kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: THIÊN CUNG SỰ

  1. #1

    Lightbulb THIÊN CUNG SỰ

    Giới thiệu
    Nguyên Tâm Trần Phương Lan

    Thiên cung sự (Vimanavatthu) và Ngạ quỷ sự (Petavatthu) là hai tập 6 và 7 của Tiểu Bộ kinh (Khuddàka Nikàya). Hai tập kinh này được xếp thành một đôi vì cách trình bày hình thức lẫn nội dung đều tương tự. Cả hai tập kinh đều đề cập đến sự tương quan giữa nghiệp và quả (Kamma - Vipàka) giữa đời này và đời sau.
    Tập Thiên cung sự Vimanavatthu gồm bảy chương, trong đó có 4 chương miêu tả các lâu đài trên Thiên giới dành cho các nữ nhân và 3 chương dành cho nam nhân. Tất cả các vị này đều đã sống đời đạo hạnh, hành trì Ngũ giới và Bát quan trai giới cùng các việc thiện khác, tùy theo phương tiện khả năng của mình.

    A) Duyên khởi của tập Chuyện Thiên cung (trích từ Sớ giải)
    Một hôm, ý tưởng này khởi sanh trong trí Tôn giả Mahà Moggallàna (Ðại Mục Kiền Liên) khi Tôn giả đang độc cư thiền định: "Vào thời này nhiều người tuy chưa đầy đủ về căn cơ và phước đức, song đạt đến tâm an tịnh, vẫn được tái sanh vào cõi Thiên sau khi làm các phước nghiệp và thọ hưởng thiên lạc huy hoàng. Giả sử nay ta du hành lên cõi Thiên và hỏi trực tiếp chư Thiên do phước nghiệp gì mà bây giờ chư vị thọ hưởng quả vị ấy? Rồi nếu ta trình vấn đề lên Ðức Thế Tôn, Ngài có thể thuyết pháp dựa trên các chuyện Thiên cung này. Việc ấy sẽ đem đến lợi ích, an lạc, hạnh phúc của chư Thiên và loài người". Tôn giả trình lên Ðức Thế Tôn những việc Tôn giả muốn làm, và Ngài chấp nhận. Ngay sau đó, lúc nhập Tứ thiền, y cứ vào các thắng trí do thần thông lực, Tôn giả lập tức đến cõi Tam thập tam Thiên và hỏi chư Thiên này về phước nghiệp. Chư vị kể lại với Tôn giả. Rổi khi trở về cõi người, Tôn giả trình Ðức Thế Tôn những việc đã xảy ra. Bậc Ðạo Sư chấp nhận và thuyết pháp cho hội chúng, lấy sự kiện này làm đề tài.

  2. #2

    Mặc định

    Kinh Lâu đài có sàng tọa

    Một thời Ðức Thế Tôn trú tại Sàvatthi (Xá Vệ), ở Jetavana (Kỳ Viên) trong tinh xá ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Sau khi vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), nước Kosala (Kiều Tát La), đã cúng dường suốt bảy ngày lễ vật vô thượng lên Tăng chúng với Ðức Phật đứng đầu, nhà đại phú Anàthapindika đã cúng dường suốt ba ngày để phù hợp với lễ vật của nhà vua; và đại đệ tử nữ, cư sĩ Visàkhà (Tỳ Xá Khư) cũng cúng dường đại lễ vật như thế, tin đổn về sự cúng dường vô thượng được truyền đi khắp cõi Jambudìpa (Diêm Phù Ðề): "Phải chăng bố thí cúng dường chỉ đặc biệt phát sinh kết quả lớn khi đó là sự bố thí hào phóng với lễ vật cao sang như vậy, hay đúng hơn, đó là sự bố thí cúng dường tùy theo phương tiện của mình?". Khi Tăng chúng nghe lời bình luận này, chư vị trình lên Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn bảo:
    -- "Không phải chỉ do hiệu lực của tặng vật mà việc bố thí cúng dường đặc biệt phát sinh kết quả lớn, song đúng hơn, do hiệu lực của tín tâm và phước điền của những người nhận được vật cúng dường. Vì vậy, dù chỉ nhỏ bằng một nắm thóc hay một tấm giẻ, một tọa cụ bằng cỏ lá hay một hạt đậu trong nước tiểu hôi thối của trâu bò, được cúng dường với lòng thành cho một người xứng đáng nhận lễ vật cũng sẽ có đại kết quả, đại vinh quang và thấm nhuần khắp nơi".
    Thiên chủ Sakka đã nói như vầy :
    -- "Nếu có tín tâm, thì không một vật cúng dường nào có thể nói là không quan trọng, khi nó được dâng lên Ðức Như Lai, Chánh đẳng giác hay vị đệ tử của Ngài".
    Bấy giờ, chuyện này được phỗ biến khắp cõi Diêm Phù Ðề. Quần chúng tùy theo phương tiện của họ bố thí, cúng dường Sa môn, Bà la môn, du sĩ lữ hành và hạng người cùng khỗ; họ cung cấp nước uống trong sân nhà hoặc để ghế ngổi ở cỗng ra vào.
    Thời ấy có một Tỷ kheo đầy đủ hảo tướng oai nghi, đến khất thực đúng thời trước một nhà kia. Tại đó, vị thiện gia tín nữ chào đón vị ấy, cung kính đảnh lễ và trải một tấm vải vàng được ủi thẳng trên sàng tọa của bà rồi đem lại dâng vị ấy.
    Bà cúng dường món ăn mà bà có thể sắm được và quạt hầu vị ấy. Vốn tâm tín thành, bà suy nghĩ : "Nay vừa phát sinh một phước điền vô thượng dành cho ta".
    Khi vị Tỷ kheo đã thọ thực xong, vị ấy thuyết pháp về sự cúng dường sàng tọa và thực phẩm v.v... rồi ra đi. Khi bà ấy nghĩ về việc bố thí của bà và bài pháp thoại, tâm bà lập tức rung động với niềm hoan lạc và bà cúng dường vị Tỷ kheo cả chiếc sàng tọa ấy nữa.
    Ít lâu sau, bà mắc bệnh từ trần và được tái sinh vào cõi Trời Ba Mươi Ba trong một lâu đài bằng vàng dài mười hai do tuần (dặm). Bà có một đoàn tùy tùng hầu cận gổm một ngàn tiên nữ. Vì trước kia bà cúng dường sàng tọa, nên tại đấy xuất hiện cho bà một chiếc sàng tọa bằng vàng dài một do tuần, du hành thật nhanh qua bầu trời, giống như một ngôi nhà có nóc nhọn. Vì thế nó được gọi là "Lâu đài có sàng tọa". Vì chiếc sàng tọa đước cúng dường trước kia có phủ tấm vải vàng, nên lâu đài này bằng vàng, chứng tỏ sự tương tự giữa nghiệp và quả. Vì sàng tọa đã được cúng với tâm hoan hỷ mãnh liệt, nên lâu đài di chuyển rất nhanh. Vì lễ vật được cúng dường với sự thích thú của người xứng đáng nhận nó, nên lâu đài có thể di chuyển tùy theo sở thích của bà. Vì hiệu quả tín tâm hoan hỷ của nữ nhân kia, nên lâu đài rực rỡ và sáng chói.
    Bấy giờ vào một ngày lễ hội, chư Thiên đều đi được, mỗi vị tùy theo phương tiện do uy lực của mình đến Hỷ lạc Viên Nandana để vui chơi trong ngự uyển, vị Thiên nữ kia phục sức thiên y và điểm trang thiên bảo, khởi hành trong lâu đài có sàng tọa đầy oai nghi với cả ngàn thị nữ hộ tống.

    Lúc ấy, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên cõi thiên, vừa đến cảnh giới trời Ba mươi ba và xuất hiện gần chỗ Thiên nữ này. Khi thấy Tôn giả, vị Thiên nữ vô cùng hoan hỷ, cung kính bước xuống khỏi sàng tọa tiến đến gần vị Trưởng lão, cúi mình đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất, rồi đứng lên bày tỏ sự tôn trọng với đôi tay chấp lại, mười đầu ngón sát vào nhau.

    Mặc dầu vị Trưởng lão này nhờ thần lực đa diện của trí tuệ, đã tự mình thấy rõ như thể ngắm quả Myrobalan trong lòng bàn tay, các thiện nghiệp và ác nghiệp do Thiên nữ này cũng như các vị khác đã tạo ra, nhờ khả năng tri kiến của Tôn giả về nghiệp quả tương ứng, tuy nhiên, vì ngay khi vừa tái sanh cõi trời, các Thiên nữ liền hỏi: - 'Tiểu nữ đã từ trần tại đâu và được tái sanh vào thế giới này?' - 'Tiểu nữ đã làm thiện nghiệp gì để được phước phần này?', và theo lệ thường, chư vị ấy đều đi đến kết luận đúng đắn, do đó, vị Trưởng lão muốn làm sáng tỏ nghiệp quả cho thế giới chư Thiên, bèn bảo Thiên nữ này kể lại hạnh nghiệp vị ấy đã làm, rồi ngâm các vần kệ sau:

    1. Tọa sàng kim sắc thật huy hoàng,
    Di chuyển nhanh như ý của nàng,
    Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
    Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.

    2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
    Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
    Những lạc thú nào nàng mến chuộng
    Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?

    3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
    Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
    Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
    Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?

    4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:

    5. Khi được làm người giữa thế nhân,
    Con mang sàng tọa nhỏ đem dâng,
    Vái chào cung kính khách xa đến,
    Tay chắp, cúng dường theo khả năng.

    6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
    Và con vinh hiển ở nơi đây,
    Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
    Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.

    7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
    Công đức con làm giữa thế nhân,
    Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
    Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.



    Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt
    Last edited by DUOCPHUONG; 08-09-2010 at 02:58 PM.

  3. #3

    Mặc định

    5. Chuyện thứ năm - Lâu Ðài Con Voi (Kunjara-Vima ana)

    Ðức Thế Tôn lúc ấy đang trú tại Ràjagaha ở chỗ nuôi sóc trong Veluvana (Trúc Lâm). Bất ngờ một hôm có lễ hội được công bố khắp thành Ràjagaha. Mọi người đều phục sức thật đẹp và đi dự lễ hội.

    Bấy giờ Ðại vương Bimbisàra thể theo nguyện vọng của thần dân, ngự ra khỏi cung và đi dự lễ quanh kinh thành trong cảnh vô cùng uy nghi rực rỡ. Thời ấy một thiện nữ nhân trú tại Ràjagaha thấy cảnh huy hoàng của nhà vua, lòng đầy kinh ngạc thích thú, bèn hỏi những người có tiếng thông thái:

    - Nhờ phước nghiệp gì ta tạo được cảnh vinh quang như thiên giới này?

    Họ bảo nàng:

    - Này bạn, một thiện nghiệp cũng như viên ngọc quý làm thỏa nguyện, hay cây thần ban điều ước này.

    Khi nghe thế, nàng tự nhủ: 'Ta thấy kết quả trên thiên giới còn vĩ đại hơn phần thưởng kia (do việc bố thí cúng dường)'. Từ đấy nàng trở nên nhiệt tâm thực hành các công đức thiện nghiệp.

    Bấy giờ, cha mẹ gửi cho nàng một bộ y phục mới, một sàng tọa mới, một bó hoa sen, sữa lạc, mật ong, đường và gạo. Khi thấy các thứ này, nàng tự bảo: 'Ta muốn bố thí, và bây giờ các lễ vật xứng đáng bố thí cúng dường đã có trong tay ta'. Và với lòng hoan hỷ, nàng chuẩn bị lễ vật, nhà cửa và bản thân vào ngày hôm sau.

    Thời ấy Tôn giả Sàriputta đi khất thực trong thành Ràjagaha, vào đường phố với oai nghi của một người đang đặt xuống chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền.

    Người nữ tỳ của nàng thấy vị Trưởng lão liền thưa:

    - Bạch Tôn giả, xin đưa bình bát cho tiện nữ.

    Và nàng nói thêm:

    - Xin Tôn giả đi lối này để làm đặc ân cho một tín nữ.

    Tôn giả trao nàng chiếc bình bát. Nàng dẫn Tôn giả đến nhà. Lúc ấy nữ nhân kia chào đón và phục vụ Tôn giả. Trong lúc nàng thiết đãi ngài, nàng phát nguyện: 'Do uy lực của phước nghiệp này, ước mong ta sẽ được mọi cảnh vinh quang trên thiên giới, đầy đủ các thiên tượng, trùng các và sàng tọa, và ước mong không lúc nào thiếu hoa sen'.

    Kế đó, khi vị Trưởng lão đã thọ thực xong, nàng rửa bình bát và đổ đầy lạc, mật ong, đường, cùng các thứ khác, lại lấy một xấp vải trải lên sàng tọa và trao tận tay vị Trưởng lão.

    Sau khi vị Trưởng lão đã giã từ, nàng ra lệnh cho hai gia nhân:

    - Hãy đem sàng tọa này và bình bát đến tinh xá, cúng dường Trưởng lão ấy rồi trở về.

    Họ tuân lệnh. Về sau, nàng từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng cao một trăm do-tuần và có một đoàn tùy tùng hộ tống, gồm một ngàn tiên nữ.

    Do ước nguyện của nàng, một con voi quý cao năm do-tuần xuất hiện cho nàng, được quấn quanh mình với các vòng hoa sen và trang điểm cân đai toàn vàng.

    Bấy giờ vào một ngày lễ hội, chư Thiên đều đi dự, mỗi vị tùy theo uy lực của mình đến Hỷ Lạc Viên Nandana để vui chơi trong ngự uyển.

    (Từ đây về sau câu chuyện cũng giống như phần sớ giải Lâu đài thứ nhất). Như vậy chuyện này phải được hiểu như trong chuyện ấy, song ở đây, Tôn giả Moggallàna ngâm các vần kệ sau:

    1. Voi nàng như ngọn núi huy hoàng,
    Tô điểm cân đai đủ ngọc vàng,
    Khả ái, oai hùng, đầy tốc lực,
    Nhẹ nhàng di chuyển giữa không gian.

    2. Ðây là một bảo tượng liên hoa,
    Ánh sáng sen xanh, đỏ tỏa ra,
    Chân cẳng voi đầy hương phấn phủ,
    Sen vàng treo lủng lẳng trên ngà.

    3. Rải rác hoa sen khắp mặt đường,
    Phẳng lì, tô điểm cánh sen tàn,
    Khiến lòng mê mẩn, đầy êm ái,
    Vương tượng bước đi thật nhịp nhàng.

    4. Trong lúc tượng vương tiến bước lên,
    Chuỗi chuông vàng trổi khúc êm đềm,
    Chung thanh chẳng khác nào âm nhạc
    Năm thứ đàn tơ hợp tấu nên.

    5. An tọa trên lưng đại tượng vương,
    Xiêm y nàng trắng, khéo trang hoàng,
    Trông nàng thù thắng về dung sắc,
    Vượt hẳn bao tiên nữ cả đoàn.

    6. Kết quả này do việc cúng dường,
    Hay trì giới, hoặc chắp tay nàng?
    Khi nàng được hỏi điều như vậy.
    Hãy nói cho ta biết rõ ràng.

    7. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
    Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
    Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
    Và đây là kết quả cho nàng:

    8. Thấy một Sa-môn đủ tướng hiền,
    Hân hoan Thiền định, trí an nhiên,
    Con dâng sàng tọa đầy hoa rắc,
    Với một tấm khăn vải phủ lên.

    9. Tâm tín thành, tay tự trải khăn,
    Rải hoa sen nở đã gần tàn,
    Cùng chung các cánh hoa sen rụng,
    Khắp chốn bao quanh chiếc tọa sàng.

    10. Kết quả này do thiện nghiệp duyên,
    Nên con nhận được của chư Thiên
    Ân tình phụng sự và thương mến,
    Con được tôn vinh ở cõi tiên.

    11. Quả thực kẻ nào có tín tâm
    Muốn đem sàng tọa để cung dâng
    Những người giải thoát, tâm thanh tịnh,
    Sẽ được như con, hưởng phước ân.

    12. Vậy do ước vọng được an lành,
    Mong quả lớn sau sẽ đạt thành,
    Phải tặng tọa sàng cho những vị
    Mang thân đời cuối chẳng lai sanh.


    Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đại Phong Thần Quán Thế Âm
    By vevovi10 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 40
    Bài mới gởi: 08-05-2013, 12:04 PM
  2. Điện Biên Phủ- Thiên tài quân sự VÕ NGUYÊN GIÁP
    By nguyenvutungson78 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 26-08-2010, 03:33 PM
  3. Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài VN
    By Bin571 in forum Phong Thủy, Địa lý
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 04-08-2010, 01:00 AM
  4. Thiên Nhiên Khí Công
    By Bin571 in forum Khí Công, Dưỡng Sinh
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 15-10-2007, 09:34 PM
  5. Không Kiếp
    By Bin571 in forum Tử Vi
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 14-10-2007, 10:51 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •