kết quả từ 1 tới 19 trên 19

Ðề tài: Pháp Siêu Việt

  1. #1

    Mặc định Pháp Siêu Việt

    PHÁP SIÊU VIỆT


    Những Chỉ Dẫn Cốt Lõi về các giai đoạn Đột Phá và Vượt Qua trực tiếp của Dzogchen
    Một Biên Soạn Hai Văn Bản Về Đại Toàn Thiện


    Tác giả: Dudjom Rinpoche và Dudjom Lingpa
    Với chú thích của đạo sư Gyatrul Rinpoche


    Dịch sang tiếng Anh: Chandra Easton & B Alan Wallace
    Việt dịch: Ẩn Tiên

    NỘI DUNG


    LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI DỊCH

    LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI DỊCH của Chandra Easton

    CUỐN MỘT

    Pháp ngu si của một tên ngốc lấy bùn và lông vũ làm quần áo của Dudjom Lingpa, dịch bởi Chandra Easton và B. Alan Wallace.

    CUỐN HAI

    Một lời giải thích về thực hành Vượt Qua, từ tài liệu nguồn được biết đến là Ngọc Như Ý của Thành Tựu: Cuốn cẩm nang về Hai Giai Đoạn của Giọt Tâm trên con đường sâu xa của các Dakini của Dudjom Rinpoche, dịch bởi Chandra Easton và B. Alan Wallace.

    CHÚ THÍCH

  2. #2

    Mặc định

    HƯỚNG DẪN CỤ THỂ VỀ ĐỘC GIẢ PHÙ HỢP VỚI CUỐN SÁCH NÀY, THỂ THEO Ý ĐỊNH VÀ MONG MUỐN CỦA GYATRUL RINPOCHE TÔN KÍNH VÀ B. ALAN WALLACE

    Như thường lệ, đối với giáo lý Kim cương thừa, các văn bản trong tập sách này chỉ giới hạn cho “những độc giả phù hợp”.

    Cụ thể, những người tha thiết mong muốn đạt đến giải thoát và giác ngộ là loại độc giả mà cuốn sách này hướng tới. Những người như vậy sẽ không bị ám ảnh bởi thành công vật chất, nhưng do hiểu được Diệu Đế thứ nhất về đau khổ, sẽ quay lưng lại với những cám dỗ của vòng luân hồi.

    Những độc giả phù hợp sẽ tôn vinh các giáo lý Phật căn bản có trong Thanh Văn thừa, và họ cũng tôn kính Đại Thừa, bao gồm cả việc tu tập Tứ Vô Lượng Tâm, Sáu Ba La Mật, cùng những hiểu biết sâu sắc được trình bày trong quan điểm Du Già Hành Tông và Trung Quán Tông.

    Ngoài ra, họ sẽ coi trọng tất cả các lớp bên ngoài, bên trong và bí mật của mật tông, có mong muốn chân thành thực hành các giai đoạn đột phá và vượt qua của Đại Toàn Thiện.

    Cuối cùng, những độc giả phù hợp sẽ đối xử với cuốn sách này với thái độ tôn kính và cẩn thận.

    LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI DỊCH

    Pháp Siêu Việt: Những chỉ dẫn cốt lõi về các giai đoạn Đột Phá và Vượt Qua trực tiếp của Dzogchen là một tuyển tập gồm hai tác phẩm do hai trong số những bậc thầy Dzogchen vĩ đại nhất của Phật giáo Tây Tạng trong lịch sử gần đây biên soạn, Dudjom Lingpa (1835 – 1904), và hóa thân tiếp theo của ngài, Dudjom Rinpoche (1904 – 1987). Cuốn Một của Pháp Siêu gồm bản dịch đầy đủ của Pháp ngu si của một tên ngốc lấy bùn và lông vũ làm quần áo của Dudjom Lingpa,1 một kho tàng tâm (dgong sgter) từ các tác phẩm được sưu tầm của ngài, trình bày cái thấy, thiền định và hành động của giai đoạn đột phá (tregcho) của thực hành Dzogchen. Cuốn Hai bao gồm bản dịch một phần của Dudjom Rinpoche Viên ngọc như ý của các thành tựu: Cẩm nang về hai giai đoạn của Giọt Tâm trên con đường sâu sắc của các Dakini,2 từ cuốn Ma trong các tác phẩm sưu tầm của ngài. Văn bản thứ hai này bao gồm bản tóm tắt ngắn gọn về đột phá, và giải thích đầy đủ về giai đoạn vượt qua trực tiếp (thogal) của thực hành Đại Toàn Thiện. Cả hai tác phẩm đều đi kèm với bình luận bằng lời của đức Gyatrul Rinpoche, mà ngài đã đưa ra vào mùa hè năm 1998, tại nhà của ngài gần Half Moon Bay, California. Cùng nhau, hai tác phẩm này trình bày đầy đủ về kiến, thiền, hành của hai giai đoạn Dzogchen.

    TIỂU SỬ NGẮN CỦA DUDJOM LINGPA 3

    Còn được gọi là Garwang Dudjom Pawo, Dudjom Lingpa sinh ra ở vùng Golok thuộc miền đông Tây Tạng vào ngày thứ mười của tháng đầu tiên thuộc năm con Cừu. Theo một số lời tiên tri cổ xưa và gần đây, được viết bởi một trong những hóa thân tiếp theo của ngài là bậc thánh Dudjom Rinpoche, những hóa thân trước đây của ngài bao gồm các vị thầy sau đây của truyền thống Phật giáo:

    1. Nuden Dorje Chang: vị Phật đã ban quán đỉnh cho tất cả một ngàn vị phật của hiền kiếp cát tường này.
    2. Sariputra
    3. Saraha
    4. Krishnadhara
    5. Humkara
    6. Drogpen Kyeuchung Lotsa
    7. Smrtinana
    8. Rongzom Chokyi Zangpo
    9. Dampa Deshek
    10. Lingje Repa
    11. Chogyal Karnagpa
    12. Drumgyi Karnagpa
    13. Hepa Chojung
    14. Tragtung Duddul Dorje
    15. Sonam Detsen
    16. Duddul Rolpa Tsel

    Theo tự truyện của Dudjom Lingpa,1 trong ba năm đầu đời, ngài đã nhìn thấy vô số dakini và các vị hộ thần đang nhìn xuống ngài. Có lần, một dakini dẫn ngài đến Oddiyana, cõi của các vị dakini, nơi ngài gặp Vajravahari, người đứng đầu các dakini, người mà ngài đã nhận được những phúc lành lớn lao. Trong thời niên thiếu, ngài cũng dành một ngày nhân loại tại Zangdok Palri, trên tiểu lục địa Ngayab Ling, tương đương với mười hai năm trong thời gian của cõi đó. Tại đó, ngài đã nhận được giáo lý từ chính đức Liên Hoa Sinh. Trong nhiều dịp khác nhau, ngài cũng nhận được những lời tiên tri từ người phối ngẫu của đức Liên Hoa Sinh là Yeshe Tsogyal, người đã chăm sóc ngài như thể ngài là con trai của bà.

    Dudjom Lingpa có tám người con trai tâm linh nổi tiếng, bao gồm Jigme Tenpay Nyima, Dodrupchen Rinpoche thứ ba (1865 – 1926), một học giả uyên bác và lão luyện về cả kinh điển lẫn mật điển. Trong suốt đời mình, Dudjom Lingpa đã thực hiện nhiều phép lạ, ngài đã đạt được những chứng ngộ cao nhất của các giai đoạn phát sinh và thành tựu, cũng như Đại Toàn Thiện. Người ta nói rằng mười ba đệ tử của ngài đã đạt được thân cầu vồng, và một nghìn người đã trở thành trì minh, thông qua tuệ quán sâu sắc về bản tính nền tảng của tính giác.

    Những hóa thân tiếp theo của Dudjom Lingpa bao gồm bậc thánh Dudjom Rinpoche, Jigdral Yeshe Dorje, hiện thân về ý của ngài, Tulku Kunzang Nyima, hiện thân về lời của ngài, Sonam Dếtn, hiện thân về thân của ngài, Jamyang Nátog Rangdrol, còn được gọi là Dorje Dragtsel Lingpa, hiện thân về các hoạt động giác ngộ của ngài, và Tulku Drachen, hiện thân về các phẩm tính giác ngộ của ngài.

    TIỂU SỬ NGẮN VỀ DUDJOM RINPOCHE 5

    Bậc thánh Dudjom Rinpoche, Jigdral Yeshe Dorje, sinh ra tại vùng Pemako, đông nam Tây Tạng, vào ngày 23 tháng 4 theo lịch Tây Tạng, năm 1904. Mẹ của ngài là Namgyal Drolma, cha ngài là Tulku Jampel Norbu, một hoàng tử xứ Kanam và là hậu duệ trực tiếp của vua Trisong Detsen. Người ta nói rằng Dudjom Rinpoche sinh ra khi người tiền nhiệm của ngài, Dudjom Lingpa, vẫn còn sống, và chính Dudjom Lingpa đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về nơi hóa thân thực sự của ngài sẽ tái sinh.6

    Khi Dudjom Rinpoche còn là một đứa bé, ngài đã nhận được truyền thừa và ban phúc trực tiếp từ Majushri, Guru Rinpoche và Yeshe Tsogal. Ngài đã nhận được từ tất cả các dòng truyền của truyền thống Nyingma từ các đạo sư tâm linh của mình, cụ thể là Phungong Tulku Gyurme Ngedron Wangpo, Jedrung Trinley Jampa Jungney, Gyurme Phendey Ozer, Namdrol Gyatso của Mindroling, Gendun Gyatso và Khenpo Aten. Người ta nói rằng, ở tuổi mười bốn, ngài đã ban toàn bộ quán đỉnh và truyền khẩu Kho tàng các terma quý giá (rin chen gter mdzod), một bộ sưu tập các terma từ dòng Nyingma. Từ đó trở đi, ngài tiếp tục ban quán đỉnh về các chu kỳ terma khác nhau, trong khi biên soạn nhiều nghi quỹ của riêng mình. Ở tuổi mười bảy, ngài đã biên soạn chuyên luận đầu tiên của mình về Dzogchen và được nhiều người ca ngợi. Người ta nói rằng nhiều học trò của ngài ở Tây Tạng và khắp các vùng Himalaya đã thể hiện các dấu hiệu giác ngộ hoàn toàn.

    Mặc dù ngài thông thạo tất cả các dòng truyền thừa của Phật giáo Tây Tạng, Dudjom Rinpoche đặc biệt duy trì truyền thống Mindroling ở miền trung Tây Tạng. Trụ sở chính của ngài là tại Pema Choling, mặc dù ngài cũng dành nhiều thời gian ở Kongpo và Puwo ở đông nam Tây Tạng. Dudjom Rinpoche rời Tây Tạng cùng gia đình vào năm 1958. Họ đã đến Ấn Độ, Nepal, Sikkim, nơi ngài thành lập nhiều cộng đồng Phật giáo như Zangdok Palri, ở Kalimpong và Duddul Rapten Ling ở Orissa, và các tu viện Phật giáo ở Tsopema Rewalsa, Himachal Pradesh và Bonath ở Nepal. Trong những năm cuối đời, Dudjom Rinpoche đã đi khắp Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ, nơi ngài giảng dạy và thành lập nhiều trung tâm nhập thất, chẳng hạn như Hội Bí Truyền Kim Cương Thừa Hongkong, Dorje Nyingpo và Orgyen Cho Dzong, ở Mỹ. Điều thú vị là hoạt động này phù hợp với những dự đoán trước đo của Dudjom Lingpa rằng Các Kho Tàng Mới của ngài sẽ lan truyền khắp thế giới và đặc biệt là tại phương Tây.
    Vào ngày 18 tháng 11 năm Hổ Lửa (17 tháng 1 năm 1987) Dudjom Rinpoche nhập niết bàn tại nhà riêng của mình ở Dordogne, Pháp.

    Dudjom Rinpoche là một terton vĩ đại, người đã khám phá ra nhiều kho tàng giáo lý, mà chúng vẫn được thực hành và truyền bá trên khắp thế giới ngày nay. Đặc biệt, những tiết lộ của ngài chủ yếu bao gồm lớp kho tàng tâm trực tiếp của các vidyadhara, liên quan đến các tantra nội của mật Thần Chú Bí Mật Thừa. Những giáo lý này được cho là vô cùng sâu sắc vì chúng có thể mang lại giác ngộ trong một kiếp thông qua việc thành tựu thân cầu vồng vào lúc chết.

    Từ khi qua đời, Tuyển tập các tác phẩm của Dudjom Rinpoche đã được xuất bản tại Ấn Độ, cùng với Tuyển tập các giáo lý truyền thừa của các đạo sư Nyingma, một tác phẩm gồm 55 tập mà ngài bắt đầu viết khi đã 74 tuổi. Một tác phẩm nổi tiếng khác của ngài là Lịch sử chính trị Tây Tạng mà đức Dalailama 14 đã yêu cầu ngài viết.

    CHANDRA EASTON VÀ B. ALAN WALLACE
    2008

    LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI DỊCH

    Năm 1998, đức Gyatrul Rinpoche đã giảng dạy về Bùn và Lông vũ của Dudjom Lingpa, và Ngọc Như Ý của các thành tựu của Dudjom Rinpoche cho một nhóm nhỏ học viên tạo nhà của ngài gần Half Moon Bay, California, khi đó Alan Wallace làm phiên dịch. Vào mùa thu năm 1998, Alan, người mà tôi đã học cùng tại Đại Học California, Santa Barbara, đã yêu cầu tôi làm việc với ngài về việc dịch thuật các văn bản gốc, cũng như biên tập các chú thích của Gyatrul Rinpoche để chuẩn bị xuất bản. Sau khi có được các văn bản và chú thích từ Mirror of Wisdom, tôi bắt đầu dịch các văn bản gốc, sau đó tôi so sánh với bản dịch bằng lời của Alan. (Năm 2008, dưới sự chỉ đạo của đức Gyatrul Rinpoche, Mirror of Wisdom đã được tái lập thành một tổ chức phi lợi nhuận tên là Vimala Publishing). Tôi gặp Alan hàng tuần để xóa tan những điểm mà tôi không chắc chắn về ý nghĩa của các văn bản. Tôi cũng có nhiệm vụ biên tập các chú thích sâu sắc và sống động do Gyatrul Rinpoche đưa ra, sau đó tôi thêm vào văn bản gốc dưới dạng chú thích cuối trang theo yêu cầu của Rinpoche.

    Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành của mình đến Gyatrul Rinpoche và Alan Wallace vì đã cho tôi cơ hội làm việc gần gũi với những giáo lý sâu sắc này. Tôi đã hoàn thành bản dịch các văn bản này chỉ ba ngày trước khi đứa con đầu lòng của tôi, Tara, chào đời vào mùa xuân năm 2000. Tôi vô cùng vui mừng khi biết rằng cô bé đã được hưởng lợi theo một cách nào đó từ những giáo lý này ngay khi còn trong bụng mẹ.

    Tôi cũng muốn cám ơn người bạn thân và đồng nghiệp Calvin Smith, người đã đóng góp công sức vào việc biên tập bản dịch này, cũng như mẹ tôi, Jeanine Kuhrts, một người thực hành pháp trong hơn ba mươi năm, vì đã đưa ra những gợi ý hữu ích trong việc biên tập. Tôi cũng muốn cám ơn Lindy Steele, Christine Moen, và những người ở Vimala Publishing đã giúp đưa bản dịch này ra in ấn.

    Do tính chất bí truyền của những văn bản này, được viết bằng “ngôn ngữ hoàng hôn” của Dzogchen, có thể có những lúc bản dịch có vẻ tối nghĩa hoặc khó hiểu. Theo truyền thống, các văn bản Dzogchen được cố ý viết theo cách này để bất cứ ai muốn nghiên cứu chúng trước tiên phải tìm kiếm sự hướng dẫn từ một vị thầy đủ tiêu chuẩn. Vì lý do này, chúng tôi đã kiềm chế sự cám dỗ để thêm vào những từ có thể dẫn đến việc đọc văn bản một cách dễ dàng, và phần lớn chúng tôi lựa chọn tuân thủ dịch sát nghĩa văn bản Tây Tạng. Chúng tôi đã in nghiêng hầu hết các thuật ngữ tiếng Phạn và tiếng Tạng khi chúng xuất hiện lần đầu trong văn bản, để báo hiệu sự xuất hiện của một thuật ngữ mới. Định nghĩa của hầu hết các thuật ngữ kỹ thuật có thể được tìm thấy trong phần chú giải ở cuối văn bản. Tất cả các chú thích cuối trang đều là của Gyatrul Rinpoche, trừ trường hợp đặc biệt khác. Mặc dù rôi đã được hướng dẫn và hỗ trợ tuyệt vời trong quá trình dịch văn bản này, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về bất kỳ lỗi nào có thể còn sót lại. Tôi hoan nghênh ý kiến từ các học giả và học viên đóng góp vào tính chính xác của tác phẩm này.

    Do trình độ cao cấp của những giáo lý này, và theo truyền thống, Gyatrul Rinpoche đã chỉ định tác phẩm này là tài liệu hạn chế và khuyên rằng nó chỉ dành cho những người đã được truyền khẩu và nhận quán đỉnh ở cấp độ tương ứng.

    Cầu cho chúng sinh thoát khỏi đau khổ và đạt được giác ngộ vô song vì lợi ích của mọi người.

    CHANDRA EASTON
    BERKELEY, CALIFORNIA
    Mùa thu 2011

  3. #3

    Mặc định

    CUỐN MỘT

    Pháp Môn Ngu Si của một tên ngốc lấy bùn và lông vũ làm quần áo

    DUDJOM LINGPA

    Với chú giải của ngài Gyatrul Rinpoche tôn kính

    Dịch bởi Chandra Easton & B. Alan Wallace

    Ngay lập tức, thức tỉnh từ giấc ngủ sâu của tâm trí 1 vào nơi trú ngụ của cõi phật Akanista,2 pháp giới không có cực đoan.
    Tính giác của riêng tôi đã phát sinh như người khám phá 3 pháp thân, đấng không dao động, vĩ đại, toàn thể.

    Sự tự biểu hiện của tâm thức nguyên thủy, tự nhiên,4 xuất hiện như sự biểu hiện của vô số đệ tử,5

    Và hào quang tự nhiên từ tính giác của tôi xuất hiện tự phát như không gian bao la của Đại Toàn Thiện

    Eh Ma Ho! Thật tuyệt vời!


    Có thể có những người khao khát và mong muốn sâu sắc con đường duy nhất của tất cả các đấng chiến thắng, những người biết rằng họ đã đến ngã ba đường, và những người không chắc chắn về cách do tầm nhìn bị mù mờ. Đối với những người tìm kiếm phương hướng, tôi đoán đây là cách mà tôi, một ông già quen thuộc với con đường, có thể đáp ứng.
    Có thể có một số học giả, nổi tiếng vì trí tuệ vĩ đại của họ, đã khéo léo hạ thấp và làm dụng giáo pháp, và những cá nhân khác, đã từ bỏ giáo pháp và phạm phải gốc rễ tội lỗi, bị đẩy vào vực sâu của đại dương luân hồi do nghiệp chướng của họ đã chín muồi. Nếu ngay cả lời nói của đấng chiến thắng cũng chẳng khiến họ hài lòng, thì còn điều gì khác khiến họ thỏa mãn?6

    Nếu, theo quan điểm của những người có con mắt trí tuệ và hành vi mẫu mực, tôi đã phạm phải sai lầm theo bất cứ cách nào, tôi xin sám hối và tiết lộ tất cả những vi phạm về hành vi, tội lỗi, và sa ngã 7 mà tôi đã tích lũy trong suốt các kiếp trước của mình. Cầu mong những hành vi sai trái đó được thanh lọc, rửa sạch, và cầu mong tôi được ban cho thành tựu tối cao.

    Tôi đã ngồi dưới chân các vị thầy cao cả và những người bạn đạo, uống mật hoa của giáo pháp, nhưng tôi vẫn chưa trở thành một người có thẩm quyền. Tuy nhiên, đôi khi tôi, một kẻ ngốc, đã thực hành những thiền định ngu ngốc mà tôi tự tạo ra. Đôi khi, những người khác đã chỉ dẫn cho tôi thông qua những hình ảnh huyễn ảo của các giấc mơ,9 và mặc dù tôi đã phân tích và cố gắng rất nhiều để thực hành chúng, nhưng vì tôi chưa gặp được một người cố vấn tinh thần nào hướng dẫn tôi trên con đường, tôi đã trở nên tự phụ, kiêu căng và ngạo mạn. Đó là kinh nghiệm của tôi, đó la điều tôi tự phụ gộp chung với chứng ngộ, và tôi vẫn tin tưởng vào điều đó. Mặt khác, tôi thậm chí không có cả một dấu vết của phẩm tính tốt đẹp của tâm thức nguyên thủy phát sinh từ việc thực hành không sai lầm của cái thấy và thiền định chân chính.

    Vì vậy, tôi đã hành động giống như câu cách ngôn nổi tiếng, “Con cầy bề ngoài đang tu luyện thiền định vững vàng nhưng thực ra đang ngủ đông”. Tôi đang tiết lộ hoàn toàn các lỗi lầm của chính mình; tôi tiết lộ điều này mà không che giấu bất cứ điều gì, vì vậy hãy nhìn tôi bằng lòng trắc ẩn. Tuy nhiên, nếu tôi cống hiến tâm huyết của mình với niềm tôn kính lời dạy từ các đạo sư cao cả, thì còn gì để làm ngoài việc viết?

    Theo tôi, nếu bạn không bị “mồi nhử” của lòng kiêu ngạo của chính mình, vốn xuất phát từ lợi ích cá nhân, mà thay vào đó, bạn có suy nghĩ thực sự muốn đạt được điều gì đó chân thực, theo đuổi một nỗ lực lâu dài vì lợi ích của kiếp sau, thì hãy cân nhắc kỹ lưỡng những điều sau và đánh giá hoàn cảnh của chính bạn!12

    Nếu bạn không tận dụng hoàn cảnh hiện tại bây giờ là đang có được một kiếp người quý báu với cảnh nhàn rỗi và các thiên phú, sau này bạn sẽ khó tìm lại nó lần nữa. Tương tự, mặc dù hoàn cảnh đã kết hợp lại để bạn có được tự do, nhưng điều này chẳng là gì khác ngoài một giấc mơ. Nếu bạn lãng phí đời người quý báu này, khiến nó trở nên vô nghĩa, bạn sẽ làm gì khi không còn tự do này nữa? Đó là điểm đầu tiên.

    Trong hoàn cảnh này, khi bạn có nhiều cơ hội, bao gồm một thân thể tuyệt vời, môi trường, bạn bè, đạo sư, thời gian và các chỉ dẫn thực hành, đừng trì hoãn việc tu luyện tinh thần cho đến ngày mai hoặc ngay kia, hãy tạo ra cảm giác cấp bách, như thể một cục than hồng đang cháy đã rơi vào cơ thể bạn hoặc một hạt bụi đã va vào mắt bạn. Nếu bạn không nhanh chóng đưa bản thân vào thực hành với một cảm giác cấp bách, thì khi xem xét sự ra đời và cái chết của những chúng sinh khác, bạn sẽ thấy rằng tuổi thọ và thời điểm chết của chính bạn là không thể đoán trước, và hoàn cảnh của bạn là không chắc chắn. Hãy suy nghĩ và quán niệm về điều này nhiều lần cho đến khi bạn thực sự tích hợp nó vào tâm trí của mình.13 Đó là điểm thứ hai.

    Hiện tại, có thể có những kẻ điên rồ thiếu suy nghĩ, cưỡi trên con ngựa hoang dã, mù lòa của thói lười biếng tâm linh trên đồng bằng của vô số những hiện tượng lừa dối, huyễn ảo. Không có dây cương để kiểm soát con ngựa, họ đánh nó hết lần này đến lần khác bằng cây roi của sự lơ là. Bằng cách trì hoãn những nỗ lực kéo dài trong suốt những kiếp tương lai, từ kiếp này trở đi, họ sẽ không ngừng bị xiên trên những nan hoa sắc nhọn của bánh xe luân hồi và các trạng thái tồn tại khốn khổ.14 Do khí nghiệp mạnh mẽ, họ sẽ bị trói buộc, không có nơi nào để thoát ra, bị đóng khuôn hết kiếp này sang kiếp khác. Gặp phải tình huống đó, sẽ không có tự do.15 Đó là điểm thứ ba.

    Hãy tự hỏi liệu có ai bảo vệ bạn khỏi hố lửa đau khổ to lớn này không, hãy gác lại mối quan tâm đến những gì người khác nghĩ và việc tích lũy các nhu yếu phẩm cho cuộc sống này!16

    Ba điểm này thuộc về lĩnh vực của pháp siêu phàm. Chúng là nguồn cảm hứng để đạt được giải thoát và là người hướng dẫn, bảo vệ, và người bạn duy nhất giúp ta tránh xa những con đường đi xuống ngục tù đau khổ của luân hồi và những trạng thái khốn khổ của tồn tại. Đối với những người thiếu ba điểm này, tinh thần khẩn trương và lòng nhiệt thành giống như sương mùa hè.

    Kye ho!
    Nhờ sự hội tụ và trưởng thành đúng lúc của
    Tương tác nhân quả hoàn hảo giữa
    Các sự kiện tương thuộc của
    Nghiệp và khát vọng,
    Mọi người thấm nhuần nghiệp và vận may
    Đã đạt được an nhàn và sung túc.

    Quả của những gì đã gieo trước đó
    Bị cạn kiệt ngay lúc này,
    Nhưng niềm vui hay nỗi buồn nào xảy ra sau này đều tùy thuộc vào bạn.
    Những hiện tượng của cuộc sống này, chẳng hạn như môi trường và những người đồng hành của bạn,
    Giống như giấc mơ đêm qua.
    Cuộc sống này trôi qua còn nhanh hơn cả tia chớp trên bầu trời.
    Công việc vô nghĩa này không có hồi kết.
    Thật vô lý khi chuẩn bị ở lại vĩnh viễn!
    Dù bạn sinh ra ở đâu trong luân hồi, cao hay thấp,
    Thòng lọng đau khổ khổng lồ sẽ siết chặt bạn.
    Việc giành được tự do cho riêng mình cũng hiếm như một ngôi sao vào ban ngày
    Trong những hoàn cảnh như thế này, làm sao ai đó có thể thực hành hướng tới giải thoát và đạt được nó.
    Gốc rễ của mọi rèn luyện tâm trí và hướng dẫn thực hành,
    Bằng cách nhận ra bản chất sự tồn tại của chính bạn,
    Chẳng là gì khác ngoài chính những ý nghĩ trước đó.
    Tôi, một kẻ ăn xin già, đã dốc hết túi ăn xin của mình ra
    Và phơi bày những gì bên trong.
    Last edited by Ẩn Tiên; 18-11-2024 at 11:01 AM.

  4. #4

    Mặc định

    Sau khi thiết lập ba điểm này làm nền tảng cho thực hành của bạn, với lòng tôn kính không đổi đối với đạo sư, hãy cầu nguyện. Bên ngoài, hãy quán tưởng vị thầy của bạn trên đỉnh đầu, bên trong, hãy quán tưởng rõ ràng cơ thể của mình là vị thầy, và một cách bí mật, chuyển hóa năng lượng tâm ý của chính bạn, và hợp nhất nó một cách phi nhị nguyên với tính giác bản nguyên phi khái niệm với tâm trí vị đạo sư của bạn hết lần này tới lần khác.17 Đó là điểm đầu tiên.

    Hãy nhìn những người bạn đồng hành với lòng kính trọng và quý mến, như thể họ là các anh hùng và không hành nữ, hãy chú ý đến những phẩm chất xuất sắc của tất cả các vị đạo sư và đạo hữu, đừng chú ý đến lỗi lầm của họ! Đó là điểm thứ hai.

    Tương tự, trong luân hồi vô tận, giữa tất cả chúng sinh bị mắc kẹt và bị hành hạ bởi nỗi đau khổ không thể chịu đựng, không có một ai chưa từng là cha mẹ bạn. Vào thời kỳ đó, họ giống như cha mẹ hiện tại của bạn, đã chăm sóc bạn bằng thức ăn ngon và quần áo thoải mái và cung cấp cho bạn những ích lợi không thể tính đếm. Họ chỉ có lòng tốt lớn lao với bạn trong việc bảo vệ bạn khỏi vô số nguy hiểm và đau khổ.

    Về lòng tham của tất cả chúng sinh này, họ khao khát hạnh phúc, nhưng về hành vi thực tế thì những kẻ ngốc đáng thương này lại chỉ gieo mầm và nhân của đau khổ. Đáng thương thay! Hãy chế ngự dòng tâm thức của chính bạn bằng lòng trắc ẩn mạnh mẽ, cho đến khi nước mắt rơi khỏi mắt bạn, khi bạn liên tục và hoàn toàn thấm đẫm tâm trí mình bằng điều này.18

    Không những vậy, bạn phải có động lực can trường để dẫn dắt toàn thể chúng sinh đến giác ngộ toàn tri, vô song, chân thực toàn thiện, và đưa bản thân vào việc thực hành pháp sâu xa, siêu phàm. Bất cứ pháp nào bạn thực hành, hãy hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sinh, không có thành kiến với những người ở gần hoặc xa. Đó là điểm thứ ba.

    Ba điểm này là bản chất cốt lõi của mọi pháp,
    Chúng là gốc rễ của mọi pháp;
    Chúng là nguồn gốc của mọi pháp;
    Chúng là mắt và tứ chi của mọi pháp.
    Nếu thiếu chúng, vất cứ pháp môn nào bạn thực hành
    Cũng sẽ như cái xác không đầu hoặc chân tay.
    Ah Ho!
    Nếu những cá nhân xuất sắc đó muốn đi vào
    Chánh đạo, muốn thực hành pháp siêu phàm
    Họ nên cúng dường vì lợi ích
    Giác ngộ và những lời cầu nguyện tới đạo sư là tổng hợp và bản chất tinh túy của toàn thể chư phật.
    Và họ nên nhận được các quán đỉnh và thành tựu từ người cố vấn tâm linh của mình.
    Mọi thức ăn, đồ uống, quần áo, trang sức, của cải, hoạt động và nghỉ ngơi.
    Được chuyển hóa thành con đường như ganachakra cúng dường, tán thán và đi nhiễu.
    Với lòng kính trọng đối với các bạn đồng hành và các kim cương hữu trên con đường, những người có chung samaya
    Hãy luôn coi họ là hóa thân của các vira và dakini 20
    Điều quan trọng là phải cảm nhận được tình cảm chân thành, lòng tôn kính và tính công bằng,
    Không có cảm giác gần gũi hay xa cách đối với điều tốt hoặc điều xấu
    Tất cả chúng sinh đều đã từng là cha mẹ bạn, chỉ cho bạn lòng tốt vô bờ
    Đã chìm xuống đầm lầy đau khổ và nên được nhìn nhận với lòng trắc ẩn
    Không bao giờ loại bỏ chúng sinh trong tâm trí, hãy kiến tạo hạnh phúc trong họ và tha thiết mang đến trái tim can trường, biến nó thành lời thề trang trọng của bạn.


    Đây là khát vọng sâu xa nhất của tôi, nhưng trong khi nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ những kẻ ngốc như chính tôi, tôi không có phẩm chất thông thái, cũng không có kỹ năng biên soạn. Hãy biết rằng không bao giờ cách ly khỏi ba điểm này, vì chúng giống như mảnh đất màu mỡ để thực hành và như nền móng của một tòa nhà.

    Sau đó, tôi nghĩ đến việc mặc những bộ quần áo đẹp và ấn tượng rồi đi đến một khu chợ lớn, nhưng khi thấy mình không có quần áo, tôi đã bôi bùn lên người và đặt lên bùn nhiều cành cây, cỏ, hoa và lông vũ. Bây giờ tôi sẽ giải thích suy nghĩ ngu si của một kẻ lấy bùn và lông vũ làm quần áo, như thể chúng là những bộ quần áo và đồ trang sức đẹp nhất. Vậy hãy lắng nghe! Hãy nhìn! Và cười vào điều này!

    Ngày nay, trong khi một số thiền giả coi trọng những suy nghĩ tốt và cho rằng người ta nên chống lại những suy nghĩ xấu, tôi thấy điều này giống như đóng sầm cửa ra vào và cửa sổ nhà bạn sau khi một con chó ăn trộm đã trốn ra ngoài, rồi lại mò mẫm trong nhà trong bóng tối.

    Một số người nói rằng bạn nên gửi tâm trí của mình theo những suy nghĩ trước đó sau khi chúng biến mất, giống như bạn gửi một con chó săn đuổi theo một con cáo. Sau khi làm như vậy, họ nói rằng bạn nên áp dụng một loại pháp đối trị. Thực hành này tốt cho người mới bắt đầu, tuy nhiên, với tôi, có vẻ như những người dành cả đời cho việc này và tuyên bố nó là tối thượng, đang tích lũy ảo tưởng chồng lên ảo tưởng, xoay đầu họ theo vòng tròn.

    Nhìn “vào chỗ kia” vào những suy nghĩ của bạn giống như hành vi của một người chăn gia súc già đã để lại đàn bê và cừu của mình trên một đồng bằng rộng lớn và đang quan sát chúng từ xa. Tôi cho rằng đó cũng là một thực hành cho người mới bắt đầu, tuy nhiên, nếu chỉ lấy phương pháp này làm con đường, bạn sẽ đạt được tự tin chỉ trong những kinh nghiệm thiền về hỷ lạc, sáng suốt và vô niệm. Khi đã leo lên đến đỉnh của tòa tháp cao và hùng vĩ, rồi nghĩ rằng: “Tôi đã thấy tất cả”, người ta hạ mình nhìn xuống những người khác. Những người như vậy dành cả cuộc đời để tạo dáng trên yên ngựa tối cao của họ.

    Nếu tự mình khảo sát, bạn sẽ thấy ngay trong quá khứ, bạn đã đi lòng vòng trong luân hồi, tạo ra nguyên nhân cho luân hồi (trong khi) dưới ảnh hưởng của nhận thức nhị nguyên. Hơn nữa, nếu bạn vẫn ngoan cố trong điều này và quá sa đà vào khuynh hướng này, người ta thậm chí phải đề cập rằng việc này sẽ đóng vai trò như một cái neo, sẽ kéo bạn xuống vực sâu của luân hồi?

    Một số người nói rằng các ý niệm giống như những tia chớp, và rằng tâm thức nguyên thủy của tính giác ban sơ giống như tịnh quang. Họ nói rằng chính tính phi nhị nguyên này của các hình tướng và tính giác là chính đạo. Những người khác nói, ngay khi những ý niệm nảy sinh, sự nhận biết của chính bạn về tính phi nhị nguyên của cái xuất hiện và cái nhận biết là chính đạo. Hai lời khẳng định này có ý nghĩa tương tự nhau.

    Nếu bạn giống như loài chim garuda, có thể bay ra khỏi tổ, tôi nghĩ sẽ thật quá đáng khi phải đuổi hai mươi mốt nghìn con chuột chết ra khỏi tổ chỉ trong một ngày!21

    Sau khi lấy những thực hành này làm con đường, nếu đây là tất cả những gì bạn còn lại, bạn giống như một người mù lang thang trên đồng bằng hoang vắng, không có bạn đồng hành. Mặc dù những thực hành đó là không thể thiếu trong khi bạn đang trên con đường, hãy nhận ra chúng như những giai đoạn cụ thể giúp bạn làm quen với thiền định. Ví dụ chúng giống như những giai đoạn trong đời của một người, cụ thể là ba giai đoạn thời thơ ấu, thanh thiếu niên và trưởng thành.22

    Orgyen Tsho Kye Dorje 23 vinh quang đã ban cho tôi những hướng dẫn chỉ thẳng bằng những phương tiện của biểu tượng và ngôn từ trong các linh ảnh thiền định và ban phúc cho thân khẩu ý của tôi bằng ba kim cương. Như vậy, tôi đã nhận được con đường của riêng mình thông qua những huyễn ảnh ổn định.

  5. #5

    Mặc định

    Tóm lại, người mới bắt đầu được dẫn đến chánh đạo bằng cách kiểm tra và làm quen với thiền định. Vì vậy, trước tiên hãy sống ẩn dật ở một nơi vắng vẻ, ngồi xuống trên một chiếc đệm thoải mái và nuôi dưỡng tâm bồ đề tối thượng. Với lòng ngưỡng mộ và tôn kính nồng nhiệt, hãy cầu nguyện tới vị đạo sư của bạn và nhận được bốn quán đỉnh. Sau đó, hãy xác định chắc chắn rằng điều quan trọng nhất trong thân khẩu ý là tâm trí.

    Sau đó, hãy kiểm tra và khảo sát nghiêm ngặt cái gọi là tâm trí này: đầu tiên là nguồn gốc của nó, sau đó là vị trí của nó, và cuối cùng là đích đến của nó. Bằng cách làm như vậy, bạn sẽ khám phá ra sự trống rỗng của khởi nguồn, tồn tại và tan biến.

    Hơn nữa, hãy tìm hiểu xem có những lựa chọn nào cho thực thể gọi là tâm trí, cái gợi lên đủ thứ. Hình dạng và màu sắc, hình thức và nguồn gốc, khởi đầu và kết thúc của nó là gì? Nó là một thực thể thực sự hay chỉ là hư vô? Khi bạn đã đạt đến kết luận không thể chối cãi rằng tâm trí không được xác lập như bất cứ thứ gì, bạn sẽ bước vào con đường.

    Về việc này, nếu bạn cố tình chặn những suy nghĩ của mình bằng cách tập trung nhất niệm vào những thứ như cành cây, viên sỏi, thì lúc đó một số lượng lớn các ý nghĩ sẽ nảy sinh, như thể bạn đã chặn một kênh tưới tiêu chứa đầy nước chảy. Do đó, thân khẩu ý của bạn sẽ trở nên vô cùng khốn khổ.

    Thay vào đó, hãy giải phóng với cảm giác thư giãn và quan sát những ý nghĩ của bạn từ xa. Bằng cách làm như vậy, mọi thứ phát sinh ra sẽ được nhìn thấy với vẻ sống động hoàn hảo. Cái nhìn thấy được xác định là chánh niệm, hay tỉnh giác, cái được nhìn thấy được xác định là chuyển động, và an trú trong trạng thái đó được xác định là tĩnh lặng. Bạn nên xác định và tập trung theo cách đó.

    Nếu bạn thiền định chăm chỉ theo cách đó, những kinh nghiệm ổn định của thiền định tĩnh lặng, tức là, hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm, sẽ phát sinh trong dòng tâm thức của bạn. Hơn nữa, một khi bạn đã hợp nhất tĩnh lặng, chuyển động và tỉnh giác thành một, và khi mọi ý nghĩ lan man đều tự biết, tự soi sáng, thì điều đó được xác định là tỉnh giác. Khi những ý nghĩ thông thường bị rải rác khắp mọi nơi, chúng được xác định là tâm không tỉnh giác.24

    Bằng cách duy trì (sự tỉnh giác) đó, những trải nghiệm thiền định như phúc lạc, sáng suốt, trống rỗng, tĩnh lặng và thô ráp có thể phát sinh không thể đoán trước, tùy thuộc vào mức độ nhạy bén tinh thần của bạn. Ví dụ, bản tính của tâm là thỉnh thoảng vui và buồn, giống như bản chất của mặt trăng luôn là tròn và khuyết. Do đó, không hy vọng hay sợ hãi, từ chối hay chấp nhận, phủ định hay khẳng định, đừng đánh mất cảm giác của riêng bạn về sự tỉnh giác sáng tỏ đó, đây là điểm cốt yếu. Nhận ra rằng những kinh nghiệm thiền định, giống như ảo ảnh và giấc mơ, tự nhiên biến mất và chúng không thể tự duy trì tồn tại.

    Nếu bạn coi những kinh nghiệm về hạnh phúc, sáng suốt, trống rỗng, thô ráp, giấc mơ, thiền định, hay nhận thức siêu giác quan là tối cao, phủ nhận hay khẳng định, hy vọng hay sợ hãi, khao khát hay bám víu và chúng, việc này sẽ dẫn đến sai lầm và các che chướng, vì vậy, hãy nhận ra chúng như vậy.

    Bây giờ, do nghe các trưởng lão nói rằng thiền định là con đường tốt để giác ngộ, tôi đã suy nghĩ cẩn thận về điều này và sau đó cho rằng đó là điều mà tôi có thể nhìn thấy bằng mắt, cầm trên tay hoặc nghe bằng tai. Tôi nghĩ rằng nếu những lão sư đó có thể tìm thấy nó, thì dĩ nhiên tôi cũng sẽ có cơ hội tìm thấy nó! Vì vậy, tôi đã đến một nơi hoan dã, vắng vẻ, dựa lưng vào một tảng đá đỏ, và ở đó, tập trung sự chú ý vào phía trước mình trong ba ngày. Vào buổi tối của ngày cuối cùng, trong một giấc mơ khi tôi đang ngủ, một đứa trẻ da trắng xuất hiện và hỏi: “Tại sao bạn lại ngồi đó?”

  6. #6

    Mặc định

    “Tôi đang ngồi đây, hy vọng được chứng kiến điều gì đó giống như thiền định”,
    tôi trả lời.

    Sau đó đứa trẻ nhắm mắt lại và hỏi điều này.

    He he! Hỡi kẻ mù muốn bước vào chính đạo, hãy lắng nghe!
    Thân thể như một túi giấy bị gió thổi bay.
    Lời nói như tiếng gió trong ống.
    Tâm trí này là tác nhận tạo ra cả luân hồi và niết bàn.
    Trong ba thứ này, hãy xác định thứ nào là chính.
    Bạn sẽ phải chờ rất lâu trước khi nhìn thấy hoặc nghe thấy thứ gì đó gọi là thiền định!


    Sau khi cậu ta hát xong, tôi tỉnh dậy. Sau đó tôi suy nghĩ một chút, mặc dù đi đến kết luận rằng tâm trí là chính, tôi không biết phải làm gì tiếp theo.
    Trong giấc mơ vài đêm sau đó, một hành giả, người tự nhận mình là Orgyen Tsho Kye Dorje, chạm một chiếc bình vào đầu tôi và nói:

    Những che chướng của thân trẻ trung của bạn đã được tịnh hóa,
    Và thông qua quán đỉnh cái bình này, thân thể của bạn đã trưởng thành thành một hóa thân.
    Tôi chỉ định bạn làm nhiếp chính cho tôi.
    Bây giờ hãy siêng năng khảo sát, trước hết hãy nhìn
    Khởi nguồn từ đó tâm trí này phát sinh,
    Sau đó là nơi nó cư ngụ
    Và cuối cùng, nơi nó đi đến.
    Thiền chỉ là như vậy!


    Vào một dịp khác, trong một giấc mơ ban đêm, một yogi đỏ, tự gọi mình là Orgyen Sung Gi Dorje,25 đã nói: “Đứa trẻ, hãy tập trung tâm trí vào tôi, và mạnh mẽ cắt đứt mọi suy nghĩ!

    Sau khi làm như vậy, tôi trình bày rằng những suy nghĩ tuôn trào không ngừng và không thể ngăn chặn.

    Con có nhận biết được sự tuôn trào của chúng không?” ông hỏi.

    Có, con biết” tôi nói.

    Ông đáp:

    Ồ! Những suy nghĩ như vậy được gọi là chuyển động.
    Cái nhận biết được gọi là tính giác.
    Và ở lại trong cái biết đó được gọi là tĩnh lặng.
    Đừng bao giờ tách rời khỏi ba thứ này!


    Rót thuốc trường sinh từ một chiếc tách sọ, ông nói: “Với quán đỉnh bí mật này, lời của con đã trưởng thành thành lời kim cương”. Sau đó ông dường như tan biến vào tôi.

    Ba năm sau, trong giấc mơ, một người phụ nữ trẻ xuất hiện và đặt mười ba hạt cải trắng lên một tấm gương sáng trong và nói: “Con trai, hãy giữ tấm gương này trong tim con. Những hạt cải này là điềm báo và dấu hiệu tốt lành cho thấy con sẽ có các đệ tử trì minh trong tương lai.”26 Sau khi chạm tấm gương vào tim tôi, bà ta hát bài này:

    Eh ma! Thật tuyệt! Hỡi đứa con của tịnh quang tinh túy kim cương,
    Tâm trí của con chính là nền tảng của toàn thể luân hồi và niết bàn.
    Đầu tiên, nguồn gốc của nó trống rỗng;
    Sau đó, nơi trú ngụ của nó trống rỗng;
    Và cuối cùng, đích đến của nó trống rỗng.
    Hãy quán sát bản tính nền tảng của tính không.
    Nó không có hình dạng, màu sắc hoặc nguồn gốc.
    Nó không phải một cũng chẳng phải nhiều và không phát ra cũng không hấp thu lại.
    Nó vượt qua các cực đoan của tồn tại và không tồn tại.
    Nó không có các thuật ngữ thông thường như phủ định và khẳng định.
    Nó tự phát hiện thực hóa thành tính không vĩ đại.
    Đó là tấm gương vượt qua mọi nguyên nhân và điều kiện.
    Và có khả năng tạo ra mọi loại phản xạ.
    Mặc dù màu sắc tối và sáng hiện ra đối với nó,
    Nhưng bản tính của nó không thay đổi.
    Đây là phép ẩn dụ cho tâm trí và tính giác nguyên sơ.
    Đừng coi tâm trí và tính giác nguyên sơ là hai thứ khác nhau.
    Đừng nhầm lẫn tính giác uyên nguyên với tâm trí.
    Tâm trí ám chỉ một cái gì đó được phóng chiếu ra bởi tính giác nguyên sơ.27
    Đêm không xuất hiện vào ban ngày,
    Và ngày không xuất hiện vào ban đêm;
    Nhưng không gian chẳng thay đổi trong cả hai trường hợp.
    Hãy chú ý một sự phân biệt tương tự giữ tâm trí và tính giác ban sơ.
    Quan sát từng ý nghĩ là con đường để đạt được tĩnh lặng thiền định
    Tuy nhiên, đó không phải cách đi vào chính đạo
    Hơn nữa, giữ vững ý thức sáng tỏ và tính giác nguyên sơ của riêng bạn
    Là sự giải thoát tự nhiên của các ý niệm;
    Nhưng việc này không thực sự đi vào trọng điểm.
    Hãy xác định tính giác nền tảng!
    Hỡi đứa con của tính giác trí tuệ,
    Bạn đã tìm thấy kho báu bí mật của các dakini!


    Nói xong bà ta cùng tấm gương tan biến vào tim tôi, khiến cho thân khẩu ý của tôi tràn ngập hạnh phúc. Đó là những trải nghiệm của riêng tôi.

    Sau đó, tôi siêng năng thiền định về tính giác sáng tỏ. Do đó, đôi khi có vẻ như cái xuất hiện và cái nhận biết, một cách bất nhị, phát ra bên ngoài và sau đó được hấp thụ trở lại vào tôi. Những lúc khác, có vẻ như cái xuất hiện và cái nhận biết, như một trạng thái phi nhị nguyên, ngay lập tức chuyển sang đối tượng và tự nhiên biến mất. Thỉnh thoảng, tôi cũng có cảm giác rằng các hiện tượng phi nhị nguyên và tính giác tự nhiên phát sinh, sau đó biến mất theo tính tùy thuộc của chúng, mà không phát ra bên ngoài từ bên trong cơ thể tôi. Tôi nhận ra rằng những kinh nghiệm này là do nắm bắt nền tảng như một đối tượng.28

    Sau đó, tất cả các phương thức nhận biết trước đó tự nhiên tan biến, và tôi nghỉ ngơi, hoàn toàn thư giãn trong trạng thái của nền tảng thanh tịnh nguyên sơ vĩ đại toàn khắp. Bằng cách làm như vậy, bất cứ màn trình diễn sáng tạo nào đều tự nhiên được giải phóng vào không gian của riêng chúng. Bản tính nền tảng, thoát khỏi mọi chỉnh sửa, đối trị, thực hành thiền định, ký ức, nắm bắt và nhận dạng, cùng với hoạt động phô diễn sáng tạo của nó, được gọi là con đường tính giác. 29

    Vào thời điểm này, thông qua sự vắng mặt của các hoạt động tinh thần, 30 bạn nên nhận ra thực tại tối hậu.31 Thông qua sự tan biến của hy vọng và sợ hãi, phủ định và khẳng định, vào không gian tuyệt đối, bạn nên nhận ra tâm thức nguyên thủy tự nhiên. Nhận ra bản tính nền tảng tự phát và phi nỗ lực cũng như phương thức tồn tại của pháp thân vĩ đại thoát khỏi mọi thái cực, thiên vị, đi và đến.32 Tâm thức nguyên thủy của tính giác, giống như mặt trời chiếu sáng trên bầu trời trong trẻo, không bị biến đổi và tự nhiên, thức tỉnh trong bản tính tinh túy của nền tảng riêng của nó. Giải thoát tự nhiên, không chỉnh sửa mọi hình tướng biểu hiện của tính giác, được minh họa bằng phép ẩn dụ về tính bất nhị của mặt trời và các tia sáng của nó.

    Bản tính tinh túy của tâm, nền tảng toàn thể,33 là bóng tối như ban đêm, trong đó những ý nghĩ nảy sinh như tính hai mặt của người hiểu và vật được hiểu. Hơn nữa, đồng nhất 34 với niềm vui và nỗi buồn giống như coi một giấc mơ là có thật.

    Mặc dù bản tính tinh túy của bầu trời không thay đổi trong suốt cả ngày và đêm, nhưng các hiện tượng của nó lại bị ảnh hưởng bởi mặt trời. Tương tự, mặc dù không có thay đổi trong bản tính tinh túy của tâm, do sự phân biệt giữa tâm thức nguyên thủy và trạng thái không tỉnh giác, người ta phân chia tính giác và tâm trí 35 ra theo hai cách.

    Nền tảng có khả năng tạo ra toàn thể luân hồi và niết bàn, giống như một tấm gương có khả năng tạo ra mọi phản chiếu. Trong khi toàn thể luân hồi và niết bàn được tạo thành từ những màn trình diễn sáng tạo tự nhiên của nền tảng, vốn trong bản tính tinh hoa của chúng là biểu lộ trọn vẹn và nguyên sơ, thì với tôi, có vẻ hoàn toàn mâu thuẫn khi nói rằng đôi khi những màn trình diễn sáng tạo tự nhiên hoàn toàn biểu hiện, và đôi khi chúng biến mất.

    Một số người gọi những ý niệm là tính giác tức thời, họ nói rằng trong khoảnh khắc này cả luân hồi và niết bàn đều hiện diện hoàn hảo và trọn vẹn. Những người khác gọi những ý niệm sáng tỏ tự nhiên, có nhận thức là tính giác thực sự. Và có những người nói rằng tính giác sáng tỏ, giống như một tia chớp, là Đại Toàn Thiện. Tuy nhiên, vì mọi ý niệm đều được giải thoát, tôi nghĩ sẽ không đúng khi nói rằng, với sự biểu lộ hoàn toàn của mọi ý niệm phát sinh ra, toàn thể luân hồi và niết bàn hoàn toàn biểu lộ và biến mất. Nếu không, tôi nghĩ rằng thông qua sự phát sinh và biến mất tạm thời của các ý niệm, sẽ có hậu quả không đáng kể đối với quá nhiều sinh và tử trong luân hồi và niết bàn.

    Các hình tướng, tự chúng được giải phóng vào bản tính tinh túy, giải phóng khỏi sự tùy thuộc của chúng và tan biến vào tử cung 36 nguyên thủy. Biết rằng phép ẩn dụ này giống như những cơn sóng tự nhiên lắng xuống đại dương, không đi đâu cả.37

    Mặc dù tôi đã thực hành theo cách đó, nhưng bất cứ khi nào gặp phải một vấn đề nhỏ, tôi lại mất đi cảm giác về bản chất của sự tồn tại và trở lại trạng thái bình thường.39 Ví dụ, khi ở nơi hoang dã, trần truồng và không có bạn đồng hành, nếu tất cả các loài động vật hung dữ và man rợ đều gầm rú kinh hoàng, và tôi trở nên sợ hãi như một người bình thường, thì chắc chắn sẽ không có cách nào để được giải thoát trong bardo thông qua những thiền định như vậy.

    Do đó, tôi đã cầu xin đạo sư của tôi, Orgyen Tsho Kye Dorje, hãy vui lòng ban cho tôi những chỉ dẫn cốt yếu ngay lập tức để tôi có thể vượt qua những hoàn cảnh như vậy. Nhờ cầu nguyện với niềm tin chân thành, lòng tôn kính và tận tụy, trong một giấc mơ khi đang ngủ, tôi đã có một linh ảnh về Orgyen Dorje Drolo,40 giữa ngọn lửa rực rỡ mà từ đo ngài đã tụng những lời của bài hát Hum này:

    Hum Hum! Ôi đấng tối cao, Vidyavajra!
    Hum Hum! Sợi chỉ chung của luân hồi tam giới
    Hum Hum! Con có hiểu rằng, như tính nhị nguyên của người nhận thức và thứ được nhận thức không?
    Hum hum! Cả chủ thể và đối tượng
    Hum Hum! Con có hiểu chúng là hai loại ý niệm không?
    Hum Hum! Niềm vui và nỗi buồn của cuộc sống hiện tại và tương lai của con
    Hum Hum! Con có hiểu chúng là những kinh nghiệm ảo tưởng không?
    Hum Hum! Sự xuất hiện của ngày và đêm, môi trường và cư dân của nó
    Hum Hum! Con có hiểu chúng như những trải nghiệm về ánh sáng và bóng tối không?
    Hum Hum! Niềm vui và nỗi buồn của con, môi trường và bạn đồng hành, những kinh nghiệm trong mơ và những hình tướng ảo tưởng của kiếp này
    Hum Hum! Con có hiểu chúng cũng không có sự tồn tại đích thực không?
    Hum Hum! Mặc dù các chiều của thế giới và cư dân của nó rất lớn về kích thước và số lượng
    Hum Hum! Chúng chẳng là gì khác ngoài khoảng không gian rộng lớn
    Hum Hum! Mặc dù không gian không có ngoại vi hay trung tâm
    Hum Hum! Chẳng là gì ngoài sự mở rộng của tính giác.42
    Hum Hum! Các cõi phật và các vị phật tuyệt diệu là khuôn mặt của nền tảng tự nhiên của phương thức tồn tại.
    Hum Hum! Về phần đầu trọng yếu của phật
    Hum Hum! Ta sẽ cắt đứt sự lừa dối này, nó là một con ma ở trên con!43
    Hum Hum! Kẻ thù, ma quỷ, bạn đồng hành đối kháng và môi trường của con bao gồm những kinh nghiệm ảo tưởng về nhận thức nhị nguyên của những tư tưởng.
    Hum Hum! Đừng coi đây là cái gì khác ngoài sự vật hóa, ngoài sự nắm bắt vào tồn tại thực sự.
    Hum Hum! Ta sẽ phá hủy sự lừa dối này, đó là một con ma bên dưới con!44
    Hum Hum! Những hình ảnh ban ngày và trong mơ được sự vật hóa một cách ám ảnh thành những cái tên và những sự vật.
    Hum Hum! Mặc dù con nhận ra tính không cho chính mình
    Hum Hum! Con có hiểu các suy nghĩ chính là các khía cạnh trong bản tính của con không?
    Hum Hum! Mặc dù con hiểu toàn thể luân hồi và niết bàn như là tính bao la nguyên thủy của nền tảng và không gian tuyệt đối
    Hum Hum! Con có hiểu rằng toàn thể là một biểu hiện phi nhị nguyên của tính giác không?
    Hum Hum! Những biểu hiện được giải phóng vào bản tính tinh túy, toàn khắp, đều được giải thoát tự nhiên vào không gian bao la.
    Hum Hum! Con có hiểu rằng không có thiền định hay thực hành không?
    Hum Hum! Bên trong, có sự ràng buộc do nắm bắt bản ngã,
    Hum Hum! Bên ngoài, có ám ảnh về vật chất hóa các vật thể
    Hum Hum! Và thiền định can thiệp vào thì không quan trọng.
    Hum Hum! Ảnh hưởng của bên ngoài và bên trong
    Hum Hum! Con có hiểu chúng che khuất khuôn mặt Đại Toàn Thiện của luân hồi và niết bàn không?
    Hum Hum! Đầu tiên, bằng cách khảo sát, sự hiểu biết sẽ đến
    Hum Hum! Sau đó, bằng cách thiền định, những kinh nghiệm có thể nảy sinh
    Hum Hum! Và cuối cùng, bằng cách nghỉ ngơi trong trạng thái đó, giác ngộ sẽ đến.
    Hum Hum! Một khi chứng ngộ đã xảy ra, nó là phi nhị nguyên với giải thoát đồng khởi.46
    Hum Hum! Đối tượng và chủ thể là cùng nhau
    Hum Hum! Tôi và các hóa thân của tôi chưa bao giờ rời khỏi tử cung của mẹ trong không gian quảng đại.
    Hum Hum! Những hiện hình ảo ảnh từ những màn trình diễn tự nhiên của bản tính tinh yếu.
    Hum Hum! Giống như sự tan biến của các hiện tượng của một nhà ảo thuật
    Hum Hum! Tan biến phi nhị nguyên vào không gian tuyệt đối
    Phat Phat!


    Nói xong, ông đã chuyển hóa phi nhị nguyên vào trong tôi, nhờ đó cảm giác tự thân tôi được mở rộng, một trải nghiệm nảy sinh đã thấm nhuần toàn thể luân hồi và niết bàn. Từ lúc đó trở đi, dựa trên lời nói biểu tượng đó, tôi biết bài hát là giáo lý cốt lõi để phá vỡ hang động của những hiện tượng lừa dối.47

    Để kể lại dù chỉ một phần sự chứng ngộ này, có ba điểm: (1) tìm kiếm nguồn gốc của các nhãn hiệu, (2) phá hủy tính sự vật hóa của các hiện tượng, và (3) trước tiên, sau khi nhận ra toàn thể luân hồi và niết bàn,49 người ta phá vỡ hang động lừa dối, vốn đã được giải thoát nguyên thủy trong chính tâm trí mình.

  7. #7

    Mặc định

    1. TÌM KIẾM NGUỒN GỐC CÁC NHÃN HIỆU

    Bằng cách xem xét và khảo sát sự nắm bắt chặt chẽ nhãn hiệu tự thân “Tôi” và nghĩ “Tôi là”, bằng cách xem xét và khảo sát tất cả thịt, máu, xương bên trong, bên ngoài, từ đỉnh đầu xuống đến lòng bàn chân, bạn sẽ thấy rằng không có cơ sở khách quan nào của sự đặt đên dán nhãn, rằng nó là trống rỗng. Hơn nữa, bằng cách tìm kiếm tất cả các phân chia danh nghĩa như đầu, chân, tay, khớp, vân vân, sai lầm của việc nắm bắt tồn tại thực chất sẽ trở nên rõ ràng.50

    Hơn nữa, sau đây là một ví dụ về cách nghiên cứu tất các loại nhãn được thiết lập theo thông lê của các đối tượng bên ngoài:

    Bằng cách tìm kiếm những gì nhãn “ngôi nhà” (đại diện) từ bên ngoài và bên trong, ở phần trên và phần dưới của nó, và trong đất, đá, gỗ, vân vân, bạn sẽ thấy rằng nhãn biến mất theo tính tùy thuộc của chính nó. Ngay cả đất của biến đổi thành những thứ như nồi nấu ăn. Tên của đá có chóp và đáy, và cây, có đầu và đế, vân vân, tự nhiên biến mất khỏi vị trí của chúng. Thông qua sự chỉnh sửa và chuyển đổi, những gì là đất, đá và gỗ trở thành cối xay nước, bếp lò, cột trụ, và dầm. Tương tự, nước trở thành trà, lửa trở thành ngọn lửa của đèn bơ, không khí trở thành cơn gió trong ống thổi, vân vân. Trong mỗi trường hợp này đều có biến đổi, diệt vong và biến mất, tất cả đều tự bộc lộ sai lầm là không xác định được cơ sở của việc đặt tên.52

    2. PHÁ HỦY TÍNH SỰ VẬT HÓA CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG

    Nếu bất cứ thứ gì được xác lập là một thực thể chắc chắn tồn tại như một sự vật tồn tại thực sự có chất thể, thì nó phải có đủ bảy phẩm chất sau: (1) bất khả xâm phạm, (2) không thể phá hủy, (3) thật, (4) không thể bị hủy hoại, (5) bất biến, (6) không thể bị cản trở, (7) hoàn toàn không thể chinh phục.

    Mặc dù mọi thứ có vẻ như chắc chắn, năng nề, vững chắc, tồn tại và bền bỉ, nếu tất cả nhà cửa, đất đai, đá, lửa và nước bị phá hủy, kiểm soát, dập tắt và phân tán, chúng sẽ đột nhiên biến mất như một giấc mơ hoặc ảo ảnh. Bạn nên hiểu chắc chắn những thứ này là không, không có sự tồn tại cố hữu.

    Nói chung, mọi hình thể, màu sắc, hình dạng, vẻ bề ngoài, thế giới và cư dân của nó, được tạo thành từ năm nguyên tố, 54 là trống rỗng tự nhiên, chúng tan biến vào không gian bao la, giống như mây và sương mù. Mặc dù bạn nhận ra mọi thứ là trống rỗng nguyên thủy từ phía riêng chúng, 55 nếu bạn không nhận ra chúng là chủ thể và đối tượng của tư duy nhị nguyên, thì không có lợi ích hay tác hại; và giống như một người ăn xin để mắt đến sự giàu có của người khác (việc theo đuổi như vậy) là vô ích và tầm thường.

    3. TRƯỚC TIÊN, NHẬN THỨC VÀ NHẬN RA TOÀN THỂ LUÂN HỒI VÀ NIẾT BÀN, SAU ĐÓ ĐÁNH SẬP HANG Ổ CỦA SỰ LỪA DỐI, THỨ LUÔN KHÔNG CÓ TỒN TẠI THỰC CHẤT

    Nếu bạn có hiểu biết, kinh nghiệm và nhận ra rằng luân hồi và niết bàn không gì khác hơn chính là tâm bạn, thì đây thực sự là luận điểm hiệu quả và sâu sắc nhất.

    Đầu tiên, sau khi nới lỏng và thư giãn tâm trí của bạn vào bản tính tinh túy của nó, hãy khảo sát trung tâm và ngoại vi của nó, khởi đầu và kết thúc của nó, tất cả mọi thứ. Bằng cách làm như vậy, một khi bạn đã thấy rằng tâm trí không được thiết lập ở bất cứ đâu, hãy phân tích và khảo sát cẩn thận cái gọi là các chiều hướng và mức độ lan tỏa của nó, Nhờ đó, bạn sẽ thấy toàn thể thế giới và cư dân của ba cõi như một tổng thể trong phạm vi của không gian toàn khắp. Nếu bạn không nhận ra điều đó và không đi đến kết luận về nó theo cách đó, thì hãy nhớ rằng tất cả các trạng thái khác nhau của luân hồi không gì khác hơn là những kinh nghiệm mê lầm, thậm chí chẳng có dấu vết của tồn tại cố hữu.

    Đối với cùng một loại nước, chúng sinh địa ngục thấy nó như dung nham, ngạ quỷ thấy nó như máu và mủ, muông thú thấy nó như thứ gì đó để uống, con người thấy nó như nước, chư thiên thấy nó như rượu tiên, vân vân. Trong mỗi trường hợp này, nước xuất hiện như kinh nghiệm nhận thức của mỗi chúng sinh, nhưng ngoài điều đó ra, nước không thực sự tồn tại.

    Bây giờ, nếu chúng sinh bị diệt vong do những hoàn cảnh nhỏ nhặt, chẳng hạn như bị vũ khí đâm thủng, tại sao nhiệt độ nóng lạnh của chúng sinh địa ngục và đói khát của ngạ quỷ lại không giết chết chúng? Bởi vì ngay cả những điều đó cũng chỉ là những kinh nghiệm nhận thức mê lầm. Do đó, hãy nhìn vào nền tảng lừa dối không có tồn tại cố hữu!

    Nếu nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của địa ngục sắt nóng đỏ, nơi thiêu đốt, các tòa nhà bằng kim loại, lửa và củi, để xe, liệu có một thợ rèn nào đó tạo ra chúng hay không, bạn chắc chắn sẽ nhận ra chúng chỉ là những hình ảnh hư ảo, không hề tồn tại thực sự. Hơn nữa, đối với các chúa tể địa ngục và những người làm việc cho họ, thì điều gì sẽ xảy ra với kết quả của tội lỗi và nghiệp chướng của họ? Nếu những chúng sinh đó không trải nghiệm kết quả của nghiệp báo từ chính họ, tại sao những người khác phải trải nghiệm kết quả của nghiệp chướng 56 như vậy?

    Nếu bạn khảo sát những điểm đó, bạn sẽ xác định rằng, theo đúng bản chất của chúng, chúng giống như những hình ảnh xuất hiện trong giấc mơ; điểm khác biệt duy nhất là thời lượng 57 của chúng. Mỗi chúng sinh có tri giác tham gia vào việc nắm bắt nhị nguyên với ý thức về cái “tôi”, “chủ thể của tôi” và “đối tượng của tôi” được xác định là chịu ảnh hưởng bên ngoài của chu kỳ ảo tưởng của ba cõi tồn tại. Giống như một thân thể và cái bóng của nó, những chúng sinh có tri giác sở hữu các đối tượng trong suy nghĩ của chính họ. Đây là quá trình liên tục trong đó các khuynh hướng thói quen bám chặt vào đủ loại sự vật.59

    Ví dụ, trong những giấc mơ ban đêm, chẳng phải chúng ta hiện thực hóa và đồng nhất với các đối tượng đất, nước, lửa, gió và không gian, cùng với nhà cửa và mọi loại chúng sinh bao gồm người thân, bạn bè, và những người thân yêu, cũng như với đủ loại nguy hiểm, sợ hãi, niềm vui và nỗi buồn, giống như chúng ta làm vào ban ngày hay sao?
    Nếu bạn khảo sát riêng lẻ tất cả các giai đoạn trước đó của năm, tháng, ngày, cùng với môi trường, bạn bè, họ hàng, của cải và nơi cư trú của bạn, bạn sẽ thấy rằng chúng không khác gì những giấc mơ tinh tế và thô thiển. Hơn nữa, trong một năm có 360 ngày và 360 đêm, thậm chí không có khác biệt nào giữa các hình ảnh ban ngày và ban đêm ngoại trừ mức độ tinh tế và thô thiển của chúng. Hãy nhìn xem chủ thể và đối tượng của các hình ảnh ban ngày đi đâu vào ban đêm, và hãy nhìn xem chủ thể và đối tượng của các hình ảnh ban đêm được ẩn giấu ở đâu vào ban ngày! Hãy tìm kiếm điều này, và bạn sẽ thấy rằng chúng giống nhau. Hãy quan sát rằng không có khác biệt giữa sự ra đời và cái chết của chúng sinh trong trạng thái mơ, và sinh tử của chúng sinh trong trạng thái tỉnh! Hãy lưu ý rằng đó là những kinh nghiệm nhận thức ảo tưởng!
    Mặc dù bạn nhân ra vũ trụ hiện tượng là sự hóa hiện của tâm trí, nhưng một khi bạn coi nhà ảo thuật là bên trong và những hình ảnh ảo tưởng là bên ngoài, giống như phân biệt giữa phép thuật và nhà ảo thuật hoặc giữa giấc mơ và người năm mơ, bạn sẽ bị ràng buộc bởi những xiềng xích chặt chẽ của nhận thức nhị nguyên. Mặt khác, hãy nhận ra rằng trong không gian của bản tính tinh túy thấm nhuần khắp nơi của tâm trí vốn không có trung tâm và chu vi, bản ngã của ý niệm nắm bắt cái tôi và toàn bộ thế giới bên ngoài và bên trong cùng những cư dân của nó phát sinh như những khía cạnh của bản ngã đó chẳng là gì khác hơn ngoài không gian bao la của bản tính tinh hoa của tính giác, giống như hình ảnh phản chiếu trong gương không tồn tại tách biệt khỏi bề mặt gương.61

    Nói chung, trong tam giới, từ bất cứ nơi nào ta chết đến bất cứ nơi nào ta sinh ra, ta không rời bỏ môi trường trước đó của mình rồi chuyển sang môi trường tiếp theo.62 Giống như những hình ảnh ban ngày và trong mơ, người ta trải nghiệm những hình tướng huyễn ảo chuyển hóa thành những hình ảnh tiếp theo. Do đó, bạn nên đi đến niềm tin chắc chắn rằng luân hồi bao gồm những kinh nghiệm huyễn hoặc. Trong trường hợp đó, luân hồi và niết bàn được bao gồm trong những hình ảnh của chính mình, và chúng có cùng một bản chất trong phạm vi bản tính tinh hoa của tính giác. Bản tính tinh hoa này của tính giác là nền tảng. Khía cạnh không tỉnh giác của nền tảng được gọi là nền tảng bất tịnh,64 còn khía cạnh thanh tịnh được gọi là pháp thân. Nền tảng nguyên thủy, giống như không gian, có khả năng tạo ra đủ thứ, và vì nó rút lui vào cõi tối tăm của không tỉnh giác, nên nó vừa là nền tảng, vừa là sự xuất hiện của tư duy nhị nguyên, là sự biểu hiện của tam giới, là những hình tướng của kinh nghiệm mê lầm.
    Mặc dù bản tính của tính giác xuất hiện một cách ảo tưởng như tâm trí, bên trong ánh sáng bên trong tử cung,65 nó là nền tảng được thiết lập tự nhiên của năm thức nguyên thủy, năm thân và năm cõi phật. Do đó, nó là tâm thức nguyên thủy 66 vĩ đại, bẩm sinh. Các bản tôn niết bàn 67 và các cõi phật tự nhiên hoàn hảo trong chính nền tảng đó, đó là chính bạn. Cảm giác những thứ như vậy du hành từ vùng này tới vùng khác, các bản tôn xuất hiện và các cõi phật thực sự là có thật chẳng là gì khác ngoài một trải nghiệm về sự nắm bắt nhị nguyên. Những ai mắc phải sai lầm về sự vật hóa này, mặc dù họ đã hiện thực hóa hiện thể tâm thức nguyên thủy 68 của mình, không có nền tảng để vượt qua thế giới trần tục. Một khi bạn đã thấu hiểu gốc rễ 69 xuất hiện theo cách đó, mà không chỉ đơn thuần xem xét kỹ lưỡng, thì sự vật hóa khi đó phải tự nhiên chấm dứt.
    Trong khi đi trên con đường này, đừng tham gia vào bất cứ cuộc điều tra trí tuệ nào về tồn tại đơn thuần, sự không tồn tại hoặc bản chất của sự tồn tại. Hơn nữa, không có bất kỳ phân tích, thực hành thiền định hoặc chỉnh sửa nào, hãy thả lỏng và thư giãn vào bản tính tinh túy của chính bạn và nhẹ nhàng nghỉ ngơi. Bằng cách làm như vậy, các hình tướng sáng tạo được giải phóng một cách tự nhiên. Đây được gọi là sự soi sáng bằng tâm thức nguyên thủy từ khuôn mặt Đại Toàn Thiện của luân hồi và niết bàn.70
    Mọi sự chỉnh sửa, hy vọng, sợ hãi, nghi ngờ, từ chối, khẳng định, nắm bắt, nỗi lực và phân tích đều được chỉ định một cách tri thức, chúng không phải là tâm trí tối thượng. Tâm trí tối thượng vượt trên tri thức, do đó bạn nên biết điểm quan trọng này. Trong khi nhẹ nhàng giải phóng, mặc dù bạn có thể hiện diện trong khía cạnh của tính không, bạn có thể đã bỏ lỡ toàn bộ điểm chính, bởi vì những suy nghĩ có thể chỉ bị che giấu. Những suy nghĩ trong vùng ranh giới giữa tâm trí và tính giác này là trung lập về mặt đạo đức. Đây là những gì tôi tuyên bố!71

  8. #8

    Mặc định

    Sự không vượt quá tính tự nhiên của tồn tại, là Đại Toàn Thiện của luân hồi và niết bàn, là một luận điểm siêu việt và cực kỳ quan trọng!72 Nhờ sự chứng ngộ này, tất cả các hóa thần và ác quỷ và toàn thể luân hồi niết bàn đều được giải thoát ngay trong chính chúng, không có bất cứ phân biệt nào về tốt hay xấu. Tương tự, vào thời điểm các hiện tượng tan biến vào thực tại tối hậu, mọi hiện tượng biến mất vào tịnh quang bên trong của chính bạn, giống như chúng là những hiện tượng ảo ảnh hoặc mặt trăng trên bầu trời trống rỗng biến mất vào không gian. Cũng vậy, ánh sáng pha lê của tâm thức nguyên thủy không bị che khuất biến mất bên trong.

    Hơn nữa, không có nỗ lực nào trong việc hoàn thành mục tiêu của chính mình hoặc của người khác. Tương tự, từ ánh sáng bên trong của không gian bao la, bản tính của các tia hào quang phát xạ tự nhiên như năm thân bất tận và năm cõi phật. Từ đó phát sinh các màn phô diễn sáng tạo, các thân niết bàn từ bi, là những vị thầy tự xuất hiện cho các đệ tử.

    Bởi vì tôi chưa bước vào kho tàng học vấn, và bởi tôi chưa cúng dường bản thân lên một vị đạo sư cao cả, tôi không giỏi biên soạn. Vì điều này, tôi xin được lượng thứ.

    He he! Trong không gian tuyệt đối thanh tịnh nguyên thủy, không có các cực đoan
    Có một cung điện tịnh quang trong trẻo, một sự hiển thị thực tế tự nhiên
    Từ trạng thái phi nhị nguyên của lạc và không xuất hiện
    Những hiện thân thực tế tự phát của tính giác, Liên Hoa Sinh và Cực Hỷ Kim Cương
    Không phải do tri thức tạo ra, họ chính là bộ mặt của bản chất tồn tại
    Từ trạng thái không nỗ lực, tôi tự nhiên gặp họ
    Và nhận được như di sản của tôi kho báu của không gian thực tại tối hậu
    Đừng nhầm lẫn hướng dẫn thực hành này với những chuyện tầm phào!
    Hơn nữa, đừng hủy hoại bản thân vì mục đích giết hại người khác
    Bởi vì cuộc sống con người giống mặt trời tan chảy lúc hoàng hôn
    Đừng tham gia vào những hành động thiếu chân thành, có thể hủy hoại cả bản thân và người khác
    Đầy rẫy các ngôn từ thông thái về danh mục và tính toán
    Phá vỡ cánh cổng của lòng kiêu hãnh, tính phù phiếm và quan điểm sai lầm
    Hoặc là vì sự giải thoát đạt được trong dòng tâm thức của bạn
    Hoặc vì gốc rễ của mọi pháp đều nằm trong dòng tâm thức của bạn
    Sau khi trưởng thành về tâm tính, tất nhiên bạn sẽ có lợi cho người khác!
    Nếu khảo sát dòng tâm thức ngu ngốc của mình
    Chúng ta sẽ không còn hy vọng rằng một giọt nước có thể chữa lành cho người khác!75
    Nếu xem xét tham, sân, năm độc trong dòng tâm thức của mình
    Chúng ta không thể hy vọng rằng một chất độc có thể là một loại thuốc để bảo vệ người khác!76
    He He! Nếu bạn nghỉ ngơi trong sự tỉnh giác tự nhiên, không chế định
    Tác nhân của luân hồi và niết bàn được giải thoát trong một điều;77
    Vì vậy, đừng tìm kiếm ở nơi khác gốc rễ của các chỉ dẫn thực hành!
    Và từ bỏ mọi hy vọng đạt được kết quả!
    Nếu bạn xem xét nguyên nhân của các hiện tượng xuất hiện trong ngày, đêm, kiếp này và kiếp sau,
    Bạn sẽ thấy rằng những suy nghĩ nhị nguyên tồn tại như những kinh nghiệm ảo tưởng
    Do đó, việc bám chấp một cách sai lầm vào những kinh nghiệm này như là có thật, sẽ bộc lộ khiếm khuyết của những khuynh hướng thói quen
    Vì vậy, hãy thấu hiểu chiều sâu của những lời dạy này!
    Hãy nghi ngờ những loại thiền định tạo tác vốn chào đón và loại trừ các ý niệm,
    Và đừng giống các thiền gia bi kịch bị kẹt ở giữa
    Nơi mặt trời của Đại Toàn Thiện, bộ mặt của bản thể tồn tại,
    Bị che khuất bởi đám mây của sự nắm bắt nhị nguyên.
    Khi xem xét vô số các ý niệm dao động,
    Tôi cười những người hy vọng rằng đây là Đại Toàn Thiện.
    He he! Nền tảng thanh tịnh nguyên thủy tự khởi nguyên, bản tính tinh túy, thoát khỏi mọi cực đoan
    Là phật tính, đừng coi đây là gì khác ngoài dòng tâm thức của chính bạn!
    Mọi sự sai làm của những kinh nghiệm ảo tưởng về thế giới bên ngoài và bên trong cùng cư dân của nó
    Đều hiện diện hoàn hảo trong không gian tự nhiên của bản tính tinh hoa
    Đây là thứ chúng ta gọi là Đại Toàn Thiện.
    Trong cõi bất động bao la của lạc và không này,
    Phát sinh những màn trình diễn về sự toàn vẹn của không gian quản đại, toàn khắp
    Tại đây, mặt trời tịnh quang mọc mà không lặn.
    Tôi, một ông già vô dụng, đang giữ vững lập trường của mình
    Như một hiện thân của tính giác, từ thực tại tối hậu, trên xác chết của những đau khổ về tinh thần.
    Trên một ngai vàng vững chắc, bản tính của nó không bao giờ tách rời khỏi phương tiện thiện xảo và trí tuệ
    Bên trong pháo đài bất khả xâm phạm, một dinh thự được hiện thực hóa tự phát.
    Tôi jkhoong hiểu gì qua những lời giải thích và tôi không ngộ được gì từ những lời dạy;
    Thầy của tôi là Hồ Sinh Kim Cương.
    Tôi đã nhận được di sản của dòng truyền tâm thức như một báu vật quý giá.
    Hơn nữa, tôi chưa đánh giá cách trình bày về nền tảng và con đường
    Lấy bản tính tinh hoa làm con đường là dòng truyền của riêng tôi
    Tôi không bị ràng buộc bởi sự vật hóa của các quán tưởng, trì tụng và thực hành cầu nguyện.
    Tôi có phương pháp không thiền định, không chuộc tội, không thực hành.
    Tôi lang thang tự do khỏi những thái cực, được thiết lập trong đó vượt ngoài tri thức.
    Không có pháp đối trị, không có chỉnh sửa hay quy kết tri thức.
    Đừng lẫn lộn việc thực hành của bạn với những thứ cần quan sát, duy trì hoặc phân tích!
    Không cần phải cố gắng hay tập trung vào những gì phát sinh, hãy để mọi thứ diễn ra và giải phóng hoàn toàn.
    Hành giả thoát khỏi mọi hành động vượt ngoài tốt và xấu, hy vọng và sợ hãi, từ chối và chấp nhận.
    Hoàn toàn rộng mở, không tham gia
    Trong trạng thái thanh thản của sự mở rộng tự nhiên của tâm thức nguyên thủy hiện hữu từ khởi nguyên
    Bạn chuyển hóa thành cái đó mà không có sự chỉnh sửa;
    Vì thế, mạng lưới nắm bắt nhị nguyên lập tức tan biến!
    Một khi luân hồi và niết bàn được đánh thức như pháp thân,
    Những xiềng xích bám chấp vào luân hồi và niết bàn đã được cắt đứt khỏi trái tim bạn!
    Bóng tối vô minh tan biến vào tính giác trống không,
    Và chiếc cọc của ham muốn đã bị nhổ bật lên khỏi chân đế!
    Sự phan duyên với hy vọng, sợ hãi, vui, buồn, bị loại bỏ
    Vào trong tử cung của sự rộng mở toàn thể, bản tính tinh hoa phi đối tượng!
    Những xiềng xích tự nắm bắt hoàn toàn bị loại bỏ
    Vào không gian tuyệt đối của tính không bằng trí tuệ chứng ngộ cái vô danh.
    Không gian tính giác quang minh của Phổ Hiền xuất hiện phi nỗ lực,
    Và bạn nhảy vọt đến trạng thái của một bậc nắm giữ minh giác thực tế tự nhiên!
    Cầu cho tất cả chúng sinh khắp không gian nhìn thấy, nghe thấy, nghĩ đến hoặc tiếp xúc với những giáo lý này
    Gặp gỡ bản tính tinh hoa của chính họ như là hiện thân của tính giác tự nhiên
    Và mong sao họ chắc chắn sẽ đến không gian của Phổ Hiền!


    Lời tác giả:

    Để đáp lại lời khẩn cầu tha thiết của bậc thầy tâm linh vĩ đại Sonam Palden, anh trai của Dodrup Rinpoche, tôi, một kẻ ngốc, tên ăn mày Dudjom Dorje Drolo Tsel, đã thốt ra văn bản này có tên là Giáo lý ngu si của tên ngốc lấy bùn và lông vũ làm quần áo.

    Lời tác giả Tây Tạng:*

    Svasti
    Bản chất hướng dẫn thực hành của thừa tối thượng, không nỗ lực của Atiyoga, Đại Toàn Thiện,
    Là nuôi dưỡng sự chứng ngộ của Phổ Hiền.
    Tâm thức nguyên thủy của pháp thân đã được đặt trần trụi vào tay bạn, và giáo lý tối thượng này đã được ban tặng!
    Hãy cầm lấy cây kim vàng này, nó là hướng dẫn thực hành, đầy đủ,
    Để phá vỡ bong bóng lừa dối của những thiền định tinh tế, tự chế định của những tên ngốc,
    Và từ bỏ sự trau chuốt của vô số các thực ahfnh!
    Hỡi hội chúng may mắn, hãy đến với vùng đất giải thoát nguyên thủy!
    Nữ hoàng Sikkim 78 đã mở cánh cổng đến lễ hội bất tận,
    Điều này thể hiện qua việc bạn chia sẻ thần dược mãn nguyện cho những người khao khát giải thoát.
    Vậy hãy lấp đầy bản thân bằng những hạt xá lợi từ những chỉ dẫn thực hành về pháp sâu xa!
    Nhờ sức mạnh của công đức vô nhiễm,
    Nguyện tất cả chúng sinh trở thành bình chứa của Đại Toàn Thiện sâu xa bí mật!
    Và mong cho chiều sâu của luân hồi bị khuấy động và giải thoát vào sự diệt tận của thực tại tối hậu!
    Nguyện cho toàn thể thế giới trải nghiệm hương vị bình đẳng của đại lạc Phổ Hiền!


    (*) Jigdral Yeshe Dorje đã đặc biệt nói ra điều này cho một phiên bản sau, để đáp ứng yêu cầu của một hành giả tốt lành. Mong rằng việc này sẽ khiến cho giáo lý quý giá của trí tuệ Phổ Hiền tồn tại lâu dài như không gian và lan tỏa như chính không gian!
    Sarvadamangalam!
    Mong hỷ lạc lan tỏa khắp mọi nơi!

  9. #9

    Mặc định

    CUỐN HAI



    Một Giải Thích về Thực Hành Vượt Qua Trực Tiếp



    Từ văn bản gốc tên là:
    Ngọc Như Ý của các Thành Tựu:Cẩm Nang về Hai Giai Đoạn của Giọt Tâm từ Pháp Sâu Xa của các Dakini 1



    DUDJOM RINPOCHE, JIGDRAL YESHE DORJE


    Với chú thích của
    GYATRUL RINPOCHE tôn kính



    Dịch sang tiếng Anh : Chandra Easton & B.Alan Wallace

    Việt dịch: Ẩn Tiên

  10. #10

    Mặc định

    THIỀN VỀ SỰ HỢP NHẤT CỦA ĐỊNH VÀ TUỆ

    1. CÁI THẤY 2


    Khía cạnh phi khái niệm của tâm trí gọi là tâm thức nguyên thủy biết thực tại như nó là.3 Sự chiếu sáng của thế giới đa dạng được gọi là tâm thức nguyên thủy nhìn thấy toàn thể phạm vi của thực tại.4 Hơn nữa, tính phi nhị nguyên của cả hai được gọi là tính không thể chia tách giữa không gian tuyệt đối và tâm thức nguyên thủy.5

    Ngắn gọn, tỉnh giác về hiện tại không bị ô nhiễm bởi những suy nghĩ về quá khứ hay tương lai, còn bản tính tinh túy của nó siêu việt sự nhận dạng. Đây là tâm thức nguyên thủy tự nhiên, bất biến, tự chiếu sáng từ khởi nguyên. Biết rằng bản chất sáng ngời, bao trùm vĩ đại, của tồn tại vượt ngoài tri thức, là tâm thức nguyên thủy tự nhiên, thanh tịnh khởi nguyên là sự nhận dạng bản tính tinh túy bên trong bạn.6

    An trú trong tỉnh giác tức thời sống động và rõ ràng của hiện tại, trong đó những suy nghĩ trước đó đã trôi qua và những suy nghĩ sau đó vẫn chưa phát sinh, được gọi là lần thứ tư vượt ngoài ba lần.7 Bạn nên xác định chắc chắn rằng việc nhận ra chính điều này không gì khác hơn là cái thấy của các đấng chiến thắng! Từ thời điểm bạn nhận dạng và xác định tính giác theo cách đó, “bạn sẽ không có kinh nghiệm về thiền định, hay thoát khỏi thiền định, và bạn sẽ không tách rời khỏi thực tại của không thiền định”. Theo cách nói đó, vì không thiền về bất cứ thứ gì và không bao giờ tách rời khỏi thực tại của bản thể hiện hữu, bất kể các dấu hiệu khái niệm hóa của sự nắm bắt nhị nguyên xuất hiện thế nào, bản thể hiện hữu vẫn không sinh và không diệt. Do đó, dù các khối mây của tâm trí xuất hiện trên bầu trời của tính giác, một khi bạn biết điểm trọng yếu rằng chúng là tự nhiên tự giải thoát, không có lợi hay có hại, giống như những nút thắt của một con rắn tự giải phóng, thì, không có sự nắm bắt, nỗ lực, từ chối hay chấp nhận, những ý niệm không để lại dấu vết, những cảm xúc xuất hiện rồi biến mất vào nền tảng.8 Đây được gọi là đạt được tự tin vào giải thoát.9 Bạn nên duy trì niềm tin vô song này vào sự chứng ngộ không phân biệt về sự tự xuất hiện của Đại Toàn Thiện như đã mô tả ở trên.

    Tổng hợp những điểm quan trọng, Kunkhyen Chojeto 10 phát biểu:

    Mặc dù bạn đã nhận ra cái thấy giải thoát nguyên thủy, nhưng nếu không an trú trong thiền định, thì bạn không tránh khỏi những mê lầm của luân hồi. Do đó, điều quan trọng là bạn phải làm quen tính giác của mình với bản tính của thực tại!

    Quan điểm phù hợp với lời khuyên này.

    II THỰC HÀNH BẰNG CON ĐƯỜNG THIỀN


    Nhìn chăm chú vào bản tính tinh hoa của bất cứ thứ gì phát sinh, không chỉnh sửa, hãy để những ý nghĩ tự nhiên lắng xuống và trôi chảy tự do. Hãy vui vẻ, để chúng lấp lánh sống động, không để lại dấu vết! Hãy để chúng trôi lăn vô định, không kiềm chế, và giải phóng chúng không giới hạn trong khi nghỉ ngơi mà không nắm bắt!
    Ngoài ra, nếu bạn nhìn chăm chú vào bản tính tinh túy của bất cứ hiện tượng nào xuất hiện và vào cách chúng phát sinh, chẳng hạn như những hiện tượng cao nhã hay thô tục, dễ chịu hay khó chịu, tốt hay xấu, những ý tưởng chấp nhận hay chối bỏ, bạn sẽ được giải thoát khỏi mọi quy ước, chẳng hạn như bên ngoài, bên trong và ở giữa. Tính giác phát sinh như không gian, do đó, hãy an trú trong chính trạng thái đó mà không cần chỉnh sửa.11

    Từ Bầu Trời Vĩ Đại:

    Không có phân tích trước hoặc sau, hãy gạt bỏ những suy nghĩ về quá khứ!
    Không dự đoánh điều gì sắp xảy ra, cắt đứt sợi dây liên kết tinh thần.
    Trong khi chờ đợi, an trú mà không nắm bắt, trong trạng thái của không gian.

    Về điều đó, bạn có thể tăng cường thực hành thông qua ba loại thiền sau:

    A. Con đường thiền về tính không như không gian


    Không cử động thân thể, nghỉ ngơi trong bảy thuộc tính của Đại Nhật.12 Hãy để các năng lực nhận thức của bạn trong tính sáng tỏ, không ngừng nghỉ, của chính chúng, giống như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước. Nhìn chăm chú vào bất cứ thứ gì xuất hiện, không phân biệt giữa các quy ước bên trong, bên ngoài hay ở giữa, và tập trung mãnh liệt vào cái nhìn rộng mở, hăng say và sáng láng này!

    B. Con đường thiền định về tính sáng như gương

    Bất cứ thứ gì xuất hiện, hãy an trú trong trạng thái rõ ràng, sống động, sáng suốt của tính sáng tỏ tự nhiên và không nắm bắt.

    C. Con đường thiền định về các hình tướng như những cơn sóng

    Về sự vận động hoặc biến đổi có chủ ý của các ý nghĩ, hãy nhìn chăm chú vào bản tính tinh túy của bất cứ chuyển động nào phát sinh. Theo đó, không nắm bắt, hãy để các ý nghĩ tiếp tục trên con đường của chúng như những cơn sóng hòa tan trở lại vào nước. Chỉ từ đó, có sự hợp nhất giữa tĩnh lặng và chuyển động, và đó là sự tăng cường.
    Ngoài ra, do pháp thứ nhất, phi khái niệm hóa sẽ được tăng cường. Do pháp thứ hai, lạc sẽ được tăng cường. Do pháp thứ ba, tính sáng sẽ được tăng cường.
    Theo cách đó, tính ổn định là định tĩnh, tính sáng là quán chiếu, và do tính không thể chia cắt của chúng, có sự hợp nhất giữa định và tuệ. Sự hoàn hảo được giải phóng từ nguyên thủy là nền tảng được cho là đã được đánh thức hiển nhiên trong bản tính tinh hoa của bốn thân.

    III. DUY TRÌ SỰ LIÊN TỤC BẰNG CON ĐƯỜNG HÀNH ĐỘNG CỦA BẠN


    Khi đã hiểu được quan điểm như đã đề cập trước đó, bạn có thể đã xác định mọi hiện tượng là không tồn tại, chỉ là những hình tướng sáng tỏ, giống như sự xuất hiện của một ảo thuật gia. Tuy nhiên, trong trường hợp này, đây là điều cần biết cụ thể về hành động. Về điều này, miễn là những suy nghĩ tự nắm bắt chưa biến mất vào không gian tuyệt, hậu quả của các hành động chắc chắn sẽ phát sinh mặc dù chúng không tồn tại. Do đó, tùy vào mức độ niềm tin dựa trên sự chứng ngộ của bạn, như sẽ được nêu trong phần tiếp theo, hãy thực hành hành động phù hợp với từng trường hợp.

  11. #11

    Mặc định

    GIAI ĐOẠN VƯỢT QUA TRỰC TIẾP


    TỔNG HỢP CON ĐƯỜNG HIỆN THỰC HÓA TỰ NHIÊN CỦA TỊNH QUANG

    Từ bên trong ngọn đèn của không gian tuyệt đối nguyên sơ,
    Là giọt bất hoại bên trong tâm,13
    Tâm thức nguyên thủy thuần khiết của tính giác
    Những dòng chảy xuôi theo con đường của kinh mạch trắng vi tế
    Và xuất hiện trong quan khiếu của nút thắt năng lực.14
    Dựa vào các tư thế của ba thân,
    Áp dụng những điểm quan trọng trong cái nhìn chăm chú của cả hai mắt,15
    Không gian tuyệt đối và tính giác được đưa đến vùng lông mày của bạn.
    Bằng sự tập trung liên tục vào các chuỗi kim cương,
    Bắt đầu với các giọt của năm ánh sáng
    Bạn sẽ đến với tính giác hoàn hảo bao trùm không gian
    Lúc đó, mọi sự tạo dựng khái niệm đều được lắng dịu
    Vào cõi vô biên không thể diễn tả của thực tại tối thượng,
    Và bạn sẽ đạt được thân cầu vồng chuyển di vĩ đại tối thượng!
    Về điều này, có ba phần: (1) sơ khởi, (2) thực hành chính, (3) kết thúc.


    1. THỰC HÀNH SƠ KHỞI

    Từ Không gian trong sáng:

    Để nhận thức trực tiếp của bạn chạm đến những điểm quan trọng, các hoạt động bên ngoài, bên trong và bí mật được giải phóng theo chín cách thông qua thân, khẩu, và ý.


    Vì vậy, hãy thoát khỏi những hoạt động của thân, khẩu và ý.

    Về các hoạt động của thân, bên ngoài hãy từ bỏ các hoạt động mê lầm thế gian; bên trong hãy từ bỏ những đức tính thấp kém như lễ lạy, đi nhiễu; và bí mật, hãy từ bỏ mọi loại hành vi, không rời khỏi tư thế thiền định.

    Đối với các hoạt động bằng lời nói, bên ngoài, hãy từ bỏ lời nói dối trá thế gian; bên trong, hãy từ bỏ việc tụng kinh, vân vân, và bí mật, hãy từ bỏ ngay cả hơi thở 16 ra vào có chủ ý, và chỉ để mặc nó như vậy.

    Về hoạt động tinh thần, bên ngoài, hãy từ bỏ những suy nghĩ mê lầm; bên trong, hãy từ bỏ những ngôn từ và ý niệm liên quan đến sự nghe và tư duy cũng như các đối tượng khác nhau và tâm trí nắm bắt, còn bí mật, từ bỏ mọi sự tuôn trào và tan biến của các ý nghĩ, và an trú trong trạng thái phi khái niệm.

    II. THỰC HÀNH CHÍNH

    Có hai phần trong thực hành chính: (A) đánh vào các điểm quan trọng của thân, ngữ, tâm, (B) dựa vào ba điểm quan trọng này, dẫn đến xác định bản thân nhận thức trực tiếp.

    A. Về phần đầu tiên, có ba mục:

    1. Điểm quan trọng của thân thể:

    Sau đây là những điểm khác biệt giữa các vị trí mà bạn nhìn: (a) nếu bạn ở nơi thấp, tầm nhìn của bạn về bầu trời bị hạn chế; (b) nếu bạn ở nơi cao hơn một chút, phạm vi tầm nhìn của bạn ở mức trung bình; (c) nếu bạn ở nơi cao, phạm vi tầm nhìn của bạn là rất lớn. Có ba điểm khác biệt liên quan đến cấu tạo nguyên tố của riêng bạn: (a) một số người thiên về nhiệt, (b) một số người cân bằng giữa nhiệt và hàn, (c) những người khác thiên về hàn.

    Có ba sự phân biệt về mặt ý thức của bạn: (a) một số người thiên về uể oải, (b) một số xen kẽ giữa uể oải và hưng phấn, (c) một số thiên về hưng phấn.

    Tương ứng với những mục theo thứ tự là ba tư thế (a) pháp thân, (b) báo thân, (c) ứng thân. Đối với mỗi tư thế, bạn nên duy trì cái nhìn chăm chú tương ứng.17

    a. Tư thế pháp thân giống như một con sư tử:

    Thả lỏng cơ thể trong tư thế uy nghiêm với lòng bàn chân khép lại và đầu gối dang ra hai bên. Nắm tay thành nắm đấm, chống xuống đất và duỗi thẳng cánh tay. Thân mình của bạn giống như một con sư tử, vì vậy hãy đưa sức mạnh cơ thể bạn đến cổ. Bằng cách làm như vậy, các năng lượng nghiệp bị chặn lại, các năng lượng tâm thức nguyên thủy được tăng cường và những linh kiến về thực tại tối hậu sẽ dễ dàng phát sinh.

    b. Tư thế báo thân giống như một con voi:

    Ép ngực vào phần trên của đùi và hướng các ngón chân ra ngoài. Đặt khủy tay xuống đất và đỡ cằm bằng lòng bàn tay. Ép các ngón tay vào má và nâng cổ lên một chút. Nhờ đó, những tạp niệm của bạn sẽ lắng xuống, và bạn sẽ an trú trong sự chứng ngộ không gian tuyệt đối phi nhị nguyên và tính giác.

    c. Tư thế ứng thân giống như tư thế ngồi xổm rsi:18

    Đặt lòng bàn chân của cả hai chân xuống đất, ép cả hai mắt cá chân vào nhau song song và ngồi ở tư thế ngồi xổm. Cột sống của bạn dựng đứng và cổ của bạn hoàn toàn thẳng. Với hai bàn tay chắp lại với nhau, ôm lấy nách hoặc đầu gối của bạn. Nhờ đó các nguyên tố của bạn sẽ được cân bằng và bình lặng, kết quả là bạn sẽ ở trong trạng thái không dao động giữa không gian tuyệt đối và tính giác.19

    2. Điểm quan trọng về lời:

    Tập nói ít đi mỗi ngày, và ngừng nói chuyện sai trái với người khác. Đừng nói gì ngoài việc trì tụng các nghi quỹ và thần chú. Cuối cùng, hãy dừng ngay cả việc đó, và bạn sẽ đạt được sự hiểu biết bằng cách không nói gì cả.

    3. Điểm quan trọng về ý:

    Nhìn chăm chú, không chuyển động mắt, vào trung tâm của vùng bên ngoài của không gian trống rỗng. Sau đó, hãy tách rời tâm trí của bạn khỏi sự tuôn trào và tan biến của hoạt động khái niệm hóa, liên quan đến những suy nghĩ về ba thời. Thực hành mà không dao động khỏi trạng thái không bị sắp đặt và không có sự nhận biết!

    Mật điển Thâm nhập Âm thanh:

    Những điểm quan trọng của nhận thức trực tiếp là thân, khẩu và ý.
    Mỗi điểm quan trọng riêng lẻ nên được xác định tương ứng với phần đối chiếu của nó.
    Hơn nữa, thân thể không bao giờ tách rời khỏi ba thân, và
    Lời nói cần được ổn định thông qua luyện tập, tĩnh lặng và hiểu biết.
    Việc này được thực hiện bằng cách tập trung tâm trí vào không gian tuyệt đối.


    B. Tùy thuộc vào ba điểm quan trọng, có sự xác định bản thân nhận thức trực tiếp. Liên quan đến điều đó, có hai phần: (1) tự ổn định thông qua ba điểm quan trọng, và (2) nhận dạng bản tính của chính bạn thông qua nhận thức trực tiếp.

    1. Đối với phần đầu tiên, có ba phần liên quan đến điểm quan trọng của năng lực giác quan đưa đến sự phát sinh các hình tướng.20

    a. Bạn không nên bỏ qua bất cứ cái nhìn nào trong ba cái nhìn sau đây.

    i. Cái nhìn pháp thân: Bằng cách hướng cả hai mắt lên trên một chút, nhìn vào khoảng không ngang tầm lông mày của bạn.21
    ii. Cái nhìn báo thân: Bằng cách hướng cả hai mắt xuống một chút từ trung tâm, nhìn một góc không gian bên trái hoặc bên phải.22
    iii. Cái nhìn ứng thân: Bằng cách hạ mắt xuống một chút, nhìn lên bầu trời với đôi mắt khép hờ.23

    Đối với tất cả những phần trên, đôi mắt không tập trung quá mức, thay vào đó, chúng thư giãn bên trong và mở ra. Do đó, điểm quan trọng là nhìn chằm chằm mà không dao động khỏi sự rộng mở của không gian.24

    b. Điểm quan trọng của môi trường là cơ sở của các hình tướng:

    Giữa bầu trời trong xanh, không có mây, sương mù, vân vân, hãy quay lưng lại với mặt trời. Vào buổi sáng, hãy nhìn về phía tây, buổi tối, nhìn về phía đông. Hoặc để cho tịnh quang dễ dàng xuất hiện, vào thời điểm của hai tia sáng,25 hãy hướng ánh mắt của bạn lên bầu trời và đo chỉ một cubit dưới mặt trời.26

    Nói chung, cơ sở của pháp thân là mặt trời, cơ sở của báo thân là mặt trăng, cơ sở của ứng thân là ngọn đèn. Hãy nhìn vào bất kỳ loại nào trong số đó.27

    c. Điểm quan trọng của hơi thở và tỉnh giác:

    Hơi thở đến và đi nhẹ nhàng qua miệng, và khi bạn thở ra một chút, hãy dừng lại 28 và hướng sự tỉnh giác của bạn, không phân tâm, vào trung tâm bầu trời. Bằng cách làm như vậy, ban đầu, các hình tướng của không gian tuyệt đối sẽ xuất hiện cùng với các chuỗi kim cương từ các đường 29 mờ nhạt và lấp lánh. Vào lúc đó, khi bạn đã đặt các sợi kim cương vào bên trong chu vi của bầu trời, hãy giữ chúng không dao động. Đó là điểm quan trọng.

    Những điểm này cũng được nhắc lại trong mật điển Thâm nhập âm thanh:

    Đừng bỏ qua những hướng dẫn thực hành của ba điểm quan trọng!
    Hơn nữa, hãy dựa vào những điểm quan trọng của giác quan, môi trường, hơi thở và tính giác.
    Đối với các khiếu, nhìn chăm chú bằng mắt tương ứng với ba thân.
    Môi trường phải không bị che lấp và
    Do tính giác của bạn bị tách khỏi hơi thở, bạn sẽ hiện thực hóa tâm thức nguyên thủy.30


    Trích từ Đứa con duy nhất của chư phật:

    Đặt các chuỗi kim cương vào trong không gian và không tách rời khỏi chúng.31


    2. Nhận diện bản tính của chính bạn bằng nhận thức trực tiếp:

    Những chuỗi kim cương của tính giác, được nhìn thấy theo cách đó nhờ những điểm quan trọng, được trang trí với các giọt. Những giọt đó là các linh ảnh về không gian tuyệt đối và là thực tại của sugatagarbha,32 hay ánh sáng tự nhiên, là vị phật nguyên thủy hiện diện bên trong bạn. Bằng cách nhìn thấy điều đó, từ hôm nay trở đi, người ta nói rằng bạn có vận may ngan với đức Phổ Hiền nguyên thủy.


    Từ mật điển Tiết lộ tự phát sinh:

    Bất cứ ai nhìn thấy như vậy đều có phúc báu ngang với đức Phổ Hiền nguyên thủy.33


    Do đó, hãy vui mừng khi thấy bản tính tinh hoa của chính bạn. Hôm nay bạn đang thấy những linh ảnh luôn hiện diện bên trong bạn. Những linh ảnh này là thực tại của chính tính giác bạn phát sinh như những chuỗi kim cương từ tính giác của chính bạn.

    Theo đó, như có nói trong mật điển Thâm nhập âm thanh:

    Bản tính của các chuỗi kim cương
    Thanh lọc sự khái niệm hóa
    Nhờ đó, mới có phật tính không thể nhầm lẫn.


    Và:

    Đối với những ai may mắn khám phá ra nhận thức trực tiếp này,
    Không có tên gọi nào cho chu kỳ tồn tại của tam giới.
    Vì vậy, chúng được phân biệt với tam giới.36

  12. #12

    Mặc định

    III. KẾT LUẬN

    Về kết luận, có hai phần: (A) xác định cách bốn linh kiến (về vượt qua trực tiếp) phát sinh do thực hành theo cách đó, và (B) tự làm quen với các hướng dẫn thực hành của bốn điểm kết luận.

    A. Phần đầu tiên có bốn mục:

    1. Linh kiến về Nhận thức trực tiếp của Thực tại tối hậu

    Theo lời giải thích trước, áp dụng các điểm quan trọng của thân, khẩu và ý, để chúng tương ứng với ba điểm quan trọng của các khiếu,37 môi trường và hơi thở. Theo đó, hãy thực hành với sáu điểm quan trọng.

    Tâm thức nguyên thủy của tính giác riêng bạn là thực tại của các bậc thiện thệ, là ngọn đèn của những không gian tuyệt đối nguyên sơ bên trong tim bạn. Ánh sáng, được hiện thực hóa tự nhiên như năm ngọn đèn, di chuyển dọc theo con đường của kinh mạch trắng, tinh tế và được nhìn thấy ở khiếu mắt, là ngọn đèn nút thắt dung dịch.39
    Giữa không gian trống rỗng, cụ thể là không gian bên ngoài, ánh sáng xuất hiện giống như cầu vồng hoặc giống như màu lông công. Giữa những thứ đó là ngọn đèn của giọt trống rỗng.40 Các giọt có hình tròn, màu đỏ, có kích thước bằng chiếc nhẫn đeo ngón tay cái. Trong số chúng, có thể có một, hai hoặc nhiều hơn về số lượng, và chúng xuất hiện dần dần. Bên trong các giọt là những chuỗi kim cương của tính giác trông hơi giống đuôi ngựa thắt nút, một sợi chỉ vàng, mỗi chuỗi hạt ngọc trai hoặc một bó hoa, những chuỗi kim cương này xuất hiện rung rinh và đổi chỗ cho nhau.

    Vì vậy, một khi bạn đã lôi kéo các giọt bằng cái nhìn chăm chú, hãy đặt chúng vào tham số của bầu trời và quan sát chúng. Đừng nắm bắt bất cứ thứ gì bằng tri thức. Bằng cách nhìn chằm chằm, không dao động khỏi trạng thái đó, ngọn đèn của trí tuệ tự nhiên sẽ xuất hiện từ bên trong.

    Ngoài ra, theo đó, mật điển Thâm nhập Âm thanh cho biết:

    Linh kiến về nhận thức trực tiếp của thực tại tối hậu
    Chắc chắn xuất hiện từ các khiếu của các năng lực giác quan
    Và trở nên sáng ngời trên bầu trời không một gợn mây.
    Linh kiến về nhận thức trực tiếp của thực tại tối hậu xảy ra cho đến khi bạn có linh ảnh về ba giọt liên kết với nhau.
    Hơn nữa, giọt duy nhất,42 là ánh sáng tự nhiên của thể tính của tính giác nguyên sơ tối thượng, đặc tính bẩm sinh, được nhìn thấy bằng thức giác quan trực tiếp. Nhìn theo cách đó, thực tại tối hậu sẽ thoát khỏi phân tích bằng nhận thức.


    Từ cùng một mật điển đó:

    Do linh kiến về nhận thức trực tiếp của thực tại tối hậu
    Bạn vượt trên những ngôn từ bám chặt vào phân tích nhân thức.


    2. Linh kiến về Kinh nghiệm Thiền định Tiến bộ

    Nhờ nỗ lực thực hành theo cách trước, không gian tuyệt đối và tính giác 43 đôi khi trở nên rõ ràng và đôi khi lại không rõ ràng. Tuy nhiên, khi bạn dần quen với việc thực hành, không gian tuyệt đối và tính giác tách ra khoảng bốn ngón tay từ vùng giữa hai lông mày của bạn và phát ra ngoài không gian. Các linh ảnh về không gian tuyệt đối liên tục xuất hiện dưới dạng tập hợp năm giọt, lấp lánh, và phát sáng bên trong các khối cầu vồng ánh sáng. Linh ảnh về năm ánh sáng giống như một mái che thêu kim tuyến, xuất hiện theo các mẫu dọc, ngang, lưới, hoa sen hoặc ô vuông. Những linh ảnh này tăng lên cho đến khi chúng lấp đầy toàn thể môi trường. Các giọt trở nên càng lúc càng lớn hơn, từ kích thước của chiếc gương nhỏ, đến chiếc bát, lên đến tấm khiên bọc da tê giác, và các chuỗi kim cương trở nên càng lúc càng ổn định hơn.

    Kết quả là, bên trong giọt có thể dần xuất hiện một nửa hình dạng Kim Cương Tát Đỏa, từ đỉnh đầu 44 xuống toàn bộ thân hình. Những linh ảnh này có thể nhiều vô số, xuất hiện dưới dạng một nam thần bản tôn đơn độc và duy trì hiện diện nhưng không chuyển động.

    Vào lúc này, các luồng sinh khí 45 thúc đẩy các hình tướng bên ngoài, các uẩn bên trong, và sự khái niệm hóa bí mật bị dập tắt. Bên ngoài, các điều kiện phối hợp của các hình tướng phát sinh như sự hỗ trợ của bạn, bên trong, bạn thoát khỏi nhận thức phân tích ảo tưởng, và bí mật, bạn duy trì trạng thái phi khái niệm. Từ điểm này, các hình tướng bất tịnh, ảo tưởng dần lắng xuống, và các hình tướng thanh tịnh của tâm thức nguyên thủy phát sinh. Do đó, điều này cấu thành linh kiến về kinh nghiệm thiền định tiến bộ.


    Tương tự, từ mật điển Thâm nhập âm thanh:

    Linh kiến về kinh nghiệm thiền định tiến bộ
    Khiến những hình tướng ảo tưởng lắng xuống


    Nếu bạn chết vào thời điểm này, bạn sẽ được giải thoát trong quá trình chuyển tiếp của thực tại tối hậu.

    3. Linh kiến về Tính giác thành tựu 46

    Thực hành theo cách đó, tất cả các hiện tượng bất tịnh bao gồm đất, đá, và núi đều lắng xuống, và năm ánh sáng lấp đầy tất cả các cõi của vũ trụ. Hơn nữa, bên trong mỗi vòng tròn năm giọt xuất hiện vô số mandala của năm vị phật hợp nhất với phối ngẫu 47 của họ. Do đó, những hình ảnh như năm và một trăm gia đình của các hóa thần an bình và phẫn nộ xuất hiện lấp đầy tất cả các cõi của vũ trụ, bất cứ nơi nào bạn nhìn.48 Từ tim của họ, những tia sáng rất mịn xuất hiện để kết nối với tim bạn. Vào lúc đó, vì các hình tướng của thế giới bên ngoài phát sinh như tâm thức nguyên thủy, chúng xuất hiện như những cõi phật báo thân.49 Bên trong, vì thân huyễn của bạn được giải phóng thành một khối ánh sáng, nên nhận thức ô nhiễm được thanh lọc. Khi các hiện tượng thô bên ngoài và bên trong bị dập tắt theo cách đó, các luồng sinh khí và tâm trí của bạn đạt đến trạng thái hoàn hảo. Như một hệ quả, bất cứ khi nào bạn hướng đến tính giác của mình, ngay cả khi bạn hướng đến một thực thể vật chất, thì thực thể đó sẽ bắt đầu chuyển động và gây ra tiếng ồn.50 Và vì những đau khổ tinh thần của bạn đã được giải phóng tự nhiên, nên mối liên hệ giữa nghiệp và các khuynh hướng thói quen của bạn đã bị cắt đứt. Mọi hình tướng huyễn ảo đều lắng xuống, còn các hình tướng thuộc tâm thức nguyên thủy tăng lên; do đó, bạn đạt được khả năng làm chủ đối với những phẩm chất xuất sắc như thần nhãn và nhận thức siêu giác quan.

    Tóm lại, một khi các hình tướng của thế giới vật chất được tịnh hóa thành không gian tuyệt đối, sự hiểu biết về các thân và các cõi phật chính là linh kiến về tính giác thành tựu.

    Theo đó, mật điển Thâm nhập âm thanh có ghi:

    Nhờ linh kiến về tính giác thành tựu
    Bạn siêu việt các hình tướng của con đường mà nhờ đó bạn chứng ngộ ba thân.

    Và từ Không gian trong sáng:

    Nhờ linh kiến của tính giác thành tựu
    Bạn được giải phóng khỏi sự nắm bắt bên ngoài và bên trong đối với thực tại căn bản.


    4. Linh kiến về Sự diệt tận vào thực tại tối hậu

    Bằng cách thực hành như trước đây, các hình tướng dần tan biến vào không gian tuyệt đối của thực tại tối hậu. Một khi điều này xảy ra, thực tại tối hậu, vốn ở phương diện vượt ngoài suy nghĩ và lời nói, được gọi là sự diệt tận vào thực tại tối hậu. Một khi các dấu hiệu trước đây đã bị dập tắt,51 mặc dù bạn không đi vào trạng thái hư vô, thực tại căn bản và sự chế định của tâm trí vẫn bị dập tắt.52 Thân và tâm của bạn hợp nhất bất nhị trong bản chất ánh sáng và được thu rút vào trong các tia sáng của lòng bi mẫn, nhờ đó hòa tan vào tim của năm gia đình phật. Kết quả là, bạn đạt đến đỉnh cao của con đường tu luyện, và bạn tiến gần hơn đến việc nhìn thấy các linh ảnh của bản tính tinh túy thanh tịnh khởi nguyên.

    Về bản chất của sự diệt tận, mọi sự xuất hiện của các thân và cõi phật đều bất biến và tự chiếu sáng, và cơ sở cho sự phát sinh của chúng là không ngừng, do đó, trên thực tế, không có sự dao động. Nhờ vậy, tính sáng tự nhiên tan biến vào không gian tuyệt đối. Lúc đó, mọi hiện tượng được nắm bắt qua khuôn khổ khái niệm của bạn, được chỉ định bằng các thuật ngữ như “trống rỗng”, “không trống rỗng”, “cái này là” và “cái này không là”, cũng như độ sáng chói bên ngoài của tính sáng, tan biến ở bên trong vào không gian tuyệt đối. Bằng cách làm như vậy, ở bên ngoài, mọi sản phẩm linh ảnh của các kinh nghiệm thiền định đều bị dập tắt. Bên trong, thân huyễn của bạn bị dập tắt và hòa tan vào một thân ánh sáng,54 lúc đó chỉ có bề rộng bằng một ngón tay xuất hiện bên trong ánh sáng đó. Ngoài ra, không có bất cứ sự xuất hiện nào của thực tại căn bản. Do sự dập tắt của lời nói và hơi thở của bạn, mọi âm thành đều tan biến vào âm thanh tự nhiên không ngừng.55 Bí mật, do sự dập tắt các động năng của bạn, mọi phiền não tinh thần của tập hội những suy nghĩ mê lầm đều được thanh lọc tự nhiên, và bạn được giải thoát vào thân cái bình trẻ trung.56 Khi đó, bạn sẽ thấu triệt được nền tảng khởi nguyên như không gian tuyệt đối.

    Từ trạng thái đó, khi bạn đáp ứng nhu cầu của chúng sinh, bạn xuất hiện như thân chuyển hóa vĩ đại, giống như phản chiếu của mặt trăng trong nước, bạn phục vụ nhu cầu của chúng sinh bằng cách đạt được khả năng làm chủ sự sinh và hóa sinh.57


    Theo đó, từ mật điển Sự thâm nhập của âm thanh:

    Do linh kiến của sự diệt tận vào thực tại tối hậu
    Sự tiếp nối của chu kỳ tam giới bị cắt ngắn.


    Và:

    Linh kiến về sự diệt tân vào thực tại tối hậu
    Làm trống rỗng các hình tướng của kinh nghiệm thiền định.
    Thân thể bạn bị dập tắt, các đối tượng giác quan bị dập tắt
    Bạn được giải thoát khỏi những ảo tưởng của các tập hợp ý niệm
    Và bạn được giải thoát khỏi những từ ngữ, là cơ sở diễn đạt.


    Và:

    Tương tự, một khi sự tiếp nối của các nguyên tố trong cơ thể bạn bị dập tắt,
    Các uẩn ô nhiễm của bạn không xuất hiện nữa,
    Và bạn giác ngộ ngay trong kiếp này.


    Đó là linh kiến về sự diệt tận vào thực tại tối hậu. Một khi bạn đã bước vào con đường này, nếu bạn thiền định với nỗ lực tuyệt vời, sẽ không quá ba năm bảy tháng để các hình tướng bên ngoài, thân huyễn bên trong của bạn và tất cả các tập hợp bí mật của những suy nghĩ đau khổ 58 biến mất vào bản thể của tính giác. Hệ quả là, bạn sẽ hóa hiện ra thân kim cương, là thân cầu vồng không chuyển di.

  13. #13

    Mặc định

    B. Về việc làm quen với các hướng dẫn thực hành của bốn điểm kết thúc, có bốn mục: (1) đặt nền tảng cho ba trạng thái bất động, (2) lĩnh hội các tiêu chí giác ngộ thông qua ba sự định tĩnh, (3) cắm cọc của ba thành tựu, (4) xác định các tiêu chí giải thoát thông qua bốn niềm tin.

    1. Đặt nền tảng cho ba trạng thái bất động:

    Trong ba tư thế, bạn không hoạt động; mắt bạn cố định với ba cái nhìn chăm chú, bạn không vận động bằng hơi thở và tính giác, chậm rãi và không gượng ép; và bạn không vượt quá những biểu hiện của không gian tuyệt đối. Nhìn chung, việc thực hành của bạn không nên tách rời khỏi ba điều này. Đặc biệt, chúng có giá trị vào thời điểm nhận thức trực tiếp về thực tại tối hậu.

    2. Nhận thức các tiêu chí của giác ngộ thông qua ba định tĩnh

    Nhờ thực hành theo cách đó, bên ngoài, các linh ảnh trở nên tĩnh lặng, hệ quả là, các điều kiện bất lợi nảy sinh như để hỗ trợ cho bạn; bên trong, do sự yên lặng của các uẩn, bạn thoát khỏi các hoạt động mê lầm; bí mật, do hơi thở và tâm trí tĩnh lặng, các ý nghĩ tự nhiên chấm dứt.59 Những điều này chủ yếu có giá trị tại thời điểm kinh nghiệm thiền định tiến bộ.

    Vào lúc đó, các tiêu chí được hiểu theo hai cách: (a) bằng các giấc mơ, và (b) bằng các dấu hiệu xuất hiện trong thân thể và lời nói.

    a. Đầu tiên, bạn mơ những giấc mơ đẹp; sau đó bạn nhận thức giấc mơ như vậy; và cuối cùng, khi giấc mơ lắng xuống vào không gian tuyệt đối của tịnh quang, chuỗi giấc mơ chấm dứt.

    b. Về các dấu hiệu, vào thời điểm nhận thức trực tiếp về thực tại tối hậu, thân thể của bạn giống như một con rùa được đặt trong một cái bát đáy phẳng, lời nói của bạn như thể bạn bị câm, còn tâm trí của bạn giống như một con chim bị mắc bẫy.

    Vào thời điểm kinh nghiệm thiền định tiến bộ, cơ thể bạn giống như một người bị bệnh, lời nói của bạn giống như một người điên, còn tâm trí bạn như thể bị say thuốc.
    Vào thời điểm tính giác thành tựu, thân bạn giống như một con voi ngâm trong bùn, lời nói bạn giống như một đứa trẻ kimbhanda,60 còn tâm trí bạn giống như một người đã khỏi bệnh.

    Vào thời điểm tận diệt vào thực tại tối hậu, thân bạn giống như cầu vồng giữa không gian, lời bạn giống như âm thanh của tiếng vọng, còn ý bạn giống như sương mù sắp tan biến vào không trung.

    3. Cắm cọc cho ba thành tựu

    Bên ngoài, bằng cách làm chủ được các hình tướng, chúng được giải phóng thành các cõi phật; bên trong, bằng cách làm chủ được thân huyễn, thân vật chất của bạn được giải phóng thành tịnh quang; bí mật, bằng cách làm chủ được hơi thở và tâm trí, những đau khổ tinh thần của bạn được giải phóng thành tâm thức nguyên thủy. Những điều này xảy ra chủ yếu vào thời điểm đạt đến tính giác thành tựu.

    4. Xác định các tiêu chí giải thoát bằng bốn niềm tin:

    Mặt tích cực là bạn hy vọng đạt được phật quả, và bạn lo lắng về việc không đạt được nó. Mặt tiêu cực là bạn lo lắng về việc bị rơi vào luân hồi, và bạn hy vọng không bị như vậy. Bạn sẽ được giải thoát khỏi bốn mối bận tâm này.62

    Trích từ mật điển Khối Châu Báu:

    Nhờ bốn niềm tin lớn của cái thấy bất biến
    Bạn lĩnh hội được các tiêu chí
    Của tâm thức nguyên thủy phi khái niệm.

    Như vậy, một khi đã đi vào phần chính của thực hành, nếu bạn siêng năng nhiệt thành,63 thì phải mất ba năm bảy tháng hoặc một tháng, để được giải thoát không còn chút tàn dư nào vào nền tảng nguyên thủy của thực tại tối hậu. Một khi đã làm được như vậy, chắc chắn bạn sẽ giữ vững nền tảng 64 của mình. Nếu bạn siêng năng bình thường, sẽ mất năm năm, năm tháng và sáu ngày. Nếu bạn ít tinh tấn, thì cũng sẽ mất bảy năm và mười một tháng.

    Những lời dạy này chỉ ra cách những cá nhân có căn cơ cao được giải thoát trong kiếp này, cách những cá nhân có căn cơ trung bình được giải thoát trong trung ấm, và cách những cá nhân có năng lực thấp được giải thoát trong cõi phật của hóa thân tự nhiên. Tất cả những cách giải thoát này đều được biết đến cụ thể là những hướng dẫn thực hành của Đại Toàn Thiện.66

    Ngoài ra, đối với các hướng dẫn thực hành mà bạn sử dụng để bước vào con đường tu đạo của mình, trong bối cảnh chu kỳ ngày và đêm, bằng cách chia ban ngày thành một khoảng thời gian và ban đêm thành ba khoảng thời gian, bạn có tổng cộng bốn khoảng thời gian.67

    Vào ban ngày, do kết quả hướng dẫn thực hành niêm phong các hình tướng 68 trong khi ở trạng thái thiền định quân bình, hãy duy trì trạng thái tịnh quang phi khái niệm, giống như không gian. Trong trạng thái sau thiền định, hãy chuyển hóa bản thân thành một linh thể giống như ảo ảnh. Hoặc, bạn có thể quán tưởng hình thức của thân huyễn thanh tịnh như một linh thể, nhờ vậy các hình tướng hòa vào tịnh quang, do đó có được sức mạnh của chúng.

    Vào ban đêm, có ba phần hướng dẫn thực hành để tăng cường điểm quan trọng của tâm thức nguyên thủy.

    a. Vào lúc hoàng hôn, những điểm quan trọng để giữ vững ý thức bên trong như sau: Bằng hơi thở bình nhẹ nhàng, một hình nón rực sáng ở rốn 69 của bạn bên trong trung mạch làm tan chảy HAM 70 trên đỉnh đầu. Sau đó, bằng cách duy trì chú tâm vào giọt rơi xuống tim bạn, trạng thái tâm thức nguyên thủy bẩ sinh của lạc và không sẽ phát sinh.

    b. Vào giữa đêm, hãy kéo đối tượng tỉnh giác của bạn vào trong bình: Hướng chú ý của bạn đến một chữ A trắng rực rỡ bên trong một bông sen đỏ bốn cánh ở tim bạn. Kết hợp và nhje nhàng duy trì sinh khí ở tim bạn, và bằng cách nghỉ ngơi trên vai phải của bạn trong thế sư tử, giấc ngủ sâu của bạn sẽ xuất hiện như tịnh quang.

    c. Vào lúc bình minh, củng cố tính sáng chói tự nhiên của tính giác: khi bình minh ló dạng, trong khi vẫn ở tư thế sư tử, thở ra ba hơi dài, nói “HA”, và sau mỗi hơi thở, dừng lại. Vào thời điểm đó, hãy đẩy A ở tim bạn qua lỗ hổng Brahma rồi để nó trôi nổi trong không gian khoảng một cubit phía trên đỉnh đầu bạn, và hướng sự chú ý của bạn vào nó. Bằng cách nghỉ ngơi trong trạng thái mà sinh khí của bạn được giữ bên ngoài, tâm thức nguyên thủy phi khái niệm về tính sáng và tính không sẽ phát sinh.

    Đây là cách để áp dụng thực hành kết thúc của bạn vào con đường trong bối cảnh của gốc rễ thứ ba.71 Do đó, nền tảng con đường Kim cương thừa là bốn quán đỉnh: bình, bí mật, trí tuệ giác ngộ, và quán đỉnh thứ tư.72 Đạo lộ tối thượng của những quán đỉnh sâu xa này rất sâu sắc và thống nhất.

    Bốn yoga của hình thức, mật chú, lạc, và tâm thức nguyên thủy phát sinh dần dần cho mỗi cá nhân. Vì vậy, một khi kinh nghiệm đã phát sinh trong tất cả các thực hành trước đó của giáo lý chính, từ thực hành sơ khởi trở đi, bạn dần dần đi vào các thực hành tiếp theo.

    Một hành giả vượt qua trực tiếp nên thực hành theo bất cứ cách nào phù hợp với xu hướng 73 của riêng mình. Những người phi thường,74 tuân thủ guru yoga, nhận diện trần trụi tính giác và duy trì nó liên tục. Những người mới bắt đầu chia ngày và đêm thành các phiên gồm bốn, sáu, vân vân. Trong nhiều phiên ngắn này, điều rất quan trọng là phải duy trì sáng suốt tập trung, không phân tâm. Vào cuối mỗi phiên, hãy hồi hướng trọn vẹn công đức của bạn mà không tách rời khỏi tinh thần tỉnh thức. Kết quả là, công đức của bạn sẽ tăng lên. Ngoài ra hãy thực hiện nhiều lời nguyện chung và riêng.75 Giữa các thời khóa, không từ bỏ bản tính tinh túy trong kinh nghiệm của bạn, duy trì tỉnh giác và áp dụng nó vào hành động. Chuyển động và tĩnh lặng trở thành vũ điệu kim cương,76 các chuyển động của bạn trở thành màn trình diễn sáng tạo của đại lạc,77 đồ ăn thức uống của bạn trở thành thần dược của tâm thức nguyên thủy dâng cúng cho các bản tôn của mandala thân của bạn. Hãy hình dung rằng tập hội các hóa thần bên trong bạn tận hưởng các lễ vật này. Khi ngủ thiếp đi, hãy duy trì tỉnh giác của bạn về âm tiết BAM ở tim. Khi thức dậy, hãy trỗi dậy như một linh thể giống như ảo ảnh từ trạng thái tịnh quang của tính không.

    Ngay cả khi bạn đã chứng ngộ cái thấy siêu việt tri thức, bạn vẫn nên hành động chính xác về những gì cần chấp nhận và bác bỏ theo luật nhân quả. Hoàn toàn cắt đứt những biểu hiện phàm tục như dính chấp và nắm bắt. Các hình sắc trở thành hóa thần, âm thanh trở thành mật chú, ký ức và suy nghĩ được chuyển hóa thành con đường như sự hiển bày của pháp thân.

    Đối với giới nguyện samaya của các sinh khí, hãy duy trì sinh khí trung gian 79 của bạn. Đối với samaya của bạn về nội nhiệt,80 hãy ổn định sự chú tâm của bạn vào sự xuất hiện của ngọn lửa tỏa sáng được quán tưởng ở rốn của bạn. Đối với samaya về giọt, hãy duy trì bản tính tinh túy (của kinh nghiệm) về trạng thái lạc. Điều rất quan trọng là không bao giờ tách rời khỏi ba samaya này.

    Khi bạn kiên trì thực hành nhất tâm như vậy, và chúng có hiệu quả, những hành vi sai trái và gây chướng ngại của bạn trước đây sẽ được xúc tác, giống như khói xuất hiện trước ngọn lửa. Một khi điều này xảy ra, bên ngoài, có thể có những trở ngại của các rối loạn vật lý đối với các nguyên tố, bên trong, có thể có những chướng ngại của tính uể oải và hưng phấn trong thiền định quân bình của bạn do các kinh mạch, sinh khí, và các giọt; bí mật, có thể có đủ loại chướng ngại từ các rối loạn tinh thần cho việc nhập định. Sẽ có rất nhiều kinh nghiệm nhẹ nhàng và dữ dội, cao và thấp. Bất kể điều gì xảy ra, hãy cắt đứt nút thắt của sự bám chấp và dính mắc mà không tham gia vào bất cứ loại hy vọng, sợ hãi phủ định hay khẳng định nào. Bằng cách tích hợp những chướng ngại này vào các kinh nghiệm của bạn, chúng sẽ chuyển hóa thành hỗ trợ, và chúng sẽ xuất hiện như con đường.

    Duy trì bản tính tinh túy mà không đánh mất cảm giác về sự tỉnh giác của bạn. Bằng cách đó, các chướng ngại tự nhiên được giải phóng, giống như các nút thắt của một con rắn tự nhiên tự tháo ra và kinh nghiệm của bạn được nâng cao.

    Để nâng cao toàn bộ thực hành đó, hãy có một cảm giác thất vọng lớn lao về luân hồi, tạo ra một tinh thần khẩn cấp. Hãy nuôi dưỡng tinh thần giác ngộ, đòi hỏi lòng bi mẫn không thể chịu đựng đối với chúng sinh.81 Chủ nhân của mọi phương pháp xua tan chướng ngại và nâng cao thực hành của bạn không ai khác chính là lòng tận tụy của bạn đối với đạo sư của bạn. Do đó hãy xác định đạo sư của bạn là bản tính tinh túy cho sự tổng hợp của ba gốc rễ.82 Đem sức mạnh của lòng tôn sùng và kính trọng nồng nhiệt, vô biên trong niềm khao khát mãnh liệt, không dính mắc hay ràng buộc, hãy cầu nguyện chân thành.83 Trong trạng thái bản tính không tạo dựng của tồn tại, hãy hợp nhất tâm trí của bạn với đạo sư. Lạc, sinh khí và tâm trí của bạn không tách rời khởi giai đoạn phát sinh nơi bạn thấy thế giới hiện tượng biểu hiện như nền tảng, Đại Toàn Thiện thực tế tự nhiên. Khi nhận thức của bạn về Đại Hợp Nhất tăng cường, yoga về thân tướng sẽ được củng cố.84

    Kết quả của những thực hành mãnh liệt mà bạn tự giam mình trong một căn phòng tối, các vật thể, giác quan và ý thức được thu rút, và sự xuất hiện rõ ràng của các dấu hiệu ngày và đêm được ổn định. Đây là sự tăng cường của yoga mật chú.85

    Một khi bạn đã thanh lọc cơ thể chính mình, nhờ vào yoga sau đây, bạn có thể tác động lên cơ thể người khác.86 Nhờ đó, mudra của đường đời bạn là phương tiện thiện xảo sâu sắc để tiếp nhận tinh chất sống còn của người được phú cho hoa sen.87 Kết quả là, bạn đắc được thân của đại lạc tối thượng bất biến, cuộc đời kim cương bất tử. Đây là sự tăng cường của yoga đại ấn.

    Để đánh giá tính vững vàng của các kinh nghiệm thiền định và chứng ngộ, bạn nên đến một nơi kinh hãi, đáng sợ, chẳng hạn như một bãi tha ma, và người ta nói rằng sau đó bạn nên bắt đầu các thực hành như được dạy trong các mật điển.88 Nếu bạn không có can đảm để đến một nơi như bãi tha ma, hãy dâng cúng cơ thể bạn cho các loài ma. Bất kể ý nghĩ nào phát sinh, hãy giải phóng tất cả chúng vào không gian tuyệt đối của tính không, và hoàn toàn xóa bỏ những suy nghĩ hướng ngã.

    Nói chung, hành vi của bất cứ cá nhân nào đã đạt được mức độ ổn định nào đó trong bản thể tồn tại giống như hành vi của một đứa trẻ không thể đánh giá được qua vẻ bề ngoài.89 Bởi vì hy vọng và sợ hãi không rằng buộc được họ, nên hành vi của những người đã đạt được mức độ ổn định trung bình giống như hành vi của một người điên ngay lập tức giải phóng bất cứ điều gì phát sinh.90 Hành vi của những người đã đạt được độ ổn định cao giống như một con sư tử không sợ hãi hay run rẩy trước bất cứ điều gì. Do đó, họ đi từ nơi này đến nơi khác, và vì đại dương kỷ luật tâm linh của họ, họ đạt được quyền năng giao du với các vira và dakini cư ngụ ở những nơi đó. Những cá nhân như vậy làm chủ được trạng thái của nữ hoàn kim cương bẩm sinh trong cõi phật vĩ đại hàng đầu của các không hành nữ. Họ hoàn thành các hoạt động giác ngộ không bị cản trở để thanh lọc vòng luân hồi từ chiều sâu của nó.91

    Nguyên lý tinh hoa của mọi con đường thâm sâu
    Là phương pháp đưa những người may mắn đến nhanh chóng và dễ dàng
    Các giai đoạn của bốn yoga
    Tôi đã giải thích ngắn gọn về điều này.
    Khi mọi chúng sinh đã thành tựu trọn vẹn
    Hiện thân tâm thức nguyên thủy của lạc,
    Mẹ của đại lạc trong sự hợp nhất, Yeshe Tshogal
    Nguyện họ trang hoàng cho thành trì của các dakini.


    Lời tác giả

    Một hành giả tên là Trulshig Dorje, người có may mắn của các thành tựu trên con đường này, đã nhiều lần yêu cầu và với lòng khao khát lớn lao rằng tôi sẽ thực hiện mong muốn của ông bằng cách biên soạn văn bản này. Ngoài ra Acharya Orgyen Sangag Tendzin, của Dapo Longpo Padma Choling, đã nhiệt tình khơi dậy quyết tâm và đảm nhận trách nhiệm truyền bá các hoạt động giác ngộ của phương pháp này.Và gần đây, vua Tsewang Rigdzin Nampar Gyalwa, với ý định duy nhất là chứng ngộ tinh túy của thực hành và những lời thệ nguyện, đã nhiệt tình ban cho tôi một mệnh lệnh mà tôi không thể từ chối. Nhờ đó, tất cả những điều này đã kết hợp lại với nhau. Khi tôi, Jigdral Yeshe Dorje, một hành giả mật tông thuộc tầng lớp cao quý, ba mươi chín tuổi (vào ngày thứ mười của trăng tròn tháng sáu), tôi đã soạn ra văn bản này trong một khu rừng tuyệt đẹp, nơi ở của các trì minh, trên Tro Buchu Dechen, một thung lũng xanh tươi, có rừng ở phía đông. Mong rằng văn bản này sẽ là viên ngọc như ý để thành tựu hạnh phúc của bản thân và những người kahsc.

    Sarvadamangalam!
    Mong hạnh phúc lan tỏa khắp mọi nơi!

  14. #14

    Mặc định

    CHÚ THÍCH


    LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI DỊCH

    1. Mong pai blun cho dag gó bya spu can zhes bya ba bzhugs so.

    2. Zab lam mkha groi thugs thig gi rim gnyis kyi khrid yig dngos grup dod jo.

    3. Với sự đồng ý của tác giả, B.Alan Wallace, tiểu sử tóm tắt của Dudjom Lingpa, được đưa vào làm “Lời tựa” cho văn bản của Dudjom Lingpa, có tên là Bản tính kim cương: Từ ma trận của Hiện diện thanh tịnh và Tâm thức nguyên thủy, một mật điển về Bản tính tự khởi nguyên của tồn tại, đã được trích đoạn và in lại tại đây. Bản Tính Kim Cương cũng được dịch bởi Alan Wallace, được xuất bản năm 2004 bởi Mirror of Wisdom (Lưu ý, một phiên bản mới của Bản tính Kim Cương sắp ra mắt từ Vimala Publishing).
    4. Dudjom Lingpa, Tự truyện của Dudjom Lingpa.

    5. Tiểu sử của Dudjom Rinpoche được trích từ lời tựa của Shenpen Dawa Rinpoche cho cuốn Phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng: Nền tảng và Lịch sử, của Dudjom Rinpoche. Gyurme Dorje với Mathew Kapstein, dịch và biên tập (Boston: NXB Wisdom, 1991).

    6. Như trên.

  15. #15

    Mặc định

    CUỐN MỘT


    Pháp ngu si của tên ngốc lấy bùn và lông vũ làm quần áo


    1. “Giấc ngủ sâu của tâm trí” là ẩn dụ cho vô minh.

    2. Đây là cõi phật quan trọng nhất, cõi tịnh độ nơi toàn thể chư phật đạt giác ngộ hoàn hảo, không gian tuyệt đối của thực tại.

    3, “Người tiết lộ pháp thân” đồng nghĩa với Phổ Hiền. Đây là người đầu tiên trong bộ ba, bao gồm vị thầy, đoàn tùy tùng và nơi chốn. Tùy thuộc vào ngữ cảnh, thuật ngữ Tây Tạng ston pa có thể được dịch là “người tiết lộ” hoặc “giáo viên”.

    4. Trong quá khứ, chúng ta dịch thuật ngữ “tự nhiên” (rang byung) là “tự phát sinh”, vì rang có nghĩa là “tự”, và byung nghĩa là “phát sinh”. Tuy nhiên, Gyatrul Rinpoche chỉ ra rằng bản dịch này quá theo nghĩa đen và do đó không đúng vì tâm thức nguyên thủy hiện diện từ đầu vượt thời gian, nó không phát sinh theo cách tương đối, nhị nguyên. Do đó, Gyatrul Rinpoche gợi ý “tự nhiên” là cách dịch chính xác hơn vì nó không ngụ ý những khái niệm sai lầm về hoạt động tạm thời.

    5. Đoàn tùy tùng (khor ba). Đây là một cảnh tương tự như cảnh diễn ra trong văn bản tiếng Tây Tạng gNas lugs rang byung, trong đó Phổ Hiền xuất hiện được vây quanh bởi một vòng tròn đệ tử, tất cả đều hóa hiện từ tính giác của chính ngài. Đây là thứ hai của bộ ba.

    6. Nếu những học giả Tây Tạng đó kiêu ngạo đến mức họ thậm chí không bị thu hút bởi chính lời dạy của đức Phật, chắc chắn họ sẽ không quan tâm đến những gì xuất hiện ở đây. Dudjom Lingpa không quan tâm đến những gì họ nghĩ về tác phẩm của ông, đó là việc của họ. Nhưng có những người khác ngay thẳng, trung thực, và những người thực hành đúng theo các kinh điển và mật điển, do vậy, hành vi của họ phù hợp với giáo pháp. Ông chỉ quan tâm đến những người này, những người đáng được tôn trọng. Do đó, tiếp theo ông thú nhận bất cứ lỗi lầm nào mà ông có thể đã mắc phải khi biên soạn văn bản này, nhờ vậy thể hiện tính khiêm nhường của mình đối với những người xứng đáng.

    7. Sự sa ngã của tu sĩ, bồ tát và mật tông

    8. Phật quả

    9. Điều này ám chỉ đến các loại giáo lý trong gNas lugs rang byung trong đó Phổ Hiền xuất hiện và ban cho ông giáo lý.

    10. Đây là một câu cách ngôn nổi tiếng của Tây Tạng chế giễu những kẻ ẩn dật, giả vờ thiền định nhưng thực chất đang giết thời gian như loài cầy thảo nguyên ngủ đông.
    11. Câu này ám chỉ tám mối quan tâm thế tục.

    12. Dudjom Lingpa không biên soạn tác phẩm này với động cơ để nhận được cúng dường hay trở nên nổi tiếng để mọi người nghĩ ngài là một bậc thầy vĩ đại; ngài cũng không sử dụng tác phẩm này để đề cao bản thân. Tuy nhiên ngài có một lưỡi câu: đó là lưỡi câu vươn ra và dẫn dắt chúng sinh đến giác ngộ.

    13. Nếu cơ thể bạn đột nhiên bốc cháy, bạn sẽ không nghĩ đến bất cứ điều gì khác, thay vào đó, bạn sẽ ưu tiên điều này nhất. Hoặc nếu bụi đột nhiên đập vào mắt bạn, bạn sẽ bỏ mọi thứ để rửa sạch. Việc này sẽ hoàn toàn chiếm hết tâm trí bạn. Tương tự, nếu bạn không nhanh chóng tận dụng lợi thế của giáo pháp và đưa nó vào thực hành, bạn sẽ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra với cuộc sống của mình. Thời điểm chết là không chắc chắn, vì vậy hãy không ngừng bày tỏ thái độ không lãng phí thời gian của bạn, không tiếp tục sống như thể cái chết sẽ không bao giờ đến. Dudjom Lingpa về cơ bản đang nói rằng chúng ra nên sống như thể không có ngày mai.

    Điểm này có thể được minh họa bằng hai câu chuyện từ truyền thống Kadampa. Đầu tiên là về một nhà sư Kadmapa đang thiền định trong một hang động có một bụi gai ở lối vào. Mỗi lần ông ra khỏi hang, bụi gai sẽ vướng vào áo choàng. Ông nghĩ: “Ồ mình thực sự nên chặt bụi gai đó xuống, nhưng có lẽ mình sẽ chết trước khi quay lại, nên thôi kệ đi.” Sau đó, khi ông bước vào hang động, bụi gai lại vướng vào áo choàng của ông. Ông nghĩ: “Mình thực sự phải chặt bụi gai đó, nhưng tất nhiên mình có thể chết sớm, nên mình sẽ làm sau.” Việc này xảy ra hết lần này tới lần khác, cho đến khi, theo thời gian, ông trở thành một thành tựu giả vĩ đại và bụi gai trở thành một bụi gai vĩ đại, không bên nào can thiệp bên nào.

    Chuyện thứ hai kể về những hành giả Kadampa sau khi ăn xong, họ úp bát xuống, nghĩ rằng: “Đây có thể là bữa ăn cuối cùng của mình”.

    Ngược lại, chúng ta sống như thể mình bất tử, chúng ta thậm chí không thể tưởng tượng cuộc sống của mình có thể kết thúc. Chúng ta có nhiều suy nghĩ như: “Làm sao tôi kiếm được tiền? Làm sao tôi có bạn gái hay bạn trai mới? Một người chồng hay vợ mới?” Tâm trí chúng ta xoay quanh tám mối bận tâm thế tục này đến mức, ngay cả khi đức Phật nâng chúng ta lên ngực và quấn chúng ta trong áo choàn của ngài thì chúng ta vẫn sẽ nghĩ cách kiếm thêm tiền. Theo cách đó, chúng ta sống hoàn toàn trái ngược với những gì Dudjom Lingpa gợi ý ở đâu trong văn bản.

    14. Đây là ẩn dụ cho cuộc sống của chúng ta. Hãy xem xét cách chúng ta đã sống theo cách này trong suốt những kiếp trước và quyết tâm không lãng phí thêm một khoảnh khắc nào nữa.

    15. Bánh xe với các nan hoa sắc nhọn này là ẩn dụ cho luân hồi và đặc biệt là những trạng thái khốn khổ của tồn tại. Cuộc sống nhàn hạ và sung túc hiện thời của chúng ta, mặc dù bị vòng quay luân hồi cắt đứt nhưng vẫn mang lại cho chúng ta chút tự do. Tuy nhiên, nếu không tận dụng cuộc đời này, thì trong tương lai sẽ không có một khoảnh khắc nào khi bánh xe với các nan hoa sắc nhọn chậm lại. Bánh xe sẽ xé nát chúng ta, và chúng ta sẽ bị giam cầm dưới ảnh hưởng của khí nghiệp rất mạnh mẽ, về căn bản là động lực từ nghiệp trong quá khứ của chúng ta. Lúc này sẽ không có lối thoát. Những năng lượng sống này sẽ đẩy chúng ta từ kiếp này sang kiếp khác, từ ngạ quỷ đến súc sinh, đến một chúng sinh địa ngục, rồi lại đến một ngạ quỷ nữa, vân vân.

    16. Thay vì trì hoãn thực hành giáo pháp, hãy trì hoãn việc quan tâm đến những gì người khác nghĩ. “Tôi nghĩ việc này là công đức, nhưng hàng xóm sẽ nghĩ gì về tôi nếu tôi đi ra ngoài và thiền định? Họ sẽ nghĩ rằng tôi là một kẻ hoàn toàn vô dụng!” Hãy trì hoãn dạng quan tâm tầm thường đó về những gì người khác có thể nghĩ về bạn. Hãy trì hoãn ý tưởng rằng những mối quan tâm này là những gì giúp bạn tiến lên, là những gì khiến bạn thành công, vân vân.

    17. Trong một số văn bản guru yoga khác, trước tiến bạn quán tưởng lama của mình trên đỉnh đầu, sau đó, trong suốt quá trình thực hành, bàn hòa tan lama vào chính mình, nhờ đó bạn có được hình dạng của lama. Đây là một trình tự hơi khác so với trình tự được sử dụng ở đây.

    18. Chúng sinh mê lầm về những gì cần phải chấp nhận và những gì cần phải từ bỏ để tìm kiếm hành phúc đích thực và tránh đau khổ. Hành động và ham muốn của họ hoàn toàn không tương thích với nhau. Loại từ bi cần được vun đắp ở đây không chỉ là một giai đoạn đôi khi nghĩ rằng: “Ồ tôi quý bạn”, mà đúng hơn là một cách nhìn nhận tất cả chúng sinh đều xứng đáng được đồng cảm, không phân biệt hay thiên vị. Kết quả của lòng từ bi này là dòng tâm thức của bạn trở nên thuần phục, đặc biệt, cảm giác kiêu hãnh hay tự phụ của bạn sẽ giảm đi. Nhưng hiện tại, bạn không nên rơi vào cảm giác thờ ơ, thay vào đó, bạn nên đưa ra động lực để thiết lập chúng trong trạng thái toàn tri của giác ngộ hoàn hảo.

    19. Người ta phải nhớ kỹ những chúng sinh không biết điều gì nên được chấp nhận và điều gì nên bị từ bỏ. Ở Mỹ ngày nay, một số người cho rằng việc thực hành xem tất cả chúng sinh như thể đã từng là cha mẹ của họ vào một thời điểm nào đó là không hữu ích vì cha mẹ hiện tại của họ đã không đối xử tốt với họ. Họ không nhận ra rằng lý do cha mẹ họ hành động theo cách này chẳng phải vì một số ác ý bẩm sinh đối với con cái họ, mà là vị họ đã rơi vào ảnh hưởng của ba chất độc tinh thần (tham, sân, si). Điều rất quan trọng là phải nhận ra mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái không chỉ giới hạn ở kiếp này mà còn áp dụng cho cả những kiếp trước.

    Hãy nhớ rằng trong quá khứ bạn đã từng sinh ra trong tất cả sáu cõi luân hồi, như súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, vân vân. Trong hàu hết các cõi này, bạn đã có cha mẹ, và nhìn chung, họ đã chăm sóc bạn bằng lòng tốt, vì vậy điều quan trọng là không nhấn mạnh đến lỗi lầm của cha mẹ bạn.

    20. Bạn đồng hành và huynh đệ kim cương mà bạn đã nhận quán đỉnh đều ở trong cùng một mandala, và do đó có cùng samaya.

    21. Nói cách khác, nếu bạn có khả năng thực hành các thiền định cao cấp hơn, thì thật ngớ ngẩn khi lãng phí thời gian vào những hoạt động ít quan trọng hơn như xua đuổi các ý nghĩ như thể chúng là những con chuột chết.

    Con số hai mươi mốt ngàn (chính xác hơn là hai mốt ngàn sáu trăm) có ý nghĩa vì nó ám chỉ các chu kỳ prana trong một ngày (hai mươi bốn giờ), và các ý nghĩ nảy sinh với mỗi chu kỳ prana. Cần lưu ý rằng, trong văn học mật tông, con số này cũng liên quan đến số kinh mạch trong thân thể.

    22. Điều này có thể song song với các giai đoạn của con đường. Ví dụ, đạt được hiểu biết giống như một đứa trẻ, đạt được giác ngộ giống như một thanh niên, và cuối cùng, đạt được tự tin, giống một người trưởng thành.

    23. Oddiyana Sarasijavajra

    24. Ở đây, “Tỉnh giác” (rig pa) và “không tỉnh giác” (ma rig pa) hoàn toàn đối lập. Khi kếp hợp với “tâm trí” (sem) để tạo thành ma rig pai sems, thì tốt nhất nên dịch là “tâm trí không tỉnh giác”. Cần lưu ý rằng ma rig pa thường được dịch là “vô minh”, tức là gốc rễ của luân hồi, nhưng trong bối cảnh này chúng tôi cảm thấy rằng “không tỉnh giác” minh họa cho sự đối lập hoàn toàn rõ ràng hơn, giống như nó xuất hiện trong tiếng Tây Tạng.

    25. Orgyan gsung gi rdo rje. Thật thú vị khi lưu ý rằng thuật ngữ Tây Tạng Orgyan là dịch ra từ tiếng Phạn Oddiyana, là vùng đất phía tây bắc Pakistan, được cho là nơi sinh của Liên Hoa Sinh.

    Thuật ngữ tiếng Tạng gsung nghĩa là “lời nói”, còn rdo rje nghĩa là kim cương; do đó, có thể dịch tên này là Lời Kim Cương Oddiyana.

    Trong chính văn bản, cách phiên âm của “Orgyen” là đúng với chữ “e”, trong khi ở đây, nó được viết bằng chữ “a”, theo hệ thống Wylie.

    26. Trong các văn bản khác nói rằng Dudjom Lingpa thực ra có mười ba đệ tử.

    27. Mặc dù tâm trí được tuyên bố theo quy ước là được phóng chiếu bởi tính giác, nhưng cuối cùng thì tâm trí và tính giác có cùng bản chất. Tuy nhiên, cần phải phân biệt giữa hai thứ này vì chúng không đơn giản là cùng một thứ. Ví dụ, tâm trí là thứ bị mê lầm và lang thang trong luân hồi, trong khi tính giác là thứ nhận ra bản chất của tồn tại.

  16. #16

    Mặc định

    28. Ví dụ, việc khách thể hóa nền tảng có thể được minh họa bằng phép ẩn dụ về việc ở giữa đại dương và nhầm mình là một giọt nước, coi đại dương là cái gì đó hoàn toàn tách biệt. Tương tự, Dudjom Lingpa thấy rằng những loại kinh nghiệm này là do ngoại tại hóa nền tảng tồn tại.

    Giống như đại dương là cơ sở để phản chiếu mặt trăng, các vì sao, và các hành tinh, bản chất của tính giác, pháp thân nền tảng, là nền tảng của toàn thể luân hồi và niết bàn. Khi nghĩ về nền tảng, rất dễ rơi vào mô hình đồng nhất hoặc coi nó ngang hàng với bản ngã của chúng ta. Mặc dù pháp thân nền tảng là bản chất tính giác riêng của chúng ta, nhưng nó không nên bị nhầm lẫn với ý thức về bản sắc cá nhân của chúng ta, vì ý thức về bản sắc cá nhân của chúng ta chỉ là một tia lửa phát sinh từ pháp thân nền tảng.

    29. lam gyi rig pa

    30. “Sự vắng mặt của hoạt động tinh thần” ám chỉ bản chất thực sự của pháp thân, thoát khỏi mọi chuyển động. Bạn có thể thấy mình trong trạng thái thiền định có vẻ như là bản sao của “sự vắng mặt hoạt động tinh thần” này, khi bạn hoàn toàn bình lặng và tâm trí của bạn hoàn toàn tĩnh lặng, cởi mở và rộng rãi. Hoặc có thể bạn chỉ đang trống rỗng. Vấn đề với suy nghĩ rằng bạn đang thiền trong khi ở trong trạng thái trống rỗng về mặt tinh thần là khi hoạt động trở lại, bạn thấy rằng tâm trí của bạn không thay đổi. Do đó, việc mất tập trung không có lợi theo bất cứ cách nào vì nó không loại bỏ được những đau khổ về tinh thần.

    Thay vào đó, bạn nên chú ý đến không gian tuyệt đối của thực tại, bản tính của nó giống như không gian. Phẩm chất giống như không gian của nó là như vậy mà không có gì trên thế giới có thể có lợi hay có hại cho nó. Trong khi đó, nếu bạn hỏi: “Điều này có nghĩa là không có thiện hạnh hay bất thiện hạnh đối với pháp thân phải không?” thì câu trả lời là chừng nào bạn còn vướng mắc vào nắm bắt nhị nguyên, thì sẽ luôn có thiện hạnh và bất thiện hạnh vì bạn vẫn còn trong luân hồi. Do đó, có những lúc bạn rơi vào trống rỗng, và có những lúc bạn lấy lại sáng suốt. Tuy nhiên, nền tảng đã sáng ngời từ nguyên thủy, hiện diện từ nguyên thủy; bản tính của nó là tỉnh thức, vì vậy chẳng có gì để nó được đánh thức, Mặt khác, khi chúng ta nói về những người đạt được phật quả, chúng ta đang nói đến việc loại bỏ những che chướng tạm thời hoặc ngẫu nhiên che khuất tính giác. Miễn là chúng ta đang nói về quá trình loại bỏ những tấm màn che khỏi bản thể của tính giác, chúng ta thấy những trình bày phức tạp này về nền tảng cùng với các quá trình khác nhau nhằm mục đích trưởng thành hướng tới thức tỉnh tinh thần.

    31.Dharmata thực tại tối hậu là thể tính của mọi hiện tượng, tức là tính không, còn được gọi là không gian tuyệt đối.

    32. Mọi phẩm chất của pháp thân, báo thân, và ứng thân đều được hiện thực hóa tự nhiên trong chính bản chất của tính giác. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về các mô tả về “pháp thân vĩ đại, thoát khỏi mọi cực đoạn, thiên lệch, đi và đến”, hãy xem các bài trình bày kinh điển về tám cực đoan của quá trình xây dựng khái niệm, từ các học giả như Long Thọ.

    33. Nền tảng toàn thể (kun gzhi) vẫn còn rất nhiều trong luân hồi. Nó là trạng thái trống rỗng hoàn toàn, một sự trống rỗng của tính giác.

    34. “Đồng nhất” hoặc nắm giữ chặt chẽ (nye bar len pa) là một thuật ngữ kỹ thuật rất quan trọng trong Phật giáo, ám chỉ khuynh hướng đồng nhất chặt chẽ với cơ thể, tâm trí, suy nghĩ, cảm xúc, vân vân, của chúng ta, nghĩ rằng chúng thực sự là của chúng ta, trai ngược với những hiện tượng đơn thuần mà chúng ta nghĩ là không phải.

    35. Tính giác và tâm trí có cùng bản tính tinh túy (ngo bo) nhưng xét về bản chất của chúng (rang bzhin) , khi có sự nắm bắt thì được gọi là tâm trí, khi không có sự nắm bắt thì được gọi là tính giác.

    36. “Tử cung nguyên thủy” là tử cung của thực tại tối hậu.

    37. Các cơn sóng tự nhiên hòa trở lại vào đại dương, không cần tác động bên ngoài. Tương tự, mọi biểu hiện và hiện tượng của luân hồi và niết bàn tự nhiên hòa trở lại vào tử cung của thực tại tối hậu, tử cung ban đầu.

    38. “Bản tính của tồn tại” là từ đồng nghĩa với tính không.

    39. Thông thường, sau khi thời khóa thiền kết thúc, chúng ta có xu hướng bị mất tập trung khi các “trạng thái bình thường” của tâm trí như ham muốn, tức giận hoặc ảo tưởng phát sinh; chúng ta chạy theo những “trạng thái bình thường” này của tâm trí trong khi quên mất mục đích của thiền định.

    40. Orgyen Tsho Kye Dorje và Orgyen Dorje Drolo là hai trong tám hóa thân của Guru Rinpoche. Hóa thân đầu tiên có nghĩa là “Kim cương sinh ra từ hồ Oddiyana” và ám chỉ đến một hóa thân an bình của Guru Rinpoche. Hóa thân thứ hai có nghĩa là “Kim cương hoang dã và phẫn nộ của Oddiyana” am chỉ đến một hóa thân phẫn nộ của Guru Rinpoche. Cả tám tên được gọi chung là Guru Tsen Gye, hay “Tám tên của Guru”. Tám tên này không phải là các Guru Rinpoche khác nhau, đúng hơn, chúng tượng trưng cho những đặc điểm khác nhau để chỉ ra bản tính sâu xa nhất của tâm trí.

    41. Cả chủ thể và đối tượng đều chỉ tồn tại như những chỉ định mang tính khái niệm.

    42. Mặc dù các chiều không gian chẳng là gì khác ngoài sự mở rộng của tính giác, nhưng dù không gian có vẻ rộng lớn đến đâu, nó cũng không rộng lớn hơn bản tính của tính giác chính bạn.

    43. Nếu bạn vật chất hóa đức Phật bằng cách tưởng tượng ra khuôn mặt của ngài, nghĩ rằng ngài thực sự ở trên kia và bạn thực sự ở dưới này, bạn chỉ tạo ra một ma vương ở trên bạn. Việc vật chất hóa bản sắc vốn có của đức Phật là điều mà Orgyen Dorje Drolo muốn phá hủy. Vì vậy xin đừng để bị cuốn theo và đi đập phá các bức tượng phật!

    44. Tương tự, con quỷ bên dưới là hiện thân của kẻ thù, ác ma, vân vân.

    45. “Bản tính của bạn” không ám chỉ những đặc điểm như nam tính trái ngược với nữ tính, hay những khía cạnh nhất định trong tâm lý của bạn, mà ám chỉ bản chất giác ngộ của chính bạn.

    46. Vào thời điểm này, sự giải thoát không diễn ra tuần tự mà chứng ngộ và giải thoát diễn ra cùng một lúc.

    47. “Hang động của những hình tướng lừa dối” là sự vật hóa của những vẻ ngoài tạo ra hy vọng, sợ hãi và các trạng thái tinh thần khác khiến chúng ta quay trở lại trạng thái bình thường. Những lời dạy tinh túy này đã làm sụp đổ hang động của sự lừa dối.

    48. Ở đây, “sự vật hóa” không phải là từ tiếng Tây Tạng phổ biến bden dzin, mà chúng ta dịch là “nắm bắt sự tồn tại đích thực” hay “sự vật hóa”, mà đúng hơn là rtag dzin, theo nghĩa đen là “nắm bắt sự tồn tại vĩnh cửu”. Trước đây, rtag dzin đã được dịch là “nắm bắt vĩnh cửu”, nhưng đây hiếm khi là nghĩa chính xác.

    49. Biết được toàn thể của luân hồi và niết bàn có nghĩa là biết được bản tính tinh túy của tồn tại như là những màn trình diễn của tính giác. Một khi bạn biết và nhận ra cái toàn thể này, sự nắm bắt tồn tại thực chất tự nó biến mất, và hang động lừa dối sụp đổ.

    50. Tiến trình tuần tự của việc tìm kiếm trước tiên là tham chiếu thực sự của từ “Tôi” và sau đó là tham chiếu thực sự của từ “thân thể” cũng được tìm thấy trong gnas lugs rang byung. Thông qua quá trình giảm thiểu này, bạn ngừng nắm bắt các nhãn hiệu của “Tôi” và “thân thể” vì bạn nhận ra rằng tất cả các bộ phận riêng lẻ đều có nhãn hiệu riêng của chúng nên chúng không thể được gọi là “Tôi” hay “Thân Thể”.

    51. Về sự “biến mất” này, không phải là mọi thứ đã tồn tại rồi sau đó không tồn tại nữa, mà đúng hơn là chúng chỉ là những sự xuất hiện có tính lừa dối ngay từ đầu. Vì vậy chúng chưa bao giờ tồn tại, chúng không biến mất khỏi sự tồn tại, mà đúng hơn là những màn trình diễn huyễn ảo của các hình tướng biểu hiện rồi trở nên không biểu hiện.

    52. Bằng cách tìm kiếm cơ sở của sự chỉ định và không tìm thấy nó, sai lầm của việc sự vật hóa được tiết lộ. Phần trước trình bày cụ thể để chống lại khuynh hướng sự vật hóa mọi thứ của chúng ta. Chúng ta vật chất hóa mọi thứ bên trong theo nhân dạng và thân thể của chính chúng ta. Chúng ta vật hóa mọi thứ bên ngoài theo môi trường, các vật thể trong môi trường và mọi thứ ở giữa. Nhận ra tất cả những thứ này là những hiện tượng ảo tưởng, và nhận ra cách chúng ta nắm bắt những thứ không thực sự tồn tại như là thực sự tồn tại. Ngoài ra, hãy nhận ra cách chúng ta dán nhãn mọi thứ và sau đó vật hóa các đối tượng của những nhãn hiệu đó, bởi vì trong thực tế không có cơ sở thực sự tồn tại nào cho các nhãn hiệu đó.

    53. Đây là bảy phẩm chất của không gian kim cương.

    54. Năm nguyên tố là đất, nước, lửa, không khí và không gian.

    55. “Trống rỗng từ phía riêng của chúng” có nghĩa là chúng trống rỗng về bất cứ sự tồn tại cố hữu nào từ phía riêng của chúng. Điều này liên quan đến cả chủ thể và đối tượng.

  17. #17

    Mặc định

    56. Nếu tất cả những kẻ tra tấn dưới địa ngục đã làm những điều khủng khiếp như vậy trong nhiều kiếp, tại sao chúng không trải nghiệm hậu quả nghiệp báo của hành động đó? Điều này là do chúng sinh địa ngục không có tri giác, chúng chỉ là những hình tướng ảo tưởng phát sinh tùy thuộc vào tâm trí của chính chủ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là người ta có thể bỏ qua hậu quả hành động của chính mình chỉ vì địa ngục và chúng sinh địa ngục không thực sự tồn tại.

    57. Ngay cả thời gian cũng là ảo tưởng; nó không thực hơn một giấc mơ. Người ta có thể có những trải nghiệm trong mơ mà thời gian dường như giãn ra hoặc co lại, nhưng không có thời gian tuyệt đối. Tương tự, một số chúng sinh ở một cõi địa ngục có thể trải qua hàng triệu kiếp đau khổ, trong khi, đồng thời, những chúng sinh khác ở một cõi địa ngục khác có thể trải qua một phần nhỏ của điều đó. Vấn đề là thời gian chỉ là tương đối.

    58. Do sự vật hóa bản thân, chúng ta có xu hướng nghĩ rằng: “Tôi đang kiểm soát”, “Tôi đang hiện hữu” hoặc “Đây là chủ thể, đây là bản ngã, còn đây là người khác”. Chúng ta nghĩ rằng mình đang kiểm soát mọi thứ với cảm giác vật chất hóa về bản ngã, nhưng trên thực tế, vì không có bản ngã thực sự, nên những gì có vẻ bắt nguồn từ một tác nhân thực sự tồn tại thật ra đang xảy ra do những hoàn cảnh khác trong vòng quay luân hồi này.

    59. Thân thể và cái bóng của nó giống như các đối tượng được khái niệm hóa. Do khuynh hướng thói quen của chính mình, chúng ta nắm giữ những thứ như vậy và liên tục duy trì luân hồi của chính mình. Đây là bản chất liên tục và lâu dài của luân hồi.

    60. Đây là lịch âm.

    61. Về mặt môi trường bên ngoài, khuynh hướng thường trực của chúng ta là nắm bắt mọi thứ xuất hiện với các giác quan của mình, chẳng hạn như các hình dạng thị giác, màu sắc, âm thanh, tên gọi là hình dáng, như thể chúng vốn có thật. Tương tự, về mặt bản ngã, chúng ta nắm bắt bản sắc cá nhân của mình, vật hóa cả bản sắc của chính mình cũng như bản sắc của người khác. Chừng nào chúng ta còn vật hóa các hình tướng bất tịnh, thì chừng đó sự giải thoát là bất khả. Điều này cũng đúng với những thực hành thiền của hai giai đoạn phát sinh và thành tựu. Nếu chúng ta tiếp tục vật hóa và nắm bắt bản sắc cố hữu của các hiện tượng khác và của chính mình, thì không có cách nào để những thực hành như vậy dẫn đến giác ngộ. Ngược lại, kho siêng năng thực hành những thiền định này, chúng ta đang thực sự giao hạt giống cho luân hồi.

    62. Khi chết và tái sinh, nó không giống như cảm giác bạn có trong môi trường bình thường này khi di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Cảm giác rằng bạn đang thực sự di chuyển từ một nơi thực tế này sang một nơi thực tế khác là một ảo tưởng.

    63. Về sự xuất hiện của ban ngày và ban đêm, khi chúng ta ngủ, sự xuất hiện của ban ngày không bị bỏ lại, chờ đợi chúng ta vào buổi sáng; mà đúng hơn, sự xuất hiện ban ngày chuyển thành sự xuất hiện ban đêm, thành sự xuất hiện giấc mơ. Tương tự, khi chúng ta thức dậy, xuất hiện giấc mơ trở thành xuất hiện khi thức. Đơn giản là xuất hiện làm nảy sinh xuất hiện. Hiểu được điều này không chỉ hữu ích trong trạng thái thức mà còn trong giấc mơ.

    Nếu nhận ra bản chất thực sự của những giấc mơ, điều này sẽ giúp chúng ta trong quá trình chết vì chúng ta sẽ nhận ra rằng, trên thực tế, thực sự không có ai chết. Vào thời điểm này, chúng ta sẽ có cơ hội quan trọng để nhận ra tự tính của mình, và biết được tự tính của mình là trở thành một vị phật. Không nhận thức được tự tính của mình là vẫn còn mê lầm. Do vẫn còn mê lầm, chúng ta bước vào quá trình chết với suy nghĩ: “Ồ tôi đã đến trung ấm, và bây giờ tôi sẽ đến một trong sáu cõi”. Trên thực tế, thực sự không có nơi nào để đi: khi chết, chúng ta không di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Tất cả những thứ gọi là sáu cõi này, trung ấm, vân vân, chỉ đơn giản là những hiện thân của chính chúng ta. Điều này đúng với thế giới trần tục cũng như đúng với các cõi phật, như cõi Cực Lạc của A di đàn, hoặc các cõi thanh tịnh của Quán Thế Âm, và Guru Rinpoche, nơi chúng ta thấy các cõi kỳ diệu đầy hoa, vân vân. Tất cả những thứ này cũng không gì khác hơn là sự xuất hiện của chính bạn

    Khi Phật Thích Ca xuất hiện trên thế gian này như một ứng thân, người ta nói rằng ngài không xuất hiện như một con người thực sự bằng xương bằng thịt. Mặc dù ngài xuất hiện với trang phục tu sĩ, đi chân đất với đầu cạo trọc, vân vân, nhưng những gì mọi người thực sự nhìn thấy là những hình ảnh xuất hiện chịu ảnh hưởng nghiệp của chính họ. Những hình ảnh xuất hiện trong nhận thức chúng ta có thể được minh họa bằng phép ẩn dụ về một bát nước trong đó nhiều hình ảnh phản chiếu khác nhau xuất hiện. Ví dụ, hình ảnh phản chiếu của đức Phật sẽ xuất hiện trong nước nhận thức của chính chúng ta. Thông qua tu luyện tinh thần, cuối cùng toàn bộ nước đều khô cạn, theo đó mọi hình ảnh xuất hiện sẽ biến mất. Vào thời điểm này bạn sẽ trở thành một vị phật. Nói cách khác, tất cả nghiệp của bạn sẽ cạn kiệt. Miến là bạn còn nghiệp, các loại hình ảnh phản chiếu xuất hiện trong tâm trí bạn sẽ phát sinh ra tùy theo mức độ thanh tịnh tâm trí của bạn. Nhưng khi tất cả nghiệp đã cạn kiệt, thì như thể nước đã khô cạn và các hình ảnh xuất hiện không còn tồn tại nữa. Vì vậy, đức phật đã sống cuộc đời mình, truyền bá tám mươi bốn ngàn bộ kinh, và vào thời điểm dường như là cuối đời, ngài chỉ đơn giản hòa tan trở lại vào không gian tuyệt đối của các hiện tượng, vào pháp giới.

    Bây giờ, liên hệ điều này với hai giai đoạn Dzogchen, trekcho (đột phá) và thogal (vượt qua trực tiếp), chúng ta sẽ xem xét ba linh kiến đầu tiên của giai đoạn thogal là: (1) linh kiến nhận thức trực tiếp về thực tại tối hậu, (2) linh kiến về kinh nghiệm thiền định tiến bộ, và (3) linh kiến về tính giác thành tựu. Ba linh kiến này giống như mặt trăng đang tròn dần về mặt các hình tướng của tính giác, pháp thân, trở nên rỏ ràng hơn cho đến khi chúng hoàn hảo.

    Khi các hình tướng của tính giác trở nên hoàn thiện, linh ảnh thứ tư và cuối cùng diệt tận vào thực tại tối hậu xuất hiện. Điều này giống như mặt trăng khuyết, trong đó tất cả linh kiến đã trở nên hoàn hảo trọn vẹn đều lùi lại vào không gian tuyệt đối. Điều này có phải là bạn tan biến vào hư không? Tất nhiên là không. Vào thời điểm này, bạn không trở thành một phi thực thể, mà đúng hơn, mọi phẩm chất giác ngộ, mọi phẩm chất của toàn thể chư phật, đã rút lui vào bên trong. Nhưng mặc dù chúng đã rút lui vào bên trong, chúng không bị che khuất. Chúng chỉ đơn giản là lùi trở lại vào không gian tuyệt đối của các hiện tượng, vào pháp giới. Việc này giống như ánh sáng cầu vồng xuất hiện trong một lăng kính lùi lại vào chính lăng kính đó. Chúng hiện diện bên trong nhưng không bị che khuất bởi bất cứ thứ gì.

    Sau khi nghe giải thích như vậy, đừng rơi vào cực đoan nghĩ rằng chư phật và cõi phật không tồn tại. Theo quan điểm thông thường, chư phật và cõi phật có tồn tại, nhưng theo quan điểm tối hậu của Dzogchen thì không. Tại sao? Bởi vì theo quan điểm này, chính bạn là một vị phật và mọi hình tướng đều chỉ là của riêng bạn. Mọi phẩm chất của những bậc giác ngộ và năm gia đình phật không gì khác hơn là hình tướng của riêng bạn. Tương tự, hình tướng của riêng bạn không gì khác hơn là Phổ Hiền. Về việc Phổ Hiền tiết lộ giáo pháp, bạn nên ghi nhớ ba dòng truyền. Dòng thứ nhất là Dòng truyền Tâm của các Đấng Chiến Thắng, là sự truyền trao từ tâm sang tâm, không có bất cứ diễn đạt bằng lời nào. Dòng tâm này là truyền thừa tinh tế và sâu sắc nhất. Thứ hai là Dòng truyền Biểu Tượng của các Vidyadhara, trong đó giáo pháp được truyền hoàn toàn bằng biểu tượng, dấu hiệu hoặc thủ ấn. Thứ ba, có Dòng truyền Miệng của các Cá Nhân, trong đó có sự giao tiếp bằng lời nói thực sự.

    Trong dòng truyền miệng được cho là có sáu dòng phụ, và đây cũng là những hoạt động của Phổ Hiền. Nếu bạn hiểu được bản chất của toàn thể luân hồi và niết bàn, bạn sẽ hiểu rằng các hiện tượng không bao giờ là bất cứ thứ gì khác ngoài sự mở rộng bao la của Phổ Hiền. Với nhận thức này, mọi sai lầm của các hiện tượng bất tịnh đều biến mất. Khi mọi hiện tượng đã hòa tan trở lại vào pháp thân, chúng được ví như mặt trăng khuyết. Mặt khác, liên quan đến các hình tướng thanh tịnh, có những giai đoạn thực hành trong đó bạn rút ra các hình tướng thanh tịnh cho đến khi cuối cùng chúng đạt đến viên mãn hoặc hoàn hảo, sau đó chúng hòa tan trở lại vào Phổ Hiền.

    Về mặt thực hành cho bản thân, điều quan trọng là phải nhận ra rằng chúng ta cần thực hành thiện hạnh cho đến khi mọi sự nắm bắt nhị nguyên hoàn toàn biến mất, bởi vì cho đến khi chúng ta đạt được giải thoát, luật nhân quả vẫn còn hiệu lực.

    64. “Chất nền” hoặc “nền tảng toàn thể” (Phạn: alaya, Tạng: kun gzhi)

    65. Đây là tử cung của tính thanh tịnh nguyên thủy.

    66. Thuật ngữ “bẩm sinh” (ihan skyes), theo nghĩa đen nghĩa là “đồng phát sinh” vì luân hồi và niết bàn cùng tồn tại. Tương tự, tâm trí bình thường và tâm thức nguyên thủy cùng phát sinh. Về chân lý tương đối, như thể tâm thức nguyên thủy chỉ đơn giản là cùng phát sinh với tâm trí mê lầm; do đó đồng phát sinh. Nhưng theo quan kiến tối thượng của Dzogchen, không có sự phát sinh nào cả, do đó, người ta thậm chí không đề cập đến đồng phát sinh. Về con đường, tâm thức nguyên thủy này cùng tồn tại với tâm trí bình thường, do đó nó được gọi là “bẩm sinh” bởi vì nó đã hiện diện. Tương tự, tất cả năm tâm thức nguyên thủy đều đã hiện diện.

    Khi bị mê lầm, không phải là chúng ta đã mất hết mọi phẩm chất của pháp thân, hay của Phổ Hiền; chỉ đơn giản là những phẩm chất đó đã bị kéo trở lại không gian tuyệt đối. Điều này giống như một lăng kính mà mặt trời không chiếu qua. Trong trường hợp này, lăng kính vẫn là lăng kính, nhưng theo một nghĩa nào đó, ánh sáng cầu vồng đã rút vào trong lăng kính, và chúng chỉ hiển lộ khi ánh sáng chiếu qua nó. Tương tự, tâm trí bị mê lầm có mọi phẩm chất này hiện diện và sẵn sàng xuất hiện, nhưng hoàn cảnh chưa phù hợp để chúng hiển lộ.

    Bạn có thể hỏi: “Tại sao luân hồi và niết bàn đồng thời phát sinh?” Chúng ta nói như vậy vì cả hai đều hiện diện trong bản tính cốt yếu của Phổ Hiền, hay pháp thân. Sau đó, bạn có thể hỏi: “Nếu các hiện tượng thanh tịnh và bất tịnh hoặc các phiền não và tâm thức nguyên thủy cùng phát sinh, liệu tôi có thể thấy chúng không?” Câu trả lời là bản thân bạn là bẩm sinh, vừa là chúng sinh vừa là một vị phật. Nhưng chẳng phải như thể bạn là hai thứ khác nhau. Không phải như thể có các hình tướng thanh tịnh và bất tịnh, hoặc tâm thức nguyên thủy và các phiền não. Chỉ có một thứ, và toàn bộ vấn đề là bạn có nhận ra bản chất của thứ đó hay không. Nếu không nhận ra nó, bạn có các hình tướng bất tịnh, các phiền não, chúng sinh, sáu trạng thái tồn tại và đau khổ. Nếu nhận ra nó, bạn có các hình tướng thanh tịnh, bản tính phật, Phổ Hiền, tâm thức nguyên thủy, vân vân. Những hiện tượng nhị nguyên này chỉ đồng phát sinh theo nghĩa ẩn dụ.

    Vì vậy, bạn đã có khả năng hiểu thực tại theo hai loại kiến thức: kiến thức về toàn bộ phạm vi của thực tại và kiến thức về thực tại như nó là. Hơn nữa, bạn cũng có đẩy đủ khả năng để tạo ra toàn bộ cách thức trải nghiệm trong sáu trạng thái tồn tại. Hai khả năng này không phải là hai thứ khác nhau, chúng là một, và sự giác ngộ của bạn phụ thuộc vào việc bạn có nhận ra tự tính của mình hay không. Điều này đúng với tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Ngay bây giờ, bạn có tự do để khơi dậy bản tính phật này, hoàn cảnh cá nhân của bạn chứa đựng mọi điều kiện cần thiết để làm như vậy. Đó là lựa chọn của bạn. Bạn có thể nhận ra bản tính phật của mình, nếu không bạn có thể vẫn chịu ảnh hưởng của ngũ độc.

    Bạn đang ở ngã ba đường, nơi bạn có tự do lựa chọn giữa việc bạn sẽ chịu mất mát to lớn hay trải nghiệm lợi ích to lớn. Đối với chuyện này, một số người có thể trả lời: “Tất cả đều rất tốt, nhưng tôi rất bận!” Phản ứng này xuất phát từ việc nắm bắt cái “Tôi là”, và nắm bắt tồn tại cố hữu của các hiện tượng bên ngoài. Mọi người thường nói: “Ồ tôi phải tôn trọng mong muốn của cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn trai bạn gái tôi”. Việc đó sẽ dẫn đến loại tái sinh nào? Mặt khác tại sao lại không tôn trọng trí tuệ vĩ đại của đức phật? Giống như khi Dudjom Lingpa nói trong văn bản rằng ông đã đến ngã ba đường và ông không biết phải đi đâu, bây giờ bạn cũng đang ở ngã ba đường và phải quyết định nên đi con đường nào.

    67. Các “thần bản tôn niết bàn” đã vượt ngoài đau khổ, đồng nghĩa với “các vị thần siêu việt thế giới”. Những vị bản tôn này cần được phân biệt với các “vị thần thế gian” trần tục hơn, vốn vẫn chịu ảnh hưởng của nhận thức nhị nguyên.

    68. Một chúng sinh có tâm thức nguyên thủy (ye shes shems dpa) là yidam hoặc thần bảo hộ của chính mình.

    69. Ở đây “gốc rễ” là bản chất của tính giác, tức là tâm thức nguyên thủy, bẩm sinh, vĩ đại.

    70. Đây là một chuỗi thực hành hai phần: đầu tiên, thông qua khảo sát, bạn phải cắt đứt sự bám chấp vào nhân dạng của bản thân và người khác. Một khi đã hoàn thành việc này, bạn ngừng khảo sát và hoàn toàn giải thoát, vẫn hiện diện trọn vẹn, không có bất cứ hoạt động nào.

    71. Trong trường hợp này, ý tưởng bắt buộc giống như nước chảy dưới lòng đất. Người ta có thể nói rằng các ý nghĩ là bán ý thức hoặc thậm chí là vô thức, và như vậy chúng vượt ra ngoài biên giới khỏi những biểu hiện sáng tạo của tính giác. Bạn có thể hỏi: “Chà, toàn thể luân hồi và niết bàn không phải là gì khác ngoài một biểu hiện sáng tạo của tính giác sao?” Nếu hỏi điều này, bạn đã bỏ lỡ toàn bộ quan điểm! Tuy nó đúng theo một góc nhìn, nhưng đó không phải là những gì Dudjom Lingpa đang nói ở đây.

    Ông khẳng định rằng khi bạn ở trong trạng thái nhận biết này, bạn có cảm giác là không có suy nghĩ nào, nhưng thực ra bạn chỉ đơn giản là trống rỗng. Cảm giác không có suy nghĩ là sai lầm vì suy nghĩ vẫn ở đó, chúng chỉ đơn giản là tiền nhận thức. Suy nghĩ nằm dưới bức màn nhận biết của chính bạn, nhưng bạn không thoát khỏi chúng; do đó, chúng không phát sinh như những biểu hiện sáng tạo của tính giác. Mặc dù chúng ẩn tàng, chúng vẫn cấu tạo nên tính giác. Vì vậy, bạn không hề tự do. Tại thời điểm này, bạn đã đến ranh giới giữa tâm trí và tính giác, nơi mà các suy nghĩ là trung lập về đạo đức.

    Trong trạng thái nhận biết này, bạn không đi lên niết bàn cũng không đi xuống luân hồi; bạn chỉ lơ lửng ở giữa hai trạng thái đó. Trạng thái này dễ bị nhầm lẫn với tính giác chân chính vì mặc dù bạn hiện diện trên phương diện của tính không, bạn vẫn không có tuệ giác chân thực.

    Trong kinh nghiệm giả Dzogchen này, mặc dù bạn đang ở trong trạng thái hoàn toàn trống rỗng, trong đó mọi ý nghĩ đã biến mất, bạn không biểu hiện như một vị phật hoặc một chúng sinh. Bạn bị mắc kẹt trong vùng đất không tưởng này. Mặt khác, trong nhãn quan thực sự của Dzogchen, bạn thấy mọi hình tướng đều thanh tịnh và bình đẳng.

    72. “Không vượt quá” này chính là điều vừa được thảo luận (71), đó là trạng thái mà bạn đang ở trong tình trạng trống rỗng, nhưng bạn không ở trong cái thấy bao trùm toàn thể của Dzogchen.

    73. Tất cả những điều này đều tự nhiên phát sinh từ ánh sáng của không gian bao la, không cần suy tính hay nỗ lực trước.

    74. Trong linh kiến đầu tiên thuộc bốn linh kiến của giai đoạn thực hành vượt qua trực tiếp, gọi là linh kiến nhận thức trực tiếp về thực tại tối hậu, bạn thấy mối quan hệ giữa nền tảng và các hình tướng phát sinh từ nó. Sau đó, bạn tiến tới linh kiến thứ hai, liên kiến về kinh nghiệm thiền định tiến bộ. Ở đây, các hình tướng của nền tảng ngày càng rõ ràng hơn, giống như mặt trăng đang tròn dần. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng, cũng giống như mặt trăng thực sự không thay đổi, các hình tướng cũng vậy. Tương tự, khi bạn phát triển trên con đường, bạn có thể nói: “Ồ những đau khổ trong tâm trí tôi đang được thanh lọc!” Bạn có thể có cảm giác rằng bạn sẽ tìm thấy những phẩm chất giác ngộ bên ngoài bản thân mình. Nhưng điều này hoàn toàn sai lầm! Bản thân thuật ngữ “phát triển tinh thần” là gây hiểu lầm. Sự thay đổi duy nhất là bạn bắt đầu tin tưởng vào chân tính của chính mình.

    Trong quá trình kinh nghiệm thiền định tiến bộ này, các hình tướng linh thánh của cõi phật tăng lên, nhưng mặc dù chúng là những linh ảnh thanh tịnh, chúng vẫn bị ô nhiễm bởi sự nắm bắt nhị nguyên. Những hình tướng này tiếp tục phô bày đạt đến hoàn hảo cho đến khi chúng đạt đến đỉnh cao trong linh kiến thứ ba tính giác thành tựu. Nhưng ngay lúc này, sự nắm bắt nhị nguyên vẫn còn. Cuối cùng, bạn đến linh kiến thứ tư sự diệt tận vào thực tại tối hậu, trong đó mọi hiện tượng biến mất. Điều này không có nghĩa là chúng trở thành không tồn tại. Mà đúng hơn, chính sự nắm bắt nhị nguyên trở nên không tồn tại vì bạn thực sự đã nhận ra tự tính của mình. Từ góc nhìn đó, không còn phân biệt giữa chúng sinh và chư phật nữa vì bạn không còn gắn kết với nhận thức nhị nguyên. Do đó, tâm trí thông thường không còn tồn tại. Có phải điều này là bạn trở nên ngu ngốc không? Không! Điều này nghĩa là vì tâm trí thông thường không còn tồn tại nữa, bạn được tự do lang thang trong không gian vĩ đại. Phổ Hiền không phải ai khác ngoài bạn.

    Trong khi đó, nếu bạn vẫn cố chấp trong nắm bắt nhị nguyên, bạn phải nhớ rằng nghiệp vẫn tồn tại. Đây là lý do tại sao bạn cần chú ý chặt chẽ đến hành động của mình và hậu quả của chúng. Tương tự, miễn là bạn còn vướng mắc trong nắm bắt nhị nguyên, sẽ có các cõi phật, các trạng thái tồn tại thấp hơn, vân vân. Điều này đúng với chúng ta mặc dù có vô số chúng sinh đã đạt được giác ngộ khi trú ngụ trong các cõi phật. Vì vậy, tuy luân hồi và các cõi phật không hiện diện trong tâm trí của chính các vị phật, nhưng chúng hiện diện đối với chúng ta. Do đó, miễn là chúng ta còn vướng mắc trong nhận thức nhị nguyên, chúng ta phải chú ý đến nghiệp. Hãy nhớ lại phép ẩn dụ mà Dudjom Lingpa đưa ra, về chuyện ở ngoài đồng bằng rộng lớn, cưỡi một con ngựa hoang không có dây cương. Ông nói rằng việc này giống như bị gió nghiệp quật, được duy trì bởi chính sự nắm bắt nhị nguyên của chúng ta. Trên thực tế, không có đồng bằng và không có con ngựa hoang nào cả, tất những gì có ở đó, là bạn.

    75. Chừng nào bạn còn mê lầm, thì việc cố gắng giải cơn khát vấn đề của người khác bằng giọt nước nhỏ nhoi là kiến thức của bạn là điều vô vọng.

    76. Tương tự, khi dòng tâm thức của bạn bị đầu độc, bất cứ thứ gì bạn trao cho người khác cũng chắc chắn là chất độc.

    77. “Một điều” này là sự xác định bản chất của tính giác.

    78. Iha gian bras ljongs sa.

  18. #18

    Mặc định

    CUỐN HAI


    Một giải thích về thực hành Vượt Qua trực tiếp từ văn bản gốc có tên Viên ngọc như ý của các thành tựu: Cẩm nang về hai giai đoạn của Giọt Tâm của Con đường sâu xa của các Dakini của Dudjom Rinpoche.

    1. Văn bản này là từ cuốn Ma nằm trong các tác phẩm được sưu tầm của Dudjom Rinpoche.

    2. Bản dịch sau đây bắt đầu bằng lời tường thuật ngắn gọn của Dudjom Rinpoche về cái thấy của giai đoạn đột phá (trekcho) trong thực hành Dzogchen. Mặc dù không có tiêu đề “Cái thấy” trong văn bản Tây Tạng, chúng tôi đã chèn nó vào đây để làm rõ hơn cho người đọc.

    3. Đối với Dzogchen, điều này liên quan đến giai đoạn thực hành đột phá, nó tương ứng với câu cách ngôn: “Thông qua giác ngộ, người ta được giải thoát, thông qua bi tâm, những người khác được giải thoát.”

    4. Đối với Dzogchen, điều này liên quan đến giai đoạn vượt qua trực tiếp (thogal), và trong mật tông, nó tương ứng với thực hành giai đoạn phát sinh.

    5. Dyings dang ye shes dbyer me.

    6. Đây là nhận dạng phi nhị nguyên đối với bản tính tinh túy của chính bạn.

    7. Liên quan đến thời gian, chiều thứ tư vượt ngoài tính tạm thời, nhưng nó chẳng phải là không tồn tại. Chúng ta cũng có thể nói theo thuật ngữ bốn thân: pháp thân, báo thân, ứng thân, và tự tính thân, là sự hợp nhất của ba thân đầu tiên.

    8. Nền tảng (gzhi) Nền tảng của toàn thể luân hồi và niết bàn là pháp thân.
    Điều này giống như sóng nổi lên từ đại dương và tan biến trở lại, giống như cầu vồng phát sinh từ bầu trời rồi lại tan biến vào đó. Nếu đã xác định được nền tảng, thì tự nhiên bạn sẽ thấy mọi hình tướng chẳng là gì khác ngoài sự tỏa sáng hoặc biểu lộ của nền tảng, giống như sóng không khác đại dương, và cầu vồng không khác bầu trời.

    9. gDing grol thog tu bca ba.

    10. Kunkhyen Longchen Rabjam (1308 – 1363).

    11. Hiện tại, trong trạng thái tâm trí bình thường của chúng ta, tính giác dường như bị giới hạn bởi các ngọn núi. Tuy nhiên, trong trạng thái tỉnh giác thoát khỏi “mọi quy ước bên ngoài, bên trong và ở giữa”, chúng ta thấy bản tính tinh túy (ngo bo) của toàn thể luân hồi và niết bàn. Nhờ vậy, phát sinh một tính giác cởi mở và không bị cản trở như không gian.Tính giác vô hạn này là bản tính tinh túy từ thân, khẩu, ý của toàn thể chư phật trong ba thời, cũng như bản tính tinh túy của mọi hình tướng trong sáu cõi. Bản tính tinh túy của tất cả những thứ này là bản tính tinh túy của không gian. Vì vậy, khi tự tin vào sự chứng ngộ này, chúng ta thấy xuất hiện và biến mất đồng thời, hay sự giải thoát của mọi hiện tượng.

    Đối với các hình tướng, tính giác này giúp chúng ta nhận ra bản tính trống rỗng của các hiện tượng. Ví dụ, bằng cách nhìn thấy bản tính trống rỗng của một cái bàn, bạn không cần phải thay đổi hay sửa đổi nó theo bất kỳ cách nào. Tương tự, khi quan sát những ý nghĩ như ham muốn, dính mắc hoặc thèm khát, ngay khi nhìn thấy bản tính trống rỗng của chúng, chúng sẽ bị mất hiệu lực và không cần bất kỳ pháp đối trị nào. Sự chứng ngộ về bản tính tinh túy của các hiện tượng mang lại lợi ích to lớn vì chúng ta thấy rằng không có gì để từ chối trong năm độc. Bản thân hành động từ chối kéo theo những suy nghĩ như: “Ồ tôi không muốn điều này!” hoặc “Tôi phải làm gì đó để thoát khỏi điều đó!” Toàn bộ quá trình đó chỉ đơn giản là một biểu hiện của sự nắm bắt.

    12. Bảy tư thế của Vairocana: 1) chân bắt chéo, 2) tay trong tư thế cân bằng, bản tay phải đặt lên trên bàn tay trái ngửa lên 3) lưng thẳng, 4) cổ hơi cúi về phía trước, 5) vai thẳng như một cái ách, 6) mắt nhìn vào chóp mũi, và 7) lưỡi chạm vào vòm miệng trên.

    13. Tiếng Phạn citta là trái tim.

    14. “Tác dụng” dây thòng lọng là đôi mắt. Theo nghĩa bóng, đôi mắt hoạt động giống như dây thòng lọng ở chỗ chúng mở rộng ra khoảng cách xa, bắt và lấy lại hình ảnh.

    15. Tiếng Phạn caksu là đôi mắt.

    16. Điều này không có nghĩa là bạn ngưng thở hoàn toàn, nó chỉ có nghĩ là bạn ngưng thở bằng mũi. Bạn nên thở nhẹ nhàng bằng miệng, với đôi môi hơi mở và không điều khiển hơi thở theo bất cứ cách nào.

    17. Nhìn chung, đối với thực hành thogal tốt nhất là nên ở một nơi cao ráo, nơi bạn có thể nhìn thấy bầu trời không bị giới hạn, nhưng không phải ai cũng có lựa chọn này. Nếu bạn chỉ có thể thực hành ở một khu vực thấp, chẳng hạn như một thung lũng, bạn sẽ sử dụng các tư thế và ánh mắt tương ứng. Ví dụ thế pháp thân tương ứng với một nơi thấp hơn, với một người chiếm ưu thế về nguyên tố nhiệt và với một người dễ bị đau mỏi. Tương tự, các thế báo thân và ứng thân có môi trường, thể chất, nguyên tố và tâm ý tương ứng. Tuy nhiên, đừng quá câu nệ về các phân loại này. Mặc dù cuốn sách cung cấp những hướng dẫn này, nhưng điều quan trọng hơn là cần nhận thức được những trải nghiệm của riêng bạn để khám phá ra cách thực hành thoải mái nhất cho bạn. Ví dụ, bạn có thể khám phá ra tư thế báo thân và ánh mắt phù hợp hơn, ngay cả khi bạn sống trong một thung lũng. Những phân loại này chỉ đơn thuần là hướng dẫn chung, không nên tuân thủ cứng nhắc.

    18. Rsi (drang song) Rishi là một bậc lão luyện, thành thạo trong thực hành thiền định.

    19. Giữ vững trạng thái yên lặng, hoàn toàn thoát khỏi mọi cảm giác ràng buộc, hội tụ và phân tán của không gian tuyệt đối và tính giác, chỉ đơn giản là nghỉ ngơi trong trạng thái cân bằng hoàn toàn, phi nhị nguyên.

    20. Ở đây, “năng lực giác quan” ám chỉ đôi mắt, và “các hình tướng” là những thứ như giọt bindu và sợi kim cương.

    21. Nếu bạn thiền với đối mắt nhắm giống như phần lớn các thiền sinh phương Tây, bạn sẽ bỏ lỡ toàn bộ mục đích của phần thực hành này. Mặt khác, nếu bạn thiền với đôi mắt mở to, trong khi tạo ra những âm thanh dữ dội, giống như rất nhiều lama Golok, thì một lần nữa, bạn sẽ bỏ lỡ điểm chính. Trong thực hành này, mắt không lồi ra, và cũng không nhắm lại; chúng chỉ đơn giản là mở ra.

    22. Ánh mắt nhìn thẳng về phía trước và hơi xuống một chút, nhưng không nhìn xuống quá xa như trong ánh mắt của ứng thân và không nhìn lên cao như trong ánh mắt của pháp thân.

    23. Thử nghiệm để xem ánh mắt nào mang lại các bindu rõ ràng nhất cho bạn. Ví dụ nếu các giọt bindu xuất hiện rõ hơn khi mắt bạn hoàn toàn tự nhiên, thì hãy tiếp tục theo cách đó.

    24. Điều quan trọng là không được ngẩng đầu lên hoặc cúi xuống khi thực hiện những cái nhìn này. Chỉ có mắt chuyển động. Ngoài ra, nếu bạn có thị lực rất tốt, bạn có thể muốn nheo mắt nhiều hơn một chút. Trong khi nếu bạn có thị lực kém và tầm nhìn của bạn đã hơi mờ, điều này sẽ thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành.

    25. Điều này ám chỉ buổi sáng và buổi tối.

    26. Cẩn thận không nhìn trực tiếp vào mặt trời! Bạn nên nhìn ít nhất sáu feet (183cm, gần 2m) dưới mặt trời. Quan trọng nhất là tìm ra khoảnh cách nào phù hợp nhất với bạn.

    27. Nhìn chung, trong số mặt trời, mặt trăng và đèn, mặt trăng được coi là tốt nhất vì nó thực sự hỗ trợ cho mắt.

    28. Khi tiếp tục thực hành, bạn sẽ thấy hơi thở dường như biến mất và bạn hầu như không cần thở nữa. Nhưng việc này diễn ra chậm rãi, vì vậy đừng ép buộc bằng cách nín thở. Hãy để nó diễn ra tự nhiên.

    29. Trong số các chuỗi kim cương, một số có thể trông giống như những nút tóc nhỏ, một số giống như những sợi chỉ vàng, và một số khác trông giống như những hạt nhỏ trên một trạng hạt pha lê. Trong giai đoạn đầu của quá trình thực hành, khi những hình ảnh này lần đầu xuất hiện, điều quan trọng là không nên quá phấn khích, nghĩ rằng: “Ồ tôi thực sự là một cái gì đó. Tôi thật tuyệt vời. Tôi đang tiến xa trong quá trình thực hành này.” Tương tự, điều quan trọng là không nên cho rằng: “Ồ việc này lãng phí thời gian. Đây chỉ là những vật trôi nổi. Không có gì to tát cả.” Cả hai thái độ đều không đúng; thay vào đó, bạn chỉ nên tiếp tục thực hành.

    30. Bạn không muốn buông bỏ hơi thở theo nghĩa đen vì khi đó bạn sẽ chết và quá trình thực hành của bạn sẽ bị cắt ngắn. Thay vào đó, “tỉnh giác không gắn liền với hơi thở” có nghĩa là sức tỉnh giác của bạn không bị tập trung hoặc phân tán bởi hơi thở, nói cách khác, điều đó có nghĩa là nhận thức của bạn được tự do khỏi hơi thở, trong đó hơi thở không bị cản trở.

    31. Điều này rất giống với việc để cặn trong một cốc nước bẩn lắng xuống đáy cốc. Theo cách đó, hãy để sự nhận biết của bạn lắng xuống cùng hơi thở, trong khi thở nhẹ nhàng qua miệng.

    32. Đây là từ đồng nghĩa với phật tính.

    33. Những linh ảnh này đến từ đâu? Và phật tính này đến từ đâu? Chúng có phải là những thứ bạn có thể mua ở cửa hàng không? Chúng có phải là vật gia truyền mà cha mẹ để lại cho bạn trong một chiếc hộp trên gác xép không? Câu trả lời là không! Chúng ở bên trong bạn. Và sugatagarbha này, hay vị phật nguyên thủy này, hiện diện nguyên thủy bên trong bạn là cái gì? Trả lời: Đó là thứ cho phép sự tỉnh thức của bạn được hiển lộ. Đó là hạt giống chín muồi thành giác ngộ hoàn hảo. Văn bản nói rằng, khi bạn nhìn thấy những linh ảnh này của vị phật nguyên thủy bên trong, bạn ngang hàng với Phổ Hiền. Do đó, điều quan trọng là duy trì thực hành ổn định và không bị phân tâm.

    34. Thật tốt khi vui thích với những linh ảnh xuất hiện khi bắt đầu thực hành, nhưng cũng thật thích hợp khi cảm thấy hối tiếc về khoảng thời gian bạn đã lãng phí khi không gắn kết với các hoạt động như thế này. Tại sao bạn lại trì hoãn quá lâu như vậy? Bạn có bị điên không? Nếu chú ý kỹ đến những ý niệm của mình, bạn sẽ thấy rằng bạn luôn đắm chìm trong những suy nghĩ xoay quanh năm độc, chẳng hạn như dính chấp, ảo tưởng, đố kỵ. Vì vậy, bạn có thể cảm thấy hối tiếc vì đã lãng phí thời gian, nhưng bạn cũng có thể cảm thấy thương hại với toàn thể chúng sinh không nhận ra phật tính của chính họ.

    Những người nhận ra phật tính của chính mình sẽ biểu lộ sự giác ngộ của chính họ, và sẽ không tiếp tục quanh quẩn trong luân hồi. Đây là điều bạn phải tự làm, không ai khác có thể làm thay bạn. Ngay cả khi chính đức Phật đang ngồi ngay bên cạnh bạn, bạn có thể chú ý trong một khoảnh khắc, nhưng sau đó ánh mắt của bạn sẽ chuyển đi nơi khác, và tâm trí bạn sẽ bắt đầu trôi dạt vào đam mê thường lệ bên ngũ độc.

    35. Dorje nghĩa là “kim cương”, lu gu nghĩa là “con cừu”, còn rgyud nghĩa là “sợi, chỗi, trình tự, hoặc liên tục”. Trong mật tông, thuật ngữ “chuỗi kim cương” ám chỉ thứ liên tục và vĩnh cửu. Các chuỗi hoặc những quả cầu nhỏ mà chúng ta thấy khi bắt đầu thực hành là bản sao của những chuỗi kim cương thực sự, vốn là những phẩm chất của tâm Phật; chúng không ngừng và liên tục.

    Điều quan trọng là nhận ra và khẳng định rằng chúng ta đã thấm nhuần những phẩm chất của thân khẩu ý, hoạt động giác ngộ, và các thuộc tính của toàn thể chư phật. Vậy tại sao lại khó phân biệt giữa những phẩm chất này và năm độc? Làm sao chúng ta có thể coi trọng sự tỉnh thức và những biểu hiện của nó, cũng như trân trọng và sử dụng chúng? Phật tính của chúng ta giống như một viên ngọc như ý. Chúng ta phải tận dụng nó triệt để chứ không chỉ đơn giản là vứt nó vào thùng rác rồi tìm kiếm ở nơi khác trong hành trình theo đuổi hạnh phúc.

    36. Những người như vậy vượt qua tam giới tồn tại; do đó, ngay cả tên gọi của tam giới cũng không áp dụng cho họ. Lý do cho điều này là tam giới chuyển hóa thành ba thân: cõi dục chuyển hóa thành ứng thân, cõi sắc chuyển hóa thành báo thân, cõi vô sắc chuyển hóa thành pháp thân. Điều này hoàn thành toàn bộ phần thực hành chính. Tiếp theo chúng ta có phần thực hành kết thúc.

    37. Tức là đôi mắt.

    38. Đây là ngọn đèn đầu tiên trong bốn ngọn đèn.

    39. Đây là ngọn đèn thứ hai trong bốn ngọn đèn.

    40. Đây là ngọn đèn thứ ba trong bốn ngọn đèn. Tóm lại, thứ nhất, có không gian bên trong, hay ngọn đèn của không gian tuyệt đối nguyên sơ ở tim bạn, nơi năm ngọn đèn biểu lộ. Những ngọn đèn này là sự hiển thị cho tâm thức nguyên thủy của riêng bạn, chúng chạy qua kinh mạch trắng vi tế, lên đến lỗ hổng của ngọn đèn thòng lọng chất lỏng ở mắt bạn. Thứ hai, có không gian bên ngoài, được gọi là “ngọn đèn bindu trống rỗng”. Do đó, thứ bắt nguồn từ bên trong đang biểu hiện ở không gian bên ngoài và được nhìn thấy bằng mắt bạn.

    41. Đây là ngọn đèn cuối cùng trong bốn ngọn đèn. “Trí tuệ” này (shes rab) là thể hiện trực tiếp trí tuệ nguyên thủy của chính bạn (ye shes).

    42. “Bindu duy nhất” không phải là tính đa dạng của các bin du bên ngoài được mô tả trước đó, mà đúng hơn là bản chất của toàn thể luân hồi và niết bàn cũng như bản chất tính giác của chính bạn.

    43. Ở đây, “tính giác” ám chỉ sự xuất hiện của các giọt bindu và chuỗi kim cương.

    44. Phạn. Unisha là phần nhô ra trên đỉnh đầu.

    45. Đôi khi chúng ta dịch rlung là “sinh khí”, đôi khi lại là “hơi thở”, tùy vào ngữ cảnh.

    46. “Tính giác thành tựu” có nghĩa là bạn đã đạt đến điểm mà những phẩm chất về thân khẩu ý của toàn thể chư phật, các cõi phật và Đại Toàn Thiện đã có thành quả.

  19. #19

    Mặc định

    47. Năm cấu trúc này tạo thành một hình chữ thập bên trong bindu lớn hơn.

    48. Giống như quá trình chuyển tiếp của thực tại tối hậu, trước tiên các vị thần an bình xuất hiện, tiếp theo là các vị thần phẫn nộ.

    49. Điều này tương tự như việc thực hành giai đoạn phát sinh, trong đó bạn nhìn thấy mọi thứ với linh kiến thanh tịnh. Ba linh kiến đầu tương đương giai đoạn phát sinh, còn linh kiến cuối cùng, hay thứ tư, về sự diệt tận vào thực tại tối hậu tương đương giai đoạn thành tựu.

    50. Ví dụ, nếu bạn tập trung chú ý vào một tảng đá, mặc dù nó có thể trông giống như một vật thể vật chất bình thường, nó sẽ bắt đầu di chuyển vào tạo ra tiếng động. Khi đạt đến trạng thái này, bạn sẽ có thể phục vụ chúng sinh chỉ bằng cách hướng sự chú ý của bạn đến họ. Bạn không cần phải gõ cửa nhà mọi người và hỏi: “Bạn có cần thức ăn hay quần áo không?” Bạn chỉ cần nhìn chăm chú, vậy là đủ.

    51. Bao gồm các dấu hiệu của bindu, thân phật, vân vân.

    52. Các hình tướng không trở nên hoàn toàn không hiện hữu, vì nếu như vậy thì các phẩm chất của đức phật sẽ không tồn tại. Hơn nữa, theo quan điểm của một người đã giác ngộ, toàn thể luân hồi đã trở nên không tồn tại, tuy nhiên, điều này không có nghĩa là toàn thể chúng sinh khác đã đồng thời đạt được cùng một trạng thái giác ngộ. Thay vào đó, nó có nghĩa là đối với người này, toàn bộ luân hồi đã biến mất.

    53. Đến thời điểm này, bạn vẫn chưa đạt đến phật quả, nhưng bạn đã gần đạt đến. Một mức độ nhỏ của sự che lấp nhận thức vẫn còn trước khi bạn đạt đến tỉnh thức trọn vẹn.
    Hơn nữa, xét về ba linh kiến đầu tiên, linh kiến nhận thức trực tiếp về thực tại tối hậu, tương tự như samadhi của chân như trong giai đoạn phát sinh. Linh kiến thứ hai, kinh nghiệm thiền định tiến bộ, tương tự như samadhi của hình thái toàn thể. Linh kiến thứ ba, tính giác thành tựu, tương tự như đạt đến đỉnh cao của giai đoạn phát sinh, bản thân nó tương ứng với samadhi nhân quả, trong đó, ví dụ, bạn quán tưởng Kim cương tát đỏa, Quan Âm, hay Văn Thù. Thứ tư, linh kiến về sự diệt tận vào thực tại tối hậu, tương tự như giai đoạn thành tựu.

    54. Điều này có nghĩa là bạn chỉ nhìn thấy thoáng qua thực tại căn bản, rồi nó biến mất, giống như một cái vẫy tay.

    55. Đây là âm thanh của pháp thân, âm thanh của thực tại tối hậu.

    56. Thân cái bình trẻ trung.
    Tính giác của Phổ Hiền thuộc về bản tính như đai dương của các thân và trí tuệ bản nguyên, có sáu phẩm chất: (1) tâm thức sáng tỏ bên ngoài được thu rút vào trong chính nó, và nền tảng vĩ đại nguyên thủy sáng ngời bên trong, không gian tuyệt đối, xuất hiện với chính nó. (2) nó siêu việt nền tảng, (3) nó phân biệt, (4) nó được giải thoát hướng thượng, (5) nó chẳng phát sinh từ cái gì, (6) nó an trú tại nơi của chính nó. Trạng thái giác ngộ này được ví như một chiếc bình, vì là bindu duy nhất, nó bao gồm toàn thể luân hồi và niết bàn, trong khi siêu việt ba thời. Nó được gọi là “trẻ trung” vì nó không bị lão hóa hay thoái hóa, và được gọi là “thân” vì nó tập hợp tất cả các thân, ngữ, tâm, phẩm tính và hoạt động giác ngộ của toàn bộ chư phật.

    57. Trong tiếng Tây Tạng, thuật ngữ jug pa chúng tôi dịch là “hóa hiện”, theo nghĩa đen có nghĩa là “đi vào”. Nhưng trong bối cảnh này, jug pa dường như ám chỉ hành động đi vào cõi hóa sinh mà không thông qua tử cung.

    58. Trong các văn bản về giai đoạn thành tựu, chẳng hạn như mật điển Kalachakra, có những mô tả cụ thể về tám mươi bốn ngàn loại ý nghĩ phiền não khác nhau có liên quan đến tám mươi bốn ngàn khí vi tế.

    59. Vào lúc này, thân, lời, hơi thở, tính giác của bạn bắt đầu hợp nhất thành một. Bạn vẫn chưa đắc được thân cầu vồng, tuy nhiên một sự hợp nhất đang diễn ra. Ba sự tĩnh lặng trong các uẩn của bạn, đặc biệt là thân, hơi thở và tâm trí của bạn là rất quan trọng trong quá trình này.

    60. Đây là một yaksa (tiếng Tây Tạng) có thân người với đầu thú. Một đứa trẻ kimbhanda (Tạng) là (một yaksa) nổi tiếng vì có giọng nói du dương.

    61. Đây là khoảng không giữa bạn và phông nền bầu trời. Nó cũng có nghĩa là cơ thể bạn đang xuất hiện nhưng không có thực chất.

    62. Đây là bốn tự do trong bối cảnh bốn tự tin. Chúng liên quan đến tự do khỏi hy vọng và sợ hãi đối với giác ngộ và luân hồi.

    63. Siêng năng (brtson grus) . Theo nghĩa đen, thuật ngữ Tây Tạng grus nghĩa là “siêng năng nhiệt thành”, vì brtson có nghĩa là “siêng năng” và grus nghĩa là giống nhau, nhưng với hàm ý là “hoan hỷ với thiện hạnh” (dge ba la spro ba). Do đó, trong ngữ cảnh này, “siêng năng” ngụ ý sự nỗ lực, đi kèm cảm giác hân hoan với thiện hạnh.
    64. Điều này nghĩa là bạn sẽ an trú trong phật quả.

    65. Một thảo luận về cách những cá nhân có năng lực thấp kém có thể đạt được giải thoát trong trung ấm bằng cách đi thẳng đến một cõi phật có thể được tìm thấy trong Giải Thoát Tự Nhiên: Giáo lý của Liên Hoa Sinh về Sáu Bardo của Liên Hoa Sinh, với bình luận của Gyatrul Rinpoche. B.Alan Wallace dịch (Bốtn: Wisdom Publication, 1998, 2008).

    66. Trong truyền thống Đại Toàn Thiện, người ta nói rằng một người có thượng đẳng căn cơ có thể đạt giác ngộ ngay trong kiếp này. Nhưng việc này chỉ có thể xảy ra nhờ vào kỷ luật và thực hành rất nghiêm ngặt. Đừng thờ ơ với việc thực hành, nghĩ rằng: “Ồ, những người khác đã làm được, vậy thì tôi đoán là tôi cũng có thể làm được.” Thay vào đó, bạn phải tuân theo kỷ luận tương tự như kỷ luật của những người đã giải thoát trước đây. Ở Mỹ, cha mẹ không rèn kỷ luật cho con cái, vì bản thân họ vô kỷ luật. Về cơ bản, họ nuôi dạy con cái như nuôi chó, mèo, hoặc chim, nhưng không có con chó, mèo hay chim nào từng đạt được giải thoát.

    67. Nói chung, với các thực hành Đại Toàn Thiện, điều quan trọng là bắt đầu bằng nhiều thời khóa ngắn trong ngày. Khi đã quen dần với thực hành, bạn có thể tăng thời lượng của mỗi khóa, dẫn đến có ít thời khóa hơn, cho đến khi cuối cùng bạn có thể có một khóa mỗi ngày, hoặc mỗi tuần.

    Đối với thực hành thực tế, đầu tiên vào buổi sáng, làm sạch hệ thống của bạn bằng chín lần trục xuất khí còn sót lại của bạn, và khi bước vào thực hành chính của mình, bạn có thể một lần nữa thực hiện chín lần trục xuất. Sau đó, đọc những lời nguyện mở đầu, tiếp tục với guru yoga, trì tụng mật chú, nhận bốn quán đỉnh, và quán tưởng tâm trí đạo sư hòa nhập với tâm trí của bạn. Lúc đó, bạn có thể bị rơi vào trạng thái vô ký, vì vậy, với tính sáng tỏ, hãy cố gắng hết mức để dấn thân vào thực hành trekcho. Sau đó, bạn có thể ăn sáng. Sau bữa sáng, đọc lại những bài nguyện mở đầu rồi thực hành thogal. Khi đó mặt trời sẽ mọc đằng đông, vì vậy hãy quay mặt về phía tây trong khi thực hành bằng ba tư thế. Khi đã hoàn thành, bạn có thể hồi hướng công đức, hoặc bạn có thể dành thời gian để hướng tâm tỉnh giác vào chính nó, quán sát bản tính của tâm.

    Hãy nhớ rằng điều quan trọng nhất trong tất cả những điều này là động lực của bạn. Có những động lực thiện, bất thiện và trung tính, vì vậy, điều quan trọng là bạn phải mang một động cơ thiện, rất tích cực vào việc thực hành này. Đừng quên vô số những việc bất thiện mà bạn đã làm trong quá khứ. Và đừng quên rằng khuynh hướng tự nhiên của bạn là luôn che đậy chúng. Trong thực hành này, bạn không được che giấu chúng. Thay vào đó, bạn phải quét sạch chúng và phát triển động lực trong sáng nhất có thể.

    68. Có nhiều cách khác nhau để niêm phong các hình tướng. Đầu tiên, về thực hành giai đoạn phát sinh, có ba niêm phong: (1) niêm phong tất cả các hình tướng như là thân phật, (2) niêm phong mọi âm thanh như lời phật, (3) niêm phong mọi sự kiện tinh thần như sự hiển bày của pháp thân. Thứ hai, về thực hành giai đoạn thành tựu, có nhiều kỹ thuật. Ví dụ, trong hệ thống Kalachakra có giai đoạn thành tựu mà việc thực hành gồm sáu giai đoạn.

    Trong thực hành giai đoạn phát sinh, có một loạt các thực hành để niêm phong các hình tướng bằng những dấu hiệu. Ví dụ, khi bạn quán tưởng một mandala, cung điện, các vị thần và các âm tiết đều là các dấu hiệu. Nhưng bạn phải hiểu là không có hình tướng nào trong số này là thực chất. Mặc dù người ta nói rằng một thứ gì đó thấm nhuần các dấu hiệu, điều đó không có nghĩa rằng chúng là các thực thể vật chất. Thay vào đó, bạn phải quán tưởng tất cả hình ảnh này như có bản chất trống rỗng và sáng ngời. Vào cuối phần thực hành, hãy hòa tan các dấu hiệu này trở lại vào tính không, vào tịnh quang nền tảng. Lúc đó, bạn bước vào phương thức thực hành không có dấu hiệu. Điều quan trọng cần ghi nhớ là đối với tất cả các loại mandala, cho dù là an bình hay phẫn nộ, chúng cũng chẳng là gì khác ngoài bản tính của pháp thân. Vì vậy khi bạn thực hành không có dấu hiệu, không có gì để nắm bắt.

    Trong bối cảnh của ba thân, các dấu hiệu khác nhau trong các mandala tan biến thành tính không. Ví dụ, trong thực hành giai đoạn phát sinh, bạn quán tưởng các mandala tan biến vào cung điện, cung điện tan biến vào các vị thần ngoại vi, chư thần ngoại vi tan biến vào vị thần trung tâm, thần trung tâm tan biến vào hiện thể tâm thức nguyên thủy, hiện thể tâm thức nguyên thủy tan biến vào hiện thể tam muội, và hiện thể tam muội, chẳng hạn chữ HUM, tan biến vào bindu. Lúc đó, tâm trí bạn chỉ đơn giản tan biến vào tịnh quang nền tảng trong sự xác tín, giống như đứa trẻ được đoàn tụ với mẹ. Nhưng điều quan trọng bạn cần nhớ là mẹ và con chưa bao giờ xa cách. Khi xem xét phép ẩn dụ này, chúng ta dễ nghĩ rằng mẹ thì xinh đẹp còn con thì xấu xí, như thể họ là hai thực thể khác nhau. Nhưng họ không khác nhau, họ luôn giống nhau.

    Giai đoạn thực hành không có dấu hiệu này nhằm mục đích xác định tịnh quang nền tảng, vốn thanh tịnh bản nguyên. Chính từ nền tảng thanh tịnh bản nguyên này mà các dấu hiệu phát sinh; do vậy, những hình tướng này không kém thanh tịnh hơn nền tảng mà từ đó chúng phát sinh.

    69. Thật ra, đây là vị trí dưới rốn một khoảng bằng bốn ngón tay.

    70. Âm tiết HAM hầu như luôn có màu trắng.

    71. Gốc rễ thứ ba là mục kết luận của toàn bộ thực hành được trình bày ở đây, với hai gốc rễ đầu tiên là thực hành sơ bộ và thực hành chính.

    72. Quán đỉnh thứ tư là quán đỉnh ngôn từ quý giá.

    73. Hãy chú ý kỹ đến tư thế, ánh mắt, vân vân, nào phù hợp với bạn nhất, rồi áp dụng vào việc thực hành. Đây là điều Dudjom Rinpoche muốn nói khi thực hành theo khuynh hướng riêng của bạn. Việc này không có nghĩa là bạn nên làm những gì dễ nhất đối với bạn, mà là bạn nên làm những gì mang lại kết quả tốt nhất.

    74. Chúng tôi dịch gcig car ba là “người phi thường” vì theo nghĩa đen nó là “cá nhân đồng thời”, ngụ ý rằng khi một cá nhân như vậy nghe giáo lý, người đó đồng thời đạt được giác ngộ.

    75. Đây là những lời nguyện chung cho tất cả các thừa, cũng như lời nguyện riêng cho thừa cụ thể mà bạn đang thực hành.

    76. Điều này tương ứng với quán đỉnh bình.

    77. Điều này tương ứng với các quán đỉnh thứ hai và thứ ba, quán đỉnh bí mật và trí tuệ. Trong giai đoạn thực hành này, hãy xem mọi hoạt động của bạn như là sự sáng chói của bốn lạc, đặc biệt là lạc bẩm sinh của tâm thức nguyên thủy.

    78. Biến thức ăn và đồ uống của bạn thành một lễ vật dâng lên mandala bên trong. Ở một số thực hành phức tạp hơn, khi bạn đang ăn, hãy hình dung các động tác tay của bạn như là sự thể hiện các thủ ấn của ngũ bộ phật.

    79. Điều này nghĩa là bạn duy trì thở cái bình trong suốt cả ngày.

    80. “Nội nhiệt” là thực hành tummo.

    81. Đây không phải là cảm giác “tôi quý bạn” thông thường. Mà là cảm giác từ bi sâu sắc với chúng sinh, đến mức nước mắt trào ra trong bạn. Khi thấy chúng sinh hành động do vô minh, điều này sẽ không khó hiểu. Nếu chính đức Phật đến dắt tay họ, họ vẫn sẽ lang thang đi nơi khác. Vì vậy, hãy mang vào trong tâm trí nỗi đau khổ của lục đạo luân hồi, và mang lại bi tâm không thể chịu đựng đối với toàn thể chúng sinh.

    82. Phạn: guru, ishtadeva, dakini. Tạng: bla ma, yidam, mkha gro.

    83. Tất cả thực hành này để liên hệ với đạo sư bằng lòng ngưỡng mộ và tôn sùng chỉ đơn giản là vì lợi ích của riêng bạn. Mục đích của chúng không phải là để giúp người thầy. Về chủ đề này, sẽ hữu ích khi xem các văn bản như Năm mươi vần thơ về Guru Yoga của Mã Minh.

    84. Yoga về thân tướng chỉ đơn giản là thực hành giai đoạn phát sinh.

    85. Sau khi hoàn tất thực hành tummo, bạn đã bước vào giai đoạn thực hành Đại Toàn Thiện, bạn gắn kết với các thực hành rất mãnh liệt như thế này. Bạn có tu luyện phần này vào ban đêm, khi căn phòng của bạn tối đen kịt, hoặc trong khóa ẩn tu, nơi bạn nhốt mình trong hang động, hoặc trong phòng từ một đến hai tuần.

    86. Đây là vị phối ngẫu sau này.

    87. Câu này ám chỉ người phụ nữ thuộc gia đình hoa sen.

    88. Câu này ám chỉ đến các nghi lễ Chod.

    89. Trẻ nhỏ không nhìn xung quanh và nghĩ rằng: “À, bức thangka này đẹp hơn bức thanka kia.” Chúng chỉ nhìn mọi thứ với đôi mắt mở to, không có bất kỳ phán xét hay đánh giá nào.

    90. Người điên không có tầm nhìn xa; họ không đoán định. Họ chỉ phản ứng với những thứ ngay trước mặt họ.

    91. Một ví dụ hoàn hảo về một người như vậy là Guru Rinpoche. Ngài đã đi khắp Ấn Độ và Tây Tạng, gắn liền với vô số hoạt động, chẳng hạn như giảng dạy giáo pháp.

    (Hết Sách)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •