kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: Tánh Không

  1. #1

    Mặc định Tánh Không

    [size=10pt]Trong phái Hoàng mão, Tánh Không tức Trung Quán Luận là một "cẩm-nang-gối-đầu" của mọi đệ tử. Đây cũng là đề tài mà Đức Lạt Lai Đạt Ma thứ XIV vừa thuyết giảng tại San Francisco trong tháng 4 năm 2007 liên tiếp trong 2 ngày trước hàng chục ngàn người. Trước ngày thuyết giảng, tất cả các trung tâm thuộc phái Hoàng Mão và rất nhiều các trung tâm Kim Cang Thừa của các phái khác đều tổ chức thuyết giảng về Tánh Không cho đệ tử mình để sửa soạn cho mọi người đi dự buổi thuyết giảng của Đức Lạt Lai Đạt Ma thứ XIV. Những buổi học tập này có nơi kéo dài tới 2, 3 tháng liên tiếp .
    Tại hạ xin phép được đưa lên đây một số bài liên quan tới đề tài này để các huynh-dệ-tỉ-muội và thân hữu tham khảo.

    thân ái
    Hung A Om[/size]

    [hr]

    [size=10pt]LÀM THẾ NÀO ĐỂ HIỂU
    TÁNH KHÔNG
    BẰNG KINH NGHIỆM
    BẢN THÂN
    [/size]

    "Phật Giáo Truyền Thống Đại Thừa"
    Thích nữ Trí Hải dịch


    Đức Tsong Khapa giải thích vài ví dụ như chiêm bao, ảo giác, và sự lầm lẫn một cuộn dây có sọc là con rắn, để giúp ta đạt đến tuệ tri về tánh không. Nếu ta xử dụng những giấc mộng của mình làm ví dụ, thì sự hiểu biết Tánh không của ta trở thành kinh nghiệm thực chứng.

    Hãy xét đến ví dụ đêm vừa qua ta mộng thấy mình leo lên núi cao. Trong giấc mơ, ta có kinh nghiệm về ngọn núi như một cái gì rất thực. Nhưng làm sao mà ngọn núi hiện hữu được? Một ngọn núi khổng lồ như thế không thể nằm trong phòng ta, vì nó quá to lớn đối với gian phòng. Ngọn núi cũng không hiện hữu ở ngoại giới. Xét theo cách ấy, ta không thể tìm ra ngọn núi, chứng tỏ nó không có một hiện hữu nào tự nội.

    Mặc dù tánh không là cái gì rất sâu xa vi tế, nhưng nhờ những ví dụ sống động như những giấc chiêm bao của chúng ta, mà ta có thể hiểu được rằng ngọn núi, con người hay bất cứ gì ta xét tới, cũng đều không có một lai lịch thực hữu tự trong bản chất của nó. Lấy một ví dụ khác, như ta xem một phim kinh hoàng về sự xuất hiện của một con quái vật. Khi xem phim, ta cảm thấy hồi hộp sợ hãi. Lúc kinh nghiệm ấy xảy ra, ta hãy đặt câu hỏi: thực sự là ta đang sợ cái gì?

    Nỗi sợ hãi mà ta cảm nghiệm là do con quái vật xuất hiện trên màn ảnh truyền hình gây nên, nó trông như sống thực. Khi xét cho kỹ, ta sẽ khởi sự khám phá rằng tự bản chất, con quái vật không hiện hữu thực thụ. Ta không thể tìm thấy quái vật trong màn truyền hình, ngoài màn truyền hình, hoặc trong nhà ta. Con quái vật mà ta sợ hãi ấy không có lai lịch biệt lập, tự bản chất nó không thực hữu. Sự sợ hãi của ta đối với quái vật chỉ là do bày đặt của tư tưởng phân biệt. Cũng thế, ta nên xem cái "tôi" xuất hiện cũng chỉ hiện hữu độc lập trong tâm trí ta mà thôi.

    Nếu xét kỹ bản chất của cái "tôi" hiện hữu trong tâm ta, ta thấy rằng giống như lai lịch của con quái vật trên màn hình, cái tôi ấy cũng không có hiện hữu thực thụ. Nhờ quán xét cái tôi mà ta có thể đạt đến vài hiểu biết và kinh nghiệm bản thân về Tánh không. Nhận ra được sự trống rỗng của cái tôi là chuyện khác xa với cái cách ta thường xem là mình hiện hữu.

    Đối với những người có lòng tin đối với đức Phật, thì kinh điển hay giáo lý Phật dạy cũng đủ khiến cho họ chấp nhận Tánh không và học hỏi sâu rộng để thực chứng ý nghĩa chân thực về Tánh không. Người ta bảo rằng với những kẻ vô phước thì sẽ rất khó để thực chứng Tánh không. Nhưng những người đã tạo những nhân tốt lành thì có thể chứng ngộ tánh không một cách dễ dàng. Song le, như ngọc quý khó được mà dễ mất; những người đã tạo phước nghiệp để có thể chứng tánh không cũng thế, họ dễ đánh mất cái cơ hội để chứng đắc Không tánh. Theo tục ngữ thì những người giàu có là may phước, nhưng muốn đạt đến sự thực chứng sâu xa về Tánh không, ta cần tích lũy tài sản tâm linh là năng lực công đức.

    Đối với những người đã gây tạo ác nghiệp thì lại càng khó hơn để mà thực chứng về Tánh không. Cũng như ta không thể gieo giống mùa màng trên đất đầy sỏi đá, thực khó mà vun trồng thực chứng về Tánh không trong một cái tâm xấu xa độc ác. Vì lý do ấy mà sự thanh lọc chướng ngại và ác nghiệp có tầm quan trọng lớn lao: những hành trì để sám hối thanh lọc như vậy là một phương pháp nhờ đó ta có thể thực chứng Tánh không.

    Nếu ta đi theo đường lối của đức Văn thù và nương tựa vào ngài, hiện thân trí tuệ của tất cả chư Phật, thì trí tuệ ta sẽ tăng trưởng và thực chứng tánh không một cách không khó khăn. Có ba pháp hành trì chính yếu để thể nghiệm tánh không: một là tịnh hóa ác nghiệp và tích lũy công đức; hai là theo một bậc thầy đủ tư cách, có kinh nghiệm. Ba là thực thụ thi hành các pháp thiền về tánh không và luyện tập nhờ năng lực của tinh tấn nỗ lực. Nhờ dấn
    mình vào các pháp tu này mà ta có thể có được kinh nghiệm về tánh không, nếu không thực hành như thế thì sự thực nghiệm về Tánh không sẽ vô cùng khó.

    Muốn liễu ngộ được Tánh không, điều thực quan trọng là phải biết rằng vạn pháp hay mọi hiện tượng, kể cả cái tôi, đều do tư tưởng phân biệt bày đặt, gán tên. Những khái niệm được giải thích ở đây, cùng với cái cách thông thường ta nhìn sự vật, quả thực không tương ứng với nhau. Thông thường ta thấy mọi hiện tượng đều hiện hữu trong bản chất của chính nó, tạo nên ảo tưởng về một tự tính biệt lập. Đây là một tướng giả dối do chính ngã chấp của ta tạo nên. Kỳ thực mọi sự vật đều do tâm tạo, như ngọn núi trong giấc chiêm bao. Ngọn núi chỉ hiện hữu trong tâm ta, chứ không thực sự có do bản chất của chính nó.

    Ta nên khởi sự quán sát chính bản thân ta cũng không có thực hữu nội tại như thế nào. Nếu ta thực hành pháp thiền tịnh chỉ hay thiền hình thức về tánh không, thì ta hãy ngồi lên bồ đoàn, cố từ bỏ mọi tư tưởng xấu và tán loạn đủ loại mà đào luyện một trạng thái tâm lành thiện. Sau khi phát khởi tư tưởng mạnh mẽ là ta sẽ thiền quán về Tánh không, ta hãy cố làm phát sinh trước hết một ý thức sống động về cái tôi của mình. Hãy khai triển ý niệm ấy một cách đặc biệt. Chẳng hạn, hãy tưởng đến cái cảm giác mãnh liệt xuất hiện khi ta bị nguy khốn tỉ như "ta sắp rơi xuống từ mỏm đá cao" hoặc "ta sắp chết" hoặc một cảm giác rất mạnh phát sinh như khi ta nghĩ "Mình đói quá" hoặc "mình quá tức giận."

    Sau khi làm phát sinh ý thức sống động về cái tôi, ta hãy khởi sự đi tìm và cố nắm lấy, thiết lập lai lịch của cái tôi ấy.
    Khi đi tìm cái tôi này, có hai khả năng chính xảy ra. Nếu cái tôi này hiện hữu, thì nó phải hiện hữu trong thân hoặc trong tâm. Vì đối tượng tra tầm được căn cứ vào cái tôi, và vì ta đã nhận cái tôi ấy có tương quan hoặc với thân hoặc với tâm, nên sẽ phi lý nếu ta đi tìm một cái tôi hiện hữu biệt lập, tách rời khỏi thân tâm ấy.

    Sự kiện rằng ta nói "thân của tôi" và "tâm của tôi" chứng tỏ không cái nào trong hai thứ đó là cái tôi cả. Vì thân và tâm đều không phải tôi, nên cái sưu tập thân và tâm cũng không phải là tôi. Ta nên kết luận rằng, sở dĩ ta không thể đi tìm cái tôi ở trong thân hay trong tâm, lý do vì cái tôi ấy chỉ là một bày đặt của tư tưởng phân biệt. Chính vì lý do này mà cái tôi không có một hình thái thực hữu tự nội nào cả.

    Sau đó ta nên dán chặt tâm trên Tánh không và an trú trong đó một cách nhất tâm chuyên chú. Với người chưa quen thuộc với pháp thiền này, thì trong một thời gian dài họ sẽ thấy rất khó mà tập trung vào đối tượng thiền là Tánh không. Vì lẽ đó, khi mới thiền quán về Không, ta nên tập những thời thiền định ngắn. Dần dần khi đã trở nên quen thuộc với Không, ta có thể tùy tiện kéo dài những thời thiền.

    Nhờ tu pháp thiền này, được vài kinh nghiệm về Tánh không, ta sẽ thấy rằng cái tôi thông thường xuất hiện trong tâm ta bây giờ đã mất. Thông thường ta bám chặt vào ý thức của mình về ngã, và khi làm thế ta cảm thấy có một cái tôi thực hữu nội tại. Nhưng khi thiền quán về Tánh không, thì cái tôi thực hữu nội tại ấy biến mất. Khi điều này xảy ra, thì có thể nói là sự thiền tập của ta đã tiến triển tốt, đưa ta tiến gần hơn tới chỗ thực chứng tánh không. Vậy lúc ấy cũng không hề gì nếu ta mất ý thức về "tôi", vì điều này có tác dụng như một pháp đối trị cho cái thấy sai lạc của ta trước đấy về một tự ngã thực hữu nội tại. Tuy nhiên khi ta đã đạt đến điểm này, thì có thể xảy ra những hiểu lầm dẫn ta rơi vào cực đoan chấp đoạn diệt.

    Nếu sau khi quán về Tánh không, mà ta rơi vào cực đoan chấp đoạn diệt - cho rằng tuyệt đối không có gì - thì ta lại phải đảo ngược pháp thiền của mình, trở lại quán xét rằng tại sao quả có một cái tôi. Chẳng hạn, nếu không có cái tôi thì ai đang suy nghĩ và làm cái sự tra tầm này. Vì cái tôi là một hiện tượng, nên nó phải hiện hữu. Nhưng khi ta tìm tòi cố thiết lập sự hiện hữu của nó, thì ta không thể tìm ra nó. Điều quan trọng là phải biết không có mâu thuẫn nào giữa hai lập ngôn ấy, vì một cái ám chỉ bản chất tương đối, cái kia ám chỉ bản chất tuyệt đối của cái tôi. Khi ta hiểu rằng chân đế và tục đế không trái nhau, tức là ta đã thành tựu được sự dung thông giữa hai chân lý ấy. Khi hiểu được như thế thì không còn cơ nguy bị rơi vào một trong hai cực đoan : chấp đoạn hoặc chấp thường.

    Thiền quán về Tánh không là phương thuốc thần diệu giúp ta tránh thoát những chướng ngại. Bởi thế ta nên cố luôn luôn duy trì Tánh không trong tâm ta - đọc, tư duy, học hỏi và thiền định về nó bất cứ lúc nào có cơ hội. Điều này cuối cùng sẽ đem lại cho ta sự chứng ngộ trực giác về Tánh không, và giải thoát ta khỏi khổ.

    "Phật Giáo Truyền Thống Đại Thừa"
    Thích nữ Trí Hải dịch

    Saigon42
    Gia Đình Vô Hình

  2. #2

    Mặc định

    [size=10pt][size=10pt]Xưng Tán Duyên Khởi[/size][/size]
    Nam Mô Tôn Sư Đại Trí Văn Thù Sư Lợi
    [hr]
    Trước tác: Lạt Ma Tsong Kha Pa (1357-1419)
    Chuyển ngữ: Pháp Đăng Marie Võ. Bản dịch Việt ngữ được hoàn thành để chuẩn bị cho buổi thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại San Francisco vào tháng 4 năm 2007, do Trung Tâm Thượng Mật Kim Cang Thừa (Gyuto Vajrayana Center, San Jose, California, USA) tổ chức.
    Hiệu đính: Cư sĩ Tâm Minh
    [hr]

    1
    Ngài trên căn bản tri kiến đã tuyên thuyết,
    Được tôn vinh là một nhà thông thái và
    bậc thầy siêu việt,
    Con cúi đầu đảnh lễ đấng Toàn Thắng,
    Đã chứng ngộ và truyền dạy lý duyên sinh.

    2
    Bất cứ bao suy đồi trong thế giới ta bà,
    Cội rễ của tất cả là vô minh;
    Lý duyên sinh do Ngài chỉ giáo,
    Nếu thấu triệt, vô minh liền đoạn trừ.

    3
    Vậy làm sao một người có trí
    Không hiểu được đạo lý này
    Của thuyết nhân duyên sinh
    Là tinh hoa giáo pháp của Ngài?

    4
    Hỡi Đấng Hộ Pháp, vậy ai có thể tìm được
    Con đường nào thù thắng hơn
    Để ca tụng Ngài
    Người dạy lý duyên sinh?

    5
    "Những gì tùy thuộc vào duyên,
    Thì không thật hiện hữu."
    Còn một giáo pháp cao siêu nào khác
    Hơn là những lời lẽ tuyệt diệu này?

    6
    Vì chấp trước nên kẻ ấu trĩ
    Kiên cố bám chặt vào biên kiến;
    Đối với người có trí, sự thật này là cửa ngõ
    Để thoát khỏi lưới khái niệm.

    7
    Đạo lý này không tìm thấy nơi đâu,
    Chỉ riêng Ngài là bậc "Thầy" duy nhất;
    Như bọn ngoại đạo gọi dã cang là sư tử,
    Danh xưng này chẳng qua lời nịnh hót.

    8
    Bậc Đạo Sư kỳ diệu! Đấng Qui Y kỳ diệu!
    Bậc Đại Hùng Biện kỳ diệu!
    Đấng Hộ Pháp kỳ diệu!
    Con cúi đầu đảnh lễ Tôn Sư,
    Người minh thuyết lý duyên sinh.

    9
    Hầu độ lành chúng sinh,
    Hỡi đấng Độ Sanh, Ngài đã dạy
    Luận lý vô song để minh định
    Tánh Không, tinh túy của giáo pháp.

    10
    Đạo lý duyên sinh này,
    Với những người nhận thức
    Mâu thuẫn hay vô căn cứ,
    Làm sao thấu triệt giáo hệ Ngài?

    11
    Theo Ngài, khi chứng ngộ tánh Không
    Qua nghĩa lý duyên sinh,
    Thì cái không có tự tánh
    Cùng tác nhân và tác nghiệp không mâu thuẫn.

    12
    Nếu nhận thức đối nghịch lại
    Vì không có tác nghiệp trong tánh Không
    Hoặc không có tánh Không nơi tác nhân,
    Thì rơi vào vực sâu kinh hãi;
    luận lý Ngài là như thế.

    13
    Bởi vậy, trong giáo pháp Ngài,
    Tán thán kiến ngộ lý duyên sinh;
    Cũng vậy, không thể hoàn toàn không hiện hữu
    Hoặc thật hiện hữu.

    14
    Độc lập như hoa trong hư không,
    Do đó không gì không tùy thuộc.
    Nếu vạn vật có tự tánh,
    Thì hiện hữu do nhân duyên sinh là mâu thuẫn.

    15
    " Vì thế không pháp nào hiện hữu
    Hơn là nương vào nhau sinh khởi,
    Không pháp nào hiện hữu hơn
    Sự trống vắng của tự tánh," như Ngài dạy.

    16
    "Vì tự tánh không thể nào bị phủ nhận,
    Nếu vạn pháp có tự tánh,
    Thì Niết Bàn không thể có
    Và tâm khái niệm không thể diệt," như Ngài dạy.

    17
    Do đó, ai dám thách thức Ngài?
    Với sư tử hống Ngài tuyên thuyết,
    Nhiều lần trong tập đoàn hiền triết,
    Là vạn vật tuyệt đối không tự tánh?

    18
    Vạn pháp vốn không tự tánh
    Do vì "nhân duyên sinh",
    Hà tất phải luận bàn
    Hai điểm nào mâu thuẫn?

    19
    "Qua lý nhân duyên sinh
    Không sa vào biên kiến;"
    Chính lý này Ngài diệu thuyết,
    Hỡi đấng Hộ Pháp, nhà hùng biện siêu việt.

    20
    "Chư pháp không tự tánh,"
    Và "Từ nhân này sinh quả nọ" -
    Hai khẳng định đồng tương trợ
    Chẳng hề đối nghịch nhau.

    21
    Còn gì kỳ diệu hơn?
    Còn gì tuyệt diệu hơn?
    Nếu ai tán dương Ngài như vậy,
    Lời tán thán chân thật này, không gì hơn.

    22
    Nô lệ bởi vô minh,
    Kẻ mãnh liệt chống đối Ngài,
    Không gì kinh ngạc khi thấy họ
    Bất nhẫn qua âm thanh của không tự tánh?

    23
    Nhưng khi chấp nhận thuyết duyên sinh,
    Tôn ngữ Ngài là bảo tàng quí báu,
    Mà không chịu nổi tiếng hống của tánh Không -
    Điều này quả thật làm con sửng sốt!

    24
    Cửa ngõ dẫn đến không tự tánh,
    (Cửa ngõ) lý duyên sinh vô thượng này,
    Chỉ qua danh hiệu, nếu ai chấp trước
    Vào tự tánh, thì kẻ đó . . .

    25
    Là người thiếu mất lối vào toàn thắng,
    Được vinh hành bởi bậc Thánh Nhân,
    Bằng cách nào dẫn độ người ấy
    Vào con đường tối thắng hài lòng Ngài?

    26
    Tự tánh, không thành tạo và độc lập,
    Duyên khởi, tùy thuộc và thành tạo -
    Làm sao hai quan điểm này
    Qui cùng một cơ sở không mâu thuẫn?

    27
    Do đó những gì tùy duyên sinh khởi,
    Dù vốn không tự tánh,
    Nhưng trình hiện như là (có tự tánh);
    Ngài dạy rằng tất cả tựa như ảo ảnh.

    28
    Qua sự thật này con hiểu rõ
    Luận cứ Ngài tuyên huấn
    Những kẻ đối nghịch thách thức Ngài,
    Không thể tìm ra khuyết điểm nào cho hợp lý.

    29
    Tại sao vậy? Bởi Ngài tuyên xướng rằng
    Cơ hội cho thường kiến và đoạn kiến
    Đối với sự thể được thấy và không được thấy
    Vĩnh viễn mãi xa lìa.

    30
    Qua đạo lý duyên sinh,
    Tuyên ngôn hợp lý của Ngài thật vô song,
    Niềm tin (cũng) khơi dậy trong tâm con
    Là những lời lẽ nào của Ngài cũng đều hữu hiệu.

    31
    Ngài minh thuyết nhìn sự thể như là,
    Những ai theo dấu chân Ngài học hỏi,
    Bao nhiêu suy thoái đều xa lìa;
    Vì cội rễ mọi lỗi lầm được đoạn trừ.

    32
    Những ai quay lưng đi với giáo pháp Ngài,
    Dù phấn đấu trong gian khổ trường kỳ,
    Sai lầm tăng trưởng như mời mọc;
    Vì ôm chặt quan niệm của tự ngã.

    33
    Ô hay! Khi bậc trí giả thấu triệt được
    Sự khác biệt giữa hai điều này,
    Tại sao ngay lúc đó còn không chịu
    Tôn vinh Ngài từ tận đáy lòng?

    34
    Huống chi vô số giáo huấn của Ngài,
    Ngay ý nghĩa của một phần nhỏ bé ,
    Mà có người dù thoáng hiểu sơ sơ,
    Cũng đạt được niềm vui cao tột.

    35
    Than ôi! Tâm con bị thua bại bởi vô minh;
    Dù từ lâu đã tìm được nơi nương tựa,
    Trong thể hiện của phẩm hạnh thù thắng,
    Con vẫn không đạt được phần nào nơi Ngài .

    36
    Tuy nhiên, trước khi dòng đời này
    Trôi về cửa tử đến hồi chấm dứt,
    Con đã tìm được tín tâm mong manh nơi Ngài -
    Ngay điều này, con nghĩ là phước hạnh.

    37
    Trong các bậc thầy, bậc thầy thuyết duyên khởi,
    Trong các trí tuệ, trí tuệ lý duyên sinh -
    Chính Ngài, đấng tối thượng tựa bậc
    quân vương trong thế gian,
    Thấu triệt nguyên lý này, không ai khác.

    38
    Tất cả những gì Ngài tuyên huấn
    Đều vận hành bằng đạo lý duyên sinh;
    Chẳng qua vì mục đích Niết Bàn;
    Không công hạnh nào của Ngài
    mà không đem lại tịch tĩnh.

    39
    Tuyệt thay! Giáo pháp Ngài là như vậy,
    Rót vào tai của bất cứ ai,
    Thời đều tịch tĩnh; còn ai không
    Vinh hạnh gìn giữ giáo pháp Ngài?

    40
    Vượt qua mọi thách thức đối lập;
    Thoát khỏi mâu thuẫn giữa trước và sau;
    Mãn nguyện hai ước vọng của chúng sinh -
    Giáo hệ này là niềm hân hoan nơi con dâng trào.

    41
    Ngài bố thí tất cả vì giáo pháp,
    Đã bao lần trong vô lượng kiếp,
    Khi thì thân Ngài, lúc thì mạng sống,
    Cả người thân yêu cùng tài sản.

    42
    Giáo pháp này với bao phẩm hạnh
    Thoạt thấy vụt kéo khỏi tâm Ngài,
    Như lưỡi câu và con cá;
    Buồn thay không được nghe từ chính Ngài.

    43
    Cơn phiền muộn mãnh liệt đó
    Không xa lìa tâm con,
    Như tâm người mẹ hiền
    (Mãi) kề cận đứa con yêu.

    44-45
    Giờ đây, ngẫm lại lời Ngài, con liên tưởng,
    "Rực rỡ huy hoàng của hảo tướng
    Và rạng ngời trong ánh hào quang,
    Bậc Thầy này trong âm điệu nguyên sơ,
    Đã thuyết như vầy."
    Khoảnh khắc mà hình bóng Đức Thích Ca
    Hiện ra trong tâm xoa dịu con,
    Như vầng trăng sáng làm vơi đi cơn sốt.

    46
    Giáo hệ siêu việt này, tuyệt vời nhất,
    Những người thiển trí
    Vướng mắc trong hoang mang,
    Tựa như bụi cỏ bal-ba-za rối bời.

    47
    Nhận ra tình huống này, con gắng sức
    Cùng với nhiều nổ lực
    Noi theo bậc đại trí
    Bao phen cố tìm chủ ý Ngài.

    48
    Những lúc nghiên cứu vô lượng kinh điển
    Cả Phật giáo và phi Phật giáo,
    Tâm con vướng nhiễu hơn bao giờ
    Liên tục bởi mạng lưới đa nghi.

    49
    Vườn hoa dạ lý của Long Thọ luận thư -
    Long Thọ là người Ngài đã thọ ký
    Sẽ thâm giải giáo lý thượng thừa là như vậy,
    Viễn ly hữu biên và vô biên -

    50
    Rực sáng bởi vòng bạch quang
    Trí tuệ toàn giác của Ngài Nguyệt Xứng -
    Nguyệt Xứng, bầu minh triết vô cấu tròn đầy,
    Thanh thản lướt qua không gian kinh điển,

    51
    Xua tan màn đêm của tâm thức cực biên
    Rạng rỡ che khuất chòm tinh tú ngụy biện -
    Khi qua lòng tốt của bậc Thầy, con nhận ra
    Tâm con cuối cùng đã tìm được niềm khuây khoả.

    52
    Các công hạnh của Ngài, diệu ngữ
    Ngài là tối thắng;
    Trong đó, đây là ngôn từ vô thượng;
    Vậy bậc trí giả nên tưởng niệm Đấng Thế Tôn
    Qua giáo pháp (của nhân duyên sinh).

    53
    Theo chân đấng Đạo Sư phát nguyện xuất gia,
    Thọ giáo huấn của bậc Toàn Thắng
    không thua kém,
    Tỳ kheo này gắng công lập hạnh du già,
    Như là lòng tôn kính (thâm sâu) đối với
    bậc Thánh Nhân vĩ đại!

    54
    Vì lòng từ ái của Tôn Sư
    Con gặp được giáo pháp của Đạo Sư vô thượng,
    Nguyện công đức này tạo nhân lành
    Cho chúng sinh được bậc thiện trí thức hộ trì.

    55
    Nguyện giáo pháp của đấng Lợi Tha
    cho đến khi thế gian tận tuyệt
    Không bị lay chuyển bởi ngọn gió ác tâm;
    Nguyện mãi tràn đầy người tìm được niềm tin
    Vào bậc thầy qua thông hiểu chân tánh của giáo pháp.

    56
    Nguyện con không hề chùn bước trong giây lát
    Để duy trì con đường thù thắng của Đức Thích Ca,
    Làm tỏa sáng nguyên lý duyên sinh,
    Trong muôn kiếp, dầu hy sinh thân mạng.

    57
    Nguyện con ngày đêm suy tư đắn đo,
    "Bằng cách nào có thể phát huy
    Giáo pháp này, chứng đạt bởi Đấng Thế Tôn
    Qua sự dày công trong vô lượng kiếp?"

    58
    Khi con gắng sức với chủ ý thuần tịnh,
    Nguyện cho Phạm Thiên, Đế Thích và
    thế gian Hộ Pháp,
    Cùng chư Hộ Thần như Diệu Hữu Đại Hắc
    Hằng gia hộ cho con, không thay đổi.
    Gia Đình Vô Hình

  3. #3

    Mặc định



    Quang cảnh hội trường buổi thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại San Francisco vào tháng 4 năm 2007

    các huynh-đệ-tỉ-muội và thân hữu nào muốn coi toàn bộ hình ảnh về buổi thuyết giảng này xin vào trang nhà : http://www.dalailamabay2007.com/Event/index.html

    Saigon42
    Gia Đình Vô Hình

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •