Trang 5 trong 5 Đầu tiênĐầu tiên 12345
kết quả từ 81 tới 92 trên 92

Ðề tài: Vãng Sanh Tập

  1. #81
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    TU TẬP THIỀN ĐỊNH Dhyāna-Samādhi bhāvanā - Trang nhà GĐPT Việt Nam ...



    https://gdptvietnam.org › TU-...PDF

    TU TẬP THIỀN ĐỊNH Dhyāna-Samādhi bhāvanā - Trang nhà GĐPT Việt Nam ...

    để cung cấp đồ ăn thức uống cho chúng nếu không, chúng ... “Ne ́u là đa ̀u của ba tháng hạ an cư , phải ở nơi thanh ... 烏闍訶囉,伽婆訶囉,嚧地囉. 訶囉,婆娑 ...


  2. #82
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    Thiền

    Phúc Trung




    I -DẪN : Thiền là một pháp môn tu tập được nhiều người ưa chuộng nhất, bởi vì người ta thường hay nghe nói đến những quyến năng đạt được của người tu thiền, chẳng hạn như có thể xuất hồn đi chỗ nọ chỗ kia, đi đến những cõi khác, có thể chứng ngộ được nhanh chóng trên đường tu học, trị được những tật bệnh... Nhưng cũng có những người tu thiền không đạt được kết quả gì, trái lại có những người bị bệnh tâm thần thường gọi là "tẩu hỏa nhập ma". Cho nên chúng ta cần phải biết rõ về nguồn gốc, phương pháp tu tập, kết quả một người tu thiền có thể chứng ngộ được, tránh những sai lầm có thể nguy hiểm đến tính mạng.

    II- Nguồn gốc thiền : Đạo Bà La Môn hay gọi là Ấn Độ Giáo phát triển rất sớm ở Ấn Độ, thời kỳ thứ nhất khoảng 1500 đến 1000 năm trước kỷ nguyên họ đã có tư tưởng văn hóa ghi trong kinh điển Về Đà (Veda) , thời kỳ thứ hai từ 1000 đến 800 năm trước kỷ nguyên là thời đại Phạm Thư (Bràhmana) chia xã hội thành 4 giai cấp: fiea cấp Bà La Môn (Brahmana) giữ việc tế lễ tôn giáo, kế đó là giai cấp Sắt Đế Lợi (Ksatriya) gồm vua, quan nắm quyền thống trị, xuống nữa là giai cấp Tỳ Xá (Baisya) gồm nông, công, thương và xuống đến cuối cùng là giai cấp Thủ Đà La (Sùdra) là những người đời đời làm nô lệ. Thời kỳ thứ ba, tư tưởng cuối cùng của Bà La Môn là Triết Học Áo Nghĩa Thư (Upanishad) từ 800 đến 600 năm trước kỷ nguyên, thời kỳ này phát sinh ra phép tu Du Già (Yoga). Khi Đức Thế Tôn ra đời thì xã hội Ấn Độ có Ký Na giáo, Lục sư ngoại đạo phái, tư tưởng của 6 nhà ngoại đạo và Kỳ na giáo không chịu ảnh hưởng Bà La Môn, trong đó có phái Du Gíà chủ trương tu Thiền để mong giải thoát.

    Đức Phật dạy nhiều pháp môn tu học để thoát khỏi sanh tử luân hồi, về Thiền có kinh An Bang Thủ Ý (Kinh Quán Niệm Hơi Thở), Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng dạy con của Ngài khi mới đi tu : " Này ! La Hầu La, hãy tu tập về sự niệm hơi thở vào, hơi thở ra. Này, La Hầu La, do tu tập niệm hơi thở vào, hơi thở ra, làm cho sung mãn nên được quả lớn, lợi ích lớn...".

    III - Định nghĩa : Thuyền hay Thiền là từ đơn giản, nói cho đủ phải là Thiền Na, phiên âm từ chữ Phạn Jhàna, người Trung Hoa dịch là Tư duy tu hay Tịnh Lự hay Định Huệ đẳng trì.

    Tư duy tu có nghĩa là tập luyện theo phương pháp tập trung tư tưởng và tâm niệm vào một chỗ để quan sát, suy tư.

    Tịnh lự là phương pháp làm cho tâm lặng yên để suy nghĩ, quan sát chân lý. Tịnh có nghĩa là yên lặng, nó hàm chứa nghĩa DỪNG LẠI, trong thuật ngữ Thiền gọi là CHỈ. Lự có nghĩa là suy gẩm, phải dùng tâm trí suy xét, tìm tòi cho ra ý nghĩa của một vấn đề mà thuật ngữ Thiền gọi là QUÁN.

    Định Huệ đẳng trì, Định là chuyên chú, tức TÂM chuyên chú vào một vấn đề, không để tán loạn, Huệ là sáng tỏ. Lục tổ có dạy rằng : " Thiền định là thể của trí huệ, trí huệ là dụng của Thiền định. Trong lúc tới trí huệ thì Thiền định ở Trí huệ, trong lúc tới Thiền định thì Trí Huệ ở Thiền định. Nếu biết nghỉa ấy, tức là sự học Thiền Định, Trí Huệ bằng nhau."

    Tóm lại, Thiền là dừng các tạp niệm, tâm chuyên chú quan sát vào một vấn đề, để đạt đến sự hiểu biết sáng suốt.

    Trong Kinh Kim Cang, ông Tu Bồ Đề có hỏi Phật :"Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu có người phát tâm bồ đề, muốn cầu qủa Phật, làm sao an trụ Chơn Tâm, làm sao hàng phục Vọng Tâm ?" Đức Phật đã trả lời :"Không nên trụ vào Sắc mà sinh tâm. Không nên trụ vào Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sinh tâm. Không để tâm trụ vào cái gì hết thì sinh Tâm Bồ Đề".

    Còn trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy :"Nếu các ông muốn biết cái "Câu sanh vô minh" (vô minh chung cùng sanh tử từ vô lượng vô thỉ đến nay) để trừ, và "Quả vô thượng bồ đề" để tu chứng, vậy nay ta sể chỉ cho các ông rõ.

    Này A Nan ! Khiến cho các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi, chỉ là sáu căn, mà làm cho chứng quả Bồ Đề an vui giải thoát, cũng chỉ là sáu căn của các ông. Căn và Trần đồng một thể (Tâm) phiền trược và giải thoát không hai (mê thì phiền trược, ngộ thì giải thoát), các thức hư vọng cũng như hoa đốm giữa chốn hư không.

    - A-Nan ! Vì có trần cảnh, nên ở nơi Căn mới khởi ra phân biệt. Vì đã có cái căn phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn và Cảnh đối đãi nhau vọng hiện, chớ không có thật. Cũng như hình câ lau gác nhau.

    Thế nên khi THẤY, NGHE hay BIẾT mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi THẤY, NGHE hay BIẾT mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết Bàn. Ở trong CHơn Tâm thanh tịnh, không có dung chứa vật gì tất cả!"

    Đó là những gì căn bản của phương pháp tu thiền.

    IV - PHÂN LOẠI : Thiền phân loại tùy theo phương pháp tu tập. Thông thường, người ta phân chia Thiền ra làm 3 loại:
    - Như lai thiền
    - Tổ sư thiền
    - Ngoại đạo thiền

    1.- Như lai thiền: Thiền theo phương pháp Phật chỉ dạy như Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Quán Vô Lượng Thọ hay theo Ngũ Đình Tâm Quán:

    - Sổ tức quán: Theo dõi hơi thở, để đối trị bệnh tán loạn của tâm.

    - Bất tịnh quán: Tức tuántưởng thân không thanh tịnh, để đối trị lòng tham sắc dục.

    - Từ bi quán; Xem tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, bình đẳng, không thù ghét, thương yêu nhau, để đối trị lòng sân hận.

    - Nhân duyên quán: Qúan tưởng tất cả sự vật đều giả hợp, do duyên mà có, không trường tồn, chân thật, để đối trị lòng si mê vật chất.

    - Giới phân biệt quán: phân biệt và quán tưởng 6 trần, 6 căn, 6 thức vị chi 18 giới đều không thật có "ngã, pháp" để đối trị chấp ngã.

    2.-Tổ sư thiền: Thiền theo phương pháp chư Tổ từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma trở về sau, ấy là phương pháp công án hay Khán thoại đầu. Công án là một vấn đề mà thiền sư đề ra cho người đệ tử giải quyết còn Khán thoại đầu, cái gì ta nói ra đã là thoại vĩ, vậy thoại đầu là cái mé chưa sanh một niệm, tức là chỗ không sanh không diệt, luôn luôn chăm chú nơi "không sanh không diệt " ấy, gọi là khán thoại đầu.

    Chư tổ thường dùng phương pháp: Hỏi, hét, đánh, đạp cốt để đập vỡ cái võ cứng cố chấp, hoài nghi làm cho người đệ tử bừng tỉnh sau một thời gian đắm chìm trong suy tư về công án hay thoại đầu, sự bừng tỉnh ấy có thể người đệ tử được " Khoát nhiên đại ngộ". Chẳng hạn nhjư sau khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma tịch, vấn đề giải thoát được nêu lên với tất cả tin thành của người Phật tử. Người ta tham vấn biết bao Thiền sư qua câu hỏi :" Như hà thị Tổ sư Tây lai ý ?" ( Ý nghĩa tối yếu của Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Hoa là gì ?)

    Thiền sư Hương Lâm đáp : "Ngồi lâu thấm mệt !"

    Thiền sư Cửu Phong đáp :" Một tấc lông rùa nặng chín cân"

    Thiền sư Triệu Châu đáp : " Cây Bách ở trước sân !"

    Riêng Thủy Lão tham kiến câu này với Mã Tổ Đạo Nhất, bị ngài Đạo Nhất đạp cho một đạp té nhào, sau khi bò dậy, tỉnh cơn chấnđộng từ thể xác dến tinh thần, Thủy Lão nói:" Kỳ thật, trăm ngàn món tam muội, vô lượng ý nghỉa diệu huyền chỉ ở trên đầu một sợi lông và nhờ thế mà tôi liễu ngộ được cội nguồn !"

    Ở thiền viện kia, vị thiền sư mỗi khi muốn nói ra một vấnđề gì quan trọng, thường đưa ngón tay lên miệng, để cho mọi người im lặng. Trong chùa có một chú tiểu rất thông minh, thấy thiền sư làm như thế chú cũng bắt chước, đưa ngón tay lên miệng khi muốn nói chuyện quan trọng. Một hôm hầu chuyện thiền sư, chú tiểu sắp trình bày chuyện quan trọng, ra vẻ trang nghiêm, chú đưa ngón tay lên miệng, thấy thế, sẵn có con dao rọc giấy, thiền sư bèn nắmlấy đè ngón tay chú tiểu xuống bàn, tiện mất một đốt tay ấy. Chú tiểu đau đớn và hoảng sợ, kêu lên rồi bỏ chạy, thiền sư đuổi theo gọi : "Này chú!" Chú tiểu quay đầu nhìn lại, Thiền sư đưa ngón tay lên miệng, quen tánh, thấy vậy, chú tiểu cũng đưa ngón tay lên. Nhưng chợt nhận ra ngón tay mình đã mất, chú tiểu bỗng thấy tâm trí bừng sáng, khoát nhiên đại ngộ.

    Nhưng mà thuật ngữ Đại Ngộ là ngộ cái gì ? Thiền tông chủ trương : Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ minh tâm, kiến tánh thành Phật ( Đặc biệt truyền riêng, không viết thành kinh sách, chỉ thẳng vào tâm, thấy tánh là thành Phật), khoát nhiên đại ngộ đó Bất khả tư nghi (Không thể nghĩ bàn được) một tiền đề của Ngộ. Vè bất khả tư nghị, khi Phật còn tại thế, ở Hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen lên, yên lặng không nói chi, Ngài Ca Diếp lĩnh hội được ý Phật, ngài mỉm cười. Sau này trở thành vị Đệ Nhất Tổ.

    Tổ Bồ Đề Đạt Ma một hôm gọi các đệ tử đến hỏi :" Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình." Nào Đạo Phỗ, Đạo Dục, Tổng trì Ni mỗi người đều trình kiến giải của mình. Sau rốt có Huệ Khả làm lễ bái sư rồi đứng ngay một chỗ, im lặng không một lời. Qua đó Tổ truyền y bát cho Huệ Khả.

    Không phải các thiền sư đều thành công, truyện thất bại hết sức đau thương sau đây, đã nói lên sự dụng công hết mức của Thiền Sư, người đệ tử vẫn không tự phá vỡ nổi cái vỏ cứng của Công án, trường hợp này, dưới mắt của thiền sư, chỉ một chút, còn một chút nữa thôi người đệ tử sẽ đạt đến đại ngộ, nhưng về phía người đệ tử không thể vượt qua, chỉ ở đây mới nói lên sự đòi hỏi quyết liệt của thiền sư là mỗi người phải Tự chứng tự tri.

    Có một đệ tử kia, sau khi được thiền sư trao công án, nghiền ngẫm, nung nấu đã lâu mà không ngộ được, thiền sư kiên nhẫn, thúc bách và khuyến khích:

    - Chú về thử ba tháng nữa xem.

    Ba tháng sau, người đệ tử trở lại trình thiền sư chưa có kết quả, vị thiền sư lại khuyến khích:

    - Chú về thử ba tuần nữa.

    Ba tuần sau trở lại, người đệ tử vẫn chưa có két quả.

    Thiền sư thúc bách thêm:

    - Ba ngày nữa mà không giác ngộ thì chết đi cho rồi, chớ tu nữa mà làm gì ?

    Ba ngày sau, khi đệ tử xuất hiện, vị thiền sư hỏi ngay:

    - Sao, công án đi đến đâu rồi ?

    - Bạch Thầy, con rất hổ thẹn, con vẫn chưa tìm ra được. Con sẽ tự tử.

    Thiền sư quát:

    - Thì tự tử đi.

    Người đệ tử liền rút dao trong người ra, mổ bụng chớp nhoáng rồi ngả gục xuống. Thiền sư nhìn vào nét mặt của người đệ tử của mình và thúc dục:

    - Tự tử thì được rồi, nhưng công án đã tìm ra chưa?

    Thều thào người đệ tử thưa:

    - Bạch thầy chưa!

    Vị thiền sư bồi thêm nhát búa cuối cùng:

    - Câm đi! Người chết không có nói bao giờ.

    Nhát búa cuối cùng ấy không chẻ được khối tư duy của người đệ tử. Một thất bại chua cay cho thiền sư, và cũng là một thảm cảnh cho thiền viện về công án thiền.

    Những câu chuyện thiền, cho chúng ta thấy ở thiền viện, thiền sư có nhiệm vụ theo dõi tiến trình tâm sinh lý của đệ tử, để dồn ép, xô đẩy người đệ tử vào một xó góc không lối thoát, và chọn lựa đúng thời cơ để bắt buộc người đệ tử phải vượt qua, cũng giống như xô đẩy người đệ tử leo lên đầu của một cây sào trăm thước, leo như vậy đã khó, khi đã lên tận đầu sào vẫn bị thúc đẩy phải leo lên nữa, tức là vượt lên khỏi đầu sào, không còn được bám víu vào ngọn sào một phương tiện dùng để vượt qua trăm thước.

    Hiểu theo nghĩa thông thường, một giới hạn mà thiền sinh phải vượt qua để đạt tới tới hạn của thiền, ai đã tiếp tục leo lên nữa, sẽ rời khỏi đầu sào, rơi từ trên cao trăm thước xuống, người ấy sẽ có một cảm giác, một tới hạn tự chứng tri.

    3.- Ngoại đạo thiền: Những phương pháp thiền khác, không chính thống Phật giáo hay không thuộc một trong hai loại trên là ngoại đạo thiền.

    V.- Hành thiền: Muốn tu tập pháp môn thiền, chúng ta phải nhận thức rằng vì vô minh vọng động nên chúng ta bị vạn duyên ràng buộc, niệm niệm sanh diệt, trói buộc chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi, tập thiền để tạp niệm không sanh, thoát khỏi luân hồi.

    Đức Phật trải qua hằng vô lượng vô số kiếp tu tập, vì nhân duyên đại sự Ngài mới thị hiện cõi ta bà này để giáo hóa chúng sanh, không phải Ngài tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời. Vậy điều cốt yếu là chúng ta phải tu tập hàng ngày, loại bỏ các tạp niệm dần dần tự tánh sẽ sáng suốt.

    1.- Nhận thức: Muốn chấm dứt nhân quả để thoát khỏi sanh tử luân hồi, người tu thiền phải giữ cho 3 nghiệp được thanh tịnh: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, Ý nghiệp.

    A) Hành vi tạo tác thân nghiệp : Vì vậy chúng ta phải giữ chẳng những không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, mà còn tập mỗi mỗi hành động cẩn trọng, nhẹ nhàng khi đi, đứng, nằm, ngồi. Tâm chúng ta sẽ không thanh tịnh, nếu chúng ta có những cử chỉ, hành động thô bạo.

    B) Lời nói tạo tác khẩu nghiệp: Chúng ta phải tránh nói dối, nói thêm bớt, chửi mắng, khen chê người khác, nghe người ta nói rồi nói đi nói lại để gây thù oán nhau... nên dùng lời lẽ êm ái, dịu dàng, khuyên can mọi người để sống hòa ái với nhau. Người xưa nói "Bệnh tòng khẩu nhập, họa tòng khẩu xuất", nói chẳng những dễ gây họa mà tâm cũng dễ bị phân tán.

    C) Tư tưởng tạo tác ý nghiệp: Chúng ta phãi tránh tham, sân, si. Phải giữ cho tâm thanh thịnh hoặc chỉ tưởng nhớ đến những điều hay, tốt đẹp. Bất cứ làm việc gì cũng phải chú tâm vào đó, không nên để thân làm một việc, còn tâm nghĩ đến việc khác, đây cũng chính là thiền. Luôn luôn giữ cho Thân, Khẩu, Ý cho được thanh tịnh từ lúc buổi sáng cho đến khi đi ngủ vào buổi tối.

    2.- Phương pháp: Về phương pháp hành thiền thì phải:

    -Điều thân
    -Điều tức
    -Điều tâm

    A) Điều thân: Có 3 phần:

    a) Trước khi ngồi thiền: Phải giữ thân thể sạch sẽ, nên tắm rửa trước khi ngồi thiền, không tắm được thì cũng phải rửa mặt, tay, chân. Ăn mặc quần áo phải rộng rãi và sạch, để tránh bị ngứa ngáy, khó chịu. Không ngồi thiền lúc bụng no, tối thiểu phải ngồi thiền sau khi ăn độ 2 giờ. Cũng không nên để bụng đói quá, nếu thiền vào sáng sớm hay trước bữa ăn, nên uống một tách trà hay thức uống.

    b) Trong khi ngồi thiền: Ngồi trên bồ đoàn (hay cái gối thật mềm), hoặc dùng gối chêm ở mông cho 2 mép đầu gối nằm sát xuống sàn nhà, ngồi xuống rồi nới rộng lưng quần để cho bụng thoải mái trong khi thở, xoay mình qua trái, qua phải vài cái rồi ngồi một trong hai thế:

    - Ngồi bán già: Đặt bàn chân trái lên đùi phải.

    - Ngồi kiết già: Đặt bàn chân phải lẻn đùi trái, rồi đặt bàn chân trái lên đùi phải (hai chân gài với nhau)

    Hai tay, trước tiên để lên hai đầu gối, để cân cho vai ngang, xương sống thẳng, rồi lấy bàn tay trái để lên gót chân phải, bàn tay phải để lên bàn tay trái, hai lòng bàn tay khum khum, kéo sát vào bụng, hai đầu ngón tay cái giao nhau, ngay rún. Ngồi giữ cho lưng (xương sống) thật thẵng, lỗ tai và bả vai, chót mũi và rún phải ngay nhau. Mắt để hé,nhìn ngay chót mũi. Miệng ngậm lại, răng trên kề răng dưới, chót lưỡi cong lên đụng nướu răng trên. Mặt nhìn xuống, hướng mắt nhìn với thân hợp thành góc 30 độ (mắt nhìn xuống một điểm ở sàn nhà, cách hai chân ta chừng một gang tay) để giữ cho xương sống thật thẳng từ xương khu lên đến ót.

    Trong suốt thời gian ngồi thiền không được nhúc nhích, cục cựa do thân bị ngứa ngáy hoặc bị kiến cắn hay muỗi đốt (tìm cách phòng ngừa trước như phải giữ thân thể, quần áo sạch sẽ, không ngồi nơi có kiến, ngồi trong mùng nơi không có muỗi) Khi bị ngứa ngáy buổi ban đầu, sau dần sẽ không có nữa.
    Lúc mới ngồi thiền có thể bị ngủ gục, thân bị ngã qua ngã lại, tỉnh ngủ phải sửa thân lại, đôi khi ngưng thiền để kiểm soát thân ngồi có đúng thế hay không, dù không bị ngủ gục, thân đôi khi cũng bị nghiêng qua lại, có thể nhờ người nhà thỉnh thoảng theo dõi sửa giùm.

    Mặc dù phải thẳng lưng, hai chân gác chéo nhau, hai tay khoanh ở trước nhưng không được gồng các bắp thịt, phải để cho các cơ bắp ở thế nghỉ ngơi hoàn toàn thoải mái.

    Giữ cho được chỗ ngồi thiền yên tịnh, trong lành cũng có thể đốt nhang thơm hay xông trầm. Không nên ngồi nơi lạnh quá hay nóng quá. Trong khi ngồi thiền, yêu cầu người nhà giữ cho yên tịnh, đừng làm ồn ào, đừng quấy rầy mình, nhứt là đừng làm kinh động có thể nguy hiểm cho mình, cho nên cần lựa giờ giấc thích hợp nhất, ít ai lui tới.

    c) Sau khi ngồi thiền: Phải giữ các cử động đi từ tế đến thô, tránh cử động mạnh và đột ngột ngay sau khi ngồi thiền, cho nên trước tiên ta ý thức mình đang ngồi thiền vừa mới xong, từ từ đưa hai tay ra để trên đầu gối, rồi thở vài hơi thở dài sau đó thở sâu, dùng hai tay xoa vào nhau cho nóng rồi úp lên hai mắt, rồi lấy tay xoa trán và vổ trán vài cái (có thể dùng hai bàn tay đan vào nhau chà xát vài lần) tiếp theo xoay mình vài cái rồi thả hai chân ra, dùng tay bóp chân từ vế đến đùi, cuối cùng mới đứng lên và từ từ đi.

    Trong khi ngồi thiền, đạt được cảm giác thoãi mái nên giữ cảm giác này suốt ngày. Ngoài thời gian ngồi thiền, luôn luôn phải giữ cho thân cùng ý hợp nhau, nghĩa là ta hành động gì thì tâm ta phải chú ý vào đó. Những lúc không làm gì, không để tâm miên man vào vấn đề nầy hay vấn đề kia, tưởng nghĩ đến việc thiện hay hình tượng Phật thì tốt nhất.

    B) Điều tức : Ai cũng biết rằng động tác của phổi dùng để hút oxy trong không khí vào cơ thể nuôi dưỡng máu huyết, tống thán khí đã xử dụng ra ngoài, ngày nay khoa học cho thấy rằng thở càng dài hơi càng tốt, vừa để hít nhiều oxy vào, tống hết thán khí ra, nhưng có đủ thời gian để trao đổi hết oxy hút vào càng tốt hơn, trong một phút, bình thường phổi làm việc 18 lần, nếu chúng ta thở dài hơi phổi sẽ làm việc chừng 10 lần, như vậy đời sống của phổi dài ra tức nhiên tuổi thọ con người cao hơn.

    Chúng ta biết rằng con người có hành động ý thức và vô ý thức, thí dụ ta dơ tay lấy cây bút để viết, hành động đó có ý thức do tâm chúng ta điều khiển, khi ta đi từ chỗ này sang chỗ kia, có khi ta điều khiển cho chân ta bước đó là hành động có ý thức, có lúc ta quên điều khiển nhưng chân ta tự bước đi, đó là hành động vô thức hoặc khi ta đi, hai tay tự nó đánh đồng xa (đưa tới, đưa lui) hành động này ta không điều khiển, hoàn toàn vô thức. Nay ta tập thiền với mọi hoạt động đều có ý thức, có sự chú ý, cột tâm ý ta với hành động thành một. Những thiền viện ở Thái Lan, Miến Điện họ luyện tập về tập trung tư tưởng như sau. Ví dụ muốn dơ tay phải lên, người ta nghĩ trong đầu óc : dơ, dơ,dơ, tay, tay, phải, phải, lên, lên, lên...từ từ họ dơ tay phải lên. Làm như vậy để tâm ta luôn luôn gắn chặt vào hành động. Lói thiền nầy gọi là Thiền Minh Sát Tuệ.

    Thở còn dùng để tập trung tinh thần (Sổ tức quán), dùng làm kinh nghệm do thời gian trong bước đầi khi ngồi thiền. Thí dụ: Khi áp dụng Sổ tức quán, người ta đếm được 300 hơi thở trong 30 phút, như vậy, cứ 100 hơi thở la 10 phút.

    Chúng ta có thể phân biệt 3 loại thở:

    - Thở sâu: Khi thở phải hít vào dài hơi, ngực nở, bụng phình ra, khi thở ra co thót bụng lại để tống hết thán khí ra ngoài.

    - Thở dài hơi : Thời gian thở kéo dài hơn bình thường.

    - Thở thường : Thở thường nhưng dều đặn.

    Thở có 3 nhịp:

    - Nhịp 2 : Hít vào rồi thở ra.

    - Nhịp 3 : Hít vào, ngưng lại giữ hơi, thở ra (hay hít vào, thở ra, ngưng giữ hơi).

    - Nhịp 4 : Hít vào, ngưng giữ hơi, thở ra, ngưng.

    Thường thường người ta áp dụng thở sâu với nhịp thở 4 hay 3, thở dài hơi với nhịp thở 3 và thở thường với nhịp thở 2. Hầu hết thiền đều áp dụng thở thường mà thôi.

    Thở phải hết sức từ từ, thong thả, nhẹ nhàng, giữa hít vào và ngưng thở hay từ hít vào cho đến thở ra đều phải biến đổi từ từ gần như không có giới hạn. Hít vào thờ ra chỉ dùng lỗ mũi mà thôi. Bắt đầu buổi ngồi thiền phải thở 3 hơi thật sâu vừa để tống thán khí ra vừa để nương theo hơi hít vào làm cho xương sống thẳng đứng.

    C) Điều tâm :

    Đây là phần chính trong buổi tập thiền. Mục đích điều tâm là "Buông bỏ hết mọi suy nghĩ phân biệt". Người xưa thường nói "Tâm viên, ý mã" nghĩa là Tâm của ta như con vượn, nhảy nhót lăng xăng, còn ý của ta đi nhanh chóng như ngựa phi nước đại. Ví dụ chúng ta đang ở Mỹ đây mà nghe ai nóiđến Việt Nam thì ta liền liên tưởng đến cảnh nào đó ở Việt Nam, vậy ý tưởng của ta đi nhanh hơn ngựa chạy, có thể nói nhanh như điện tử vậy. Cho nên điều tâm là làm sao cho tâm dừng lại, không suy nghĩ gì hết, làm được việc này thật là khó. Có 2 phương pháp :

    * Thiền hữu chủng: Thiền có đè mục hay vấn đề để chúng ta tập trung tư tưởng vào đó, không để cho tâm buông lung, muốn nghĩ gì thì nghĩ, phương pháp này có 3 giai đoạn:

    - Định tâm: (Tập trung tư tưởng) giữ tư tưởng cho được yên tịnh, tâp trung vào một sự việc.

    - Tham thiền: Suy nghĩ một vấn đề, đi từ thỉ cho đến chung, đi từ nhân cho đến quả.

    - Nhập định: Nhập vào cái rốt ráo của vấn đề, hòa mình vào đó, không còn suy nghĩ phân biệt.

    Ba giai đoạn này, phải đi từng bước như khi nhỏ, ta phải học mẫu giáo rồi mới vào tiểu học, trung học, đại học. Vậy bước đầu phải tập định tâm: Có rất nhiều cách, nhưng có 2 cách dễ dàng áp dụng:

    1.- Sổ tức quán : Dùng phương pháp thở dài hơi nhịp 2, tập trung tư tưởng theo hơi thở và đếm số, khi hít vào thì đếm, khi thở ra không đếm, chúng ta đếm từ 1 tới 10 rồi trở lại từ 10 cho tới 1, hoặc từ 1 đến 100 rồi trở lại từ 100 cho đến 1. Khi hít vào, thở ra phải thật nhẹ nhàng và đều đặn, phải đếm thầm và ghi nhớ rõ ràng, nếu quên nửa chừng phải đếm lại từ đầu, bắt buộc phải có kỷ luật như vậy, tâm ta mới chú ý vào hơi thở, trí ta mới định.

    2.- Quán tưởng : Để tâm hướng vào một vật, hình dạng thật đơn giản. Thí dụ ta vẽ một vòng tròn đường kính chừng 2 tấc, sơn màu vàng, nhìn nó cho kỹ rồi khi ngồi thiền ta cứ hình dung và giữ hình ảnh vòng tròn màu vàng ấy luôn luôn hiện ra trong tư tưởng của ta, không suy nghĩ gì khác và cứ giữ như thế suốt buổi ngồi thiền.

    Đấy là những phương pháp Định tâm đơn giản, sau khi ngồi thiền ta cũng phải giữ tâm ta luôn luôn chú ý vào hành động ta đang làm, chẳng hạn như khi rửa chén trong chậu, ta để tâm vào công việc rửa từng cái chén, từng cử động của chúng ta, khi quét nhà tâm ta phải theo dõi từng động tác quét của ta với từng cọng rác. Khi tập lái xe, tập trung chú ý vào những gì ở trước mắt ta, đừng để tư tưởng nghĩ gì khác. Tóm lại, nhất nhất, THÂN và TÂM là MÔT giữ cho được từng giờ, từng phút, ấy là Định tâm.

    Định được tâm lâu mau tùy theo căn cơ, tùy theo nguyện lực của mỗi người, có thể vài tháng, có thể vài năm, cái tâm ta vốn nhiều kiếp lăng xăng lộn xộ đã quen rồi,nay ta mới tập cho nó định cho nên khó. Chúng ta thấy con khỉ, người ta xích nó lại, dù 5 hay 10 năm, nó vẫn nhảy nhót, leo lên tuột xuống lăng xăng, cái tâm của ta cũng y như vậy mà thôi. Sau khi định tâm được rồi ta mới bắt đầu tham thiền về một vấn đề gì đó, trong một buổi chỉ tham thiền về một vấn đề mà thôi. Ví dụ ta tham thiền về câu đầu trong Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh : Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Đọc thầm từng chữ rồi tìm hiểu ý nghĩa từng chữ, từng câu và cả đoạn kinh. Tham thiền là giai đoạn Tham Công Án hay Khán Thoại Đầu trong thiền viện.

    Và cuối cùng là chúng ta xem xét đến tận cùng của vấn đề, để ta với nó chỉ là một, ấy là nhập định, cứu cánh của thiền.

    Đừng bao giờ tham thiền khi tâm ta chưa định, phải định tâm cho được mới qua tham thiền dù phải mất 5 hay 10 năm hay cả đời cũng phải kiên nhẫn thành công từng bước mới đến nhập định được.

    * Thiền vô chủng: Ngồi thiền nhưng giữ cho tâm không suy nghĩ điều gì hết, đạt được tâm thanh tịnh tức đạt đến cứu cánh của thiền. Nhưng mà điều này hết sức khó khăn, phương pháp cơ bản để thực hành như sau:

    - Theo dõi tư tưởng: Ngay từ đầu cứ để cho tư tưởng tự do muốn tưởng chi kệ nó, để dần dần xem coi cách nthế nó tưởng tượng ra sao, tìm ra quy luật của sự tưởng tượng rồi dần dần loại trừ những tư tưởng sai quấy, rồi dần dần cả những tư tưởng tốt cũng dừng lại, nghỉa là để cho tâm được yên tịnh, biết có vọng niệm nổi lên liền không cho nó tiếp tục. Thí dụ đương không ta bị nghĩ tới bãi cỏ xanh ở trước sân, nếu ta không biết, ta sẻ nghĩ tới những cây bông hồng ta trồng ở đó, có cành đã ra hoa, có cành có nụ, ta nghỉ muốn cho hồng tốt, chiều nay sẻ vun phân tưới nước ... tự nhiên ta bị lôi cuốn vào đó, nếu ta biết mình đang ngồi thiền, khi có hình ảnh cỏ trước nhà, ta liền không nghĩ tới nó nữa để giữ tâm thanh tịnh. Vì phương pháp thiền vô chủng rất khó, nên thường người ta dùng các phương pháp định tâm của thiền hữu chủng, sau khi tâm định rồi, người ta mới bước sang thiền vô chủng.

    VI. - Thời gian: Người ta ngồi thiền vào các giờ Tý (12 giờ đẻm) , Ngọ (12 giờ trưa), Mão (6 giờ sáng), Dậu (6 giờ chiều). Giờ giấc như vậy theo Đông phương có Âm, Dương, 6 giờ sáng và 6 giờ chiều là giao thời trong ngày, không khí hòa bình, 12 giờ trưa cực dương, 12 giờ đêm cực âm, thường người ta hay ngồi thiền vào 6 giờ sáng va 6 giờ chiều, thuận cho giờ giấc đi làm việc.

    Về thời gian mới đầu nên ngồi 10 đến 15 phút sau tăng dần lên, phương pháp tăng dần như sau: ngồi 15 phút được 3 hay 4 tuần cho quen rồi tăng thêm 5 phút. Tóm lại mỗi lần chỉ tăng chừng 5 phút, phải tập cho quen với thời gian đã tăng từ 3 đến 4 tuần mới tăng thêm 5 phút nữa.

    VII.- NƠI CHỐN: Ở nhà ta tìm vị trí trang nghiêm, khoảng khoát, không khí trong lành và yên tịnh, có thể xông trầm hay đốt hương thơm, cho nên ngồi thiền trước bàn thờ là hay nhất. Khi thiền không nên để đèn sáng, không để tối, có ánh sáng lờ mờ, êm dịu là tốt, nơi này mùa đông không lạnh quá, mùa hè không nóng quá. Nều có muỗi nên ngồi thiền trong cái màn (mùng) nên tránh ngồi thiền trên giường ngủ.

    VIII.- Các trở ngại và cách đề phòng:

    -Trở ngại thứ nhất là sự nản chí, vì không đạt được như ý muốn rồi bỏ cuộc.

    - Trở ngại thứ hai là sự lười biếng. Thể xác của chúng ta thích được ăn ngon, ngủ kỹ, được nghe người ta tâng bốc bằng lời dịu ngọt, thích nhìn cảnh quyến rũ đẹp đẻ... nuông chìu theo những ý muốn đó ta sẽ ngày tập ngày không, dần dần rồi cũng bỏ cuộc. Phải ngồi thiền hàng ngày, dù có đau ốm cũng phải ngồi thiền, ngồi thiền có thể trị bớt bịnh, thân thể cảm thấy khỏe khoắn hơn.

    Thiền là sự tinh lọc tinh thần, đươong nhiên phải tinh lọc thể xác, cho nên bắt buộc phải giữ gìn giới hạnh cho nghiêm mật, phải tu tâm sửa tánh, gìn lời giữ ý từng giây từng phút. Có những người ngồi thiền có kết qủa, nhưng tâm không tu sửa sẽ bị bệnh hoạn, có hại hơn là có lợi cho bản thân. Không nên hút thuốc và uống rượu. Vì đau ốm phải uống thuốc có ngâm rượu, phải ngưng tập thiền trong ngày hôm đó.

    Trong khi ngồi thiền, bị tức ngực ấy là do hơi thở không suông sẻ, trong lúc thiền bị nhức đầ phải xả (ngưng) một chút rồi tập lại, nếu vẫn bị thì xả thiền, không tập thêm nữa, hôm sau sẽ tập lại, hôm sau tập vẫn còn bị nhức đầu, nên ngưng vài hôm rồi tập trở lại, nhức đầu do ta chú tâm quá mức. Bị ngủ gục, đó là do mới tập, chưa quen.

    Mới tập trong 6 tháng đầu, tâm sinh lý bị thay đổi, đôi khi tánh nóng nỗi lên bất thường, đó là do sự dồn nén tâm lý, nên tập hạnh huỷ xả và từ bi với mọi người chung quanh. Chừng 5, 7 năm trở đi tâm ta thay đổi nhiều, tánh chúng ta sẽ hiền hòa, thuần thục hơn.

    Tập bỏ bớt các ưóc muốn, sống bình dị, đương nhiên cần phải thực hành hạnh bố thí.

    Những người cư sĩ tại gia như chúng ta, đừng bao giờ nghĩ rằng " Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời ", phải có lòng tin vững chắc khi tâm ta thanh tịnh thì trí tuệ được sáng tõ, như lời Phật dạy "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" để trả lời ông Tu Bồ Đề hỏi: " Làm sao an trụ chơn tâm, làm sao hàng phục vọng tâm ? "

    IX .- Vài mẫu chuyện thiền: Năm 1989 và 1990, chúng tôi có đến viếng thượng tọa Thích Thông Lạc ở Trảng Bàng, Tây Ninh. Mặc dù hai làn đó đều là ngày chủ nhật nhưng người đến viếng Thượng Tọa không hơn 10 người, đều là những người ở Aaigon lên. Nơi Thượng Tọa tu gồm có một chánh điện cất đơn sơ, mỡi bề chừng 6 thước, một dãy nhà khách chừng 8 thước, rộng độ 3 thước, một dãy nhà bếp bằng nhà khách, xung quanh có những cái cốc lợp bằng tranh, mái đan tre, nền đất, bên trong chỉ có một cái giường nằm cũng bằng tre, đơn sơ hết sức.

    Trả lời những câu hỏi về tu chứng, Thượng Tọa cho biết, trước Thượng Tọa có tu với Thiền sư Thanh Từ một năm, sau đó Thượng Tọa ra các hòn ở Rạch Giá để tu, nhưng không kết quả. Cuối cùng Thượng Tọa trở về quê ở Trãng Bàng, cất thảo am. làm ruộng, trồng tiêu, trồng điều láy hoa lợi để tu, một ngày kia Thượng Tọa quyết định nhập thất, người mới nhờ bà mẹ mỗi ngày đem đến thất thức ăn và yẻu cầu, nếu người có dùng thức ăn thì không phải lo chi cả, nếu thấy thức ăn mà người không dùng thì phải vào thất xem còn sống hay đã chêt, nếu chết thì nhờ hàng xóm lo chôn cất dùm. Trong 7 ngày nhập thất này, Thượng Tọa đã nhập đươc đại định, sau đó ngài ra thất vẫn ăn uống đi lại bình thường nhưng tâm trí vẫn còn trong Đại định, một hôm người công phu, lúc thắp nhang, đi lại va chạm mạnh vào cạnh bàn thờ Phật, cơn đau đó mới làm cho người thức tỉnh, xuất khỏi cơn Đại định.

    Sau đó người đi trình chứng đắc với thiền sư Thanh Từ. Thiền sư mới dùng ý nghĩa kinh để hỏi Thượng Tọa, sau khi Thiền sư công nhận những chứng đắc của Thượng tọa, Thiền sư có yêu cầu thượng Tọa hiệu chỉnh lại kinh Pháp Hoa, theo sự chỉ dẫn của Thượng Tọa, chúng tôi thấy trong tủ có chừng 30 quyển tập 100 trang, đó là kinh thượng tọa hiệu đính nhưng chưa in. Thượng Toạ cho biết, ai muốn tu thiền, hãy đến tu với Thượng Tọa trong 100 ngày, Thượng Tọa sẽ chỉ dẫn và theo dõi diễn tiến, nếu tu đươc thì tiếp tục, nếu ai muốn sẽ ở đó tu trong 10 năm để sau khi chứng đắc sẽ viết , dịch một số kinh điển, ai không tu Thiền được thì trở vè tu Thập thiện. Trong thời gian tu, ở trong cốc đã có, mọi sự ăn uống do Thượng Tọa cung cấp.

    Tôi có quen biết anh Nguyễn văn Ân, trong ban nhạc không quân ở Tân sơn Nhất, anh ta ở Biên Hòa, theo đạo Công Giáo. Khoảng năm 1970, anh ta tu thiền, một hôm tuyên bố với bạn bè, sẽ nhập thất trong 49 ngày và lần này anh sẽ gặp Đức Chúa, nhưng khoảng gần đến 49 ngày, bạn bè phát hiện anh đả chết trong cô-néc nơi đó anh đã nhập thất. Sau nầy hỏi lại nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, bạn đờng ngũ với anh ta, anh Thu cho biết khi phát hiện anh ta chết, dưới giường nằm của anh ta còn để một cái bếp điện, có lẽ anh ta bị lạnh quá nên dùng bếp điện sưởi ấm, đúng hơn anh ta đã bị "tẩu hỏa nhập ma". Hơn thế nữa, 6 thất trước, có lẽ anh được thầy dạy nên không sao, còn thất thứ 7 anh tự động thực hành nên bị Tẩu hỏa nhập ma.

    Khoảng năm 1980, trong câu chuyện với anh Phạm Văn Tài, người tiền nhiệm của chúng tôi, nguyên hiệu trưởng trường Trung học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ Sài gòn, lúc đó anh cho tôi biết rằng anh có tu thiền, theo môn phái kia, khi tiếp chuyện với ai anh có thể nhìn thấy hào quang của người ấy lớn hay nhỏ, rõ hay mờ. Sau anh đọc Kinh Duy Ma Cật, anh biết đó là tà đạo nên anh đã bỏ ngồi thiền theo môn phái đã học. Khoảng năm 1985, anh Tài đi làm Họa viên cho Hợp tác xã cơ khí Quang Minh ở Gò Vấp, người phó chủ nhiệm gặp tôi cho biết hình như anh Tài đã bị "mát", sau đó tôi đến thăm anh, tôi thấy anh vẫn bình thường, nhưng chị vợ trước mặt anh nói với tôi là anh ta ban đêm không ngủ được, đi lại nói lảm nhảm suốt đêm (chỉ có hai vợ chồng ở trọn trường Việt Nam Học Đường ở Tân Định). Năm 1990, vào dịp Vía Đức Phật A Di Đà, chúng tôi lại gặp nhau ở Nhất Nguyên Bửu Tự, gần chợ Lái Thiêu, vợ anh Tài cho biết, căn bệnh của anh ta đã giảm, có người đoán cuối năm sẽ hết. Những lần gặp nhau như thế, anh cũng vẫn nói chuyện với tôi như thường, những gì vợ anh ta nói trước mặt anh ta, anh ta đều không xác nhận hay phủ nhận điều gì cả.

    X .- Kết luận: Thiền rất hấp dẫn mọi người, nó rất hữu ích cho chúng ta, nhưng tập thiền phải đúng phương pháp, có người chỉ dẫn, theo dõi thường xuyên thì tốt hơn, tuyệt đối không nên luyện thứ chi hết, đã tu tâm thì phải sửa tánh tức là phải giữ giới cho nghiêm mật, dù không thành Phật trong kiếp này thì ít ra tâm ta cũng được thanh thịnh, trí huệ được sáng tỏ và sức khỏe chúng ta tốt hơn.

    Sách tham khảo:

    Đoàn văn An, Triết học Zen, Đông Phương xuất bản, Saigon, 1963.
    Tâm Quán, Tình Người, Lá Bối, Saigon, 1964.
    Trần Hơn, Từ Quang Tạp Chí, Hội Phật Học Nam Việt, số 221-222, Saigon, 1971.
    Thích Thanh Từ, Yếu Chỉ Thiền Tông, Tu Viện Chơn Không, quay Rone.

    -- o0o --




    https://www.tuvienquangduc.com.au/Ph...1thien-pt.html

  3. #83
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định



    Biểu Tượng Giác Ngộ Unalome Trong Văn Hóa Thái Lan



    Unalome [u-na-lô-mê] là một biểu tượng rất phổ biến trong đời sống tâm linh Thái Lan. Đó là mộtà một biểu tượng rất phổ biến trong đời sống tâm linh Thái Lan. Đó là một




    Unalome [u-na-lô-mê] là một biểu tượng rất phổ biến trong đời sống tâm linh Thái Lan. Đó là một hình tượng xoắn lò xo dạng tháp. Thông thường biểu tượng này được vẽ trên các hình xăm, hoặc khắc trên các tấm bùa hộ mệnh mà hầu hết các du khách đến Thái Lan đều có dịp xem qua.

    Biểu tượng này được sử dụng một cách chính thức trong các tổ chức chính phủ luôn.

    Ở khu vực thờ, cổng vào chung cư hay khách sạn, các nhà sư thường vẽ các biểu tượng này. Hai quyển hộ chiếu ngăn chủ nhân được xuất cảnh cũng do vẽ biểu tượng này vào bìa.

    BIỂU TƯỢNG GIÁC NGỘ TRONG VĂN HÓA THÁI LAN
    Biểu tượng này được cho là 'mô tả' một sợi chân mày của Đức Phật.

    Unalome [u-na-lô-mê] là một biểu tượng rất phổ biến trong đời sống tâm linh tại Thái Lan. Đó là một hình tượng xoắn lò xo dạng tháp. Thông thường biểu tượng này được vẽ trên các hình xăm, hoặc khắc trên các tấm bùa hộ mệnh mà hầu hết các du khách đến Thái Lan đều có dịp xem qua hoặc sở hữu.

    Trong hệ thống trường thiền Theravāda, thì Unalome là một biểu tượng đặc trưng được chấp nhận sử dụng trong dòng thiền của ngài Ajahn Chah. Đây là một dòng thiền ở chốn rừng núi (Phra Kammatthaan) tại Thái Lan với rất nhiều những vị Ajahn (ācariya) được biết đến trên thế giới.

    Điều đáng ghi nhận là biểu tượng này được sử dụng một cách chính thức trong các tổ chức chính phủ. Các huy hiệu của Hoàng Gia Thái Lan và quân lực của Hoàng Gia đều có sử dụng biểu tượng Unalome. Còn tại Campuchia thì biểu tượng Unalome hiện diện trên Quốc Huy của nước này.

    Tìm hiểu các vấn đề tâm linh Thái Lan tại Blog về Tâm Linh Thái Lan của chatuchak nhé

    UNALOME TRONG TIẾNG PĀLI
    Theo một số giải thích không chính thống thì Unalome là biểu tượng của sự giác ngộ trong Phật giáo. Một số khác thì cho rằng đây là biểu tượng của sợi tóc mọc giữa đỉnh đầu của một người chứng đắc A La Hán. Tuy nhiên, nếu truy tầm từ Unalome trong từ điển Pāli thì chúng ta có thể nhận ra rằng từ này được kết hợp bởi 2 từ Pāli là uṇṇa và loma với ý nghĩa như sau:

    uṇṇa: sợi lông trắng giữa hai chân mày của Đức Phật.
    loma: lông ở trên thân thể.
    Sợi lông trắng giữa hai chân mày, còn được gọi là Bạch Hào, là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật và được đề cập đến rất nhiều trong các bài kinh

    GIẢI THÍCH VỀ TƯỚNG BẠCH HÀO
    Các bài kinh Pāli chỉ mô tả sơ qua sợi lông trắng giữa hai chân mày của Đức Phật thì mềm mịn, ngoài ra không ghi nhận rõ thêm về các chi tiết khác của Bạch Hào. Đặc điểm chi tiết của Bạch Hào trong hệ thống văn bản Pāli chỉ được biết đến thông qua phần Chú Giải (Aṭṭhakathā) Trường Bộ Kinh của luận sư Buddhaghosa, trong đó mô tả sợi lông này khi được kéo dãn ra thì có chiều dài bằng phân nửa cánh tay của Đức Phật, nó luôn ở hình thức xoắn theo hướng phải, trực chỉ về phía trước và chiếu sáng như đốm bạc trên thoi vàng, tỏa ra ánh sáng dịu dàng.

    Chúng ta nhận thấy rằng nội dung mô tả của Buddhaghosa không tồn tại trong các kinh của chánh tạng Pāli. Việc Ngài ấy căn cứ vào đâu để ghi nhận điều này là vấn để chưa được biết rõ. Tuy nhiên, Buddhaghosa là một cao tăng vừa là một học giả uy tín có công rất lớn trong việc hệ thống hóa Tạng Pali, thì những gì Ngài nêu ra chắc hẳn phải trên nguồn tư liệu đáng tin cậy nào đó ngoài chánh tạng và tất nhiên là việc làm này không thể thực hiện một cách võ đoán.

    Về nguyên nhân để có được tướng Bạch Hào thì kinh Pāli giảng thích rằng do những khiếp trong quá khứ Đức Phật đã sống với hạnh chân thật, tránh xa điều giả dối.

    BẠCH HÀO TRONG HỆ THỐNG KINH ĐIỂN SANKRIT VÀ HÁN NGỮ
    Trong tiếng Sanskrit thì Bạch Hào được gọi là ūṛṇā hoặc ūṛṇā-kośa, và được từ điển Buddhist Hybrid Sanskrit của Edgerton giải thích là vòng xoắn giữa chặng hai chân mày của Đức Phật, là nơi mà Đức Phật phóng ra những tia hào quang.

    Hệ thống Hán Tạng ghi nhận rất rõ về Bạch Hào. Bạch Hào trong hệ thống A Hàm được ghi nhận qua các kinh như Kinh Tam Thập Nhị Tướng (MA 59), Kinh Phạm Ma (MA 161). Nội dung trong kinh A Hàm có mô tả rằng sợi lông trắng này xoay theo hướng bên phải. Bên cạnh đó, các kinh thuộc hệ thống kinh điển Đại Thừa ghi chép rất nhiều về tướng Bạch Hào của Đức Phật. Phật Quang Đại Từ Điển giải thích đây là một trong 32 tướng của Như Lai. Khoảng giữa hai chân mày của Thế Tôn có sợi lông trắng nhu nhuyễn tinh tế, kéo dãn ra thì được một tầm (lại nói lúc sơ sinh thì dài 5 thước, lúc thành đạo thì dài 1 trượng 5 thước), thả ra thì xoay trở lại về bên phải, như xoáy ốc. Sáng sủa khiết tịnh , giống như trân châu, như mặt trời giữa trưa, có khả năng phóng ra ánh sáng, gọi là bạch hào quang. Chúng sinh nào gặp được ánh sáng này thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng, thân tâm được an lạc.



    14 de enero

    https://www.minagricultura.gov.co/Fo...209C32DA81DAAE
    Last edited by phoquang; 03-07-2021 at 02:55 AM.

  4. #84
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    * CHÚ GIẢI:



    A. [Câu "Na Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn, cửu thiên ngũ bách, đồng danh đồng hiệu, Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn vong linh ... (họ tên người quá vãng)... A Di Đà Phật"].


    Trích từ Kinh: NIỆM PHẬT BẢO-VƯƠNG


    Trong thời kỳ đức Bổn sư THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN còn tại thế, một ngày kia đức Bổn sư thấy có 2 Ông bà già lụm cụm đang niệm Phật và lấy từ hạt lúa để ghi số (Tức là hễ niệm một câu NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT thì lấy ra một hạt lúa bỏ vào trong hũ để nhớ số đếm).

    Ðức Bổn sư THÍCH CA NHƯ LAI thấy thế, nên Ngài mới đi đến, ngồi xuống kế bên mà dạy cho hai Ông bà già đang niệm Phật ấy rằng:

    "Ta có một pháp rất hay, dạy 2 ngươi niệm Phật một câu thì được số hạt thóc rất nhiều đếm không kể xiết!".

    Hai ông bà già nghe Phật nói vậy rất mừng rỡ, liền quỳ xuống chân thành đảnh lễ Phật và cầu xin Phật từ bi chỉ dạy, vì chúng con tuổi đã quá già rồi...

    Lúc ấy Phật THÍCH CA dạy niệm như thế nầy :

    "Na Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn, cửu thiên ngũ bách đồng danh đồng hiệu, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-DI-ÐÀ PHẬT"

    Một vạn ức = 10,000 X 100,000 = 1 tỷ.

    Tam thập lục vạn ức = 36 vạn ức = 36 tỷ.

    Nhất thập nhấtt vạn = 10 x 10,000 = 100,000

    Cửu thiên ngũ bách = 9,000 + 500 = 9,500

    Nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá = 100,000 x 9,500 = 950 triệu

    Tổng gom hết các câu trên, tức là 36 tỷ 950 triệu Thượng Thiện Nhân ở cõi Phật đồng tiếp dẫn vong linh. Một câu nguyện tuy ngắn gọn, nhưng ý nghĩa vô cùng rộng lớn. Nếu thân nhân quan tâm, vì người quá cố, nhớ hằng ngày, hàng tuần thất mà thành tâm cầu nguyện bài Vãng Sanh trên và đồng thời niệm Phật, làm các việc phước thiện, rồi hồi hướng cho các vong linh, ắt quyến thuộc quá cố của chúng ta sẽ được thoát khổ, siêu lên cõi Phật. Như vậy, kẻ còn người mất đều được lợi ích. Giới trẻ tuy thương kính ông bà cha mẹ, nhưng đâu biết các việc trọng đại nầy. Chính các việc đó mới thật sự là hiếu kính sâu xa, mới là phước hiếu vô lượng!



    http://thegioivohinh.com/diendan/sho...%BB%80N/page27
    Last edited by phoquang; 03-03-2022 at 08:18 PM.

  5. #85
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định










  6. #86
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định









  7. #87
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    HỘ NIỆM 護念
    là nói tắt từ “Bảo hộ ức niệm”, khiến cái ác bên ngoài không xâm phạm, điều thiện ở bên trong được nẩy nở, là trợ duyên cho người còn sống (người bệnh) được thực hiện khi rõ là thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời. Sự nhất tâm của người trợ niệm cùng với công năng của sự niệm Phật 念經sẽ gia hộ cho người bệnh sớm chấm dứt đoạn hành trình cuối cùng trong cuộc đời mình. Nhờ vậy, người bệnh sẽ được tự do, thanh thản và được vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Việc hộ niệm với đầy đủ TÍN – NGUYỆN – HẠNH.



    http://holuongduclaocai.blogspot.com...-hay-liem.html



  8. #88
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    Truyện nhân quả

    Niệm Phật Cứu Chủ Khỏi Đọa





    Thuở xưa, tại quận Ninh Ba có tên Trương Mân, cha mẹ khuất sớm, côi cút một mình, nương náu với bà con cho qua ngày tháng, sau đến làm mướn với người phú hộ ở cách làng, chuyên nghề bện dép lác.

    Thường bữa sớm mai, chàng gánh giỏ đi cắt lác, hay đi ngang qua trước một cảnh chùa, nghe các sãi công phu, chuông trống inh ỏi. Lần nào chàng cũng để giỏ trước cửa chùa, vào xem một lát rồi mới đi.

    Hòa thượng thường thấy như vậy, nên một bữa nọ, Ngài kêu chàng mà hỏi rằng: "Nhà ngươi muốn tu hay sao mà ngày nào cũng thấy đến đây?"

    Trương Mân nghe Hòa thượng hỏi mấy lời, liền chấp tay thưa rằng: "Bạch thầy! Con muốn lắm, nhưng con là đứa ở đợ với người , không biết tính làm sao mà tu cho được".

    Hòa thượng nói: "Hễ muốn là được, sự tu hành chẳng luận là chủ hay đầy tớ, và cũng chẳng cần người ở am tự hay kẻ tại gia, hễ có lòng thành thì gặp cảnh ngộ nào cũng tu được cả. Như nay ngươi đang ở đầy tớ cho người, nếu ngươi có chí muốn tu thì ta dạy một cách rất dễ dàng , miễn ngươi chí thành thì có hiệu nghiệm".

    Trương Mân nghe nói rất mừng, liền quỳ xuống đảnh lễ mà thưa rằng: "Xin nhờ ơn thầy chỉ giáo dùm cho đề tử!".

    Hòa thượng nói: "Ngươi cứ về tập ăn chay lần lần, trước ăn chay kỳ, sau sẽ ăn trường và giữ năm điều cấm cho tinh nghiêm, rồi cứ thường ngày niệm sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật". Mỗi khi niệm Phật phải chuyên tâm chú ý, đừng cho xao lãng lúc nào, thì cả đời ngươi sẽ được bình yên , mà đến lúc lâm chung lại được siêu sinh về Tịnh độ nữa".

    Trương Mân nghe sư ông dạy bảo mấy điều thì hết sức vui mừng, bèn bái tạ thầy rồi về nhà cứ y theo lời dạy, thành tâm phát nguyện ăn chay trường và mỗi bửa thường niệm Phật.

    Chàng lại đan một cái giỏ bằng tre để trước mặt, mỗi khi niệm Phật một biến, thì ngắt một cọng lác bỏ vào giỏ ấy, như lần một hột chuỗi bồ đề vậy.

    Mỗi khi cọng lác đầy giỏ, chàng liền xách đến chùa bạch cùng Hòa thượng, rồi đem ra trước bàn Địa Tạng vái đốt, cứ chí tâm làm như vậy được mười năm.

    Một bữa nọ, ông chủ của Trương Mân bị đau chứng ung thư phát thối, người nhà đi tìm rước đủ lương y cứu chữa, nhưng bệnh đã không thuyên giảm chút nào mà càng ngày lại càng nặng.

    Một hôm, ông nằm chiêm bao thấy quỷ sứ đến bắt ông dẫn về nơi Minh phủ, bị vua Diêm La quở trách và kể hết những tội ác của ông khi ở trên dương thế.

    Ông phú hộ nghe Diêm chúa tỏ hết tội của mình, không sót một khoảng nào, thì liền sợ hãi, lạy lục và khóc lóc xin tha thứ cho về dương thế lo tu phước, hòng chuộc tội đã lỡ lầm.

    Diêm chúa thấy ông đã ăn năn tự hối và nghĩ đến Trương Mân mỗi khi niệm Phật có cầu nguyện cho ông, nên phán rằng: "Ngươi khi ở trên dương thế đã làm nhiều điều ác đức, cho vay đặt nợ một vốn năm bảy lời, lập mưu này bày kế nọ mà lo chứa tiền của cho nhiều, chẳng thương kẻ khó, lại làm nhiều sự ức hiếp cho người nghèo. Nếu chiếu theo luật Diêm đình mà phán xử, thì phải bỏ nhà người vào rừng kiếm non đao thì mới đáng. Nhưng vì ngươi có một đầy tớ tên là Trương Mân, rất trung tín không ai bì, thường bửa hay niệm Phật, lại có lòng cầu nguyện cho ngươi, nhờ vậy mà ngươi được giảm bớt tội. Nay ngươi nên đền ơn cho nó một ngàn nén bạc, để nó làm những điều từ thiện thì mới được tiêu tội và thêm phước cho ngươi!"

    Ông phú hộ nghe vua Diêm la phán dạy như vậy thì mừng rỡ vô cùng, liền giật mình thức dậy. Ông bèn kêu tất cả vợ con đến và thuật lại điềm chiêm bao ấy thì cả nhà nghe nói đều lấy làm kỳ.

    Ông bèn kêu Trương Mân nói rằng: "Con đến ở cùng ông đã lâu, không dè con có lòng chí thành, biết ăn chay niệm Phật đến nỗi cảm kích đến Diêm đình, lại thành tâm cầu nguyện cho cả nhà ông được thêm phước thọ. Nay ông còn sống trên dương thế cũng nhờ công đức của con, vậy ông cho con một ngàn nén bạc, tự ý con liệu việc gì làm có phước thiện, thì con lấy bạc ấy dùng!"

    Trương Mân nói: "Thưa ông! Con vì nghèo cực, đến ở mướn cùng ông, manh áo bát cơm cũng nhờ ông bảo dưỡng. Con có chút công đức thì đâu xứng đáng cái ơn ấy mà ông cho bạc nhiều như thế! Con thưa thiệt cùng ông! Cách nay 10 năm, con có đến chùa gặp ngài Hòa thượng thương con, dạy cách ăn chay niệm Phật, nên con thành tâm tu niệm lâu ngày và thường cầu nguyện cho ông được phước thọ tăng long, để đền đáp lại ơn cao dày trong muôn một. Đó cũng là bổn phận của con phải làm.

    Nếu ngày nay ông vâng lời Diêm vương cho tiền bạc, thì con biết để làm gì. Cha mẹ đã mất, vợ con cũng không nên con không dám nhận. Vậy con xin thưa lại cho ông rõ điều này: Nguyên ngày trước, con vào chùa thường nghe Hòa thượng giảng về sự tu phước và nói rằng việc lập chùa, đúc tượng Phật, bố thí cho kẻ nghèo đói và bắc cầu đắp lộ cho người đi, thì được nhiều phước đức. Con nghe nói cũng muốn làm, nhưng ngặt vì không tiền, nên không thể đạt kỳ sở nguyện. Thôi ngày nay số tiền ông hứa cho con đó, xin để lại lập một cảnh chùa, còn dư bao nhiêu thì ông bố thí cho dân nghèo trong làng và làm một cái cầu bắc ngang sông này cho hành khách qua lại để khỏi bị cái họa đắm đuối, thì con rất vui lòng!"

    Ông phú hộ nghe mấy lời của Trương Mân xin, bèn thỉnh Hòa thượng đến chứng minh cho ông phát nguyện ở giữa Phật đài, rồi cách ít lâu bệnh ông lành như cũ.

    Khi vừa mạnh, ông liền kêu thợ đến cất một cảnh chùa gần bên nhà ông, để cho Trương Mân ở tu hành, còn dư tiền bao nhiêu thì đem ra bố thí cho kẻ nghèo và bắt cầu đắp lộ, y như lời của ông đã nguyện.

    ***

    Xét như chuyện niệm Phật của Trương Mân cứu chủ đã nói trên đó, thì biết pháp môn Tịnh độ dễ tu và dễ đặng, lợi cho mình và lợi cho người, thật là một pháp đứng đầu trong Phật pháp.

    Nói về phần dễ tu dễ chứng, chẳng những người thượng trí tu được mà thôi, lại hạng người ngu cũng tu được nữa - chẳng những người giàu sang tu được mà thôi, lại hạng người nghèo hèn cũng tu được nữa - chẳng những người thông thả tu được mà thôi, lại hạng người bận việc cũng tu được nữa - chẳng những nhiều người xuất gia tu được mà thôi, lại hang người tu tại gia cũng tu được nữa.

    Nếu đã tu được thì chắc rõ cái hiệu quả "Hiện tiền phước thọ, một hậu vãng sinh" quyết không sai chạy một mảy, dẫu cho người nào mỗi bữa niệm Phật mà tán tâm hay vọng tưởng đi nữa thì đời sau cũng được hưởng sự an lạc nơi cõi nhân thiên, chớ không bao giờ bị đọa.

    Còn nói về phần lợi mình và lợi người, thì chẳng mình tự tu tự độ lấy mình mà thôi, đến khi người biết thể theo cái bi nguyện của Phật, Bồ tát, mỗi bữa sau khi niệm Phật, nếu chú nguyện cho cha mẹ, ông bà, họ hàng quyến thuộc đang hiện tại hay đã quá vãng rồi, thì phần mấy người đó sẽ được nhờ cái ảnh hưởng ấy, nếu sống thì thêm phước thêm duyên, nếu chết rồi thì cũng đặng siêu sinh về Phật quốc, Thiên đường là khác.

    Bởi vậy, cho nên Trương Mân niệm Phật mà người chủ được tha tội hoàn hồn, thì đủ biết cái thần lực diệu dụng của Phật pháp thật là vô lượng vô biên.

    Vậy xin ai là người đã có lòng tín ngưỡng theo pháp môn Tịnh độ, không nên lấy chỗ chưa nghe chưa thấy của mình mà cho là hoang đường, rồi khinh thị hai chữ "Niệm Phật" thì uổng lắm.


    Trích: Gương Nhơn Quả
    (Trích lục trong Phật học tạp chí “Từ Bi Âm”)


    https://dantiencaikhe.blogspot.com/2012/03/



    Last edited by phoquang; 06-09-2025 at 06:36 AM.

  9. #89
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

  10. #90
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

    Quyển 2



    觀世音菩薩本跡感應頌,

    卷二


    彭澤菩薩戒弟子許止淨述

    Phần 2



    Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn

    Ấn Quang Đại Sư giám định

    Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

    Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang




    https://www.niemphat.net/Luan/quanam...chcamung5v.htm








  11. #91
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    CÕI TÂY PHƯƠNG BIÊN ĐỊA
    ( Nơi sinh của các hành giả không đủ Tín Tâm phải trãi qua 500 năm tại nơi đây )

    Ghi lại những lời trong mộng của Viên Trung Đạo là em của Tiến Sĩ Viên Hoành Đạo-cư sĩ Thạch Đầu vào đời nhà Minh ở cuối thế kỷ 16-Người đã soạn Bô Tây Phương Hiệp Luận.
    -----o0o-----






    Ngày Rằm, tháng 10, năm Giáp Dần, niên hiệu Vạn Lịch thứ 42 ( 1573 ), đời vua Thần Tông, nhà Minh.

    Khi khoá tụng xong, tôi tĩnh toạ cảm thấy thân thể, tinh thần thanh tịnh, sáng suốt. Bỗng nhiên có trạng thái như vào định. Đêm rằm, trăng sáng vằng vặc, thần thức vượt lên nhà, bất giác nhẹ nhàng, bồng bềnh bay vút lên, nhanh như chim tung bay. Trong mây có 2 đồng tử hộ vệ bảo: " Hãy theo chúng tôi! " rồi đưa về Tây Phương. Nhìn xuống, tôi thấy núi đầm, ruộng đất bằng phẳng, thôn xóm, làng mạc, thành phố, thị trấn nhỏ như đống đất, chén nước, tổ ong, tổ kiến. Đáp xuống một chút, có mùi hôi thối xộc lên, tôi không thể nào chịu đựng nổi! Hết sức phấn chấn vượt thẳng lên cao mới khỏi hiện tượng này. Bỗng chốc, 2 đồng tử bảo: " Dừng lại! " rồi cùng đáp xuống đất.


    Tôi phóng tầm mắt nhìn xung quanh thấy con đường thẳng tắp như dây giăng, bằng phẳng như bàn tay. Mặt đất chẳng phải cát đá, ánh ra tia sáng rực rỡ, mịn màng. Dọc theo đường có ngòi nước rộng hơn 10 trượng, thềm bằng thạch bảo có vân. Trong ngòi nước, hoa sen 5 màu sắc toả hương thơm ngát khác thờm. Dài theo ngòi nước có hàng cây ánh ra tia sáng chói chang, các loại chim đẹp hót vang hoà điệu. Cách một khảng lại có cây cầu bằng vàng nói ngang qua ngòi nước để làm ranh giới, có lan can đan xen như lưới giăng. Bên kia cầu, phía sau hàng cây có lầu các ngay ngắn, đẹp lộng lẫy, không cảnh nào so sánh cho kịp. Trong lầu toàn là những người có vóc dáng thanh tú, trẻ đẹp như tiên, mỉm cười nhìn tôi. Hai đồng tử đi quá mau, tôi theo không kịp bèn gọi to:

    -Xin đứng lại trên cầu đợi tôi một chút!

    Hai đồng tử thực hiện như lời tôi nói, tôi mới theo kịp. Khi mới đến cầu, cùng tựa vào lan can báu để nghỉ giây lát, tôi hỏi:

    -Hai vị là ai? Đây là nơi nào? Xin nói cho tôi được biết!

    Một đồng tử đáp:

    -Chúng tôi là thị giả của tiên sinh Linh Hoà. Tiên sinh muốn cùng ông chuyện vãn.

    Tôi hỏi:

    -Tiên sinh Linh Hoà là ai vậy?

    -Tiên sinh chính là anh của ông, là Viên Hoành Đạo tự Trung Lang đó! Khi gặp nhau, tiên sinh sẽ nói chuyện với ông. Bây giờ, chúng ta phải đi mau cho đến nơi.

    Rồi dẫn tôi đến 1 nơi có hơn 1000 cội cây to, lá bằng ngọc xanh biếc, hoa có cánh bằng vàng. Dưới cây, hồ nước chảy róc rách. Trên hồ có cánh cửa bằng ngọc. Một đồng tử bước vào trước. Đồng tử kia dẫn tôi đi qua hơn 20 lớp lầu các có kim sắc ánh ra tia sáng chói chang, hoa thơm cỏ lạ lay động qua lại bên thềm. Khi đến duới lầunọ, 1 ngưòi xuống đón tiếp, thần thái tựa Trung Lang mà gương mặt sáng như ngọc, áo như ráng mây, dài hơn 1 trượng. Thấy tôi, ông vội chào mừng:" Em mới đến à! " rồi dẫn lên lầu chào. Trên đó có 4-5 vị ngồi chung quanh, vóc dáng hình hài cũng như người cõi Trời. Trung Lang nói:

    -Đây là Biên Địa ở Tây Phương. Những người tu Tịnh Độ mà niềm tin, hiểu biết chưa hoàn thành, giới bảo chưa toàn vẹn, phần nhiều sanh về chốn này. Nơi đây cũng gọi là cõi nước Giải Mạn. Phương trên có lầu đài của Hoá Phật. Trước lầu có hồ rộng lớn khoảng chừng 1 trăm do tuần. Trong hồ có ao sen báu tuyệt diệu. Chúng sanh 10 phương sinh về gời chất nơi hoa sen ấy. Khi hoa bừng nở thì chia nhau vào ở trong các lầu các lâu đài. Tất cả những vị ấy đến ở chung với các người bạn đã cùng nhau tu Tịnh Độ thuở trước. Vì không có sắc đẹp, tiếng dâm nên niềm tin, hiểu biết thành tựu dễ dàng. Chẳng bao lâu sẽ tiến lên làm người trong Tịnh Độ.

    Tôi thầm nghĩ: " Cảnh trí tươi đẹp như thế này mà còn là Biên Địa sao! ". Lại hỏi:

    -Anh sinh về chỗ nào?

    Trung Lang đáp:

    -Tuy anh tịnh nghiệp thâm sâu, nhưng tình nhiễm chưa dứt, đầu tiên sinh về nơi đây một thời gian ngắn. Bây giờ cư trú khu vực Tịnh Độ. Vì ngộ đệ nhất nghĩa đế nhanh, dừng nghiệp ác chậm, nên chỉ thuộc tầng lớp địa cư, không được cùng bậc Đại Sĩ cư trú lầu các giữa hư không, còn phải tiến tu thêm nữa. May thay! Khi ở Ta Bà, nhờ có trí tuệ rất linh lợi, anh từng soan bộ Tây Phương Hiệp Luận tán dương năg lực độ sinh không thể nghĩ bàn của Như Lai, nên cảm báo được bay đi tự tại, tham quan các cõi khác. Các Đức Phật thuyết pháp, anh đến nghe được. Như thế thất là thù thắng.

    Trung Lang nắm tay tôi, từ từ bay lên hư không, khoảnh khắc vượt muôn ngàn dặm, rồi đáp xuống một chỗ. Nơi đây có không có mặt trời, không có mặt trăng, không có ngày đêm, ánh sáng rực rỡ không bị ngăn che. Đất toàn bằng lưu ly: trong, ngoài đếu chói suốt. Dây bằng hoàng kim đan xen lẫn nhau. Ranh giới được chia rõ ràng bằng 7 chất liệu quý báu. Tất cả toàn là chiên đàn, cát tường. Hàng hàng song song, gốc gốc đối xứng, trãi dài xa tít tắp đến vài muôn ngàn lớp. Lá nào cũng đều trổ các loại hoa tuyệt vời bằng màu sắc dị bảo. Bên dưới là hồ báu có vô lượng đợt sóng nhất nhô, tự nhiên phát ra âm thanh diệu pháp. Đáy hồ trang rãi toàn cát bằng kim cương. Trong hồ, các loại sen quý báu lá ánh ra tia sáng 5 màu. Trên hồ, lầu cao ẩn hiện, xoay chuyển xung quanh vùng. Con đường chạy dọc theo dãy lầu, điện các nối nhau. Cửa lớn, cửa sở đều giao chiếu, hiên thềm nhô ra, cột đỡ mái cong. Các loại như thế đều đầy đủ, đếu có vô lượng nhạc khí diễn tấu pháp âm những điều ghi chép trong Đại Kinh, Tiểu Kinh so với đây thì 10 phần chưa được 1. Tôi ngước nhìn lên thấy nhiều lầu các lơ lửng giữa hư không cũng như khói mây. Trung Lang nói:

    -Quang cảnh mà em thấy là chỗ của chúng sanh sống trên đất Tịnh Độ. Qua khỏi nơi này là chỗ cư trú của Pháp Thân Đại Sĩ, cảnh trí còn đẹp tuyệt vời hơn ở đây 1000 lần, vạn lần. Thần thông của các vị ấy cũng hơn ở đây 100 lần, 1000 lần. Anh vận dụng năng lực trí tuệ để tham quan nơi đó, chứ không cư trú được. Qua khỏi chỗ ấy là chỗ cư trú của Bậc Thập Địa, Đẳng Giác. Anh không thể nào biết đến. xa hơn nữa là chỗ cư trú của Bậc Diệu Giác, chỉ có Phật với Phật mới biết được chỗ ấy.

    Nói xong lại bay đến 1 chỗ không có thành quách, chỉ có lan can bao bọc, có điện các ánh ra tia sáng rực rỡ khác thường, không biết được kết hợp bằng những chất gì? Tôi cảm thấy tất cả hoàng kim, bạch ngọc ở thế gian sánh với loại báu này đều giống như màu sắc của đất. Ở dưới lầu, cùng nhau trò chuyện giây lát. Trung Lang nói:

    -Anh không ngờ phong cảnh lại vui đẹp tột bực như thế này! Khi ở Ta Bà, giá mà anh giữ giới luật tinh nghiêm thì sự thọ lạc còn hơn nữa, đại loại như: ngộ đệ nhất nghĩa đế, dừng nghiệp ác đều nhanh chóng thì vãng sanh phẩm vị rất cao. Kế đến, dừng nghiệp ác nhanh thì vãng sanh phẩm vị rất ổn. Nếu ngộ đệ nhất nghĩa đế mà không dừng nghiệp ác, thì đa số bị sức mạnh của nghiệp lôi kéo, trôi dạt vào 8 bộ quỷ thần. Chính mắt anh đã trông thấy những bạn đồng tu lâm vào tình trạng này. Còn em, tuy khí phần bát nhã thâm sâu nhưng năng lực giới, đĩnh rất kém cõi. Ôi! Ngộ lý sâu xa huyền diệu mà không thể sinh giới, định thì cũng là trí tuệ ngông cuồng mà thôi. Khi về cõi Ta Bà, nhân lúc còn khoẻ dồi dào, em phải thật tu, thật ngộ, gồm đủ tịnh nguyện. Hãy siêng năng cần mẫn thực hành phương tiện lợi tha, thương xót tất cả, chẳng bao lâu có dịp hội ngộ! Nếu một khi đã sa vào con đường khác thì thật là nỗi kinh hoàng! Nếu như không thể giữ giới thì hiện có Pháp Lục Trai của Long Thọ . Hãy tuân theo mà thực hành đi! Trong các giới, giới sát quan trong bậc nhất. Xin gởi lời đến các bạn đồng tu: " Chưa có ai mỗi ngày tay cầm dao bén gít6 hại, miệng thèm khát vị ngon mà được Vãng Sanh về Cự Lạc cả. Dù có thuyết pháp lời lẽ hùng tráng như mưa đổ, mây bay, nhưng đối với sự tu tập thì có lợi ích gì? ". Từ thuở Phật Không Vương, chúng ta đã nhiều đời làm anh em với nhau cho đến trôi lăn trong 6 đường cũng đều như thế. May thay! Anh đã được chỗ an lành, e rằng em bị đoạ lạc, nên vận dụng năng lực thần thông làm phương tiện đem em đến đây để khuyên bảo. Bây giờ, báo nghiệp giữa cõi Tịnh và cõi Uế đã cách biệt nhau, em không thể nào ở đây lâu được nữa!

    Tôi vội hỏi chỗ sinh của Bá Tu và các bạn đồng tu đã mãn phần. Trung Lang đáp:

    -Chỗ sinh của các vị ấy đều tốt đẹp cả. Về sau, em sẽ tự biết.

    Bỗng nhiên, Trung Lang vượt lên hư không mà bay mất. Tôi đứng dạy, ung dung cất bước trên hồ. Bỗng dưng như té nhào xuống nước, kinh hoàng mà giật mình tình dậy, toàn thân vã mồ hôi. Khi ấy, ngọn đèn tàn còn ở trên giá, ánh trăng vẫn toả chiếu lung linh xuống cửa sổ. Thời khắc đã điểm sang canh 4.


    ***



    http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...ID=15100&PN=13





    Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 02:24 AM.

  12. #92
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,552

    Mặc định


    TÂY PHƯƠNG BIÊN ĐỊA-NGHI THÀNH THAI CUNG




    Vùng Biên Địa của Đức Phật A-Di-Đà có 1 toà cung điện trang hoàng thất bảo. Nếu trong bụng có nghi ngờ mà ta niệm Phật A Di Đà thì thai sanh ở cung này 500 năm cũng không thấy nghe tên Tam Bảo. Vì là người nghi hoặc ở nên gọi là nghi thành, vì là cung điện thai sinh nên gọi là thai cung. Vì bị nhốt trong cung điện này, không được nghe Phật thuyết pháp nên gọi là thai sinh. Do giống như thai sinh trong tứ sinh nên gọi tên thế.


    Kinh Vô Lượng Thọ, đời Đường dịch: " Có người vì chưa ngộ tự tâm nên rơi vào vực thẳm nghi ngờ, hối hận nhưng mà người ấy biết tích tụ căn lành để mong cầu Phật trí, phổ biến trí, bất tư nghì trí, vô đẳng trí, oai đức trí, quảng đại trí. Đối với căn lành của người ấy, vì chưa tỏ ngộ nên không thể phát sinh niềm tin chân thật. Do nghe danh hiệu Phật, nên khởi dậy niềm tin cầu sanh về Tịnh Độ. Vì nhân duyên này, cho nên người ấy sinh trong hoa sen đến 500 năm như cung điện, hoa viên, không thấy được Phật, không nghe được Pháp. Đó là thai sanh ".


    Kinh Vô Lượng Thọ, Nguỵ dịch: " Tuy không tỏ ngộ Phật trí nhưng người ấy tin tưởng tội phước, tu tập căn lành, nguyện sanh về nước kia. Đó là thai sanh ".


    Kinh Vô Lượng Thọ, đời Tống dịch: " Có người tuy gieo trồng căn lành nhưng không thể lìa tướng, không mong cầu tuệ giác vô thượng. Vì vọng sinh phân biệt, người ấy tham đắm vào phước báo nhân gian, cai vui trong đời. Đó là thai sinh ".


    Bản dịch của Vương Nhật Hưu ghi: " Có người tu tập cong đức nguyện sinh về cõi kia. Về sau lai sinh tâm nghi ngờ, hối hận, không tin có cõi Phật kia, không tin làm lành được phước. Tuy vậy, người ấy lại có tâm niệm tạm thời tin, tạm thời không tin. Đến khi lâm chung, Phật liền hoá hiện thân hình khiến cho người ấy nhìn thấy. Vì tâm hối hận nên tội lỗi cũng gảm bớt, cũng được sanh về cõi kia. Đó là thai sinh ".


    Hai bản dịch trước nói không tin tự tánh ( Đời Đường dụch ), không tỏ ngộ Phật trí ( Nguỵ dịch ) là thai sinh.


    Bản dịch đời Tống nói thẳng: tu tập các điều lành để mong cầu sanh vào cõi người, cõi Trời. Đó là thai sinh, vì trong cõi Cực Lạc không có thai sinh. Còn bản dịch của Vương Nhật Hưu nói rằng, vì không tin cõi Phật, không tin tội phước, tạm thời tin, tạm thời nghi, nên gọi là thai sinh; khác với 2 thứ vãng sanh trong các bản dịch trước do Nghe Danh Hiệu Nên Khởi Dậy Niềm Tin ( Đường dịch ) và Tu Tập Căn Lành ( Nguỵ dịch và Tống dịch ).


    Tịnh Độ đại loại loại nói có 9 phẩm sen. Nếu nói rộng thì nhiều đến Ngàn Vạn phẩm cũng không thể nào kể hết cho được. Đời nay, trong cõi người, các loại phước báo, các loại tội nghiệp, loại nào cũng thiên sai vạn biệt. Cho nên, tuy các bản dịch có khác nhau nhưng đều là những lời nói chân thật. Trong đó bản dịch đời Đường có đại ý rất sâu kín. Vì không tin căn lành của chính mình, vì dựa vào người khác khởi dậy niềm tin, nên gọi là nghi thành. Nếu tin vào quả lành của chính mình thì người ấy lập tức tỏ ngộ được tự tâm, không từ người khác mà được. Vì vào được cửa ngộ này, nên mới có thể thoát khỏi lưới nghi. Do vậy, nếu chưa tỏ ngộ mà tu thì rốt cuộc bị ngăn cách bời thai nghi. Thai có nghĩa là bao bọc, ngăn che. Người chưa tỏ ngộ thì chưa phá huỷ được các chướng. Phù hợp với kết quả này, người ấy được vào bậc Trung Phẩm Hạ Sanh, Hạ Phẩm Thượng Sanh. Tại sao vậy? Vì Hạ Phẩm Trung Sanh, Hạ Phẩm Hạ Sanh phải trãi qua 6 kiếp, 12 kiếp thì hoa sen mới bừng nở. Còn ở đây nói chỉ sanh trong thai sen đến 500 năm mà thôi. Nếu căn cứ vào bản dịch của Vương Nhật Hưu thì người này tin tưởng Phật chưa mạnh mẽ bằng người Hạ Phẩm Trung Sanh, Hạ Phẩm Hạ Sanh. Lai nữa, sinh về Biên Địa của cõi kia không phải 500 năm mới thấy được Phật.


    ***



    http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...ID=15097&PN=13





    Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 02:25 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 29-08-2015, 08:10 PM
  2. ***Đứng giữa Vọng Ngữ và Sát Sanh?!***
    By cuonphong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 28
    Bài mới gởi: 04-04-2012, 09:12 AM
  3. Cầu sanh về Đâu Suất hay Vãng sanh về Tịnh Độ?!
    By pucaquynhnga in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 39
    Bài mới gởi: 04-01-2012, 12:24 AM
  4. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 26-12-2011, 10:07 PM
  5. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 09-04-2010, 09:50 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •