Trang 1 trong 5 12345 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 98

Ðề tài: đi Tìm Thăng Long Thành .

  1. #1
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định đi Tìm Thăng Long Thành .

    ĐI TÌM THĂNG LONG THÀNH .

    Đây là loạt bài viết về Thăng long thành của TS. NGUYỄN XUÂN DIỆN - PGD. THƯ VIỆN HÁN NÔM ( Lâm Khang ) và BÙI QUỐC HÙNG ( dienbatn ) . Để có thể giữ nguyên mạch văn , chúng tôi dùng chức năng khóa Topic . Những ai muốn bàn thảo , xin mở bài bên lề . Đây là công trình nghiên cứu rất nghiêm túc của chúng tôi , tuy vậy chúng tôi cũng chỉ coi là một giả thiết , ngõ hầu có thể góp phần xác định chính xác vị trí của THĂNG LONG THÀNH , kỷ niệm 1.000 năm THĂNG LONG - HÀ NỘI .
    Trong bài viết , chúng tôi có sử dụng những thư tịch cổ sẽ mang màu nâu , những ý kiến của các Học giả trích dẫn sẽ mang màu Dark Blue và phần viết của chúng tôi sẽ mang màu Blue , phần cần chú ý sẽ mang màu đỏ. Sức người có hạn , bể học vô bờ , nếu chúng tôi có sai sót gì , mong các bậc Tiền bối chỉ bảo cho .
    Chúng tôi sẽ viết theo những đề mục sau :

    1/ VỀ SỰ PHÁT LỘ DI CHỈ KHẢO CỔ 18 HOÀNG DIỆU VÀ MỘT SỐ NƠI KHÁC .
    2/ GIỚI THUYẾT VỀ MỘT VÀI THUẬT NGỮ .
    3/ CHỨNG CỨ - CÁC LOẠI Ý KIẾN CỦA TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ VỊ TRÍ THĂNG LONG THÀNH .
    4/ VIỆN DẪN THƯ TỊCH CỔ .
    5/ KẾT LUẬN MỞ CỦA RIÊNG CHÚNG TÔI ( Lâm Khang và dienbatn ) .

    Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị .
    Lâm Khang và dienbatn .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  2. #2
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    PHẦN 1/ VỀ SỰ PHÁT LỘ DI CHỈ KHẢO CỔ 18 HOÀNG DIỆU VÀ MỘT SỐ NƠI KHÁC .

    Không đề (IV) (Lưu Quang Vũ)

    Phố Hàng Buồm không còn một cánh buồm
    Phố Hàng Lược chẳng còn ai bán lược
    Phố Hàng Bạc những người thợ bạc
    Đã chết cùng đêm hội ngày xưa
    Chợ Mơ không còn mơ
    Cửa Hà Khẩu đã thành phố xá
    Qua Ngõ Trạm chẳng còn ai đổi ngựa
    Đường Cựu Lâu lầu cũ cháy lâu rồi
    Người ta uống bia hơi
    Dưới tấm dù xanh đỏ
    Phố Hàng Bài bán giầy da dép nhựa
    Đông Bộ Đầu thành bến ô tô...

    Trên thềm rêu điện cũ những triều vua
    Lũ trẻ lấm lem đùa nghịch
    Bao quyền uy chót vót
    Nay đã thành đất bụi lãng quên
    Tiếng nấc Nguyễn Du, giọt lệ Xuân Hương
    Những câu thơ buồn khổ yêu thương
    Ngày ấy chẳng ai cần
    Bây giờ ta nhớ mãi
    Ngọn gió của ngàn đời
    Chiều nay ùa trở lại.

    Nơi xa
    Một con tàu xuyên bóng tối
    Đi về miền núi đá vôi
    Một vùng nước trắng xa xôi
    Một nhà ga cô quạnh
    Một người đàn bà ướt lạnh
    Đứng chờ anh.

    Nguồn: Lưu Quang Vũ, thơ tình, NXB Văn học, 2002




    Lâm Khang và dienbatn .
    Last edited by dienbatn; 11-10-2007 at 09:45 PM.
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  3. #3
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định


    " Ta cố đợi nghìn năm, rồi nghìn năm nữa khác sẽ qua " .
    Hòn Vọng Phu 2 - Lê Thương


    Có gì trùng hợp trong lời hát Hòn Vọng Phu của Nhạc sĩ Lê Thương với Lịch sử , hay là một lời Tiên tri cho những gì đã và đang xẩy ra . Không ai biết được . Có điều từ thủa Cao Biền Trấn yểm nhiều địa Huyệt của nước Việt ( 866 - 868 ) , hơn 1.000 năm đã trôi qua . Một Đại vận là 540 năm . Hai Đại vận là 1080 năm . Năm 2001 , năm đầu tiên bước vào Thế kỷ 21 , Trận đồ Trấn yểm trên sông Tô Lịch bị phá . Năm 2003, việc khai quật khảo cổ ở khu vực 18 Hoàng Diệu - Ba Đình, Hà Nội đã làm phát lộ những di tích liên quan Hoàng thành Thăng Long. Phát hiện đã gây xôn xao, và kéo theo nó là cuộc tranh luận về việc bảo tồn như thế nào bởi nó dính dáng đến địa điểm xây nhà Quốc hội mới. Năm 2006, APEC - VIỆT NAM đã tụ hội hàng chục Nguyên thủ Quốc gia , kể cả những nước hùng mạnh nhất đều quy tụ lại Việt nam , đất lành chim đậu , một việc mà hàng nghìn năm qua chưa hề có . Năm 2007, Việt nam lại chính thức gia nhập WTO , mở ra một chân trời mới cho sự phát triển của Đất nước . Đây có phải là một sự trùng hợp chăng - Câu trả lời còn bỏ ngỏ cho các bạn suy nghĩ .
    Trong bài này , chúng tôi chỉ xin đi sâu vào khía cạnh VỊ TRÍ CHÍNH XÁC CỦA THĂNG LONG THÀNH . Đã có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước viết về vấn đề này , nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức , nhưng cho đến nay , vị trí chính xác của THĂNG LONG THÀNH vẫn chưa được xác định . Nhiều cuộc tranh luận đã nổ ra , nhưng kết luận vẫn còn là một câu hỏi .
    Lật lại Lịch sử cả ngàn năm , trên đất Hà nội bây giờ đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi . Ta có thể thấy các Thành đã được xây dựng trên nền đất của Hà nội ngày nay bao gồm : Thành Vạn Xuân do Lý Nam Đế , rào lũy ở cửa sông Tô Lịch để chống quân xâm lược Trần Bá Tiên ( 545 ) ; Năm 602 , nhà Tùy chuyển trụ sở đô hộ từ Long biên sang Tống bình là tên gọi của miền đất Hà nội thời nay ; Tử Thành do Khâu Hòa (621) ; Thành Long Biên - Năm Điều Lộ thứ 1 ( 679 ) ; Tống Bình thành do Trương Bá Nghi (767) ; Thành Đại La do Cao Biền (867) dựng lên ; Thành Thăng Long do Lý Công Uẩn dựng lên năm 1010 ; Và cuối cùng là Thành Hà nội ngày nay . Trên một vùng đất dày đặc di chỉ kiến trúc , chồng chéo lên nhau như thế , việc xác định chính xác vị trí của THĂNG LONG THÀNH quả thực là một vấn đề nan giải . Dựa theo thư tịch cổ còn sót lại đến ngày nay , chúng ta chỉ có tấm bản đồ thời Hồng Đức ( 1490 ) - Tức là 380 năm sau khi Lý Công Uẩn xây dựng thành Thăng Long . Ngoài ra còn có một số bia đá và và một số di chỉ khắc trên đồng , thật là ít ỏi .
    Trong bài :

    Thăng Long hoài cổ

    (Bà huyện Thanh Quan)
    " Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
    Nước còn cau mặt với tang thương
    Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường "

    Đã nói lên cảnh vật đổi sao dời của THĂNG LONG THÀNH .
    Chính vì những điều ở trên , chúng tôi đã thực hiện một quá trình nghiên cứu các thư tịch cổ còn sót lại mà chúng tôi được tiếp cận , mong muốn góp một tiếng nói nhỏ bé trong việc xác định vị trí của THĂNG LONG THÀNH .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  4. #4
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    PHÁT LỘ NHỮNG DI TÍCH LIÊN QUAN TỚI THĂNG LONG THÀNH TẠI 18 HOÀNG DIỆU .

    Theo Luật di sản văn hoá, trước khi thực hiện dự án xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình, trên khu vực nằm giữa các đường phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn, Chính phủ cho phép Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật trên diện rộng. Từ tháng 12/2002 đến nay, đã khai quật trên diện tích hơn 19.000 m2. Đây là quy mô khai quật khảo cổ học lớn nhất ở Việt Nam và cũng vào loại lớn nhất ở Đông Nam Á. Từ đó đã phát lộ một phức hệ di tích – di vật rất phong phú, đa dạng từ thành Đại La (thế kỷ VII - IX) đến thành Thăng Long (thế kỷ Xl -XVIII) và thành Hà Nội (thế kỷ XIX). Trên cơ sở phát hiện khảo cổ học này, các nhà khảo cổ học còn phải dành nhiều thời gian để chỉnh lý hiện vật và hoàn chỉnh hồ sơ khoa học về các di tích, di vật. Về phương diện khoa học, các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành liên quan như khảo cổ học, sử học, kiến trúc, văn hoá, địa lý, địa chất, môi trường,,, cũng cần có nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận hàng loạt vấn đề như cảnh quan tự nhiên, cấu tạo của các sông, hồ, quan hệ giữa các lớp đất; tên gọi, chức năng, niên đại của các di tích kiến trúc; cấu trúc của khu di tích và sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử; phân loại và xác định nguồn gốc, niên đại các di vật. Vì vậy không có gì ngạc nhiên, trong một vài hội thảo khoa học hay trên báo chí, xuất hiện một số ý kiến khác nhau về những vấn đề khoa học cụ thể này. Tuy nhiên, trên tổng thể đã có đủ cơ sở khoa học để đưa ra những đánh giá khái quát về giá trị lịch sử văn hoá của khu di tích đã phát hiện. Khu vực khai quật hiện nay nằm về phía tây của điện Kính Thiên trong Hoàng Thành thời Lê sơ. Rõ ràng đây là di tích của một phần phía tây Hoàng Thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng thế kỷ XI - XVIII, ngược lên thành Đại La thế kỷ VII - IX và kéo dài đến thành Hà Nội thế kỷ XIX. Khu di tích bộc lộ một bề dày lịch sử từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIX gồm thời tiền Thăng Long, thời Thăng Long và Hà Nội. Các di tích và tầng văn hóa chồng xếp lên nhau qua nhiều thời kỳ lịch sử một cách khá liên tục. Thật hiếm có một khu di tích lịch sử-văn hoá trải dài qua nhiều thời kỳ lịch sử như vậy giữa vùng đất trung tâm của thủ đô và cũng thật hiếm có thủ đô một nước có lịch sử lâu đời lại phát hiện một quần thể di tích chảy dài suốt bề dày lịch sử như vậy.

    Các di tích kiến trúc và một khối lượng rất lớn di vật cho thấy một phần qui mô và diện mạo của Hoàng Thành cùng đời sống cung đình của vua quan, quý tộc qua các thời kỳ lịch sử. Tầng tầng lớp lớp di tích - di vật hiện lên như một bộ sử nghìn năm văn hiến của Thăng Long – Hà Nội phản chiếu trình độ và bản sắc dân tộc của một trung tâm văn hóa lớn nhất và lâu đời nhất của đất nước.

    Về phương diện lịch sử, phát hiện khảo cổ học này cung cấp nhiều cứ liệu khoa học để xác định vị trí trung tâm của thành Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh, để hiểu thêm mối quan hệ giữa thành Đại La với thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội thời Nguyễn. Thành Đại La qua nhiều lần xây dựng, từ Tử Thành do Khâu Hoà xây năm 618 chỉ 900 bộ (khoảng 1,65 km), La Thành do Trương Bá Nghi xây năm 767 rồi Triệu Xương đắp thêm năm 791, thành Đại La do Trương Chu xây năm 808 mà La Thành bên ngoài dài 2000 bộ (khoảng 3,70 km) rồi Lý Nguyên Gia dời thành và Cao Biền mở rộng thêm thành 1982 trượng (khoảng 6,5 km), ngoài có đê dài 2125 trượng (khoảng 7 km). Đó là toà thành có qui mô lớn nhất trong thời Bắc thuộc. Tại khu vực khai quật, đã tìm thấy dấu tích thành Đại La trên cả bốn khu A, B, C, D, chứng tỏ vùng này nằm trong thành Đại La. Bên trên dấu tích Đại La là di tích kiến trúc và các di vật thời Lý. Điều đó chứng tỏ vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La đúng như Chiếu dời đô, đổi tên là thành Thăng Long và buổi đầu đã sử dụng toà thành này cùng một số kiến trúc có sẵn rồi sửa sang, xây dựng thêm những cung điện mới. Phạm vi của Hoàng Thành từ thời Lý, Trần sang Lê sơ thay đổi như thế nào còn phải nghiên cứu thêm, nhưng qua phát hiện khảo cổ học ở Ba Đình thì rõ ràng khu vực này là một bộ phận phía tây của Hoàng Thành xưa và không thay đổi. Hơn nữa, theo bản đồ thành Đông Kinh thời Hồng Đức thì khu vực khai quật này nằm trong phạm vi cấm thành của Hoàng Thành. Kết quả khai quật khảo cổ học kết hợp với tư liệu thư tịch và bản đồ cổ cho phép hình dung khu trung tâm của Hoàng Thành rõ nét hơn.

    Phát hiện này còn cung cấp thông tin cho biết trong lòng đất Hoàng thành Thăng Long xưa còn bảo tồn nhiều di tích di vật quý. Từ đây có thể đưa ra khả năng mở rộng diện điều tra và khai quật, xây dựng quy hoạch bảo tồn một khu vực di tích lịch sử văn hoá của kinh thành Thăng Long, thành Hà Nội cổ và mở rộng đến các di tích cách mạng và kháng chiến thời đại Hồ Chí Minh như Hội trường Ba Đình, Lăng và Nhà sàn Bác Hồ, Tổng hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ, Hội trường Ba Đình, kéo dài từ thế kỷ thứ VII (hi vọng có thể phát hiện những di tích, di vật sớm hơn) đến thế kỷ XX. Đây là một di sản văn hóa vô giá của dân tộc nằm giữa thủ đô Hà Nội và nếu nghiên cứu, bảo tồn tốt, có thể được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Một di sản văn hoá như vậy sẽ tăng thêm vị thế của thủ đô Hà Nội, phát huy tác dụng sâu sắc trong giáo dục truyền thống dân tộc cũng như trong các hoạt động giao lưu văn hoá và du lịch. Chỉ một bộ phận di sản đã được phát hiện ở Ba Đình hiện nay đã làm xúc động biết bao những người có dịp đến tham quan, chiêm ngưỡng và cả những người chỉ mới được nghe tin và xem ảnh qua các phương tiện thông tin đại chúng.

    ( HOÀNG THÀNH THĂNG LONG - Phát hiện khảo cổ học ) .

    BẢN ĐỒ KHU VỰC KHAI QUẬT ( Chụp lại trong cuốn sách đã dẫn ) .

    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  5. #5
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Kết quả bước đầu khai quật khảo cổ học (Phần 1) - Tống Trung Tín .
    Khu vực dự định xây dựng Nhà Quốc hội và hội trường Ba Đình mới có diện tích rộng khoảng 48.000m2 đã được Chính phủ quyết định cho thi công trong năm 2002. Nhưng trước khi công trường xây dựng khởi công, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, từ tháng 12-2002, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia đã phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Xây dựng, chỉ đạo Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật khảo cổ học tại khu vực này. Đây là nơi được giới nghiên cứu sử học và khảo cổ học đoán định nằm trong khu trung tâm của Kinh đô Thăng Long thời Lý, thời Trần và thời Lê (thế kỷ XI - XVIII). Tính đến thời điểm tháng 10-2003, Viện Khảo cổ học đã khai quật được 17.000m2. Hiện nay, công tác khai quật khảo cổ vẫn đang tiếp tục, song các kết quả bước đầu đã thu được là rất tốt đẹp.

    Dấu vết kiến trúc thời Đại La, thời Lý Trần ở khu B nhìn từ phía Đông Nam




    Chi tiết cột Đại La ở hố B13 đang đứng nguyên trên tấm gỗ .



    Tầng văn hóa

    Trên toàn khu vực, vị trí nào cũng xuất lộ các tầng văn hóa có chứa các dấu tích lịch sử và văn hóa của Thăng Long - Hà Nội trong khoảng hơn 1.300 năm lịch sử. Nhìn chung lớp đất văn hóa này thường xuất hiện ở độ sâu khoảng từ 1m trở xuống và dày từ 2,0-3,50m. Tại vị trí của một số hố khai quật như hố A10 – A11, B3 - B9 và D4 - D6 có thể nhận ra được di tích của các thời đại chồng lên nhau.


    Dấu tích trụ móng sỏi của hệ thống kiến trúc "Lầu lục giác" nằm ven sông, hồ ở khu A


    Dấu tích kiến trúc thời Lý - Trần ở D4



    Ví dụ tiêu biểu là vị trí hố B3. Tại vị trí này, có thể thấy rõ trật tự văn hóa qua các thời như sau:

    - Từ độ sâu 0,90m đến 1,90m đã gặp lớp văn hóa thời Lê có niên đại thế kỷ XV-XVIII.

    - Từ độ sâu 1,90m đến 3m là lớp văn hóa thời Lý và thời Trần (thế kỷ XI-XIV). Tại đây còn có vị trí có dấu tích một nền gạch vuông thời Trần chồng hẳn lên nền gạch vuông thời Lý qua một lớp đất đắp dày 12cm - 15cm.

    - Từ độ sâu 3m đến khoảng hơn 4,20m là lớp văn hóa thời Đại La (thế kỷ VII-IX).

    Dĩ nhiên sự thay đổi của tầng văn hóa ở nhiều vị trí khác là khá phức tạp và không giống nhau, nhưng trên đại thể, diễn trình văn hóa tiêu biểu của di tích là như vậy.

    Các dẩu tích kiến trúc tiêu biểu

    1. Ở trong các tầng văn hóa đều tìm thấy những di tích kiến trúc đặc trưng cho các thời Tiền Thăng Long hay còn gọi là thời Đại La (thế kỷ VII - IX), thời Lý (thế kỷ XI - XII), thời Trần (thế kỷ XIII- XIV), thời Lê (thế kỷ XV - XVIII).


    Cửa và hệ thống cống thoát nước phía Đông kiến trúc lớn phía Bắc khu A




    Dấu tích kiến trúc lớn nhiều gian ở Bắc khu A. Hình người đứng giả định cho các cột của kiến trúc .



    Dấu tích kiến trúc sớm nhất thuộc thời Đại La. Đó là vết tích của các nền kiến trúc xếp bằng gạch màu xám, các chân tảng đá và những cột gỗ. Những dấu tích này đã tìm thấy ở khu vực các hố A5, A16, B2, B3, B10, B13, B16, D5, D6... tiêu biểu nhất là ở hố B3 – B13. Tại đây xuất hiện một vết tích kiến trúc lớn. Kiến trúc này hiện còn giữ được 4 cột gỗ lớn đang dựng trên các chân đá tảng. Các cột gỗ này cao 1,61m, chu vi khoảng 1,32m. Có một cột gỗ nhỏ hơn được kê trên một thanh gỗ và các viên gạch bìa màu xám. Ngoài ra còn 2 chân đá tảng khác đã xuất lộ nhưng bị mất cột gỗ. Các chân tảng đều là một khối đá hình chữ nhật dài 96cm, rộng 72cm được gia công đơn giản, không có trang trí. Các cột này cách nhau 3,80m tính từ tim cột. Chiều dài bắc – nam của các cột gỗ này khoảng 35m đã cho thấy mặt bằng của kiến trúc này khá lớn.

    - Dấu tích kiến trúc thời Lý được xác định rõ nhất là ở khu vực hố A20: ở đây có hai nền kiến trúc được phân cách với nhau bằng một sân nền lát gạch vuông. Hiện nay, chưa xác định rõ quy mô của kiến trúc này bởi hố khai quật còn vướng nhà dân và mặt bằng kiến trúc còn đang có xu hướng phát triển về phía đường Hoàng Diệu. Cả hai dấu tích kiến trúc này được đặc trưng bởi các viên gạch bìa màu đỏ bó thềm và các chân đá tảng hoa sen.


    Hàng gạch bó thềm hiện còn cao 47cm, rộng 88cm, được xây xếp bởi 9 hàng gạch. Các viên gạch đều có màu đỏ nhạt, diềm một số viên gạch có in hình chữ Hán, kích thước 40cm x19,5cm x 4,5cm.

    Có 10 chân đá tảng hoa sen đang được đặt nguyên tại chỗ trên các móng trụ gia cố bằng sỏi và gạch rất chắc chắn. Chân tảng hình vuông (65cm - 73,50cm x 65cm - 74cm), mặt tảng hình tròn (đường kính 41cm - 49cm), xung quanh có chạm 14 cánh sen dáng thon dài, nét chạm thanh tú. Loại chân tảng cánh sen này tương tự như các chân đá tảng hoa sen ở tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định) năm 1107.

    Trong khu vực mặt nền kiến trúc cũng đã tìm thấy một số di vật trang trí kiến trúc thời Lý và thời Trần. Điều này cho thấy rằng kiến trúc này có từ thời Lý và khả năng được tiếp tục sử dụng vào thời Trần được.
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  6. #6
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    - Ở khu A1 đã xuất lộ gần hết một đơn nguyên kiến trúc lớn dài hơn 60m, rộng 17,65m với hơn 40 trụ móng hình vuông (1,30m x 1,30m) được gia cố bằng sỏi và gạch ngói vụn tương tự như kiến trúc ở khu A20. Kiến trúc này được sử dụng trong cả thời Lý và thời Trần. Vào cuối thời Trần, kiến trúc bị cháy và thay vào đó một kiến trúc khác nhỏ hơn và một hồ nước nhỏ ở đây.

    - Ở khu B, cũng tìm thấy nhiều vết tích kiến trúc, trong đó bước đầu đã tìm thấy quy mô khá hoàn chỉnh một kiến trúc có chiều dài hơn 60m, rộng 9m thuộc thời Lý - Trần với hơn 42 móng trụ sỏi được phân thành 11 gian, 2 chái. Đây là một kiến trúc có quy mô hoàn chỉnh nhất ở khu vực. Tại hố B16 cũng đã tìm thấy một nền kiến trúc có chân tảng đá hoa sen thời Trần và một nền kiến trúc có chân tảng đá thời Lý.

    - Ở khu C, tuy chưa khai quật được nhiều, nhưng hố thăm dò C3 đã xuất lộ móng trụ vuông được gia cố bằng gạch vuông và sỏi mỗi cạnh dài 1,40m có niên đại thời Lý.

    - Khu D, tuy diện tích khai quật chưa lớn nhưng có thể thấy nét đặc sắc của di tích ở đây là có những kiến trúc được viền các dải hình ''hoa chanh'' được xếp bằng các loại ngói có niên đại thời Trần. Ở hố D7 có mảng nền gạch còn nguyên cả 2 viên gạch chữ ''Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo'' nghĩa là gạch được chế tạo đời vua Lý thứ 3 (Lý Thánh Tông) năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057).

    Gạch vuông xếp dưới đáy giếng thời Trần ở hố A9MR .


    Giếng nước cổ thời trần ở hố A9MR .



    Giếng nước cổ thời Lê Trung Hưng ở hố B12 .


    Ở cả khu A và khu B đều tìm thấy dấu tích một loại kiến trúc được tạo bởi 7 móng trụ trong đó có một trụ móng ở giữa hình vuông, xung quanh là 6 trụ móng tròn. Bảy móng trụ này tạo thành một mặt bằng kiến trúc hình tròn (đường kính 3,74cm).

    Có nhà nghiên cứu gọi đó là vết tích của kiến trúc kiểu ''lầu lục giác'' ở ven sông vì ngay cạnh các kiến trúc này là vết tích của một dòng sông cổ. Hiện đã tìm thấy 11 cụm móng trụ kiến trúc thư vậy đang phân bố dọc theo sông và kiến trúc lớn nhiều gian ở khu A1.

    Các kiến trúc đều được bố trí các đường cống thoát nước. Có loại cống thoát nước của một kiến trúc có kích thước nhỏ, có loại cống thoát nước cho cả một khu vực thì kích thước lớn hơn. Các cửa cống đều có xu hướng đổ ra sông hoặc hồ.

    Một hệ thống các di tích giếng nước đã tìm thấy 11 chiếc gồm: 2 giếng thời Đại La, 2 giếng thời Lý, 2 giếng thời Trần, 3 giếng nước thời Lê và 2 giếng nước thời Lê - Nguyễn.

    - Di tích mộ táng: có 2 mộ táng khoảng cuối thời Trần, 3 mộ thuộc thời Lê - Nguyễn, 1 mộ cuối thời Nguyễn và một số di cốt nằm rải rác ở khu B, tập trung nhiều ở hố B19 trong khu vực có dòng chảy cổ. Những mộ táng này đang được nghiên cứu về mặt nhân chủng và niên đại. Đáng lưu ý nhất là mộ táng tại hố B16 nằm ở độ sâu khoảng 2,10m, cạnh ngay bên dưới chân tảng đá hoa sen. Đây là mộ song táng của hai di cốt trẻ em khoảng 8 - 12 tuổi. Đầu mộ quay về hướng đông, hơi chếch bắc khoảng 200 - 300.


    Tống Trung Tín
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  7. #7
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Kết quả bước đầu khai quật khảo cổ học (Phần 2)

    Số lượng di vật đã tìm được (bao gồm mảnh vỡ, đồ vật còn nguyên hay những đồ vật vỡ mảnh nhưng có thể phục chế được) có thể ước tính tới đơn vị hàng triệu, trong đó chiếm số lượng lớn là gạch, ngói và đồ gốm. Mỗi thời kỳ, di vật đều có những đặc trưng rất riêng biệt.
    Đồ gốm men thời Đại La .



    Sư tử gốm men xanh thời Đại La .



    Khoảng thế kỷ V-VI, có các viên gạch màu đỏ xám, rìa cạnh in hoa văn hình ô trám lớn. Đồ gốm có một số vài bát gốm men màu xanh có các dấu kê lớn trong lòng bát. Tuy nhiên các di vật này không nằm thành các tầng văn hóa riêng mà thường xuất hiện lẫn trong các lớp văn hóa thế kỷ VII - IX.
    Ấm sành trang trí văn thường thời Đinh- Tiền Lê, cao 14,5 cm .


    Vỏ sành vai có 4 quai, trang trí khắc chìm văn sóng nước, thời Đinh - Tiền Lê .


    Gạch vuông trang trí hoa cúc dây, thời Lý .



    Khoảng thế kỷ VII-IX, gạch ngói rất nhiều. Gạch thời này được đặc trưng bởi các loại gạch có ba chữ ''Giang Tây quân'' màu xám, có viên in chữ ''Giang Tây chuyên''. Thỉnh thoảng có viên màu đỏ. Đáng lưu ý là có những viên gạch lát hình vuông, trên mặt gạch in nổi hình con cá sấu đang bơi trong làn sóng nước. Đầu ngói được trang trí khá đa dạng: mặt linh thú, mặt hề, hoa sen, hoa thị. Có các hình mặt thú miệng há rộng nhe nanh nhọn, dáng vẻ dữ dội. Đồ gốm thời này tiêu biểu là các loại vò gốm men 6 núm, các ấm gốm men ngọc thân cao. Cũng tìm thấy tượng một con sư tử kích thước nhỏ, tráng men ngọc.
    Ngói úp nóc lớn hình lá đề trang trí chim phượng, thời Lý, rộng: 72cm; cao: 78cm .


    Gạch "Lý gia đệ tam đế Long Thuỵ Thái Bình tứ niên tạo" (1057).
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  8. #8
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Thế kỷ X, đã tìm thấy một số loại gạch ngói. Tiêu biểu nhất là viên gạch bìa màu đỏ, mặt gạch in chữ ''Đại Việt quốc quân thành chuyên'' (gạch xây quân thành của nước Đại Việt). Đây vốn là loại gạch rất phổ biến trong các kiến trúc thời Đinh - Lê ở Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình). Cũng đã tìm thấy loại ngói bò nóc, trên lưng ngói có gắn tượng uyên ương có dáng vóc chắc khoẻ. Ngoài ra là một hệ thống các đồ sành, có hoặc không có trang trí hình sóng nước, các loại nồi, ấm miệng loe, đáy tròn có trang trí văn thừng truyền thống từ thời Văn hóa Đông Sơn.
    Đầu ngói ống trang trí hoa sen, hoa cúc, thời Lý, ĐK: 17,5cm, 17cm .


    Đầu ngói ống trang trí văn đồng tiền, thời Lý, Đk: 16cm; 16cm


    Đầu thú linh, thời Trần, rộng: 16,5cm; cao 17,5cm .


    Sang thời Lý (thế kỷ XI -XII), các loại gạch ngói phát triển phong phú hơn bao giờ hết. Gạch gồm có gạch bìa, gạch hình chữ nhật và gạch vuông. Đáng chú ý đã tìm thấy loại gạch xây hình chữ nhật (38cm x 23cm x 5,6cm) và gạch gần vuông loại nhỏ (26,5cm x 23,5cm), mặt gạch có in nổi hàng chữ ''Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo'' (chế tạo năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) đời vua thứ ba nhà Lý (vua Lý Thánh Tông). Có một số loại gạch vuông lát nền được trang trí hoa sen, hoa cúc với đường nét tinh mỹ.

    Ngói lợp gồm ngói bò úp nóc, ngói ống, ngói âm, ngói mũi sen. Trên một số vị trí, đầu ngói và lưng ngói được trang trí hoặc gắn thêm các hình ''lá đề'' có trang trí, có hình rồng, phượng, hoa sen, hoa cúc... với hàng chục biến thể khác nhau. Rất nhiều các tượng đầu rồng, đầu phượng cũng đã được tìm thấy. Ngoài ra, trong thời Lý còn tìm thấy các di vật thành bậc, cối cửa, chân tảng đá có chạm hình rồng, phượng, hoa lá.

    Tượng đầu chim phượng, thời Trần .


    Uyên ương trang trí trên ngói úp nóc, thời Lý, dài: 24cm; rộng: 17cm; cao: 30cm .



    Rồng trang trí trên ngói úp nóc, thời Lý, cao: 44cm .


    Đồ gốm men thời Lý khá phong phú. Có gốm men ngọc, men trắng, men lục, men vàng và hoa nâu với màu men sắc sảo, hoa văn trang trí đẹp chứng tỏ việc sản xuất gốm Lý đạt trình độ rất cao. Loại hình có bát, đĩa, ấm, chậu, mô hình tháp, hộp...

    Nghệ thuật Trần tiếp nối và phát triển từ nền nghệ thuật Lý. Vậy nên, các di vật thời Trần một mặt tiếp tục truyền thống Lý, nhưng mặt khác càng ngày càng biến đổi mạnh mẽ. Điều này có thể nhận thấy qua số lượng lớn và phong phú các loại hình vật liệu trang trí kiến trúc tìm thấy tại các hố khai quật, như đầu tượng rồng, tượng đầu chim phượng, đầu ngói ống có gắn lá đề hay những lá đề lệch trang trí rồng hoặc những viên gạch lát hình vuông trang trí văn in hoa cúc, hoa mẫu đơn... Loại gạch, ngói đặc trưng riêng của thời Trần là loại gạch xây có in nổi chữ ''Vĩnh Ninh trường'' và loại ngói mũi sen có đầu mũi hớt cao hoặc mũi vát cạnh hình tam giác.

    Ngói ống thời Trần, gắn lá đề trang trí hai con rồng, dài:47;cao: 42cm .



    Đầu ngói ống trang trí rồng, thời Mạc, ĐK: 15,3cm



    Rồng trang trí trên ngói úp nóc tráng men xanh lục, thời Trần, cao: 32; rộng: 32cm


    Lá đề gắn trên ngói ống trang trí văn dây cuốn, thời Trần, rộng: 23; cao: 24,5cm
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  9. #9
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Rồng trang trí trên ngói úp nóc, thời Trần, dài 34cm; rộng: 17cm


    Đồ gốm Trần nhiều và đa dạng hơn gốm Lý. Xuất hiện gốm trang trí hoa lam và hoa văn màu nâu sắt. Tuy nhiên, trang trí gốm thời Trần ngày càng đơn giản hơn trang trí gốm thời Lý. Thời Hậu Lê có thời gian dài. Về mặt di vật có thể chia thành các giai đoạn nhỏ hơn: thời Lê Sơ, thời Lê - Mạc, thời Lê Trung Hưng. Thời Lê Sơ, di vật đặc trưng là các loại gạch vồ và ngói âm dương kích thước lớn, các đồ gốm hoa lam và gốm trắng mỏng cao cấp.

    Thời Lê - Mạc xuất hiện đầu ngói ống có chạm rồng. Hình rồng nên ngói thời Lê - Mạc gần giống với hình rồng trên chân đèn gốm hoặc thời Mạc. Trên đồ gốm, các hình rồng được vẽ rất đơn giản, không tỉa tót và trau chuốt như thời Lê Sơ.

    Cả thời Lê - Mạc và thời Lê Trung Hưng đều sử dụng loại gạch vồ có kích thước trung bình và nhỏ... Bên cạnh đó, thời kỳ này cũng tìm được nhiều loại ngói ống, ngói âm dương, ngói mũi sen, nhất là những tượng ''con sấu'' trang trí trên bờ dải của mái kiến trúc. Đồ gốm thời Lê Trung Hưng cũng rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, về chất lượng kiểu dáng và hoa văn trang trí của đồ gốm men thời này nói chung không đẹp bằng các thời kỳ trước nữa. Ngoài các loại di vật phổ biến trên còn có một số loại di vật khác như: đồ kim loại (súng thần công, kiếm, dao, mũi tên, tiền đồng...), gốm Trung Quốc (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIX), gốm lslam, gốm Nhật Bản (nửa cuối thế kỷ XVII).

    Tống Trung Tín
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  10. #10
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Kết quả bước đầu khai quật khảo cổ học (Phần 3)
    1. Đây là lần đầu tiên, một phức hệ di tích - di vật của một bộ phận trung tâm Hoàng thành Thăng Long và thành Hà Nội xưa đã được phát lộ với một diễn biến văn hóa vật chất liên tục từ thành Đại La thời thuộc Đường và thời Đinh - Tiền Lê đến Hoàng thành Thăng Long - Đông Đô – Đông Kinh thời Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng rồi thành Hà Nội.

    Sở dĩ có thể xác định được đây là một bộ phận của trung tâm Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần – Lê, vì các lý do sau:

    + Tại các vị trí nhiều hố khai quật đều tìm thấy các dấu tích kiến trúc và di vật thuộc thời Lý - Trần - Lê nằm chồng lên các di tích kiến trúc và di vật thời Đại La - Tống Bình (thế kỷ VII-IX). Điều đó minh chứng rất rõ lời của vua Lý Thái Tổ trong chiếu dời đô đã nói tới việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La và đặt tên kinh đô là Thăng Long.

    + Hệ thống hàng chục dấu tích nền móng kiến trúc ở đây đều được xây dựng rất kiên cố, trong đó có kiến trúc khá lớn với diện tích hàng nghìn mét vuông được suy đoán là các kiến trúc của Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê. Suy đoán này căn cứ vào vị trí của các kiến trúc phân bố khá gần điện Kính Thiên về phía tây.

    Do sử cũ ghi lại ở khu vực phía tây điện Kính Thiên (tức là điện Thiên An thời Lý - Trần) xây dựng dày đặc các cung điện, lầu gác, chùa tháp như vậy, nên những dấu vết kiến trúc tìm được ở đây có thể là dấu tích của các cung điện và lầu gác của Hoàng thành Thăng Long xưa.

    + Sự suy đoán này còn được dựa vào hệ thống di vật tiêu biểu ở đây. Đó là các loại vật liệu xây dựng như chân tảng hoa sen, các loại ngói, gạch, các loại tượng tròn và phù điêu trang trí hình rồng, phượng... đều mang tính biểu trưng cho việc trang trí các kiến trúc cung đình; các loại đồ dùng bằng gốm sứ cao cấp với hoa văn tinh mỹ, trong đó có những đồ sứ thời Lê Sơ có ghi ký hiệu chữ ''Quan'', chữ ''Kính'' và trang trí hình rồng có chân 5 móng, hình chim phượng, chỉ rõ là đồ dùng dành riêng cho nhà vua và hoàng hậu.
    Việc tìm thấy những đồ ngự dụng đã góp thêm một bằng chứng quan trọng để từ đó có thể đưa ra giả thuyết rằng dấu vết kiến trúc lớn ở khu vực khai quật có thể là những cung điện của Hoàng cung. Dĩ nhiên, để làm rõ tên và chức năng của từng dấu tích theo ghi chép của sử cũ cần phải có nhiều thời gian, đặc biệt là cần phải được khai quật nghiên cứu khảo cổ học trên một diện rộng lớn hơn. Nhưng với tất cả các cứ liệu hiện có, đã có thể khẳng định các dấu tích kiến trúc đã tìm thấy là một bộ phận của quần thể kiến trúc trung tâm Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê nằm ở phía tây của di tích điện Kính Thiên.

    2. Những di tích - di vật nêu trên có bề dày lịch sử hơn 1 .300 năm, từ thế kỷ VI-VII đến XIX, đã cho phép hình dung được phần nào vị trí, quy mô và diện mạo Hoàng Thành Thăng Long dưới thời Lý - Trần - Lê, thành Hà Nội thời Nguyễn.
    Quy mô đó ước khoảng 140ha dưới thời Lê. Trước đó thời Lý - Trần có thể xê dịch hơn hoặc kém diện tích đó một chút. Đến thời Nguyễn thì thu nhỏ lại khoảng 100 ha.

    Trong Hoàng thành, có nhiều loại hình kiến trúc. Đợt khai quật vừa qua cho thấy ở khu tây, các kiến trúc đó bố trí thành nhiều tầng, nhiều lớp chạy song song theo hướng Bắc – Nam. Xen giữa các lớp kiến trúc hoặc từng kiến trúc đó có sông, có hồ để thoát nước và tôn tạo cảnh đẹp.

    Mỗi kiến trúc đều trang trí nhiều đề tài rất đẹp. Thế kỷ VII -IX, có trang trí hoa sen, hoa cúc, đầu linh thú có dáng vẻ gân guốc, dữ dội. Thời Đinh - Lê, trang trí các hình hoa sen, uyên ương. Thời Lý, trang trí đạt tới đỉnh điểm của sự tinh mỹ. Thời Trần, trang trí khỏe mạnh và ngày càng đơn giản. Thời Hậu Lê trang trí đơn giản hơn trong đó trang trí đẹp nhất là thời Lê Sơ, các thời tiếp theo trang trí trên gạch ngói đơn giản nhưng có thêm đề tài mới.

    3. Những di tích và di vật kiến trúc, vật dụng cung đình, đồ gốm sứ, vũ khí... tìm được ở khu vực khai quật chứng tỏ nghệ thuật thời Lý - Trần - Lê đã đạt trình độ cao. Bắt nguồn từ thời Đinh - Lê, nghệ thuật, thời lý đạt tới đỉnh điểm của sự tinh mỹ và quy phạm,nghệ thuật thời trần thiên về khoẻ mạnh, khoáng đạt, nghệ thuật thời Lê nhịp độ thay đổi nhanh và càng ngày càng đơn giản.
    Các di tích, di vật vừa tìm thấy ở Thăng Long cũng phản ánh rõ bản sắc văn hoá dân tộc. Ví dụ hình rồng thời Lý, thời Trần thường có bộ phận mào và lôi văn hình chữ S mà rồng Trung Quốc không có. Hoặc bộ mái kiến trúc thời Lý - Trần thường có gắn các loại lá đề có hình rồng phượng mà các bộ mái kiến trúc ở các nước láng giềng cũng không có. Hầu hết các hình tượng trang trí, các đồ án hoa văn đều hiển bộ sắc tháu Việt Nam rõ ràng như vậy.

    Nhiều loại di vật khác lại phản ánh mối quan hệ giao lưu giữa Thăng Long với các vùng trong nước và giữa Thăng Long với thế giới bên ngoài. Thời Trần, tại đây đã tìm thấy gốm Thiên Trường ở Nam Định. Thời Lê, bên cạnh gốm sản xuất tại Thăng Long còn có nhiều loại gốm được sản xuất tại Hải Dương. Qua thương mại, nhiều đồ gốm Trung Quốc thế kỷ VII - IX đến thế kỷ XIX được du nhập vào nước ta và Thăng Long. Gốm Hizen (Nhật Bản) nửa cuối thế kỷ XVII cũng có mặt. Cũng phát hiện các mảnh gốm ở các khu vực xa hơn như gốm Islam từ khu vực Trung Đông. Gốm Chăm, gạch Việt có chữ Chăm cổ đã phản ánh sống động mối quan hệ Việt – Chăm lâu dài trong lịch sử.

    Trên đây chỉ là vài nhận xét ban đầu. Cuộc khai quật vẫn còn đang tiếp tục. Một dự án chỉnh lý sẽ được tiến hành trong vài năm tới nhằm xứ lý kỹ lưỡng hơn khối tư liệu đã được khai quật để đưa các nhận định khoa học về giá trị và ý nghĩa của khu di tích.

    Tống Trung Tín - Nguồn
    : http://www.quehuong.org.vn
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  11. #11
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    PHẦN 2/ GIỚI THUYẾT VỀ MỘT VÀI THUẬT NGỮ .

    Phần bài viết này tuy ngắn nhưng lại có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thảo luận . Trong phần này , chúng tôi cố gắng sưu tầm và thử thống nhất một số thuật ngữ hay được sử dụng trong bài viết , tránh trường hợp , ông nói gà , bà nói vịt . Chúng ta cùng thống nhất một số thuật ngữ sau :
    KINH ĐÔ - KINH SƯ - KINH THÀNH - HOÀNG THÀNH - TỬ CẤM THÀNH - CUNG THÀNH - ĐẠI NỘI - THÀNH NỘI - ĐOAN MÔN ....
    Theo từ điển wikipedia có một đoạn như sau :
    Cũng giống như các thành cổ khác, thành Thăng Long có cấu trúc tam trùng thành quách, bao gồm 3 lớp:

    * Lớp ngoài cùng có tên là Kinh thành ( 1), được đắp bằng đất, là nơi dân cư sinh sống với các ngành nghề thủ công và hoạt động thương nghiệp và còn là nơi bảo vệ vành ngoài.
    * Tiếp theo là Hoàng thành ( 2 ) hay khu triều chính. Đây là nơi ở và làm việc của các quan lại cao cấp trong triều đình.
    * Lớp cuối cùng là Tử Cấm thành ( 3 ) . Đây là nơi dành cho vua, hoàng hậu và cung tần mỹ nữ ở. Tử Cấm thành có nhiều tên gọi khác nhau qua các triều đại: Cung thành (thời nhà Lý), Long Phượng thành (thời nhà Trần) và Cấm thành (thời nhà Hậu Lê).


    Hai lớp tường thành bên trong được xây bằng gạch.

    Các tường thành liên hệ với nhau bằng các cửa ô. Tử Cấm thành nối với Hoàng thành duy nhất bằng cửa Đoan Môn. Hoàng thành nối với Kinh thành bằng rất nhiều cửa nhưng hiện nay chỉ còn lại cửa Bắc Môn. Ô Quan chưởng là cửa ô còn sót lại hiện nay thuộc mạng lưới các cửa ô liên hệ giữa Kinh thành và Hoàng thành.

    Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh :
    ( 1) / KINH THÀNH : ( 京 城 ) Đô thành của một nước ( Capitale ) .
    ( 2) / HOÀNG THÀNH : ( 皇 城 )Thành bao quanh cung điện của Vua ( Citadelle royale ) .
    ( 3 ) / CẤM THÀNH : ( 禁 城 ) Cung Thành Vua ở ( Palais Royal ) .
    ( 4) / KINH ĐÔ : ( 京 都 ) Đô thành to lớn trong nước - Thủ phủ một nước ( Capitale ) .
    ( 5 ) / KINH SƯ : ( 京 師 ) Kinh đô nước Quân chủ ( Capitatale ) .
    ( 6 ) / CUNG THÀNH : ( 宮 城 ) Chỉ đất đai ở trong thành Vua ở .
    ( 7 ) / THÀNH NỘI : ( 城 內 ) chỉ phần đất nằm bên trong phạm vi Kinh thành.
    ( 8 )/ ĐOAN MÔN : ( 端 門 ) Cửa chính trong cung thành ( Porte principale ) .

    Trong cuốn Kinh thành Huế. Phan Thuận An. Nxb Thuận Hóa. Huế, 1999. tr.16-19 có viết :
    Giới thuyết về các thuật ngữ: “Kinh đô 京 都 , Kinh sư 京 師 , Kinh thành 京 城 , Hoàng thành 皇 城 , Tử Cấm thành 紫 禁 城, Cung thành 宮 城, Đại Nội 大 內, Thành nội 城 內 .
    - Kinh đô京 都 ( 4 ) , Kinh sư 京 師 ( 5 ) : Kinh京 là to lớn, đô都 là vua cho xây dựng thành trì và cung điện để ở; sư là đông đúc, có nhiều người cư trú. Như vậy, Kinh đô và Kinh sư ( 6 ) có cùng một nghĩa. Kinh đô hoặc Kinh sư đã được dịch ra tiếng Pháp là La Capitale hoặc tiếng Anh là The Capital.
    - Kinh thành京 城 ( 1 ) : Nghĩa đen của từ “Kinh thành” là tòa thành to lớn.
    - Hoàng thành皇 城 ( 2) và Tử Cấm thành紫 禁 城 ( 3 ) : Tử Cấm thành nằm bên trong Hoàng thành…Người Tây phương thường gọi Hoàng thành là La Cité Impériale (hoặc The Imperial City) và Tử Cấm thành là La Cité Pourpre Interdite (hoặc The Forbibden Purple City).
    - Đại Nội大 內: chỉ chung Hoàng thành và Tử Cấm thành.
    - Thành Nội 城 內: chỉ phần đất nằm bên trong phạm vi Kinh thành.
    - Nội thành內 城 ( 7 ) : bao gồm cả Thành Nội lẫn Đại Nội”.



    CHÚ THÍCH : Chúng tôi đánh số những số trong ngoặc ( ) cùng số là cùng một nghĩa . Ngoài ra qua trao đổi với Kiến trúc Sư Nguyễn Vũ Hội ( Hải Phòng ) - Ông cho biết ý nghĩa của ĐOAN MÔN chỉ là cửa thành nằm trên trục Bắc - Nam của các thành mà thôi .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  12. #12
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Trong phần này chúng tôi cũng xin giới thiệu một bài viết quan trọng của HOÀNG GIÁP về việc xây dựng các Thành cổ tại Trung Quốc - Bài này được đăng trong TẠP CHÍ HÁN - NÔM số 1 năm 2003 - Ngõ hầu có một cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề chúng ta đang bàn .

    THIÊN VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC VỚI VIỆC XÂY DỰNG HOÀNG THÀNH, HOÀNG CUNG
    HOÀNG GIÁP

    Sử thư của Trung Quốc nói: “Vũ tác cung thất” (Vua Hạ Vũ xây dựng cung thất). Như vậy Trung Quốc đã xây cung điện từ thời Hạ. Nhưng việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung thì bắt đầu từ Tần Thuỷ Hoàng xây thành và cung Hàm Dương. Tiếp theo nhà Hán xây cung Trường An, Nguỵ Tấn xây cung Lạc Dương, nhà Đường xây cung Trường An, nhà Tống xây cung Khai Phong, nhà Nguyên, Minh, Thanh xây Hoàng thành, Hoàng cung, Cố Cung ở Bắc Kinh.
    Hoàng cung bao giờ cũng gắn liền với thành và nằm ở giữa 3 vòng thành là Thành Ngoại, Thành Nội và Cung Thành. (Tam Viên) Cung Thành còn gọi là Thành Trung hay Tử Cấm Thành. Trong hoàng cung lại xây dựng rất nhiều cung điện như Càn Nguyên điện sau là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện, Đông Cung, Thái Miếu, Giảng Võ điện... Tìm hiểu về hoàng thành, hoàng cung là vấn đề không dễ dàng. Do vậy bài này chỉ xin đề cập đến việc vận dụng một phần kiến thức thiên văn học và thần học để xây dựng hoàng thành, hoàng cung ở Trung Quốc và ở Việt Nam.
    1. Đôi nét về thiên văn học cổ đại Trung Quốc

    Người Trung Quốc từ rất sớm đã có máy “Toàn cơ ngọc hành” để quan trắc thất chính (mặt trời, mặt trăng, sao kim, sao mộc, sao thủy, sao hỏa, sao thổ) và nhị thập bát tú hay còn gọi là Tứ tượng (bốn cụm sao Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ) đồng thời còn xem xét hai khí âm dương, chu kỳ phát triển của vạn vật trong một năm.
    Thời Chu người Trung Quốc đã chế tạo được kính viễn vọng quan sát tinh tượng, phát hiện ra sao Thái Tuế (Mộc tinh) di động trên không trung theo chiều từ Đông sang Tây chu kỳ một vòng quanh mặt trời là 12 năm. Mười hai năm được biểu thị bằng 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, nhờ thế mà đặt ra lịch pháp. Đồng thời thiên văn học cũng chia khoảng không gian giữa “Tứ tượng” thành ba bộ phận gọi là “Tam viên” (ba vòng tường không gian) gọi là Tử Vi Viên, Thái Cực Viên, Thiên Thị Viên. Sở dĩ gọi là “viên” vì nó được bao bọc bởi các tinh tượng giống như tường vây vậy. Thái Vi Viên là Thượng Viên, Tử Vi Viên là Trung Viên, Thiên Thị Viên là Hạ Viên. Tử Vi Viên là trung tâm của trời là nơi Thiên Đế ngự trị. Thiên Đế cư trú trong Tử Cung hay Tử Vi Cung thuộc Tử Vi Viên.
    Sử ký, Thiên Quan thư của Tư Mã Thiên viết: “Bấy giờ thiên văn đem chia tinh tượng thành 5 khu gọi là ngũ cung: Đông Cung, Tây Cung, Nam Cung, Bắc Cung và Trung Cung. Trung Cung (nằm ở Trung Viên) thuộc vùng sao Bắc Đẩu. Thiên Đế ngự ở Tử Cung hay ở Tử Vi Cung. Trong cung có ngôi sao sáng nhất gọi là sao Bắc Cực tượng trưng cho Thái Nhất (Thiên Đế)”.
    Bằng tư tưởng thiên nhân hợp nhất Tần Thủy Hoàng cho rằng Thiên Đế ở Tử Vi Cung thì Hoàng Đế nhân gian cũng ở Tử Vi Cung. Khi xây dựng thành Hàm Dương và cung Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng đã phỏng theo Tử Vi Cung của sao Bắc Đẩu mà xây dựng. Các cung điện ở bốn mặt cũng phỏng theo vị trí các tinh tượng mà xây dựng.
    2. Quy tắc cơ bản của việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung ở Trung Quốc
    Bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng xây cung Hàm Dương đã tận dụng kiến thức thiên văn như Tam viên, Tứ tượng, Âm dương, Ngũ hành để xây dựng hoàng thành, hoàng cung. Tiếp theo các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã tuân theo nguyên tắc đó và hoàn thiện hơn trong việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung. Hoàng cung bao giờ cũng xây ở Cung Thành (Hoàng Thành, Tử Cấm Thành), bảo vệ bên ngoài có Thành Nội và Thành Ngoại gọi là Tam viên.
    Bất kỳ hoàng cung nào cũng xây theo nguyên tắc Nam tiền triều, Bắc hậu tẩm. Tiền triều là dương nên to lớn uy nghi lẫm liệt. Tiền triều là dương động nên mọi việc thiết triều, bẩm báo, tấu lệnh, xuất quân chinh phạt... đều diễn ra ở tiền triều. Trung tâm của Tiền triều là Tử Vi Cung hay Thái Cực điện, thời Tống gọi là Sùng Nguyên điện, Càn Nguyên điện, Triều Thiên điện; thời Minh, Thanh gọi là Thái Hòa điện. Đấy là nơi vua ngự để thiết triều. Hậu tẩm ở phía sau Thái Cực điện. Hậu tẩm là âm nên nhỏ và ấm cúng. Hậu tẩm là âm nên tĩnh, là nơi ăn uống nghỉ ngơi.
    Theo thuyết Ngũ hành thì Đông phương tòng Mộc tượng mùa xuân chủ sinh bởi vậy ở phía Đông của hoàng cung bao giờ cũng xây các công trình thuộc lĩnh vực văn trị, văn hóa như Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa... Cũng vì vậy cung Thái tử được xây ở phía Đông tượng trưng cho sự non trẻ, sinh sôi phát triển. Ở phía Đông còn xây Tổ Miếu, “Tả Tổ Miếu hữu Xã Đàn”. Con người đều nhờ vào tổ tông mà phồn diễn sinh hóa nên Tổ Miếu phải xây ở phía Đông.
    Tây phương tòng kim tượng mùa thu, không phát triển chủ sát. Bởi vậy ở phía Tây của hoàng cung bao giờ cũng xây dựng các công trình thuộc lĩnh vực binh hình võ bị như Trung Thư khoa, Hình khoa, Binh khoa... Việc duyệt binh, diễn võ, xử án, tù tội đều ở phía tây.
    Sinh đông tử tây, văn đông võ tây, khi thiết triều cũng tuân theo quy luật này. Mỗi khi thiết triều thì cứ an bài văn đông võ tây, quan văn chầu bên tả phía Đông, quan võ chầu bên hữu phía Tây. Quan văn đi theo cửa Đông Văn Lâu (cửa Sùng Văn) bên cạnh Ngọ Môn mà vào. Quan võ đi theo cửa Tây Vũ Lâu (cửa Tuyên Vũ) bên cạnh Ngọ Môn mà vào. Khi xuất chinh quân đội cũng đi theo cửa Vũ Lâu ấy.
    Theo thuyết Ngũ Hành thì Đông thuộc Mộc mầu xanh, Tây thuộc Kim mầu trắng, Nam thuộc Hỏa mầu đỏ, Bắc thuộc Thuỷ mầu đen, Trung ương thuộc Thổ mầu vàng. Mầu sắc của hoàng cung cũng không ngoại lệ. Cung điện ở Trung ương như Tử Vi Cung, Thái Cực điện, Càn Nguyên điện sau gọi là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện... xây tường mầu hồng ngói mầu vàng. Cung thất ở phía Đông lợp ngói mầu lục mầu xanh nên còn gọi là Thanh Cung. Cung thất ở phía Bắc như Văn Uyên Các, thư phòng, nhà ăn... lợp bằng ngói mầu xám, đen. Mầu đen xám tượng Thủy, Thủy khắc Hỏa nên tránh được hỏa tai.
    Ban đầu hoàng thành chỉ xây 4 cửa, sau này mới mở thêm các cửa phụ. Bốn cửa ấy tượng trưng cho Tứ tượng do bốn vị phương thần cai quản. Phía đông là Thanh Long, phía Tây là Bạch Hổ, phía Nam là Chu Tước, phía Bắc là Huyền Vũ. Thời Hán người ta đã dùng những viên ngói họa hình tứ phương thần để lợp các cung điện ở bốn phương, mong các thần bảo hộ cho hoàng cung. Thời Đường còn gọi cửa Nam của Hoàng Thành là cửa Chu Tước, cửa Bắc của Hoàng thành là cửa Huyền Vũ.
    Thời Minh, Thanh khi xây dựng và cải tạo Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh người ta gọi Nam Môn là Ngọ Môn lại gọi là Ngũ Phong Lâu. Phong chính là tên gọi khác của thần Chu Tước. Cửa Bắc vẫn gọi là Huyền Vũ Môn, sau do kiêng huý vua Khang Hy nên gọi là Thần Vũ Môn. Ngoài ra tại Ngự hoa viên còn cho xây đền thờ tứ phương thần Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ.
    3. Việc xây dựng hoàng thành hoàng cung ở Việt Nam
    Về lịch sử hoàng thành hoàng cung ở Việt Nam tương truyền vua Hùng xây cung điện ở Bạch Hạc (Phú Thọ). An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở Đông Anh, Đinh Bộ Lĩnh xây thành Hoa Lư, Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, Gia Long xây thành Phú Xuân nay là Cố đô Huế. Nói là xây dựng hoàng thành nhưng bao giờ cũng gắn với xây dựng hoàng cung. Những công trình hàng ngàn năm về trước nay đã bị hủy hoại rất nhiều. Loa thành và thành Hoa Lư chỉ còn dấu vết. Hoàng cung chỉ là đền thờ. Cố đô Huế còn nguyên vẹn, quy mô kiến trúc gần giống Cố Cung ở Bắc Kinh. Hoàng thành và hoàng cung các triều Lý - Trần - Lê ở Thăng Long là điều đáng quan tâm nhất. Khi dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, Lý Thái Tổ đã triệt để lợi dụng địa thế Đại La cao, có đê ngăn nước có núi có sông, “nội khí tràn đầy, ngoại thế mở rộng” để xây thành Thăng Long. Hoàng cung nhà Lý xây trong Tử Cấm Thành, tiền án có núi Long Đọi, hậu chẩm có núi Tam Đảo, Thanh Long có núi Yên Tử, Bạch Hổ có núi Tản Viên. Trong Thành có núi Nùng và Tam Sơn.
    Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Lý Thái Tổ xây dựng cung điện ở trong Cung thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Vũ, lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính hướng nam là điện Cao Minh, đều gọi là thềm rồng; bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao quanh bốn mặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi; bên tả làm điện Nhật Quang, bên hữu làm điện Nguyệt Minh, đằng sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành đào hào, bốn mặt thành mở bốn cửa: phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc gọi là cửa Điệu Đức. Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và lầu Ngũ Phượng Tinh, ở ngoài thành làm chùa Thắng Nghiêm ở phía Nam”.
    Sách Thăng Long cổ tích khảo chép: “Núi Nùng ở chính giữa kinh thành có tên gọi nữa là Long Đỗ. Núi hình tròn đỉnh núi bằng phẳng cây cối um tùm gần với Tây Hồ. Phía sau có Tam Sơn làm gối, sơn thủy hữu tình là thắng cảnh của đô thành. Lý Thái Tổ định đô đã xây chính điện trên núi này. Thường có đôi hạc bay đến nhảy múa ở nơi vua ngự. Cơ đồ nhà Lý xuy vi không thấy đôi hạc đâu nữa”.
    Như vậy Càn Nguyên điện của triều Lý mà triều Lê gọi là Kính Thiên điện, Vạn Thọ điện được xây trên núi Nùng. Từ núi Nùng về phía Nam là tiền triều, từ núi Nùng về phía Bắc là hậu tẩm. Trước Kính Thiên điện là Đoan Môn hay Ngọ Môn. Phía trái cạnh Đoan Môn là cửa Văn Lâu, phía phải cạnh Đoan Môn là cửa Vũ Lâu. Quan văn theo cửa Văn Lâu mà vào, quan võ theo cửa Vũ Lâu mà vào. Khi đi chinh phạt thì quân đội cũng đi theo cửa Vũ Lâu ấy. Phía Đông của Kính Thiên điện là Đông Cung và Thái Miếu. Phía Tây Kính Thiên điện là Chí Kính điện, Giảng Võ điện. Tất cả đều tuân theo quy tắc văn đông võ tây, sinh đông tử tây, tả (Đông) Tổ Miếu (Thái Miếu) hữu (Tây) Xã Đàn.
    Thời Lý chưa thấy tài liệu nào nói bốn phía của kinh thành Thăng Long lập đền thờ tứ phương thần là Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Vũ. Nhưng nay vẫn thấy đền thờ Chu Tước ở trại Văn Hương (nay là ngõ Văn Hương) làng Văn Chương (quận Đống Đa - Hà Nội). Còn Trấn Vũ Quán thờ Huyền Vũ thì đã được khẳng định xây từ thời Lý. Quán xưa ở phía Đông bắc kinh thành Thăng Long nay nằm trên đường Thanh Niên quận Ba Đình, Hà Nội.
    Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép: “Trước tiết lập xuân 1 ngày, Bộ Công cho rước một con trâu bằng đất nung mang đến đàn ở phường Đông Hà (khu vực đền Bạch Mã Cửa Đông - Hà Nội). Đúng tiết lập xuân Phủ doãn phủ Phụng Thiên và quan huyện Thọ Xương, Quảng Đức lấy cành dâu đánh vào con trâu đất rước vào điện vua làm lễ. Lễ cầu thời tiết thuận hòa mùa màng bội thu, người và vật đều khỏe mạnh”.
    Lễ này thể hiện việc cầu sinh sôi phát triển tại phía Đông vào mùa xuân. Còn mùa thu, mùa không phát triển chủ sát người ta đã đưa tử tù ra trại Kim Mã phía Tây kinh thành Thăng Long để hành quyết. Nơi đây vẫn còn nghĩa địa chôn cất tử tù. Tương truyền chùa Kim Sơn lập nên để tế độ cho các vong hồn tử tù.
    Giảng Võ điện được xây ở gần núi Khám Sơn phía Tây kinh thành Thăng Long. Có thuyết cho Giảng Võ điện được xây trên núi Khán Sơn. Dù xây ở đâu thì Giảng Võ điện cũng là nơi vua ngự để xem đấu võ tập bắn.
    Long Biên bách nhị vịnh chép: “Núi Khán Sơn ở phía Tây điện Nùng Sơn trong nội thành. Sử ký chép khoảng năm Thuận Thiên (1428 - 1433) vua Lê Thái Tổ xây điện Giảng Võ trên núi Khán Sơn. Vua thường ra để xem tập bắn”.
    Nhận xét
    Vấn đề xây dựng hoàng thành, hoàng cung là công việc lớn lao bậc nhất của một nhà nước phong kiến. Để xây dựng hoàng thành, hoàng cung các triều đại đã phải bỏ ra không biết bao tiền của và công sức. Đặc biệt phải biết vận dụng rất nhiều kiến thức khoa học như địa chất, địa lý, thủy văn, phong thủy, toán học, thần học, kiến trúc, hội họa... Trong bài viết này chỉ mong đề cập đến một vài khía cạnh của thiên văn học kết hợp với thần học trong việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung, bởi đây là những vấn đề rất cần quan tâm tìm hiểu.
    H. G

    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Sách Hán Nôm
    1. Ngô Sỹ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư. Ký hiệu A.3/1-4.
    2. Thăng Long cổ tích khảo. Ký hiệu VHv.2471.
    3. Long Biên bách nhị vịnh. Ký hiệu A.1310.
    Sách Trung Quốc
    1. Lưu Quốc Quân Thần mật đích tinh tượng, Quảng Tây nhân dân xuất bản xã, Nam Ninh, 1992.
    2. Lưu Quốc Quân Hoàng cung quy chế, Hoa Trung lý công đại học xuất bản xã, Hồ Bắc, 1994.

    Nguồn : TẠP CHÍ HÁN NÔM số 1- 2003 .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  13. #13
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Một chuyên đề đáng chú ý nữa về KINH ĐÔ TRUNG QUỐC QUA CÁC ĐỜI Của PGS. PHAN VĂN CÁC (VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM ). Nguồn : BÀI THAM GIA HỘI THẢO TIỂU BAN 1 " NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOÀNG THÀNH THĂNG LONG " - Ngày 27 - 30 / 7 / 2004 - Tại VIỆN KHẢO CỔ HỌC. Vì bề dày tập chuyên đề lớn , nên chúng tôi chỉ đưa vào bài viết phần nhận xét chung của tác giả .
    MẤY NHẬN XÉT CHUNG :
    Trở lên trên là sơ lược lịch sử Kinh đô Trung quốc qua các Triều đại và sơ bộ miêu tả Tử Cấm Thành Bắc Kinh , tòa thành cuối cùng của Phong kiến Trung hoa hiện còn bảo tồn nguyên vẹn để chúng ta khảo sát , nghiêncứu , phần nào liên hệ so sánh với Hoàng thành Việt nam .
    Dưới đây xin nêu lên mấy đặc điểm đáng chú ý của Tử Cấm Thành Bắc kinh , có thể nói là mấy khía cạnh văn hóa học của vấn đề .

    1/ Trước hết là nói về tên của Tử Cấm thành . Thông thường có thể giải thích Tử Cấm thành là tòa cấm thành màu đỏ tía , vì kiến trúc trong đó đều có tường màu đỏ thắm . Song thật ra chữ " Tử " ở đây là Tử vi , vì theo truyền thuyết thì trên Trời có Tử vi viên là nơi ở của Thiên Đế . Xưa nay , các Hoàng Đế Trung quốc đều tự khoe mình là Thiên Tử , con của Thiên Đế , gọi cung của mình là Tử vi cung . Hoàng cung nơi Thiên tử ở bao giờ cũng là " Cấm địa " đối với dân chúng , cho nên gọi là " cấm cung " , " cấm thành " , vì vậy Hoàng cung mới có tên là " Tử Cấm thành . Trong phát âm cũng như chữ viết Tử Cấm thành còn có một biến thể là Tử Kim thành ....hiểu với nghĩa " Toà thành vàng son " ( quả thật hầu hết các cung điện trong Tử Cấm thành đều lợp ngói lưu ly màu vàng và có tường mà đỏ thắm ) . Tòa cung điện này không những là lớn nhất trong toàn cõi Trung hoa , mà so với các cung điện trên Thế giới cũng có một vị trí đặc biệt . Ví như điện Louvres của Pháp được xây dựng vào thế kỷ XV , năm 1541 sửa chữa thành Hoàng cung . Trải qua 4 lần nâng cấp trong thời Louvres XIV và Napoléon ngót 200 năm , một thời đã trở thành Trung tâm Chính trị , Văn hóa của châu Âu , nhưng so với Cố cung thì diện tích xây dựng chỉ bằng 1/ 4 . Cung Versailles nổi tiếng Thế giới , tác dụng của nó cũng chỉ như Di Hoà viên ( người châu Âu gọi là Hạ cung ) và diện tích của nó cũng chỉ bằng 1/10 Di Hoà viên mà thôi . Hoặc như cung điện Kremli ở Matxcơva được coi là cung điện lớn nhất châu Âu , mà vẫn chưa bằng 1/2 diện tích của Tử cấm thành . Cung điện Burkingham do Công tước Burkingham xây dựng năm 1703 và được nâng cấp năm 1825 ở London , diện tích chỉ bằng 1/10 Tử Cấm thành . Hoàng cung Tokyo Nhật bản có diện tích 21,7 Ha , chưa bằng 1/3 diện tích Cố cung .
    Tử Cấm thành với diện tích 720.000 m2 , lưu giữ hơn một triệu văn vật quý hiếm , bảo tồn quần thể kiến trúc khổng lồ hoàn chỉnh , kết tinh của nền Văn minh cổ đại Trung hoa .
    Cung điện Tử Cấm thành lợp ngói lưu ly màu vàng , tường màu đỏ thắm sừng sững trên nền đá Ngọc thạch đời hán , màu sắc và cách kiến thiết đều có quan hệ mật thiết với thuyết Âm - Dương - Ngũ Hành trong triết học Trung hoa cổ đại .
    Cung điện Tử Cấm thành đều lấy hai màu vàng và đỏ làm chính . Màu vàng trong Âm - Dương - Ngũ hành đại diện cho phương vị Trung ương . Trung ương thuộc Thổ , là gốc của vạn vật . màu đỏ là Hỏa , chủ về sự rạng rỡ . Dùng hai màu vàng , đỏ thể hiện nơi tôn nghiêm tuyệt đối của các bậc Đế Vương , làm Trung tâm của Thiên hạ , vì vậy tường đỏ , ngói vàng là tiêu chí của Hoàng cung , trừ Đàn , Miếu ra , dù là Phủ đệ của Thân Vương cũng không được dùng hai màu đó .
    Ngoài ra , trong cung còn có một số kiến trúc dùng ngói xanh và đen vì đó không phải là nơi sinh hoạt của Hoàng Đế . Trong Ngũ hành màu xanh là màu của cây cỏ , tượng trưng mùa xuân , thuộc phương vị Đông , vì vậy trên nóc điện Văn Hoa ở cửa Đông Hoa xưa vốn lợp ngói lưu ly xanh , là nơi đọc sách của Thái tử , đến thời Gia Tĩnh Triều Minh mới đổi thành màu vàng , làm nơi Hoàng Đế triệu kiến các hàn lâm học sĩ , cử hành việc giảng dạy Kinh sách . Tam sở ở phía nam Cố cung là nơi ở của Hoàng tử . Trong Ngũ hành " Mộc " chủ sinh , vì vậy Nam tam sở đã từng là tường đỏ , ngói xanh . Năm Càn Long 39 ( 1774 ) , vì để lưu giữ " Tứ khố Toàn thư " , nên trong cung phải xây Văn Uyên các phòng hỏa hoạn , tường dùng màu xanh xám , lợp ngói lưu ly màu đen , viền xanh , màu đen biểu tượng cho nước .
    Hai phòng phía Đông Tây trong cửa Thần vũ nằm ở phương Bắc , thuộc Thủy , cũng có nghĩa là trấn Hỏa , nên dùng ngói màu đen .
    Việc sử dụng màu sắc trong kiến trúc tuân theo quy định rất nghiêm ngặt . Màu vàng biểu tượng Chí tôn , tiếp theo là các màu đỏ , xanh thanh Thiên , lam , đen , xám . Nhà dân chỉ được dùng màu đen , xám , trắng .
    Về bố cục thì cung điện chia ra làm hai phần lớn : Tiền triều ( chính là ba tòa đại diện ) và Hậu tẩm . Nội đình chia làm Tam bộ : Giữa , Tây , Đông . Cung Càn Thanh , cung Khôn Ninh , điện Giao Thái nằm trên trục tuyến giữa , gọi là Hậu Tam cung . hai bên phải trái là Lục cung Đông Tây , thường gọi là Tam cung Lục viện . Phía nam là mặt tiền , từ Hỏa chủ về sự to lớn . Vì vậy là nơi để thi hành chính sự . Sau là mặt bắc , từ Hỏa chủ về sự cất giấu , vì vậy làm nơi ở . Còn cung điện thuộc về Văn trị thì xây về phía Đông . Đông thuộc Mộc , thuộc về mùa Xuân . Những cung điện dùng cho Võ bị , Hình luật thì xây về phía Tây . Tây thuộc kim , về mùa Thu . Điển hình nhất là Viện văn Hoa nằm ở phía Đông , điện Vũ Anh ở phía Tây bảo vệ cho ba tòa đại diện Trung ương .
    Nội các là Nha môn của văn chức , nằm ở phía Đông trong Ngọ môn . Lúc đầu nơi Quân cơ là Nha môn của Võ chức nằm ở phía Tây ngoài cửa Càn Thanh . Trong cung , Viện Càn Thanh ở trung lộ , điện Đoan Ngưng ở phía Đông là nơi bảo quản châu báu , y phục , lễ vật của Hoàng Đế . Điện Mậu cần ở phía tây là nơi hàng năm Hoàng Đế ra lệnh hành quyết các tù nhân .
    Ở thành Bắc kinh , Khổng miếu và Quốc Tử giám học Phủ tối cao , nằm ở phía Đông thành , các Cử nhân vào Kinh thi Hội , đều phải đi từ cửa Sùng Văn phía Nam vào . Quân đội đi đánh trận thì xuất phát từ cửa Tuyên Vũ phía Tây thành .
    Ở phương chính Nam của Tử Cấm thành có Tả Tổ ( Thái miếu ) , Hữu xã ( Đàn Xã tắc ) , bởi vì Tông miếu là nơi thờ cúng ca ngợi công đức Tổ tông ., đã dượng dục con cháu , thuộc về phương Đông , thuộc Mộc . Xã Tắc là vì dân , vì nước , thuộc Kim , phương Tây . Thiết nhất môn của Ngự Hoa viên ở đầu phía Bắc của tuyến trục giữa Cố cung có` nghĩa là " Thiên nhất sinh Thủy , tường màu xám ( đen ) phù hợp với hướng Thủy ở phía Bắc , để cầu nguyện cho Tử Cấm thành không bị hỏa hoạn . Ngọ môn ở cuối phía Nam , ứng với hướng Hỏa , nên lấy màu đỏ làm chính .
    Bốn phía của Hoàng cung , có Thần bốn phương :
    Đông : màu xanh , vị trí của Thanh Long .
    Nam : màu đỏ , vị trí của Chu tước ( tức chim Phượng ) .
    Tây : màu trắng , vị trí của Bạch Hổ .
    Bắc : màu đen , vị trí của Quy xà . Đây là ảnh hưởng của Đạo giáo .
    Việc xây cung điện còn theo thuyết Âm - Dương , triết thuyết cổ xưa hơn thuyết Ngũ hành , đồ án Âm Dương còn gọi là Thái cực đồ , Bát quái đồ . Nho gia , Đạo giáo đều coi đó là cội nguồn của văn hóa Trung hoa .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  14. #14
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Hàm ý ban đầu của Âm - dương chỉ là quan hệ với ánh mặt Trời . Hướng về phía mặt Trời là Dương , ngược ánh mặt Trời là Âm . Các nhà tư tưởng cổ đại Trung quốc nhận thấy bất kỳ vật nào cũng có mặt phải , mặt trái , tức là hai cực Âm - Dương . Đó là quy luật cơ bản của sự phát triển trong Vũ trụ , quan hệ của nó có trật tự và hài hòa , nếu không sẽ xảy ra tai họa . Vì vậy trong Tử Cấm thành , tiền triều là dương , điện Vũ đều cao hơn Hậu tảm , nguy nga , hoành tráng , nổi bật vẻ đẹp của Dương cung . Hậu tẩm là phần Âm của Tử Cấm thành , nó nhỏ hơn Tiền triều , dùng làm nơi sinh hoạt . Vì vậy thiết kế tổ hợp về kết cấu không gian , thoải mái và thực dụng , tạo cảm giác yên tĩnh dịu dàng . Còn Lục cung Đông Tây thì lại đối xứng tương đối rất hài hòa .
    Âm - Dương được thể hiện bằng số . Số lẻ là Dương , số chẵn là Âm . Vì vậy các điện Tiền triều rất rộng , độ sâu đều là số lẻ , còn độ sâu Lục cung Đông Tây hậu đình đa phần là số chẵn .
    Tứ đó thấy rằng cung càn Thanh là Dương trong Âm , quy chế giống như điện Thái Hòa , cao hơn cung điện hậu tẩm , đứng đầu trong hậu đình . Điện Bảo Hòa thì Âm trong Dương , quy cách khác xa điện Thái Hòa . Cung Khôn Ninh là Âm trong Âm , vào đời Minh là Tẩm cung của Hoàng hậu , quy cách khác xa với cung Càn Thanh .
    Giữa cung Càn Thanh và cung Khôn ninh là điện Giao Thái , tức giao cảm gĩưa Càn Khôn , thiên hạ Thái bình . Đến đời Thanh , cung Khôn Ninh lại là nơi tế lễ Quỷ Thần Tát mãn Giáo , phù hợp với địa vị của Âm trong Dương .
    Quần thể cung điện Tử Cấm thành làm cho ta một ấn tượng sâu sắc về nền văn hóa của dân tộc Trung Hoa .
    Điều đặc biệt đáng nói là tư liệu Lịch sử Trung Hoa cho biết vị tổng công trình sư kiến thiết Bắc Kinh thời Minh lại là một người Việt Nam ( bấy giờ sử Trung Quốc gọi là người Giao Chỉ ) .
    PGS. PHAN VĂN CÁC
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  15. #15
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    PHẦN 3/ CHỨNG CỨ - CÁC LOẠI Ý KIẾN CỦA TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ VỊ TRÍ THĂNG LONG THÀNH .

    Ngọn gió của ngàn đời
    Chiều nay ùa trở lại
    (Lưu Quang Vũ)

    Nghiên cứu về vị trí của Hoàng thành Thăng Long .
    1. Tại tất cả các tiểu ban, không thấy đặt ra vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học cho vấn đề đang nghiên cứu. Hệ quả là dẫn đến một số sự lỗ mỗ, không thống nhất trong nhận thức và sử dụng các khái niệm Cung thành, Hoàng thành, Kinh thành, Cấm thành ...Chỉ thấy có PGS. Nguyễn Duy Hinh phát biểu trong hội thảo tiểu ban vào ngày 3/6/2004 (Báo Tiền Phong chủ nhật Số 23, ra ngày 6 - 6 - 2004. tr. 8.) và Nguyễn Xuân Diện phát biểu trong hội thảo tiểu ban 2 họp ngày 27/7/2004 (Phát biểu trong hội nghị, không có văn bản gửi kèm theo). Về sau, trên báo Khoa học và Đời sống (các số 71, số 77 & 78, số 85) có các bài trao đổi qua lại giữa Phan Duy Kha và Hòa Phương về tên gọi của di chỉ khai quật là Hoàng thành, Cấm thành hay Long thành.
    2. Cả hai tiểu ban 1 và 2 đều có đề cập đến việc trả lời cho câu hỏi: Vị trí của hố khai quật hiện nay nằm ở vị trí nào trên bản đồ cổ, và vị trí đó có thuộc Hoàng thành và Cấm thành không? Đã có nhiều kiến giải và giả thuyết đưa ra.
    Để xác định được vị trí của hố khai quật và định vị nó trên bản đồ cổ, cần phải lấy những vật cố định làm chuẩn (núi, sông) để làm điểm xác định. Nhà nghiên cứu Bùi Thiết có lẽ là người đầu tiên đề xuất đến điều này. Nhiều người đã nghĩ đến Núi Nùng và Điện Kính Thiên.
    GS. Trần Quốc Vượng cho rằng núi Nùng là rốn rồng. Và cho thấy điểm khai quật quá xa Hoàng thành (Báo Gia đình & Xã hội. Số 79, ra ngày 8 -6- 2004. tr. 6)). ở hội thảo của tiểu ban 2, Nguyễn Xuân Diện đã đưa ra một số tài liệu về vị trí của núi Nùng và điện Kính Thiên, trong đó ghi nhận các ghi chép trong sách cổ, như sau: Về tên gọi núi Nùng: Long Đỗ (Bụng Rồng), Long Tỵ (Mũi rồng), Long Tê (Rốn Rồng); Vị trí: Nằm giữa thành Thăng Long; Núi Nùng: làm án / làm chẩm / làm nền của điện Kính Thiên; Núi Nùng không trùng với nền Hoàng cung.
    Đưa ra các tư liệu trên, tác giả chưa kết luận mà vẫn để ngỏ để các nhà khoa học cùng suy ngẫm thêm. Vậy núi Nùng nằm ở đâu? Và cái thềm Rồng đá trong khu thành cổ có phải là điện Kính Thiên đời Lê? Và nhiều câu hỏi khác nữa, rất cần câu trả lời.
    3. Hình thước thợ (còn gọi là “hình súng lục”) trong bản đồ Hồng Đức là cả Hoàng thành hay chỉ riêng khu vực “nòng súng” là Hoàng thành? Đây là câu hỏi đặt ra cần được trả lời dứt khoát.
    Vấn đề này có 2 ý kiến, mà đại biểu là hai GS. Trần Quốc Vượng và Phan Huy Lê, mỗi người đại diện cho một loại ý kiến. Theo GS. Trần Quốc Vượng khẳng định chỉ khu vực “nòng súng”, vì căn cứ vào thông tin rằng: Chùa Một Cột đã ở “ngoài thành”; Vua Lê ra chơi ở núi Khán Sơn để xem duyệt binh; Hành cung của vua Lê trên núi Khán Sơn.
    GS. Phan Huy Lê lại nghiêng về khẳng định cả “khẩu súng lục” là hoàng thành, vì thấy rằng ngoài “nòng súng” đã được khẳng định thì vẫn còn nhiều di tích và công trình quan trọng nữa.
    Vấn đề này, cho đến nay vẫn chưa có một kiến giải có sự đồng thuận của các nhà khoa học. Chúng ta phải có tài liệu tham khảo về nguyên tắc xây dựng và quy mô của Hoàng thành / Cấm thành Trung Quốc để vận dụng vào việc nghiên cứu Hoàng thành Lý - Trần - Lê của Việt Nam.
    4. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa gọi tên được các kiến trúc, toà nhà mà chúng ta đã thấy di tích móng nhà. Chúng ta chỉ biết đã từng có kiến trúc rất lớn ở khu vực này. Vậy thôi. Đó là cung gì vậy? Và cung đó thuộc niên đại nào? Đời nào? Chức năng của cung điện này?
    TS.NGUYỄN XUÂN DIỆN .

    BẢN ĐỒ VỆ TINH KHU KHAI QUẬT 18 HOÀNG DIỆU - HÀ NỘI .

    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  16. #16
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Ý KIẾN CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC VỀ VỊ TRÍ CỦA
    KHU VỰC KHAI QUẬT 18 HOÀNG DIỆU



    1. Nhà sử học BÙI THIẾT cho rằng:

    “Cuộc khai quật khảo cổ học ngẫu nhiên tọa lạc vào khu vực trung tâm Hoàng thành, như một cố ý để Thăng Long tự hiện lên làm nhân chứng cho ngàn năm Thăng Long – Hà Nội”(HN, 21/5/2004)
    Nguồn: Thử xác định vị trí thành Thăng Long từ hệ thống bản đồ trước thế kỷ XIX. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.


    2. PGS.TS TỐNG TRUNG TÍN:
    Năm 2004:

    * Về vị trí của thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê ở đâu đó là một vấn đề mà giới nghiên cứu đã quan tâm và thảo luận từ lâu. Đại thể có hai quan điểm chính sau:
    - Trung tâm là điện Kính Thiên ngày nay vẫn còn nền móng và các thành bậc chạm rồng và hoa lá thời Lê Sơ.
    - Ý kiến của học giả Trần Huy Bá, Hoàng Đạo Thúy v.v…thì cho rằng thành Thăng Long thời Lý – Trần ở phía tây vườn Bách Thảo.
    * Từ tư liệu khảo cổ học kết hợp với nguồn thư tịch cổ và các di vật hiện còn trên mặt đất, chúng ta có thể hiểu rõ thêm về vị trí và quy mô Hoàng thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê:

    1. Ranh giới phía Bắc: có chùa Am Cửa Bắc, chùa Linh Sơn, quán Trấn Vũ, chùa Trấn Quốc. Đáng lưu ý nhất là chùa Am Cửa Bắc.
    2. Ranh giới phía Nam: có Cột Cờ, chùa Long Khánh, đàn Nam Giao, chùa Hàm Long. Đáng lưu ý là các di tích sau: Di tích Cột Cờ, bia chùa Hàm Long.
    3. Ranh giới phía Đông: chùa Cầu Đông, đình Đông Môn, Hội quán Phúc Kiến, đền Bà Móc, chùa Thái Cam, đền Bạch Mã, Ô Quan Chưởng, đình Hoa Lộc. Đáng chú ý là các di tích sau: Chùa Đông Môn, Hội quán Phúc Kiến ở 40 phố Lãn Ông, chùa Thái Cam 16 D Hàng Gà.
    4. Ranh giới phía Tây: có chùa Một Cột, Am Cây Đề, đình Đông Các, chùa Láng, chùa Huy Văn v.v…Đáng lưu ý nhất là các di tích sau: Chùa Một Cột, chùa Am Cây Đề (Thanh Ninh tự) 2 phố Lê Trực, chùa Huy Văn.
    * Quy mô của Hoàng thành Thăng Long thời Lê được xác định ỏ khoảng sau:
    - Bắc khoảng đường phố Phan Đình Phùng
    - Nam khoảng đường phố Trần Phú
    - Đông khoảng phố Thuốc Bắc
    - Tây khoảng đường Hùng Vương.

    Nguồn: Kết quả thăm dò Khảo cố học Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu lâu, 62-64 Trần Phú và vấn đề vì trí, quy môn của Hoàng thành Thăng Long thời Lý – Trần - Lê. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.
    Năm 2007:
    Về vị trí của kinh thành Thăng Long, trong nửa thế kỷ XX giới khảo cổ học và sử học đã nghiên cứu, thảo luận và hình thành nên số ý kiến khác nhau mà tựu chung có 2 loại ý kiến:
    - Trần Quốc Vượng và Vũ Tuân Sán cho rằng trung tâm của kinh thành Thăng Long là điện Kính Thiên thời Lê (thế kỷ) được xây trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi là điện Thiên An) trung tâm thiết triều của triều Lý và triều Trần (thế kỷ XI – XIV).
    - Các ý kiến khác đều cho rằng vị trí của thành Thăng Long không phải là ở điện Kính Thiên mà nghiêng về phía Tây và sau đó dịch chuyển dần về phía đông.

    Các phát hiện mới về khảo cổ học đã chứng minh ý kiến của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán là có cơ sở xác thực bởi hai lý do sau:
    - Thứ nhất, khi khai quật thăm dò ở khu vực Quần Ngựa, khảo cổ học đã không tìm thấy tầng văn hóa dày và các dấu tích kiến trúc dày đặc trải suốt từ thời tiền Thăng Long cho đến thời Lý – Trần – Lê như ở khu vực Ba Đình. Nhiều đồ phế thải của lò nung tìm thấy ở đây cho thấy khu vực này có thể tồn tại những lò nung của các thời Lý – Trần – Lê cho thấy ở đây có những khu vực lao động sản xuất bình dân. Việc tìm thấy một số di tích kiến trúc cao cấp các thời Lý – Trần ở đây chí chứng tỏ rằng đó là một số dinh thự phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, thưởng ngoạn của quý tộc cung đình. Dấu tích kiến trúc thời Lê có nhiều hơn nhưng vẫn không dày đặc như ở khu trung tâm là sự minh chứng cho việc ghi chép về việc mở mang Hoàng thành Thăng Long dưới thời Lê. Do đó trung tâm thành Thăng Long Lý – Trần – Lê không phải ở khu vực Quần Ngựa.
    - Thứ hai, cuộc khai quật năm 1998 tại Đoan Môn đã tìm thấy con đường đi lát gạch hình hoa chanh thời Trần ở độ sâu 1,90m. Con đường này có hướng tiến thẳng từ Đoan Môn đến Bắc Môn. Việc xây dựng con đường hết sức kiên cố, mặt đường được lát đẹp có sử dụng lại vật liệu xây dựng đời Lý. Điều đó chứng tỏ rằng đây là một con đường rất quan trọng trong Hoàng cung. Trong hiện trạng di tích ở đây thì có thể đoán đó là con đường chính đạo từ Đoan Môn tiến đến điện Thiên An thời Lý – Trần. Sau này thời Lê, thời Nguyễn đều tiếp tục xây con đường nàu ở bên trên con đường Lý – Trần.
    Hai phát hiện trên đây kết hợp với việc phát lộ phức hệ di tích ở 18 Hoàng Diệu cách điện Kính Thiên khoảng 100m đã cho thấy khu vực trung tâm của thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê chính là khu vực có điện Kính Thiên. Xung quanh điện này, sử cũ ghi có hàng trăm cung điện, lầu gác, chùa quán khác của nhà vua. Chính điều này đã giải thích lý do vì sao khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu có nhiều kiến trúc với nhiều loại hình chồng xếp, cắt phá lẫn nhau nhiều đến như vậy.

    Hội thảo khoa học toàn quốc năm 2004 đã nhất trí xác định khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu là một bộ phận trung tâm của Cấm thành cũng tức là trung tâm của Hoàng thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê.

    Mặt khác, các cuộc khai quật cũng cho thấy rõ quy hoạch tổng thể của kinh thành Thăng Long thời xưa. Theo đó, kết hợp với các ghi chép của sử cũ, bản đồ cổ sẽ thấy quy hoạch của Thăng Long với đặc trưng nổi bật là một đô thị - sông hồ, trong đó khu trung tâm của kinh đô là ở khu trung tâm Ba Đình hiện nay với điện Kính Thiên là tâm điểm. Phía đông khu trung tâm kinh thành có sông Hồng với nhiều cửa sông, bên bãi là trung tâm trao đổi, buôn bán. Phía tây là nơi sản xuất thủ công nghiệp. Đó là quy hoạch khoa học đẹp, phù hợp với địa hình trung tâm châu thổ sông Hồng.

    Nguồn: Những dấu tích của thành Thăng Long cần được bảo tồn và phát huy giá trị. Tham luận tại Hội thảo Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội, ngày 12/5/2007 tại Viện Văn hóa thông tin, Bộ VHTT.

    3. GS. TRẦN QUỐC VƯỢNG:
    Trung tâm điểm của cấu trúc thành Đại La của Cao Biền (thế kỷ 9), của thàng Thăng Long thời Lý – Trần (thế kỳ 11-14) và cả của thành Đông Kinh thời Lê (thế kỷ 15 - 18 ) và cả Bắc thành (đời Gia Long), Hà Nội thành (đời Minh Mạng – Tự Đức) thời Nguyễn (thế kỷ 19) là Núi Nùng.

    Cái ý của cụ Biệt Lam Trần Huy Bá và của cụ Hoàng Đạo Thúy (xem Lịch sử Hà Nội Trần Huy Liệu chủ biên, 1960; Thăng Long Đông Đô Hà Nội của Hoàng Đạo Thúy, 1967) là núi Nùng ở trong vườn Bách Thảo đã tỏ ra không vững. (Hà Nội hè 2004)
    Nguồn: Lại bàn về vị thế Hoàng thành Thăng Long. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.

    4. GS. LÊ VĂN LAN:
    Qua khảo sát một số tài liệu văn bản, ta thấy rằng: vòng tường Hoàng thành Thăng Long khởi đắp năm 1010 ở đầu thời Lý, có nguồn gốc/và thực tế/ là vòng tường thành Đại La đời Hàm Thông, do Cao Biền đắp năm 866, được Lý Thái Tổ sửa snag , tôn tạo. Vị trí và quy mô của nó, do đó, có thể được nhận diện, thông qua mấy điểm chuẩn, là: ở bờ nam sông Tô Lịch, bao quanh núi Nùng (Long Đỗ) ở trung tâm, cửa Đông mở ra ở trước phố Hàng Buồm ngày nay, và chu vi khoảng 6 km (lấy con số tròn).
    …Thành cổ Hà Nội, Hoàng thành Thăng Long, thành Đại La. Tất cả đều chung vị trí (tức ở cùng một chỗ) và sấp sỉ như nhau (tức gần bằng nhau) về quy mô!

    Nguồn: Vị trí và quy mô Hoàng thành Thăng Long đời Lý qua tài liệu văn bản. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.

    5. PGS.TS ĐỖ VĂN NINH:
    Đã có thể kết luận chính xác rằng Thăng Long thời Lý - Trần, Đông Kinh thời Lê và cả Hà Nội thời Nguyễn nữa đều xây dựng với trục trung tâm Đoan Môn - Kính Thiên và Cột Cờ - Đoan Môn - Kính Thiên - Cửa Bắc. Trục Cột Cờ - Cửa Bắc có lệch vài độ so với trục Đoan Môn - Kính Thiên song về cơ bản có thể coi là một. Cũng có thể khái quát một câu rằng: Kinh đô nước ta tất cả mọi đời đều chỉ xây quanh một trục.
    Nguồn: Những hiểu biết mới về Thăng Long.


    6. PGS.TS ĐẶNG VIỆT BÍCH:
    Khu vực 18 Hoàng Diệu mà di tích đã phát lộ, sau khi tham quan vài lần, thì tôi ngờ rằng: đây là một khu vực bếp ăn trong hoàng cung, với đống vỏ sò, hến…còn lưu giữ trong lòng đất.(Hà Nội 9/5/2007)

    Nguồn: Một vài ý kiến về bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa – cách mạng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội. Tham luận tại Hội thảo Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội, ngày 12/5/2007 tại Viện Văn hóa thông tin, Bộ VHTT.
    7/ GS.Phan Huy Lê:


    Theo bản đồ quy hoạch của khu trung tâm chính trị Ba Đình, có nhiều lô. Trong đó, lô D có diện tích 57.000 mét vuông, nằm giữa bốn đường Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn và Hoàng Diệu. Tại đây từ những năm 1960, đã xây nên Hội trường Ba Đình. Đến cuối thập niên 1990, có chủ trương xây dựng tại lô này hai tòa nhà lớn: Nhà Quốc hội và một tòa nhà phía sau, gần đường Hoàng Diệu, gọi là Hội trường Ba Đình mới.

    Theo luật về di sản văn hóa, trước khi xây dựng các công trình lớn, cần tiến hành khai quật khảo cổ học. Đến giữa năm 2003, đã phát lộ một phức hệ di tích rất phong phú và đa dạng. Vào tháng 9-2003, Trung ương đã có chủ trương đúng là di chuyển ngay Hội trường Ba Đình sang khu đô thị mới Mỹ Đình và đổi tên thành Trung tâm hội nghị quốc gia.

    Còn riêng khu nhà Quốc hội, ở trên chủ trương cho tiếp tục khai quật. Từ 2003 đến giữa 2004, diện tích khai quật lên tới 19.000 mét vuông, phát lộ một di tích vô cùng quý giá. Nó kéo dài suốt từ thời kì tiền Thăng Long, đến thời An Nam đô hộ phủ, trải qua thời Đinh và Tiền Lê, và đặc biệt là nó kéo dài liên tục qua thời Lý, Trần và Lê sơ.

    Có rất nhiều di tích cung điện tại đây. Có cả những giếng nước còn nguyên vẹn, hệ thống thoát nước, chiến thuyền. và rất nhiều di vật. Di tích ở đây còn kéo dài đến tận thời Mạc, thời Lê – Trịnh cho đến cuối thế kỷ 18 và còn tiếp tục đến nửa đầu thế kỷ 19, tức là thời kì thành Hà Nội của triều Nguyễn. Các kiến trúc và di vật tìm được đã chứng tỏ nền văn hóa lâu đời của Việt Nam, kết tinh truyền thống xây dựng, các nghề thủ công cũng như cách thức tổ chức và quy hoạch ở trung tâm Hoàng thành.


    Như vậy, tại lô D, ngoài di tích ở trên mặt đất, thì khảo cổ học đã chứng minh được là trong lòng đất có cả bề dày lịch sử ngàn năm Thăng Long. Mà đây là ở khu quan trọng nhất của thành Thăng Long, tức là Cấm thành.

    Nguồn : http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet...huyle_iv.shtml

    " Giáo sư có thể trình bày sơ đồ kiến trúc Cấm Thành theo sử liệu?
    - Kết quả nhiều năm nghiên cứu về cấu trúc thành Thăng Long kết hợp với 2 năm nghiên cứu khảo cổ vừa rồi đã hội đủ những căn cứ khoa học cho phép khẳng định khu di tích 18 Hoàng Diệu nằm trong Cấm Thành. Ngay từ khi mới phát lộ năm 2003, các nhà sử học, khảo cổ học đã xác định khu di tích nằm trong Hoàng Thành, nay tiến lên một bước xác định khu di tích nằm trong Cấm Thành tức trung tâm của Hoàng Thành. Chúng ta có một số vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm Thành.
    Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là Điện Kính Thiên thời Lê sơ, xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý, thời Trần. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ còn đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV. Kiến trúc này xây dựng trên núi Nùng tức Long Đỗ (Rốn Rồng) nơi tụ hội khí thiêng của non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền.
    Thứ hai là Đoan Môn là cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang. Dưới chân Đoan Môn đã phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lý, thời Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu thì phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nhìn trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn thì Cột Cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành. Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.
    Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lý thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm Thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm Thành không thể quá vị trí Chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lý học lịch sử, ở phía tây bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, thì Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía tây bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đình Phùng, trước mặt Phủ Chủ tịch và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, tôi phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đình.
    Vậy là ta đã xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành. Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có hình chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng không coi là trong Cấm Thành, và như thế Cấm Thành gần như hình vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội trên cơ sở mở rộng Cấm Thành, vì trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm Thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn vì thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng Thành.

    Nguồn : VietNamNet
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  17. #17
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Dưới đây là bài tham luận của Nguyễn Xuân Diện ở tiểu ban 1, được viết xong vào tháng 6 năm 2004.
    Đã trình bày tại Hội nghị khoa học Tiểu ban 1: Những vấn đề chung về Hoàng thành Thăng Long, họp tại Viện Khảo cổ học. 27-30/7/2004

    Vị trí Kinh thành Thăng Long và Hoàng thành Thăng Long
    qua ghi nhận của thư tịch cổ



    1. Vị trí của núi Nùng và điện Kính Thiên:

    Trong cuộc thảo luận về vị trí của Hoàng thành Thăng Long vừa qua, vị trí của núi Nùng được cho là rất quan trọng, vì sách cổ chép rằng điện Kính Thiên đời Lê dựng trên núi ấy, nên giúp cho việc định vị Hoàng thành (bài của GS. Trần Quốc Vượng).
    Trước đây, trong chuyên khảo “Hà Nội trong giai đoạn anh hùng (1873 -1888)” [Hanoi pendant la période héroique (1873 -1888)], xuất bản tại Paris năm 1929, tác gi André Masson cũng cho biết điện Kính Thiên được xây trên gò đất thiêng Nùng Sơn, “gò núi trong nhiều thế kỷ được coi như núi hộ mệnh của thành phố”. Ông còn dẫn ghi chép của các sĩ quan Pháp có mặt tại Hà Nội vào ngày 15 -11 -1875 (Chapotot), và tháng Năm năm 1885 (Frédéric Garcin), và cả ghi chép của Trương Vĩnh Ký khi thăm Bắc kỳ năm 1876.
    Gần đây, trong chuyên khảo Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, học gỉa Phạm Hân (tức Phạm Kim Hùng, cán bộ Bộ Ngoại giao, nay đã quá cố) đã có một bài viết riêng về núi và điện, dưới tiêu đề “Núi Nùng với điện Kính Thiên”. Đoạn viết đó dài 4 trang (chỉ có ở bản in năm 2003), cho biết các tư liệu sau đã chép Núi Nùng ở giữa thành Hà Nội: Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt địa dư chí, Thăng Long cổ tích khảo, Long Biên bách nhị vịnh, Thượng kinh phong vật chí.
    Nay xin dẫn thêm và dẫn lại các kho cứu của người xưa về vị trí của núi để các nhà khảo cổ có thêm tài liệu tham khảo.
    1.1. Danh sĩ, học giả Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) trong bài “Trả lời các câu hỏi về di tích ở Thăng Long” cho một người bạn, vào tháng Hai, năm Ât Hợi (1815), niên hiệu Gia Long, có viết về núi Nùng, trong mục Danh sơn, sách Châu Phong tạp thảo như sau:

    “Núi Nùng: Núi đất ở giữa thành Thăng Long. Khi triều Lý định đô, xây dựng làm chính điện. Triều Lê là điện Kính Thiên, nay là Bắc thành. Hoàng cung ở phía trước điện. Đời truyền, ở trên điện phía sau tòa ngự, núi và đầm thông khí như hình hang chuột, đó là rốn rồng[long tê]”.[tờ 8a].
    Phạm Đình Hổ còn cho biết, ngoài núi Nùng, còn có núi Tam Sơn, núi Khán Sơn, núi Thái Hoà. Về núi Tam Sơn, ông viết như sau: “Tam Sơn: Núi đất ở trong thành Thăng Long, nằm về phía Bắc Hoàng cung”[tờ 8a]. Về núi Thái Hoà thì: “Núi đất ở phía Tây, bên ngoài thành Thăng Long” [tờ 8b]. Về núi Khán Sơn, vì văn bản mất chữ nên không còn đọc được những chữ xác định vị trí. (Châu Phong tạp thảo, VHv.1873. Tờ 8a và 8b)
    Như vậy: Núi Nùng là núi đất ở giữa thành Thăng Long. Thời Lý là vị trí chính điện. Thời Lê là vị trí của điện Kính Thiên. Và trong thành Thăng Long không chỉ có núi Nùng mà còn có núi Tam Sơn. Khái niệm “Thành Thăng Long” là chỉ một phạm vi rộng, trong đó có “Hoàng cung”(Cấm thành). “Hoàng cung” không trùng với điện Kính Thiên.
    1.2 Cụ Đặng Xuân Khanh, sau khi tham khảo sách cổ ở Viễn Đông bác cổ học viện đã viết về núi Nùng như sau:

    “Núi Nùng ở chính giữa kinh thành, còn có một tên nữa là núi Long Đỗ. Núi hình tròn, cây cối um tùm, tiếp liền với Tây Hồ; đằng sau có Tam Sơn làm chẩm (...). Lý Thái Tổ định đô ở đây, lấy núi này làm án, dựng chính điện ở trên (...). Triều Trần đổi làm hành cung, dựng lầu Vọng Nguyệt đối diện với núi Nùng. Triều Lê là điện Kính Thiên. Triều Nguyễn đặt hành cung, vẫn theo tên cũ. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) đổi làm điện Long Thiên”(Thăng Long cổ tích kho tịnh hội đồ, VHv.2471. Tờ 9 a và 9 b).
    Như vậy: Núi Nùng có tên gọi là núi Long Đỗ (Chữ Hán viết Long là Rồng, đỗ là bụng. Long đỗ là bụng rồng). Triều Lý dựng nền điện trên núi. Triều Lê dựng điện Kính Thiên trên núi. Triều Nguyễn đặt hành cung ngay trên núi, đến 1843 đổi làm điện Long Thiên.
    1.3. Thăng Long cổ tích khảo (không rõ niên đại) chép về núi Nùng như sau:

    Núi ở chính giữa thành. Núi không cao lắm, đất đá lẫn lộn. Thời Đường, Cao Biền gọi núi này là Mũi rồng (Long Tỵ) và làm bùa để yểm đi. Đào lên, qủa là có một lỗ thông khí, như hình hang chuột. Triều Lý, xây chính điện lấy núi này làm án. Triều Lê xây điện Kính Thiên lấy núi này làm chẩm. (Thăng Long cổ tích khảo, A.1820. Tờ 17b)
    Như vậy: Theo tài liệu này thì núi Nùng được Cao Biền gọi là Mũi rồng, không phải là bụng rồng hay rốn rồng như các cách gọi khác từng được thư tịch ghi nhận. Và các triều Lý và Lê đều không xây điện lên trên núi mà chỉ lấy núi là án hoặc chẩm mà thôi. Cũng sách này, khi viết về đền Long Đỗ thần quân, cho biết ngôi đền nằm phía Bắc Long thành, trấn giữ phương Bắc, khi xưa Cao Biền đến yểm mà không được nên phải lập đền [tờ 15b và 16a].
    1.4. Từ những ghi chép trên, ta có thể rút ra một vài điều như sau:
    - Núi Nùng nằm giữa thành Thăng Long.
    - Nhiều tài liệu chép cho đây là Rốn rồng, nhưng lại có tài liệu cho là Mũi rồng, Bụng rồng.
    - Trên núi Nùng đời Lý dựng chính điện, đời Lê dựng điện Kính Thiên. Có tài liệu chép chỉ lấy núi làm án hay chẩm chứ không xây cất ở trên.
    - Núi Nùng không trùng với nền Hoàng cung. Trong bài “Trả lời các câu hỏi về di tích ở Thăng Long”, sách Châu Phong tạp thảo, viết vào khoảng thời gian từ 1790 đến đầu thời Minh Mệnh (1820), của Phạm Đình Hổ thấy có xuất hiện hai cách gọi này: Thành Thăng Long (có chỗ gọi là Long thành), Hoàng cung. Theo đó, Thành Thăng Long là chỉ một khu vực rất rộng, bên trong là Hoàng thành - tức là khu vực bao quanh nơi Vua ở. Trong Hoàng thành là Hoàng cung (tức Tử Cấm thành) chỉ nơi sinh hoạt và làm việc của nhà Vua.

    2. Thêm một số dẫn liệu về ranh giới thành Thăng Long:
    Trong báo cáo “Kết qủa thăm dò Khảo cổ học Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu lâu, 62 - 64 Trần Phú và vấn đề vị trí, quy mô của Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê” của PGS.TS Tống Trung Tín, ngày 3 tháng 6 - 2004 tại Hà Nội có dẫn các thư tịch cổ để xác định ranh giới và quy mô Hoàng thành Thăng Long ở bốn phía Bắc - Nam - Tây - Đông. Cụ thể như:
    - Phía Bắc: Chùa Am Cửa Bắc, chùa Linh Sơn, quán Trấn Vũ, chùa Trấn Quốc;
    - Phía Nam: Cột cờ, chùa Long Khánh, đàn Nam Giao, chùa Hàm Long;
    - Phía Đông: Chùa Cầu Đông, đình Đông Môn, Hội Quán Phúc Kiến, đền Bà Móc, chùa Thái Cam, đền Bạch Mã, Ô Quan Chưởng, đình Hoa Lộc;
    - Phía Tây: Chùa Một Cột, Chùa Am Cây Đề, đình Đông Các, chùa Láng, chùa Huy Văn.
    Nay chúng tôi xin đưa thêm một số dẫn liệu nữa, góp phần xác định ranh giới Kinh thành Thăng Long, rút từ Châu Phong tạp thảo như sau:
    - Phía Tây Bắc thành có: Quán Trấn Vũ [tờ 14a]
    - Phía Tây Nam thành có: Hồ Tú Yên [UYÊN](phường Bích Câu)[tờ 9a]
    - Phía Tây thành có: Chùa Một Cột [tờ 11a], Đền Linh Lang [tờ 20a]
    - Phía Đông Nam thành có: Hồ Tả Vọng (tức hồ Hoàn Kiếm) [tờ 8b]
    - Phía Nam thành có: Văn Miếu [tờ 9a]

    3. Vị trí thành Thăng Long qua các đời:
    Một số nhà nghiên cứu trước đây đã khẳng định thành Hà Nội xây trên nền tành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê. Và thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê nằm trên nền thành Đại La của Cao Biền. Dưới đây xin giới thiệu một ý kiến khác về vấn đề này.
    Nhà sử học Đặng Xuân Bảng (1828 - 1910) có một cuốn sách rất giá trị về sử học, đã được cụ Đỗ Mộng Khương dịch, Viện Sử học và Nxb Văn hóa thông tin xuất bản năm 1997. Đó là cuốn Sử học bị khảo - tác phẩm mà GS. Đào Duy Anh xem “là một công trình nghiên cứu điạ lý học lịch sử quan trọng nhất trong học giới nước ta ở thời phong kiến”.
    Sách có phần Địa lý khảo, trong đó có hai phần có giá trị tham khảo tốt là “Các nơi đô hội xưa nay” và “Đô thành nước ta”. Phần “Các nơi đô hội xưa nay” có đoạn:

    “Xét sách An Nam kỷ yếu chép rằng: “Lý Nguyên Gia đời Đường Mục Tông (820 - 824) làm đô hộ thấy cửa phủ có dòng nước ngược, sợ người Giao Châu làm phản, nên năm Trường Khánh thứ 4 (824), sai thầy địa lý xem đất, chọn được đất ở bờ sông Tô Lịch liền đắp thành nhỏ rồi dời phủ đến đấy ở. Xem thế thì thành Thăng Long bắt đầu từ niên hiệu Trường Khánh (821 - 824) dời đi trong niên hiệu Bảo Lịch (825 - 827), đắp lại trong niên hiệu Hàm Thông (850 - 874). Từ đời Lý, đời Trần về sau, đời nào cũng có sửa đắp. Nay các thành có 16 cửa ô, 36 phố phường là xây dựng trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) đời Lê, chứ không phải dấu cũ thành Đại La của Cao Biền. Thành Đại La của Cao Biền lại không phải dấu cũ thành Đại La của Trương Bá Nghi, cũng không phải lỵ sở Giao Chỉ cũ đời Tùy. (Tùy thư chép quận lỵ Giao Chỉ ở Tống Bình, là chưa xét rõ).(Sđd trang 264 - 265).
    Sau Đặng Xuân Bảng, một tác gỉa người Pháp là Madrolle trong cuốn sách Guides Madrolle, Indochine du Nord, Tonkin, xuất bản tại Hà Nội năm 1939 cũng có ý kiến gần trùng với Đặng Xuân Bảng. Những nghiên cứu này đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm lưu ý. Hơn nữa, sơ đồ của La Thành (767), Đại La thành (867) và Thăng Long thành (1010) theo nghiên cứu của Madrolle còn được giới thiệu tại trang 16, trong cuốn sách Thành lũy Phố phường và Con người Hà Nội trong lịch sử của Nguyễn Khắc Đạm, xuất bản năm 1999.
    Mới đây, trong hội thảo về Vị trí, quy mô Hoàng thành Thăng Long, tại Hà Nội ngày 3 - 6 - 2004, GS. Lê Văn Lan lại khẳng định các thành từ thời Cao Biền đến Nguyễn ở Hà Nội “đều chung một vị trí (tức ở cùng một chỗ) và sấp sỉ như nhau (tức gần bằng nhau) về quy mô”.
    Hà Nội, tháng 6 -2004


    Tài liệu tham khảo chính
    Sách chữ Hán - Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm
    1. Châu Phong tạp thảo. VHv.1873
    2. Thăng Long cổ tích khảo. A.1820
    3. Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ. VHv.247
    Sách tiếng Việt
    4. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II. In lần thứ hai có sửa chữa. Cao Huy Giu phiên dịch. Đào Duy Anh hiệu đính, chú gỉai. Nxb KHXH. H, 1972. [Trang 92].
    5. Đại Việt sử ký toàn thư. Bản in Nội các quan bản. Tập II. Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. Hà Văn Tấn hiệu đính. [Trang 320]. Và tập IV chụp nguyên bản chữ Hán. [Trang 336]. Nxb KHXH. H, 1993.
    6. Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn. Trần Kim Anh dịch và giới thiệu. Nxb KHXH. H, 1998.
    7. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Đỗ Mộng Khương dịch. Viện Sử học và Nxb Văn hóa Thông tin. H, 1997. [Trang 264 - 265]
    8. Đặng Xuân Khanh: Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ. Bản dịch của Đinh Thanh Hiếu. Bản thảo chưa xuất bản.
    9. Đỗ Văn Ninh: Thành cổ Việt Nam. Nxb KHXH. H, 1983.
    10. Phạm Hân: Tìm lại dấu vết thành Thăng Long. Tái bản có bổ sung. Nxb Văn hóa Thông tin. H, 2003.
    11. Andre' Masson : Hà Nội giai đoạn 1873 - 1888. Lưu Đình Tuân biên dịch. Nxb Hải Phòng. Hải Phòng, 2003.
    12. Nguyễn Khắc Đạm: Thành lũy Phố phường và Con người Hà Nội trong lịch sử. Nxb Văn hóa Thông tin. H, 1999. [Trang 15 -16].
    13. Các tham luận Hội thảo khoa học: “Vị trí, quy mô Hoàng thành Thăng Long qua hệ thống bản đỗ và tư liệu khoa học”, do Viện Khảo cổ học tổ chức tại Hà Nội, ngày 3 - 6 - 2004, của các tác gỉa: Tống Trung Tín, Trần Quốc Vượng, Đỗ Văn Ninh, Nguyễn Duy Hinh, Lương Ninh, Nguyễn Vinh Phúc, Bùi Thiết, Lê Văn Lan.
    14. Các bài báo đưa tin về Hội thảo khoa học nêu trên, đăng trên các báo: Gia đình & Xã hội, Tiền Phong, Khoa học và Đời sống, VNNET, Nghiên cứu Lịch sử.

    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  18. #18
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    MỘT SỐ BẢN ĐỒ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

    1/ Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức (1490)




    2/Trục trung tâm của Cấm Thành: Bắc Môn - Hậu Lâu- Kính Thiên- Đoan Môn- Cột cờ.Đường viền đỏ là phạm vi trung tâm của Cấm Thành còn sót lại.



    3/ Đường viền đỏ là giới hạn của Cấm Thành Thăng Long. Khu vực nằm trong hình vuông viền xanh là số 18 Hoàng Diệu, chỉ cách trục Thần Đạo 87m - Ảnh chụp từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long - Quà tặng các đại biểu quốc tế dự APEC 2006.



    4/ BẢN ĐỒ HÀ NỘI ( TRONG ĐỒNG KHÁNH DƯ ĐỊA CHÍ - Chụp lại từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long, quà tặng cho các đại biểu quốc tế tham dự Hội nghị APEC 2006 )
    )




    Nguồn : http://www.cinet.gov.vn/sukienVH/hoa...hoangthanh.htm
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  19. #19
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    5/ Bản đồ Hà Nội năm 1885


    BẢN ĐỒ THÀNH CỔ HÀ NỘI ( Chụp lại trong HOÀNG THÀNH THĂNG LONG Phát hiện khảo cổ học ) .

    6 / BẢN ĐỒ THÀNH CỔ HÀ NỘI 1873 :



    7/ BẢN ĐỒ TỈNH HÀ NỘI - Cuối thế kỷ 19 ( Trong ĐỒNG KHÁNH DƯ ĐỊA CHÍ ) :



    8/ BẢN ĐỒ do phòng bản đồ quân đội Pháp vẽ 10/ 1898 . Lúc này thành Hà Nội đã bị phá những con đường mới vạch ( Trung tâm lưu trữ hải ngoại Pháp , Aix- en - Provence ) .

    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  20. #20
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của dienbatn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,043

    Mặc định

    Chúng tôi cũng xin giới thiệu một bài rất quan trọng của BÙI THIẾT trong việc xác định những vật chuẩn của THĂNG LONG THÀNH . Bài viết nhan đề : " TÌM KIẾM NHỮNG VẬT CHUẨN KHI XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ THÀNH THĂNG LONG " viết ngày 21/6/2004 . Vì bài viết rất dài , chúng tôi xin lược bớt những chỗ không cần thiết cho việc chứng minh
    TÌM KIẾM NHỮNG VẬT CHUẨN KHI XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ THÀNH THĂNG LONG - BÙI THIẾT
    Vị trí thành Thăng Long ( bao gồm trong đó cung thành hay Hoàng thành ) . từ lâu đã được giới nghiên cứu quan tâm , và có ít ra là vài ba giả thuyết . Nhưng với cuộc nghiên cứu khai quật khảo cổ học tại số 1 phố HOÀNG VĂN THỤ ( Quận ba Đình , Hà Nội ) đặt ra một cách cấp bách hơn bao giờ hết về công việc nghiên cứu để xác định vị trí và tọa độ Địa lý của khu vực khai quật khảo cổ học , đó rằng nó nằm đâu đó trong tòa thành Thăng Long trước thế kỷ XIX? Cũng đồng nghĩa với việc xác định thành Thăng Long và đặc biệt là khu vực Cung thành ( hay Hoàng thành ) Thăng Long trước thế Kỷ XIX .
    Những nguồn tài liệu khác nhau cho giới nghiên cứu và riêng lẻ , những kiến giải khác nhau về vị trí tòa thành , và một khi " chồng " các phương án đó lên nhau theo tọa độ Địa lý hiện đại sẽ xuất hiện những khoảng trùng nhau và những khoảng trắng của riêng từng phương án . Làm thế nào để có được một kết luận khả dĩ về vị trí tòa thành lại là một việc cực kỳ khó khăn , vì nhiều khi các nguồn tài liệu đó mâu thuẫn gay gắt với nhau , thậm chí triệt tiêu lẫn nhau nữa là khác .
    Trong những nguồn tài liệu đó , theo tôi thì hệ thống bản đồ Thăng Long trước thế kỷ XIX ( và cả bản đồ thành Hà Nội thế kỷ XIX ) có một vai trò quan trọng , để có thể cho chúng ta có được cái nhìn vĩ mô bao quát toàn bộ Thăng Long trong suốt lịch sử tồn tại của mình ....
    Trong suy tư tìm kiếm đối tác cho " bản đồ Thăng Long " trước thế kỷ XIX , tôi chọn thêm một nguồn nữa , đó là những địa danh bao quanh Hoàng thành và thành Thăng Long trước thế kỷ XIX và với điều kiện là những địa danh đó tồn tại một cách không thay đổi vị trí của nó trong suốt lịch sử mà bây giờ rất dễ xác định .......
    Có một thực tế là hiện nay có khá nhiều người vẫn không có sự phân biệt một cách rõ ràng sự khác biệt vị trí của cùng một địa danh trước và sau thế kỷ XIX ; coi một số địa danh có sau thế kỷ XIX có vị trí cố định từ trước thế kỷ XIX ngược lên hàng trăm năm trước . Tứ đó đi đến một số nhận xét không mấy khách quan , mà sự nhầm lẫn lịch sử là cầm chắc ; Chẳng hạn như địa danh CHÙA MỘT CỘT hiện nay ( phố Chùa Một Cột , gần lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh - Quận Ba Đình , Hà Nội ) có nằm nguyên vị trí ban đầu xây dựng vào năm 1049 ? Rõ ràng khó mà xác định được , bởi vì không có bất kỳ một thông tin cho phép xác định vị trí của tòa kiến trúc này vẫn nằm nguyên vị trí ban đầu ; Nếu không nhận biết được những thông tin sai lệch đó , người ta có thể khẳng định được phạm vi Hoàng thành Thăng Long thời Lý một cách dễ dàng song vô cùng nhầm lẫn ......

    Công việc không mấy đơn giản , bởi việc xử lý các nguồn để xác định dòng chảy lịch sử và tọa độ địa lý của mỗi địa danh được chọn làm vật chuẩn , nhìn một cách tổng thể của Thăng Long trước và sau thế kỷ XIX , đã và đang là vô cùng khó khăn . Chẳng hạn có người đồng nhất vị trí của thành Thăng Long trước thế kỷ XIX với thành Hà Nội của thế kỷ XIX và từ đó những cấu thành chính của Hà Nội thế kỷ XIX sẽ là những cấu thành tương ứng của thành Thăng Long trước đó ? Nếu những người này có lập luận đúng và đủ chứng cứ , thì cần gì phải đi tìm Thăng Long trước đó làm gì nữa , mà cứ sang ngang từ Hà Nội cho Thăng Long xưa là được rồi ; Nhưng oái oăm thay là họ chẳng có chứng cứ gì cả ; chẳng hạn việc coi tòa điện chính xây năm 1085 ( vì sao người ta cứ nhầm đây là điện Kính Thiên ??) là ở trên núi Nùng , mà núi Nùng và cả điện Kính Thiên trước thế kỷ XIX là hai địa danh cần được chỉ định mà chưa có tài liệu tin cậy . Hóa ra người ta lấy một cái chưa biết ( tức núi Nùng ) , để làm căn cứ cho một cái chưa biết khác ( điện Kính Thiên ) trước thế kỷ XIX , và bài toán chỉ có thể là x+x = Vô định .
    Trước khi đi vào xác định các vật chuẩn , chúng tôi có vài lời về tòa thành xây dựng năm 1805 ở Hà Nội bởi Vương triều Nguyễn . Sau khi thống nhất quốc gia năm 1802 , Vương triều Nguyễn mà tiêu biểu là Vua Gia Long có một số hành vi trả thù không chỉ với nhà Tây Sơn , mà cả với tập đoàn Lê - Trịnh ở đằng ngoài . Những gì có dính lứu đến họ Trịnh dường như bị trả thù , một số văn bia ở Văn Miếu Hà Nội có ghi tên các Tiến sĩ nào đó có trong danh sách trả thù của Vương triều Nguyễn đều bị đục bỏ tên . Với Hoàng thành Thăng Long sau mấy chục năm hoang phế , Vương triều Nguyễn không cho tu bổ lại mà đập phá nốt , để năm 1082 xây thành cho Tổng trấn Bắc thành trên nền của Thăng Long trước đó . Xoá bỏ thành Thăng Long là một trong vô số việc làm nhằm xóa sạch dấu tích Lê - Trịnh trong lòng dân và sĩ phu Bắc hà , khỏi vương vấn với Vương triều cũ của nhà Nguyễn . Khi lên ngôi Vua , Gia Long đã tuyên bố : " Nghĩa lớn Kinh Xuân Thu không gì lớn bằng trả thù , mà quân của vương giả thì giết loạn thần là việc trước hết ..." ( ) , như một định hướng cho các hành vi trả thù , trong đó có việc loại bỏ các kỷ niệm vật chất của Lê - Trinh ......

    Như vậy , muốn nói lên rằng những địa danh được ghi chú trong các bản đồ thành Hà nội thế kỷ XIX , không phản ánh đúng vị trí của các địa danh đó trong các bản đồ và thực địa của Thăng Long trước thế kỷ XIX , và việc sang ngang 1=1 các địa danh của thành Hà Nội thế kỷ XIX với các địa danh tương ứng của thành Thăng Long trước thế kỷ XIX , là một sự lười biếng của tư duy khoa học . Điều đó cũng khẳng định rằng Vương triều Nguyễn tự nâng uy tín của mình lên đối với cư dân và sĩ phu Bắc Hà bằng việc xóa bỏ một cách nhiều nhất mọi dấu tích của Vương triều Lê - Trịnh đừng để ai giữ lại dấu ấn của Vương triều xưa . các Vua cùng Vương triều Nguyễn như Gia Long , Minh Mạng đã hoàn tất sự nghiệp trả thù cái cần phải trả thù . Đến đời Vua Thiệu Trị , và đặc biệt là Tự Đức , dường như có sự khôi phục lại mọi giá trị văn hóa của quá khứ một cách mạnh mẽ hơn , như để vớt vát lại những mất mát mà hai vị Tiền Vương đã để lại cho Đất nước ....
    Nhìn nhận tòa thành Hà Nội thể kỷ XIX trên nền của lịch sử Đất nước quảng giao thời Lê - Tây Sơn - Nguyễn , như một tham khảo có tính định hướng chính trị bấy giờ , nó sẽ chi phối việc để lại hay xóa bỏ các dấu tích của cựu Triều . Vì vậy các địa danh có ở bản đồ Hà Nội thế kỷ XIX phải được xem xét để tránh sai sót và nhầm lẫn , bởi vị trí của nó đã thay đổi dường như hoàn toàn , trong khi đó các địa danh của thành Thăng Long trước thế kỷ XIX rất khó xác định được vị trí vốn có của nó .
    LIÊN HOA VIÊN QUANG - GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •