Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 23

Ðề tài: Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định

  1. #1

    Mặc định Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định

    TÌM NGHỈ NGƠI TRONG THIỀN ĐỊNH



    Thuộc Bộ Ba “Nghỉ Ngơi”, Tập 2



    LONGCHENPA



    Dịch sang tiếng Anh: Nhóm dịch thuật PADMAKARA

    Việt dịch: Giác Phổ



    Nhóm dịch thuật PADMAKARA trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ hào phóng của Quỹ Tsadra trong việc tài trợ cho công tác dịch thuật và biên soạn cuốn sách này
    Last edited by Ẩn Tiên; 18-05-2025 at 01:02 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Lời nói đầu của Alak Zenkar Rinpoche

    Giới Thiệu của Nhóm Dịch


    Phần Một: Tìm nghỉ ngơi trong Thiền Định

    Mở đầu

    1. Điểm Kim Cương thứ nhất: Về Nơi Thực Hành

    2. Điểm Kim Cương thứ hai: Đối với những Người thực hành thiền định

    3. Điểm Kim Cương thứ ba: trình bày những Giáo Lý cần thực hành

    Những vần thơ kết luận

    Phần Hai: Thừa thanh tịnh siêu việt

    Mở đầu

    Điểm Kim Cương thứ nhất

    Điểm Kim Cương thứ hai

    Điểm kim cương thứ ba

    Kết luận

    Phụ lục: Dàn ý cấu trúc của điểm kim cương thứ ba

    Ghi chú

    Các văn bản được trích dẫn trong Thừa thanh tịnh siêu việt

    Chỉ mục

  3. #3

    Mặc định

    Lời Nói Đầu

    Alak Zenkar Rinpoche

    Cao nhất trong số vô vàn những chỉ dẫn cốt lõi,
    Đưa vào trong một hình ảnh thu nhỏ
    Những điểm quan trọng không ngoài Tam Tạng Kinh điển
    Và bốn lớp Mật điển,

    Những tập sách này là đỉnh cao của vô số chuyên luận
    Vốn chữa lành và bảo vệ,
    Một cỗ xe hoàn hảo với giáo lý rõ ràng và vô song,
    Phương tiện tối thượng mà nhờ đó
    Tâm trí của những người lang thang trong tam giới,
    Tìm thấy sự nghỉ ngơi trong tự do.

    Vô giá trong vũ trụ,
    Kinh văn này là hình ảnh lời nói của Longchen,
    Pháp vương từ Samye, người trong thời gian tới
    Sẽ có tên là Merudipa Chiến Thắng.
    Đó là tâm gương đẹp được tạo thành từ pha lê không tì vết
    Thứ tiết lộ ý nghĩa của tri thức cốt lõi
    Trong ba yoga và chính giai đoạn của Đại Thừa,
    Được truyền miệng và lưu giữ trong các kho tàng quý giá,
    Di sản phong phú từ dòng truyền của những người nắm giữ kiến thức
    Về các bản dịch cổ xưa.

    Khát vọng của bạn lần đầu nảy sinh
    Trên mé đồi phía đông
    Và giờ bản dịch của bạn trong một ngôn ngữ nước ngoài
    Tỏa sáng như mặt trời ban ngày
    Được hỗ trợ bởi phép thuật xuất bản
    Tôi mừng vì sự xuất hiện của nó,
    Người bạn ngọt ngào trong hoa sen của giáo lý Phật.

    Từ những bông hoa tươi cười của niềm vui và hạnh phúc
    Có một thứ mật hoa ngọt ngào của sự vui thích rơi xuống
    Không chờ đợi bài ca của những chú ong vỗ cánh,
    Tôi không thể không thốt lên lời chúc mừng.

    Tôi người đã lớn lên dưới tán cây an lạc này,
    Vẻ rực rỡ tuyệt vời của ánh sáng mặt trời
    Từ giáo lý của Bậc Thánh đầy quyền năng,
    Không thể không tán dương mong ước của bạn
    Để phục vụ giáo lý của ông.

    Vì vậy, mong sao bản chú giải tường tận này,
    Thật sự là một loại thảo dược duy trì sức khỏe
    Của trường phái Cựu dịch thuật
    Và là nguồn dinh dưỡng tuyệt diệu cho nhiều chúng sinh,
    Tăng lên gấp trăm, ngàn, triệu lần
    Được truyền bá và nhân rộng.

    Với niềm khao khát và hoạt động xuất sắc cho giáo lý Phật nói chung và đặc biệt là cho giáo lý truyền miệng và quý giá từ Truyền thống Cổ xưa của Bí mật Vĩ đại, các dịch giả Padmakara đã dịch sang tiếng Anh những văn bản gốc của Bộ Ba Nghỉ Ngơi, (hiện được xuất bản cùng với các bản tự bình luận của họ), là sự trình bày rõ ràng không thiếu sót của Người Chinh Phục Longchen Rabjam phi phàm. Với niềm hân hoan ngưỡng mộ, tôi, Thubten Nyima, chắp tay trước tim và dâng những bông hoa hoan hỷ.

    Được viết tại thành phố Chengdu thơm ngát vào ngày 12 tháng 7, năm 2017.
    Last edited by Ẩn Tiên; 18-05-2025 at 10:30 AM.

  4. #4

    Mặc định

    Lời giới thiệu của Nhóm Dịch Thuật
    (PADMAKARA)

    TÌM NGHỈ NGƠI TRONG THIỀN ĐỊNH,1 là phần hai trong Bộ Ba tác phẩm Nghỉ Ngơi của Longchen Rabjam Drime Ozer. Chi tiết về cuộc đời và thời đại của Longchenpa, như thường được biết, cùng với mô tả chung về các tác phẩm của ông có thể được tìm thấy trong phần giới thiệu của cuốn đầu trong bộ ba tác phẩm, Tìm nghỉ ngơi trong Bản tính của Tâm trí,2 và không cần phải lặp lại ở đây. Chỉ cần nhắn người đọc rằng Bộ Ba tác phẩm Nghỉ Ngơi, hay theo nghĩa đen là Ba Chu Kỳ Nghỉ Ngơi,3 không phải gồm ba cuốn mà là ba nhóm văn bản, mỗi nhóm bao gồm một văn bản gốc bằng thơ, một bản tự chú giải gọi là “cỗ xe”, một bản tóm lược ngắn gọi là “vòng hoa” và một chỉ dẫn thiết yếu hoặc “hướng dẫn thực hành”.4 Cuối cùng, bô ba tác phẩm này được kết thúc bằng một bài thuyết trình chung có tựa đề Một Đại Dương của những Chú Giải Tao Nhã.5

    Vì lý do thời gian và tính thiết thực, chỉ có các văn bản gốc và các bản tự chú giải được đưa vào dự án dịch thuật hiện tại. Hơn nữa, như đã giải thích trong phần giới thiệu của các dịch giả về Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản tính của Tâm trí, bản dịch hoàn chỉnh của Cỗ Xe Vĩ Đại, 6 bản tự chú giải đồ sộ cho tác phẩm đó, đầy rẫy những trích dẫn dài và khó hiểu từ các kinh điển và mật điểm, đã không được thực hiện. Thay vào đó, một số đoạn văn quan trong tiêu biểu cho tư tưởng của Longchenpa đã được trích dẫn, dịch, và cung cấp như phần đệm cho cho văn bản gốc. Ngược lại, Cỗ Xe Thanh Tịnh Vô Song,7 bản tự bình luận của Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, là tác phẩm ngắn gọn và khá dễ hiểu, đã được dịch đầy đủ trong tập này. Không giống như Bảy Kho Tàng Vĩ Đại, chỉ có sáu kho tàng được liệt kê như các mục riêng biệt trong danh mục của Longchenpa, và dường như đã được nhóm lại với nhau như một thực thể duy nhất theo truyền thống sau này do tên của chúng giống nhau, ba nhóm văn bản tạo nên Bộ Ba Nghỉ Ngơi đã được chính tác giả biên soạn rõ ràng thành một bộ sưu tập đơn lẻ. Tuy nhiên, bất chấp ý định rõ ràng của Longchenpa là nhóm ba phần của bộ ba của ông lại với nhau, có lý do để nghĩ rằng chúng không được biên soạn có hệ thống như một thực thể văn học duy nhất.

    Ví dụ, rõ ràng là thành phần của bộ ba tác phẩm không được viết theo thứ tự được đưa ra trong bản trình bày chung. Vì trong khi Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản tính của Tâm trí và bản bình luận của nó Cỗ Xe Vxi Đại chắc chắn được sáng tác đầu tiên, được trích dẫn trong các văn bản tiếp theo, bằng chứng bên trong cho thấy ít nhất là bản bình luận cho Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định được sáng tác sau bản bình luận cho Tìm Nghỉ Ngơi trong Tính Huyễn Ảo,8 là phần ba của bộ ba tác phẩm.

    Tựa đề của ba văn bản gốc, cũng như của chính bộ ba, thực sự gợi ý rằng toàn bộ tuyển tập được hình thành và biên soạn cùng nhau xung quanh một chủ đề thống nhất là “nghỉ ngơi”, trạng thái yên tĩnh của giác ngộ mà chúng sinh tìm thấy sự thoải mái và giải thoát khỏi những cuộc lang thang bất tận của họ trong luân hồi. “Hôm nay”, Longchenpa tuyên bố trong lời mở đầu chung. “tôi sẽ mang lại sự nghỉ ngơi cho tâm trí kiệt quệ của họ”. Nhưng trong khi ý tưởng này thể hiện nổi bật trong Tìm nghỉ ngơi trong bản tính của tâm trí, xuất hiện trong các dòng kết thúc của mỗi chương tại mười ba chương của nó, thì lại không xuất hiện chút nào trong phần thứ hai và ba của bộ ba, ngoại trừ trong tiêu đề của các văn bản gốc chứa chúng. Chỉ trong phần trình bày chung của bộ ba, và thông qua phần giải thích chi tiết về tiêu đề của các văn bản gốc, Longchenpa mới mở rộng rõ ràng cho toàn thể bộ sưu tập một phép ẩn dụ, như một đặc điểm thơ tự chứng, chỉ có trong phần đầu tiên.

    Longchenpa cho chúng ta biết rằng ông đã sắp xếp bộ ba tác phẩm của mình theo công thức nổi tiếng của nền tảng, con đường và hành động. Rõ ràng, nền tảng hay quan điểm được cung cấp bởi Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản tính của Tâm trí, cùng với bản tự chú giải dài của nó, là một lamrim toàn diện hay trình bày về các giai đoạn của con đường Phật giáo, đỉnh cao là giáo lý Đại Toàn Thiện. Và có vẻ như tác giả muốn bổ sung cho bản bình luận của mình bằng cách thêm vào hai chu kỳ phụ trợ ngắn hơn của văn bản mà nó giải thích, thứ nhất, cách các hành giả tham gia vào thiền định trên cơ sở của một nền tảng hoặc cái thấy như vậy, và thứ hai, phương thức xử lý những trải nghiệm của cuộc sống trong giai đoạn sau thiền định. Có lẽ, để truyền tải cảm giác thống nhất về mặt văn học cho toàn bộ biên soạn mà Longchenpa đã lấy một ý tưởng hình thành mạnh mẽ trong cả tiêu đề lẫn nội dung của phần đầu tiên và mở rộng nó thành hai văn bản gốc tiếp theo, một quy trình mà sự tổ hợp sắp xếp của nó được gợi ý kéo dài thêm do khó khăn trong việc trình bày tổng quan, nhằm chú thích và biện giải cho những tiêu đề được đưa ra như vậy.

    Trong phần thảo luận của mình về tựa đề Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, Longchenpa bắt đầu bằng cách xem xét ý kiến phản đối, vốn cho rằng thiền định nhất tâm là trạng thái không có sự chuyển động của tư tưởng, nên theo định nghĩa, nó là trạng thái nghỉ ngơi hoàn hảo. Do đó, nói về việc tìm thấy sự nghỉ ngơi trong trạng thái này là thừa thãi và trùng lặp, ngụ ý một cách vô lý rằng có một khía cạnh nào đó của thiền không phải là sự nghỉ ngơi. Để trả lời phản đối này, Longchenpa đưa ra một sự phân biệt giữa cái ông gọi là thiền “thế gian” và thiền “siêu thế gian”.

    Cần hiểu rằng thiền định được đề cập ở đây không phải là loại thiền phân tích, trong đó một ý tưởng được đưa ra phân tích bằng tri thức, mà thứ đang nói đến là an trú tĩnh lặng, hay thiền chỉ samatha, mục đích là đạt được sự tập trung sáng suốt và hoàn hảo trong trạng thái tinh thần tĩnh lặng. Là cơ sở cho tất cả các hình thức tèn luyện tinh thần và tâm linh khác, loại thiền định này được theo đuổi nhiệt thành trong hầu hết các truyền thống tôn giáo và triết học của Ấn Độ cổ đại, cả Phật giáo và phi Phật giáo.

    Mặt khác, cần lưu ý rằng, dù thiền chỉ samatha có quan trọng đến đâu với tư cách là một công cụ rèn luyện tâm trí và phát triển các quyền năng, thì về mặt cứu cánh, nó chỉ có công dụng trung lập. Nó có thể tạo ra những kết quả hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào quan điểm hoặc lập trường triết học mà nó được kết hợp. Với nguy cơ bị đơn giản hóa quá mức, chúng ta có thể nói rằng các phái Bà la môn của Ấn Độ, đặc biệt là các phái dựa trên Upanishad và Vedanta khẳng định sự tồn tại của một bản ngã hạnh phúc trường cửu, vĩnh hằng, thuộc về linh hồn, hay atman, là bản thể cốt lõi của chúng sinh. Sự giải thoát hay moksa, đỉnh cao của con đường tâm linh, bao gồm kiến thức và giác ngộ ra rằng atman là bản thể sâu xa nhất, hay chân ngã của con người, và trong việc khám phá ra rằng nó giống hệt với Brahman, nguyên lý vĩnh cửu, tự tồn tại và là nguồn gốc vũ trụ.

    Quan điểm của Phật giáo hoàn toàn khác với ljaap trường này. Đức Phật đã phủ nhận một cách sắc bén sự tồn tại của một bản ngã vĩnh hằng hay atman, cũng như sự tồn tại của một đáng sáng tạo vũ trụ vĩnh cửu. Ông tuyên bố rằng chính sự bám víu vào một bản ngã được cho là như vậy đã tạo ra hành động, thiết lập sự vận hành và duy trì chu kỳ bất tận cho sự tồn tại luân hồi. Vì vậy, hiểu sai về bản ngã là sự đối lập với con đường giải thoát. Theo quan điểm Phật giáo, sự làm chủ thiền chỉ samatha khi được định hướng niềm tin vào atman có thể dẫn đến trạng thái cao nhất của hỷ lạc thiên giới trong những khoảng thời gian vô tận. Nhưng cho dù những trạng thái này có thanh tịnh và kéo dài đến đâu trong cõi sắc và vô sắc, chúng cũng không thoát khỏi luật vô thường. Được xây dựng trên niềm tin vào bản ngã, chúng cũng là kết quả của hành động, cho dù là hành động vi tế của sự tập trung nhất tâm, và khi nguyên nhân cạn kiệt, cuối cùng chúng sẽ phải chấm dứt. Do đó, chúng bị hư hoại bởi tính bất mãn nền tảng vốn là dấu hiệu đặc trưng của tồn tại luân hồi. Ngược lại, chỉ khi bản ngã được cho là độc lập và vĩnh cửu được chứng minh là không tồn tại, và khi sự bám chấp vào nó bị tiêu tan, thì sự giải thoát khỏi luân hồi mới có thể xảy ra. Vì thế, mặc dù việc thành thạo thiền chỉ samatha thực sự là một công cụ không thể thiếu trong nỗ lực tinh thần, nhưng nếu muốn đạt được giải thoát, nó phải được kết hợp với quan điểm vô ngã, trí tuệ về tính không, nội quán thâm sâu của vipassyana.

    Đây là nguyên nhân cho sự phân biệt của Longchenpa, đã đề cập từ trước, giữa thiền thế gian và thiền siêu thế gian. Thiền trước, tức là thực hành samatha không được định hướng bởi trí tuệ, được định nghĩa là “một sự tập trung được đo lường bằng sự sáng suốt và vô niệm, và được kinh nghiệm trong ba cõi luân hồi”.9 Điều này có thể dẫn đến sự kìm nén tạm thời của đau khổ hiện hữu, tuy trong khoảng thời gian rất dài, nhưng giải pháp không phải là triệt để. Khi những nguyên nhân của hỷ lạc thiên giới cạn kiệt, tâm trí chắc chắn sẽ trở thành con mồi cho sự tiến triển của nghiệp chướng và sẽ phải tiếp tục lang thang trong luân hồi, thông qua các trạng thái đau khổ hiện hữu hoặc tiềm ẩn, mà không bao giờ có hy vọng tìm thấy được trạng thái nghỉ ngơi chung cuộc. Ngược lại, thiền siêu thế gian xảy ra khi sự an trú tĩnh lặng được kết hợp với trí tuệ của tính không. Được trao truyền như vậy, tâm trí có thể nhổ tận gốc bám chấp sai lầm vào bản ngã. Gốc rễ của sự tồn tại bị cắt đứt và sự mệt mỏi vì trôi lăn vô tận cuối cùng cũng được chấm dứt. Chỉ có trí tuệ chứng ngộ không có bản ngã mới có thể mang lại bình yên và tươi mới cho tâm trí kiệt quệ của chúng sinh. Tóm lại, Longchenpa nói, tìm thấy nghỉ ngơi trong thiền định là khám phá ra sự giải thoát chỉ có được thông qua việc hợp nhất thiền chỉ samatha và thiền quán vipassyana.10

    Vì vậy, đây là chủ đề của văn bản này, trong đó trí tuệ của vipassyana được trình bày theo các giáo lý của Đại Toàn Thiện, mục đích của giáo lý này là chứng ngộ bản tính của tâm trí rồi làm cho trạng thái chứng ngộ này ổn định và kéo dài, khiến cho trạng thái giác ngộ nguyên thủy và nội tại của tâm trí được biểu hiện đầy đủ. Để đạt được mục đích đó, Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, đề cập đến ba chủ đề hoặc “ba điểm kim cương”: đầu tiên, thảo luận về các điều kiện, về mặt địa lý cũng các điều kiện khác, phù hợp để ẩn dật trong cô tịch; thứ hai, xem xét những loại người có khả năng thành công trong những cố gắng như vậy, và thứ ba, trình bày chung về các hoạt động liện quan, đi kèm lời khuyên về cách tăng cường hiệu quả của chúng và sửa chữa các sai lầm.

    Longchenpa mô tả văn bản của mình như một loại các chỉ dẫn cốt lõi thiết yếu. Thay vì giảng giải có hệ thống về thiền, nó là một loạt các luận điểm với lời khuyên cụ thể hướng đến những hành giả có kinh nghiệm. Đây là một điều quan trọng. Những hướng dẫn trong sách này không dành cho người đọc chưa được nhận quán đỉnh, những người được khuyên không nên bắt đầu bất cứ thực hành nào được mô tả, mà chưa được chuẩn bị đáng kể và được hướng dẫn chuyên môn từ một vị thầy có đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên nó có sức hấp dẫn phổ quát vì toàn bộ các giải thích mà nó chứa đựng, rõ ràng, mạch lạc như chúng vốn có, phản ánh những mối bận tâm và những phát hiện riêng của Longchenpa. Như đã nói trong lời mở đầu chung và nhiều lần sau đó, giáo lý của ông được bảo chứng, do đó nó được ghi chép lại từ chính kinh nghiệm của ông. Vì vậy, mặc dù văn bản này không phải là một cẩm nang hướng dẫn dành cho công chúng, nhưng chúng ta được tưởng thưởng bằng hào quang mà cho soi chiếu qua tính cách của tác giả. Nó được truyền cảm hứng sâu sắc, thậm chí là thú vị khi được thoáng nhín vào quá trình thực hành cá nhân của Longchenpa và có một số ý tưởng về lòng quyết tâm và tính siêng năng chuyên nhất, cũng như năng lực phi thường đã hỗ trợ cho nó.

  5. #5

    Mặc định

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ NHẤT: NƠI CHỐN THIỀN ĐỊNH

    Việc thực hành thiền định chuyên sâu, một cách tự nhiên đã ám chỉ việc ẩn tu trong cô tịch. Vì vậy, điểm kim cương thứ nhất của Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền định chứa đựng lời khuyên về cách lựa chọn địa điểm phù hợp nhất để tu tập samatha và vipassyana. Trong bản diễn giải của mình, Longchenpa tham khảo hai văn bản: Thực hành sâu xa Yoga cho Bốn mùa,11 được cho là của tổ phụ Đại Toàn Thiện Garab Dorje, và Vòng Hoa của Pháo Đài Quan Kiến,12 của đạo sư Liên Hoa Sinh. Trong cả hai văn bản này, có một tiên đề rằng thực hành thành công phụ thuộc vào việc nuôi dưỡng các trạng thái tâm trí thuận lợi, mà đến lượt nó lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tình trạng thể chất của hành giả cũng như môi trường bên ngoài. Đúng nơi, chế độ ăn uống đúng cách và quần áo phù hợp với mùa, đều là những yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công của việc thực hành. Ví dụ, các công trình xây dựng gọn nhẹ trên núi cao, mát mẻ thoáng đãng, có tâm nhìn rộng mở bao la, phù hợp nhất để trau dồi vipassyana, trong khi các khu vực yên tĩnh, trũng thấp, có rừng hoặc thung lũng khép kín lại thuận lợi cho việc hướng nội của thiền an trú tĩnh lặng samatha.

    Longchenpa cũng đề cập đến những chiều kích tinh tế hơn liên quan đến bầu không khí vào “cảm giác” của những nơi chốn nhất định, và ông dành thời gian xem xét tác động của các vong linh địa phương lên tâm trí người thực hành. Những người đã thiết lập vững chắc sự tập trung thiền định sẽ không bị làm phiền quá mức bởi những hiện tượng ma quỷ lảng vảng quanh nghĩa địa hoặc bởi các hồn ma và những thực thể phi nhân khác tụ tập ở những nơi rùng rợn và kỳ quái: vách đá, ao hồ hẻo lánh, cây cối quạnh hịu, vân vân. Mặt khác, những người mới bắt đầu dễ bị quấy rầy và nên tránh xa những môi trường như vậy. Các hành giả đầy nhiệt huyết được khuyến cáo nên chọn vị trí ẩn tu của mình một cách đặc biệt cẩn thận và trước khi cam kết, hãy dành ra hẳn hai tuần để đánh giá những tác động mà một địa phương có thể gây ra cho tâm trí của họ. Họ nên cẩn thận tránh những nơi được phát hiện là gây ra sự kích động, mất tập trung, hoặc buồn tẻ, buồn ngủ, và đặc biệt là những môi trường dường như gây ra tình trạng tâm trí u ám, chán nản, có thể dẫn đến chán chường, rồi cuối cùng là từ bỏ thực hành. Ngược lại, những nơi thanh tịnh, không ô nhiễm, lành mạnh, đặc biệt là có liên quan đến việc tu luyện của các thiền sư vĩ đại trong quá khứ thì cần được đánh giá cao. Bất cứ ai đã đành thời gian với các lama và hành giả Tây Tạng sẽ quan sát thấy sự nhạy cảm mà họ phản ứng với cảnh quan và môi trường địa phương, và độ chính xác khi họ xem xét những địa điểm có thể thực hành.

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ HAI: NGƯỜI THỰC HÀNH

    Sự phân biệt của Longchenpa giữa thiền thế gian và thiền siêu thế gian, cùng ảnh hưởng của nó đến lời khuyên của ông dành cho các học trò, chủ đề kim cương thứ hai, có thể được làm rõ hơn bằng cách tóm tắt về cách phân chia truyền thống của các đạo sư thành ba nhóm hoặc cấp độ. Không giống như những chúng sinh của cấp độ đầu tiên, những người theo đuổi sai lầm các trạng thái hỷ lạc lâu dài ở những cõi giới cao hơn trong luân hồi, những hành giả cấp độ thứ hai hiểu rằng mọi trạng thái luân hồi, dù cao hay thấp, đều là tạm thời và không thể mạng lại giải thoát tối hậu khỏi đau khổ mà họ tìm kiếm. Do đó, khi truy cầu giải thoát, họ hoàn toàn từ bỏ luân hồi. Từ chối luân hồi, hay từ bỏ, đánh dấu sự khởi đầu đặc biệt cho con đường Phật giáo. Được diễn đạt theo truyền thống là “xuất gia”, sự từ bỏ đã được tìm thấy một cách tự nhiên qua biểu hiện chủ yếu của nó, qua nhiều thế kỷ, trong một cách sống, dù tốt hay xấu, đã được xác định trong tiếng Anh là “tịnh xá”. Như một kỷ luật đạo đức bao trùm toàn thể, bao gồm việc đánh giá sâu sắc lại các mối quan hệ và gắn kết cá nhân, những hy vọng và sợ hãi tạo nên cấu trúc của cuộc sống thể gian bình thường, sự từ bỏ thực sự là nghĩa vụ của tất cả những người thực hành Phật giáo, dù là tăng sĩ hay cư sĩ, và là nền tảng không thể thiếu của bất cứ pháp hành chân chính và nghiêm túc nào. Thách thức mang tính cách mạng đối với sự định hướng lại các giá trị cá nhân này là, nó bắt nguồn từ chẳng nới nào hơn là sự quan sát cẩn thận về chính cuộc sống. Nó phát triển từ nhận thức về những phiền não biểu hiện trong cuộc đời: sinh, lão, bệnh, tử, gặp phải những người đáng sợ, mất đi những người yêu quý, vốn là những câu chuyện bất tận về nỗi thống khổ của con người, ngay cả khi được chấm phá bằng hạnh phúc tạm thời và khoái lạc phù du, thì chúng vẫn tái diễn không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, có những cơ chế tự bảo vệ của tâm lý con người, thông qua sự lãng quên, giả vờ, và một quyết tâm thảm hại là “chỉ nhớ tới những thời điểm tốt đẹp”, nó thường xuyên tự cô lập chính nó khỏi trạng thái bất mãn. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi trong suốt văn bản của mình, đặc biệt là ở điểm kim cương thứ hai, Longchenpa liên tục nhấn mạnh rằng các hành giả cần phải nuôi dưỡng cảm giác buồn chán và mệt mỏi dai dẳng đối với sự tồn tại trong luân hồi.

    Chúng ta hiểu rằng giải thoát không thể đạt được nếu không cắt đứt gốc rễ luân hồi: việc bám chấp sai lầm vào sự tồn tại thực tế của một bản ngã cá nhân và của các hiện tượng. Để điều này xảy ra, chứng ngộ sâu xa về tính không là điều chẳng thể thiếu. Việc này sẽ không thể đạt được nếu không thành thạo trong việc tập trung, và để phát triển sức tập trung, môi trường lành mạnh của kỷ luật và đạo đức trong sạch theo truyền thống được coi là điều kiện tiên quyết. Vì vậy, đạo hạnh thanh tịnh, như được nêu trong ba hệ thống giới nguyện, giới của tu sĩ và cư sĩ về giải thoát cá nhân pratimoska, giới nguyện bồ tát và giới nguyện kim cương thừa, là một đặc điểm nội tại của con đường Đại Thừa. Như Longchenpa nói, tất cả các thực hành hướng tới tự do giác ngộ đều nhất thiết phải bao hàm việc thọ giới. Tất nhiên, nếu không có giới nguyện, sẽ không có nguy cơ sa ngã, nhưng cũng không có khả năng thành tựu. Sự phá hoại hay thu hoạch mùa màng đều trở nên vô nghĩa như nhau khi không có cánh đồng.

    Việc kết hợp ba bộ giới luật thành các phần của một con đường duy nhất là vấn đề khá phức tạp. Do đó, Longchenpa dành phần lớn điểm kim cương thứ hai để làm sáng tỏ câu hỏi này và khi làm như vậy, ông đã phác họa những gì về sau được coi là lập trường chính thức của phái Nyingma.13 Nhiệm vụ trước tiên là giải thích cách hiểu và thực hành cùng lúc ba bộ giới luật mâu thuẫn nhau bởi một hành giả như thế nào. Longchenpa giải quyết vấn đề theo sáu nguyên tắc, luận điểm của chúng là chỉ ra mục đích bên trong của tất các giới luật về căn bản là giống nhau. Khi các giới nguyện cao hơn được thụ nhận liên tiếp, các giới nguyện thấp hơn được chuyển hóa và tăng cường, với kết quả là, mặc dù các khía cạnh bên ngoài của các giới nguyện thấp hơn vẫn tồn tại nhưng bản thân các giới nguyện không bị vi phạm do giữ các giới cao hơn.

    Longchenpa đặc biệt quan tâm đến việc chỉ ra giới nguyện xuất gia của tu sĩ phù hợp thế nào với các thực hành liên quan đến quán đỉnh thứ ba của Kim cương thừa. Bằng cách viện dẫn sáu nguyên tắc vừa đề cập, ông phân biệt giữ tu sĩ Thanh văn Sravaka (người vẫn ở cấp độ của giới xuất gia pratimoksa) và tu sĩ Kim cương thừa Vajrayana, những người có giới nguyện đã được nâng cao thông qua thọ nhận bồ đề tâm giới, các samaya của quán đỉnh mật tông, và tâm trí đã trưởng thành thông qua các yoga của giai đoạn phát sinh và thành tựu. Nhìn bề ngoài, các tu sĩ Sravaka và tu sĩ Vajrayana có vẻ như ở cùng một cấp độ, nhưng thực tế họ khá khác nhau. Ngoài ra, một hành vi bị cấm đối với nhóm trước lại có thể vừa phù hợp, vừa mang lại công đức to lớn cho nhóm sau.

    Hiển nhiên, những câu hỏi như vậy chỉ trở thành vấn đề đối với những hành giả đã tiến xa trên con đường và thực sự có thể thực hành các yoga của quán đỉnh thứ ba, dĩ nhiên là trường hợp của chính Longchenpa. Tuy vậy, chủ đề này ít nhất vẫn có thể gây hứng thú cho những người khác, và chắc chắn cũng nhằm mục đích xoa dịu nghi ngờ của những hành giả ít kinh nghiệm hơn mà Longchenpa thảo luận về vấn đề ở đây.

    Phần còn lại của điểm kim cương thứ hai đề cập đến những chuyện cấp bách hơn. Một điểm nổi bật mà Longchenpa đưa ra là những người đang tu tập trên con đường này nên tránh bị phân tâm bởi lòng vị tha sai lầm: ý tưởng sai lầm rằng một người có thể thực sự mang lại lợi ích cho người khác, có lẽ là trong vai trò của một vị đạo sư hoặc người hướng đạo tinh thần, trước khi người đó đạt được thành tựu thực sự cho chính mình. Bây giờ là lúc, ông nói, để tự tu tập và đảm bảo sự giải thoát cho chính mình. Chỉ khi người đó đạt được giác ngộ chân thực và sở hữu, ví dụ, một tuệ giác thiên nhãn về nhu cầu của người khác, thì người đó mới ở trong vị thế có thể cung cấp sự giúp đỡ và hướng dẫn hiệu quả. Nếu không thì hành động chẳng gì khác hơn ngoài sự phóng dật và tự lừa dối, là nguồn gây nguy hiểm cho người khác và lãng phí thời gian quý báu. Longchenpa bảo độc giả hãy trung thực với chính mình. “Nếu bây giờ chết, bạn sẽ ra sao?” ông hỏi. Nếu một người không thể quản lý được vận mệnh của chính mình tại một thời điểm quan trọng như vậy, thì thật vô lý khi giả vờ rằng mình có thể làm người hướng dẫn chân chính cho kẻ khác. Vì vậy, trong khoảnh khắc tự tu luyện chuyên sâu, mối quan tâm của một người đối với người khác chủ yếu nên được thể hiện bằng khát vọng và lời cầu nguyện chân thành.

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ BA: HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

    Điểm kim cương thứ ba và dài nhất trong ba điểm kim cương là thảo luận về bản thân việc thực hành. Đây là một chuyên luận được biên soạn đầy đủ theo đúng nghĩa của nó, bao gồm phần mở đầu, chủ đề chính, và hướng dẫn kết thúc. Nội dung chủ đề ở đây phức tạp và có hệ thống hơn so với các phần trước của cuốn sách và được đánh dấu bằng các tiêu đề chính và phụ, vì vậy mang đặc điểm của một bản đại cương cấu trúc. Vì vậy, chúng tôi đã trích đoạn chúng ở dạng đơn giản hóa một chút rồi liệt kê chúng, với các khoảng lùi so với lề và chỉ dẫn ở cấp độ văn bản, như một tài liệu riêng biệt trong phần phụ lục. Nhờ đó độc giả quan tâm có thể đánh giá ngay cách mà phần quan trọng của cuốn sách tiết lộ.

    Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, như tiêu đề phụ của nó tuyên bố, là một giáo lý của Đại Toàn Thiện. Hệ thống hướng dẫn này được coi là đỉnh cao của con đường Phật giáo trong phái Nyingma, liên quan đến tất cả các giáo lý khác, của Thanh Văn Thừa và Đại Thừa, kinh điển và mật điển, được coi là phần chuẩn bị và sơ bộ. Longchenpa phân loại những bước chuẩn bị này thành bên ngoài, đặc biệt và cao cấp. Các bước chuẩn bị bên ngoài là hiểu biết về vô thường, cảm giác không còn mê muội với luân hồi, lên đến đỉnh điểm là thái độ từ bỏ, là đặc điểm của hành giả thuộc cấp độ thứ hai. Các bước chuẩn bị cụ thể tương ứng với việc rèn luyện tâm trí và vun đắp lòng từ dẫn đến sự phát sinh bồ đề tâm tương đối và tuyệt đối. Nói cách khác, chúng tương ứng với giáo lý kinh điển của Đại Thừa, có thể liên tưởng rằng, thuộc về chúng sinh thuộc cấp độ thứ ba. Cuối cùng, các bước chuẩn bị cao hơn bao gồm các thực hành giai đoạn phát sinh và thành tựu của Kim Cương Thừa cùng với Guru Yoga.

    Việc quán tưởng các vị bản tôn và tu luyện về các kinh mạch, khí, và các giọt tinh hoa của thân vi tế cùng với thực hành guru yoga, là những phần chuẩn bị thiết yếu cho con đường Đại Toàn Thiện. Với điều này trong tâm trí, Longchenpa mở đầu bài bình giảng của mình bằng một cuộc thảo luận ngắn gọn về các mật điển. Ví dụ, ông giải thích về số lượng, trình tự, và tác dụng của bốn gia trì, rồi đưa ra những hướng dẫn ngắn gọn về việc trì tụng thần chú. Ông giải thích ngắn gọn rằng mục đích của giai đoạn phát sinh, nói cách khác, việc quán tưởng ở mức độ tương đối về các vị thần bản tôn, vân vân, là để loại bỏ suy nghĩ phàm tục, thanh lọc, chuyển hóa kinh nghiệm của một người về thế giới, các uẩn, các nguyên tố và bảy thức, thành nhận thức về một cõi Phật. Sau đó, thông qua thực hành giai đoạn thành tựu, hoạt động diễn ngôn của tâm trí thông thường được làm cho lắng xuống triệt để. Các pháp sơ bộ cao cấp lần lượt được hoàn thành nhờ việc thực hành vô cùng quan trọng về guru yoga, vì “vị thầy là gốc rễ của mọi con đường và là cội nguồn của mọi thành tựu”. Theo cách này, Longchenpa tuyên bố, người ta có thể dấn thân vào con đường giải thoát mà không mắc sai lầm, không sợ chướng ngại hay chậm trễ. “Ngày nay”, ông kết luận, “nhiều người thiền định trên con đường này mà không thực hành các pháp sơ bộ này. Tuy nhiên, đây là một sai sót”.

    Cuối cùng khi Longchenpa đi đến những giáo lý chính, ông không cung cấp cho chúng ta, như người ta có thể mong đợi, một trình bày chính thức về những gì thường được coi là hai thực hành cao nhất của Đại Toàn Thiện: trekcho và thogal. Thay vào đó, ông chỉ định “phương tiện thiện xảo của sự tập trung” vào hỷ lạc, sáng suốt và sự vắng mặt của các suy nghĩ lan man, thông qua đó, bản tính nền tảng của tâm trí, thay vì chỉ được mô tả, sẽ được làm cho xuất hiện trong kinh nghiệm thực tế. Nhờ có những phương tiện thiện xảo này, ông nói, “trí tuệ nguyên thủy sáng ngời, thoát khỏi mọi diễn giải, sẽ phát sinh, đồng khởi, không do tạo dựng”. Ông tiếp tục nói rằng, hỷ lạc tương ứng với các giọt tinh hoa, tính sáng tương ứng với khí hoặc hơi thở, còn vô niệm tương ứng với các kinh mạch vi tế. Tuy các kỹ thuật này được mô tả theo cách gợi nhớ đến các thực hành của giai đoạn thành tựu, nhưng chúng vẫn thuộc về truyền thống Đại Toàn Thiện như từng được các bậc thầy như Garab Dorje và Sri Simha thuyết giảng. Hơn nữa, Longchenpa tuyên bố rất rõ ràng rằng các thực hành về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm không phải là mục đích tự thân. Mục đích của chúng đóng vai trò là các tác nhân kích hoạt, kết hợp với lòng sùng kính chân thành đối với vị thầy mà hành giả đã nhận được chỉ dẫn cốt lõi vô cùng quan trọng, trực tiếp thúc đẩy sự chứng ngộ bản tính của tâm trí. Thực tế, các kỹ thuật này có thứ tự hoàn toàn khác so với trải nghiệm mà chúng được mong đợi sẽ xảy ra, vốn chẳng có ý nghĩa gì. Lửa và nhiên liệu của nó cũng là hai thực thể hoàn toàn khác nhau, nhưng chính nhờ sự hiện diển không thể thiếu của gỗ mà lửa xuất hiện. Mặc dù các thực hành dựa trên hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm được giải thích khá chi tiết, nhưng phần lớn điểm kim cương thứ ba được dành cho các giải thích bổ sung, về cơ bản có hai loại. Đầu tiên là thảo luận về những dấu vết sai lầm có thể có trong ba thực hành vừa đề cập, cùng với mô tả về các pháp cứu chữa được kê đơn theo ba cấp độ hành giả. Tiếp theo là một loạt các hướng dẫn khác để có thể tăng cường kinh nghiệm về hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm. Rõ ràng các thực hành được kê ra trong phần này cũng như các bài tập khắc phục được đưa ra trong phần trước, đước nhắm tới các yogi đã thành thạo các kỹ thuật như vậy. Sẽ là cực kỳ ngớ ngẩn nếu cho rằng phần này của văn bản cấu thành một cuốn sổ tay hướng dẫn cho độc giả phổ thông. Thỉnh thoảng, Longchenpa gọi các hướng dẫn của mình là bí mật, bằng cách này, ông dường như muốn nói rằng các thực hành liên quan chỉ được nói bóng gió một phần và gián tiếp. Chúng tiềm tàng một lượng kiến thức đáng kể và cần có thêm hướng dẫn từ một bậc thầy đủ tiêu chuẩn.

    Nếu các độc giả phổ thông và thiền sinh mới bắt đầu hành thiền không thể bắt tay ngay vào con đường mà Longchenpa mô tả trong phần này của văn bản, thì đây vẫn là một câu chuyện truyền cảm hứng về các thực hành mà người ta có thể khao khát, và nhờ vào những chỉ dẫn nhận được từ một vị thầy đủ tiêu chuẩn, cuối cùng người ta vẫn có thể thực hiện được.

    LỜI CẢM ƠN

    Trong quá trình chuẩn bị phần hai của Bộ Ba Nghỉ Ngơi, chúng tôi một lần nữa biết ơn thầy mình, Pema Wangyal Rinpoche, nếu không có nguồn cảm hứng và sự hỗ trợ của ông, bản dịch này sẽ không bao giờ có thể được thực hiện. Chúng tôi cũng hết sức tri ân Khenchen Pema Sherab của tu viện Namdroling, Bylakuppe, Ấn Độ, người đã kiên nhẫn trả lời các câu hỏi của chúng tôi và làm rõ nhiều điểm khó hiểu. Chúng tôi đã cố gắng hết sức để làm theo chỉ dẫn của ông nhưng thừa nhận rằng mọi lỗi lầm và thiếu sót đều có thể xảy ra. Bản dịch này được thực hiện bởi Helena Blankleder và Wulstan Fletcher của Nhóm Dịch Thuật Padmakara.

    Dordogne
    Ngày 5, Tháng 6, 2017

  6. #6

    Mặc định

    PHẦN MỘT


    TÌM NGHỈ NGƠI TRONG THIỀN ĐỊNH


    Một Lời Dạy về Đại Toàn Thiện


    Trong tiếng Phạn
    Mahasandhidhyanavisrantanama


    Trong tiếng Tây Tạng
    rDzogs pa chen po bsam gtan ngal gso zhes bya ba


    MỞ ĐẦU

    Bản tính nguyên thủy,
    Thanh tịnh và rộng mở bao la như không gian,
    Thực tại tối hậu, bất động,
    Hoàn toàn không có mọi tạo dựng,
    Bản tính trống trải và sáng chói của chính tâm trí,
    Tinh hoa của giác ngộ
    Khi nhìn thấy nền tảng viên mãn bất động và bất biến này,
    Tôi cúi đầu tôn kính.
    Rằng sự kỳ diệu siêu việt của tâm trí Đấng Chiến Thắng
    Được chứng ngộ, trí tuệ nguyên thủy, tự nhận thức
    Tôi đã chắt lọc tinh túy của các mật điển, bình luận và chỉ dẫn cốt lõi. Hãy chú ý!
    Tôi sẽ giải thích chúng theo kinh nghiệm của mình.
    Trên các đỉnh núi, đảo hồ hoặc trong các lùm cây,
    Dễ chịu cho tâm trí vào bốn mùa trong năm,
    Với sự tập trung nhất tâm, bình lặng, không dao động,
    Thiền về sự sáng tỏ không có tạo dựng của tâm trí.
    Việc này có thể đạt được tùy thuộc vào ba yếu tố:
    Địa điểm, con người và các thực hành mà họ thực hiện.
    Last edited by Ẩn Tiên; 21-05-2025 at 08:18 AM.

  7. #7

    Mặc định

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ NHẤT

    Về Nơi Thực Hành

    1. Đầu tiên, chúng ta xem xét địa điểm
    Đây phải là nơi tĩnh mịch dễ chịu
    Thích hợp để thực hành bốn mùa trong năm.
    Vào mùa hè bạn nên thiền
    Ở những vùng mát mẻ và trong nơi cư trú mát mẻ,
    Ở những nơi có tuyết, trên đỉnh núi,
    Trong những am thất làm bằng tre, sậy hoặc cỏ.
    Vào mùa thu, bạn nên ở lại những vùng và sống trong những nơi mà
    Độ lạnh và độ nóng ngang nhau,
    Ở những nơi như rừng, sườn đồi, pháo đài,
    Với sinh hoạt, thức ăn và quần áo tương ứng.
    Vào mùa đông, bạn nên điều chỉnh giường, thực phẩm, trang phục của mình
    Và sống trong những ngôi nhà ấm áp, ở vùng trũng: rừng, hang động, nhà làm bằng đất.
    Mùa xuân quan trọng nhất là ẩn dật
    Đến núi, rừng, đảo và sống trong am thất
    Nơi nóng và lạnh cân bằng,
    Với thức ăn, quần áo và hành vi đều hài hòa.

    2. Các chu kỳ bên ngoài và bên trong tùy thuộc trùng khớp nhau
    Vì vậy hãy ở những nơi tĩnh mịch dễ chịu, những nơi mang lại niềm vui
    Vì trên đỉnh núi, tâm trí sáng suốt và rộng mở,
    Những nơi này, mọi u tối tinh thần đều được làm sáng tỏ,
    Có lợi cho thực hành giai đoạn phát sinh.
    Ở vùng đất tuyết, tâm trí sáng láng
    Với sự tập trung minh mẫn.
    Những nơi này thuận lợi để thực hành nội quán sâu xa
    Vì ở đây có rất ít trở ngại.
    Trong rừng rậm, tâm trí trở nên thanh thản
    Và sự bình lặng của tinh thần được hiển lộ.
    Đây là nơi người ta tu luyện an trú tĩnh lặng
    Và nơi an lạc tinh thần phát triển mạnh mẽ.
    Dưới chân những vách đá cheo leo, cảm giác về tính phù du
    Và nỗi chán nản với luân hồi sẽ mạnh thêm.
    Sự kết hợp rõ ràng và mạnh mẽ
    Của an trú tĩnh lặng và nội quán thâm sâu được thành tựu.
    Trên bờ sông, ảo tưởng của tâm trí bị hạn chế.
    Đầu khổ trong luân hồi và mong muốn dứt khoát
    Muốn thoát khỏi nó sẽ phát triển nhanh chóng.
    Nghĩa địa là nơi đầy quyền năng
    Nơi thành tựu nhanh chóng
    Những nơi như vậy, được dạy, là thuận lợi nhất
    Cho bất kỳ thực hành phát sinh và thành tựu nào.

    3. Trong thị trấn và chợ, những ngôi nhà trống, những chiếc cây đơn độc
    Nơi con người tụ tập, hoặc yêu tinh và linh hồn đi qua,
    Người mới tu thường bị mất tập trung và cản trở trong quá trình thực hành.
    Với những người đã có độ ổn định,
    Những nơi như vậy rất thuận lợi và thường được ca ngợi.
    Những ngôi đền trơ trọi, những lăng mộ,
    Nơi các hồn ma gyalgong cư ngụ, là những nơi mà
    Tâm trí không tìm được sự an nghỉ
    Và nhiều ý nghĩ thù địch nảy sinh.
    Ở những nơi như hang động trong lòng đất
    Là nơi trú ngụ của các mụ phù thùy senmo,
    Ham muốn nảy sinh và u tối cùng cực, hoặc kích động tâm trí.
    Những cây đơn độc là nơi ẩn náu của mamo và dakini;
    Vách đá và mũi đất là hang ổ của những
    Con quỷ theurang và tsen hoang dã, hung tợn.
    Người ta nói tất cả những nơi đó đều gây ra kích động dữ dội
    Trong tâm trí và nhiều chướng ngại.
    Trong sự ám ảnh của những kẻ bị ruồng bỏ, rồng, bóng ma nyen ma, linh hồn của nơi này,
    Trên bờ hồ, đồng cỏ, rừng hoang,
    Trong các thung lũng rải rác các loại thảo mộc chữa lành,
    Được trang trí bằng hoa, quả và cây có quả mọng,
    Tất cả đều làm hài lòng tâm trí, lúc đầu người ta thấy vui thích,
    Nhưng sau đó nhiều trở ngại ập đến.

    4. Tóm lại, trong những địa điểm và nơi trú ngụ
    Thoạt đầu có vẻ dễ chịu nhưng khi đã thân quen
    Sẽ mất đi sự quyến rũ, chỉ đạt được thành tựu nhỏ.
    Nhưng những nơi thoạt đầu có vẻ đáng sợ và cấm kỵ
    Lại trở nên tốt đẹp khi bạn dần quen
    Có sức mạnh to lớn, và đại thành tựu sẽ nhanh chóng đến,
    Trong khi không có trở ngại nào xảy ra.
    Mọi nơi khác đều trung lập, không có lợi cũng chẳng có hại.

    5. Vì tùy thuộc vào nơi ở của bạn
    Nội tâm bạn bị biến đổi, việc thực hành phẩm hạnh
    Phát triển hay suy yếu, như vậy việc suy ngẫm về trú xứ của bạn
    Là một điểm rất quan trọng.

    6. Tóm lại, có bốn loại nơi ở
    Tùy theo bốn hoạt động
    Ở những nơi thích hợp để tĩnh tâm, tâm trí sẽ tự nhiên tập trung.
    Những nơi thích hợp để tăng tiến là chỗ thú vị
    Tràn ngập vẻ lộng lẫy và tráng lệ
    Những nơi quyến rũ và kích thích gắn bó
    Thích hợp với hoạt động thu hút chú ý
    Những nơi phù hợp với hoạt động dữ dội
    Gây ra lo lắng và sợ hãi hoảng loạn
    Trên thực tế, có rất nhiều phân khu như vậy không đếm xuể.
    Nhưng ở đây, như một phương tiện hỗ trợ tập trung,
    Những nơi thích hợp để tĩnh tâm là tốt nhất.
    Những nơi khác không được xem xét ở đây
    Vì e là quá dài dòng.

    7. Am thất thiền định ở một nơi thanh bình
    Nên được đặt ở nơi tĩnh mịch,
    Tại một địa điểm dễ chịu.
    Một nơi rất thoáng đãn, rộng rãi,
    Nơi ta có thể nhìn thấy bầu trời xung quanh là thuận lợi nhất.

    8. Ngôi nhà tối cho yoga ban đêm của bạn
    Có hai lớp tường.
    Ở giữa một căn phòng có vị trí cao hơn, bên trong,
    Tựa đầu của bạn nên hướng về phía bắc
    Giống khi đức Phật nhập niết bàn.
    Đối với yoga ban ngày trong ánh sáng,
    Ẩn thất nên có một không gian rộng lớn phía trước
    Với bầu trời rộng mở và tầm nhìn xa
    Những ngọn núi tuyết, dòng nước chảy,
    Rừng cây và thung lũng.
    Ở nơi đó, tâm trí sẽ sáng suốt và minh mẫn,
    Nóng lạnh sẽ cân bằng.

    9. Đối với việc thực hành an trú tĩnh lặng
    Một nơi ẩn tu khép kín là phù hợp nhất
    Cho sự xuất hiện tự nhiên của trạng thái tâm bình lặng
    Khi thực hành nội quán sâu sắc
    Một nơi rộng rãi có tìm nhìn bao la rộng mở
    Là quan trọng nhất.
    Luôn luôn phải là nơi dễ chịu, phù hợp các mùa.

    10. Những nơi thấp, tối tăm như rừng và khe núi là những nơi thích hợp để an trú tĩnh lặng.
    Những vùng đất cao, như núi tuyết
    Là nơi để cho quán chiếu sâu xa.
    Vì vậy, điều quan trọng là phải biết những khác biệt này.

    11. Tóm lại, những địa điểm và am thất
    Nơi bạn cảm thấy chán nản với luân hồi
    Và mong muốn giải thoát bản thân,
    Những địa điểm nơi tâm trí bạn được kiềm chế,
    Nghỉ ngơi trong hiện tại và sự tập trung của bạn sẽ phát triển.
    Đây là những nơi kết nối bạn với đức hạnh
    Bạn nên sống trong những môi trường như vậy
    Giống như nơi đức Phật giác ngộ.
    Những nơi đức hạnh của bạn giảm sút và ô uế gia tăng,
    Nơi bạn sa ngã dưới ảnh hưởng
    Từ sự bận rộn xao lãng của cuộc sống,
    Người khôn ngoan có tránh xa những hang ổ ma quỷ gây ra tội ác không?
    Đức Padma, tự sinh, đã giải thích như vậy,
    Và những ai mong ước tự do nên lưu ý.

    Đến đây kết thúc điểm kim cương thứ nhất của Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, một giáo lý của Đại Toàn Thiện.

  8. #8

    Mặc định

    2. ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ HAI

    Về người thực hành thiền định

    1. Hiện nay những người tham gia thực hành
    Phải có tính siêng năng và niềm tin
    Cảm thấy một nỗi phiền muộn lành mạnh, mong muốn tự do
    Mệt mỏi với luân hồi, họ nên phấn đấu để giải thoát.
    Từ bỏ những mối bận tâm của cuộc sống này,
    Họ khao khát được giác ngộ trong tương lai.
    Họ nên tránh xa những hoạt động giải trí và xao lãng
    Và có ít ô trược.
    Họ cần một tâm hồn rộng mở
    Và thái độ khoan dung,
    Có nhận thức thanh tịnh và lòng sùng mộ lớn lao.
    Họ phải tân tụy phục vụ cho Giáo lý.
    Những người như vậy sẽ đạt được giải thoát vô thượng.

    2. Họ nên khiến người thầy phi phàm của mình thật hài lòng
    Qua nghiên cứu, suy ngẫm và qua thiền định
    Họ nên rèn luyện tâm trí của mình
    Trong những chỉ dẫn cốt lõi của dòng truyền miệng
    Họ nên nỗ lực đặc biệt,
    Và trong quá trình thực hành lâu dài, họ nên dành cả ngày lẫn đêm,
    Không được sa vào sự tầm thường dù chỉ trong chốc lát
    Họ phải kiên trì phấn đấu
    Vì thứ tinh túy và sâu sắc nhất.

    3. Không vi phạm ba giới nguyện
    Thuộc về thừa Thanh Văn, Bồ Tát và Trì Minh,
    Các hành giả nên chế phục tâm mình
    Và tìm kiếm lợi ích của người khác càng nhiều càng tốt.
    Biến tất cả những gì biểu hiện thành con đường giải thoát.

    4. Người mới thực hành
    Phải thành tựu lợi ích chính họ trước
    Họ nên canh giữ tâm mình trong cảnh vắng lặng
    Từ bỏ những công việc bận rộn, xao lãng.
    Họ nên thoát khỏi những hoàn cảnh bất lợi,
    Thuần hóa ô nhiễm của mình bằng các pháp đối trị
    Không lẫn lộn giữa cái thấy và hành động,
    Họ nên dành thời gian thiền định.
    Bất cứ loại nào trong năm ô nhiễm
    Nảy sinh trong tâm trí họ
    Nên tỉnh giác nắm bắt nó
    Sử dụng pháp đối trị và không bị phân tâm.
    Họ nên cẩn thân, cảnh giác
    Có cảm giác xấu hổ và đàng hoàng
    Trong các hành động của thân, khẩu, ý
    Hãy để họ trừng tâm của họ.

    5. Khen ngợi và chế bai, từ chối và chấp nhận,
    Dễ chịu và khó chịu, hãy để họ xem tất cả như nhau
    Tất cả, như những màn ảo thuật và giấc mơ, đều không tồn tại thực sự.
    Họ nên nghĩ về chúng như tất cả đều giống nhau
    Chỉ như một tiếng vọng, và thực hành kiên trì,
    Kiểm tra tâm trí bám chấp vào cái “Tôi” và “bản ngã”
    Tóm lại, trong mọi hành vi, đừng để họ làm bất cứ điều gì
    Trái với Pháp.
    Họ nên chế ngự tâm trí và không làm hại người khác.
    Không đắm chìm trong ô trược dù chỉ một khoảnh khắc.
    Hãy để họ dành cả ngày lẫn đêm trong đức hạnh.
    Đây là khoảnh khắc cao nhất.

    6. Vì trong thời hiện tại đầy tội lỗi này,
    Con người trở nên thô lỗ và hung dữ,
    Việc vô cùng quan trọng là đảm bảo
    Mục tiêu của bạn bằng thực hành trong đơn độc.
    Nếu con chim không đủ lông đủ cánh thì nó không thể bay;
    Tương tự, nếu không có thiên nhãn trí,
    Bạn không thể giúp người khác.
    Vì vậy, hãy nỗ lực đạt được mục tiêu của mình,
    Và trong tâm mong muốn mang lại lợi ích cho người kahsc.
    Đừng để tâm trí bạn bị lôi cuốn bởi những thú vui bận rộn;
    Đây là những thủ đoạn lừa dối của Ma vương.
    Điều quan trọng là phải chân thành nỗ lực thực hành
    Đến đến giờ chết,
    Bạn sẽ không bị dằn vặt bởi hối tiếc.

    7. Bây giờ hãy kiểm tra tâm trí của bạn!
    Hãy nhìn! Nếu bây giờ chết bạn sẽ ra sao?
    Chẳng có gì chắc chắn về nơi bạn sẽ đến
    Và bạn sẽ trở thành cái gì.
    Bằng cách tiêu tốn những ngày đêm bị lừa đối trong xao lãng
    Bạn đang lãng phí tự do và lợi ích của mình một cách vô nghĩa
    Thiền định một mình trong cô tịch về những giáo lý thiết yếu
    Hãy nỗ lực ngay bây giờ để đạt được mục tiêu cuối cùng của bạn.
    Vì vậy hãy nỗ lực ngay lúc này.

    8. Những hình tướng giả trá của luân hồi
    Giống như một con đường nguy hiểm chất đầy sợ hãi
    Hãy nhớ! Bạn phải tìm cách giải thoát cho chính mình.
    Nếu một lần nữa bị lừa dối,
    Bạn sẽ mãi lang thang trong ảo tưởng.
    Do vậy hãy nuôi dưỡng tính kiên định và giữ nó trong tim!

    9. Bây giờ trên con thuyền tự do và lợi thế của bạn
    Đi qua đại dương khó vượt:
    Sự ô nhiễm và bám chấp của bạn vào “cái tôi”.
    Nhờ sức mạnh từ công đức của bạn,
    Cơ hội trong một trăm năm của bạn đã xuất hiện:
    Con đường giải thoát và giác ngộ của bạn!
    Vì vậy, bây giờ, và với sự toàn tâm kiên định,
    Hãy đảm bảo hạnh phúc và lợi ích của bạn!

    10. Cuộc đời là phù du, mỗi khoảnh khắc đều thay đổi.
    Những sự xao lãng, không ngoan đánh lừa bạn.
    Hãy hoãn lại những việc làm thiện nguyện của bạn.
    Thói quen ảo tưởng của bạn rất mạnh như vậy!
    Những ô trược trong vô lượng của chúng
    Tự nhiên ập đến với bạn và trong một khoảnh khắc.
    Trong khi đức hạnh mạng lại công đức khó có thể đến
    Dù bạn cố gắng bao nhiêu!
    Vậy thì điều quan trọng là phải nỗ lực
    Để đảo ngược luồng gió mạnh mẽ của nghiệp!
    11, Trong luân hồi không hề có chút niềm vui nào.
    Thật không thể chịu đựng khi nghĩ đến
    Mọi nỗi buồn trong vòng quay của cuộc đời này.
    Vậy bây giờ hãy áp dụng nhữung phương pháp giúp bạn thoát khỏi nó.
    Nếu thay vì một nỗ lực chân thành
    Trong tinh hoa của giáo lý,
    Bạn chậm chạp trong một thực hành nhàn nhã không thường xuyên,
    Sẽ chẳng có điều gì tốt đẹp xảy ra.
    Vậy hãy nuôi dưỡng nhận thức ngày càng tăng về tính vô thường
    Cùng với nỗi chán nản lành mạch về thế gian.
    Hãy nỗ lực hết mình khi thực hành,
    Đừng để bị phân tâm dù chỉ một phút.

    12. Nếu ngay từ đầu bạn đã nắm bắt tốt điều này,
    Trong tương lai bạn sẽ đạt đến giác ngộ
    Và một khi bạn đã có được điều tốt cho bản thân,
    Bạn sẽ tự nhiên đạt được điều tốt cho người khác.
    Bây giờ con đường tối thượng bạn đã khám phá
    Dẫn bạn đến sự giải thoát khỏi luân hồi.
    Mọi việc bạn làm bây giờ đều phù hợp với Pháp
    Do đó bạn là cơ sở sự thành tựu giác ngộ.

    Đến đây hoàn thành điểm kim cương thứ hai của Tìm Nghỉ Ngời Trong Thiền Định, một giáo lý Đại Toàn Thiện.

  9. #9

    Mặc định

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ BA

    Giảng Nghĩa Giáo Lý Thực Hành

    1. Bài giảng thực hành có ba phần: mở đầu, phần chính và kết luận.

    2. Giáo lý sơ bộ được trình bày trước tiên.
    Các pháp sơ bộ bên ngoài là hiểu biết
    Về vô thường và không còn mê muội vào luân hồi.
    Những điều này nhổ tận gốc rễ từ sâu thẳm trong tâm trí
    Mọi thứ bám dính vào cuộc sống này.
    Các bước chuẩn bị cụ thể là
    Lòng từ và thái độ bồ đề tâm mà nhờ đó
    Mọi thực hành đều được chuyển hóa vào con đường Đại Thừa.

    Vì vậy, để bắt đầu, hãy tu tập những pháp sơ bộ này.

    3. Những pháp sơ bộ sau đây vượt trội hơn nhiều
    Với mọi quán đỉnh được nhận
    Bạn thực hành hai giai đoạn: phát sinh (và thành tựu)
    Bạn nhận thức thân thể mình như một thần bản tôn
    Như những vị thần của vũ trụ và chúng sinh
    Nhờ vậy bạn lật đổ sự dính mắc vào tồn tại đích thực
    Về những gì thường được nhận thức.
    Nhờ thực hành trên con đường sâu sắc của guru yoga
    Phúc lành vô biên sẽ phát sinh
    Nhờ lòng từ mạnh mẽ của thầy
    Những chướng ngại được xua tan
    Và hai thành tựu đạt được
    Vì vậy, theo các pháp sơ bộ bên ngoài và đặc biệt
    Hãy thiền về hai pháp cao hơn.

    4. Qua bốn pháp sơ bộ này
    Tâm bạn sẽ bước vào con đường không sai lầm
    Và một khi bạn đi theo con đường tối thượng này đến tự do
    Bản tính nền tảng sẽ nhanh chóng biểu lộ.
    Bạn sẽ đạt được sự thiện xảo dễ dàng trong thực hành chính
    Và sẽ không có trở ngại nào cả.
    Những phẩm tính vô tận bạn sẽ sở hữu:
    Gần tới thành tựu và mọi thứ còn lại.
    Do đó, việc tu luyện trong các pháp sơ bộ là quan trọng nhất.

    5. Về thực hành chính,
    Thông qua các phương tiện thiện xảo của sự tập trung
    Vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm
    Bản tính nền tảng của tâm trí
    Giờ đây sẽ được giới thiệu với bạn
    Trí tuệ nguyên thủy sáng ngời, thoát khỏi mọi tạo tác,
    Sẽ xuất hiện tự nhiên và đồng thời.

    6. Trước tiên, pháp giới thiệu thông qua phương tiện thiện xảo của đại lạc
    Tiếp theo những pháp thiền sơ bộ đã giải thích trước đó
    Hãy quán tưởng ba kinh mạch, thẳng như các trụ cột
    Đi qua trung tâm của bốn luân xa
    Kinh mạch bên phải có màu trắng;
    Kinh mạch bên trái có màu đỏ;
    Mạch trung tâm màu xanh, và giống như một ống rỗng.
    Đỉnh của nó nằm ở huyệt Brahma,
    Kết thúc bên dưới ở trung tâm bí mật.
    Trong kinh mạch trung tâm, ở tầm rốn,
    Có chữ A, từ đó lửa bùng cháy, tạo thành
    Dòng mật hoa chảy xuống từ chữ HANG nằm trong đỉnh đầu.
    Thứ này sẽ đổ đầy bốn luân xa và không gian bên trong thân thể.
    Khi lạc thọ tràn ngập thân thể
    Mật hoa từ chữ HANG
    Chảy xuống không ngừng
    Đến chữ BAM trong tim
    Hãy thiền như vậy cho đến khi trải nghiệm về lạc xuất hiện.
    Sau đó chữ BAM sẽ nhỏ hơn và mịn hơn
    Giờ đây tâm trí bạn lắng dịu, thoát khỏi những suy nghĩ và hình ảnh
    Trong trạng thái không có bất cứ sự tạo dựng khái niệm nào
    Thông qua phương pháp này, lạc thọ do định sẽ xuất hiện
    Và do đó có trạng thái an trú tĩnh lặng.

    7. Một trạng thái của tâm trí sau đó xuất hiện
    Vượt qua mọi suy nghĩ, vượt ngoài mọi diễn đạt
    Một trạng thái như không gian vượt trên tâm trí thông thường
    Đây là tính sáng chói đầy hỷ lạc và trống rỗng
    Của trạng thái Đại Toàn Thiện
    Pháp tính trong suốt và không thể nghĩ bàn.

    8. Khi bạn quen với điều này
    Bốn kinh nghiệm sẽ đến với bạn:
    Mọi thứ bạn nhận thức đều dễ dàng.
    Ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái an lạc.
    Tâm tư bạn không bị quấy nhiễu bởi những nỗi khổ của dục vọng và hần thù
    Và trí tuệ biểu lộ
    Nhờ đó mà ý nghĩa lời Phật dạy được hiểu ẽo.

    9. Thông qua thiền định liên tục
    Mặt trời của những phẩm chất vô hạn
    Sẽ xuất hiện trong tâm thức bạn:
    Những quyền năng về linh ảnh, thiên nhãn trí, và những thứ khác.
    Sự giới thiệu này vào bản tính của tâm
    Nhờ phương tiện thiện xảo của đại lạc
    Là một chỉ dần trọng yếu và sâu xa.

    10. Thứ hai là pháp giới thiệu
    Thông qua phương tiện thiện xảo của tính sáng tỏ
    Luyện tập đầu tiên trong các pháp sơ bộ như trước
    Sau đó, quán tưởng ba kinh mạch
    Theo cách mà Ro và kyang có phần kết thúc bên dưới
    Cong và xuyên qua kinh mạch trung tâm
    Và đầu trên chạm tới lỗ mxui.
    Khi bạn thở ra không khí cũ ba lần,
    Mọi bệnh tật, thế lực xấu xa
    Tội lỗi và chướng ngại đều bị đào thải.
    Khi bạn hít vào từ từ ba lần,
    Thế giới tĩnh lặng và vật dụng chuyển động mà nó chứa đựng, tan chảy thành ánh sáng.
    Được hút vào lỗ mũi
    Đi qua ro và kyang,
    Chúng đi xuyên qua trung mạch
    Rồi sau đó hòa tan thành một quả cầu ánh sáng có kích thước bằng ngón tay cái
    Ngay chính giữa tim bạn
    Hãy tập trung vào điều này lâu nhất có thể.
    Kết hợp các luồng khí trên và dưới lại với nhau.
    Khi thở ra, hãy giữ lại một ít không khí
    Việc hít vào thở ra nhẹ nhàng có tầm quan trọng rất lớn
    Mọi điều tuyệt hảo
    Của chư Phật và những bậc được tán thán
    Tan chảy vào tim bạn
    Đừng rời khỏi trạng thái này
    Thông qua phương pháp này
    Trạng thái tâm trí trong suốt, sáng ngời, và tĩnh lặng sẽ biểu lộ.

    11. Hãy quán tưởng ánh sáng rạng rỡ tăng cường
    Từ ánh sáng trong tim bạn
    Khiến bốn luân xa và thân thể bạn bừng sáng
    Và tràn ra ngoài, lấp đầy thế giới bằng ánh sáng
    Nếu thiền như vậy cả ngày lẫn đêm
    Trong vòng vài hôm, những giấc mơ của bạn sẽ dừng lại
    Và bạn sẽ nhìn thấy những hình tướng sáng láng này:
    Một mặt trăng, một ngọn đuốc bùng cháy, đom đóm, các vì sao và tất cả những thứ còn lại
    Bên ngoài và bên trong, khắp nơi đều tràn ngập ánh sáng ngũ sắc
    Vì tâm trí bạn tập trung vào trạng thái sáng tỏ
    Thiền an trú tĩnh lặng, samatha, sẽ biểu lộ.

    12. Ánh sáng sau đó tụ họp trở lại vào tim bạn
    Rồi từ từ giảm dần cường độ cho đến khi
    Tâm trí bạn nghỉ ngơi trong trạng thái trống rỗng
    Không tập trung vào bất cứ điều gì
    Tâm trí bạn sẽ ở trạng thái trống rỗng, trong trẻo và minh mẫn
    Sáng tỏ tự nhiên thoát khỏi mọi tạo tác.
    Đó là trí tuệ ban sơ
    Sáng chói và trống rỗng, không bị chế định.
    Đó là cách thức căn bản của hiện tồn
    Của Đại Toàn Thiện tự nhiên.

    14. Khi quen với thiền như vậy
    Bốn kinh nghiệm sẽ biểu hiện
    Bạn sẽ nghĩ những thứ xuất hiện
    Là khó nắm bắt, trong suốt, và không bị ngăn trở.
    Ánh sáng sẽ tràn ngập ngày và đêm của bạn
    Tâm trí sáng suốt và minh mẫn của bạn sẽ không bị các suy nghĩ lay động
    Và thoát khỏi tính nhị nguyên của người nắm bắt và đối tượng được nắm bắt.
    Tri thức sẽ dâng trào từ bên trong

    15. Thông qua việc tăng cường thói quen
    Thiên nhãn trí sẽ xuất hiện
    Bạn sẽ phát triển quyền năng của linh ảnh
    Nhận thức được các đối tượng siêu tinh thần
    Ngay cả khi chúng bị che khuất bởi những vật khác
    Bạn sẽ có được quyền năng thực hiện các phép màu
    Sự giới thiệu bản tính của tâm
    Bằng phương tiện của tính sáng tỏ là tinh hoa
    Của những chỉ dẫn sâu sắc nhất.

    16. Thứ ba, thông qua phương tiện thiện xảo của vô niệm
    Bản tính của tâm được giới thiệu
    Hãy thiền như trước đây về các pháp sơ bộ.
    Sau đó thực hiện ba điểm của thực hành chính thức:
    Đẩy mạnh, tập trung và sau đó là tinh chỉnh
    Thực hành đẩy mạnh như sau:
    Quán tưởng trong tim bạn
    Tâm trí bạn nghỉ ngơi, sáng ngời tự nhiên
    Có một chữ A hoặc một quả cầu ánh sáng
    Kích thước bằng ngón tay cái của bạn
    Sau đó đọc HA một cách mạnh mẽ
    Hai mươi lần
    Quán tưởng rằng chữ cái được
    Phóng thẳng lên đỉnh đầu bạn
    Càng lúc càng cao hơn lên bầu trời phía trên
    Cho đến khi nó biến mất khỏi tầm nhìn
    Thư giãn cả tâm trí và cơ thể thật sâu
    Và duy trì trạng thái thiền định quân bình
    Dòng tư tưởng ngay lúc đó sẽ dừng lại, và bạn sẽ được nghỉ ngơi
    Trong một trạng thái không thể diễn tả bằng lời nói hay ý niệm.
    Một kinh nghiệm vượt ngoài tầm suy nghĩ
    Nơi không có gì để thấy.
    17. Bây giờ đến giai đoạn tập trung tỉnh giác
    Quay lưng về phía mặt trời
    Hướng mắt lên bầu trời trong trẻo
    Yên lặng và để hơi thở thư giãn
    Cho đến khi bạn không còn cảm thấy chuyển động của nó nữa
    Và từ bên trong trạng thái vô niệm
    Tự do khỏi tạo tác sẽ xuất hiện
    Một kinh nghiệm thiền về tính không như không gian
    Sẽ nảy sinh.

    18. Sau đó, không xao lãng, cố định ánh mắt chăm chú của bạn lên trời
    Và trong trạng thái tinh thần sáng suốt
    Nơi mà những ý nghĩ không phát triển hay tan biến,
    Hãy thiền, quán chiếu rằng đất và đá
    Những ngọn đồi, vách đá
    Vũ trụ và chúng sinh trong toàn thể của chúng
    Trở nên giống như không gian, một sợ mở rộng không bị cản trở
    Bạn không có sự nắm bắt
    Ngay cả thân thể bạn như một hình tướng thô thiển, có thật
    Hãy an trú trong trạng thái mà không gian và tâm trí bạn
    Không thể phân biệt được
    Không có sự nhìn nhận về thế giới bên ngoài hay bên trong
    Hoặc cái gì đó ở giữa
    Và trong trạng thái không gian đó
    Hãy thư giãn thật sâu cơ thể và tâm trí bạn
    Ký ức và suy nghĩ, mọi chuyển động tinh thần
    Đều tự nhiên dừng lại
    Với vô niệm lan tỏa và tan biến
    Tâm trí vẫn ở trong tình trạng tự nhiên của nó
    Trạng thái tối hậu của các hiện tượng
    Và tâm trí vượt trên mọi ý niệm và ngôn từ
    Vào thời điểm đó, là không hai
    Một sự chứng ngộ giống như không gian giờ đây ló rạng
    Đây là bản tính tinh hoa của các Đấng Chinh Phục
    Từ quá khứ, hiện tại, đến tương lai.

    19. Khi bạn thiền như vậy
    Bốn kinh nghiệm xảy ra
    Mọi hiện tượng dường như không thực chất
    Vì bạn không có cảm giác về vật chất thô
    Cả ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái vô niệm
    Vì năm độc tự nhiên lắng dịu
    Dòng tâm thức của bạn sẽ mềm mại nhẹ nhàng
    Bạn sẽ nếm trải bảnh tính rộng lớn của mọi thứ.

    20. Thông qua tu luyện kỹ thuật thứ ba này về vô niệm.
    Bạn sẽ đắc quyền năng linh ảnh và thần nhãn
    Sự tập trung và nhiều phẩm chất khác.
    Thông qua sự hợp nhất của phương tiện thiện xảo và trí tuệ
    An trú tĩnh lặng và nội quán sâu sắc
    Bạn sẽ đạt được cho bản thân và người khác
    Các mục tiêu trước mắt và cuối cùng.

  10. #10

    Mặc định

    21. Trong phần giải thích kết luận
    Bốn chủ đề được thảo luận:
    Các kinh nghiệm trong thiền
    Tăng cường, chứng ngộ và thành quả.

    22. Các kinh nghiệm thiền có hai loại:
    Những thứ không có khuyết điểm đã được thảo luận ở trên.
    Thứ có khuyết điểm đến từ sự dính mắc và bám chấp
    Về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm
    Những thứ này bao gồm việc bám víu vào những kinh nghiệm
    Hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm.
    Khi xem xét những kinh nghiệm như vậy
    Như các đối tượng tự thân
    Khi bám chấp vào chúng một cách sai lầm
    Và trộn chúng với chất độc
    Hỷ lạc sai lệch báo hiệu dục vọng thô tục
    Hao tổn tinh khí gây ra
    Hầu hết sự bất mãn và ngu độn.
    Tính sáng sai lệch ám chỉ sự nhiễu loạn điên cuồng
    Của khí và những cơn giận thông thường .
    Nó chủ yếu dẫn đến sự lan truyền
    Những ý nghĩ thô tục hoặc kích động.
    Vô niệm sai lệch là trạng thái vô minh thông thường,
    Chủ yếu bao gồm trạng thái trì trệ tinh thần
    Buồn ngủ, uể oải,
    Trạng thái trống rỗng trong tâm trí.
    Khi những trạng thái sai lệch
    Hoặc những trải nghiệm khiếm khuyết như vậy xảy ra,
    Bạn phải xác định chúng
    Và dùng pháp đối trị để tu sửa chúng.

    23. Vì lợi ích tiến bộ
    Sử dụng phương tiện thiện xảo để chống lại
    Những kinh nghiệm thiền khiếm khuyết
    Và tăng cường sự tập trung của bạn.
    Có ba cách để sửa chữa
    Những kinh nghiệm khiếm khuyết như vậy.
    Những hành giả giỏi nhất sẽ sửa chúng
    Thông qua áp dụng quan điểm:
    Mọi hiện tượng đều là sự quy kết của tinh thần;
    Chúng như ảo ảnh và không thể bị ghim chặt.
    Chúng tất cả như không gian, đều bình đẳng và vượt ngoài sự bám chấp.
    Về phía chúng, chúng trống rỗng.
    Thiền giả tự tin đạt đến trạng thái
    Không bám dính vào bất cứ thứ gì.
    Những kinh nghiệm sai lầm và mờ tối xuất hiện
    Như bản tính nền tảng của tâm trí.
    Mọi trở ngại do vậy đều thúc đẩy phẩm hạnh
    Mọi nghịch cảnh đều là trợ thủ cho giác ngộ.
    Trên nền tảng hỷ lạc, tâm trí luôn vui vẻ.
    Và giác ngộ rạng ngời như không gian vô tận.

    24. Đối với những người có sức mạnh trung bình
    Những kinh nghiệm sai lệch được khắc phục thông qua thiền.
    Họ đạt được tính sáng suốt rõ ràng
    Bằng cách tập trung tâm trí chặt chẽ
    Và giữ chúng bằng chánh niệm.
    Họ an trú không xao lãng
    Trong trạng thái an lạc, sáng suốt, không ý niệm.
    Vì xao lãng và mất tập trung
    Là sai, nên điều quan trọng trong việc hành thiền
    Là không được phân tâm dù chỉ một giây.

    25. Khi chủng tử bị mất
    Quán tưởng trong bình kim cương
    Chữ HUNG, từ đó một ngọn lửa rực cháy
    Đốt cháy toàn bộ tinh khí trong thân thể.
    Thiền rằng không còn lại gì cả
    Việc này sẽ xua tan khiếm khuyết.
    Áp dụng điểm quan trọng này ngay cả khi chủng tử của bạn
    Bị mất do bệnh tật hoặc tác động của thế lực xấu.
    Khi bạn đã phá hủy mọi sự bám dính vào hỷ lạc,
    Hãy thiền về lạc như là không.
    Theo dõi chặt chẽ trạng thái tinh thần của dục vọng thông tục
    Và không can thiệp vào nó
    Duy trì tình trạng không có hy vọng và sợ hãi.
    Theo cách này, dục vọng sẽ tự nhiên lắng xuống.
    Trí tuệ bản nguyên, lạc và không sẽ nảy sinh.
    Cảm giác chán nản là một lỗi lầm
    Xuất hiện do giọt tinh chất bị yếu đi.
    Để chống lại điều này, hãy thiền về
    Định hỷ lạc của bùng cháy và nhỏ giọt.
    Sự đần độn chiếm ưu thế là một sai lệch xuất hiện
    Khi các giọt tinh chất được chế luyện
    Không tách biệt với những thành phần đã bị thoát hóa.
    Trong trường hợp này, hãy ngồi ở tư thế thẳng đứng;
    Giữ hơi thở bình, quán tưởng ánh sáng tràn ngập tim bạn
    Và toàn thể thế giới. Sau đó thiền về ánh sáng trống rỗng.
    Nhờ đó sự đần độn bị xua tan.

    26. Nếu bạn dính mắc vào tính sáng
    Điều này phải được thanh lọc đến trạng thái không còn bất cứ bám chấp nào nữa.
    Nếu tâm trí bạn buồn ngủ và không minh mẫn,
    Hãy thiền về nó như thể nó sáng láng và rạng rỡ.
    Nếu tâm trí bạn hỗn loạn và kích động,
    Hãy nhắm mắt lại, thiền bên trong tim bạn
    Trên một ngọn đèn, lá thư, bông sen, thanh kiếm hoặc hai chày kim cương bắt chéo,
    Những thứ này đi xuống mãi
    Như thể được gắn vào một sợi dây dài
    Cho đến khi chúng chạm tới nền tảng vàng
    Cơ sở của toàn cũ trụ
    Chắc chắn việc này không thể không làm tiêu tan mọi hỗn loạn và kích động
    Khi cơn giận dữ thông thường và ý nghĩ phóng đãng quấy nhiễu
    Hãy giữ thái độ bất động rồi tất cả chúng sẽ lắng xuống
    Trong trí tuệ ban sơ như tấm gương
    Sáng ngời và trống rỗng.

    27. Khi một kinh nghiệm sai lệch của vô niệm bộc lộ
    Không bám víu vào nó chính là điểm then chốt để thanh lọc nó
    Khi trạng thái vô minh này được nhận ra
    Và trực tiếp quan sát, nó sẽ ngay lập tức lắng xuống
    Trí tuệ bản nguyên của pháp giới biểu hiện
    Trong trường hợp trì trệ, lờ đờ hoặc trống rỗng tinh thần
    Hãy quán tưởng trong tim bạn một luồng sáng
    Bắn qua huyệt Brahma
    Và ở lại, độ cao một chiếc cung, lơ lửng trong không khí.
    Khi bạn tập trung vào đó
    Tâm trí bạn thoát khỏi mọi hoạt động.
    Đây là một chỉ dẫn quan trọng và sâu sắc.

    28. Nói chung, điều quan trọng là không được dính mắc vào bất cứ thứ gì.
    Nếu bạn không có hy vọng hay sợ hãi,
    Bạn sẽ thoát khỏi mọi chướng ngại.
    Nghỉ ngơi trong trạng thái thanh tịnh
    Bản tính sáng chói và trống rỗng của tâm trí
    Nơi không có những suy nghĩ lan man nẩy nở
    Khi đó bạn chắc chắn sẽ thoát khỏi những con đường nguy hiểm
    Của những chướng ngại và khuyết điểm cần phải từ bỏ.

    29. Những hành giả thuộc có năng lực thấp nhất
    Tu sửa kinh nghiệm khiếm khuyết của họ
    Bằng cách áp dụng hành động ba phần:
    Thông qua cái nhìn chăm chú, thông qua các các yếu tố vật chất,
    Và thông qua các liên kết cát tường.
    Cách nhìn chăm chú thuộc về
    Thế ngồi bảy điểm của Đại Nhật
    Hai chân bắt chéo, cái nhìn không dao động,
    Hơi thở chậm,
    Hai tay kết ấn thiền,
    Cổ hơi cong,
    Đầu lưỡi đặt trên vòm miệng,
    Mắt nhìn xuống dọc theo mũi,
    Tâm khí nhờ vậy được giữ cân bằng
    Và thiền định nhất tâm hoàn hảo
    Thoát khỏi sự biểu hiện của hôn trầm, trạo cử.
    Vì mọi sai lệch đều phát sinh từ sự nhiễu loạn
    Của các kinh mạch, khí và giọt tinh chất
    Và những thứ này lại phát sinh thông qua sự nhiễu loạn
    Của các điểm then chốt trên thân thể.
    Vì vậy, điều quan trọng là phải giữ chúng không bị xáo trộn
    Trong trạng thái thiền định quân bình
    Vì mọi phẩm chất tốt đẹp
    Khi các mạch, khí, giọt tinh hoa
    Không bị xáo trộn và vận hành đúng cách
    Điều cần thiết là bạn phải hiểu
    Các yếu huyệt của thân thể.

    30. Trong các bài tập yoga
    Và những phần tu luyện khác của thân thể
    Một điểm quan trong là duy trì
    Trạng thái thoải mái không gượng ép
    Không có bất cứ kích động nào
    Điểm quan trọng nữa là
    Cách giữ hơi thở nhẹ nhàng
    Sẽ có lợi từ cách mạnh mẽ
    Và ngược lại
    Cách nín thở mạnh mẽ sẽ có lợi từ cách nhẹ nhàng.
    Thực hành đúng thể trạng của bạn
    Là vấn đề có tâm quan trọng tối cao.

    31. Đặc biệt, khi thực hành về hỷ lạc
    Điểm quan trọng là bạn phải khoanh tay ngang khủy,
    Mắt nhìn xuống, trong khi tập trung tâm trí vào hỷ lạc.
    Khi thực hành tính sáng,
    Tay bạn đặt úp lên gối;
    Hơi thở nên nhẹ nhàng,
    Và mắt bạn cần nhìn thẳng vào không trung.
    Mặt khác, trạng thái vô niệm đạt được
    Nhờ việc duy trì thế ngồi bảy điểm.

    32. Yếu tố vật chất là
    Một nơi thực hành phù hợp với thời điểm trong năm
    Người đồng hành và đồ ăn (cả thực phẩm và đồ uống).
    Áp dụng bất cứ điều gì giúp trải nghiệm.

    33. Việc tạo ra các mối liên hệ tốt lành
    Đối phó với việc mất tinh khí,
    Một dây ba sợi chỉ được một thiếu nữ bện thành
    Và được gia trì thần lực bởi mật chú
    Nên được buộc quanh eo bạn.
    Việc này ngăn ngừa các chất lỏng tinh yếu bị xuất lậu.
    Khi những ý nghĩ nảy nở
    Trạng thái vô niệm đạt được
    Nhờ nuốt một viên thuốc gồm có
    Đàn hương, nghệ tây rắn hổ, và “mỡ lớn”.
    Trong những lúc tinh thần uể oải, nếu bạn uống
    Một viên thuốc gồm có nghệ tay, long não, bồ đề tâm,
    Sự tập trung sẽ đạt được, các mật điển nói.

    34. Để tăng cường trạng thái hoàn hảo
    Của hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm,
    Tốt nhất bạn nên hướng tâm trí mình
    Vào bất cứ đối tượng nào phù hợp
    Do đó, hãy bắt đầu bằng cách tập trung vào một đối tượng,
    Rồi sau đó thiền định sẽ tự động thoát khỏi mọi tham chiếu.
    Điểm trọng yếu này là thâm sâu nhất.
    Nó là tối cao và cần được những người may mắn áp dụng nghiêm túc.
    Từ chối phương pháp này, bỏ qua nó,
    Vì cậy có những thiên tư đặc biệt,
    Thực sự là đi theo con đường của những kẻ ngu ngốc.
    Hãy tránh xa con đường tệ hại này của những người thiếu kinh nghiệm.

    35. Đặc biệt, cách tốt nhất để tăng cường
    Sự tập trung vào hỷ lạc
    Là bằng cách kéo rút luồng khí ở dưới thấp,
    Để kéo các giọt tinh hoa lên từ trung tâm bí mật của bạn
    Và để chúng tan chảy, hòa tan trong đỉnh đầu của bạn.
    Sau đó, trầm lặng trong trạng thái không tham chiếu.
    Sau đó, hội hợp các luồng khí ở dưới và ở trên lại với nhau
    Giữ hơi thở bình
    Tập trung tâm trí của bạn vào tim.
    Ở lại trong bản tính không sinh.
    Bạn nghỉ ngơi trong trạng thái hỷ lạc và sáng chói,
    Thoát khỏi sự sinh sôi của tâm trí.

  11. #11

    Mặc định

    36. Thỉnh thoảng thực hiện
    “Rung lắc mạnh của sư tử”
    Kéo xuống, đảo ngược, kéo lên, lan tỏa các giọt tinh hoa.
    Và tự tin an định trong bản tính của tâm.
    Thực hiện các khía cạnh trọng yếu
    Của bài tập yoga này
    Như bạn đã thấy chúng được trình bày
    Theo dòng truyền của bạn.

    37. Để kéo các giọt tinh hoa xuống
    Thực hiện mudra ôm ấp
    Và, ngồi thẳng, tạo ra
    Một áp lực xuống phần dưới của bạn.
    Quán tưởng rằng giọt bồ đề tâm
    Được tạo ra để chảy xuống từ HANG.
    Và khi nó rơi vào trung tâm bí mật của bạn,
    Tập trung vào hỷ lạc từ đó.

    38. Sau đó đảo ngược dòng chảy và kéo nó lên trên.
    Giữ hai nắm tay ngang với thận của bạn
    Và “nối liền đại dương và tảng đá”.
    Kéo luồng khí ở dưới lên trên
    Và chạm đầu lưỡi vào vòm miệng của bạn
    Cuộn mắt lên, đẩy xuống và lắc đầu.
    Quán tưởng các giọt tinh hoa
    Như thể được xâu trên một sợi tơ
    Tan chảy mỗi giọt vào giọt tiếp theo
    Cho tới khi chạm đến đỉnh đầu.

    39. Để các giọt tinh hoa lan tỏa,
    Hãy làm như bạn đang kéo một cây cung
    Và khuấy động mạnh mẽ tay chân bạn
    Sau đó, đặt đầu lưỡi của bạn vào răng
    Phát ra âm Si , rít lên qua hơi thở của bạn.

    40. Bây giờ hãy nghỉ ngơi với niềm tin vào bản tính của tâm trí.
    Nằm ngửa, hít thở nhẹ nhàng, tâm trí thoải mái.
    Đừng nghĩ về bất cứ điều gì, đừng nắm bắt bất kỳ thứ gì.
    Nghỉ ngơi trong bản tính thoát khỏi mọi chuyển động tinh thần.
    Bằng phương tiện này, đại lạc, giác ngộ
    Sẽ được thành tựu mà không gặp trở ngại.

    41. Cách tốt nhất để tăng cường
    Sự tập trung của bạn vào tính sáng
    Là thông qua hơi thở.
    Những cách nhẹ nhàng và mạnh mẽ
    Mà hơi thở được giữ lại
    Tăng cường lẫn nhau.
    Đặc biệt, quan trọng là phải kết hợp xen kẽ
    Giữ hơi thở chậm và nhẹ nhàng
    Cả bên ngoài và bên trong.
    Như được dạy rằng người ta nên thực hành theo nhiều cách khác nhau
    Liên quan đến số lượng, màu sắc, sờ chạm, vân vân
    Nhưng ở đây, thông qua hướng dẫn độc đáo
    Tất cả sẽ được thành tựu
    Tu tập này quả thực là phương pháp cao nhất.

    42. Áp dụng tất cả những điểm chính của thân thể
    Như đã giải thích trước đây
    Đặc biệt là một cái nhìn chăm chú bất động,
    Hít thở đều và rất chậm
    Qua miệng và cả hai lỗ mũi.
    Thư giãn hoàn toàn trong trạng thái “bình thường”,
    Tức là trạng thái tự nhiên, rộng mở và tự do.
    Điểm then chốt của tâm trí không phải là tập trung’vào bất cứ điều gì, mà là để mặc mọi thứ tự nhiên như vậy.
    Nằm ngửa và duỗi tay chân
    Sau đó hét lên HA , tập trung tâm trí của bạn vào bầu trời.
    Nghỉ ngơi bình thản, không bị xao lãng,
    Thoát khỏi sự sinh sôi và tan biến của các suy nghĩ.
    Khí – tâm sau đó nghỉ ngơi trong trạng thái an lạc
    Của sự mở rộng tự nhiên và tự do.
    Đây là cánh cửa mà qua đó phát sinh
    Mọi phẩm tính hoàn hảo, vô số và vô ngại.

    43. Sau đó cơ thể cở thể cảm thấy nhẹ nhõm
    Không có hơi thở được cảm nhận.
    Mọi vận động tâm trí đều dừng lại.
    Tâm trí sáng tỏ và minh mẫn
    Và ở đó trí thiên nhãn xuất hiện.
    Thần túc đạt được
    Làn da của bạn sẽ lấp lánh và tỏa sáng;
    Và sự tập trung sẽ xuất hiện.
    Những dấu hiệu sẽ chỉ ra
    Rằng khí tâm giờ đã đi vào kinh mạch trung tâm
    Đây là một chỉ dẫn tối cao.
    Nó cực kỳ bí mật, sâu xa nhất.

    44. Để tăng cường tập trung của bạn
    Vào trạng thái vô niệm như không gian,
    Hãy để tâm trí và thân thể nghỉ ngơi thật sâu
    Và tập trung nhất tâm vào một đối tượng
    Khi bạn cố định mạnh mẽ vào đối tượng àny
    Không bị xao lãng
    Mọi suy nghĩ khác đều lắng xuống
    Trong trải nghiệm duy nhất về đối tượng này
    Khi đó ngay cả ý niệm về đối tượng này cũng biến mất hoàn toàn.
    Hình tướng của sự vật vẫn còn,
    Nhưng không có sự nắm bắt nào vào nó.
    Nó phát sinh nhưng lại trống rỗng.

    45. Đây là điểm trọng yếu, và ngoài ra
    Bạn nên tu luyện như sau
    Thỉnh thoảng tập trung vào một vật thể bên ngoài nào đó.
    Thở ra và ngưng thở càng lâu càng tốt.
    Trạng thái vô niệm sẽ xuất hiện.
    Đôi lúc giữ hơi thở bên trong
    Giữ nguyên không dao động và không xao lãng
    Tập trung vào một đối tượng trong cơ thể bạn
    Dù là phần trên hay phần dưới.
    Đôi khi hãy để mặc tâm trí bạn
    Như nó đang là, không hỗ trợ.
    Duy trì trạng thái mà
    Tuy mọi thứ xuất hiện, nhưng bạn không dính mắc vào chúng.
    Trên cơ sở lời giải thích trọng yếu này,
    Trí tuệ của pháp thân, thoát khỏi các suy nghĩ,
    Sẽ, tự nảy sinh, từ bên trong.

    46. Cách chung để nâng cao tập trung
    Và hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm
    Nghỉ ngơi trong sự tích lũy cả trí tuệ và công đức,
    Thanh tẩy mọi che chướng
    Thực hành các giai đoạn phát sinh và thành tựu.
    Và con đường sâu xa được ca ngợi nhiều nhất là guru yoga.
    Lời chỉ dẫn này là tối thượng và tối hậu.
    Những người may mắn ước muốn giải thoát
    Nên tha thiết đón nhận nó.

    47. Những chứng ngộ phát sinh thông quan thiền định như vậy
    Đều có chung hương vị
    Chúng không đa thù, chúng chẳng dị biệt.
    Giống như nhữung người đến từ ba hướng
    Rồi gặp nhau tại một nơi duy nhất,
    Và giống như những dòng suối khác nhau chảy qua,
    Hợp lại thành một trong một biển cả duy nhất.
    Hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm
    Bất cứ phương pháp nào trong số này mà người ta có thể thực hành
    Khi chuyển động tinh thần đạt đến trạng thái nghỉ ngơi hoàn toàn
    Và trong bản tính của tâm trí, không gian bất sinh, tan biến.
    Tâm trí giác ngộ, không có mọi khái niệm
    (Dù là tồn tại hay không tồn tại).
    Mặt trời của bản tính nền tảng, bừng sáng và trống trải,
    Sẽ mọc lên từ bên trong
    Trong sự chứng ngộ này, bất biến và bất động
    Không có gì để thêm vào, chẳng có gì để bớt đi.
    Đó là bản tính của nó như lại tạng
    Tương xứng với chính không gian.

    48. Vào lúc đó, trong biển samadhi
    An trú và nội quán,
    Nhất tâm, minh bạch, thuần tịnh
    Các hiện tượng giống như ảnh phản chiếu
    Không có bản thể nội tại
    Được phản chiếu mà không có sự thiên vị hay bám chấp.
    Bản tính của chúng được nhận ra như là
    Hình sắc và tính không trong sự hợp nhất.
    Các hình tướng là trống rỗng;
    Chúng giống như những huyễn ảnh ảo thuật.
    Chúng không thể được ghim chặt.
    Sự mở rộng bao la của chứng ngộ này
    Của sự hợp nhất không thể chia cắt này
    Sự sáng chói phát sinh bên trong
    Được đưa ra thông qua lời chỉ dẫn cốt lõi này.

    49. Nhờ sự ban phúc của thầy mà bạn thấy được
    Trí tuệ nguyên thủy tự sinh, không thể diễn tả,
    Vượt ngoài cả ngôn ngữ và tư tưởng.
    Và trong khoảnh khắc nhìn thấy,
    Phi thời gian là ba thời,
    Không có sự khác biệt nào chia tách tương lai với quá khứ.
    Đây là Trí Tuệ Vượt Qua, Trung Đạo;
    Sự Tĩnh Lặng (của mọi ý nghĩ và nỗi khổ), Đại Ấn;
    Đại Toàn Thiện của thực tại tối hậu tinh túy,
    Đó là trạng thái bản tính nền tảng
    Nơi, ngay từ đầu,
    Các hiện tượng đều cạn kiệt.
    Đó là sự sáng suốt của tâm trí
    Trí tuệ nguyên thủy tự sinh,
    Được gọi bằng nhiều tên khác nhau, nhưng tất cả đều có một ý nghĩa:
    Thực tại tối hậu, vượt ngoài mọi phạm vi
    Về lời nói, tư tưởng, diễn giải:
    Tâm giác ngộ,
    Bản tính như không gian, nơi luân hồi và niết bàn vốn không hai.

    50. Vô hạn, vượt ngoài mọi thiên lệch,
    Chẳng bị ràng buộc trong cạm bẫy của các giáo điều,
    Thoát khỏi tâm trí lan man,
    Bất nhị, hoàn hảo, đại bình đẳng,
    Trí tuệ của các Đấng Chiến Thắng,
    Không gian bao la vượt trên mọi cực đoan.
    Đây là điều mà các hành giả cần nhận thức đầy đủ.

    51. Các kết quả khác nhau của những mức độ tập trung này
    Khi đã hoàn toàn thuần thục, thì như sau:
    Ngay lập tức, thông qua sự hợp nhất
    Của hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm,
    Vô số phẩm tính, thiên nhãn trí,
    Quyền năng của các linh ảnh, tất cả đều đạt được.
    Và ở cấp độ cuối cùng,
    Những phẩm chất giác ngộ, viên mãn
    Của ba thân được thành tựu.
    Mục đích kép cho bản thân và người khác
    Đạt được tự nhiên.

    Đến đây hoàn thành điểm kim cương thứ ba của Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định, một giáo lý của Đại Toàn Thiện.

  12. #12

    Mặc định

    CÁC CÂU THƠ KẾT THÚC

    1. Nhờ công đức giải thích
    Giáo lý tính túy này
    Sâu và rộng,
    Một pháp thực hành sẽ dẫn đến thanh thản,
    Nguyện cho mọi chúng sinh đạt tới giác ngộ
    Được trang hoàng bằng hai tích lũy cao cả
    Tận hưởng sự tráng lệ vô tận của những hành vi giác ngộ
    Nhờ đó thỏa mãn mọi mong ước.

    2. Là sự chưng cất tinh túy
    Từ những điểm trọng yếu trong thực hành của ông
    Drime Ozer, con của Đấng Chiến Thắng
    Vì lợi ích của những người sẽ đến,
    Đã ghi lại lời diễn giải tường minh này
    Trên sườn núi Grangri Thokar.

    3. Những ai mong muốn giải thoát,
    Hãy siêng năng áp dụng lời tôi.
    Vì như vậy bạn sẽ hoàn thiện hai mục tiêu
    Cho nhu cầu trước mắt và tối hậu.
    Và nhanh chóng được hài lòng
    Trên hòn đảo đại lạc.

    Đây là kết thúc của chuyên luận Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định, một giáo lý của Đại Toàn Thiện.

  13. #13

    Mặc định

    PHẦN HAI

    Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt

    Bản Tự Chú Giải của Longchenpa về Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định

    Tiếng Phạn
    Mahāsandhidhyānaviśrāntasay¬avritti¬rathavi uddhakanāma

    Tiếng Tây Tạng
    rDzogs pa chen po bsam gtan ngal gso’i ’grel pa shing rta rnam dag ces bya ba

    MỞ ĐẦU

    Kính lễ ngài, đức Phổ Hiền vinh quang!
    Bản tính của ngài bao la tối hậu,
    An bình nguyên thủy và hoàn hảo.
    Mặc dù thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm,
    Nhưng nó vẫn được tô điểm bởi các thân và trí tuệ
    Hiện diện của chính chúng.
    Từ đó phát ra vô số tia sáng
    Thực hiện mọi loại hành động
    Trong cõi của những người có thể được tu tập
    Trong niềm hân hoan và tôn kính, con cúi đầu trước ngài
    Phổ Hiền, mặt trời của tình yêu và trí tuệ,
    Tới ngài và toàn thể chư Phật cùng các bồ tát kế tục.
    Trong số những giáo lý của Đại Toàn Thiện tự nhiên,14
    Con đường của những người mang đến cho chúng sinh ân phúc của may mắn hoàn hảo
    Đến thành phố giải thoát của họ,
    Ở đây tôi sẽ trình bày bản bình luận này,
    Cỗ xe thanh tịnh siêu việt.
    Chóp đỉnh của toàn bộ các bài giảng vô tận của đấng Thiện Thệ là lớp giáo lý về Đại Toàn Thiện tự nhiên. Các giáo lý mà một cá nhân có thể đưa giáo lý này vào thực hành được định nghĩa trong tác phẩm Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định của tôi. Ở phần bình luận hiện tại, tôi sẽ mô tả rõ ràng những điểm then chốt trong chỉ dẫn cốt lõi của nó.

    Văn bản mở đầu bằng lời bày tỏ kính trọng:

    Bản tính nguyên thủy,
    Rộng lớn bao la và thanh tịnh như chính không gian,
    Thực tại tối hậu, bất động,
    Hoàn toàn không có bất cứ chế định nào,
    Bản tính sáng tỏ và trong suốt của chính tâm trí,
    Tinh hoa của giác ngộ
    Khi nhìn thấy nền tảng hoàn hảo bất động và bất biến này,
    Tôi cúi đầu kính lễ.
    Nền tảng của Đại Toàn Thiện là bản tính của tâm trí, trí tuệ bản nguyên tự sinh, bất động và siêu việt mọi cực đoan khái niệm. Bản chất của nó vượt ngoài mọi sự phân biệt. Nó trống rỗng như không gian chứa đựng toàn thể và sáng ngời như mặt trời và mặt trăng không bị mây che. Giống như viên ngọc, bản thân nó đầy tuyệt diệu. Chính trong nền tảng này, hay đúng hơn là không gian tối thượng này, mặc dù không tồn tại theo bất cứ cách nào, nhưng có thể biểu hiện thành bất kỳ thứ gì, mà luân hồi và niết bàn vẫn tồn tại. Thông qua chứng ngộ nền tảng bất động và bất biến này, chính là tính giác, tôi tỏ lòng tôn kính tới nó. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:
    Kye! Đạo sư của mọi đạo sư, Vua sáng tạo toàn thể!
    Sự quảng đại của thực tại tối thượng,
    Bản tính của chư Phật trong ba thời,
    Bạn không cự tuyệt luân hồi,
    Lòng từ của bạn không đứng về phía nào,
    Tới ngài, vị thầy, Vua sáng tạo toàn thể, con cúi đầu!
    Cũng được nói trong Doha, những bài ca giác ngộ:
    Bản tính của tâm trí là hạt giống duy nhất của mọi thứ.
    Sự tồn tại và niết bàn đều xuất hiện từ đó.
    Tôi cúi đầu trước tâm trí này giống như viên ngọc như ý
    Là đấng ban tặng những thành quả mà người ta khao khát.
    Và một lần nữa trong Ratnavali chúng ta tìm thấy:
    Như nước hòa nhập vào nước,
    Bơ hòa vào bơ,
    Trí tuệ nguyên thủy sáng suốt tự nhận thức
    Đó là lý do tôi cúi đầu trước nó.
    Sau đó là lời hứa biên soạn bản bình luận.
    Rằng sự kỳ diệu siêu việt của tâm trí Đấng Chiến Thắng
    Được chứng ngộ, trí tuệ nguyên thủy, tự nhận thức
    Tôi đã chắt lọc tinh túy của các mật điển, bình luận và chỉ dẫn cốt lõi. Hãy chú ý!
    Tôi sẽ giải thích chúng theo kinh nghiệm của mình.


    Chủ đề của những lời chỉ dẫn cốt lõi này là trí tuệ bản nguyên tự nhận thức. Trí tuệ này là mẹ của toàn thể chư Phật, quá khứ, hiện tại và tương lai. Do đó, tôi sẽ giải thích nó vì lợi ích của thế hệ tương lai theo cách mà chính tôi đã thực hành nó. Như được nói trong kinh Bát Nha Ba La Mật Tóm Lược:

    Con đường của những Đấng Chinh Phục trong quá khứ và tương lai
    Trú ngụ ở mười phương, đây là đức tính siêu phàm, không gì khác.
    Điểm rất giống được nêu ra trong Lời Ngợi Ca Mẹ:
    Không tên, không ý niệm, không diễn giải nào
    Dành cho Trí Tuệ đã Vượt Qua.
    Không ngừng và không sinh, chính đặc điểm của không gian,
    Đó là cõi của trí tuệ tự nhận thức.
    Tôi cúi đầu trước thứ này, mẹ của các Đấng Chiến Thắng
    Quá khứ, hiện tại và tương lai.


    Mối liên hệ giữa việc trích dẫn đức tính siêu phàm này trong bối cảnh của một bài thuyết trình về Đại Toàn Thiện là gì? Lý do vì bản thân trí tuệ siêu việt chính là Đại Toàn Thiện.15 Vì đây là cách mà mọi Đấng Chiến Thắng của ba thời đều ám chỉ đến bản thân tính giác. Đó là nơi mà họ sinh ra. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

    Kye! Tôi chính là bản tính không tạo tác như nó đang là.
    Tôi vượt ngoài cả tồn tại và không tồn tại.
    Những Đấng Chiến Thắng của ba thời xuất hiện từ tôi,
    Vì vậy, tôi thực sự được gọi là Mẹ của các Đấng Chiến Thắng.


    Phần này tiết lộ lý do tôi biên soạn chuyên luận này. Bây giờ tôi sẽ giải thích nội dung chính của văn bản gốc trước, một cách ngắn gọn, rồi sau đó là chi tiết.
    Đầu tiên là phần mô tả ngắn gọn và tóm lược về những chỉ dẫn cốt lõi của nó:

    Trên các đỉnh núi, đảo hồ hoặc trong các lùm cây,
    Dễ chịu cho tâm trí vào bốn mùa trong năm,
    Với sự tập trung nhất tâm, bình lặng, không dao động,
    Thiền về sự sáng tỏ không có tạo dựng của tâm trí.
    Việc này có thể đạt được tùy thuộc vào ba yếu tố:
    Địa điểm, con người và các thực hành mà họ thực hiện.


    Nếu những người mong cầu giải thoát an trú quân bình trong sự chú tâm sâu xa ở những địa điểm phù hợp với tính khí của họ và thích hợp với bốn mùa trong năm, thì chắc chắn họ sẽ đạt được mục đích của mình. Vì sự giải thoát được thành tựu viên mãn nhờ vào ba yếu tố: địa điểm, nơi thực hành được theo đuổi, bản thân những người thực hành, và giáo lý mà họ thực hành, ba luận điểm này cấu thành kim thân của luận thuyết này, và bây giờ tôi sẽ giải thích chúng theo trình tự và chi tiết.

  14. #14

    Mặc định

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ NHẤT

    Về Địa Điểm Thực Hành

    Có nhiều địa điểm khác nhau phù hợp với bốn mùa trong năm.

    1. Đầu tiên, chúng ta xem xét địa điểm
    Đây phải là nơi tĩnh mịch dễ chịu
    Thích hợp để thực hành bốn mùa trong năm.
    Vào mùa hè bạn nên thiền
    Ở những vùng mát mẻ và trong nơi cư trú mát mẻ,
    Ở những nơi có tuyết, trên đỉnh núi,
    Trong những am thất làm bằng tre, sậy hoặc cỏ.
    Vào mùa thu, bạn nên ở lại những vùng và sống trong những nơi mà
    Độ lạnh và độ nóng ngang nhau,
    Ở những nơi như rừng, sườn đồi, pháo đài,
    Với sinh hoạt, thức ăn và quần áo tương ứng.
    Vào mùa đông, bạn nên điều chỉnh giường, thực phẩm, trang phục của mình
    Và sống trong những ngôi nhà ấm áp, ở vùng trũng: rừng, hang động, nhà làm bằng đất.
    Mùa xuân quan trọng nhất là ẩn dật
    Đến núi, rừng, đảo và sống trong am thất
    Nơi nóng và lạnh cân bằng,
    Với thức ăn, quần áo và hành vi đều hài hòa.


    Tất cả những điều này được mô tả trong một văn bản do đạo sư vĩ đại Garab Dorje biên soạn, Thực Hành Sâu Xa của Yoga trong Bốn Mùa. Vào mùa hè, khi lửa chiếm ưu thế, các nguyên tố bên ngoài và bên trong nóng, người ta nên ở những nơi mát mẻ, áp dụng hành vi thích hợp về thực phẩm mát và quần áo nhẹ nhàng. Thu là mùa của gió. Đây là thời điểm các nguyên tố bên ngoài và bên trong chín muồi. Người ta nên ở những nơi thoáng đãng, rộng rãi và điều chỉnh sinh hoạt, thức ăn và quần áo của mình cho phù hợp. Mùa đông là thời điểm nước chiếm ưu thế. Các yếu tố bên ngoài và bên trong mát mẻ, nơi ở, quần áo, thức ăn, vân vân, nên ấm áp. Cuối cùng, mùa xuân là thời kỳ của đất. Các nguyên tố bên ngoài và bên trong đang trên ranh giới phát triển. Vì vậy điều quan trọng là phải ở đúng nơi, áp dụng cách ăn uống và mặc sao cho lạnh và nóng được cân bằng nhau. Vì chu kỳ phụ thuộc phát sinh có hai khía cạnh: bên ngoài và bên trong. Như đã nói trong mật điển Kalachakra , “Ngoài sao, trong vậy”.

    Đặc điểm của nhiều trú xứ khác nhau sẽ được thảo luận bây giờ cùng với các thực hành sao cho chúng được thuận lợi.

    2. Các chu kỳ bên ngoài và bên trong tùy thuộc trùng khớp nhau
    Vì vậy hãy ở những nơi tĩnh mịch dễ chịu, những nơi mang lại niềm vui
    Vì trên đỉnh núi, tâm trí sáng suốt và rộng mở,
    Những nơi này, mọi u tối tinh thần đều được làm sáng tỏ,
    Có lợi cho thực hành giai đoạn phát sinh.
    Ở vùng đất tuyết, tâm trí sáng láng
    Với sự tập trung minh mẫn.
    Những nơi này thuận lợi để thực hành nội quán sâu xa
    Vì ở đây có rất ít trở ngại.
    Trong rừng rậm, tâm trí trở nên thanh thản
    Và sự bình lặng của tinh thần được hiển lộ.
    Đây là nơi người ta tu luyện an trú tĩnh lặng
    Và nơi an lạc tinh thần phát triển mạnh mẽ.
    Dưới chân những vách đá cheo leo, cảm giác về tính phù du
    Và nỗi chán nản với luân hồi sẽ mạnh thêm.
    Sự kết hợp rõ ràng và mạnh mẽ
    Của an trú tĩnh lặng và nội quán thâm sâu được thành tựu.
    Trên bờ sông, ảo tưởng của tâm trí bị hạn chế.
    Đầu khổ trong luân hồi và mong muốn dứt khoát
    Muốn thoát khỏi nó sẽ phát triển nhanh chóng.
    Nghĩa địa là nơi đầy quyền năng
    Nơi thành tựu nhanh chóng
    Những nơi như vậy, được dạy, là thuận lợi nhất
    Cho bất kỳ thực hành phát sinh và thành tựu nào.


    Khi các thiền sinh, dù là người mới, hay hành giả có trình độ trung bình, hoặc những yogi hoàn hảo, sống ở những nơi như vậy, biết cách điều chỉnh bản thân trong kỳ ẩn tu như đã được giải thích, thì cái thấy và thiền định riêng biệt của mỗi người trong số họ sẽ phát triển và thành tựu. Vì những giá trị tuyệt vời của những địa điểm này sẽ trở thành bạn bè và người trợ giúp trong việc hoàn thành con đường của họ.

    Những địa điểm phù hợp với trình độ thiền định của hành giả được mô tả lúc này:

    3. Trong thị trấn và chợ, những ngôi nhà trống, những chiếc cây đơn độc
    Nơi con người tụ tập, hoặc yêu tinh và linh hồn đi qua,
    Người mới tu thường bị mất tập trung và cản trở trong quá trình thực hành.
    Với những người đã có độ ổn định,
    Những nơi như vậy rất thuận lợi và thường được ca ngợi.
    Những ngôi đền trơ trọi, những lăng mộ,
    Nơi các hồn ma gyalgong cư ngụ, là những nơi mà
    Tâm trí không tìm được sự an nghỉ
    Và nhiều ý nghĩ thù địch nảy sinh.
    Ở những nơi như hang động trong lòng đất
    Là nơi trú ngụ của các mụ phù thùy senmo,
    Ham muốn nảy sinh và u tối cùng cực, hoặc kích động tâm trí.
    Những cây đơn độc là nơi ẩn náu của mamo và dakini;
    Vách đá và mũi đất là hang ổ của những
    Con quỷ theurang và tsen hoang dã, hung tợn.
    Người ta nói tất cả những nơi đó đều gây ra kích động dữ dội
    Trong tâm trí và nhiều chướng ngại.
    Trong sự ám ảnh của những kẻ bị ruồng bỏ, rồng, bóng ma nyen ma, linh hồn của nơi này,
    Trên bờ hồ, đồng cỏ, rừng hoang,
    Trong các thung lũng rải rác các loại thảo mộc chữa lành,
    Được trang trí bằng hoa, quả và cây có quả mọng,
    Tất cả đều làm hài lòng tâm trí, lúc đầu người ta thấy vui thích,
    Nhưng sau đó nhiều trở ngại ập đến.


    Những nơi bị ám bởi các tà thần và hồn ma xấu ác thích hợp với thực hành của các yogi mạnh mẽ và vững vàng trong thiền định. Tuy nhiên, chúng không tốt cho việc hành thiền hoặc là môi trường sống thường xuyên của những người mới bắt đầu thực hành, những người này nên tránh xa chúng. Mặt khác, hàng xóm của các vị thần núi, rồng, các linh hồn tsen và menmo, và những thực thể phi nhân khác vui thích với đạo hạnh luôn là những nơi tốt để ở. Vì những thực thể như vậy bảo vệ họ, khuyến khích những hoàn cảnh thuận lợi và ngăn chặn sự phát sinh của nghịch cảnh.

    Nơi thực hành cần được kiểm tra cẩn thận.

    4. Tóm lại, trong những địa điểm và nơi trú ngụ
    Thoạt đầu có vẻ dễ chịu nhưng khi đã thân quen
    Sẽ mất đi sự quyến rũ, chỉ đạt được thành tựu nhỏ.
    Nhưng những nơi thoạt đầu có vẻ đáng sợ và cấm kỵ
    Lại trở nên tốt đẹp khi bạn dần quen
    Có sức mạnh to lớn, và đại thành tựu sẽ nhanh chóng đến,
    Trong khi không có trở ngại nào xảy ra.
    Mọi nơi khác đều trung lập, không có lợi cũng chẳng có hại.


    Đây là những điểm chính quan trọng. Nếu kiểm tra các địa điểm khác nhau trong hai tuần, chất lượng của chúng có thể được đánh giá chắc chắn. Do đó:

    5. Vì tùy thuộc vào nơi ở của bạn
    Nội tâm bạn bị biến đổi, việc thực hành phẩm hạnh
    Phát triển hay suy yếu, như vậy việc suy ngẫm về trú xứ của bạn
    Là một điểm rất quan trọng.
    Như đã nói trong Con Đường Tuần Tự của Mật Tông: “Nơi ở có hai đặc điểm: hoặc là nuôi dưỡng sự gia tăng đạo hạnh, hoặc là không”.


    Sau đó, nơi ở được mô tả ngắn gọn liên quan đến bốn hoạt động.

    6. Tóm lại, có bốn loại nơi ở
    Tùy theo bốn hoạt động
    Ở những nơi thích hợp để tĩnh tâm, tâm trí sẽ tự nhiên tập trung.
    Những nơi thích hợp để tăng cường là chỗ thú vị
    Tràn ngập vẻ lộng lẫy và tráng lệ
    Những nơi quyến rũ và kích thích gắn bó
    Thích hợp với hoạt động thu hút chú ý
    Những nơi phù hợp với hoạt động dữ dội
    Gây ra lo lắng và sợ hãi hoảng loạn
    Trên thực tế, có rất nhiều phân khu như vậy không đếm xuể.
    Nhưng ở đây, như một phương tiện hỗ trợ tập trung,
    Những nơi thích hợp để tĩnh tâm là tốt nhất.
    Những nơi khác không được xem xét ở đây
    Vì e là quá dài dòng.


    Mọi nơi ở môi trường bên ngoài đều thuận lợi cho một trong bốn hoạt động. Ở những nơi thích hợp cho hoạt động tĩnh tâm, tâm trí tự nhiên có xu hướng bình lặng, việc tập trung thiền định của vô niệm tự phát sinh. Ngược lại, những nơi thích hợp cho hoạt động tăng cường thì tráng lệ và làm cho tâm trí phấn khích với niềm hân hoan vui vẻ. Những nơi thích hợp cho hoạt động quyến rũ hoặc thu hút kích thích sự gắn kết, trong khi những nơi thích hợp với hoạt động hung nộ gây cho người ta cảm giác lo lắng sợ hãi. Cấu hình vật lý của những nơi này lần lượt là tròn, vuông, bán nguyệt và tam giác, màu sắc chủ đạo của chúng là trắng, vàng, đỏ, và xanh lá đậm. Ngoài ra, nếu mỗi loại địa điểm lại được chia thành bốn phần (an bình – an bình, an bình – tăng cường, an bình – thu hút, vân vân) chúng ta sẽ có mười sáu mục. Mỗi mục này lại có thể được phân loại thêm vô hạn. Tuy nhiên phức tạp như vậy là đủ rồi! Trong bối cảnh hiện giờ, hướng dẫn được đưa ra để sống trong một nơi an bình, thuận lợi cho sự phát triển của việc chú tâm thiền định.

    Bây giờ chúng ta sẽ mô tả một am thất thiền định trong môi trường an bình.

    7. Am thất thiền định ở một nơi thanh bình
    Nên được đặt ở nơi tĩnh mịch,
    Tại một địa điểm dễ chịu.
    Một nơi rất thoáng đãng, rộng rãi,
    Nơi ta có thể nhìn thấy bầu trời xung quanh là thuận lợi nhất.


    Một am thất tu thiền được đặt ở vị trí thông thoáng, có tầm nhìn rộng và xa sẽ thúc đẩy sự phát sinh tự nhiên của việc chú tâm thiền định. Những trở ngại sẽ hiếm khi xảy ra ở những nơi như vậy.

    Tiếp theo là mô tả những địa điểm phù hợp cho các hoạt động ban ngày và ban đêm.

    8. Ngôi nhà tối cho yoga ban đêm của bạn
    Có hai lớp tường.
    Ở giữa một căn phòng có vị trí cao hơn, bên trong,
    Tựa đầu của bạn nên hướng về phía bắc
    Giống khi đức Phật nhập niết bàn.
    Đối với yoga ban ngày trong ánh sáng,
    Ẩn thất nên có một không gian rộng lớn phía trước
    Với bầu trời rộng mở và tầm nhìn xa
    Những ngọn núi tuyết, dòng nước chảy,
    Rừng cây và thung lũng.
    Ở nơi đó, tâm trí sẽ sáng suốt và minh mẫn,
    Nóng lạnh sẽ cân bằng.


    Để chuẩn bị cho thời khóa thực hành ban đêm, người ta nên xây một ẩn thất tối tăm được trang bị hai bộ tường. Một số người nói rằng am thất nên tròn như vòng tròn của mặt trời, nhưng việc này rất bất tiện cho việc đi lại và ngồi. Do đó, xung quanh một điểm trung tâm, một am thất nên được xây dựng với một bức tường đôi và có các lỗ thông sáng ở phía đông, phía nam và phía tây. Các bức tường (đồng tâm) nên cách trung tâm một sai tay cho bức tường đầu tiên, sau đó cách một sải tay cộng với chiều dài một mũi tên cho bức tường thứ hai. Cửa của thiền phòng bên trong (được đặt trong bức tường bên trong) nên ở hướng tây. Còn cửa của bản thân bức tường bên trong nên hướng về phía nam, còn cửa bức tường bên ngoài nên hướng về phía đông. Một cửa sổ nên được làm ở mỗi bức tường theo bốn hướng để chiếu sáng phòng bên trong (khi người ta không ở trong thời khóa) và cung cấp ánh sáng cho việc thực hành đi nhiễu vòng quanh, vân vân. Tuy nhiên, khi người ta ở trong thiền phòng vào các khóa thực hành, các cửa sổ nên được chặn lại và người đó nên thiền hướng về lỗ thông ở bức tường phía bắc.16

    Địa điểm cho yoga ban ngày nên là trên mái của ẩn thất, bên dưới một nửa mái che hướng về phía nam. Nếu tu luyện ở một khu vực mở như vậy, nơi người ta có thể nhìn xa, việc tập trung thiền định của người đó sẽ rất rõ ràng.

    Địa điểm thực hành chung cho an trú tĩnh lặng bây giờ được mô tả.

    9. Đối với việc thực hành an trú tĩnh lặng
    Một nơi ẩn tu khép kín là phù hợp nhất
    Cho sự xuất hiện tự nhiên của trạng thái tâm bình lặng
    Khi thực hành nội quán sâu sắc
    Một nơi rộng rãi có tìm nhìn bao la rộng mở
    Là quan trọng nhất.
    Luôn luôn phải là nơi dễ chịu, phù hợp các mùa.


    Ở một trong bốn hướng của am thất phải có một khoảng đất trống, một đồng cỏ rộng rãi được rào lại bằng một hàng cây thấp mọc cao đến thắt lưng. Ở những nơi như thế này, trạng thái an trú tĩnh lặng sẽ phát sinh tự nhiên. Sau đó, nếu người ta ngồi trên một chiếc ghế nhỏ ở vị trí cao, để có tầm nhìn rộng, nội quán sâu sắc sẽ phát sinh tự nhiên.

    Vậy thì những vùng nào có thể khiến phát sinh an trú tĩnh lặng và nội quán thâm sâu?

    10. Những nơi thấp, tối tăm như rừng và khe núi là những nơi thích hợp để an trú tĩnh lặng.
    Những vùng đất cao, như núi tuyết
    Là nơi dành cho quán chiếu sâu xa.
    Vì vậy, điều quan trọng là phải biết những khác biệt này.


    Ở những nơi như rừng và khe suối giữa các vách núi, tâm trí thu rút vào bên trong, nhờ đó những địa điểm này thích hợp cho việc thực hành an trú tĩnh lặng. Ngược lại, ở những nơi cao, tâm trí trở nên sáng suốt và rộng mở. Điều quan trọng cần hiểu là những nơi đó có lợi cho việc thực hành tuệ quán sâu xa.
    Last edited by Ẩn Tiên; 03-06-2025 at 08:56 AM.

  15. #15

    Mặc định

    Lời khuyên kết thúc sau đây là về những nơi cần tìm kiếm hoặc tránh xa.

    11. Tóm lại, những địa điểm và am thất
    Nơi bạn cảm thấy chán nản với luân hồi
    Và mong muốn giải thoát bản thân,
    Những địa điểm nơi tâm trí bạn được kiềm chế,
    Nghỉ ngơi trong hiện tại và sự tập trung của bạn sẽ phát triển.
    Đây là những nơi kết nối bạn với đức hạnh
    Bạn nên sống trong những môi trường như vậy
    Giống như nơi đức Phật giác ngộ.
    Những nơi phẩm hạnh của bạn giảm sút và ô uế gia tăng,
    Nơi bạn sa ngã dưới ảnh hưởng
    Từ sự bận rộn xao lãng của cuộc sống,
    Người khôn ngoan có tránh xa những hang ổ ma quỷ gây ra tội ác không?
    Đức Padma, tự tại, đã giải thích như vậy,
    Và những ai mong ước tự do nên lưu ý.


    Những địa điểm và nơi ở thuận lợi cho sự phát triển đạo hạnh, nơi niềm tin và quyết tâm mạnh mẽ thoát khỏi luân hồi phát triển, giống như chính nơi đức Phật đã đạt được giác ngộ. Đây là loại địa điểm mà người ta nên sống. Ngược lại, những môi trường mà xung đột và ô nhiễm lan rộng, nơi mà sự xao lãng và các hoạt động bận rộn của đời sống hiện tại này gia tăng, nên được nhận ra và từ bỏ vì chúng là: những vùng đất ma quỷ thích hợp cho những hành động xấu xa. Trong chỉ dẫn cốt lõi tên là Vòng Hoa của Pháp Đài Quan Kiến, 17 bậc thầy vĩ đại Liên Hoa Sinh đã nói về tầm quan trọng của nơi mà Pháp được thực hành. Không có hoàn cảnh nào tố hơn những nơi mà đạo hạnh và sự tập trung được gia tăng. Do đó, ngài khuyên chúng ta nên sống ở những nơi như vậy và nói rằng chúng ta nên thực hiện các bước để tránh xa những khu vực được đánh dấu bằng sự gia tăng xung đột và tiêu cực vì chúng là những chướng ngại trên con đường giải thoát.

    .Ở những nơi thanh bình, tôi xin được duy trì
    Bằng tịnh thủy và vinh quang của khổ hạnh.
    Từ bỏ sự xao lãng và những thú vui bận rộn của cuộc sống,
    Nguyện cho tôi có thể tập trung sâu sắc và thiền về thực tại tối hậu.
    Nguyện cho tôi tránh xa nơi nảy sinh vô vàn nỗi khổ,
    Hàng rào của thành phố luân hồi,
    Và đạt được an lạc của giải thoát,
    Chốn giác ngộ cao cả,
    Vườn thiên giới hỷ lạc Niết Bàn.
    Một người như tôi, ngày nay không thể làm được điều gì có ích cho chúng sinh.
    Vì vậy, trong thời đại tội lỗi này, tôi sẽ từ bỏ
    Xã hội và những điều thế tục.
    Từ bỏ những hoạt động và các trò tiêu khiển của cuộc sống này.
    Nguyện cho tôi mở rộng bốn cánh cửa của vùng đất ẩn giấu quý giá

    Đây là điểm kim cương đầu tiên của Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt, một bản bình luận về Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định, một giáo lý của Đại Toàn Thiện.

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ HAI

    Về Những Người Thực Hành Thiền Định

    Bây giờ tôi sẽ giải thích những đặc điểm của các thiền giả, người thực hành trong khóa ẩn tu.

    1. Hiện nay những người tham gia thực hành
    Phải có nỗ lực và niềm tin
    Cảm thấy một nỗi phiền muộn lành mạnh, mong muốn tự do
    Mệt mỏi với luân hồi, họ nên phấn đấu để giải thoát.
    Từ bỏ những mối bận tâm của cuộc sống này,
    Họ khao khát được giác ngộ trong tương lai.
    Họ nên tránh xa những hoạt động giải trí và xao lãng
    Và có ít ô trược.
    Họ cần một tâm hồn rộng mở
    Và thái độ khoan dung,
    Có nhận thức thanh tịnh và lòng sùng mộ lớn lao.
    Họ phải tân tụy phục vụ cho Giáo lý.
    Những người như vậy sẽ đạt được giải thoát vô thượng.


    Niềm tin, nỗ lực và quyết tâm muốn giải thoát bản thân khỏi luân hồi giống như mảnh đất không thể thiếu mà trong đó giáo Pháp lớn lên. Sự chán nản với luân hồi là lối vào Pháp, điều kiện tiên quyết cần thiết để theo đuổi con đường giải thoát. Phấn đấu cho hạnh phúc của niết bàn cũng giống như hạt giống của giác ngộ. Quay lưng lại và từ bỏ những mối quan tâm của cuộc đời này là phương tiện để đạt được giải thoát khỏi luân hồi. Mong muốn giác ngộ tối hậu là một trong ba điều kiện cần thiết để hạt giống phát triển, như nước và phân bón. Rút lui khỏi các hoạt động bận rộn và ô trược chính là thực hành một chỉ dẫn mà theo đó mọi hoàn cảnh bất lợi đều được loại bỏ tự nhiên. Có một thái độ nhận thức trong sáng và lòng sùng mộ là nguyên nhân và điều kiện tự nhiên để tăng trưởng vụ thu hoạch đạo hạnh của một người. Một tính khí ổn định, tôn trọng và phục vụ các giáo lý sẽ nhanh chóng đưa những thành quả của con đường giải thoát đến độ chín muồi. Những người có các đặc điểm như vậy nên được coi là những chiếc bình chứa tốt nhất.

    Hơn nữa, Vua Sáng Tạo Toàn Thể có nói điều này:

    Những người với tín, nguyện và đại tinh tấn,
    Người có lòng từ, hoan hỷ, và nỗi khổ với luân hồi
    Và sở hữu tính khí ổn định;
    Những người không dính chấp vào thân thể của họ,
    Đối với con cái, vợ chồng, người hầu và người phục vụ của họ
    Và dâng hiến họ với niềm tin và hân hoan
    Những người như vậy có ấn tín của niềm tin và thệ nguyện.
    Đối với họ những giáo lý tinh yếu cần được truyền dạy.
    Cũng tại đây, văn bản đề cập đến những chiếc bình chứa cần bị loại bỏ.
    Sai người, những ai không phải là bình thích hợp,
    Giờ đã được thấy.
    Họ bám víu vào danh vọng và những điều thế tục.
    Họ phồng lên vì kiêu ngạo
    Và không tôn kính các bậc thánh.
    Tâm trí họ thất thường và không kiên định.
    Tất cả chỉ là phô trương. Họ không quan tâm đến thực chất của việc thực hành.
    Từ sự suy đoán về thiền định, họ mong đợi kết quả ngay lập tức.
    Nhiều giáo lý mà họ biết lại bị coi là sai trái.
    Họ tự khen mình một cách giả dối và họ phỉ báng người khác,
    Và nuôi dưỡng ác tâm.
    Không nên truyền giáo lý cho tất cả những người như vậy;
    Giữ các giáo lý được che giấu hoàn hảo.


    Những người là bình chứa hoàn hảo nên thực hành theo cách sau.

    2. Họ nên khiến người thầy phi phàm của mình thật hài lòng
    Qua nghiên cứu, suy ngẫm và qua thiền định
    Họ nên rèn luyện tâm trí của mình
    Trong những chỉ dẫn cốt lõi của dòng truyền miệng
    Họ nên nỗ lực đặc biệt,
    Và trong quá trình thực hành lâu dài, họ nên dành cả ngày lẫn đêm,
    Không được sa vào sự tầm thường dù chỉ trong chốc lát
    Họ phải kiên trì phấn đấu
    Vì thứ tinh túy và sâu sắc nhất.


    Vì vị thầy cao cả mở ra cánh cửa giải thoát, những người mong muốn đạt được thành tựu nên phục vụ ngài một cách vui vẻ. Để hài hòa với việc học, suy ngẫm và thiền định của mình, họ nên siêng năng và không xao lãng trong thực hành tinh yếu. Mật điển Sự Cạn Kiệt Vinh Quang của Bốn Nguyên Tố cho biết:

    Những người trung thành muốn đạt được thành tựu!
    Thành tựu xuất phát từ việc hân hoan phục vụ đạo sư.
    Và với tất cả những gì bạn có,
    Hãy nỗ lực hết mình để cúng dường cho thầy mình.


    Nền tảng của con đường giải thoát được đặt ra theo cách sau đây.

    3. Không vi phạm ba giới nguyện
    Thuộc về thừa Thanh Văn, Bồ Tát và Trì Minh,
    Các hành giả nên chế phục tâm mình
    Và tìm kiếm lợi ích của người khác càng nhiều càng tốt.
    Biến tất cả những gì biểu hiện thành con đường giải thoát.

    Trong bất cứ thực hành nào mà người ta gắn kết, điều cần thiết là rèn luyện trong các kỷ luật liên quan đến ba lời nguyện. Nếu muốn giác ngộ như các thanh văn, cần giữ những lời nguyện giải thoát cá nhân, hay pratimoksa. Nếu muốn giác ngộ vô song sau ba vô lượng kiếp 18 hoặc hơn, người ta phải tu tập trong các giới nguyện của bồ tát. Nếu muốn giác ngộ nhanh chóng, trong khoảng một hoặc nhiều đời, người ta phải tuân theo những giới nguyện của Mật tông. Vì các bộ giới nguyện (thấp hơn) được dần dần tăng cường về phẩm hạnh (bởi những bộ sau) trong khi vẫn đứng riêng biệt về mặt danh nghĩa, ba bộ giới luật riêng biệt này được cho là nền tảng (của tất cả các phẩm chất).

    Như ngài Long Thọ đã nói:

    Đức Phật nói rằng, như mặt đất
    Là nền tảng và cơ sở cho mọi thứ và tất cả những gì đang sống,
    Giới luật cũng vậy
    Là nền tảng và cơ sở của mọi phẩm chất.


    Nói chung, đối với mọi thực hành hướng tới giác ngộ giải thoát, người ta phải nhận các thệ nguyện. Đối với các hành động tích cực, được thực hiện bên ngoài khuôn khổ của các giới nguyện, cấu thành một loại đức hạnh trung tính, không thể đưa người ta vượt qua luân hồi. Tuy nhiên, nếu một người thực hành hoàn hảo và không phạm sai lầm trên còn đường của những giới nguyện giải thoát cá nhân, người đó sẽ đạt được giác ngộ của các thanh văn và sẽ không còn lang thang trong luân hồi. Sau đó, với sự giúp đỡ của những giới nguyện bồ tát, người đó sẽ đạt được giác ngộ sau ba vô lượng kiếp. Cuối cùng, thông qua những lời nguyện Mật tông, người đó có thể đạt được giác ngộ trong khoảng một kiếp. Đối với những người có ba loại giới nguyện, có khả năng sa ngã hoặc vi phạm giới luật. Đối với những người không có giới nguyện, không có sự sa ngã, nhưng cũng không có bất kỳ công đức nào. Vì nếu không có cánh đồng thì chẳng có vụ thu hoạch mùa thu cũng như không có khả năng nó bị phá hủy bởi sương giá và mưa đá.

    Ba giới nguyện nên được hiểu theo cách sau đây. Lời nguyện giải thoát cá nhân bao gồm những sự kiềm chế đặt lên tâm trí để nó không bị phiền não bởi ô trược và bất thiện. Giới nguyện bồ tát gồm việc đảm bảo lợi ích cho người khác thông qua hành động tích cực liên tục. Giới nguyện vidyadhara của Mật tông gồm việc tự nhiên hoàn thành mục tiêu kép bằng cách quán tưởng chúng sinh, bản thân và người khác như các vị thần bản tôn và nơi ở của họ như những cung điện vô lượng, và bằng cách tận dụng các khoái lạc giác quan như con đường. Về hành vi liên quan đến ba giới nguyện, điều này bao gồm, trong trường hợp giới nguyện giải thoát cá nhân, trong việc quay lưng lại với việc làm gây ra tổn hại và những phiền não là nguyên nhân cho điều này. Trong trường hợp giới nguyện bồ tát, nó bao gồm việc đảm bảo lợi ích của người khác. Cuối cùng, với giới nguyện mật tông, nó bao gồm việc không rời khỏi mandala duy nhất của tính thanh tịnh và bình đẳng.19

    Về cách thức một cá nhân thực hiện ba giới nguyện, một số người cho rằng cho đến khi bước vào con đường (Đại Thừa), người đó phải giữ giới nguyện giái thoát cá nhân. Sau đó, cho đến khi đạt đến mức độ “nhiệt tâm” trên con đường hội nhập, 20 giới nguyện bồ tát được tuân thủ. Chỉ từ thời điểm này trở đi, các giới nguyện của mật tông mới được tuân thủ. Khẳng định này là không thể chấp nhận được, vì những người thực hành Kim cương thừa thiền định trên con đường, tuân thủ cả ba loại giới nguyện ngay từ đầu.

    Quan điểm sai lầm này bị bác bỏ bởi trích dẫn sau:

    Những hành giả giỏi nhất
    Phải có đầy đủ các giới nguyện và thực hiện chúng hoàn hảo.


    Ý kiến khác cho rằng các giới nguyện được tuân thủ dưới dạng chuyển hóa. Ví dụ, khi quặng đồng được nấu chảy, đồng được sản xuất. Nếu thiếc được thêm vào đồng, đồng thau được sản xuất. Nếu chì được thêm vào sau đó, hợp kim sẽ chuyển thành đồng thau. Tương tự, khi nhận được giới nguyện cao hơn, các giới thấp hơn được chuyển hóa, với kết quả là chỉ cần tuân thủ các giới nguyện mật tông là được. Điều này cũng không đúng và trở nên vô giá trị bởi mật điển Phật Thiêng Nguyên Thủy, trong đó giải thích rằng “Việc bỏ qua (một giới nguyện) là một hành vi sai trái trong chính bản chất của nó”. Điều này có nghĩa là việc bỏ qua các giới nguyện thấp hơn là một sự suy đồi. Mọi giới nguyện đều phải được tuân thủ.

    Một số người khác lại cho rằng (khi một loại giới nguyện được tuân thủ) thì những giới nguyện khác như thể đang ngủ yên hoặc bị che khuất. Tuy nhiên điều này không liên quan, vì dù giới nguyện cao hơn hay thấp hơn bị lu mờ, thì tất cả các giới nguyện đều giữ nguyên tính chất riêng của chúng.

    Quan điểm cho rằng ba giới nguyện có cùng bản chất và phương diện cũng không hợp lý. Chúng không giống nhau về bản chất, phương diện hoặc thời gian, vì ba yếu tố sau. Thứ nhất, chúng không bắt nguồn từ cùng một nguyên nhân, thứ hai chúng trái ngược nhau, và cuối cùng chúng không cùng thời điểm.

    Niềm tin cho rằng giới nguyện thấp hơn sẽ bị từ bỏ khi nhận được giới nguyện cao hơn cũng là điều không thể chấp nhận, vì không tìm thấy lời giải thích nào như vậy ở bất cứ nơi đâu.

    Vậy sự thật của vấn đề là gì? Có sáu nguyên tắc theo đó ba giới nguyện được tuân thủ cùng nhau bởi một cá nhân duy nhất. Thứ nhất, các khía cạnh của ba giới nguyện vẫn riêng biệt. Thứ hai, các giới nguyện có cùng mục đích như các biện pháp phòng ngừa hoặc biện pháp khắc phục. Thứ ba, bản chất của các giới nguyện được chuyển hóa. Thứ tư, ba giới nguyện được tăng cường dần dần về mặt chất lượng. Thứ năm, không có mâu thuẫn căn bản nào giữa chúng. Thứ sáu, việc tuân thủ chúng chủ yếu phải phù hợp với thời điểm.21

    Theo nguyên tắc đầu tiên, khi nói rằng các khía cạnh của giới nguyện vẫn riêng biệt, ý nghĩa là chúng vẫn giữ nguyên đặc trưng riêng biệt của chúng.22
    Nguyên tắc thứ hai cho rằng cả ba giới nguyện đều giống nhau trong việc phục vụ cùng một mục đích và đóng vai trò như biện pháp phòng ngừa (các hành vi bất thiện).23 Như câu nói: “Hãy để mọi người đứng lên và xây dựng pháo đài”.24 Cả ba giới nguyện đều giống nhau ở chỗ chúng đều ngăn chặn tính tiêu cực khỏi dòng tâm thức. Như được nói trong các văn bản Luật Tạng:

    Bạn nên hiểu rằng bất cứ giáo lý nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, trở thành nguyên nhân của sự bám chấp và không phải là nguyên nhân của sự từ bỏ bám chấp, thì không phải là phạm hạnh. Đó chẳng phải là Luật Tạng; đó không phải là giáo lý của Thầy chúng ta. Bạn nên hiểu rằng bất kỳ giáo lý nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, trở thành nguyên nhân của sự từ bỏ bám chấp và không phải là nguyên nhân của bám chấp thì đều là phạm hạnh. Đó là Luật Tạng; đó là giáo lý của Thầy chúng ta.



    Văn bản tiếp tục bàn dài về sân hận và các phiền não khác.

    Về phương diện này, một tu sĩ sống thanh tịnh và độc thân và một yogi bước vào con đường của quán đỉnh thứ ba về căn bản là giống nhau theo nghĩa là, trong khi tu sĩ, mặc dù có khả năng làm như vậy, không tham gia vào sinh hoạt tình dục và không bị vấy bẩn bởi dục vọng, thì yogi, người tham gia vào hoạt động tình dục, cũng không bị vấy bẩn bởi dục vọng, vì vậy, liên quan đến sự ô uế của dục vọng, giới nguyện của cả hai đều hoàn toàn giống nhau trên điều khoản thiết yếu về mục đích và phẩm chất khắc phục. Nếu, trong mọi tình huống, yếu tố chính chỉ đơn giản là không đắm chìm trong hoạt động tình dục, thì có thể nói đúng rằng hoạn quan và trẻ nhỏ có khả năng tuân thủ giới luật (hành vi trong sạch).

    Hơn nữa, nếu giới nguyện giải thoát cá nhân và giới nguyện liên quan đến quán đỉnh thứ ba mâu thuẫn trực tiếp, thì sự hỗ trợ thích hợp duy nhất cho Mật tông sẽ là các cư sĩ. Tuy nhiên, mật điểm gốc của Kalachakra nói rằng: “Trong ba loại hành gia, tu sĩ là tốt nhất”.Và Samvarodaya nói: “Hỡi người cao quý, trong quá khứ, bạn đã chân thành thọ giới xuất gia theo Luật Tạng (lễ truyền giới được cho là nền tảng tuyệt vời cho mọi phẩm chất tốt đẹp) chưa? Bạn đã sống theo giới nguyện giải thoát cá nhân chưa? Bạn đã quy y tam bảo chưa? Hoặc bạn có mong muốn làm vậy không?”.

    Mật điển Hevajra hai phần nói:

    Giới nguyện của toàn thể chư Phật
    Hoàn toàn an trụ trong Evam.
    Evam là hỷ lạc tuyệt hảo,
    Nhờ quán đỉnh mà điều này được biết chính xác.


    Và:

    Những ai bị thiêu đốt trong ngọn lửa dục vọng
    Sẽ được giải thoát bởi chính dục vọng.
    Mật điển Manjshri nói:
    Sự dính mắc thế gian được loại bỏ
    Nhờ sự dính mắc hoan hỷ vào tính không.


    Tóm lại, việc loại trừ phiền não ô trược thông qua giới nguyện giải thoát cá nhân, việc thanh lọc ô nhiễm thông qua giới nguyện bồ tát, và việc chấp nhận ô trọc như đạo lộ thông qua mật tông đều giống nhau ở chỗ chúng loại trừ phiền não thực sự. Tương tự, điều này giống như việc thanh lọc chất độc, sử dụng nó như một loại thuốc, hoặc tiêu thụ nó sau khi đã áp dụng một câu mật chú.

    Cả ba trường hợp đều giống nhau ở chỗ tất cả đều loại bỏ tác dụng có hại của chất độc và đạt được cùng một mục tiêu là thoát khỏi cái chết, nếu những sự sa ngã được đánh giá như vậy đối với ba giới nguyện, theo giới nguyện giải thoát cá nhân, người ta phải giữ mình khỏi những sa ngã liên quan đến tính bất thiện và hành vi sai trái. Theo giới nguyện cao hơn, người ta cũng phải bảo vệ mình khỏi những sa ngã không phải do bám chấp ích kỷ thúc đẩy. Cuối cùng, người ta phải hết sức cảnh giác với tất cả những gì bị cấm đoán bởi tập tục thế gian và bởi chính giới nguyện khiến người khác mất tín tâm.

    Hạnh kiểm của một tu sĩ Kim cương thừa phải không có những hành vi sai trái và phải phù hợp với một tình huống nhất định. Cho đến khi đạt được kinh nghiệm chân chính (về trí tuệ nguyên sơ của lạc và không), về căn bản, anh ta phải phải tuân thủ các giới nguyện chung. Tuy nhiên, khi anh ta đạt được kinh nghiệm này, sẽ có sự khác biệt trong cách cư xử bên ngoài và bên trong của anh. Vào thời điểm của các hoạt động bí mật, và trong bốn dịp khi anh ta và những người khác nhận được gia trì, tức là trong các lễ quán đỉnh, lễ cúng dường, và trong hai giai đoạn phát sinh và thành tựu (trong một nghi quỹ), chủ yếu là anh ta phải giữ gìn các giới nguyện mật tông trong đó hai giới nguyện thấp hơn được tăng cường (về mục đích và phẩm chất khắc phục của chúng). Ví dụ liên quan đến quán đỉnh thứ ba, nếu tu sĩ Kim cương thừa không thoát khỏi ham muốn và dục vọng, anh ta đã đi chệch khỏi con đường của mật tông. Nhưng nếu giọt tinh hoa của anh ta được ổn định và không bị mất, và nếu anh ta không lĩnh hội ba cửa theo cách thông tục, thì không có cơ sở nào cho sự sa ngã của hành vi bất tịnh, bởi vì ham muốn thông thường, là thứ cần phải dừng lại, đã được khắc phục. Nếu không có sự khác biệt giữa vàng và đá, thì sự sa ngã của việc chạm vào vàng không thể xảy ra. Tình hình hiện tại cũng tương tự.

    Người ta có thể phản đối rằng sự suy đồi của hành vi không trong sạch vẫn liên quan đến một hành động vật chất,25 vì nó xảy ra thông qua giao cấu tình dục. Tuy nhiên, đây chỉ là suy đồi đối với những người thực hành không có trí tuệ và thiếu kỹ năng về phương pháp. Trên thực tế, một hành động vật chất và ý định thúc đẩy nó không tách rời nhau. Vì chúng không tách biệt, khi giao hợp tình dục được kết hợp với các phương pháp và trí tuệ phi thường, thì không có lỗi lầm nào xảy ra. Tương tự, người ta có thể uống thuốc độc mà không có thần chú nào được áp dụng và chết vì nó, hoặc người ta có thể dùng thuốc độc mà không có thần chú nào được áp dụng và nhờ đó vẫn không bị tổn hại. Như đã nói trong Guhyagarbha:

    Nếu người ta gắn kết vào hoạt động “hợp nhất” và “giải thoát”,
    Biết rằng chúng chỉ là huyễn ảo, trò lừa bịp của thị giác,
    Người đó sẽ không phải chịu bất cứ vết nhơ nào.


    Vì vậy, điều thực sự là suy đồi đối với một tu sĩ thanh văn không phải như vậy (vì nó bị lu mờ) trong trường hợp của một người mà ba giới nguyện được nâng cao dần dần về mặt phẩm chất. Mục đích của giới nguyện được thực hiện theo cách hiệu quả hơn. Hơn nữa, những nguyên nhân được cho là dẫn đến sự suy đồi trong trường hợp của một tu sĩ thanh văn, là không trọn vẹn trong trường hợp của một tu sĩ thực hành mật thừa do sử dụng các phương tiện thiện xảo phi thường. Vì vị sau không coi mình với phối ngẫu là một người đàn ông và đàn bà bình thường. Anh ta quán tưởng mình và phối ngẫu là các vị thần và tịnh hóa các cơ quan sinh dục bằng cách nhận ra chúng là kim cương và hoa sen.

    Người ta có thể nghĩ rằng điều này bất đồng với Đèn Soi Nẻo Giác (Atisha), trong đó nói rằng: “Các quán đỉnh bí mật và trí tuệ không nên được thụ nhận bởi những người giữ hạnh thanh tịnh hoặc độc thân.” Nhưng giáo lý của văn bản này được đưa ra với mục đích hướng tới những người có năng lực kém hơn. Trong mật điển Phật Thiêng Nguyên Thủy có nói rằng những giáo lý như vậy được đưa ra vào lúc đầu để đáp ứng như cầu của những người có năng lực tinh thần kém hơn (như hiền triết Suryaratha) đã vứt bỏ ý nghĩa sâu xa. Nó được dạy để những người như thế này có thể (dần dần) bước vào con đường mật tông. Mặt khác, bản chất vấn đề là một tu sĩ hành trì mật thừa chưa thọ nhận được cả bốn quán đỉnh thì không thể đạt được quả vị Phật. Do đó, vị ấy phải thọ nhận toàn bộ chúng và dựa vào cả con đường giải thoát và con đường của phương tiện thiện xảo.26 Luận điểm chính đằng sau lời dạy rằng những người tuân theo giới luật thanh tịnh nên tránh nhận các quán đỉnh bí mật và trí tuệ là những người có căn cơ kém hơn, những người (nhầm lẫn) nghĩ rằng việc thực hành liên quan đến các quán đỉnh này sẽ dẫn họ đến thanh tịnh và giải thoát, trên thực tế không nên nhận chúng. Họ bị cấm thọ nhận các quán đỉnh đó ngay từ đầu. Tuy nhiên, việc này không có nghĩa là các quán đỉnh đó bị cấm dứt khoát đối với tất cả mọi người. Khi Atisha đến thăm Tây Tạng trước đây, các thành viên tăng đoàn đã trở nên khá lỏng lẻo trong giới luật của họ.27 Mục đích của ông trong việc đưa ra lời khuyên như vậy là để khắc phục tình trạng này. Tuy nhiên, cần hiểu rằng lời khuyên như vậy bị phủ nhận bởi tuyên bố trước đó (trong Kalachakra) rằng tu sĩ là nguồn hỗ trợ tối cao cho việc thực hành mật tông.

    Vấn đề này được minh họa thêm bằng nguyên lý (thứ năm trong danh mục đã đưa ra) rằng ba giới nguyện về căn bản không mâu thuẫn với nhau. Khi một người đang thực hành trên con đường của quán đỉnh thứ ba, nếu, thông qua kinh nghiệm hòa tan hỷ lạc, lạc của thân và tâm được phát triển đầy đủ; nếu ham muốn được thanh lọc, nếu tinh chất ổn định và không bị mất, và nếu hành giả không kinh nghiệm dục vọng khi nhìn thấy một người phụ nữ, mặc dù anh ta có thể đang thực hành con đường của quán đỉnh thứ ba, thì các giới nguyện giải thoát cá nhân được giữ gìn và tuân thủ theo cách cao hơn. Như đã nói trong Guhyagarbha:

    Trong giới nguyện samaya tối thượng và vô song,
    Giới luật của Luật Tạng
    Và toàn thể các giới luật không có ngoại lệ
    Tìm được hiện thân thanh tịnh của chúng.
    Hơn nữa, sau khi Saraha lấy con gái của người thợ làm cung tên, ông nói:
    Cho đến ngày hôm qua tôi là một Bà la môn
    Cho đến ngày hôm qua tôi vẫn chưa phải là một tu sĩ
    Nhưng từ bây giờ, tôi thực sự là một tu sĩ
    Một nhà sư tối cao và một heruka vinh quang.
    Sau đó Saraha trở thành trụ trì của chính Long Thọ.


    Hơn nữa, trong Mật thừa, tất những khoái lạc giác quan, chẳng hạn như uống rượu, ăn sau buổi trưa, ca hát và nhảy múa, tất cả đều được thưởng thức vào những dịp khi chúng là cách tốt nhất để hoàn thành hai tích tập và loại bỏ hai bức màn che chướng. Chính vì mục đích tương tự mà các khoái lạc giác quan bị loại bỏ trong việc thực hành các giới nguyện khác. Như đã nói trong Mười bài kệ về lời nguyện Bồ đề tâm:

    Khi bạn sở hữu các phương tiện đại thiện xảo,
    Ô trược sẽ dẫn đến giác ngộ.


    Cả ba giới nguyện đều ngăn chặn và ngăn ngừa sự phát triển của các khuyết điểm và lỗi lầm, nhưng chúng không ngăn cản sự phát triển của các phẩm chất tốt. Hơn nữa, khi tất cả các hình tướng hiện tượng biểu hiện thành đại lạc, mọi lời nguyện bồ đề tâm (như những lời nguyện bồ đề tâm tương đối trong ý định và hành động) đều được thành tựu trọn vẹn. Trong mật điển Hevajra có nói:

    Phát khởi bồ đề tâm có hình tướng
    Cả tương đối và tuyệt đối.
    Mối tương thuộc như hoa kunda
    Cái tối hậu vẫn giữ nguyên hình thái hỷ lạc.


    Theo nguyên tắc thứ ba trong danh mục, các giới nguyện được chuyển hóa. Như đã nói trong mật điển Vương Miện Bí Mật:

    Như vậy, chúng ta có thể quan sát rằng đồng
    Có nguồn gốc từ đá; từ đồng, vàng.
    Khi đồng đã được nấu chảy, đá sẽ biến mất.
    Đồng không còn nữa khi được chuyển hóa thành vàng.
    Đức Phật không dạy
    Giới biệt giải thoát và bồ đề tâm
    Ở lại trong tâm trí
    Của “các tu sĩ bên trong”, những vị nắm giữ minh giác.


    Khi đạt được cấp độ mật tông vidyadhara, các giới nguyện biệt giải thoát và giới bồ đề tâm không còn tồn tại trong tâm như những thực thể khác biệt và tách biệt, vì chúng được chuyển hóa thành bản chất của giới nguyện Mật thừa. Tuy nhiên, các khía cạnh cụ thể của ba giới nguyện vẫn riêng biệt; chúng không hòa nhập thành một. Vì khi thọ giới nguyện biệt giải thoát, người ta thề trong suốt cuộc đời mình sẽ ngăn chặn sự suy thoái của các giới nguyện đã thọ nhận. Tuy nhiên cũng không nói rằng việc thọ giới mật tông sẽ khiến cho các giới biệt giải thoát bị từ bỏ. Đối với các giới bồ đề tâm, người ta thề sẽ giữ chúng cho đến khi thành tựu tinh hoa giác ngộ. Và việc thọ giới mật tông không được nói là điều kiện cho sự suy thoái của các giới bồ đề tâm, là nguyên nhân cho sự từ bỏ chúng.

    Vì chúng có cùng bản chất với giới nguyện mật tông, điều này có nghĩa là giới biệt giải thoát và bồ đề tâm được chuyển hóa. Tuy vậy, các khía cạnh cụ thể của chúng không hợp nhất và không bị trộn lẫn với nhau. chúng vẫn riêng biệt và tồn tại cho đến khi một hoàn cảnh xảy ra khiến chúng bị phá hủy theo quan điểm của các cam kết tương ứng đã thọ nhận. Theo đó, có giải thích rằng có hai nguyên nhân thực tế (cái chết và sự trở lại của các giới luật) và bảy yếu tố khác dẫn đến việc từ bỏ các giới biệt giải thoát. Tương tự, có bốn yếu tố đen tối (chẳng hạn như để lừa dối những người xứng đáng được tôn trọng)28 dẫn đến việc từ bỏ các giới bồ đề tâm. Điểm này được giải thích trong Cỗ Xe Vĩ Đại.29

    Nguyên tắc thứ tư là ba giới nguyện được tăng cường phẩm chất dần dần. Các giới biệt giải thoát và bồ đề tâm được bao gồm trong các giới mật tông theo cùng cách mà nhị lượng của một vật nào đó được bao gồm trong tam lượng (với cùng chất thể). Mật điển Mayajala nói:

    Trong giới nguyện vô song và tối thượng,
    Các giới luật của Luật Tạng và Bồ đề tâm,
    Toàn bộ không có ngoại lệ,
    Tìm được hiện thể thanh tịnh của chúng.
    Và mật điển Vương Miện Hoa Sen nói:
    Ẩn sĩ theo đuổi con đường
    Của quán đỉnh thứ ba
    Được cho là một tu sĩ vĩ đại.
    Anh ta đang giữ cả ba giới nguyện.


    Cuối cùng, nguyên tắc thứ sáu là việc tuân giữ các giới nguyện chủ yếu là phải phù hợp với thời điểm. Khi gắn kết với các thực hành bí mật, người ta phải giữ mình khỏi những suy đồi được xem xét khác nhau ở các cấp độ khác nhau của ba giới nguyện. Người đó không được trộn lẫn chúng hoặc phỉ báng việc thuận thủ các giới nguyện thấp hơn. Nếu việc tuân thủ ba giới nguyện bị xung đột, người có liên quan chủ yếu phải hành động theo quan điểm Mật tông, do đó nâng cao (các giới nguyện thấp hơn) về mục đích và chức năng khắc phục của chúng. Tuy nhiên, khi ở trong hoàn cảnh công cộng, người ta nên cảnh giác với mọi suy đồi được xem xét khác nhau ở ba cấp độ của giới nguyện, riêng biệt và không nhầm lẫn chúng. Còn nếu việc tuân thủ bị xung đột, người ta nên chủ yêu hành động theo hai giới nguyện thấp hơn. Vì quan kiến của Mật tông rất bí mật, hành động với sự thận trọng như vậy sẽ nâng cao mục đích không khiến những người khác mất niềm tin.

    Sáu nguyên lý này tạo thành đại cương cho ba giới nguyện và nên được xem là kho báu vô cùng quý giá đối với những người thực hành Mật tông, là những người nắm giữ ba giới nguyện.
    Last edited by Ẩn Tiên; 04-06-2025 at 03:00 PM.

  16. #16

    Mặc định

    Những người giữ gìn tốt ba giới nguyện được khuyên bảo theo cách sau đây.

    4. Người mới thực hành
    Phải thành tựu lợi ích chính họ trước
    Họ nên canh giữ tâm mình trong cảnh vắng lặng
    Từ bỏ những công việc bận rộn, xao lãng.
    Họ nên thoát khỏi những hoàn cảnh bất lợi,
    Thuần hóa phiền não của mình bằng các pháp đối trị
    Không lẫn lộn giữa cái thấy và hành động,
    Họ nên dành thời gian thiền định.
    Bất cứ loại nào trong năm phiền não
    Nảy sinh trong tâm trí họ
    Nên tỉnh giác nắm bắt nó
    Sử dụng pháp đối trị và không bị phân tâm.
    Họ nên cẩn thân, cảnh giác
    Có cảm giác xấu hổ và đàng hoàng
    Trong các hành động của thân, khẩu, ý
    Hãy để họ trừng tâm của họ.


    Những người mới bắt đầu trên con đường giải thoát nên thực hành chủ yếu để đảm bảo lợi ích của chính họ. Họ nên phấn đấu vì lợi ích của người khác chỉ gián tiếp thông qua nguyện vọng của họ, vì đến nay họ vẫn chưa có khả năng để đạt được điều đó. Điều này là do những phiền não trong tâm trí của họ sẽ tạo ra những điều kiện bất lợi (cho hành động vị tha). Thay vào đó, họ nên sống độc cư và áp dụng các pháp đối trị cho những phiền não của chính mình, và nên thực hành mà không làm lu mờ quan điểm và hành động của họ.30 Họ nên tập trung chánh niệm vào bất cứ phiền não nào xuất hiện trong tâm trí mình, để nó không tiếp diễn vào khoảnh khắc tiếp theo. Điều tối quan trọng là họ cần chú ý đến hành động của ba cánh cửa của mình với chánh niệm, nội quan và cẩn trọng. Như đã nó trong Con Đường Bồ Tát:

    Tất cả những người muốn bảo vệ tâm trí của mình,
    Duy trì chánh niệm, nội quan;
    Bảo vệ cả hai, bằng cả mạng sống và chân tay
    Tôi chắp tay cầu khẩn ngài.31


    Lời khuyên sau đây sẽ hướng dẫn người mới bắt đầu, những người có tâm trí dễ bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài, nên xử lý những tình huống và kinh nghiệm khác nhau phát sinh thế nào.

    5. Khen ngợi và chế bai, từ chối và chấp nhận,
    Dễ chịu và khó chịu, hãy để họ xem tất cả như nhau
    Tất cả, như những màn ảo thuật và giấc mơ, đều không tồn tại thực sự.
    Họ nên nghĩ về chúng như tất cả đều giống nhau
    Chỉ như một tiếng vọng, và thực hành kiên trì,
    Kiểm tra tâm trí bám chấp vào cái “Tôi” và “bản ngã”
    Tóm lại, trong mọi hành vi, đừng để họ làm bất cứ điều gì
    Trái với Pháp.
    Họ nên chế ngự tâm trí và không làm hại người khác.
    Không đắm chìm trong ô trược dù chỉ một khoảnh khắc.
    Hãy để họ dành cả ngày lẫn đêm trong đức hạnh.
    Đây là khoảnh khắc cao nhất.


    Khi trải nghiệm lời khen ngợi hay lăng mạ, hạnh phúc hay sợ hãi, người ta nên nhớ rằng mọi hình tướng bên ngoài và kinh nghiệm bên trong chỉ là những giấc mơ và ảo ảnh, và rằng chúng không có sự tồn tại đích thực, giống như âm thanh của tiếng vọng. Người đó nên tự mình kiểm tra rằng, không có hình dạng hoặc màu sắc, thì cơn giận dữ và sự giày vò tâm trí không thể được tìm thấy. Như đã nói trong Con Đường Bồ Tát: “Với những thứ theo cách này là trống rỗng thì có gì để được và có gì để mất?” “Có gì để cho tôi vui sướng và đau khổ?” và “Mong sao những chúng sinh như tôi nhận ra và lĩnh hội rằng mọi thứ đều có đặc tính của không gian!” 32

    Tóm lại, trong bất kỳ việc gì, ngày hay đêm, người ta phải thuần hóa tâm mình. Như vậy, người ta sẽ không làm hại người khác. Các phiền não sẽ tự động lắng xuống và phẩm hạnh sẽ tự nhiên tăng lên. Đây chính là định nghĩa của việc tu hành trong Phật Pháp, Như Long Thọ đã nói:

    Hãy chế ngự tâm trí mình. Đấng Thế Tôn đã nói
    Tâm trí thực sự là gốc rễ của Pháp.
    Và trong kinh Pratimoksa nói rằng:
    Từ bỏ mọi việc ác
    Và thực hành đức hạnh
    Hoàn toàn chế ngự tâm mình
    Đây là lời dạy của Phật.


    Bằng chứng về tính đúng đắn của những điều đã nó bắt bằng lời khuyên rằng người ta không nên quên mục tiêu cá nhân của mình, vì lúc đầu rất khó để đạt được lợi ích cho người khác.

    6. Vì trong thời hiện tại đầy tội lỗi này,
    Con người trở nên thô lỗ và hung dữ,
    Việc vô cùng quan trọng là đảm bảo
    Mục tiêu của bạn bằng thực hành trong đơn độc.
    Nếu con chim không đủ lông đủ cánh thì nó không thể bay;
    Tương tự, nếu không có thiên nhãn trí,
    Bạn không thể giúp người khác.
    Vì vậy, hãy nỗ lực đạt được mục tiêu của mình,
    Và trong tâm mong muốn mang lại lợi ích cho người kahsc.
    Đừng để tâm trí bạn bị lôi cuốn bởi những thú vui bận rộn;
    Đây là những thủ đoạn lừa dối của Ma vương.
    Điều quan trọng là phải chân thành nỗ lực thực hành
    Đến đến giờ chết,
    Bạn sẽ không bị dằn vặt bởi hối tiếc.


    Ngay cả khi đức Phật xuất hiện, ngài cũng không thể thuần hóa được chúng sinh trong thời kỳ hiện tại. Vì vậy, đối với những người như tôi, mặc dù chúng ta có mong muốn giúp đỡ người khác, nhưng thời điểm để thực hiện mong muốn này vẫn chưa đến. Vì chúng ta thiếu tri thức siêu nhiên và thần thông làm ra các phép màu, và còn không thể mang lại lợi ích cho chúng sinh bằng cách ép buộc. Trong hoàn cảnh này, làm việc vì lợi ích của người khác không gì khác hơn là một trò hề, mọi người không nên được khuyến khích tham gia vào nó. Thay vào đó, họ nên được khuyến khích thực hành nhất tâm cô tịch trong rừng. Sự quyến rũ của ma vương, sự xao lãng và bận rộn của cuộc sống này đã lừa dối chúng ta trong quá khứ. Bây giờ chúng ta đã quá chán nản với nó. Chúng ta nên, bằng tất cả lòng chân thành, hãy đi một mình, đến những nơi vắng vẻ và kiên trì trong việc đảm bảo lợi ích của chính mình để khi chết, chúng ta sẽ không bị giày vò bởi nỗi hối hận (vì đã bỏ lỡ cơ hội). Bây giờ là lúc để vun đắp trong tâm trí chúng ta mong muốn mang lại lợi ích cho người khác. Như Santideva đã nói:

    Có rất nhiều khuynh hướng và nhu cầu của chúng sinh
    Ngay cả đức Phật cũng không thể làm hài lòng tất cả họ
    Một kẻ khốn nạn như tôi thì không cần phải nói!33


    Tuy nhiên, ngay cả khi bắt đầu bằng việc thực hành vì lợi ích của chính mình, thì cũng rất khó để duy trì sự tập trung vào việc này, do đó, người ta được khuyên nên dồn toàn bộ nỗ lực vào kế hoạch.

    7. Bây giờ hãy kiểm tra tâm trí của bạn!
    Hãy nhìn! Nếu bây giờ chết bạn sẽ ra sao?
    Chẳng có gì chắc chắn về nơi bạn sẽ đến
    Và bạn sẽ trở thành cái gì.
    Bằng cách tiêu tốn những ngày đêm bị lừa đối trong xao lãng
    Bạn đang lãng phí tự do và lợi ích của mình một cách vô nghĩa
    Thiền định một mình trong cô tịch về những giáo lý thiết yếu
    Hãy nỗ lực ngay bây giờ để đạt được mục tiêu cuối cùng của bạn.
    Vì vậy hãy nỗ lực ngay lúc này.


    Quay lại và nhìn vào bên trong chính mình. Nếu phải chết trong khoảnh khắc hiện tại này, tâm trí bạn đã sẵn sàng để khởi hành tới một đích đến hạnh phúc hay chưa? Điều quan trọng là phải suy ngẫm rằng khi lãng phí ngày đêm của mình trong xao lãng, sự tự do và lợi thế của bạn đang bị lãng phí. Bởi vì chính trong khoảnh khắc hiện tại này, bạn cần nỗ lực để đảm bảo mục tiêu cuối cùng cho sự giác ngộ của mình. Chính tại đây và bây giờ, bạn nên thành tâm cố gắng trong việc thực hành giáo Pháp. Như ta thấy trong Con Đường Bồ Tát:

    Và thế mà cách tôi hành động lại như thế này
    Tôi sẽ không lấy lại được mạng sống con người!
    Và mất đi hình hài con người quý giá này,
    Tội lỗi của tôi sẽ nhiều, còn phẩm hạnh thì không. 34

    Thật khó chịu đựng những kinh nghiệm huyễn ảo của luân hồi! Vì vậy, người ta được khuyên nên cố gắng giải thoát bản thân khỏi chúng ngay tại thời điểm này.

    8. Những hình tướng giả trá của luân hồi
    Giống như một con đường nguy hiểm chất đầy sợ hãi
    Hãy nhớ! Bạn phải tìm cách giải thoát cho chính mình.
    Nếu một lần nữa bị lừa dối,
    Bạn sẽ mãi lang thang trong ảo tưởng.
    Do vậy hãy nuôi dưỡng tính kiên định và giữ nó trong tim!


    Nghĩ đến nỗi đau khổ của các cõi cao và cõi thấp của luân hồi khiến người ta run sợ. Chúng giống như một con đường khó khăn và đáng sợ hoặc một vực thẳm khổng lồ. Nếu người ta không thể thoát khỏi nó, sẽ không bao giờ có thể được tự do. Do đó, người ta phải kiên trì. Như Santideva nói:

    Dọc theo một vách đá nhỏ và bình thường
    Nếu tôi phải chọn cách đi của mình đặc biệt cẩn thận
    Cần gì phải nói đến vực thẳm miên trường đó
    Lao xuống độ sâu ngàn dặm?35


    Một lần nữa điều được dạy là cần tinh tấn trong việc thực hành giáo Pháp. Vì rất khó để vượt qua đại dương luân hồi.

    9. Bây giờ trên con thuyền tự do và lợi thế của bạn
    Đi qua đại dương khó vượt:
    Phiền não và bám chấp của bạn vào “cái tôi”.
    Nhờ sức mạnh từ công đức của bạn,
    Cơ hội trong một trăm năm của bạn đã xuất hiện:
    Con đường giải thoát và giác ngộ của bạn!
    Vì vậy, bây giờ, và với sự toàn tâm kiên định,
    Hãy đảm bảo hạnh phúc và lợi ích của bạn!


    Sự ô trược giống như một đại dương sâu thẳm, những tự do và lợi thế hiện tại của một người giống như chiếc thuyền để vượt qua nó. Một lần nữa, như Con Đường Bồ Tát nói:

    Sau này sẽ khó tìm thấy con thuyền này.
    Thời gian mà bạn có bây giờ, đồ ngốc, không phải để ngủ đâu!36


    Những tự do và lợi thế này, rất khó tìm, giờ đã được tìm thấy, và những khuyết điểm cùng phẩm chất tương ứng của luân hồi và niết bàn đã được hiểu. Hơn nữa, ý nghĩ nhỏ bé: “Tôi phải thực hành Pháp” đã xảy ra. Đây là dấu hiệu cho thấy lòng từ của đức Phật đã đi vào trái tim một người. Nó giống như một tia chớp trong bóng tối sâu thẳm. Vì không dễ để một trạng thái tâm thiện hạnh như vậy phát sinh. Bây giờ nó đã xuất hiện, nó nên được theo đuổi với tính siêng năng và không chậm trễ. Như Con Đường Bồ Tát nói:

    Thật khó để tìm được sự rảnh rang và giàu có
    Nhờ đó mục đích của chúng sinh có thể đạt được
    Nếu bây giờ tôi không biến nó thành lợi ích của mình
    Làm sao tôi có cơ hội như vậy một lần nữa?
    Giống như trong một đêm tối che phủ mây đen,
    Những tia chớp đột ngột lóe lên và mọi thứ đều hiện rõ,
    Tương tự, hiếm khi, thông qua Phật lực,
    Những suy nghĩ tốt đẹp nảy sinh, ngắn ngủi và thoáng qua trên thế gian.
    Thiện hạnh, do vậy, bị suy yếu ...37


    Bây giờ là lời khuyên rằng người ta nên tinh tấn tu tập Phật pháp vì nghịch cảnh luôn rình rập.

    10. Cuộc đời là phù du, mỗi khoảnh khắc đều thay đổi.
    Những sự xao lãng, khôn ngoan đánh lừa bạn.
    Hãy hoãn lại những việc làm thiện nguyện của bạn.
    Thói quen ảo tưởng của bạn rất mạnh như vậy!
    Những ô trược trong vô lượng của chúng
    Tự nhiên ập đến với bạn và trong một khoảnh khắc.
    Trong khi thiện hạnh mạng lại công đức khó có thể đến
    Dù bạn cố gắng bao nhiêu!
    Vậy thì điều quan trọng là phải nỗ lực
    Để đảo ngược luồng gió mạnh mẽ của nghiệp!


    Cuộc sống của chúng sinh không phải là vĩnh cửu cho dù trong một khoảnh khắc. Còn những người thực hành pháp bị phản bội bởi những hình tướng gây xao lãng của thế giới này. Những người non kém luôn trì hoãn việc thực hành thiện hạnh của họ. Chúng sinh trong luân hồi đã quá quen với những hình tướng huyễn ảo của nó đến nối, trong suốt tam giới, những phiền não rơi xuống họ như mưa. Hành động tích cực xảy ra nhưng hiếm hoi và chỉ nhờ vào hành vi của các Đấng Chiến Thắng. Thật khó để đảo ngược được làn sóng của biển cả triền phược. Điều quan trọng nhất là cần tinh tấn kiên định trong Pháp với toàn bộ sức mạnh của mình và tránh thực hành rời rạc. Tôi khuyên bạn nên cân nhắc cẩn thận ý nghĩa của những lời dạy trong Udanavarga:

    Than ôi! Các pháp hữu vi đều thoáng qua;
    Chúng sinh ra rồi hoại diệt.
    Thay vì chỉ sống và chết,
    Hãy nỗ lực nhanh chóng để đạt đến hạnh phúc bình an.


    Cuối cùng có một chỉ dẫn rằng, chính vì luân hồi không có bất cứ ý nghĩa trọng yếu nào, nên điều quan trọng là phải nỗ lực tinh tấn trong giáo Pháp.

    11, Trong luân hồi không hề có chút niềm vui nào.
    Thật không thể chịu đựng khi nghĩ đến
    Mọi nỗi buồn trong vòng quay của cuộc đời này.
    Vậy bây giờ hãy áp dụng nhữung phương pháp giúp bạn thoát khỏi nó.
    Nếu thay vì một nỗ lực chân thành
    Trong tinh hoa của giáo lý,
    Bạn chậm chạp trong một thực hành nhàn nhã không thường xuyên,
    Sẽ chẳng có điều gì tốt đẹp xảy ra.
    Vậy hãy nuôi dưỡng nhận thức ngày càng tăng về tính vô thường
    Cùng với nỗi chán nản lành mạch về thế gian.
    Hãy nỗ lực hết mình khi thực hành,
    Đừng để bị phân tâm dù trong khoảnh khắc.


    Thật không thể chịu đựng khi suy nghĩ về những đau khổ trong ba cõi luân hồi. Chúng ta phải tìm cách thoát khỏi nó. Chúng ta cần nỗ lực không ngừng trong giáo pháp. Chỉ hiểu và muốn làm thôi thì chưa đủ. Như đã nói trong kinh Avatamsaka:

    Giống như người lái đò lành nghề
    Đã chở vô số người
    Qua bên kia dòng nước rồi chết,
    Pháp cũng vậy nếu bạn không thực hành nó.
    Giống như một nhạc công khiếm thính
    Có thể là niềm vui của nhiều người
    Trong khi bản thân anh ta không nghe được gì
    Pháp cũng vậy nếu bạn không thực hành nó.
    Giống như hình ảnh hay âm thanh của nước
    Không làm dịu cơn khát
    Của những người đang khát
    Pháp cũng vậy nếu bạn không thực hành nó.


    Vì vậy, kết luận:

    12. Nếu ngay từ đầu bạn đã nắm bắt tốt điều này,
    Trong tương lai bạn sẽ đạt đến giác ngộ
    Và một khi bạn đã có được điều tốt cho bản thân,
    Bạn sẽ tự nhiên đạt được điều tốt cho người khác.
    Bây giờ con đường tối thượng bạn đã khám phá
    Dẫn bạn đến sự giải thoát khỏi luân hồi.
    Mọi việc bạn làm bây giờ đều phù hợp với Pháp
    Do đó bạn là cơ sở cho sự thành tựu giác ngộ.


    Nếu bạn hiểu rõ về những khiếm khuyết của luân hồi và lợi ích của giải thoát, và nếu bạn hiểu đúng lời dạy phải dấn thân ngay lập tức và mạnh mẽ vào Pháp, bạn sẽ, thông qua thực hành kiên trì, đạt được lợi ích cho bản thân và người khác. Nếu bạn đặt ra con đường giải thoát với giác ngộ là mục đích cuối cùng của mình, bất cứ điều gì bạn làm đều sẽ phù hợp với Pháp. Điều được nói tới trong tất cả các kinh điển và mật điển là khi làm như vậy, bạn sẽ có nền tảng thích hợp cho việc thực hành mà nhờ đó đạt được giác ngộ. Vì vậy, tôi khuyên bạn hãy hành động phù hợp.

    Trong vòng luân hồi như một khối lửa đau khổ
    Tâm trí tôi trong cơn buồn bã mệt mỏi nói với tôi rằng:
    “Bây giờ, trong kiếp này, hãy đến những khu rừng yên ả
    Hãy thực hành với lòng chân thành, từ bỏ mọi thú tiêu khiển.”
    Lúc này, khi mục đích của tôi cần đạt được
    Làm việc vì tha nhân chỉ là giả tạo.
    Một nguồn bất mãn và khổ sở.
    Nó sẽ phục vụ mục đích gì?
    Vậy hãy để tôi sống một mình trong rừng.
    Trong tình trạng hiện tại của tôi, mặc dù tôi có thể tinh tấn,
    Làm sao tôi có thể giúp ích cho người khác?
    Khi tôi suy ngẫm về đời sống bên trong hoặc hoàn cảnh bên ngoài,
    Nỗi buồn lớn dần, trào dâng.
    Vậy nên bây giờ trên đỉnh núi cao hiểm trở tôi sẽ ở lại một mình.
    Và sẽ bỏ lại đó cả thể xác lẫn cuộc đời mình.


    Đây là điểm kim cương thứ hai của Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt, một bản bình luận về Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, một giáo lý của Đại Toàn Thiện.
    Last edited by Ẩn Tiên; 04-06-2025 at 03:12 PM.

  17. #17

    Mặc định

    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ BA

    Giảng nghĩa giáo lý thực hành

    Bài bình giảng bắt đầu bằng phần giới thiệu ngắn gọn.

    1. Bài giảng thực hành có ba phần: mở đầu, phần chính và kết luận.

    Mỗi giai đoạn này, phần chuẩn bị, phần chính của bài giảng, và phần kết luận, sẽ được giải thích chi tiết.

    2. Giáo lý sơ bộ được trình bày trước tiên.
    Các pháp sơ bộ bên ngoài là hiểu biết
    Về vô thường và không còn mê muội vào luân hồi.
    Những điều này nhổ tận gốc rễ từ sâu thẳm trong tâm trí
    Mọi thứ bám dính vào cuộc sống này.
    Các bước chuẩn bị cụ thể là
    Lòng từ và thái độ bồ đề tâm mà nhờ đó
    Mọi thực hành đều được chuyển hóa vào con đường Đại Thừa.
    Vì vậy, để bắt đầu, hãy tu tập những pháp sơ bộ này.

    Bất kể thiền định theo cách nào trên con đường Đại thừa, điều quan trọng ngay từ đầu là cần suy ngẫm rằng cuộc sống của mình là vô thường và luân hồi là trạng thái đau khổ. Sau đó, liên quan đến điều này, người ta nên vun trồng lòng từ và thái độ giác ngộ của bồ đề tâm, tức là nghĩ rằng mình sẽ tự đạt được quả vị Phật vì lợi ích của chúng sinh. Điều này là cần thiết vì khi người ta nhận ra rằng cuộc sống là vô thường, họ sẽ không trì hoãn việc thực hành của mình, và việc thừa nhận rằng luân hồi là trạng thái đau khổ sẽ phá vỡ sự bám chấp của người ta vào cuộc sống này. Thông qua việc vun trồng lòng từ bi vô tư, người ta sẽ không rơi vào thái độ của Tiểu thừa; và bằng cách rèn luyện bồ đề tâm, người ta sẽ nhanh chóng đạt đến giác ngộ.

    Những điểm đặc biệt của Đại thừa là phương tiện thiện xảo của từ bi kết hợp với trí tuệ, nhờ đó người ta sẽ không ở trong bất cứ cực đoan nào trong hai cực đoan. Như được nói trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Rút Gọn: “Nếu không có phương tiện thiện xảo và trí tuệ, người ta sẽ rơi vào con đường của các Thanh Văn”. Và còn nói thêm trong kinh Ratnavali:

    Tính không được phú cho tinh túy của lòng từ:
    Đó là thực hành của những người muốn giác ngộ.


    Abhisamayalamkara nói thêm:

    Nhờ trí tuệ mà không ở lại trong luân hồi
    Cũng nhờ từ bi mà không ở lại trong an lạc niết bàn.
    Đạo lộ thiếu phương tiện thiện xảo thì dài
    Nhưng có phương tiện thiện xảo thì không dài.


    Và trong Doha có nói rằng:

    Những người ôm lấy tính không mà không có từ bi
    Không tìm thấy con đường tối thượng.
    Những người chỉ nuôi dưỡng từ bi
    Ở lại trong luân hồi này họ sẽ không đạt được giải thoát
    Những người có thể kết hợp hai điều này
    Không sống trong luân hồi cũng chẳng ở trong niết bàn.


    Những bước chuẩn bị căn bản như sau.

    3. Những pháp sơ bộ sau đây vượt trội hơn nhiều
    Với mọi quán đỉnh được nhận
    Bạn thực hành hai giai đoạn: phát sinh (và thành tựu)
    Bạn nhận thức thân thể mình như một thần bản tôn
    Như những vị thần của vũ trụ và chúng sinh
    Nhờ vậy bạn lật đổ sự dính mắc vào tồn tại đích thực
    Về những gì thường được nhận thức.
    Nhờ thực hành trên con đường sâu sắc của guru yoga
    Phúc lành vô biên sẽ phát sinh
    Nhờ lòng từ mạnh mẽ của thầy
    Những chướng ngại được xua tan
    Và hai thành tựu đạt được
    Vì vậy, theo các pháp sơ bộ bên ngoài và đặc biệt
    Hãy thiền về hai pháp cao hơn.


    Khi quán đỉnh đã được thọ nhận đúng cách, trước tiên người ta thực hành các giai đoạn phát sinh và thành tựu. Đây được coi là bước vào trình độ căn bản của tư lương đạo 38 sự khởi đầu trên con đường giải thoát. Do đó, quán đỉnh là nền tảng của con đường.

    Khi điều này được tiếp nhận, con đường thực tế được mô tả, trong Mật thừa thông thường như thiền định “trên một chỗ ngồi duy nhất” trên các giai đoạn kết hợp giữa phát sinh và thành tựu. Tuy nhiên, trong bản chú giải hiện tại, phù hợp với Đại Toàn Thiện, quán tưởng một vị thần bản tôn, cùng với đạo sư yoga và sau đó là yoga vi tế của các kinh mạch, khí và giọt tinh hoa,39 đều được phân loại là khái niệm, thấp hơn, giai đoạn thành tựu, và được dạy như là các pháp chuẩn bị cho con đường của Đại Toàn Thiện. Sơ đồ chung này có thể được mô tả ngắn gọn trước tiên là ban quán đỉnh mang lại sự trưởng thành và thứ hai là các giai đoạn phát sinh, thành tựu mang lại giải thoát. Như được nói trong mật điển Bình Minh của Ánh Sáng Bất Hoại:

    Nhiều lời dạy được ban ra
    Bởi đức Kim Cang Trì vĩ đại
    Nhưng tóm lại chúng là hai:
    Những thứ mang lại sự chín muồi và những thứ mang lại giải thoát.


    Chúng tôi sẽ giải thích các quán đỉnh theo số lượng, trình tự và từ nguyên tiếng Phạn của chúng.

    Về số lượng quán đỉnh, vì có bốn phiền não cần được tịnh hóa, bốn ấn của việc thực hành, bốn kinh nghiệm của hỷ lạc, và bốn thân kết quả, vân vân, nên người ta nói, đối với những người tinh tấn trong đó, có bốn quán đỉnh.

    Có một trình tự nhất định (trong các quán đỉnh) được hiểu bằng cách áp dụng chúng vào quan kiến và cung cách mà cái hỗ trợ và cái được hỗ trợ sẽ được thanh lọc. Đầu tiên, quán đỉnh bình tiết lộ rằng các hiện tượng và tâm trí là một vị thần như huyễn, và do đó quan điểm Duy Thức được nhận ra. Quán đỉnh bí mật tiết lộ rằng các hiện tượng không nằm trong bất cứ cực đoan bản thể học nào và vượt ra ngoài cấu trúc khái niệm, và nhờ vậy quan điểm của Trung Đạo được nhận ra. Quán đỉnh trí tuệ tiết lộ sự không thể tách rời giữa hỷ lạc và tính không, và do đó các quan điểm của hai lớp bên trong của Mật tông (Maha và Anu) được nhận ra. Cuối cùng, thông qua quán đỉnh ngôn từ, tính giác siêu việt tâm trí thông thường được tiết lộ là tâm giác ngộ,40 và nhờ vậy quan điểm của Đại Toàn Thiện được nhận ra.

    Khi áp dụng vào phương pháp thanh lọc hỗ trợ và được hỗ trợ, trình tự các quán đỉnh như sau. Khi một người còn sống, tức là khi thân và tâm hợp nhất, chính thân và tâm này (cái hỗ trợ và cái được hỗ trợ) sẽ ảnh hưởng và thanh lọc lẫn nhau. Tinh túy của thân thể là sự đa dạng của các kinh mạch vi tế. Các kinh mạch là cơ sở cho các luồng khí và các giọt tinh chất, và các giọt tinh chất là cơ sở của tính giác, tức là tâm giác ngộ. Theo đó, quán đỉnh bình thanh lọc thân thể và đưa nó đến sự chín muồi. Quán đỉnh bí mật thanh lọc và làm chín muồi các kinh mạch. Quán đỉnh trí tuệ thanh lọc và làm chín muồi các giọt tinh chất. Và quán đỉnh ngôn từ quý giá thanh lọc và đưa tính giác của một người, tâm giác ngộ, đến sự chín muồi.

    Từ tiếng Phạn của “quán đỉnh” là abhiseka. Về mặt từ nguyên, yếu tố tiếng Phạn Abhiseka ám chỉ việc thanh lọc tạp chất, trong khi sikta biểu lộ việc đổ ra phúc lành. Nói cách khác, quán đỉnh thanh lọc tạp chất và truyền tải may mắn. Người ta nói về quán đỉnh vì nhờ đó họ được ban cho quyền năng để đến với linh ảnh về chân lý ngay trong kiếp này trên nền tảng của Hỷ Lạc Viên Mãn.41 Mật điển Kim Cương Đỉnh nói:

    Nghi thức, lời dạy, và hành giả,
    Theo nghi thức của mandala,
    Làm phát sinh bí ẩn của giải thoát viên mãn
    Và dẫn đến ngay trong kiếp này
    Đạt đến nền tảng của Hỷ Lạc Viên Mãn.


    Về những khiếm khuyết phát sinh nếu quán đỉnh không được nhận, Guhyagarbha nói rằng:

    Nếu một người không làm hài lòng vị thầy
    Và nếu tất cả quán đỉnh không được nhận
    Sự học và thực hành của người đó
    Sẽ không có kết quả và chẳng đi đến đâu.


    Và trong mật điển Cực Lạc Huyễn Ảo có nói:

    Nếu, không nhìn chăm chú vào mandala
    Mà yogi vẫn mong ước đạt được thành tựu
    Anh ta giống như một kẻ ngu si đập vỏ trấu
    Dùng nắm tay siết chặt đấm vào bầu trời.


    Mặt khác, những lợi ích đến từ việc thọ nhận các quán đỉnh được mô tả trong mật điển Bí Mật Tối Thượng:

    Nếu được ban truyền quán đỉnh chân chính
    Người ta sẽ đạt được thành tựu ngay cả khi không nỗ lực.


    Vậy là đã có một phác thảo chung về các quán đỉnh. Các giai đoạn của con đường mang đến giải thoát bao gồm giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu. Trong mật điển Guhyashamaja có nói rằng:

    Toàn bộ giáo lý của đức Phật
    Được trình bày hoàn hảo qua hai giai đoạn
    Giai đoạn phát sinh đến trước;
    Giai đoạn thành tựu diễn ra sau đó.


    Trong giai đoạn phát sinh, thông qua sự xuất hiện được quán tưởng của một vị thần bản tôn ở mức độ tương đối, hành giả tu luyện để loại bỏ mọi suy nghĩ thông thường và thanh lọc các uẩn, các nguyên tố và bảy thức. Trong giai đoạn thành tựu, thông qua thực hành phù hợp với lĩnh vực vi tế, tức là tính quảng đại tối thượng, không thể quan niệm được, hoạt động khái niệm của tâm trí thông thường hoàn toàn lắng xuống. Sự hợp nhất của hai giai đoạn này được định nghĩa là con đường dẫn đến thành tựu. Trong mật điển Am Kim Cương có nói:

    Nhờ thực hiện đại ấn
    Người ta đạt được thân kim cương
    Nhờ phương tiện trì tụng quý giá
    Lời nói của người ta trở thành ngữ kim cương vô nhiễm
    Trong sự chú tâm kim cương, tâm trí của người ta
    Sẽ được chứng ngộ như là báu tâm.


    Và:

    Vì vậy người ta nói về bánh xe mandala
    Phương pháp là giới nguyện về hỷ lạc
    Các yogi có niềm tin thành Phật
    Sẽ không mất nhiều thời gian để đạt tới giác ngộ.


    Nếu không thực hành giai đoạn phát sinh thì không thích hợp để tiến tới giai đoạn thành tựu. Như đã nói trong mật điển Lời Cam Kết của Dakini:

    Một con đường không có thần bản tôn
    Là một con đường sai lầm
    Và nó không phù hợp để làm con đường mật tông.

    Mặc dù thân, khẩu, ý của một người, ngay từ đầu là thân, khẩu, ý giác ngộ, nhưng chúng không xuất hiện rõ ràng như vậy, bị che khuất bởi những khuynh hướng thói quen của người đó. Để làm chúng bộc lộ rõ ràng, cần phải thiền định về các mandala của hai giai đoạn. Như đã nói trong mật điển Hevajra:

    Yoga phát sinh là
    Các khía cạnh hình thể của thần bản tôn
    Có màu sắc, khuôn mặt và cánh tay
    Tuy nhiên nó loại bỏ các khuynh hướng tầm thường.42


    Những lợi ích thu được từ việc thực hành này được mô tả trong mật điển Am Kim Cương:

    Những ai thiền về một vị Phật như vậy
    Ngay cả khi họ không đạt đến giác ngộ
    Trong những kiếp sau,
    Họ sẽ đạt được cấp độ của một vị vua vũ trụ
    Hoặc quyền thống trị trên trái đất này
    Hoặc họ chắc chắn sẽ đến những cõi tịnh độ.

    Bây giờ ý nghĩa chung của hai giai đoạn đã được phác thảo, chúng ta phải xem xét cách thiền định khi bắt đầu buổi thực hành.

    Người ta có thể thiền về bất kỳ mandala nào phù hợp, dù là của một vị thần an bình hay phẫn nộ, thuộc gia đình Phật của mình. Ngoài ra, người ta có thể thiền về Kim Cương Tát Đỏa (người hiện thân cho toàn thể các vị thần của các gia đình Phật khác nhau) cùng với phối ngẫu của mình và trì tụng thần chú trăm âm. Như đã nói: “Thiền về một đấng chiến thắng duy nhất là thiền về toàn thể chư Phật”. Tại sao lại như vậy? Đó là bởi vì toàn bộ các vị Phật đều nằm trong ngũ bộ Phật (an bình hay hung nộ), vì họ có cùng bản tính, truyền xuống một vị thần duy nhất, và bản thân vị thần này hoặc là bình an hoặc là phẫn nộ. Mật điển Samputa nói:

    Người ta nên thiền về tất cả các vị thần
    Là một vị thần hòa bình hay phẫn nộ
    Phật là một vũ công không thể tưởng tượng được
    Tôi có quyền gì để nói về điều đó?
    Tất cả đều là sự hóa hiện của tâm trí
    Và do vậy là một gia tộc duy nhất của không tính kim cương
    Sau đó trở thành năm bộ.


    Sau đó người ta nên gia trì tràng hạt của mình. Người ta quán tưởng nó như vị thần yidam thiền định của mình và hòa tan vị thần trí tuệ vào trong nó. Người ta cúng dường và tán thán (cho tràng hạt được quán như một vị thần), và, đọc tụng dharani duyên khởi phát sinh, người ta rải hoa lên nó. Các vị thần phụ mẫu hòa tan thành ánh sáng và tan chảy vào hạt chủ, sau đó biến thành các âm tiết OM AH HUNG. Tất cả các hạt khác sau đó được hình dung như các nguyên âm và phụ âm, và khi một người tụng thần chú, người đó quán từ những chữ cái này phát ra các vị thần và âm thanh của thần chú. Người ta nên giữ tràng hạt của mình bên người theo cách mà người khác không được nhìn thấy nó.

    Đối với mật chú của các vị thần, một số cầu khẩn các vị thần bằng tên, những câu khác cầu khẩn họ từ các âm tiết chủng tử của họ, trong khi những câu khác thể hiện các phẩm tính mà các vị thần được liên hệ. Như được nói trong mật điển Am Kim Cương:

    Cũng như khi, với giọng khẩn thiết,
    Bạn kêu gọi những sinh linh vĩ đại
    Ai nghe thấy bạn sẽ đến,
    Tương tự khi bạn mong ước sự hiện diện của họ,
    Chư Phật, bồ tát, dakini, minh phi
    Đến ngay lập tức khi họ nghe thấy mật chú của họ.

    Mật chú phải cực kỳ rõ ràng. Đây là ý nghĩa của cụm từ “thu hút hoặc tập hợp thông qua mật chú”, được đề cập trong kinh điển của tất cả các tầng lớp Mật tông. Một câu chú đơn lẻ được đọc thuần túy và rõ ràng còn hơn một ngàn câu chú được lẩm bẩm không rõ rệt. Một câu chú được độc mà không mất tập trung còn hơn một trăm ngàn câu chú được đọc xao lãng thiếu tập trung. Mật điển Bí Mật Tối Thượng nói:

    Trì tụng thanh tịnh thì ngàn lần
    Cao hơn trì tụng bất tịnh.
    Niệm với tâm tập trung
    Vượt trội gấp trăm ngàn lần
    Niệm mà không tập trung.


    Và trong Con Đường Bồ Tát chúng ta thấy:

    Trì tụng và khổ hạnh,
    Mặc dù có thể chứng thực là lâu dài,
    Nhưng nếu thực hành với tâm trí xao lãng,
    Thì vô ích, Đấng Biết Thực Tại đã nói vậy.43


    Khi đã quán tưởng bản thân trong hình dạng một vị thần yidam và trì tụng thần chú trong một thời gian ngắn, người ta hình dung vị thầy gốc của mình đang ngồi trên đỉnh đầu và được bao quanh bởi chư Phật, bồ tá, daka và dakini. Người ta cúng dường ngài, tụng những lời ca ngoại và sám hối, cầu nguyện để hoàn thành mục tiêu mong ước của mình. Vì vị thầy là gốc rễ của mọi con đường và là cội nguồn của mọi thành tựu. Mật điển Trí Tuệ Ban Sơ Xuất Hiện Đầy Đủ nói rằng:

    Nhờ lòng tận tụy với thầy nhiều tháng nhiều năm
    Bạn sẽ đi qua tất cả các giai đoạn của nền tảng và con đường.
    Nếu vị thầy luôn hiện diện với bạn,
    Bạn sẽ chẳng bao giờ xa cách toàn thể chư Phật.


    Cũng được nói trong Sự Sắp Đặt của các Samaya:

    Bằng lòng sùng kính không lay chuyển
    Đạt tới cảnh giới Kim Cang Trì trong sáu tháng.


    Và trong mật điển Trí Tuệ Bản Nguyên Siêu Việt nói rằng:

    Hãy quán tưởng vị thầy vĩ đại của bạn
    Như vật trang hoàng cho luân xa đỉnh đầu của bạn.


    Guru Yoga là cần thiết để ngăn chặn những trở ngại xảy ra và để đảm bảo rằng sự chứng ngộ sẽ đến tự nhiên và dễ dàng ngang qua những nền tảng và con đường.
    Last edited by Ẩn Tiên; 05-06-2025 at 02:45 PM.

  18. #18

    Mặc định

    Những lợi ích từ việc tu tập các thực hành sơ bộ như sau.

    4. Qua bốn pháp sơ bộ này
    Tâm bạn sẽ bước vào con đường không sai lầm
    Và một khi bạn đi theo con đường tối thượng này đến tự do
    Bản tính nền tảng sẽ nhanh chóng biểu lộ.
    Bạn sẽ đạt được sự thiện xảo dễ dàng trong thực hành chính
    Và sẽ không có trở ngại nào cả.
    Những phẩm tính vô tận bạn sẽ sở hữu:
    Gần tới thành tựu và mọi thứ còn lại.
    Do đó, việc tu luyện trong các pháp sơ bộ là quan trọng nhất.


    Trước khi an trú trong trạng thái tự nhiên, bất biến của tính giác, tâm giác ngộ của Đại Toàn Thiện, người ta phải tu luyện bốn pháp sơ bộ: (1) quán chiếu về vô thường; (2) tu luyện từ bi và bồ đề tâm; (3) quán tưởng thế giới hiện tượng như một cõi Phật và các vị thần, cùng với việc trì tụng thần chú và sự tập trung của yoga vi tế, và (4) thực hành thiền định guru yoga kèm theo những lời cầu nguyện gửi đến vị thầy của mình. Được trang bị những pháp sơ bộ này, người ta khởi đầu mà không mắc sai lầm trên con đường giải thoát. Ý nghĩa của bản tính nền tảng sẽ được hiểu, và sẽ dễ dàng tu luyện các thực hành chính. Không có chướng ngại nào phát sinh, và những thành tựu tối cao và phổ thông sẽ nhanh chóng đạt được. Những phẩm chất này và khác sẽ đạt được. Ngày nay, nhiều người thiền định trên con đường này mà không tu các pháp sơ bộ. Tuy nhiên, đây là một sai lầm.

    Bây giờ con đường thực tế sẽ được thảo luận bắt đầu bằng một bài trình bày ngắn.

    5. Về thực hành chính,
    Thông qua các phương tiện thiện xảo của sự tập trung
    Vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm
    Bản tính nền tảng của tâm trí
    Giờ đây sẽ được giới thiệu với bạn
    Trí tuệ nguyên thủy sáng ngời, thoát khỏi mọi tạo tác,
    Sẽ xuất hiện tự nhiên và đồng thời.


    Mặc dù củi nhóm lửa không phải là lửa, tuy nhiên, chính nhờ những phương tiện như vậy mà lửa được nhìn thấy bùng cháy. Theo cách so sánh, hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm không cấu thành nên tính giác thực sự của một người, đó là trí tuệ nguyên sơ tự hiện, không do tạo dựng và cùng phát sinh. Tuy nhiên, nếu một người tinh tấn bằng những phương tiện thiện xảo như vậy, với hỷ lạc tương ứng với các giọt tinh hoa, sự sáng tỏ tương ứng với các luồng khí, còn vô niệm tương ứng với các kinh mạch, những người đã nhận được những chỉ dẫn cốt lõi từ một vị thầy mà họ có lòng sùng mộ chân thành, sẽ, nhờ tất cả những yếu tố này, chứng ngộ trí tuệ ban sơ. Trí tuệ bản nguyên này được mô tả trong kinh Hiển Thị Bao La:

    Sâu xa, an bình, không có suy nghĩ, sáng chói, không được tạo ra
    Cam lộ chân như, giờ đây tôi đã khám phá nó
    Nếu tôi dạy nó, sẽ chẳng có ai hiểu được
    Và vì vậy, tôi sẽ ở lại trong rừng, không nói lời nào.


    Một diễn giải chi tiết về con đường này hiện được đưa ra dưới ba tiêu đề, đầu tiên luieen quan đến phương tiện thiện xảo để đạt được lạc không đồng thời.

    6. Trước tiên, pháp giới thiệu thông qua phương tiện thiện xảo của đại lạc
    Tiếp theo những pháp thiền sơ bộ đã giải thích trước đó
    Hãy quán tưởng ba kinh mạch, thẳng như các trụ cột
    Đi qua trung tâm của bốn luân xa
    Kinh mạch bên phải có màu trắng;
    Kinh mạch bên trái có màu đỏ;
    Mạch trung tâm màu xanh, và giống như một ống rỗng.
    Đỉnh của nó nằm ở huyệt Brahma,
    Kết thúc bên dưới ở trung tâm bí mật.
    Trong kinh mạch trung tâm, ở tầm rốn,
    Có chữ A, từ đó lửa bùng cháy, tạo thành
    Dòng mật hoa chảy xuống từ chữ HANG nằm trong đỉnh đầu.
    Thứ này sẽ đổ đầy bốn luân xa và không gian bên trong thân thể.
    Khi lạc thọ tràn ngập thân thể
    Mật hoa từ chữ HANG
    Chảy xuống không ngừng
    Đến chữ BAM trong tim
    Hãy thiền như vậy cho đến khi trải nghiệm về lạc xuất hiện.
    Sau đó chữ BAM sẽ nhỏ hơn và mịn hơn
    Giờ đây tâm trí bạn lắng dịu, thoát khỏi những suy nghĩ và hình ảnh
    Trong trạng thái không có bất cứ cấu trúc khái niệm nào
    Thông qua phương pháp này, lạc thọ do định sẽ xuất hiện
    Và do đó có trạng thái an trú tĩnh lặng.


    Vị thầy Sri Simha đã ban cho vị thầy Padmasambhava những chỉ dẫn sau đây được lấy từ dòng truyền khẩu về hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm không thể nghĩ bàn. Về phương tiện thiện xảo của đại lạc, một khi đã thiền về thế giới hiện tượng như một vị thần và thực hành guru yoga, người ta nên quán tưởng luân xa của đại lạc, với 32 kinh mạch hướng tâm ở đỉnh đầu. Luân xa hưởng thụ, với 16 kinh mạch, nên được quán tưởng ở tầm cổ họng, luân xa thực tại tối hậu, với 8 kinh mạch của nó nên được quán tưởng ở tầm tim, và luân xa hóa hiện, với 64 kinh mạch nên được quán tưởng ở tâm rốn của hành giả.

    Ba kinh mạch giống như trụ cột nên được quán tưởng như đang đi qua giữa các luân xa này. Mạch roma màu trắng ở bên phải. Mạch kyangma màu đỏ bên trái. Ở giữa là trung mạch “luôn rung động”, có màu xanh lam. Đầu trên của mạch này chạm đến đỉnh đầu, còn đầu dưới nằm ở trung tâm bí mật. Kênh trung mạch tăng kích thước. Lúc đầu nó giống như một cọng lúa mì, sau đó giống như cây ubhi.44 sau đó, nó trở thành như một chiếc bình để khuấy sữa, và cuối cùng, toàn bộ thân thể hành giả trở thành kinh mạch trung tâm, vi tế và trong suốt. Do tâm trí tập trung vào trung mạch, bất kể người ta có thể tập trung vào những kinh mạch khác, chỉ có những phẩm chất của trung mạch mới phát sinh. Đây là một chỉ dẫn quan trọng.

    Bên trong trung mạch, ở tầm rốn, có một chữ A rực lửa.45 nó có kích thước bằng đầu sợi tóc, từ đó bùng lên một ngọn lửa giống như (lông của) đuổi ngựa. Khi nó chạm vào HANG (kích thước bằng một hạt đậu) ở đỉnh đầu, một dòng cam lộ trắng và đỏ chảy ra từ nó và lấp đầy bốn luân xa rồi sau đó là toàn bộ thân thể. Cụ thể, người ta nên quán tưởng nó rơi vào chữ BAM màu xanh lam nhạt ở tim và khiến cho hỷ lạc phát sinh. Khi, thông qua thiền định theo cách này mà không bị phân tâm, người ta kinh nghiệm lạc thọ về cảm giác thể chất, chữ BAM trở nen nhỏ hơn và mịn hơn đến khi nó biến mất. Trong trạng thái tâm trí tiếp theo, không có bất cứ suy nghĩ nào, người ta nên nghỉ ngơi trong trạng thái thiền định quân bình. Vào thời điểm đó, nhờ vào chỉ dẫn quan trọng này, trí tuệ nguyên thủy nội tại, an lạc, trống rỗng và thoát khỏi cấu trúc khái niệm sẽ biểu hiện.

    Sự sáng tỏ của lạc không vừa phát sinh được mô tả như sau.

    7. Một trạng thái của tâm trí sau đó xuất hiện
    Vượt qua mọi suy nghĩ, vượt ngoài mọi diễn đạt
    Một trạng thái như không gian vượt trên tâm trí thông thường
    Đây là tính sáng chói đầy hỷ lạc và trống rỗng
    Của trạng thái Đại Toàn Thiện
    Pháp tính trong suốt và không thể nghĩ bàn.


    Nếu hành giả thiền định trong trạng thái thoát khỏi những hình ảnh tinh thần về phương tiện thiện xảo của hỷ lạc, tâm trí sẽ trở nên an lạc tương ứng, và một trạng thái tỉnh giác không có các hoạt động tinh thần sẽ biểu lộ. Nó sẽ trong trẻo, sâu sắc, rộng mở như không gian, và xuyên thấu tất cả. Đó là trạng thái an lạc, sáng ngời của Đại Toàn Thiện, trí tuệ nguyên thủy tự phát sinh, tự biểu hiện. Như đã nói trong mật điển Cõi Bí Mật:

    Tâm trí không thể ôm trọn kim cương của đại lạc,
    Thứ về bản tính là sự bao la của ánh sáng.


    Những kinh nghiệm có được từ phương pháp thiền này như sau.

    8. Khi bạn quen với điều này
    Bốn kinh nghiệm sẽ đến với bạn:
    Mọi thứ bạn nhận thức đều dễ dàng.
    Ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái an lạc.
    Tâm tư bạn không bị quấy nhiễu bởi những nỗi khổ của dục vọng và hần thù
    Và trí tuệ biểu lộ
    Nhờ đó mà ý nghĩa lời Phật dạy được hiểu.


    Trong số này, có ba kinh nghiệm xảy ra do sự tăng cường (cả chất lượng và số lượng) của các thành phần thiết yếu tinh túy.46 Đây là nhận thức dễ dàng về mọi thứ, kinh nghiệm về hỷ lạc cả ngày và đêm, và thực tế là tâm trí không bị quấy rầy bởi sự dày vò của các phiền não. Nhờ vậy, hành giả sở hữu một trí tuệ phi thường bắt nguồn từ kinh nghiệm về một linh ảnh trực tiếp của tính giác và lòng từ ổn định, liên tục.

    Những phẩm chất nào có được từ phương pháp thiền định này?

    9. Thông qua thiền định liên tục
    Mặt trời của những phẩm chất vô hạn
    Sẽ xuất hiện trong tâm thức bạn:
    Những quyền năng về linh ảnh, thiên nhãn trí, và những thứ khác.
    Sự giới thiệu này vào bản tính của tâm
    Nhờ phương tiện thiện xảo của đại lạc
    Là một chỉ dần trọng yếu và sâu xa.


    Thông qua thiền định thêm nữa về lạc không phi thường, hành giả sẽ đạt được sự ổn định cao hơn trong đó, và nhiều phẩm chất khác sẽ biểu hiện, chẳng hạn như quyền năng về linh ảnh, kiến thức siêu nhiên và khả năng làm ra các phép lạ.47

    Bây giờ có một giáo lý liên quan đến trí tuệ nguyên thủy sáng suốt và trống rỗng, thoát khỏi suy nghĩ miên man. Đầu tiên, giáo lý này giải thích cách hành giả nên thiền về phương tiện thiện xảo của tính sáng tỏ.

    10. Thứ hai là pháp giới thiệu
    Thông qua phương tiện thiện xảo của tính sáng tỏ
    Luyện tập đầu tiên trong các pháp sơ bộ như trước
    Sau đó, quán tưởng ba kinh mạch
    Theo cách mà Ro và kyang có phần kết thúc bên dưới
    Cong và xuyên qua kinh mạch trung tâm
    Và đầu trên chạm tới lỗ mxui.
    Khi bạn thở ra không khí cũ ba lần,
    Mọi bệnh tật, thế lực xấu xa
    Tội lỗi và chướng ngại đều bị đào thải.
    Khi bạn hít vào từ từ ba lần,
    Thế giới tĩnh lặng và vật dụng chuyển động mà nó chứa đựng, tan chảy thành ánh sáng.
    Được hút vào lỗ mũi
    Đi qua ro và kyang,
    Chúng đi xuyên qua trung mạch
    Rồi sau đó hòa tan thành một quả cầu ánh sáng có kích thước bằng ngón tay cái
    Ngay chính giữa tim bạn
    Hãy tập trung vào điều này lâu nhất có thể.
    Kết hợp các luồng khí trên và dưới lại với nhau.
    Khi thở ra, hãy giữ lại một ít không khí
    Việc hít vào thở ra nhẹ nhàng có tầm quan trọng rất lớn
    Mọi điều tuyệt hảo
    Của chư Phật và những bậc được tán thán
    Tan chảy vào tim bạn
    Đừng rời khỏi trạng thái này
    Thông qua phương pháp này
    Trạng thái tâm trí trong suốt, sáng ngời, và tĩnh lặng sẽ biểu lộ.


    Như trong thiền định trước đây về các kinh mạch, các đầu dưới của những mạch roma và kyangma đi vào trung mạch, trong khi các đầu trên kéo dài vào hai lỗ mũi. Khi hành giả thở ra không khí cũ qua chúng, mọi bệnh tật và ảnh hưởng tiêu cực đều bị đẩy ra ngoài. Khi hít vào chậm rãi, (quán tưởng rằng) tam giới cùng toàn thể các phẩm tính tuyệt hảo của chư Phật, vân vân, đi vào lỗ mũi hành giả dưới dạng ánh sáng năm màu. Những thứ này, cùng với các luồng khí, đi xuống và đi vào trung mạch qua các đầu dưới của roma và kyangma, sau đó chúng đi lên và hòa tan vào trung tâm tim. Thông qua sự chú tâm vào trung mạch chứa đầy các luồng khí của năm trí tuệ, tâm sáng chói trống rỗng minh mẫn, vô niệm, sẽ biểu lộ. Đây là một chỉ dẫn vô cùng sâu sắc mà qua đó hành giả tập hợp toàn thể thế giới dưới sức mạnh của mình và nhanh chóng nhận được phúc lành của chư Phật. Nhờ đó, trí tuệ và sự tập trung sẽ phát sinh như chưa từng có.

    Pháp quán tưởng cần thiết để tu tập về tâm sáng chói như sau.

    11. Hãy quán tưởng ánh sáng rạng rỡ tăng cường
    Từ ánh sáng trong tim bạn
    Khiến bốn luân xa và thân thể bạn bừng sáng
    Và tràn ra ngoài, lấp đầy thế giới bằng ánh sáng
    Nếu thiền như vậy cả ngày lẫn đêm
    Trong vòng vài hôm, những giấc mơ của bạn sẽ dừng lại
    Và bạn sẽ nhìn thấy những hình tướng sáng láng này:
    Một mặt trăng, một ngọn đuốc bùng cháy, đom đóm, các vì sao và tất cả những thứ còn lại
    Bên ngoài và bên trong, khắp nơi đều tràn ngập ánh sáng ngũ sắc
    Vì tâm trí bạn tập trung vào trạng thái sáng tỏ
    Thiền an trú tĩnh lặng, samatha, sẽ biểu lộ.


    Sau khi thiền về ánh sáng trí tuệ trong trung mạch, hành giả quán bốn luân xa tràn đầy ánh sáng, sau đó thấm nhuần toàn bộ thân thể và tràn ra ngoài. Giữ hơi thở bình, hành giả tập trung chú ý của mình vào tuệ quang ngũ sắc, thấm nhuần tất cả thế giới của toàn thể vũ trụ giống như không gian. Khi hơi thở được đẩy ra, hành giả giữ lại một chút hơi bên trong rồi sau đó hít vào từ từ. Khi thiền theo cách này, các dấu hiệu sẽ xuất hiện và chỉ ra rằng khí của ngũ trí được giữ lại bên trong trung mạch. Hào quang ngũ sắc sẽ hiện ra xung quanh am thất thiền định. Vô số màn trình diễn ánh sáng sẽ xuất hiện: những ngọn đuốc rực sáng, mặt trăng mọc, đom đóm, khói, mây, sao, các vòng ánh sáng, các vị thần hóa hiện, vân vân. Lúc đó, cả an trú tĩnh lặng (tâm trí trong trạng thái hoàn toàn phẳng lặng) và tuệ quán sâu sắc (quang minh trần trụi của tâm trí) sẽ xuất hiện kết hợp trong một bản tính đơn nhất.

  19. #19

    Mặc định

    Sau đó, hành giả tập trung vào ánh sáng hoàn toàn thanh tịnh.

    12. Ánh sáng sau đó tụ họp trở lại vào tim bạn
    Rồi từ từ giảm dần cường độ cho đến khi
    Tâm trí bạn nghỉ ngơi trong trạng thái trống rỗng
    Không tập trung vào bất cứ điều gì
    Tâm trí bạn sẽ ở trạng thái trống rỗng, trong trẻo và minh mẫn
    Sáng tỏ tự nhiên thoát khỏi mọi tạo tác hóa hiện.


    Toàn bộ biểu lộ của ánh sáng được thu rút từ bốn luân xa quay trở lại luân xa tim của hành giả và ngày càng trở nên vi tế và thanh nhã hơn. Sau đó, anh ta nghỉ ngơi trong trạng thái đó, như chính không gian, chẳng tồn tại như bất cứ thứ gì cả. Nhờ đó, tính giác trong trẻo và rõ ràng, không pha trộn, không do tạo dựng, và không bị giới hạn, sẽ biểu lộ. Đây là trí tuệ bản nguyên, tự phát sinh, sáng chói và trống rỗng.

    Tính quang minh vừa phát sinh đã được xác định.

    13.Đó là trí tuệ ban sơ
    Sáng chói và trống rỗng, không bị chế định.
    Đó là phương thức căn bản của hiện tồn
    Của Đại Toàn Thiện tự nhiên.
    Trạng thái trong suốt sáng tỏ này, không pha tạp, không tạo tác, là pháp nền tảng cho sự tồn tại của Đại Toàn Thiện. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:
    Thoát khỏi sự vận hành tinh thần,
    Không có các đặc điểm,
    Đó là trạng thái
    Của tính sáng tỏ tự phát sinh.


    Những kinh nghiệm sau đây là kết quả của thiền định này.

    14. Khi quen với thiền như vậy
    Bốn kinh nghiệm sẽ biểu hiện
    Bạn sẽ nghĩ những thứ xuất hiện
    Là khó nắm bắt, trong suốt, và không bị ngăn trở.
    Ánh sáng sẽ tràn ngập ngày và đêm của bạn
    Tâm trí sáng suốt và minh mẫn của bạn sẽ không bị các suy nghĩ lay động
    Và thoát khỏi tính nhị nguyên của người nắm bắt và đối tượng được nắm bắt.
    Tri thức sẽ dâng trào từ bên trong
    Thông qua thiền định về các luồng khí (tính sáng), ba kinh nghiệm sẽ xuất hiện. Bạn sẽ có ấn tượng rằng các hiện tượng là không thể nắm bắt và thuộc về sự mở rộng không bị cản trở. Đêm và ngày sẽ sáng rực rõ ràng. Suy nghĩ sẽ dừng lại, trạng thái tâm trí trong suốt và rõ ràng sẽ xuất hiện. Cuối cùng, kinh nghiệm đạt được thông qua nhận thức được duy trì liên tục về tính giác sẽ xảy ra: tính nhị nguyên của chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức sẽ biến mất, và sự thông hiểu rộng lớn sẽ biểu lộ trong một tâm trí linh hoạt và mẫn tiệp.


    Những phẩm chất có được từ phương pháp thiền này như sau.

    15. Thông qua việc tăng cường thói quen
    Thiên nhãn trí sẽ xuất hiện
    Bạn sẽ phát triển quyền năng của linh ảnh
    Nhận thức được các đối tượng siêu tinh thần
    Ngay cả khi chúng bị che khuất bởi những vật khác
    Bạn sẽ có được quyền năng thực hiện các phép màu
    Sự giới thiệu bản tính của tâm
    Bằng phương tiện của tính sáng tỏ là tinh hoa
    Của những chỉ dẫn sâu sắc nhất.


    Thông qua tu luyện yoga về khí, hành giả sẽ đạt được sự chú tâm, nhờ đó, kiến thức siêu nhiên sẽ biểu lộ. Hành giả sẽ có được các quyền năng về linh ảnh, chẳng hạn như khả năng nhìn thấy mọi thứ ngay cả khi chúng bị che khuất bởi một bức tường. Ngoài ra hành giả sẽ có được các thần thông. Như đã nói trong kinh Bát Nhã Tóm Lược:”Thông qua định, bồ tát sẽ tránh xa những thú vui thấp hèn của các giác quan và sẽ sở đắc các thắng trí, xuất thế gian trí và sự chú tâm”.

    Bây giờ có một lời dạy liên quan đến trí tuệ nguyên thủy vô niệm, trống rỗng và tỉnh giác, trong đó các giai đoạn thiền định về phương tiện thiện xảo của vô niệm được giải thích. Nói chung, việc thành tựu trạng thái vô niệm nhờ tập trung vào sự gia tăng kích thước của vùng bên trong trung mạch tương tự như hai thực hành trước. Cụ thể hơn, thông qua ba giai đoạn thúc đẩy, tập trung và tinh chỉnh, hành giả tiến hành theo các điểm đặc biệt của tính giác, rồi bằng phường tiện này, hành giả được đưa vào trạng thái vô niệm nhanh chóng và trực tiếp.

    (Một mô tả được đưa ra lúc này về kỹ thuật đầu tiên, kỹ thuật đẩy).

    16. Thứ ba, thông qua phương tiện thiện xảo của vô niệm
    Bản tính của tâm được giới thiệu
    Hãy thiền như trước đây về các pháp sơ bộ.
    Sau đó thực hiện ba điểm của thực hành chính thức:
    Đẩy mạnh, tập trung và sau đó là tinh chỉnh
    Thực hành đẩy mạnh như sau:
    Quán tưởng trong tim bạn
    Tâm trí bạn nghỉ ngơi, sáng ngời tự nhiên
    Có một chữ A hoặc một quả cầu ánh sáng
    Kích thước bằng ngón tay cái của bạn
    Sau đó đọc HA một cách mạnh mẽ
    Hai mươi lần
    Quán tưởng rằng chữ cái được
    Phóng thẳng lên đỉnh đầu bạn
    Càng lúc càng cao hơn lên bầu trời phía trên
    Cho đến khi nó biến mất khỏi tầm nhìn
    Thư giãn cả tâm trí và cơ thể thật sâu
    Và duy trì trạng thái thiền định quân bình
    Dòng tư tưởng ngay lúc đó sẽ dừng lại, và bạn sẽ được nghỉ ngơi
    Trong một trạng thái không thể diễn tả bằng lời nói hay ý niệm.
    Một kinh nghiệm vượt ngoài tầm suy nghĩ
    Nơi không có gì để thấy.


    Sau đó, hành giả nên tiếp tục thiền định như trước (về các kinh mạch, vân vân) cho đến ranh giới trống rỗng của trung mạch. Sau đó, một quả cầu ánh sáng năm màu kỳ diệu bắn ra từ đỉnh đầu và đi vào không gian, ngày càng cao hơn, cho đến khi nó trở nên vô hình. Tiếp theo, hành giải phải đọc mạnh âm tiết HA hai mươi mốt lần, rồi thư giãn cơ thể và tâm trí.48 Khi đó, tính sáng vượt ngoài suy niệm và ngôn từ, siêu việt mọi mô tả, sẽ xuất hiện. Hành giã cũng sẽ trải nghiệm một trạng thái như không gian, vượt ngoài tầm biểu đạt khái niệm.

    Kỹ thuật thứ hai bây giờ được mô tả: tập trung vào tính giác của hành giả.

    17. Bây giờ đến giai đoạn tập trung tỉnh giác
    Quay lưng về phía mặt trời
    Hướng mắt lên bầu trời trong trẻo
    Yên lặng và để hơi thở thư giãn
    Cho đến khi bạn không còn cảm thấy chuyển động của nó nữa
    Và từ bên trong trạng thái vô niệm
    Tự do khỏi tạo tác sẽ xuất hiện
    Một kinh nghiệm thiền về tính không như không gian
    Sẽ nảy sinh.


    Khi bầu trời hoàn toàn trong xanh, hành giả nên ngồi quay lưng về phía mặt trời và tập trung vào bầu trời với ánh mắt bất động. Hành giả nên để hơi thở của mình trôi chảy nhẹ nhàng. Trong khoảnh khắc hơi thở được giữ ở bên ngoài, minh không sẽ xuất hiện. Hành giả sẽ có kinh nghiệm về trạng thái tâm trí trong suốt và rộng mở, như bầu trời, không giới hạn hay thiên lệch. Vì như đã nói: “Ngoài sao, trong vậy”: các phạm vi bên ngoài và bên trong phụ thuộc lẫn nhau.

    Lúc đó, cái thấy về “ba không gian” sẽ xuất hiện. Trên cơ sở không gian bên ngoài trong trẻo và trống rỗng (bầu trời), không gian bên trong không có tạp niệm sẽ xuất hiện. Khi điều này xảy ra, không gian bí mật vô ngại và thâm nhập toàn thể, tính giác trần trụi rỗng rang, sẽ được chứng ngộ, được nhận thức thông qua pháp thiền được phú cho các phương tiện thiện xảo và phúc lành. Đây là một chỉ dẫn vô cùng sâu sắc của vị thầy người Nepal Kamalasila.

    Cuối cùng, kỹ thuật thứ ba được mô tả: tinh chỉnh mọi thứ thành tính giác trần trụi.

    18. Sau đó, không xao lãng, cố định ánh mắt chăm chú của bạn lên trời
    Và trong trạng thái tinh thần sáng suốt
    Nơi mà những ý nghĩ không phát triển hay tan biến,
    Hãy thiền, quán chiếu rằng đất và đá
    Những ngọn đồi, vách đá
    Vũ trụ và chúng sinh trong toàn thể của chúng
    Trở nên giống như không gian, một sợ mở rộng không bị cản trở
    Bạn không có sự nắm bắt
    Ngay cả thân thể bạn như một hình tướng thô thiển, có thật
    Hãy an trú trong trạng thái mà không gian và tâm trí bạn
    Không thể phân biệt được
    Không có sự nhìn nhận về thế giới bên ngoài hay bên trong
    Hoặc cái gì đó ở giữa
    Và trong trạng thái không gian đó
    Hãy thư giãn thật sâu cơ thể và tâm trí bạn
    Ký ức và suy nghĩ, mọi chuyển động tinh thần
    Đều tự nhiên dừng lại
    Với vô niệm lan tỏa và tan biến
    Tâm trí vẫn ở trong tình trạng tự nhiên của nó
    Trạng thái tối hậu của các hiện tượng
    Và tâm trí vượt trên mọi ý niệm và ngôn từ
    Vào thời điểm đó, là không hai
    Một sự chứng ngộ giống như không gian giờ đây ló rạng
    Đây là bản tính tinh hoa của các Đấng Chinh Phục
    Từ quá khứ, hiện tại, đến tương lai.


    Khi sự tỉnh giác của một người hướng vào bầu trời, bầu trời sẽ trở nên rộng rãi và trống rỗng, vào này, người đó sẽ cảm thấy mọi quang cảnh bên ngoài, đất và đá, núi, vách đá, vân vân, chung quy, toàn thể vũ trụ cùng cư dân của nó trở nên hoàn toàn phi vật chất. Chúng tan biến vào trạng thái rộng mở và hội nhập với chính không gian. Ngay cả cơ thể cua chính mình cũng tự nhiên tan biến và trở thành như chính không gian. Mọi thứ giống như những đám mấy tan vào bầu trời. Tâm trí, thoát khỏi vận hành của những suy nghĩ, lắng đọng trong trạng thái tỉnh thức thâm sâu, quảng đại, bao trùm toàn thể, trong đó không có phạm vi bên ngoài hay bên trong, cũng chẳng có bất cứ chiều kích nào ở giữa. Sự chứng ngộ thoát khỏi những cực đoan, giống như không gian, tự nhiên hiển lộ. Trạng thái này được biết đến là nhận ra sự cạn kiệt của các hiện tượng trong tính thanh tịnh bản nguyên. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể: “Yoga này giống như thiên đạo của loài chim”. Còn Bát Nhã Ba La Mật Tóm Lược nói: “Muốn biết điều này là gì, hãy thẩm tra không gian thanh tịnh”.

    Những kinh nghiệm có được từ phương pháp thiền định này như sau.

    19. Khi bạn thiền như vậy
    Bốn kinh nghiệm xảy ra
    Mọi hiện tượng dường như không thực chất
    Vì bạn không có cảm giác về vật chất thô
    Cả ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái vô niệm
    Vì năm độc tự nhiên lắng dịu
    Dòng tâm thức của bạn sẽ mềm mại nhẹ nhàng
    Bạn sẽ nếm trải bảnh tính rộng lớn của mọi thứ.


    Nhờ làm quen với ba yếu tố thúc đẩy, tập trung va tinh chỉnh này, nhiều kinh nghiệm khác nhau liên quan đến trung mạch và bản chất của tính giác sẽ xuất hiện. Biết rằng mọi thứ xuất hiện đều khó nắm bắt, không thể nắm bắt và không có thực chất, người ta sẽ không còn nhận thức về mọi vật như là thô và vật chất nữa. Người đó sẽ duy trì cả ngày lẫn đêm trong trạng thái không có sự vận hành của ý niệm. Phiền não không thể phát sinh, trong bất kể hoàn cảnh nào, người đó sẽ không có hy vọng và sợ hãi. Dòng tâm thức của người đó sẽ mềm mại và nhẹ nhàng. Hiểu rằng mọi hiện tượng đều không sinh như không gian, người ta sẽ không thực hiện các hành động cố ý và chẳng tốn công để lưu ý về chúng.

    Những phẩm chất có được từ việc quen thuộc với vô niệm như sau.

    20. Thông qua tu luyện kỹ thuật thứ ba này về vô niệm.
    Bạn sẽ đắc quyền năng linh ảnh và thần nhãn
    Sự tập trung và nhiều phẩm chất khác.
    Thông qua sự hợp nhất của phương tiện thiện xảo và trí tuệ
    An trú tĩnh lặng và nội quán sâu sắc
    Bạn sẽ đạt được cho bản thân và người khác
    Các mục tiêu trước mắt và cuối cùng.


    Nhờ tu tập trong phương pháp thiện xảo thứ ba (vô niệm), người ta đạt được sự chú tâm thiền định. Những quyền năng của linh ảnh, kiến thức siêu nhiên và một dạng tập trung mà trước đây chưa từng được biết đến, cùng với con đường hợp nhất giữa phương tiện thiện xảo và trí tuệ, cùng với con đường hợp nhất giữa an trú tĩnh lặng và tuệ quán sâu xa, sẽ được thành tựu. Nhờ đó, những nền tảng và con đường tạm thời cũng như tối hậu cùng tất cả những phẩm chất tuyệt diệu sẽ được thành tựu.

    Đến đây kết thúc phần nói về các giai đoạn thực hành thiền định thực sự, hay chủ đạo.

    Bây giờ chúng ta tới phần kết luận thứ ba, đó là phần hỗ trợ nhữ áo giáp phụ trợ cho thực hành chính. Đây là mục tóm lược.

    21. Trong phần giải thích kết luận
    Bốn chủ đề được thảo luận:
    Các kinh nghiệm trong thiền
    Tăng cường, chứng ngộ và thành quả.
    Sau lời giải thích ngắn gọn này là lời giải thích chi tiết hơn.



    Đầu tiên trong bốn chủ đề là mô tả về những kinh nghiệm sai lầm (có thể xảy ra trong quá trình thiền định).

    22. Các kinh nghiệm thiền có hai loại:
    Những thứ không có khuyết điểm đã được thảo luận ở trên.
    Thứ có khuyết điểm đến từ sự dính mắc và bám chấp
    Về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm
    Những thứ này bao gồm việc bám víu vào những kinh nghiệm
    Hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm.
    Khi xem xét những kinh nghiệm như vậy
    Như các đối tượng tự thân
    Khi bám chấp vào chúng một cách sai lầm
    Và trộn chúng với chất độc
    Hỷ lạc sai lệch báo hiệu dục vọng thô tục
    Hao tổn tinh khí gây ra
    Hầu hết sự bất mãn và ngu độn.
    Tính sáng sai lệch ám chỉ sự nhiễu loạn điên cuồng
    Của khí và những cơn giận thông thường .
    Nó chủ yếu dẫn đến sự lan truyền
    Những ý nghĩ thô tục hoặc kích động.
    Vô niệm sai lệch là trạng thái vô minh thông thường,
    Chủ yếu bao gồm trạng thái trì trệ tinh thần
    Buồn ngủ, uể oải,
    Trạng thái trống rỗng trong tâm trí.
    Khi những trạng thái sai lệch
    Hoặc những trải nghiệm khiếm khuyết như vậy xảy ra,
    Bạn phải xác định chúng
    Và dùng pháp đối trị để tu sửa chúng.


    Nhờ tu luyện theo cách mô tả ở trên, những kinh nghiệm thiền định sẽ xảy ra, có thể là tốt hoặc xấu. Các kinh nghiệm tốt đã được mô tả. Những kinh nghiệm xấu thì vô hạn, nhưng tóm lại chúng có ba loại, kết quả từ việc sai lầm dính mắc và kẹt vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm.

    Khi thiền về hỷ lạc, hành giả dính mắc vào nó. Nghĩ rằng bản tính của tâm là lạc không, anh ta tập trung mạnh mẽ vào chính lạc không. Nghĩ rằng, ngoài thiền định về hỷ lạc như vậy, mọi thứ khác đều là con đường sai lầm. Anh ta coi đó là mục đích tự thân. Anh ta không nhận ra rằng hỷ lạc được trộn lẫn với thuốc độc của dục vọng. Đây là năm triền cái có liên hệ với các pháp đối trị.49 Ngoài ra còn có năm khuyết điểm cần bị loại bỏ. Kinh nghiệm sai lầm về hỷ lạc có hại cho giọt tinh chất và dẫn đến thất thoát giọt tinh hoa. Một dục vọng quá mức phát sinh sẽ dẫn đến việc mất đi sức mạnh. Khi giọt tinh hoa bị xuất tiết, cảm giác buồn chán phát sinh. Vì những giọt tinh túy bị khuấy nhiễu và đục ngầu, tâm trí chìm xuống và trở nên uể oải. Cuối cùng, người ta trở nên dính mắc chặt chẽ vào đối tượng ham muốn của mình.

    Khi thiền về khí (ánh sáng), một lần nữa hành giả phải đấu tranh với năm triền cái liên quan đến pháp đối trị. Hành giả bị dính mắc vào trạng thái sáng, anh ta kẹt trong bản tính của tâm là quang và không, anh ta từ bỏ mọi con đường khác, coi kinh nghiệm về ánh sáng chính là chung cuộc, và anh ta không biết rằng kinh nghiệm về ánh sáng bị nhiễm độc bởi sân hận. Ngoài ra còn có năm khuyết điểm cần được loại bỏ. Đây là thực tế về ánh sáng sai lạc, thứ nhất, có hại có các luồng khí, khiến chúng trở nên cực kỳ hỗn loạn, thứ hai, nó khiến một dạng tức giận tầm thường bùng nổ, thứ ba, nó khiến những suy nghĩ của ta trở nên thô thiển, thứ tư, nó khuấy động các luồng khí và làm nhiễu loạn sự lưu thông của chúng, và thứ năm, nó dẫn đến một tình huống mà ta không còn muốn ở lại cùng một nơi nữa.

    Khi hành giả thiền về vô niệm, anh ta dính mắc vào trạng thái không có ý niệm, anh ta kẹt vào bản tính của tâm như là hoàn toàn trống rỗng; quay lưng lại với mọi con đường khác, anh ta coi trạng thái trống rỗng đó là mục đích tự thân, và anh ta không biết trạng thái vô niệm bị ô nhiễm bởi chất độc của tính vô minh. Sau đó, đây là năm triền cái liên quan đến pháp đối trị. Sau đó có năm khuyết điểm cần bị loại bỏ. Một kinh nghiệm sai lệch về vô niệm sẽ gây hại cho trạng thái không suy nghĩ (của nhận thức phi khái niệm). Trạng thái trống rỗng này của tâm trí trở thành trạng thái vô định của tính vô minh tầm thường. Nó buồn tẻ vì không có tính sáng suốt, nó mịt mờ vì không minh mẫn. Do không bị loại bỏ, trở thành sáng trần trụi, tâm trí chỉ trống rỗng. Trong trạng thái hoàn toàn trống rỗng của tâm trí, trống rỗng và không tỉnh giác, mọi vận hành của nhận thức đều dừng lại.

    Tóm lại, điều này dẫn đến ba mươi kinh nghiệm sai lầm. Đối với phương pháp thông thường để sửa chữa chúng, điều cần thiết là phải xác định từng kinh nghiệm và áp dụng pháp đối trị tốt nhất theo từng trường hợp. Điều này dễ hiểu. Tuy nhiên, có một cách phi thường mà qua đó những kinh nghiệm sai lệch này được sửa chữa bằng một điểm then chốt duy nhất, đó là nhận ra tính giác của hành giả. Sau khi xác định được bất kỳ trở ngại nào phát sinh, hành giả nên, với lòng sùng kính và cầu nguyện mạnh mẽ tới đạo sư của mình, cầu xin phúc lành của người đó. Sau đó, hành giả nền tìm kiếm nguồn gốc của chướng ngại, nơi nó trú ngụ, và người bị tổn hại vì nó. Và khi không tìm thấy gì, hành giả nên nghỉ ngơi trong trạng thái sáng suốt của tâm tỉnh giác tươi mới rộng mở trần trụi. Vào thời điểm đó, mọi kinh nghiệm sai lệch sẽ lắng xuống trong sự tỏa rạng của tính giác, và khi đó anh ta trở thành cái được gọi là “hành giả nhận ra các chướng ngại chính là thành tựu”. Vì thực ra, tất cả những gì biểu hiện, mọi thứ xảy ra, mọi sai lệch và mọi phẩm chất chỉ là sự hiển lộ của tính giác, không có gì khác. Khi hành giả khỏe mạnh, đây là sự hiển lộ của tính giác, khi anh ta không vui, đây cũng là tính giác, khi anh ta ốm đau, đây là tính giác.

  20. #20

    Mặc định

    Kinh nghiệm sai lệch về vô niệm được sửa chữa như sau.

    27. Khi một kinh nghiệm sai lệch của vô niệm bộc lộ
    Không bám víu vào nó chính là điểm then chốt để thanh lọc nó
    Khi trạng thái vô minh này được nhận ra
    Và trực tiếp quan sát, nó sẽ ngay lập tức lắng xuống
    Trí tuệ bản nguyên của pháp giới biểu hiện
    Trong trường hợp trì trệ, lờ đờ hoặc trống rỗng tinh thần
    Hãy quán tưởng trong tim bạn một luồng sáng
    Bắn qua huyệt Brahma
    Và ở lại, độ cao một chiếc cung, lơ lửng trong không khí.
    Khi bạn tập trung vào đó
    Tâm trí bạn thoát khỏi mọi hoạt động.
    Đây là một chỉ dẫn quan trọng và sâu sắc.


    Khi thiền trong trạng thái vô niệm, năm khiếm khuyết (triền cái) phát sinh và bao gồm sự bám chấp mạnh mẽ vào pháp đối trị sẽ bị xua tan bằng cách quan sát bản chất của chúng. Bây giờ, đối với năm khiếm khuyết cần loại bỏ, trước tiên là thông qua việc quan sát bản chất trạng thái vô minh thông thường của tâm trí mà sự sáng suốt trong trẻo của trạng thái vô niệm được khơi dậy. Ngay tại khoảnh khắc đó, trạng thái vô minh thông thường lắng xuống trong trí tuệ nguyên thủy của pháp giới. Cũng như trước, tính trì trệ, lờ đờ và trống rỗng của tâm trí đều bị xua tan bằng cách khơi dậy trạng thái sáng suốt trong trẻo. Chúng cũng có thể bị xóa tan bằng cách tập trung vào một luồng sáng rực rỡ, có hình dạng giống như một quả trứng, bắn lên từ tim và lơ lửng trong không gian (trên đầu) ở khoảng cách một cây cung. Đây là một chỉ dẫn cốt lõi được gọi là “tiết lộ trạng thái sáng suốt của tính giác”. Nó đã được truyền lại cho chúng ta từ vị thầy Garab Dorje.

    Bài giảng này dành cho các hành giả thuộc hàng trung căn, kết luận như sau.

    28. Nói chung, điều quan trọng là không được dính mắc vào bất cứ thứ gì.
    Nếu bạn không có hy vọng hay sợ hãi,
    Bạn sẽ thoát khỏi mọi chướng ngại.
    Nghỉ ngơi trong trạng thái thanh tịnh
    Bản tính sáng chói và trống rỗng của tâm trí
    Nơi không có những suy nghĩ lan man nẩy nở
    Khi đó bạn chắc chắn sẽ thoát khỏi những con đường nguy hiểm
    Của những chướng ngại và khuyết điểm cần phải từ bỏ.


    Khi bản chất của những chướng ngại, cùng các hoàn cảnh tốt và xấu được nhận ra, thì đơn giản là không có gì ngoài (sự hiển thị của tính giác). Chỉ cần tự đặt mình vào trạng thái tỉnh giác, trống rỗng, sáng ngời và thoát khỏi mọi quy định, hành giả sẽ xóa tan mọi chướng ngại có thể xảy ra. Như đã nói trong Đạo Ca:

    Bất cứ thứ gì bạn có thể dính mắc vào, hãy từ bỏ nó.
    Khi bạn chứng ngộ, mọi thứ chỉ là (tính giác).
    Hành giả hạ căn có thể loại bỏ chướng ngại theo những cách sau đây.


    29. Những hành giả thuộc có năng lực thấp nhất
    Tu sửa kinh nghiệm khiếm khuyết của họ
    Bằng cách áp dụng hành động ba phần:
    Thông qua cái nhìn chăm chú, thông qua các các yếu tố vật chất,
    Và thông qua các liên kết cát tường.
    Cách nhìn chăm chú thuộc về
    Thế ngồi bảy điểm của Đại Nhật
    Hai chân bắt chéo, cái nhìn không dao động,
    Hơi thở chậm,
    Hai tay kết ấn thiền,
    Cổ hơi cong,
    Đầu lưỡi đặt trên vòm miệng,
    Mắt nhìn xuống dọc theo mũi,
    Tâm khí nhờ vậy được giữ cân bằng
    Và thiền định nhất tâm hoàn hảo
    Thoát khỏi sự biểu hiện của hôn trầm, trạo cử.
    Vì mọi sai lệch đều phát sinh từ sự nhiễu loạn
    Của các kinh mạch, khí và giọt tinh chất
    Và những thứ này lại phát sinh thông qua sự nhiễu loạn
    Của các điểm then chốt trên thân thể.
    Vì vậy, điều quan trọng là phải giữ chúng không bị xáo trộn
    Trong trạng thái thiền định quân bình
    Vì mọi phẩm chất tốt đẹp
    Khi các mạch, khí, giọt tinh hoa
    Không bị xáo trộn và vận hành đúng cách
    Điều cần thiết là bạn phải hiểu
    Các yếu huyệt của thân thể.


    Mọi trở ngại và sự bất lực không thể tiến bộ trong quá trình thực hành đều xuất phát từ thực tế là người ta không biết những điểm chính của tư thế cơ thể và khi nào, làm thế nào để tập trung vào các kinh mạch và luồng khí. Ngược lại, mọi điều tuyệt diệu đều đến từ việc thực hiện đúng đắn những điểm chính yếu của tư thế thân thể của hành giả. Mọi cảm giác dễ chịu, khó chịu, cùng với toàn bộ kinh nghiệm thiền định tốt và xấu đều xảy ra thông qua hoạt động tốt và xấu của các mạch, khí và giọt tinh chất của tổ hợp thân kim cương. Có một câu chuyện trong kinh văn Luật Tạng rằng một số con khỉ, sau khi quan sát một vị Duyên Giác, đã đi đến khu rừng nơi các con khỉ khác sinh sống. Chúng quan sát thấy một vài con trong số chúng đang nằm xuống, một số con thì tức giận hung hăng, vân vân. Những con khỉ mới đến đã áp dụng các điểm chính của tư thế thân thể (mà chúng đã học được khi quan sát vị Duyên Giác). Kinh ngạc, những con khỉ khác đã bắt chước chúng và trong một thời gian ngắn đạt được bốn định và năm loại tri thức siêu nhiên.

    Vì vậy, chỉ cần ngồi thẳng, giữ tư thế khoanh chân, với ánh mắt không lay chuyển, hai tay trong ấn thiền, đầu lưỡi chống lên vòm miệng, cổ hơi cong, hơi thở nhẹ nhàng chậm rãi, ánh mắt hạ xuống, hành giả sẽ thấy rằng thiền định nhất tâm sẽ tự nhiên đến vì các kinh mạch, khí, giọt tinh chất được đưa vào tầm kiểm soát tự nhiên, sự tỉnh giác của hành giả vẫn duy trì trong trạng thái tự nhiên của nó. Vào lúc đó:

    30. Trong các bài tập yoga
    Và những phần tu luyện khác của thân thể
    Một điểm quan trong là duy trì
    Trạng thái thoải mái không gượng ép
    Không có bất cứ kích động nào
    Điểm quan trọng nữa là
    Cách giữ hơi thở nhẹ nhàng
    Sẽ có lợi từ cách mạnh mẽ
    Và ngược lại
    Cách nín thở mạnh mẽ sẽ có lợi từ cách nhẹ nhàng.
    Thực hành đúng thể trạng của bạn
    Là vấn đề có tâm quan trọng tối cao.


    Rèn luyện thể chất giúp người ta tập trung vào các điểm then chốt của các kinh mạch và khí. Khi gắn kết với các bài tập yoga bất tử với 32 giai đoạn của nó, và trong các bài tập tương tự khác liên quan đến các mạch và khí, hành giả nên tiến hành theo cách thư giãn và thả lỏng mà không có bất cứ kích động nào về thể chất. Đây là điểm then chốt quan trọng. Cách nín thở nhẹ nhàng sẽ được tăng cường bằng cách nín thở mạnh mẽ, còn cách nín thở mạnh mẽ sẽ được hưởng lợi từ cách nín nhẹ nhàng. Cả hai cách thở đều được hỗ trợ bởi khí trung tính.53 Đây cũng là một điểm then chốt quan trọng.

    Sau đây là giải thích chi tiết về những điểm chính của thân thể liên quan đến ba pháp thiền về hỷ lạc, sáng suốt và vô niệm.

    31. Đặc biệt, khi thực hành về hỷ lạc
    Điểm quan trọng là bạn phải khoanh tay ngang khủy,
    Mắt nhìn xuống, trong khi tập trung tâm trí vào hỷ lạc.
    Khi thực hành tính sáng,
    Tay bạn đặt úp lên gối;
    Hơi thở nên nhẹ nhàng,
    Và mắt bạn cần nhìn thẳng vào không trung.
    Mặt khác, trạng thái vô niệm đạt được
    Nhờ việc duy trì thế ngồi bảy điểm.


    Khi thiền về hỷ lạc, ngoài việc ngồi trong tư thế bảy điểm, thì việc bắt chéo hai tay cũng là một điểm then chốt, vì điều này gợi ra kinh nghiệm về hỷ lạc và đưa các thành phần thiết yếu cùng các luồng khó vào tầm kiểm soát. Đối với thiền về tính sáng, cổ của hành giả nên hơi cong về phía sau, tay nên che đầu gối, hơi thở nên chậm rãi nhẹ nhàng, mắt nên nhìn thẳng vào không gian. Đây là những điểm then chốt để an trú trong trạng thái thực sự của tính sáng. Trạng thái vô niệm sẽ được hoàn thành chỉ bằng cách duy trì trong tư thế bảy điểm.

    Ba yếu tố vật chất có thể được áp dụng để khắc phục những chướng ngại hoặc kinh nghiệm sai lệch.

    32. Yếu tố vật chất là
    Một nơi thực hành phù hợp với thời điểm trong năm
    Người đồng hành và đồ ăn (cả thực phẩm và đồ uống).
    Áp dụng bất cứ điều gì giúp cho kinh nghiệm.


    Các yếu tố vật chất liên quan đến thiền về hỷ lạc bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm bổ dưỡng, thuốc và viên mật ong, cũng như sự đồng hành của một mudra, hoặc vị phối ngẫu đủ tiêu chuẩn. Những thứ liên quan đến thiền về hỷ lạc bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm làm mát và các địa điểm ở độ cao có tầm nhìn rộng. Liên quan đến thiền về vô niệm, những cân nhắc về vật chất gồm các địa điểm ấm áp và tối tăm, thực phẩm tạo nhiệt và cách sinh hoạt thoải mái, chậm rãi.

    Có ba cách để sửa chữa những kinh nghiệm sai lệch thông qua việc tạo ra những kết nối tốt lành.

    33. Việc tạo ra các mối liên hệ tốt lành
    Đối phó với việc mất tinh khí,
    Một dây ba sợi chỉ được một thiếu nữ bện thành
    Và được gia trì thần lực bởi mật chú
    Nên được buộc quanh eo bạn.
    Việc này ngăn ngừa các chất lỏng tinh yếu bị xuất lậu.
    Khi những ý nghĩ nảy nở
    Trạng thái vô niệm đạt được
    Nhờ nuốt một viên thuốc gồm có
    Đàn hương, nghệ tây rắn hổ, và “mỡ lớn”.
    Trong những lúc tinh thần uể oải, nếu bạn uống
    Một viên thuốc gồm có nghệ tay, long não, bồ đề tâm,
    Sự tập trung sẽ đạt được, các mật điển nói.


    Nếu trong kinh nghiệm về hỷ lạc, tinh dịch bị xuất tiết, hành giả nên quán mình trong hình dạng của một vị thần phẫn nộ và, trong khi trì tụng thần chú hung tợn, hành giả nên thắt bảy nút trong một dây chỉ ba sợi được dệt bởi một cô gái trẻ chưa bị vấy bẩn bởi quan hệ tình dục. Hành giả nên buộc nó quanh eo hông và buộc đầu dây quanh chân đến của chày kim cương. Nếu hành giả ngủ với một dụng cụ như vậy tại chỗ, giải pháp sẽ được tìm thấy.

    Khi những ý niệm sinh sôi, kinh nghiệm sáng suốt bị lu mờ. Nếu, khi bụng đói, hành giả dùng một việc thuốc làm từ cây đàn hương trắng và đỏ, nghê tây của naga (tức rắn hổ mang), và “mỡ lớn”,54 thiền định nhất tâm sẽ được thành tựu.

    Sự trì trệ và hôn trầm của tinh thần đánh cắp kinh nghiệm vô niệm. Những trạng thái này bị xua tan thông qua việc uống một viên thuốc có chứa long não, nghệ tây, bồ đề tâm đen và đỏ. Đây là chi tiết trong mật điển Mayajala:

    Đàn hương, nghệ tây hổ mang, và mỡ lớn
    Với những thứ này trâm trí phát triển an bình tự nhiên
    Định được thành tựu.
    Nghệ tây, long não và bồ đề tâm
    Là vật liệu giác ngộ,
    Giống như không gian, bất hoại
    Một hành giả tiêu thụ Aksobhya
    Sẽ vượt qua tuổi già.


    Sau đó, chúng ta đến với các phương pháp để tăng cường trí tuệ nguyên thủy của hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm. Phần này bao gồm các giáo lý chung và riêng. Đầu tiên, phương pháp chung được mô tả như sau.
    Last edited by Ẩn Tiên; 18-06-2025 at 08:09 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Nghệ thuật Múa Răng trong Tuồng cổ Trung Quốc vai nhân vật Quỷ
    By Bin571 in forum Nét Văn hóa, Văn Minh của các nước khác
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 10-01-2024, 03:15 PM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 05-01-2008, 06:57 AM
  3. Trạng thái đạt đến trong Thiền định
    By do anh tuan in forum Thiền Tông
    Trả lời: 10
    Bài mới gởi: 12-11-2007, 07:17 PM
  4. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 01-11-2007, 12:24 PM
  5. 'Ma thường xuất hiện trong ngày nghỉ'
    By HellBoy in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 16-10-2007, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •