Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 21
  1. #1
    Lục Đẳng Avatar của splen
    Gia nhập
    Nov 2009
    Nơi cư ngụ
    Trung Sơn
    Bài gởi
    8,027

    Mặc định Ngẫm nghĩ về phim tây du kí

    Sưu tầm ở đâu đó . . .

    Phim tây du ký thì mình nghĩ ai cũng coi rồi, ít nhất là một lần, nhưng coi để hiểu được nội dung sâu xa của nó thì ít ai hiểu được, trẻ con coi thì thấy thằng tề thiên giỏi võ, biến này biến kia, trừ gian diệt ác, …theo mình thì ý tác giả muốn gửi gấm như thế này, hợp với mọi hoàn cảnh, đúng là một bộ phim kinh điển :


    - Sa tăng : Hiền lành, thật thà, trung thực nên luôn phải đi sau, toàn làm chuyện lặt vặt, chủ yếu là bóc vác, khiên đồ. Kết luận : thật thà thường thua thiệt.



    - Bát giới : mê gái, làm biếng, kém tài, đánh với yêu quái toàn chạy, nhưng giỏi nịnh bợ sếp (đường tăng) nên có công việc rất ư là nhàn hạ, là dắt ngựa đi ăn cỏ. Kết luận : leo lẻo lại lên lương.


    - Tề thiên : tài giỏi, thông minh tháo vát, biết lo xa, (như đánh với bạch cốt tinh, biết vẽ 1 vòng tròn rồi kêu sư phụ đừng ra khỏi vòng đó) nhìn xa trông rộng nhưng anh này bị cái là không được làm theo ý mình vì bị vòng kim cô khống chế, còn bị ông sư phụ luôn ngăn cản, có lúc vì tài lanh quá nên bị đường tăng cho tạm ngưng hợp đồng về hoa quả sơn ngồi chơi luôn . Kết luận : Giỏi mà không biết trên biết dưới cũng chết.


    - Đường tăng : không biết gì cũng được làm sếp, tề thiên đã dùng những gì mình học được để phục vụ ông ta (trừ ma, diệt quỷ) vậy mà ông ta vẫn 1 mực không tin, chỉ nhìn bằng con mắt của một người không hiểu về chuyên ngành. Kết luận : Sếp lúc nào cũng đúng.


    - Yêu quái : các bạn thấy ngộ không đánh chết những con yêu quái chỉ là những con lắt nhắt, còn những con trùm thì sao. Mỗi lần tính đập chết thì : “K..H…O..A…N…, DỪNG TAY LẠI, NÓ LÀ CON VẬT NUÔI CỦA TA”
    Vậy là đem nó về dạy dỗ lại, trong khi chủ nó bất cẩn để nó xuống trần gian làm chuyện ác mà chủ nó không bị cấp trên (ngọc hoàng) khiển trách, có lần ngộ không lên méc mà mấy cha thần tiên không tin, còn nói này nói kia, nhưng tới biết thì mau mau đi kiếm nó về mà không xin lỗi một lời với dân chúng chỗ đó.
    Kết luận : yêu quái là con ông cháu cha, làm sai làm ác cùng lắm về dạy dỗ lại thôi.


    - Diêm vương : bắt sai người (ngộ không) mà không xin lỗi làm nó nổi điên xé hết giấy tờ, thế là chơi chiêu méc với ngọc hoàng, ai sai trước thì biết !



    - Long vương : sống theo thời thế, lúc quen ngộ không thì chơi sang, tặng áo quần đủ thứ, tới khi con khỉ hốt được cây thiết bảng thì chạy lên méc ngọc hoàng. Đây là dân ba phải, hay chơi méc.


    - Ngưu ma vương : lúc xưa là anh em kết nghĩa với ngộ không, sau này con mình làm sai, bị ngộ không đánh, rồi bồ tát rước đi cho học tập cải tạo thành người tốt không tốn 1 đồng (bao ăn, bao ở, bao luôn thành nghề, có việc làm luôn), vậy mà còn ấm ức tề thiên, thương con mà không biết đúng sai.


    - Thần tiên : nhàn nhàn rảnh rảnh, đánh cờ, tán dóc trong khi dân chúng ở dưới thì hạn hán, đói khổ, yêu quái lộng hành mà không ai biết, tề thiên ko méc chắc mấy ổng cũng chả biết gì. Lại còn có cái thói đàn em mình (yêu quái) làm sai mà không một lời xin lỗi dân chúng. Ỷ làm quan rồi không thèm biết dân chúng là ai.


    - quan âm bồ tát : không thể giáo dục tề thiên bằng lời nói, nên phải dùng bạo lực để dạy con khỉ này, bằng cách dụ khỉ ta đeo vòng kim cô rồi dạy đường tăng niệm chú cho nó nhức đầu. Suy ra : giáo dục tư tưởng thì phải đi đôi với bạo lực.


    - Ngọc hoàng : chả biết gì, ngoài việc ra lệnh, đã vậy còn ghanh ghét. Thấy tề thiên treo chữ “ tề thiên đại thánh” chà bá, ổng thấy ngứa mắt lên kêu lính đi dẹp.


    - Thái bạch kim tinh : Lão này thấy tề thiên ko biết luật trời, mù mờ về chức vụ, nên dụ : “trên trời có chức này bảnh lắm nhưng đang còn thiếu ghế trưởng phòng , chú muốn thì theo anh, ngọc hoàng thấy chú cũng có năng lực nên ưa ái cho chú lắm à, chứ chức này khó ai đảm nhận lắm, anh thấy chú rất có tài lãnh đạo nên mới đề nghị ngọc hoàng bổ nhiệm chức này cho chú đó, ráng phấn đấu nhen !”
    Tội cho con khỉ ngu ngơ nên bị dụ, đi vô làm chăn ngựa làm mất mặt anh hùng.
    Túm lại : đừng nghe lời dụ kị về việc làm ngon mà nhàn, đâm đầu vô thì có mà chết.


    - Đến lúc tề thiên làm loạn, ngọc hoàng hỏi : “có chú nào tình nguyện đi hốt xác khỉ về không ?” Thì mấy thiên tướng đều ậm ừ, sợ nhận trách nhiệm, thì có thái thượng lão quân là hăng hái xung phong đi, nhưng sự việc thất bại lại đỗ lên đầu lão. Kết luận : chớ xung phong làm kẻ dẫn đầu, thất bại thì lãnh đủ.


    - Phật tổ : Ngộ không có bay đi đâu chăng nữa cũng không thoát khỏi bàn tay của ông, ý tác giả có thể là sẽ có một tổ chức cảnh sát hình sự xuyên quốc gia (Interpol)chăng, cái xấu luôn bị trừng phạt dù nó có chạy đi đâu chăng nữa.


    - tề thiên bị núi đè : có sự khoan hồng ở đây, dù anh ta tội rất nặng, dám đập cả cơ quan cao nhất (thiên giới) nhưng chỉ bị núi đè, mà còn hên là chừa cái đầu ra để ăn được, nếu chừa cái chân ra ngoài không biết sống được 1 tháng không chứ đừng nói chờ 5 thế kỉ để chờ ông sư phụ đáng tuổi cháu cố mình.


    - Sự giáo dục kì lạ của nhà trời : các con vật sống ở một thế giới an nhàn chốn thần tiên, các thần tiên đều sống không ganh đua, gian ác mà mấy con vật đó theo họ bấy lâu nay trốn xuống trần gian thì chẳng có con nào hiền, toàn dân ác ôn, vậy tụi nó theo mấy ông tiên ông thánh trên trời thì học được những gì ! khôn nhà dại chợ !


    - Hối lộ ở nhà trời : ở cõi phật uy nghi vậy mà cái tên lấy kinh còn đòi hỏi phải có gì nó mới đưa kinh, 4 thầy trò nghèo kiết xác biết lấy cái gì cho tụi nó, nên tụi nó cho lấy kinh không chữ.
    Hình như sau đó Như lai biết nên cho con đại bàng bốc kinh thả xuống. Nhờ vậy mà họ mới biết đi đổi lại.
    Nhưng trớ trêu 1 chỗ là Như Lai Phật tổ nói : “khi xưa có mấy chú kia đến thỉnh kinh rồi đem ra chợ bán với giá rẻ như rau muống, ta trách họ bán rẻ quá không đủ sống” thì ngộ không hỏi 1 câu làm ổng cứng họng : “bộ chuyện hối lộ này do ông sắp xếp hả” , phật cũng im re luôn.
    Đến khi chuẩn bị lấy kinh thật rồi còn bị hai thằng gian đòi quà cáp nữa, tam tạng là người trần gian nên rất tâm lý biết mấy cha đó cần gì, nên cho cái bát bằng vàng bốn số 9 cho tụi nó.


    - Rồi 4 thầy trò đều thành phật lướt mây về nhà thì Phật tổ hỏi quan âm : “4 thầy trò chịu bao nhiêu nạn rùi ? ” lẩm bẩm cộng trừ nhân chia, qaun âm trả lời :”da, 80 nạn”, phật tổ giật mình : “trong phật thường phải là số chính phương, 9 lần 9 81 lận”, nên sai quan âm làm thêm 1 nạn nữa cho hợp thức hóa, ý tác giả Ngô Thừa Ân đây là một thiếu sót trong bộ máy hành chính khi sự việc đã rồi, nên họ kiếm 1 cớ nào đó để làm cho đúng thủ tục hành chính.


    - Thấy việc lớn mà quên việc nhỏ : con rùa nhờ 4 thầy trò hỏi nó sống lâu rồi chừng nào mới quy tiên mà 4 thầy trò thấy kinh sáng mắt nên không còn nhớ chuyện khi xưa nữa, trí nhớ siêu phàm như tề thiên mà không nhớ được chứng tỏ lúc đó kinh phật làm họ quên câu chuyện của lão rùa. Mà con rùa đó cũng hiền, chỉ lật cho họ té rồi bỏ đi thôi. Gặp con ác nó đè đầu đường tăng cho chết luôn !!


    - Và cuối cùng hình như việc lấy kinh của 4 thầy trò được sắp sếp bởi phật tổ, khi cử quan âm đi nước Đường chọn người thỉnh kinh, phật tổ, quan âm chọn luôn 3 thằng đồ đệ, chọn luôn cho con ngựa cưỡi, lo đến mức như vậy luôn, thằng thì bưng bê khiên vác,thằng thì dắt ngựa, thằng thì diệt yêu, tam tạng ngồi rung đùi chơi, có làm khỉ gì đâu. Hóa ra đây chỉ là một trò chơi, mà người tham dự là 4 thầy trò.
    Kết luận : Giống như một cty muốn khuếch trương tên tuổi, nên nghĩ ra một trò chơi trúng thưởng, các nhân viên không được tham dự, nên kêu nhân viên mình đi kiếm người chơi, sắp đặt đủ trò với barem khổ nạn cho họ vượt qua. Và cuối cùng là nhận thưởng !!!


    Dù gì đi nữa thì bộ tây du ký 1986 là hay nhất, có làm lại mới cũng không thể nào so sánh được với bộ này đâu. Hồi nhỏ coi nhiều tới giờ thuộc từng chi tiết, nên mới ngẫm ra ý nghĩa (theo ý chủ quan)của bộ phim.
    Cuộc Đời Cứ Thế Xoay Tròn – Người Người Vẫn Thế Mê Muội.

  2. #2
    Lục Đẳng Avatar của camap_anchay
    Gia nhập
    May 2010
    Nơi cư ngụ
    Tuyệt Tình Cốc
    Bài gởi
    8,100

    Mặc định

    Lúc đầu đọc bài này thì bật cười vì khá hài hước. Nhưng ngẫm lại thì buồn vì xã hội này phức tạp quá, nhiều toan tính nữa. Con người sống trong xã hội như vậy thật khó để giữ được thiên lương trong sáng. Cảm ơn bác Splen đã post bài này. Cá đọc lâu rồi nhưng giờ được đọc lại vẫn thấy cảm xúc như trước. Giống như có điều gì bất mãn vậy.
    Liệu có tồn tại 1 xã hội hoàn thiện không có những cái gọi là Tham, Sân, Si hay không?
    Đời ta có khi tựa lá cỏ
    Ngồi hát ca rất tự do...

  3. #3
    12212012
    Guest

    Mặc định

    Tỉ tỉ có khẳng định là cái toan tính đó có lợi ít gì với người toan tính mới là một vấn đề đáng bàn luận tỉ ạh.

  4. #4
    Lục Đẳng Avatar của camap_anchay
    Gia nhập
    May 2010
    Nơi cư ngụ
    Tuyệt Tình Cốc
    Bài gởi
    8,100

    Mặc định

    Toan tính để đạt được lợi ích cho bản thân mà quên đi quyền lợi của người khác thì ích kỉ.
    Toan tính để hại người là tội ác.
    Toan tính xu nịnh người quyền thế hơn, giẫm đạp người vị thế ngang bằng và khinh rẻ miệt thị kẻ yếu chỉ để ngoi lên đạt đc mục đích bất chấp đạo lí là tiểu nhân.
    Toan tính trục lợi bằng mưu ma chước quỷ là lừa đảo.
    Tất nhiên cá không bàn tới những toan tính không có ác ý rồi. Ví dụ như mưu sinh chẳng hạn. Không tính rõ đường đi nước bước thì chịu chết đói àh?
    Đời ta có khi tựa lá cỏ
    Ngồi hát ca rất tự do...

  5. #5

    Mặc định

    nói thật nếu tui làm ngộ không thì sau khi thành phật tui sẽ bỏ đi lun vì tui đi lấy kinh chẳng qua là thoát cái núi với cái vòng kim cô đáng ghét thôi mà,nhưng suy cho cùng thì ngô thừa ân muốn nói bóng gió cái giai cấp thống trị thời đó như truyện phong thần mà thôi,chứ ko có thần thánh chi trong đây hết
    Người đạo sĩ cuối cùng

  6. #6
    Lục Đẳng Avatar của splen
    Gia nhập
    Nov 2009
    Nơi cư ngụ
    Trung Sơn
    Bài gởi
    8,027

    Mặc định

    Không thể nào có một xã hội hoàn thiện được, bởi không có giá trị nào là tuyệt đối cả. Xã hội chỉ có thể vươn đến sự hoàn thiện và "tham - sân - si" ngày càng ở mức độ tinh vi hơn mà thôi. Bản chất của xã hội là sự mâu thuẫn, nhờ có mâu thuẫn mà xã hội mới phát triển được.
    Cuộc Đời Cứ Thế Xoay Tròn – Người Người Vẫn Thế Mê Muội.

  7. #7

    Mặc định

    vừa độc xong chưa kịp cười thì đã thấy nhiều lỗi của tác giả
    -yêu quái:tại sao tác giả biết đem nó về trời mà ko xử tội,cảnh đó ko có chiếu ko đồng nghĩa với chuyện ko có
    -diêm vương:ko có bắt lầm người vô tội,nhưng vì ngộ không ko tin,cố chấp nên mới xé sồ sinh tử
    -long vương:tặng đồ ko phải là nịnh mà la muốn đuổi ngộ không đi cho nhanh,khi bị mất thiết bản thì bẩm báo là đương nhiên(nếu nhà vị mất đồ quý có báo công an ko?)
    -ngọc hoàng:ko phải là ko biết gì,ngọc hoàng là người lo trăm công nghìn việc,đâu thể lo hết mọi thứ trên đời
    -đường tăng:người trần mắt thịt thì thấy gì nói đó,ko thể đổ lỗi cho ông là ko nghe lời ngộ ko,tại ngộ ko đã có tiền án là nóng tính trước rồi
    ..............còn nữa,nhưng thôi cũng tôn trọng ý kiến tác giả
    Mây vô tình ngàn năm trôi mãi
    -Gió vô tình ngàn năm cứ bay
    Trăng vô tình trăng đùa với người
    -Người vô tình chẳng hiểu lòng tôi
    email:jackkesandem@yahoo.com
    sdt:01662908489

  8. #8

    Mặc định

    thì đây là suy nghĩ của cá nhân tác giả mà :D

  9. #9
    Đai Đen
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Nhũ Hoa Sơn, Am Đạo Cốc
    Bài gởi
    778

    Mặc định

    Phim hay, trẻ em người lớn cụ già ai ai cũng thích, mình coi mười mấy lần rồi. Nhớ lúc nhỏ mỗi khi đến hè nhiều đài cùng lúc chiếu phim Tây Du Kí, coi mệt nghỉ hết đài này lại chuyển kênh qua đài khác xem tiếp:)
    Thoái ẩn kể từ 19/9....

  10. #10

    Mặc định

    XIN CÁC MEM THỨ LỖI VÌ BẢI POST DÀI QUÁ.
    CÁM ƠN TGVH.

    Tiêu đề: Đường tăng thỉnh kinh hư cấu và lịch sử

    Trên đây, (.....)Hư thực đôi điều, cho biết rằng ngoài tác phẩm của Ngô Thừa Ân, đời nhà Minh còn có bộ Tây du ký truyện của Dương Chí Hòa, gồm bốn mươi mốt hồi. Nhưng trước Dương Chí Hòa và Ngô Thừa Ân, câu chuyện tây du thỉnh kinh của sư Huyền Trang đời Đường đã từng được thần kỳ hóa, truyền khẩu trong dân gian, dựng thành tuồng hát...

    Lỗ Tấn cho biết xưa đã có sách Đại Đường Tam tạng thủ kinh thi thoại với nhân vật Hầu Hành giả [Tề thiên]; tạp kịch đời Minh có Đường Tam tạng tây thiên thủ kinh, cũng gọi tên là Tây du ký, trong đó lại bỏ bớt nhân vật Tôn Ngộ không. Theo Lỗ Tấn, “ban đầu không có những chuyện kỳ lạ đặt bày, thế mà về sau các tiểu thuyết nói đến chuyện tinh quái khá nhiều. (...) Từ cuối Đường cho đến Tống, Nguyên cứ dần dần diễn thành chuyện thần dị...” [Lỗ Tấn 1996: 203].

    Như thế, trong thực tế ở Trung Quốc từ xưa đã có nhiều dị bản về truyện Tây du, tuy nhiên nhiều người vẫn thuộc với các tình tiết trong bản Tây du ký diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân, vì tác phẩm này được phổ biến nhất. Khi đối chiếu tiểu thuyết (bộ Tây du ký mười tập [TDK I-X 1982-1988]) với lịch sử cho thấy nhiều điểm gần trùng hợp, rất thú vị. Cuộc đời (thân thế) và sự nghiệp (cuộc thỉnh kinh) Đường tăng (Đường Tam tạng Pháp sư Huyền Trang) trong Tây du ký của Ngô Thừa Ân hoàn toàn là hư cấu.

    1. Thân thế Đường tăng

    A. Theo sử, Đường tăng pháp hiệu Huyền Trang, tên thật Trần Vĩ. Ông cố là Trần Khâm, làm quan chức Đông chinh Tướng quân, tước Nam dương Khai quốc Quận công đời Bắc Ngụy. Ông nội là Trần Khương, làm quan Quốc tử Bác sĩ đời Bắc Tề. Cha là Trần Huệ (cũng đọc Tuệ), làm quan huyện Giang Lăng, từ quan trong niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy Dạng đế (605-616). Trần Huệ sinh được bốn trai, con thứ hai là Trần Tố, làm hòa thượng, hiệu Trường Tiệp, trụ trì chùa Tịnh độ, thành Lạc Dương. Trần Vĩ là út, sinh năm 596 (hay 602?), đời Tùy Văn đế, tại huyện Câu Thị, Lộ Châu (thuộc tỉnh Hà Nam sau này).

    B. Theo [TDK I 1982: 206-227], bà nội Đường tăng họ Trương; ông ngoại là Thừa tướng Ân Khai Sơn; cha là Trần Ngạc, tự Quang Nhị, người đất Hải Châu, đỗ trạng nguyên đời vua Đường Thái tông năm 627, được bổ làm tri phủ Giang Châu; mẹ là Ôn Kiều (hiệu Mãn Đường Kiều). Trần Ngạc bị tên cướp Lưu Hồng giết trên sông Hồng để đoạt vợ đang có mang. Đường tăng là con đầu lòng, mới sinh ra tại phủ Giang Châu, bị mẹ thả sông, trôi tấp vào chùa Kim sơn, được Hòa thượng Pháp Minh nuôi dưỡng, đặt tên Giang Lưu.

    2. Họ Trần xuất gia

    A. Theo sử, năm 608, 13 tuổi, Trần Vĩ xuất gia, ở chùa Tịnh độ với Hòa thượng Trường Tiệp (Trần Tố, anh hai).

    B. Theo [TDK II 1982: 32], Giang Lưu được Hòa thượng Pháp Minh nuôi dưỡng ở chùa Kim sơn, 13 tuổi đã là sư Huyền Trang, khi lên kinh đô Tràng An, được Đường Thái tông chọn làm pháp sư chủ đàn cầu siêu tại chùa Hóa sinh (Hồi thứ 12).

    Như vậy, hồi này hoàn toàn mâu thuẫn với Hồi thứ 9: Hòa thượng Pháp Minh chùa Kim sơn nuôi dưỡng Giang Lưu từ khi mới sinh. Năm 18 tuổi Giang Lưu mới về Tràng An, trả được thù cha, rồi vào chùa Hồng phúc ở kinh thành tu tiếp.

    3. Nguyên nhân đi thỉnh kinh

    A. Theo sử, năm 618 (23 tuổi), vì tránh loạn ở thành Lạc Dương, Đường tăng và anh về Tràng An, ở chùa Trang nghiêm. Cả hai lại vào Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, học hỏi với các cao tăng trong năm năm.

    Năm 623 (28 tuổi), dù anh không chấp thuận cho đi xa, ông cũng lén theo thuyền buôn xuôi dòng Trường Giang tới Kinh Châu (thuộc tỉnh Hồ Bắc sau này), rồi chu du cầu học khắp các tỉnh phía bắc Trung Quốc. Càng đi nhiều, học hỏi nhiều, lại càng hoang mang vì những kiến giải khác nhau của các sư, các tông phái, ông muốn sang Ấn Độ khảo cứu đạo Phật tận gốc.

    Năm 626 (31 tuổi), gặp một cao tăng Ấn Độ từ chùa Na lan đà theo đường biển sang Trung Quốc, ông càng nung chí sang Ấn học Phật. Nhưng khi ông dâng biểu xin qua Ấn, triều đình không cho phép.

    Năm 629 (34 tuổi), ông lên đường đi về phương tây (thừa cơ hội vua Đường Thái tông, vì mưa đá mất mùa, cho dân đói ở kinh thành được tự do di tản mưu sinh).

    Hành trình thỉnh kinh của ông gồm bốn giai đoạn như sau:

    (1) Từ thành Tràng An tới ải Ngọc Môn Quan, là hết địa phận Trung Quốc, rồi đi vào sa mạc Gobi;

    (2) Từ sa mạc Gobi đi qua các nước nhỏ ở Trung Á, vượt dãy núi Hy mã lạp sơn tới biên giới Ấn Độ;

    (3) Từ nước Ca Tất Thi, [Kapisa, thuộc lãnh thổ Afghanistan sau này] chu du Ấn Độ, và tu học tại chùa Na lan đà (Narandha);

    (4) Rời Ấn Độ về Trung Quốc, nhưng không theo đường cũ.

    B. Theo [TDK II 1982: 45], vâng lời Bồ tát Quan âm dạy, Đường tăng đi sang chùa Lôi âm, nước Thiên Trúc, thỉnh kinh đại thừa về cầu siêu cho các âm hồn.

    4. Hai người hộ tống Đường tăng

    A. Theo sử, cùng với một nhà sư, Đường tăng rời thành Tràng An [nay là thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây]. Tới Tần Châu, ở một đêm; rồi cùng một người đi Lan Châu, ở một đêm; rồi theo một người chăn ngựa đi Lương Châu. Ở Lương Châu một tháng mới trốn được ra khỏi thành. Bị quan trấn thủ cho truy bắt, nhưng ông được một nhà sư cho hai học trò dẫn đường, ngày ẩn núp tối mới dám đi [có sách cho là ông đi tiếp qua Cam Châu, Tú Châu]. Đến được Qua Châu, hai nhà sư dẫn đường quay về. [Tần Châu, Lan Châu, Lương Châu, và Qua Châu đều thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay. Lan Châu là thủ phủ của tỉnh, nằm ở trung bắc Trung Quốc, dân đa số theo đạo Hồi.]

    B. Theo [TDK II 1982: 45;51-57], khi rời thành Tràng An, Đường tăng được vua Đường Thái tông cho ngựa và hai người theo hộ tống. Họ đến Củng Châu, rồi sang Hà Châu được quan trấn thủ đón tiếp đàng hoàng. Nghỉ một đêm, sáng sớm hôm sau họ vượt biên giới, hai người hộ tống bị ba con yêu cọp, gấu, trâu ăn thịt.

    (Hai ông sư bán đồ nhi phế -- bỏ về nửa chừng -- trong sử đã được TDK hư cấu thành hai người hộ tống bị yêu tinh ăn thịt.)

    5. Con ngựa của Đường tăng

    A. Theo sử, tại Qua Châu, Đường tăng được quan thứ sử chỉ đường: đi tiếp 50 dặm (khoảng 30 cây số) sẽ tới ải Ngọc Môn Quan, rồi tới năm phong hỏa đài, mỗi đài cách nhau chừng 100 dặm (khoảng 60 cây số), rồi tới nước Y Ngô [Uigur hay Uighur, nay thuộc khu tự trị Tân Cương].

    [Phong hỏa đài: đài truyền tin bằng cách hun khói (phong) lúc ban ngày hay đốt lửa (hỏa) lúc ban đêm để báo hiệu mỗi khi có giặc tới xâm phạm biên cương. Đài kế đó trông thấy cũng báo tin như vậy cho ải kế tiếp, cứ thế truyền tin lần lần cho tới ải Ngọc Môn Quan.]

    Ở Qua Châu con ngựa ngã bệnh chết; ông được một trai tráng xin theo làm đệ tử, nên mua hai con ngựa. Hôm sau đệ tử dẫn tới một ông lão dắt theo một con ngựa hồng, già và gầy. Ông lão xin đổi ngựa với Đường tăng, vì ngựa ông lão đã quen thuộc đường đi sang nước Y Ngô. Đường tăng đồng ý. Hai thầy trò đi gần đến ải Ngọc Môn Quan thì đệ tử xin trở về Qua Châu. Đêm trước, ông suýt bị y đâm lén.

    B. Theo [TDK II 1982: 93-104], Đường tăng đến khe Ưng Sầu, núi Xà Bàn, con ngựa do vua Đường tặng ông bị rồng tinh ăn thịt. Rồng này nguyên là thái tử thứ ba, con Tây hải Long vương Ngao Nhuận. Bồ tát Quan âm bắt rồng phải hóa thành con ngựa bạch (coi như đền mạng). Lúc ngựa được dẫn tới, Đường tăng ngạc nhiên thấy con ngựa này có vẻ béo hơn con trước.

    6. Đường tăng bị cái nóng thiêu đốt

    A. Theo sử, sau khi chia tay tên học trò bất hảo, một mình với con ngựa hồng già, ốm, Đường tăng vào sa mạc. Tới phong hỏa đài thứ nhất, ông suýt trúng tên của lính canh. Quan trấn thủ không thể thuyết phục ông bỏ ý định tây du đã chỉ đường tắt đi tới phong hỏa đài thứ tư. Ông lại suýt trúng tên của lính canh ở phong hỏa đài thứ tư. Quan trấn thủ chỉ đường cho ông đi tránh phong hỏa đài thứ năm để tới sa mạc Gobi (nằm ở phía bắc Trung Quốc, nam Mông Cổ, rộng 1.295.000 cây số vuông).

    Sau một ngày đường chừng trăm dặm, ông lạc lối trong sa mạc Gobi, lại còn tuột tay làm đổ hết nước dự trữ. Ông quay ngựa trở lại phong hỏa đài thứ tư lấy nước, đi chừng mười dặm bỗng hồi tâm nhớ lời phát nguyện: “Nếu chưa đến được Tây Trúc thì dù chết cũng không quay trở lại phương đông.” Thế là quành ngựa lại để tiếp tục đi về phương tây, người và ngựa khát khô trên cát bỏng.

    Sang ngày thứ năm, ông và ngựa ngã quỵ, mê man. Đến nửa đêm, như có phép lạ, trận gió mát lạnh từ đâu thổi tới, con ngựa đứng lên hý vang, ông chợt mở mắt ra, gượng leo lên lưng ngựa. Rán đi thêm vài dặm, ông gặp bãi cỏ xanh mướt bên dòng suối trong veo, thế là người và ngựa thoát nạn chết khô. Ông cho ngựa đi thêm hai ngày nữa, mới ra khỏi sa mạc Gobi; tổng cộng đi hết tám ngày, vượt qua 800 dặm (khoảng 480 cây số).

    B. Theo [TDK VI 1988: 193-194; 212-213], Đường tăng phải chịu cái nóng như thiêu đốt khi qua vùng Hỏa Diệm Sơn chắn đường sang phương tây thỉnh kinh, lửa bốc ngùn ngụt 800 dặm (con số này rất giống với sử), chung quanh không một ngọn cỏ, bốn mùa nóng bức. Bát giới đề nghị hãy chọn phương đông, phương nam, hay phương bắc không có lửa mà đi. Đường tăng không nghe, vì chỉ đi về hướng tây mới lấy được kinh Phật.

    Như vậy, vùng Hỏa Diệm Sơn (800 dặm) được hư cấu từ sa mạc Gobi (cũng rộng 800 dặm). Việc Đường tăng không chịu đổi hướng đi như lời Bát giới đề nghị cũng giống với sử nữa, đó là khi Đường tăng không chịu quay trở lại đường cũ lúc bị lạc trong sa mạc Gobi.

    7. Đường tăng là ngự đệ

    A. Theo sử, tới nước Y Ngô [Uigur (Uighur), thuộc khu tự trị Tân Cương ngày nay], Đường tăng ở lại mười ngày trong một chùa cổ có ba nhà sư Trung Quốc. Vua Khúc Văn Thái nước Cao Xương [Quoco, thuộc khu tự trị Tân Cương ngày nay] sai sứ qua mời ông sang. Đi hết sáu ngày ông tới kinh thành nước Cao Xương. Bị vua nài ép giữ ở lại, ông tuyệt thực bốn ngày phản kháng, sức khoẻ gần nguy kịch. Vua tạ lỗi, xin kết nghĩa anh em, và xin ông lưu lại một tháng giảng kinh.

    Trước ngày rời nước Cao Xương, ông được vua cho theo hộ tống gồm: bốn sa di, hai mươi lăm người lực lưỡng, một viên quan lớn tháp tùng để mang thư giới thiệu ngự đệ với vua nước Đột Quyết (Turkistan?); ngoài ra còn có hai mươi bốn lá thư khác gởi cho vua các nước ngự đệ sẽ đi ngang qua để nhờ yểm trợ. Buổi lên đường, vua quan, dân chúng tiễn ông đến tận cửa thành. Vua cầm tay ông, mắt đẫm lệ, bịn rịn mãi.

    B. Theo [TDK II 1982: 47-49], cảm động vì Đường tăng quên mình đi sang phương tây gian lao, nguy hiểm, vua Đường Thái tông đến chùa Hóa sinh trong thành Tràng An xin kết nghĩa anh em với ông.

    Ngày lên đường, ông được vua quan tiễn chân ra tận cửa thành. Vua ban tặng ngự đệ một bình bát bằng vàng, một con ngựa trắng, hai người hộ tống, ban hiệu là Tam tạng, và quan trọng nhất là cấp cho tờ điệp văn thông hành để khi Đường tăng qua các nước lân cận hay chư hầu nhà Đường sẽ được vua các nước ấy giúp đỡ.

    Vậy, theo TDK, Đường tăng ra đi có đủ passport công vụ kèm quốc thư để xin visa nhập cảnh các nước khác; còn theo sử thì Đường tăng thuộc dạng vượt biên trái phép và bị truy nã. Vua Khúc Văn Thái trong sử lại được hư cấu thành Đường Thái tông trong TDK.

    8. Các lần gặp cướp

    A. Theo sử, ít nhất có bốn lần Đường tăng gặp cướp:

    (1) Dọc đường từ nước Cao Xương sang nước A Kỳ Ni [Agni, thuộc khu tự trị Tân Cương ngày nay], bị một toán cướp chận lại.

    (2) Từ nước Na Yết La Bát (Nagarahara), trước khi tới nước Kiền Đà La [Gandhara, thuộc Pakistan sau này], ông nhờ một ông lão dẫn đi chiêm bái một hang động có Phật tích [có sách nói động này ở thành phố Nhiên Đăng (Dipankara)], dọc đường bị năm tên cướp chận lại nhưng ông cảm hóa được họ.

    (Chuyện này gần giống Hồi thứ 14, Đường tăng ra khỏi nhà cụ già họ Trần bị sáu tên cướp chận đường.)

    (3) Tới nước Ca Thấp Di La [Kashmir, thuộc Pakistan sau này], ông được nhà vua cho hai mươi người đi theo sang Ấn Độ để giúp ghi chép. Trên đường đi về miền trung Ấn Độ, ông bị chừng năm mươi tên cướp tấn công [có sách nói việc này xảy ra ở một khu rừng, sau khi ông rời thành phố Na La Tăng Ha (Narasimba)].

    (4) Trên đường về nước, từ nước Tăng Ha Bổ La (Simhapura) trước lúc tới nước Đản Xoa Thỉ La (Takshasila), ông lại gặp một toán cướp.

    B. Theo TDK, Đường tăng có bốn lần gặp cướp:

    (1) Sau khi tá túc một đêm ở nhà cụ già họ Trần, sáng sớm lên đường, ông bị sáu tên cướp chận lại [TDK II 1982: 79-81];

    (2-3) Hai lần gặp cùng một bọn cướp hơn ba mươi tên [TDK VI 1988: 126, 144];

    (4) Mấy thầy trò ra khỏi nhà viên ngoại họ Khấu, gặp bọn cướp chừng ba mươi tên [TDK X 1988: 133].

    9. Các yêu quái ăn thịt người

    A. Theo sử, chẳng thấy chép rằng Đường tăng đã bị bọn ăn thịt người bắt. Nhưng đáng lưu ý sự kiện này: Khi ông tới nước Kiệt Nhược Cúc Đồ [Kayakubja, bang Uttar Pradesh sau này], ở lại ba tháng, rồi xuôi sông Hằng, tiếp tục chu du về phía đông. Thuyền đi được chừng 100 dặm thì gặp mười ghe cướp chận lại; ông bị bắt đem về sào huyệt [có sách nói ông đi cùng tám mươi người; việc xảy ra ở vùng A Đà Mục Khư (Ayamukha)].

    Bọn cưóp đặt ông lên bàn thờ, chuẩn bị nghi thức hạ sát để tế sống nữ thần Durga. Ông biết mình sắp chết, vô phương kêu cứu. Tuyệt vọng, ông khép hai mắt, tập trung tư tưởng, dốc tâm cầu nguyện chư phật. Như có phép lạ, cuồng phong bỗng nổi lên dữ dội, quét đổ mọi thứ trên bàn thờ; bọn cướp sợ hãi phải thả ông ra.

    B. Theo TDK, đủ loại yêu tinh già, trẻ, đực, cái, thậm chí có cả yêu “nhí” Hồng hài nhi, luôn luôn tìm trăm phương nghìn kế bắt sống Đường tăng ăn thịt. Chúng đều tin rằng Đường tăng là chân tu nhiều kiếp, ăn một miếng thịt của ông, sẽ thành trường sinh bất tử.

    10. Kỳ thị tín ngưỡng

    A. Theo sử, có những xung đột như sau:

    (1) Đường tăng đến A Kỳ Ni (Agni) ở lại một đêm rồi sang nước Khuất Chi [Kucha, thuộc khu tự trị Tân Cương ngày nay]. Vì ông khước từ tiệc mặn do vua nước Khuất Chi đãi, nên phải tranh luận về giáo lý tiểu thừa và đại thừa với Quốc sư Mộc Xoa Cúc Đa (Mokshagupta) vốn đã học Phật giáo tiểu thừa ở Ấn Độ hai mươi năm. Sau sáu mươi ngày, khi rời đi, ông được vua cho người theo phục dịch, cung cấp ngựa và lạc đà.

    (Cũng giống TDK ở Hồi thứ 44: tranh tài với Quốc sư nước Xa Trì.)

    (2) Tới nước Táp Mạc Kiến [Samarkand, nay là thành phố của Uzbek thuộc Nga], Đường tăng bị những người theo Bái hỏa giáo (thờ lửa) cầm đuốc rượt đuổi. Vua nước này không ủng hộ đạo Phật, tiếp ông lạnh nhạt. Sau khi thuyết pháp cảm hóa được vua, ông lưu lại và chấn chỉnh các chùa Phật ở kinh thành.

    (Cũng giống TDK ở Hồi thứ 84: cạo đầu cho vua quan nước Diệt Pháp quy y.)

    (3) Tại Ấn Độ, Đại sư Giới Hiền (Silabhadra), chủ chùa Na lan đà đã 106 tuổi, giao cho Đường tăng thuyết nhiều bộ kinh quan trọng. Ông trở thành người phát ngôn chính thức về giáo lý đại thừa của chùa. Nhiều học giả do khác quan điểm giáo lý đã tranh biện với Đường tăng:

    ( Một thầy tu Bà la môn viết bốn mươi điều biện luận dán ở chùa Na lan đà, thách thức ai bác được, ông ta sẽ dâng cái đầu. Đường tăng mời sư Giới Hiền làm chứng cuộc tranh biện. Ông thắng, nhưng tha mạng kẻ thua.

    (Cũng giống TDK ở Hồi thứ 44: tranh tài với Quốc sư nước Xa Trì, ai thua bị chém đầu.)

    (Bát Nhã Cúc Đa (Prajnagupta), đại sư phái tiểu thừa, viết “Phá đại thừa luận” công kích giáo lý đại thừa. Đường tăng viết “Phá ác kiến luận” trình sư Giới Hiền rồi công bố để bác lại Bát Nhã Cúc Đa.)

    B. Theo TDK, những xung đột do khác tín ngưỡng kể trên được hư cấu như sau:

    (1) Ở nước Xa Trì, thầy trò Đường tăng chống lại ba anh em đạo sĩ yêu tinh đang đàn áp đạo Phật. Đó là yêu cọp (Quốc sư Hổ lực), yêu nai (Lộc lực), yêu dê (Dương lực).

    – Đường tăng đấu phép cầu mưa với Hổ lực, ai thua bị chém đầu; cùng Hổ lực thi ngồi thiền; cùng Lộc lực thi đoán tên món đồ dấu kín trong rương.

    – Tề thiên đấu phép: cùng Hổ lực thi chém đầu mọc lại đầu khác; cùng Lộc lực thi mổ bụng moi gan; cùng Dương lực thi tắm trong vạc dầu sôi. [TDK V 1988: 116, 131, 134, 143, 146, 148]

    (2) Đánh nhau với yêu đạo sĩ là quốc trượng nước Tỳ Kheo. [TDK VIII 1988: 190]

    (3) Vua nước Diệt Pháp có lời thề phải giết 10.000 nhà sư. Tề thiên hóa phép cạo đầu cả triều đình; hoàng gia và bá quan quy y theo đạo Phật, đổi tên nước là Khâm Pháp. [TDK IX 1988: 74, 101]

    11. Về chùa Lôi âm

    A. Theo sử, Đường tăng tới nước Ma Kiệt Đà (Magadha), tu học ở chùa Na lan đà. Chùa này lớn nhất Ấn Độ, rộng gần như một thành phố, đã có mặt hơn 700 năm trước khi Đường tăng đặt chân đến. Chùa Na lan đà được coi là đại học cổ nhất, chứa khoảng 150 bộ kinh của đạo Phật, Bà la môn, sách về các lãnh vực khác; lúc nào cũng có khoảng 10.000 sư tăng tu học. Nghe tin ông đến, chủ chùa là Đại sư Giới Hiền cử khoảng 200 nhà sư và chừng 1.000 phật tử đi đón. Đường tăng ở chùa năm năm.

    B. Theo TDK, Đường tăng đến chùa Lôi âm, được đón tiếp rất trọng thể: Phật tổ cho 8 bồ tát, 4 kim cang, 500 la hán, 3.000 yết đế, 11 đại diệu, 18 già lam, tất cả đứng xếp thành hai hàng trong chánh điện chào mừng. [TDK X 1988: 164]

    (Tổ chức đón long trọng y như khi Đại sư Giới Hiền tiếp Đường tăng. Nói khác đi, TDK mượn chùa Na lan đà hư cấu thành chùa Lôi âm; còn Đại sư Giới Hiền thì hư cấu thành Phật tổ.)

    12. Về việc kinh bị chìm xuống sông

    A. Theo sử, Đường tăng lên đường trở về Trung Quốc năm 643 (48 tuổi), sau mười mấy năm du học ở Ấn Độ [có sách chép 10, 13 hay 15 năm]. Ông dùng voi, lạc đà, ngựa chở 657 bộ kinh và nhiều thứ khác về nước.

    Dọc đường (đầu năm 644), qua nước Đản Xoa Thỉ La [Takshasila, nay là tỉnh Punjab, nước Pakistan], ông cỡi voi vượt sông Tín Độ [Indus, dài khoảng 3.060 km là sông chánh của Pakistan, phát nguyên gần núi Kailas ở Tây Tạng (Tibet) và đổ vào biển Ả Rập ở đông nam Karachi]. Những người khác và hành lý đi thuyền. Thuyền ra giữa sông bỗng cuồng phong (theo [TDK X 1988: 186], khi thầy trò vớt kinh lên bờ thì ma quỷ nổi cuồng phong để cướp kinh, Tề Thiên phải dùng hết oai thần mới giữ lại được) nổi lên làm lật chìm, bị mất 50 bộ kinh. Sau này, qua nước Vu Điền [Khotan, thuộc khu tự trị Tân Cương], được vua nước này lưu lại bảy tháng thuyết pháp, Đường tăng cho người qua các nước khác tìm chép bổ sung số kinh bị mất.

    Có sách nói lúc nghe tin thuyền chìm, vua nước Ca Tất Thí (Kapisa) đến thăm, rước Đường tăng về kinh thành ở năm mươi ngày, trong thời gian đó Đường tăng cho người qua nước Ô Trưởng Na (Udyana) chép lại chỗ kinh trôi mất. Sau này khi về đến nước Kustana, lưu lại bảy ngày, ông cho người đi tới nước Khuất Chi (Kucha) và Kashgar để bổ sung thêm chỗ kinh bị mất.

    B. Theo [TDK X 1988: 185], thầy trò Đường tăng và hành lý, kinh kệ được con rùa trắng chở từ bờ tây sang bờ đông sông Thông Thiên. Rùa bơi chừng nửa ngày, trời đã chiều, gần đến bờ bên kia thì rùa giận Đường tăng không giữ lời hứa với nó, đã quên hỏi Phật tổ giải đáp cho rùa một thắc mắc, nên rùa hất luôn cả đoàn người ngựa, hành lý xuống sông. Kinh bị ướt, vớt lên phơi khô thì hư mất mấy trang chót.

    13. Bài văn của vua Đường Thái tông

    A. Theo sử, giữa năm 648, Đường tăng dịch xong chín bộ kinh, lấy tên là Tân phiên kinh luận. Vua Đường Thái tông tuy già yếu, nhưng muốn kỷ niệm cuộc tây du thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu nên đích thân viết 781 chữ làm một bài tựa cho bản dịch ấy, và nhan đề là Đại Đường Tam tạng thánh giáo. Viết xong, vua cho một quan học sĩ đọc trước mặt các quan trong một buổi lâm triều.

    B. Theo [TDK X 1988: 201-204], Đường tăng về đến kinh thành; Vua Đường Thái tông mãi nghĩ tới công lao của người em kết nghĩa không gì đền đáp được, mất ngủ. Sáng hôm sau giữa triều, vua ứng khẩu đọc cho quan trung thư chép bài Thái giáo tự tạ ơn ngự đệ.

    14. Kết quả cuộc thỉnh kinh

    THEO SỬ
    THEO TDK

    – Đường tăng rời Tràng An năm 629.
    – Đường tăng rời Tràng An năm 639. [TDK I 1982: 51]

    – Xa xứ 16-17 năm.
    – Xa xứ 14 năm. [TDK X 1988: 199]

    – Mất hai năm mới về tới Tràng An.
    – Cỡi mây bay về chưa tới một ngày. [TDK X 1988: 193]

    – Tới Tràng An đầu xuân năm 645, lúc 50 tuổi.
    – Tới Tràng An năm 653, ngoài 30 tuổi. [TDK X 1988: 199]

    – Cả đi và về vượt qua 50.000 dặm đường bộ, chừng 30.000 km). Có sách cho là 8.333 dặm Anh, khoảng 10.000 km.
    – Lúc đi vượt qua 108.000 dặm; khi về không tính đường bay (đằng vân). [TDK X 1988]

    – Thường nói đại khái là đã qua 128 hay 138 nước lớn nhỏ. (Mỗi nước lớn khoảng một tỉnh của Trung Quốc hay một bang của Ấn Độ ngày nay. Chỉ riêng [Thích Minh Châu 1989: 108-113] kể tên các nước đủ nhất.)
    – Không tổng kết đã qua bao nhiêu nước, chỉ kể tên 8 nước. [TDK X 1988: 199]

    – Dùng 20 ngựa chở về nhiều tượng Phật, 150 hột xá lợi, 657 bộ kinh và luận của nhiều phái đại thừa, đựng trong 520 hộp.
    – Chở về 35 bộ kinh, 5.048 quyển. [TDK X 1988: 176]

    – Về Trung Quốc dịch kinh 18 năm, được 75 bộ, gồm 1.335 quyển. (Nữ đạo diễn Trung Quốc, Dương Khiết, làm phim TDK tập thứ 25, đã cho Đường tăng thỉnh kinh chữ Hán, chắc bà nghĩ là chùa Lôi âm đã... dịch sẵn rồi!)
    – Về Trung Quốc khỏi dịch kinh, thầy trò cùng thăng thiên. [TDK X 1988]

    So Tây du ký với sử, sự trùng khớp như dẫn trên rất thú vị; nó cho thấy kỳ tài có một không hai của Ngô Thừa Ân. Nếu viết tiểu sử Huyền Trang một cách chân phương như sử gia, có lẽ số người ham đọc chẳng là bao. Nhưng với ngòi bút của Ngô Thừa Ân, cuộc đời Huyền Trang trở thành hấp dẫn, thần bí, ly kỳ và lôi cuốn hàng bao triệu người trong liên tiếp mấy trăm năm. Ngô Thừa Ân nhờ Huyền Trang mà bất hủ. Huyền Trang nhờ Ngô Thừa Ân mà đã rực rỡ càng mãi rực rỡ huy hoàng.

    Nguyễn Hiến Lê có lý lắm khi viết rằng: “Thử hỏi, trong lịch sử nhân loại có vị danh nhân thứ hai nào như ông [Huyền Trang] không? Nội một việc dân tộc Trung Hoa thần kỳ hóa cuộc đi thỉnh kinh của ông, truyền miệng cho nhau, sau chép lại thành một bộ tiểu thuyết – tức bộ Tây du ký – cũng là một cái vinh dự mà từ xưa đến nay chưa ai được nhận nữa!” [Nguyễn Hiến Lê 1971: 5].

    trích từ bài viết của Dũ Lan LÊ ANH DŨNG
    Last edited by bud; 07-07-2010 at 11:22 AM.

  11. #11

    Mặc định

    đọc về sử đường tăng rồi nhưng bài này tui đc đọc 1 cách rõ nhất,cám ơn sư huynh,có tài liệu nói ông chỉ đi 1 mình nhưng nếu đi 1 mình với chặng đường xa như vậy là điều ko thể làm đệ thắc mắc mãi nay đọc bài này mới
    Người đạo sĩ cuối cùng

  12. #12

    Mặc định

    hay quá thầy nó ạ!
    ♥Chỉ cần buông chiếc lá cuối cùng
    Hoa sẽ nở trong những cành lá mới
    Chỉ cần xem nỗi buồn là hạt bụi
    Thì bụi buồn theo gió sẽ bay đi ♥

  13. #13
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của tritue
    Gia nhập
    Nov 2009
    Bài gởi
    5,553

    Mặc định suy ngẫm cùng Tây du ký (sưu tầm)

    1-Tại sao lại đặt tên là Ngộ không?
    2-Đổi bát vàng lấy kinh ngụ ý gì?
    3-........................................?


    Muôn loài sống trên mặt Đất này đều có Tánh Mạng, cũng đồng tu tiến, tất cả chúng sanh không đi ra ngoài luật ấy. Linh Quang vào trần phải trải qua bao kiếp học hỏi. Phải hy sinh giúp đời, hy sinh thân mạng của mình để nuôi sống kẻ khác, thì Chủ Tể Linh Quang mới được tiến hóa. Cứ bỏ xác này nhập vào xác khác, từ kiếp này qua kiếp kia, loài này qua loài nọ, trải qua muôn kiếp mới làm được con người. Người là nhơn loại, còn thực vật, động vật, khoáng sản, kim thạch thì gọi là vật loại. Còn những vi thể cực vi gọi là sanh linh mà kiếp sống ngắn ngủi chỉ bằng một sát na ( 1/90 của giây), một kiếp sống vô cùng ngắn ngủi, sanh linh ấy phải sinh sinh tử tử hằng triệu kiếp rồi mới tiến lên một bực, một kiếp sống dài bằng một giây, rồi vài phút, rồi vài tiếng đồng hồ. Có những sinh vật sống được vài ba hôm rồi chết. Đến loài dã thảo thì sống được một năm, cứ thế mà tiến dần từ lũy kiếp đến tiền kiếp, phải ngàn muôn triệu kiếp mới qua được trung kiếp là cầm thú.
    Trải qua ngàn muôn kiếp bực trung mới tới bực nhơn loại là đại kiếp. Kiếp Vi Nhơn định hạn Bách Niên, nhưng thế gian ít người được Chín Mươi ( 90 ). Làm người thật rất khó, làm Tiên Phật lại càng khó hơn. Bởi vì kể từ Kiếp Vi Nhơn là bắt đầu chịu Thiên Điều thưởng phạt. Nếu biết sống thuận Thiên Mạng, xả thân giúp đời, vị tha vong kỷ thì được tiến hóa. Nhược bằng mê muội theo hồng trần làm điều nghịch lý, lợi kỷ tổn nhơn thì phải chịu nhiều quả báo, có khi còn thối chuyển xuống thú cầm, thảo mộc là đằng khác.
    Ôi! Khó lắm thay! Thiên Điều định luật!
    Vi Nhơn nan! Vi Nhơn nan!
    Đôi điều về Chay – Mặn:
    Loài linh vật hay thảo mộc, rau quả ngũ cốc là vật Tiên Thiên tự hóa, là giống vô tình, là vật vô tri, hữu sanh vô giáo, hữu mạng vô tánh, cần phải được tiến hóa hơn, bởi thanh chất phù hợp với Tiên Thiên Khí. Rau quả có màu xanh là do tiếp thụ ánh nắng Mặt Trời, hấp thụ Hạo Nhiên Khí đầy đủ tinh ba Thượng Giới, nên dù phải tiếp độ, ăn chúng, vẫn dụng được cái Thanh Chất ấy mà luyện Mạng hoàn đắc Kim Thân theo các pháp, bởi Thanh Chất phù hợp với Khí Tiên Thiên. Chừng công đầy quả đủ, cởi bỏ xác phàm, Kim Thân thăng thượng mới siêu xuất Tam Giới, ấy là lẽ đương nhiên “Thanh Giả Vi Thiên”.Còn như ăn mặn
    bởi động vật là giống hữu tình có Tánh – Mạng, hữu tri hữu giác do chỗ Hậu Thiên trần cấu, chỗ huyết nhục giao cảm chi tình. Bởi Động là Đất, Tịnh là Trời, Động vật thuộc về Đất sanh, Tịnh vật thuộc về Trời sanh. Cơ Động – Tịnh đã rõ ràng như vậy.
    Người Tu Đơn Luyện Mạng mà nếu ăn mặn thì bị cái huyết nhục sinh động của hồng trần Trược chất thâm nhập, thì Kim Thân bị Điển Trược, dầu có Đắc Hồng Châu, thì Hồng Châu này do huyết nhục tạo thành nên không thể Siêu Xuất Tam Giới mà vẫn bị luân hồi trong cảnh Trược. Các con ghi Tâm khắc cốt điều này.
    Lại như ăn chay cũng không nên ép xác khổ hạnh. Bởi vậy, cần ăn uống cho đủ chất, đủ mùi, đủ vị thì mới đủ Tinh Ba để luyện mạng, Ngũ Tạng mới sanh Tinh, mới hườn qui Ngũ Khí.
    Chất cay nồng thuộc Phế – Kim. Chỉ ăn vừa đủ, không ăn nhiều chất Cay như Ớt, Gừng, Tiêu vì chất Cay Nồng hại Can – Mộc. Ấy là Kim Khắc Mộc sẽ sanh bịnh.
    Chất Chua, The, Chát thuộc Can – Mộc dùng nhiều có hại cho Tỳ – Vị ( Thổ ). Ấy là Mộc Khắc Thổ sẽ sanh bịnh.
    Chất vị Ngọt, Bùi thuộc Vị là Bao Tử ( Thổ ). Dùng nhiều có hại cho Thận Thủy. Ấy là Thổ Khắc Thủy sẽ sanh bịnh.
    Chất Mặn, Lạt thuộc Thận Thủy. Dùng nhiều sẽ hại Tim ( Hỏa ). Ấy là Thủy Khắc Hỏa sẽ sanh bịnh.
    Chất Đắng, Nhẩn thuộc Tim ( Hỏa ). Dùng nhiều hại Phế – Kim. Ấy là Hỏa Khắc Kim sẽ sanh bịnh.
    Trong việc ăn uống cũng phải cẩn thận để cho Ngũ Tạng điều hòa mà sản suất Tinh Ba, Ngũ Tinh Hoá Ngũ Khí, Ngũ Khí Hóa Ngũ Thần, Ngũ Thần Hóa Ngũ Quang, Ngũ Quang Hườn Phục Hư Vô. Hư Vô thì không còn phân chia, Đắc Nhứt rồi không còn sanh diệt mới vĩnh viễn trường tồn, huyền đồng Vũ Trụ. Đó là tột cùng cái Đạo vậy.
    Quả Tim là Tâm Thất nghĩa là nhà của Tâm, còn huyết mạch là Thể của Tâm, vì huyết mạch châu lưu khắp cùng thân thể, mang Dưỡng Khí nuôi dưỡng các Tế Bào trong thân thể, từ đầu đến chân, chỗ nào cũng có huyết mạch đi tới để trưởng dưỡng. Bởi vậy khi chân đạp gai, tay đụng nhằm Lửa liền cảm giác biết đau, biết nóng. Cái biết ấy do Xúc mà biết, nhờ Tâm Thể là huyết mạch là biết. Nơi nào không có huyết mạch đi tới là chỗ ấy không có sự sống hoặc bị tê liệt thì không có Xúc Giác. Cái biết ấy cũng là Tâm nhưng là của huyết mạch tức Tâm Thể. Còn cái thấy của Mắt đối cảnh thần tri, biết phân biệt màu sắc sự vật, cái biết ấy là Nhãn Thức. Nhãn do Tâm mà có Thức. “Nhãn Thị Chủ Tâm” nhưng đấy gọi là Tâm – Thần là cái Tâm, chung quy cũng chỉ là một Hơi Thở.
    Mà Hơi Thở là cái Khí, mà Khí chính là Tâm! Tâm có thấp có cao, do chỗ Khí có Trược có Thanh. Phàm nhơn Thở thì cái Khí hồng trần là Tâm, một Hơi Thở dùng làm lẽ sống nuôi thân, nhờ Hơi Thở ấy mà có sự sống, dứt Hơi Thở là chết. Dứt Hơi Thở thì không còn gì nữa hết. Mắt còn mà không thấy, Tai còn mà không nghe, Mũi còn mà chẳng ngửi, Miệng còn mà chẳng biết mùi vị nóng lạnh, Thân còn mà chẳng cảm giác đụng chạm tiếp xúc. Vậy thì tất cả cũng chỉ do Tâm.
    Còn Hơi Thở Tiên Thiên là sao? Là chẳng phải Thở bằng mũi miệng mà Thở bằng Tâm. Tiên Thiên chỉ ứng hiện vào Tâm khi cái Tâm được Định, trở về cái Nguyên Thể của nó là Chơn Không. Bởi Tâm không còn một niệm, không tạp tưởng thì trở lại chỗ Tâm Nguyên Thủy là Chơn Không thì phù hợp với Chơn Không của Vũ Trụ, ấy gọi là “Tâm Tâm Tương Cảm”. Cái Tâm đồng thể với Vũ Trụ, ấy là Huyền Đồng thì Khí Tiên Thiên ứng vào Tâm Thể mà hòa cùng huyết quản. Khí Tiên Thiên hễ Tâm cảm thì nó ứng, chẳng phải do Hơi Thở của phàm phu.
    Bởi thế các con Luyện Đạo cần để Tâm Không mới Tiếp thu được Tiên Thiên Khí. Tiên Thiên Khí hoặc biến, khó có thể cầm giữ lâu ngày nếu cái Tâm chưa hằng Định. Bởi vậy phải luyện cho được Hằng Tâm. Giữ được Hằng Tâm trong một phút … nhưng mà rất khó, phải dày công phu luyện tập mới đặng.
    Hơi Thở Tiên Thiên vào là Khí mà ra là Thần. Nhập Tẩn nghĩa là hít vào bằng Mũi, Mũi là Tẩn Môn cửa của Đất. Xuất Huyền là ra tại cửa Huyền Môn tức Nê Hườn Cung cũng gọi là Nam Thiên Môn – Đại Phật Đảnh.
    Vào là Khí mà ra là Thần, đó là Hơi Thở Thiên Tiên.
    Lúc ngồi Châu Thiên Vận mà cái Tâm được Định, Thần – Khí được vững, Tiên Thiên thị hiện, Khiếu Nê Hườn bị Điển Tiên Thiên xung phá, ấy gọi là Xuất Huyền, được như vậy mới là Ấn Chứng, nhược bằng trong lúc công phu mà Tâm còn vọng tưởng lo nghĩ bâng quơ thì Hơi Hô Hấp chỉ còn là hồng trần tạp khí. Vậy sự công phu trong giờ ấy không kết quả. Bởi Nguyên Thể của Tâm là Tiên Thiên Khí, mà nếu Tâm còn tạp nhiễm trần lao thì mất chỗ Tiên Thiên. Có câu:
    “Phật Tức Tâm – Tâm Tức Phật”, cái Khí Tiên Thiên ấy là Tâm Phật đó. Tâm tưởng Phật là Tâm Không, còn Tâm vọng niệm trần lao là Tâm tà, Tâm vọng.
    Biết được nó rồi gọi là Ngộ Không tức là Đắc Đạo. Biết được nó phải thâu nhiếp được nó. Giữ nó cho thường tại trong lòng gọi là có Hằng Tâm. Không biết được Tâm mình thì không thể nào Đắc Đạo, công phu không kết quả thì không thể nào Thành Đạo được. Không biết được Hơi Thở Tiên Thiên thì làm sao biết được Thiên Tướng (Không Tướng).
    Trải qua con đường thiên sơn vạn thủy, muôn hiểm ngàn lao, Ngộ Không cung Ngộ Năng, Ngộ Tịnh phò Thầy đến được Tây Phương, bỏ xác tại Lăng Vân Độ, lìa Bến Mê lên Bờ Giác, bỏ xác phàm mà nhập cảnh Tây Phương. Vào Kiến Phật là Khí đã hóa Thần. Phật truyền lịnh mở Hội Truyền Kinh, Cộng Đồng Chư Phật Mười Phương lại chừng có 500 A-La-Hán Giáng Long Phục Hổ, Bát Đại Kim Cang Thắng Hội. Sau khi Phật Như Lai minh giải về Ba Tạng Kinh, Phật truyền cho A-Nan, Ca-Diếp nhị vị Tôn Giả dẫn Thầy trò Tam Tạng qua Bửu Kinh Các mà phát Kinh. A-Nan, Ca-Diếp nhị vị Tôn Giả lại hỏi Đường Tăng rằng : “ Thánh Tăng từ Trung Thổ đến đây lạy Phật thỉnh Kinh mà có đem lễ chi chăng?”, Tam Tạng thưa : “ Chỉ có lòng thành” mà đến đây lạy Phật thỉnh Kinh về Trung Thổ để cứu độ người đời cùng siêu độ âm hồn. Thế rồi nhị vị Tôn Giả phải cho Kinh Không Chữ ( Vô Tự ) mà Bốn Thầy trò Tam Tạng cũng không biết. Ấy là “ Vô Tự Chơn Kinh” dễ gì thế gian biết được? Mà Đường Tăng đã Hiển Đắc Kim Thân lẽ nào không biết Tâm Kinh Vô Tự? Còn Ngộ Không tức là Ngộ Đạo lẽ nào không biết Vô Tự Chơn Kinh? Thế rồi Bốn Thầy trò nhận Kinh ấy mà ra khỏi núi. Lúc đó Nhiên Đăng Cổ Phật đã thấu rõ nguyên do bèn sai đệ tử Mạnh Hùng theo lấy Kinh lại, vì biết rằng thế gian Nam Thiệm Bộ Châu là bực thường nhơn muội trí không thể nào tri nổi Tâm Kinh ấy.
    Khi Bốn Thầy trò trở lại ra mắt Như Lai, Phật mới phán bảo nhị vị phát Kinh không có lỗi. Chỗ này Ý Pháp rất quan trọng. Các môn đồ đệ tử muốn Đắc Pháp Thành Đạo thì phải có cả một tấm lòng thành, nguyện chí Tâm hy sinh trọn cuộc đời mình xả thân Hành Đạo thì mới được Pháp Bảo, được Kinh Báu Phật ban, mới được Thân Vàng Hiển Chứng. Đó là một sự trao đổi lập ước giữa Thánh với phàm, giữa Tiên với tục. Phàm mà muốn được Bửu Pháp của Tiên ban thì có vật trao đổi, là trọn tấm lòng thành dâng hiến, trọn kiếp sống hy sinh để đánh đổi lấy Đạo, lãnh được Báu Kinh cho mình. Cũng như
    Phật muốn truyền Đạo cho chúng ta, buộc ta phải qui y tam bảo, phải lập ước với Thầy, phải cam kết , phải đem cả cuộc đời, mạng sống của mình để đánh đổi cái Đạo.
    Sau khi Phật thuyết minh, Đường Tăng đã tỉnh ngộ hiểu ý, Phật dạy A-Nan Tôn Giả phát kinh Hữu Tự cho Đường Tăng đem về Trung Quốc. Lần này A-Nan Tôn Giả cũng hỏi một câu là: “ Thánh Tăng từ Trung Thổ đến Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh có đem theo lễ gì chăng để hiến dâng lên Phật?”. Đường Tăng mới lấy Bình Bát Vàng dâng lên mà làm của Lễ. Bình Bát Vàng tượng trưng cho tấm lòng thành là vật quý nhứt của Đường Tăng để đổi lấy Kinh Báu.
    Một Tạng Kinh Hữu Tự cũng tức là phần Thiên Thơ Quyển Hạ được giao cho Đường Tăng đem về Trung Thổ. Xong Bốn Thầy trò ra khỏi núi Linh Sơn. Phật Quan Âm tra bộ công quả của Đường Tăng trải 13 năm gian khổ cùng bao nhiêu là tai nạn, bèn bạch trình cùng Đức Như Lai xin cho Bát Đại Kim Cang dùng thần thông đưa 4 Thầy trò đem Kinh Báu về Trung Thổ cho kịp trong vòng 8 ngày để trở lại Lôi Âm mới Thành Đạo. Bởi khi vào Lôi Âm bái Phật thỉnh kinh gọi là Khí Hóa Thần. Đến khi thỉnh về Đông Độ dâng lên Vua Đường Thế Tôn ấy gọi là Thần Hườn Hư. Xong nhiệm vụ rồi bốn Thầy trò được Bát Đại Kim Cang dùng thần thông hóa gió trở lại Phật cảnh là Thành Đạo gọi là Hư Hườn Vô. Như Lai sắc phong cho Tam Tạng đặng thành Chánh Quả là Chiên Đàn Công Đức Phật. Ngộ Không Hành Giả được thành Chiến Đấu Thắng Phật, phục hườn Chơn Thể, không còn mang lốt Mỹ Hầu Vương, cũng không còn Kim Cô Cẩn Thủ, ấy là “ Tướng Thể Quy Minh, Chơn Như Đại Giác”. Ngộ Năng được phục hồi Thiên Bồng Chánh Khí, được Phật chỉ phong làm Tịnh Đàn Sứ Giả. Ngộ Tinh phục hồi Quyện Liêm Thiên Tướng hình dung tuấn nhã. Được Phật chỉ phong làm La Hán.
    Tam Tạng thần sắc quang minh, ba trò hình dung tuấn tú, chẳng còn mặt người mà lòng thú như xưa “Thân Phật mà lòng cũng Phật”. Con Long Mã cũng được A-Nan Tôn Giả dẫn ra ao Hóa Long xô xuống mà hoàn lại kiếp Rồng, vẩy vàng, sừng ngọc, râu bạc, liền bay lên dán vào Long Trụ được Phật chỉ phong làm Bát Bộ Thiên Long.
    Bốn Thầy trò được thành Chánh Quả ấy gọi là “ Nhứt Thể Tam Thân Đồng Hiển Phật”.
    Vẫn còn tiếp...
    Last edited by tritue; 16-11-2010 at 09:08 PM.
    VÔ MÊ RA TỈNH
    MỚI TỊNH ĐƯỢC TÂM
    TRÍ TUỆ PHẬT MÔN
    http://thienynhiemmau.com.vn/forum/

  14. #14

    Mặc định

    C' est la vie !!!:D:D:D

  15. #15
    Lục Đẳng Avatar của splen
    Gia nhập
    Nov 2009
    Nơi cư ngụ
    Trung Sơn
    Bài gởi
    8,027

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi meyeubebo Xem Bài Gởi
    C' est la vie !!!:D:D:D
    Mà sống thì phải biết chấp nhận và vươn lên.
    Cuộc Đời Cứ Thế Xoay Tròn – Người Người Vẫn Thế Mê Muội.

  16. #16
    Minh-Tam
    Guest

    Mặc định

    Đại sư tỷ Trí Tuệ có vẽ thích font chữ to và màu rực rỡ nhỉ?

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi meyeubebo Xem Bài Gởi
    C' est la vie !!!:D:D:D
    thế dòng này là thế nào nhể,không rành tiếng miên tí nào
    GIÁO CHỦ THẦN LONG GIÁO

  18. #18
    Lục Đẳng Avatar của batquantrai
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    6,518

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi meyeubebo Xem Bài Gởi
    C' est la vie !!!:D:D:D
    .............

    C est = chị em ai có khát thì nên dùng , la vie = nước khoáng cho mát . anh cả dịch như thế không biết có trúng không nữa . hihihihihihiiii :D surrender surrender
    Như tảng đá kiên cố
    Không gió nào lay động
    Cũng vậy , giữa khen chê
    Người trí không giao động .
    :big_grin: :big_grin:

  19. #19

    Mặc định

    Ngộ Không : S..ư p..h...ụ.....Sư...... phụ !
    Tam Tạng : Nhậu Không ! Nhậu Không !

  20. #20
    Lục Đẳng Avatar của Ivan_vanbinh
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Thiên Sơn Đỉnh
    Bài gởi
    15,470

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhutuan Xem Bài Gởi
    Ngộ Không : S..ư p..h...ụ.....Sư...... phụ !
    Tam Tạng : Nhậu Không ! Nhậu Không !
    :laughing::laughing::laughing:
    "Xin làm chiếc Lá lặng lẽ rơi
    Để Gió cuốn trôi nơi cuối trời...
    "

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 08-07-2009, 04:56 PM
  2. Chữa bệnh như phim kiếm hiệp
    By KhangThien in forum Chuyện các Thầy, Bà…
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 06-07-2009, 07:53 PM
  3. Xin kể có những bộ phim về ma ( hồn ) nào ?
    By hphu in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 06-07-2009, 08:52 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •