm trăm ức bích chi Phật không bằng đem giáo huấn của Tam bảo mà hóa độ song thân một đời.

    Hóa độ song thân ngàn ức đời không bằng hiến cơm một người học tập theo Phật, nguyện được như Phật để cứu vớt chúng sinh. Hiến cơm người như vậy thì phước sâu dày nhất. Còn phụng thờ trời đất quỉ thần thì không bằng hiếu thảo cha mẹ; cha mẹ là thần linh bậc nhất».

    Lập luận 4: Có nhận định khi trích Kinh sách về cõi Atula với các miêu tả chúng sinh ở cõi Atula sinh ra từ trứng của loài Rồng, nên không có nguồn gốc từ loài người, và do đó không thể có chuyện chúng sinh ở cõi Atula là thân nhân những người nhờ nhà ngoại cảm trò chuyện được….

    Lại cũng có nhận định cho rằng, đã đầu thai thành chúng sinh ở cõi giới khác thì họ đã quên hết thông tin quá khứ, làm sao mà có thể quyến luyến và biết về kiếp trước để có thể nói chuyện được với nhà ngoại cảm, nhập “linh hồn” về để trò chuyện về kiếp trước (tức khi còn sống ở cõi trần gian) với thân nhân được? Do vậy, chúng sinh đó chỉ có thể là giai đoạn Thân trung ấm?

    Chúng tôi không cho rằng chúng sinh cõi Atula sinh ra từ trứng Rồng, chúng tôi xin hỏi Rồng là chúng sinh như thế nào, thuộc cõi nào trong Lục đạo? Theo các nhà khoa học, loài Rồng chưa xuất hiện trên trái đất, hình ảnh Rồng xuất hiện trong tín ngưỡng của không ít dân tộc, chỉ là một câu chuyện huyền thoại và do con người tưởng tượng ra?!

    Chúng tôi, chưa đủ kiến thức khoa học để chứng minh Rồng đã từng tồn tại trên trái đất hay chưa, hay đã bị tuyệt chủng như khủng long? Nhưng, chúng tôi khẳng định rằng, nhận định chúng sinh cõi Atula sinh ra từ trứng Rồng, mà không có nguồn gốc từ người thì “vô tình” đã phủ định Lục đạo luân hồi, chúng sinh nào cũng có thể Luân hồi liên tục trong các cõi, cảnh giới khác nhau trong Lục đạo, nếu chưa thoát khỏi Luân hồi.

    Chúng tôi nhận thức những hình ảnh mang tính miêu tả trong Lục đạo chỉ là một cách miêu tả mang tính tôn giáo, mượn các hình ảnh để giải thích về trạng thái, đặc biệt là trạng thái của dòng tâm thức tương ứng, hình ảnh chỉ là cái cớ để minh họa….và để hiểu, đặc biệt là cách hiểu và tưởng tượng bằng nhãn quan của thị lực và trí lực.

    Chúng tôi có cách hiểu chúng sinh ở 4 cõi Atula, Thiên, Địa ngục, Ngã quỷ không có hình dáng như chúng ta tưởng tượng, hình dáng mà chúng ta thấy trên kinh sách, sự mô tả của các nhà ngoại cảm là hình ảnh của “hư không”, do nghiệp chiêu cảm của Tâm tạo tác, không phải là hình ảnh thực, như chúng ta ghi nhận bằng nhãn thực của thị lực.

    Ví dụ: Thời chúng tôi học lớp Một, do không có hình ảnh để minh họa sinh động như thời nay, nên mỗi nghi nghe tiếng máy bay ù ù…. học trò hỏi cô giáo: - Máy bay thì như thế nào?. Cô giáo đã trả lời rất hay: - Nó như con chuồn chuồn.

    Máy bay như con chuồn chuồn, phát ra tiếng ù ù. Đó là ký ức mỗi khi chúng tôi nghĩ về máy bay.

    Đến lúc học môn vật lý ở lớp 8, thầy giáo lại giảng giải về máy bay khác với bài giảng về con chuồn chuồn của cô giáo dạy lớp Một thưở nào!

    Vậy, phải chăng có điều gì mâu thuẫn? Không, không có gì mâu thuẫn, tất cả là thống nhất trong nhận thức. Nó tùy thuộc vào mức độ nhận thức của chúng ta, chính ta mà thôi. Con chuồn chuồn và máy bay đúng là có những đặc điểm giống nhau, nhưng còn chuồn chuồn vẫn là con chuồn chuồn, máy bay vẫn là máy bay.

    Thực tế nó vẫn vậy, không gì khác hơn. Nhưng để hiểu về máy bay mà chưa có hình ảnh minh họa bằng trực quan sống động, thì với học sinh lớp Một, không có gì hay hơn bằng bài giảng của cô giáo mà chúng tôi còn nhớ mãi, máy bay là con chuồn chuồn phát ra tiếng ù ù…

    Lập luận 5: Nhận định cho rằng, đã đầu thai thành chúng sinh ở cõi giới khác thì họ đã quên hết thông tin quá khứ, làm sao mà có thể quyến luyến và biết về kiếp trước để có thể nói chuyện được với nhà ngoại cảm, nhập “linh hồn” về để trò chuyện về kiếp trước (tức khi còn sống ở cõi trần gian) với thân nhân được? Do vậy, nhà ngoại cảm chỉ có thể trò chuyện với chúng sinh ở giai đoạn Thân trung ấm mà thôi.

    Chúng tôi không nhận định như vậy, với 6 cõi trong Lục đạo, chúng tôi tạm thời phân ra 2 dòng chúng sinh.

    Dòng thứ nhất, chúng sinh có thân xác vật lý và sinh học (Nhân, Súc sinh).

    Dòng thứ hai, chúng sinh thọ cảm bằng tâm thức, đời sống tâm thức, có hình dáng nhưng là hình dáng do Tâm khởi tạo, tạo bởi Tâm, không phải là hình dáng vật chất như mô tả bằng các giác quan thông thường của con người. Đó là chúng sinh ở 4 cõi (Thiên, Atula, Địa ngục và Ngã quỷ).

    Với chúng sinh ở dòng thứ nhất, đa số khi đã đầu thai thì quên kiếp trước, trừ một số trường hợp đặc biệt như người tu luyện, thần đồng thì có thể nhớ và biết được một phần kiếp trước hoặc kiến thức, tri thức kiếp trước hồi dư.

    Vì sao chúng sinh ở dòng này quên kiếp trước? Vì tâm họ đã nương vào thân xác, và ít nhiều do Nghiệp của họ, của Thân xác, nên Tâm (ý), Thân, Khẩu đã đồng nhất thể, nương tựa và bám chấp vào nhau, do vậy họ đã quên kiếp trước; khi nào việc tu luyện đủ sự giác ngộ để tách bạch được điều này, họ sẽ biết được kiếp trước và thân nhân kiếp trước, cõi giới kiếp trước của mình.

    Súc sinh do phước kém nên khó có duyên tu tập Phật pháp, con người là chúng sinh đặc biệt nhất trong Lục đạo, có duyên lành có thể đến được với Phật pháp dễ nhất, tốt nhất so với chúng sinh trong các cõi của Lục đạo. Vì, sự tương tác thuận duyên hay nghịch duyên của 3 nghiệp Thân – Khẩu – Ý có thể bổ sung tương hỗ, hoặc tương nghịch cho nhau trong việc tu tập Phật pháp. Được làm thân người là một cơ duyên đặc biệt, thuận duyên nhất trong việc tu tập Phật pháp so với chúng sinh ở các cõi khác trong Lục đạo, là vì vậy.

    Chúng sinh ở dòng thứ hai, do đời sống của Tâm thức, không bị chi phối bởi thân xác vật lý và sinh học, tuy đang ổn định trong dòng tâm thức tương đối để được phân loại tương ứng với cõi nào trong 4 cõi vô hình, khi gặp được nhân duyên, rất dễ quay lại dòng luân hồi bất tận của Tâm thức kiếp trước của mình, vì Tâm – nhận thức của họ không bị chi phối, bám chấp mạnh liệt bởi thân xác như chúng sinh cõi Nhân, cõi Súc sinh.

    Do vậy họ có thể dễ dàng nói chuyện về kiếp trước với các nhà ngoại cảm trong vai của thần thức quá khứ, họ có thể nói chuyện song hành với nhà ngoại cảm những thông tin mà họ thu nhận được trong vai một chúng sinh mới ở cõi mới, và họ có thể nhập hồn về qua cô đồng để có thể mượn tạm một thân xác trung gian để truyền lời, nối khẩu.

    Chúng ta hình dung, chúng sinh cõi vô hình như phần mềm máy tính, khi nhập về thân xác (qua thân xác cô đồng, người thân…) – phần cứng, thì có những khả năng, chức năng của một chúng sinh như cõi Nhân trong giai đoạn tạm thời đó.

    Điều khác nhau giữa phần mềm máy tính và chúng sinh cõi vô hình, là phần mềm máy tính không có khả năng thụ cảm, nhận biết độc lập nếu không có máy tính (phần cứng), còn chúng sinh cõi vô hình hoàn toàn thực hiện được điều đó với một hệ qui chiếu khác (khác hệ qui chiếu của cõi Nhân), chỉ những người có khả năng ngoại cảm thật sự, các nhà tu hành đắc đạo mới trò chuyện, và trao đổi với họ ở các mức độ khác nhau, tùy theo khả năng, nhân duyên.

    Còn nữa…..
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  14. #14

    Mặc định

    vớ vẩn! Giải thích với chẳng giải nghĩa, đừng có đề cao tín ngưỡng của mình mà xuyên tạc tôn giáo khác.

  15. #15

    Mặc định

    Đọc bài viết này rất hay ! Tôi cũng rất thích tìm hiểu về thế giới tâm linh. Có điều nhiều vấn đề khó hiểu quá. Chắc là do sự hiểu biết còn hạn chế. Chúng ta phải đứng trên cơ sở khoa học đề giải thích mọi hiện tượng trong thế giới này, cho dù khoa học vẫn còn hạn chế...
    Cám ơn bác Bin571 !

  16. #16

    Mặc định

    Đạo là chân lý, không thể là một sự viễn vong mà là một sự huyền linh, chỉ khi nào vào được cảnh giới đó mới có thể hiểu mà không thể giải thích bằng ngôn ngữ của thế nhân được, vì ngôn ngữ con người có giới hạn mà thế giới tâm linh là vô hạn, cho nên dễ bị người không tốt lợi dụng làm tiền đó là “mượn Đạo tạo Đời”.Chúng ta thường xem phim Tề Thiên Đại Thánh và có đề cập đến “kinh Vô Tự” đó là quyễn kinh thật to lớn trước mặt chúng ta (cuộc sống của nhân loại trên thế giới hay những người sống chung quanh chúng ta) mà không hay biết chỉ vọng động theo chuyện hoang đường, để rồi tiền mất tật mang. Nếu suy nghĩ sâu về hệ thống truyền thanh truyền hình thì chúng ta cũng biết một chúc về thế giới vũ trụ và nhân loại chúng ta từ đâu có rồi đi về đâu ! Tôi là một người Phật Tử không có qui y chính thức một thầy chùa nào làm thầy cả, mà xem Ngài Thích Ca là thầy mình mà thôi, mà cũng không có lập bàn thờ và cũng không có thấp nhang nữa ! xem thân xác mình như là một ngôi chùa có chứa đựng Phật tánh trong đó, và hằng ngày cố gắng để Phật tánh càng phát triển như lời Phật dạy:”Ta là Phật Đã thành còn các ngươi là Phật sẽ thành”.Đấy chỉ là sự hiểu biết thấp kém qua mấy mươi năm cố gắng nghe lời Phật Thích để làm người chân chính, mong các bạn chỉ giáo thêm cho trên đường tu học được sang hơn, thành thật cám ơn !

  17. #17

    Mặc định

    Trước đây tôi có học qua môn "Thiền Việt". Của một ông Thầy, lúc đầu thấy rất thích thú vì nó cũng chỉ xoay quanh ngồi thiền và thực hành cảm xạ, cảm nhận có 1 ít thành tựu. Một ngày đẹp trời được may mắn gặp 1 vị tự xưng là khai sinh ra môn này nhà ở Lạng Sơn, qua lời nói và lý thuyết tu tập của vị này thì tôi thấy mình như được giải thoát, giải thoát khỏi sự mê muội và bất hợp lý của nó, tôi nhận thấy phải tự dừng lại ngay trước khi để mình bị cuốn theo dòng lũ này. Ông ta là người dậy cho vài người trong đoàn có được những khả năng như đuổi bão, làm mưa, dự đoán kết quả sổ số. Và độc dáo hơn là đổi hướng tên lửa Tô ma hốc của người Mỹ (Lúc này đang có chiến tranh ở Irac). Và một chuyện điên rồ hơn là họ còn tự xưng chữa được "bệnh viêm mũi" cho Mẫu trong một lần dã ngoại trên đỉnh Ba vì.
    Từ đó tôi chỉ còn hứng thú với mỗi môn Thiền mà thôi.
    Last edited by tuanbeo; 14-05-2011 at 12:23 AM.
    Có những thứ chúng ta phải từ bỏ, chỉ để học được chúng.
    Có những thứ chúng ta phải học, để từ bỏ chúng.

  18. #18

    Mặc định

    M cũng là ng học đạo k theo bải bản, lý thuyết nào cả... tất cả là sự tự nhiên và sự dẫn dắt của đức Phật...
    Ngoài tâm không động
    Ðộng chẳng phải tâm
    Tâm chẳng phải động
    Ðộng vốn không tâm
    Tâm vốn không động
    Ðộng không lìa tâm
    Tâm chẳng lìa động
    Ðộng là dụng của tâm
    Dụng là cái tâm động

  19. #19

    Mặc định

    Bai viet rat hay,nhung chi tiet nay khong chinh xac:
    "Ngạ quỷ: Là những chúng sinh sau khi thân xác vật lý chết, chưa được siêu thoát, và do quả báo nên thần thức của họ chịu nhiều khổ đau, dân gian gọi là ma, quỉ…ở trong cõi này. Phật giáo gọi là thần thức hay A lại da thức..."
    vi A lai da thuc la Tang thuc (thuc thu 8) Xin ban xem lai. Xin loi vi may khg co phong chu Vietnam.
    Nam mo a di da phat. Vandu

  20. #20

    Mặc định

    Cảm ơn tác giả Giới Minh đã có loạt bài viết rất công phu, hay và khá trọn vẹn. Điều này cho thấy sự hiểu biết sâu sắc của tác giả đối với các vấn đề được nêu lên.
    Cảm ơn Mod Bin đã post các bài viết này !!!

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thích Thông Lạc giảng Pháp mà phỉ bán Phật ?
    By lamquochung in forum Đạo Phật
    Trả lời: 70
    Bài mới gởi: 22-07-2011, 08:03 AM
  2. Ngoại cảm trò chuyện với “linh hồn” người chết cách hàng ngàn năm: Bịa đặt?
    By chuotcong1 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 25-12-2010, 08:05 PM
  3. CHÚ SI-VA-LÝ CẦU TÀI (tiếng Pali)
    By Chieuthanhnghia in forum Đạo Phật
    Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 18-12-2010, 01:47 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •