kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Cửa thiền treo xác sói

  1. #1

    Mặc định Cửa thiền treo xác sói

    Cửa thiền treo xác sói

    Tôi nhìn thấy khung cảnh này ở tu viện Sakya một trong những tu viện cổ xưa nhất Tây Tạng (1037) và tự hỏi: tại sao lại là những xác thú, biểu tượng của cái ác, cái chết luôn trấn giữ nơi cửa thiền, hình như có gì nghịch lý ở phía trước mỗi cánh cửa, một con đường hay từng cảnh giới?



    Đằng sau các nộ thần

    Chiều muộn, nắng đã tắt trên những đỉnh núi cao chẳng chút dấu tích sự sống. Tôi thấy mình như chìm nghỉm trong tiếng rên của gió hoang lạnh. Chỉ có xác sói nhe nhởn và sư tử gỗ trợn mắt gầm gừ, chúng lạnh lùng hắt xuống mặt đất lầm bụi cát những tia, ánh hăm doạ, trấn áp. Còn cánh cửa thì đã khép im ỉm bởi hai nửa mặt dữ tợn của Đại Hắc Vương (Mahakala). Không thấy đâu bóng dáng quen thuộc của những Hộ môn thần hoặc Kim Cương thủ mà người ta vẫn vẽ ở hai bên cửa ra vào các tu viện.



    Đại Hắc Vương là ai mà mặt đen thui, miệng há ngoác, vừa nhe răng vừa như đọc câu thần chú Aum? Vì sao ngài toàn trang sức cho mình bởi những đầu lâu? Đại Hắc Vương ở tu viện Tây Tạng có gì đó độc ác và dữ tợn giống như Kali nhảy điệu huỷ diệt trong Hindu giáo. Vì sao Đại Hắc Vương không có được vẻ mặt bình thản, hiền lành như chân dung ngài trong những ngôi chùa của người Nhật Bản với tên gọi khác- Daikoku?

    Tôi thực sự tin vào sự từ bi của Đức Phật nhưng vẫn bối rối vì ngay trước cửa muôn nghìn ngôi chùa, tu viện, những ngôi nhà của Ngài ở Tây Tạng, thân hình Kim Cương thủ lại xanh lét. Tôi thấy có gì bất ổn khi được tiền nhân giải thích rằng Kim Cương thủ lơi là để quỷ lấy trộm thuốc độc huỷ diệt nhân loại, chư Phật trừng phạt bằng cách bắt uống nước nhiễm độc nên thân trạng mới kinh hãi như thế?!

    Tôi đặc biệt thích những bức tranh tường vẽ Kim Cương thủ ở ngay sau cửa ra vào với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật mà đương nhiên là nghệ thuật đỉnh cao. Những bức tranh tường đẹp nhất ở động Đôn Hoàng, bảo tàng mỹ thuật Phật giáo lớn nhất, cũng không cách gì sánh được. Nhưng xem xét Kim Cương thủ dưới góc độ một biểu tưởng tôn giáo thì hơi bị hãi. Đức Phật chủ trương gạt bỏ ái ố, ngũ dục phù du để tịnh thân vậy mà Kim Cương thủ “ngang nhiên” ghì xiết người tình trong tư thế phối ngẫu yaum ngay trước mắt Ngài. Kinh hãi hơn nữa là Kim Cương thủ vẫn giữ nguyên gương mặt đầy nộ khí của tử thần và giấu biến đâu cảm xúc hoan lạc. Rất vớ vẩn.

    Cũng như điêu khắc ông Thiện, ông Ác ở chùa Việt, chùa Trung Quốc, linh thú ở chùa Lào, Thái... những bức tranh tường vẽ thần bảo hộ Đại Hắc vương (Mahakala) hay Kim Cương thủ (Vajrapani), Diêm mạn Đức ca (Yamantaka), Hộ thế giả (Lokapala), Đa Văn thiên (Vaisharavana), Hộ môn thần (Dvarapala), Mật Trí Ngũ Minh Vương (Vidyarajas) của các tu viện Tây Tạng chỉ gợi lại cho tôi một ấn tượng buồn.

    Các Lạt Ma thì nói rằng các nộ thần, thần bảo hộ đều mang những khuôn mặt dữ tợn, màu sắc quái dị, tay cầm tuỳ khí, phía sau lưng đỏ rực những ngọn lửa huỷ diệt... Đó là biểu tượng cho uy lực của chư Phật trước cái Ác, khả năng chiến thắng tham, sân, si, cái đau khổ, sự chết chóc... nhưng tôi lại không nghĩ thế.

    Từ khi biết nghĩ, Đức Phật chỉ luôn chinh phục tôi bởi lòng từ bi của Người. Rất có thể sự giải thích trên là sự bao biện cho hàng chuỗi những biểu tượng phức tạp, mù mờ, khó hiểu, một tiến trình phát triển bị nhào trộn của quá nhiều những giáo phái ở Phật giáo Tây Tạng. Lộ trình đó chưa thoát khỏi sự thần bí, ma mị của đạo Bon, bị chèn ép của Hindu giáo lại còn phải chia sẻ ảnh hưởng với Phật giáo Trung Hoa sau khi thống lĩnh địa hạt của Khổng, Nho... Bất kỳ tôn giáo nào cũng phải tìm tấc đất cắm dùi cho số phận mình nơi thể xác và niềm tin con người vậy mà khi đứng trước các tu viện Tây Tạng cả hai khung giá trị ấy nơi tôi đều có nguy cơ tan biến, vì sao?

    Đứng trước tu viện Sakya, tôi lại nhớ những bức tranh thánh vẽ trên kính trong nhà thờ Thiên chúa hay trang trí cửa sổ bằng những nét chữ của người Ả Rập trong nhà thờ Hồi giáo. Những ánh mắt siêu buồn của Đức Mẹ và những con chữ đầy mật ý của Mohamet làm cho tôi tự tin hơn. Tôi không thích mình bị dạy đỗ, đe nẹt hay cưỡng chiếm trong đời sống tinh thần.

    Lúc này, cảm giác ấy chỉ còn lại với tôi mỗi khi hình dung đôi mắt khép của Đức Phật, những con nai hiền lành trong Lộc Uyển xa xưa.


    Lời của Sói

    Sáng sớm, trước khi rời Sakya để lên đường đi Everest, tôi quay lại cửa sói một lần nữa. Sương mờ, đất sỏi gập ghềnh, tường tu viện xiêu vẹo, những mảng lông sói đang rã huỷ và cả tâm trạng của tôi về một chốn cửa thiền... đều được phủ một màu xám lạnh. Tôi cố nhớ nhưng vẫn thấy trơ lỳ trước lời khuyên của Đạt Lai Lạt Ma 14: Khi nào tâm không đối phó với ngoại cảnh, tâm sẽ an trú rỗng không, không có gì xuất hiện trong nó, hệt như nước trong vậy.

    Sakya, có người giải thích rằng đó là miền đất màu xám. Có lẽ điều đó chỉ đúng với màu mà người dân nơi đây tô quét lên tường. Đó là tín hiệu khác biệt nhất so với các ngôi nhà màu trắng phổ biến ở Tây Tạng. Nhưng tôi thích gọi miền đất này với cái tên Thích Ca hơn, những cư dân sử dụng tiếng Anh đều gọi Thích Ca Mâu Ni là Sakyamuni. Căn cứ vào khả năng phân huỷ của một thực thể thì những xác sói được tín dân treo lơ lửng trên đầu Đại Hắc Vương chắc là chưa bao lâu. Nhưng hành vi treo xác những con thú lại là dấu tích đầy ấn tượng của một nền văn minh hái lượm, săn bắn, một đời sống đã rất xa đối với xã hội hiện đại.

    Vậy trước tôi, Sakya là một bảo tàng sống của xã hội nguyên thuỷ, khốn khổ đó? Nền văn minh săn bắn, hái lượm có mặt ở miền đất mang tên Thích Ca trước khi những giáo lý cao đẹp của ông ảnh hưởng đến nơi đây rất lâu, trước khi có sự hình thành những gương mặt, những biểu tượng như Đại Hắc Vương, Kim Cương thủ... Trớ trêu thay, hơn 6 thế kỷ phát triển của Phật giáo ở Tây Tạng, Đại Hắc Vương luôn luôn là biểu tượng cho may mắn và phồn thịnh?!



    Tôi bị buộc phải hiểu hành vi treo xác sói nơi cửa thiền là để gia tăng thêm lòng kính ngưỡng đã luôn vượt qua giới hạn của sự mê mụ của các tín dân hay là biểu hiện của những triết lý thô phác, cách phản ứng rất trực cảm của hiện thực đời sống với những biểu tượng đang ngày càng trở nên xa lạ? Cuộc sống quá khốn khó, dư thừa nhọc nhằn, đau thương cần một vài biểu tượng giản đơn, dễ hình dung hơn chăng? Không biết từ lúc treo xác những con sói hung dữ kia phải mất bao lâu nữa thì người Sakya mới hiểu: chỉ có thể tiệm ngộ những chân lý của Đức Phật bằng những niềm tin trong sáng, trí tuệ chứ không thể bằng sự mê mụ?

    Trên thế gian này, không chỉ riêng Sakya, Tây Tạng mà bất kỳ một dân tộc nào mê tín, cuồng tín trước một biểu tượng, một tín ngưỡng, tôn giáo đều đi đến một kết cục: suy vi.

    Bài và ảnh Xuân Bình
    (Dân Trí)

  2. #2

    Mặc định

    Ai hiểu về tục lệ và phong tục này thì giải thích cho mọi người. Có thể thấy tác giả không hiểu gì về các dòng của Phật Giáo cả.

  3. #3

    Mặc định

    Theo tamducthanh nghỉ thì theo câu nói trích trong bài của ngài Dala LAMA thì sẻ rõ: ý ngài nói rằng nếu như ta không chống cự lại với nhửng gì ở ngoài mà tập trung nhửng gì nơi ta thì ta sẽ trong như nước!!! Ví như loài hoa sen sống chunh với bùn nhưng vẩn thơm tho vì mùi hương đó sẻ sống chung với bùn mà không bị phân tán!

  4. #4

    Mặc định

    theo thiển kiến của em là như thế này vì Dòng Truyền Thừa Sakya
    Sakya có nghĩa là Đất Màu Xám hay dòng truyền thừa Lam Thổ... Ngài Sakya Trizin đời thứ 41 hiện là Pháp Vương nắm giữ dòng truyền thừa...
    Những giáo huấn của các dòng Kadampa, Kagyu và Sakya (thế kỷ 11) và Gelug (thế kỷ 14) đều được xem như là thuộc Tân Phái Dịch Thuật, trong khi những giáo huấn của dòng Nyingma (thế kỷ 8-9) thuộc về Cựu Phái Dịch Thuật,

    Từ thế kỷ tứ 8 đến nay, dòng họ Khon nổi danh là dòng dõi quý tộc ở miền Nam xứ Tây Tạng. Trong gia tộc họ Khon, Khon Lui Wangpo Sunga là một trong bảy người Tây Tạng đầu tiên đã đuợc thọ giới tỳ kheo dưới triều đại của vua Trisong Detsen và đã tu tập miên mật dưới sự hướng dẫn của đại đạo sư Liên Hoa Sanh. Cả dòng họ Khon đều là những đại thí chủ và hành giả theo truyền thống Nyingma tại vùng Tsang.
    Đến thế kỷ thứ 11, truyền thống Nyingma tại vùng Tsang gặp nhiều biến thoái. Vị trưởng gia tộc họ Khon lúc bấy giờ, Khon Konchog Gyalpo, đã quyết định đi tầm thầy học đạo và đã có duyên hội ngộ với các vị Drogmi, Bari và Mal.Drogmi và Những Giáo Huấn Của Đại Thành Tựu Giả Virupa
    Ngài Drogmi là một một dịch giả và hành giả danh tiếng đã tu học suốt mười tám năm tại Ấn Độ với đại học giả Shantipa tại đại học viện Vikramashila. Một trong những giáo huấn quan trọng nhất mà ngài Drogmi đã thọ nhận và đã truyền lại cho vị trưởng tộc Khon Konchong Gyalpo chính là các giáo huấn của Mật Điển Hô Kim Cương (Hevajra Tantra) và giáo huấn Lamdré - Đạo và Quả.
    Trải qua nhiều thế hệ truyền thừa, ngài Shantipa đã thọ nhận những giáo huấn về Hô Kim Cương và Lamdré từ đại thành tựu giả Virupa, là một trong 84 vị đại thành tựu giả du già lừng danh nhất xứ Ấn. Ngài Virupa đã sống gần suốt cuộc đời mình ở tại đại học viện Nalanda, ban ngày giảng dạy về hiển giáo và các giáo huấn của truyền thống Nguyên Thuỷ và Đại Thừa, nhưng ban đêm ngài bỏ giấc ngủ hằng đêm để tu tập theo các pháp tu của Mật Thừa, nhất là trì tụng mật chú của vị Hộ Phật Vajravarahi (Tib. Dorje Phagmo). Đến năm ngài 71 tuổi thì Virupa mới đạt được những chứng đắc viên mãn; ngài lang thang khắp nơi như một hành giả du già và bắt đầu giảng dạy về các giáo huấn của Hô Kim Cương và Lamdré.Giáo Huấn Lamdré - Đạo và Quả
    Lam có nghĩa là con đường và dré có nghĩa là kết quả. Lamdré, theo nghĩa đó có nghĩa là Đạo và Quả. Con đường ở đây bao gồm tất cả những pháp tu mà hành giả cần miên mật hành trì để đưa hành giả đến giác ngộ, và quả ở đây chính là Phật quả, là trạng thái chứng đắc vô ngã, đạt đến giác ngộ tối thượng.

    Lamdré dựa trên hệ giảng của Hô Kim Cương Chánh Văn Mật Điển (Hevajra Root Tantra) và được chia ra làm hai phần:

    (1) Phần thứ nhất bao gồm ba giáo huấn về tri kiến (Three Visions) và các giáo huấn thông thường thuộc về hiển giáo dành cho tất cả đại chúng, gồm có các khế kinh, các giáo huấn về Vi Diệu Pháp (Abhidharma), về giới luật, cùng với các giáo lý của Đại Thừa.

    1) Phần thứ hai bao gồm ba giáo huấn thuộc về mật giáo, gồm có các pháp tu thuộc Nhân Mật Điển (Casual Tantra), Đạo Mật Điển (Path Tantra) và Quả Mật Điển (Result or Fruition Tantra). Quả ở đây chính là trạng thái chứng đắc Đại Thủ Ấn (Mahamudra) tối thượng; khi ấy, kiến của hành giả trở nên kiến thuần tịnh, hành giả nhìn thấy tất cả chúng sinh đều là Phật, và Sinh Tử và Niết Bàn hoàn toàn không khác biệt.

    Tổ Khon Konchog Gyalpo và tu viện Sakya đầu tiên
    Hết lòng tin tưởng và tu tập theo giáo huấn truyền thừa từ Virupa và Drogmi Lotsawa, vị tộc trưởng Khon Konchog Gyalpo đã cho xây dựng tu viện đầu tiên của dòng Sakya vào năm 1073 tại một vùng đất ở Tsang. Người ta gọi vùng đất ấy là Sakya, có nghĩa là "đất màu xám." Do đó mà dòng truyền thừa Sakya mới mang danh hiệu là dòng truyền thừa ở vùng đất xám hay dòng "Lam Thổ"-- cái tên "Lam Thổ" ấy đã gắn liền với những nổi trôi trong quá trình lịch sử của dòng Sakya qua suốt bao thế kỷ cho đến ngày hôm nay.

    Ngoài ra, dòng Sakya còn có thêm ba chi phái nữa là các chi phái Ngor, Tsar và Dzongpa do các vị đạo sư Ngorchen Kunga Zangpo (1382-1457), Tsarchen Losel Gyatso (1502-1556), và Dzongpa Kuna Namgyal (1432-1496) khai lập.

    Năm Vị Đại Trưởng Lão Sakyapa
    Trong lịch sử dòng truyền thừa Sakya, có tất cả năm vị đại trưởng lão Sakyapa là những vị đạo sư đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong công cuộc hoằng dương Phật Pháp, bảo tồn và phát triển những giáo huấn quý báu mà ngài Virupa và Sơ Tổ Drogmi đã truyền giảng. Năm vị đại trưởn lão Sakyapa đó là:

    Ï Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158)
    Trưởng lão Sachen Kunga Nyingpo là con trai của ngài Khon Konchog Gyalpo. Qua rất nhiều nỗ lực của ngài mà hằng trăm pho kinh thuộc về hiển giáo và mật giáo đã được chuyển dịch qua Tạng ngữ, kể cả những tài liệu thuyết giảng khẩu truyền cũng đã được sưu tập và ghi chép lại, dùng làm tài liệu tu tập của dòng Sakya sau này.Một lần nọ, ngài Sachen Kunga Nyingpo cũng đã có linh kiến của đức Văn Thù Sư Lợi và đã trực tiếp thọ giáo với ngài về giáo huấn có tên là "Xa Lià Bốn Tham Ái" (Parting from Four Attachments).


    Ï Lobpon Sonam Tsemo (1142-1182)
    Trưởng lão Lobpon Sonam Tsemo là đệ tử của ngài Chapa Chökyi Sengé (1109-1169). Ngài Chapa Chokyi Sengé tu tập theo phái Svatantrika là một tiểu phái dựa trên các triết lý về Trung Quán Luận (Madhyamika) của ngài Long Thọ (Nargajuna). Ngài và đã trước tác một luận giải rất nổi tiếng về Hành Bồ Đề Tâm Luận (Bodhiaryavatara).


    Ï Jetsun Dakpa Gyaltsen (1174-1216)
    Trưởng lão Jetsun Dakpa Gyaltsen là con trai của ngài Sachen Kunga Nyingpo và là em trai của Lobpon Sonam Tsemo. Ngài là người đã trước tác một tài liệu luận giảng rất nổi tiếng về giáo huấn "Xa Lià Bốn Tham Ái" mà cha của ngài, ngài Sachen Kunga Nyingpo, đã được đức Văn Thù truyền dạy trong một linh kiến trong khi tham thiền.

    Ï Sakya Pandita (1182-1251)
    Trưởng lão Sakya Pandita là cháu trai của ngài Jetsun Dakpa Gyaltsen, chú của ngài Chogyal Phakpa, và là một trong những vị đại học giả lỗi lạc nhất trong lịch sử Tây Tạng. Người Tây Tạng tin rằng, đức Văn Thù đã ứng thân trong ba vị đạo sư và học giả lỗi lạc của Tây Tạng, gồm có các ngài Longchen Rabjam, Sakya Pandita va Tsongkhapa. Danh tiếng và tài năng của ngài Sakya Pandita vang lừng khắp nơi, qua đến tận Trung Hoa và Mông Cổ. Vào năm 1249, ngài được triều đình Mông Cổ tấn phong làm Tổng Trấn (viceroy) xứ Tây Tạng.

    Ï Chogyal Phakpa (1235-1280)
    Trưởng lão Chogyal Phakpa là cháu trai của ngài Sakya Pandita. Vào thời đại của ngài, dòng truyền thừa Sakya nắm giữ quyền bính tại Tây Tạng và ngài Phakpa cũng được Mông Cổ phong làm Tổng Trấn. Đây là thời đại huy hoàng nhất của Sakya và Phật Giáo Tây Tạng đã được truyền bá qua Trung Hoa và Mông Cổ.

    *

    Dòng Sakya
    Lịch Sử Tóm Lược



    Khoảng Thể Kỷ 8-10
    Đại Thành Tựu Giả Virupa tại Ấn Độ


    993-1077
    Sơ Tổ Drogmi

    1034-1102
    Konchog Gyalpo tức Sakya Trizin đời thứ Nhất

    1073
    Tổ đình của dòng Sakya được Konchog Gyalpo thiết lập tại vùng Tsang

    1092-1158
    Đạo sư Kunga Nyingpo truyển dạy giáo huấn Lamdre

    1182-1251
    Đại Đạo Sư Sakya Pandita

    1260
    Tây Tạng buộc phải thuần phục Thành Cát Tư Hãn

    1235-1280
    Đại đạo Sư Phakpa

    1249
    Sakya Pandita được triều đình Mông Cổ tấn phong làm Tổng Trấn xứ Tây Tạng

    1253
    Phakpa được Hốt Tất Liệt tấn phong Tổng Trấn

    1354
    Tranh chấp giữa phái Sakya và phái Kagyu; phái Kagyu và Phagmodrupa lên nắm quyền bính

    1358
    Đại sư Changchub Gyaltsen (Kagyu) nắm quyền

    trên là sơ bộ về dòng truyền thừa sakya , và theo em hiểu do dòng truyền thừa này ảnh hưởng rất nhiều từ trường phái cổ mật nên trong tu viện thờ rất nhiều hóa thần phẫn nộ của các bổn tôn ,và các hóa thân phẩn nộ của các bổn tôn như đại hắc thiên... thì tượng trưng cho sức mạnh của chư phật đối với các cái ác và dùng để trừ tam độc tham,sân,si và để hàn phục các quỉ thần .....em nghĩ việc treo sói và thờ các kim cang thần,hóa thần phẫn nộ là do thế em cũng không am hiểu dòng cổ mật nhiều nếu có gì sai sót các bác bỏ qua
    :praying:2OM AH HUM:praying:2

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •