kết quả từ 1 tới 9 trên 9

Ðề tài: Kinh Lăng Nghiêm - Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch Về Tánh Thanh Tịnh

  1. #1
    Đai Nâu Avatar của ngoc.khanh198
    Gia nhập
    Nov 2007
    Nơi cư ngụ
    Đâu đó ở Ta Bà
    Bài gởi
    341

    Smile Kinh Lăng Nghiêm - Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch Về Tánh Thanh Tịnh

    Kinh Lăng Nghiêm
    Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch Về Tánh Thanh Tịnh


    (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối - Four Clear Instructions on Purity)
    Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng
    Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành


    Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu, tức là ăn cắp, và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể! Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh.

    Hòa Thượng Tuyên Hóa



    DẪN NHẬP

    BỐN ÐIỀU RĂN DẠY VỀ TÁNH THANH TỊNH CHÂN THẬT, KHÔNG HƯ DỐI

    (Vạn Phật Thánh Thành ngày 17 tháng 4 năm 1983)


    Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu đạo (tức là ăn cắp), và giới vọng ngữ (tức là nói láo). Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể!

    Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh. Tuy nói rõ như vậy, nhưng có người lại không tin. Không phải chỉ có một số người không tin mà thôi, trong đó, những kẻ không tin lại là những học giả, những vị giáo sư, những kẻ xuất gia không giữ giới luật. Những người đó không có niềm tin nên không có cách gì cải thiện, cũng không cách gì để bài trừ cái gốc tà kiến của họ được; bởi vì những điều hiểu biết sai lầm của họ đã chằng chịt, thâm căn cố đế, làm cho họ mất lòng tin và công nhiên cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo!

    Trong các bộ kinh mà Phật nói ra, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh hết sức trọng yếu. Dù cho các vị học giả, giáo sư, những kẻ không giữ giới luật, cho đến những kẻ dùng đủ thứ thần thông, hiện ra mười tám phép biến hóa, tới nói với tôi rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả đi nữa, thì tôi cũng không tin được! Tại vì sao? Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm dạy những đạo lý hết sức chân chính, chỉ căn bịnh của chúng sinh hết sức rõ ràng; đó là "vô minh tội nghiệp." Kinh này chính là "đối bịnh cho thuốc," là lời khuyên răn rõ ràng nhất. Song người ta không ai muốn uống thuốc đắng, mặc dù thuốc hay thì quá đắng, khó mà chịu nổi. Nên dù có bậc thầy thuốc giỏi đưa toa thuốc ra thì họ cũng vất đi không dùng, nói rằng thuốc chẳng có hiệu lực gì, rằng thứ thuốc này chỉ để lừa người ta. Như vậy đúng là tự mình lừa mình và lừa người khác, tự mình làm hại mình rồi hại người khác vậy!

    Bởi vậy cho nên những kẻ không hiểu biết cứ chạy theo những người này, nói rằng có những vị học giả danh tiếng như vầy, có những nhà giáo sư nổi tiếng như kia, hoặc có những vị Ðại Pháp Sư có tên tuổi như nọ nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả; rồi họ chạy theo những người đó như những kẻ đui đi theo những người mù, cùng nhau kẻ xướng người họa. Người ta nói làm sao thì họ nói theo làm vậy, do đó rốt cuộc tà thuyết đầy dẫy.

    Nếu thật sự đúng như vậy, tức Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì các vị trong Phật Giáo không cần phải giữ giới luật làm gì, cũng không cần nghe Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh này làm gì, và cũng không cần biết đến Năm Mươi Thứ Ấm Ma là ra sao, tất cả mọi thứ đều nhất tề vất bỏ hết! Các vị thử nghĩ coi, loại người như vậy thật là ác độc vô cùng; nếu những người như thế mà không bị xuống Ðịa ngục Cắt Lưỡi thì thật là không còn công lý gì nữa!

    Vừa rồi tôi có đề cập đến các trẻ em tâm lý biến thái (Autistic children - trẻ em có hành vi kỳ quặc). Những trẻ em này vì đã tạo nghiệp tội đáng phải đọa địa ngục Vô Gián - hủy báng kinh điển Ðại Thừa - nên mới phải nhận lãnh thứ quả báo đáng sợ này. Ðó cũng là vì loài người chúng ta không hiểu đạo lý, lại còn tự cho mình là hay là giỏi, rồi công nhiên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, còn trợn tròn mắt mà nói láo. Hành động như vậy thật là mất hết lương tri, lương năng, làm cho bản hữu trí huệ của mình bị hủy diệt; thật đáng thương thay!

    Bởi những kẻ hủy báng kinh điển Ðại Thừa đó đã dùng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý của họ để tạo ra đủ thứ ác nghiệp, nên khi họ sinh làm người thì thành những kẻ mắc bịnh tâm lý biến thái, trở nên vô tri, vô giác, đến khi thọ ác báo rồi, lại còn cho rằng mình là hay là giỏi lắm!

    Chúng ta không nên dùng cái "thông minh giả" của mình mà hủy báng lời Phật dạy. Nào là những kẻ rất có tiếng tăm, nào là những nhà học giả trứ danh, nào là những vị giáo sư uyên bác, nào là các vị Pháp Sư nổi tiếng, một khi họ nói ra lời hủy báng Phật Pháp thì vô hình trung, lời nói của họ sẽ ảnh hưởng đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên người khác, khiến cho những người đó đánh mất đi lòng tin chơn chính. Cho nên quý vị thấy, tạo ra tội nghiệp như vậy không phải là tai hại vô cùng sao? Trăm ngàn kiếp về sau, họ sẽ phải đầu thai làm kẻ thọ quả báo, trở thành những người câm! Bởi vì họ làm hại tri kiến của kẻ khác, nói lên những lời khiến kẻ khác hiểu lầm đạo lý, như thế thật là vô cùng nguy hại!

    Quý vị hãy nghĩ coi, vì sao những người đó cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là bởi vì họ không thể theo đúng được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh: Không dâm dục thì họ không thể làm được, không sát sinh thì họ cũng chẳng làm nổi! Không trộm cắp thì bề mặt có thể nói rằng họ không trộm cắp, nhưng thực sự có rất nhiều học giả, giáo sư thường lấy trộm văn chương của học sinh hay của kẻ khác rồi vá víu lại để làm của mình; nếu đem vật sở hữu của kẻ khác làm của mình thì đó chính là trộm cắp vậy! Nếu một ngày nào mà họ nói những lời lừa dối học sinh thì ngày đó họ đã nói láo rồi! Ðương nhiên không phải tất cả những vị học giả hay giáo sư đều như vậy, song ở trong hàng ngũ những người đạo đức luôn luôn có vô số những kẻ gian dối tác hại.

    Bởi vì không làm theo đúng được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh đó nên họ sợ hãi, và không thể chấp nhận lý luận trong Kinh được. Nếu họ chấp nhận lý luận của Kinh thì họ không thể tồn tại, và dĩ nhiên họ sẽ mất đi địa vị của họ. Nhưng họ lại không muốn như vậy nên mới làm trái với lương tâm, mới nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Khi có ý nghĩ như vậy là họ đã phạm tội lớn tày trời:



    "Khoát đạt không,

    Bát nhân quả,

    Mãng mãng đãng đãng,

    Chiêu ương họa."

    Nghĩa là:



    "Phủ nhận mọi thứ,

    Bác bỏ nhân quả,

    Thô suất phóng túng,

    Tự chuốc tai ương."



    Trong tương lai họ sẽ thọ lãnh quả báo đọa địa ngục Vô Gián, lúc đó họ có hối lỗi thì không còn kịp nữa!
    __________________________________________________ __________________________
     

    Kinh Văn:


    Hán Việt: A-Nan chỉnh y phục, ư đại chúng trung, hợp chưởng đảnh lễ, tâm tích viên minh, bi hân giao tập, dục ích vị lai chư chúng sanh cố, khể thủ bạch Phật: “Đại bi Thế Tôn! Ngã kim dĩ ngộ Thành Phật Pháp-môn, thị trung tu hành, đắc vô nghi hoặc.”

    Việt: Ngài A-Nan sửa y phục cho chỉnh tề, rồi từ chỗ đại chúng chắp tay đảnh lễ. Tâm địa sáng suốt, vừa buồn vừa vui, và vì muốn lợi ích cho chúng sanh đời sau, nên ngài cúi lạy và thưa với Phật: “Bạch Đức Thế Tôn đại từ bi! Con nay đã tỏ ngộ Pháp-môn Thành Phật, trong sự tu hành được không còn nghi hoặc.”



    Giảng nghĩa:


    Ngài A-Nan sửa y phục cho chỉnh tề. Sau khi nghe Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi nói xong bài kệ, ngài A-Nan đứng dậy và sửa y phục cho chỉnh tề - vuốt vạt áo lại cho thẳng nếp, kéo cổ áo lại cho ngay ngắn, chứ không để cho có vẻ xốc xếch, lôi thôi.

    Rồi từ chỗ đại chúng chắp tay đảnh lễ. Chỉnh đốn y phục xong, ngài A-Nan từ trong chỗ đại chúng chắp tay lại và hướng về phía Đức Phật mà lạy. Tâm địa sáng suốt. Lúc này, tâm trí ngài A-Nan rất “viên minh,” sáng suốt, chứ không hồ đồ như trước nữa; và ngài lại cảm thấy vừa buồn vừa vui, vừa muốn khóc mà lại muốn cười. “Buồn”, tức là muốn khóc. Ngài A-nan rất dễ khóc; ngài đã khóc rất nhiều lần kể từ phần đầu của bộ kinh. Bây giờ ngài vẫn muốn khóc nữa, nhưng đồng thời lại cũng muốn cười – hai trạng thái buồn và vui xen lẫn với nhau. “Buồn” (bi), ngài A-Nan buồn chuyện gì? Trường hợp này gọi là “vui quá hoá buồn” (lạc cực sanh bi) – ngài vui mừng quá đỗi: “Vậy là mình đã có được Phật Pháp! Mình đã hiểu được Phật Pháp chân chánh rồi!” Vui đến cực điểm thì sanh ra buồn. “Vui” (hân), ngài A-Nan vô cùng vui mừng, từ trước đến nay ngài chưa bao giờ cảm thấy vui mừng đến thế. Bởi được chân chánh hiểu rõ Phật Pháp là một điều đáng vui mừng nhất, cho nên ngài A-Nan mới “vừa buồn vừa vui” như vậy.

    Và vì muốn lợi ích cho các chúng sanh đời sau, nên ngài cúi lạy và thưa với Phật... Song, nếu chỉ có riêng mình hiểu được mà thôi thì ngài A-Nan thấy vẫn còn chưa đủ; ngài còn muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh trong đời vị lai nữa. Do đó, ngài sụp lạy Đức Phật rồi nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn đại từ bi! Con nay đã tỏ ngộ Pháp môn Thành Phật. Bây giờ con đã thấu hiểu được Pháp-môn để thành Phật này rồi.” “Tỏ ngộ” có nghĩa là hiểu rõ, thông suốt.

    “Trong sự tu hành được không còn nghi hoặc. Con tuyệt đối không bao giờ còn nghi chấp gì về phương pháp tu hành này nữa.”



    Kinh Văn:


    Hán Việt: “Thường văn Như Lai thuyết như thị ngôn: ‘Tự vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ-tát phát tâm. Tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như-Lai ứng thế.’ Ngã tuy vị độ, nguyện độ Mạt-kiếp nhất thiết chúng sanh.”

    Việt: “Con thường nghe Như-Lai dạy như vầy: ‘Chính mình chưa được độ mà độ cho người khác trước, ấy là Bồ-tát phát tâm. Phần tự-giác đã viên mãn lại có thể thức tỉnh kẻ khác, đó là Như-Lai ứng thế.’ Con tuy chưa tự độ được, nhưng con nguyện sẽ độ tất cả chúng sanh trong thời Mạt-kiếp.”



    Giảng nghĩa:


    “Con thường nghe Như-Lai dạy như vầy ....” Ngài A-Nan thường lấy lời của Phật để dẫn chứng cho những điều mà ngài muốn đề cập tới. Ở đây, ngài A-Nan nói ngài được nghe Đức Phật lúc thuyết Pháp có dạy rằng: “Chính mình chưa được độ mà độ cho người khác trước, ấy là Bồ-Tát phát tâm. Bản thân mình tuy chưa được độ thoát, chưa đắc Đạo, nhưng lại biết hóa độ cho kẻ khác trước – đó chính là sự phát tâm của bậc Bồ-tát vậy. Và, “phần tự giác đã viên mãn lại có thể thức tỉnh kẻ khác, đó là Như-Lai ứng thế.” Khi sự giác ngộ của chính mình đã được trọn vẹn, bèn vận dụng các đạo lý mà mình tự giác ngộ được để thức tỉnh những người khác, khiến cho họ cũng trở nên giác ngộ - đó chính là công việc của Phật, là những gì Phật làm khi ứng thân ở thế giới này vậy.

    Ngài A-Nan thưa tiếp: “Con tuy chưa tự độ được, nhưng con nguyện sẽ độ tất cả chúng sanh trong thời Mạt kiếp. Bản thân con vẫn chưa được độ, chưa đắc Đạo, tuy nhiên, con mong rằng hết thảy chúng sanh thời Mạt-kiếp đều được độ thoát, đều được hưởng những lợi ích của Phật Pháp.”



    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Thế Tôn! Thử chư chúng sanh, khứ Phật tiệm viễn; tà sư thuyết pháp, như Hằng-hà sa. Dục nhiếp kỳ tâm, nhập Tam-ma-địa, vân hà linh kỳ an lập đạo tràng, viễn chư ma sự, ư Bồ-đề tâm đắc vô thối khuất?”

    Việt: “Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh ấy cách Phật xa dần, mà tà-sư thuyết pháp thì nhiều như cát sông Hằng. Con muốn cho các chúng sanh ấy biết nhiếp tâm và nhập Tam-ma-địa. Vậy, làm thế nào để khiến họ được an lập nơi đạo tràng, lánh xa mọi ma sự và tâm Bồ-đề được không thối khuất?”



    Giảng nghĩa:


    “Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh ấy cách Phật xa dần. Tất cả chúng sanh trong thời Mạt Pháp ấy dần dần cách xa Đức Phật, thậm chí cũng cách xa cả Phật Pháp nữa, mà tà-sư thuyết pháp thì nhiều như cát sông Hằng.” Hiện tại chính là thời đại “tà-sư thuyết pháp.” Thế nào gọi là “tà sư”? Họ là hạng người không hiểu mà nói hiểu, chưa khai ngộ mà tự xưng là đã khai ngộ, chưa chứng quả vị mà tự xưng là đã chứng quả vị.

    Có lần tôi hỏi một người cũng huênh hoang như thế rằng: “Ông đã chứng Sơ-quả, Nhị-quả, Tam-quả, hay là Tứ-quả? Ông đã chứng được quả vị nào vậy? Ông khai ngộ rồi ư? Ông khai ngộ cái gì vậy? Ông nói ông đã chứng quả, chẳng hay là chứng cái ‘quả’ chi?”; thì ông ta chỉ lặng thinh không đáp!

    Tôi lại hỏi: “Ông đã là Phật rồi thì tại sao ngay cả quả vị mà ông còn chưa chứng đắc? Ông làm cách nào mà chạy đến chỗ Phật được thế?”

    Ông ta chẳng những tự phong cho mình là Phật mà còn tuyên bố rằng “everybody is a Buddha,” mọi người đều là Phật cả rồi! Những người như thế được gọi là “tà sư” - họ đã phạm phải tội “đại vọng ngữ,” một tội nói dối rất nghiêm trọng ! Người Trung-Hoa gọi hạng người chuyên môn khoe khoang, khoác lác là “đại pháo” (súng đại bác), nói theo tiếng Quảng-đông là “xa đại pháo.”

    Vì để hộ trì Phật Pháp, cho nên bất luận quý vị có hiểu Phật Pháp hay không, hãy nhớ là đừng bao giờ làm tà-sư! Có một nữ cư sĩ họ Lý nọ, khi có người hỏi về Phật Pháp thì bà đáp: “Tôi già cả rồi, tôi quên hết rồi!” Bà ta hoàn toàn không hề học tới, thế thì làm sao mà “quên” được? “Quên” cái gì? Có biết gì đâu để mà “quên”!? Bà ta hiển nhiên là chẳng hiểu gì cả, nhưng vì không muốn thú nhận là mình không hiểu nên mới nói tránh là “quên rồi.” Đó chẳng qua là luận điệu dối gạt thiên hạ mà thôi! “Tri chi vi tri chi” – biết tức là biết, không biết tức là không biết. Chớ nên hoàn toàn không hiểu gì cả mà lại nói là mình “quên”, bởi vì như thế thì cũng gần như là “tà-sư” rồi!

    Tà-sư khi nói chuyện thì chuyên môn có tâm phan-duyên và giảng toàn những điều sai trái, không đúng đắn. Chẳng hạn như dâm dục là không đúng, thì họ lại tán dương: “Đúng! Đó là pháp môn kỳ diệu nhất,” khiến cho người ta bị rối trí, mê muội, không thể tìm thấy chân lý. Lấy phải làm trái, đúng nói không đúng, không đúng nói đúng - những kẻ như thế gọi là tà sư. Đầu óc họ đầy dẫy những tà tri tà kiến; cái biết và cái thấy của họ đều không chánh đáng – cái gì “chánh” thì họ nói là không đúng, còn cái gì “tà” thì họ lại bảo là hay nhất!

    Ngài A-Nan bạch với Đức Phật rằng: “Vào thời Mạt Pháp, số tà-sư thuyết pháp sẽ nhiều như cát sông Hằng. Thế nhưng, vào thời điểm đó, con muốn cho các chúng sanh ấy biết nhiếp tâm, sanh khởi chánh tri chánh kiến, và nhập Tam-ma-địa, đắc được Chánh-định. Vậy, làm thế nào để khiến họ được an lập nơi đạo-tràng, lánh xa mọi ma-sự? Làm thế nào mới có thể khiến cho các chúng sanh ấy được sống yên ổn ở chốn đạo tràng và tránh được mọi ma sự?” Có nhiều kẻ thuộc tà ma ngoại đạo chuyên nói những lời gạt gẫm, lừa đảo người khác. Họ nói về vấn đề sắc dục giữa nam nữ và còn bảo rằng hễ dục vọng càng nặng bao nhiêu thì thành Phật càng nhanh bấy nhiêu! Điều đó hoàn toàn sai lầm, và đó chính là một thứ tà tri tà kiến! Vì vậy, mọi người phải đặc biệt chú ý đến điểm này, đừng để bị mắc lừa! Đối với Phật Pháp chân chánh thì nói chuyện dâm dục là sai, là không phải Phật Pháp; lối nói ấy chính là “ma sự” vậy!

    “Và tâm Bồ-đề được không thối khuất?” Làm thế nào để tâm Bồ-đề của các chúng sanh trong thời Mạt-kiếp khỏi bị thối thất nữa? Có nhiều người học Phật nhưng học chưa được bao lâu thì tâm Bồ-đề của họ đã thối chuyển; họ than vãn: “Chịu thôi! Tôi không muốn học Phật Pháp nữa! Học Phật Pháp sao mà khó thế, cứ toàn là phải trừ bỏ những thói hư tật xấu. Tôi không dứt bỏ được các thói hư tật xấu thì biết phải làm sao bây giờ?” Thế là họ bỏ cuộc, không học Phật Pháp nữa. Đó gọi là bị “thối thất Bồ-đề tâm” – cái tâm Bồ-đề đã thối chuyển, đã rút lui rồi.

    “Khuất” là khuất phục, nghĩa là không còn lòng tinh tấn, hăng hái nữa; và cũng có nghĩa là bại trận, thua cuộc. Như khi Nhật-Bản đầu hàng (trong Đệ Nhị Thế Chiến) tức là họ đã chịu khuất phục vậy. Không có chí khí, để cho ma quỷ chiến thắng – đó cũng gọi là chịu khuất phục. Vậy thì làm thế nào mới có thể khiến cho các chúng sanh trong thời Mạt-kiếp không còn bị thối thất tâm Bồ-đề nữa?



    Kinh Văn:

    Hán Việt: Nhĩ thời Thế Tôn, ư đại chúng trung, xưng tán A Nan : “Thiện tai! Thiện tai! Như nhữ sở vấn an lập đạo tràng, cứu hộ chúng sanh Mạt-kiếp trầm nịch; nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.”

    A Nan , đại chúng, duy nhiên phụng giáo.

    Việt: Bấy giờ Đức Thế-Tôn khen ngợi ngài A-Nan ngay giữa đại-chúng: “Lành thay! Lành thay! Như ông vừa hỏi về sự an lập đạo tràng và cứu giúp những chúng sanh bị chìm đắm trong thời Mạt-kiếp; nay ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói.”

    Ngài A-Nan và đại-chúng đồng vâng theo lời dạy.



    Giảng nghĩa:

    Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi ngài A-Nan ngay giữa đại-chúng. “Bấy giờ” tức là ngay sau khi Đức Thế-Tôn nghe ngài A-Nan thỉnh vấn về việc làm thế nào để chúng sanh thời Mạt-kiếp có thể lánh xa các tà-sư thuyết pháp, tránh được mọi ma-sự, và không bị thối thất tâm Bồ-đề nữa. Học Phật Pháp, quan trọng nhất là không được mới học có vài ba hôm là muốn nghỉ, không học nữa; mà cần phải luôn luôn và mãi mãi có lòng tinh tấn: “Tôi muốn học Phật Pháp. Đời đời kiếp kiếp, tôi lúc nào cũng muốn học Phật Pháp.” Ngoài ra, cần phải lập nguyện nhất định hộ trì Phật giáo, nhất định tu hành và học tập Phật Pháp – cái tâm Bồ-đề này phải vĩnh viễn không bao giờ thối chuyển. Song, làm thế nào để được như thế?

    Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tỏ ra vui mừng khi nghe ngài A-Nan hỏi về vấn đề này. Vì sao Đức Phật vui mừng? Tuy nói rằng Phật thì “như như bất động,” nhưng khi có người phát tâm muốn ủng hộ Phật Pháp và giúp cho kẻ khác thành Phật, thì Phật cũng thấy vui mừng, cũng thấy hoan hỷ! Do đó, Đức Phật khen Tôn-giả A-Nan ngay trước toàn thể đại chúng rằng: “Lành thay! Lành thay! A-Nan khá lắm! A-Nan khá lắm!” Đức Phật nói “lành thay, lành thay” như thế tức là tấm tắc khen ngợi ngài A-Nan hai lần: “Ông khá lắm! Ông quả thật là một đệ tử tốt!”

    “Như ông vừa hỏi về sự an lập đạo-tràng và cứu giúp những chúng sanh bị chìm đắm trong thời Mạt-kiếp. Vào thời Mạt-kiếp (Mạt Pháp), nếu ông muốn cứu vớt những chúng sanh bị chìm đắm trong cảnh “nước sôi lửa bỏng,” thì nay ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói. Bây gìờ ông hãy chú ý nghe cho kỹ, Ta sẽ giảng cho ông rõ.”

    Ngài A-Nan và đại-chúng đồng vâng theo lời dạy. Ngài A-Nan nghe Phật sắp thuyết Pháp thì càng vui mừng hơn nữa, cho nên ngài và đại-chúng đều đồng lòng vâng lời Phật dạy. Ắt hẳn là lúc bấy giờ Đức Phật hỏi: “Các ông có muốn nghe chăng?”; và mọi người đồng thanh đáp: “Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng con đều muốn được nghe!”--ai nấy cùng nhau “y giáo phụng hành.”

    Tà-sư khi nói pháp thì chuyên môn nói về chuyện dâm dục, và những điều họ nói đều không đúng với đạo lý - về điểm này, mọi người cần phải biết phân biệt cho rõ ràng. Ở cảnh giới của bậc Bồ-tát, lắm lúc các ngài cũng dùng cái tâm “từ bi ái hộ chúng sanh.” Vì biết rằng tất cả chúng sanh đều có dục niệm rất nặng nề, cho nên ngay từ lúc mới bắt đầu giáo hoá họ, bậc Bồ-tát không đòi hỏi họ phải đoạn tuyệt lòng ái-dục (hay tâm dâm dục) liền, mà chỉ dùng vô số pháp môn phương tiện để làm cho họ tự có cái nhìn thấu đáo về dâm dục, rồi tự ý đình chỉ cái tâm ấy. Đó là cảnh giới của bậc Bồ-tát, hoàn toàn khác hẳn với cảnh giới của hàng tà-sư ngoại đạo; vì vậy, mọi người cần phải hiểu cho tường tận điểm này.

    Có lần Quán-Thế-Âm Bồ-tát thị hiện làm một người con gái cực kỳ xinh đẹp đến nỗi tất cả đàn ông vừa gặp mặt cô là sanh lòng yêu thích ngay. Nhân đó, cô bảo họ niệm Phật, tu hành, và rốt cuộc đã khiến cho những chúng sanh ấy đều được thành Phật. Trước kia, lúc giảng Phẩm Phổ-Môn (trong Kinh Pháp Hoa), tôi cũng có nhắc đến chuyện “Quán Âm Bán Cá.” “Quán-Âm Bán Cá” là chuyện về một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, thường mang giỏ cá đi bán trong một ngôi làng mà cư dân vốn hoàn toàn không tin theo đạo Phật. Khi gặp một cô gái đẹp đẽ như thế thì trai tráng trong làng đều nổi lòng tham, người nào cũng ao ước được cưới cô làm vợ. Tuy rằng dân trong làng ấy không đông lắm nhưng cũng có tới trên một trăm thanh niên, vì thế cô gái “Quán-Âm Bán Cá” bèn nói với họ: “Phận tôi thân gái không thể nào kết hôn cùng cả trăm người được, vậy giờ tôi xin dùng cách này để kén chồng: Trong hơn một trăm quý ông đây, hễ người nào học thuộc được Phẩm Phổ-Môn trước nhất thì tôi sẽ kết duyên với người ấy. Bây giờ quý ông hãy về nhà mà học đi, tôi cho quý ông thời hạn là ba ngày thôi đấy.”

    Thế là hơn một trăm thanh niên, người nào cũng lấy một bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Phổ-Môn Phẩm (tức là phẩm thứ hai mươi lăm của bộ Kinh Pháp Hoa) để về học. Hết kỳ hạn ba hôm thì có khoảng bốn, năm chục người đã thuộc được; như vậy là hơn một trăm người “dự thi” lúc ban đầu thì bây giờ còn lại khoảng một nửa. Người này nói đã thuộc rồi, người kia cũng bảo đã học xong; tất cả có hơn năm mươi người học thuộc được Phẩm Phổ-Môn. “Quán-Âm Bán Cá” bèn nói: “Bây giờ vẫn còn quá nhiều. Mặc dù hơn năm mươi quý ông đây đều thuộc Phẩm Phổ-Môn cả, song tôi không thể kết hôn với cả năm mươi người được! Tôi chỉ có thể kết hôn với một người mà thôi. Thôi thì bây giờ quý ông hãy trở về đi, tôi lại cho quý ông thời hạn năm ngày để học Kinh Kim-Cang, ai thuộc được thì tôi sẽ cùng người ấy kết duyên.”

    Hơn năm mươi “thí sinh” ấy quay về và miệt mài học Kinh Kim Cang; và sau năm ngày thì có hơn hai mươi người đã học thuộc. Thiếu nữ bán cá lại nói: “Thế này thì vẫn còn đông quá, tôi không thể kết hôn với nhiều người như vậy được. Bây giờ tôi lại có một điều kiện: Tôi kỳ hạn cho quý ông bảy ngày, hễ ai học thuộc được bộ Kinh Pháp Hoa thì tôi sẽ kết hôn với người ấy. Lần này, tôi tin rằng người học thuộc sẽ được toại nguyện.”

    Như thế là hơn hai mươi người này và luôn cả những người đã dự thi khi trước lại cùng nhau cặm cụi học Kinh Pháp Hoa; và nội trong bảy ngày thì có một người có thể tụng nhuần nhuyễn và thuộc nằm lòng được trọn bộ kinh. Người này họ Mã, xuất thân từ một gia đình rất giàu có. Anh ta nói là mình đã “trúng tuyển,” chắc chắn sẽ cưới được cô gái bán cá xinh đẹp, nên gởi thiệp mời thân thuộc đến dự lễ thành hôn của mình. Không ngờ sau lễ gia tiên, vừa vào phòng tân hôn thì cô gái xinh đẹp ấy lại bị lên cơn đau tim mà chết. Chàng thanh niên họ Mã đã hao tổn biết bao tinh thần - học thuộc Phẩm Phổ Môn, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa - mới cưới được vợ, thế mà vừa vào phòng tân hôn thì cô dâu lại đột ngột ngã ra chết!

    Khi đưa đám tang cô gái ấy thì có một vị Sư mặc áo dài màu đỏ tía xuất hiện và hỏi: “Chẳng hay quý vị đang làm gì vậy?” Tang gia đáp: “Cô dâu mới cưới về bỗng dưng mắc bệnh mà chết đột ngột, bây giờ chúng tôi đang đưa đám cô ta đây!”

    Vị Sư nói: “Không đúng! Cỗ quan tài kia hoàn toàn trống rỗng, sao lại bảo là có người chết nằm trong đó? Quý vị không tin thì hãy mở ra xem đi!” Mở nắp quan tài ra thì bên trong quả nhiên trống không – thi hài của cô gái bán cá được đặt nằm trong áo quan bây giờ chẳng thấy đâu nữa! Thấy thế, ai nấy đều kinh ngạc bảo nhau: “Vậy thì cô ấy đi đâu? Hãy mau mau đuổi theo! Phải tìm cho ra cô ấy và đưa về đây, nhanh lên!”

    Bấy giờ, vị Sư giải thích: “Thật ra cô gái ấy chính là Quán-Thế-Âm Bồ-tát thị hiện đấy. Bởi dân chúng ở địa phương này không tin Phật nên Bồ-tát mới thị hiện làm một thiếu nữ xinh đẹp khiến cho những kẻ háo sắc như các ông say mê mà chịu học Phật Pháp. Nay các ông đã chịu học rồi thì Bồ-tát ra đi thôi!” Nghe xong, “chú rể” họ Mã chợt tỉnh ngộ: “Ồ, thì ra là vậy!” Thế rồi, khi đã nhìn thấu suốt được mọi chuyện ở thế gian, anh ta quyết định xuất gia, tinh tấn tu hành và sau đó chứng được Thánh-quả.



    Kinh Văn:


    Hán Việt: Phật cáo A-Nan: “Nhữ thường văn ngã Tỳ-nại-da trung, tuyên thuyết tu hành tam quyết định nghĩa. Sở vị nhiếp tâm vi Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ; thị tắc danh vi Tam Vô-Lậu Học.”

    Việt: Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ-nại-da. Đó là: Nhiếp tâm là giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.”



    Giảng nghĩa:


    Khi toàn thể Đại-chúng trong Pháp-hội đều đồng lòng vâng theo lời dạy, Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ-nại-da.” “Tỳ-nại-da” (Vinaya) tức là Luật-tạng của Đại-thừa và Tiểu-thừa, trong đó chuyên giảng về Giới-luật của Đại-thừa và Giới-luật của Tiểu-thừa.

    Đức Phật nói với ngài A-Nan rằng: “Ông luôn luôn được nghe những gì Ta nói. Vậy khi Ta giảng về các đạo lý trong Giới-luật, hẳn ông đã từng nghe Ta nêu ra những đạo lý tu hành này. Tu hành thì cần phải căn cứ theo ba nghĩa quyết định--ba điều cố định, bất biến, dứt khoát không thể sửa đổi. Vậy, ba nghĩa quyết định đối với sự tu hành này là gồm những gì? Đó là: Nhiếp tâm là Giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ.” Ba nghĩa quyết định này là về Giới, Định và Huệ. “Nhiếp” tức là nhiếp thủ, nhiếp trì, có nghĩa là thâu giữ, thu hút, giống như đá nam-châm hút sắt vậy.

    Thế nào gọi là “nhiếp tâm”? Tâm của chúng ta, đặc biệt là cái tâm phan-duyên, suốt ngày chỉ toàn âm mưu, toan tính chuyện lợi dụng người khác, nghĩ cách kết thân với những người giàu có hoặc có thế lực để dựa dẫm, trục lợi. Lúc nào cũng nghĩ ngợi những chuyện như thế tức là có tâm phan-duyên, và chính là không nhiếp tâm. “Nhiếp tâm” có nghĩa là thâu hồi cái tâm phan-duyên trở lại, không cho nó đi “phan duyên,” không để cho nó chạy rông nữa. Thế nhưng, cái tâm này, quý vị không muốn nó chạy, nó cũng tự động chạy; quý vị bảo nó đừng khởi vọng tưởng, song chưa tới một phút là vọng tưởng lại ùn ùn dấy lên rồi! Vọng tưởng này ngừng thì vọng tưởng kia dấy khởi, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh; niệm sau vừa diệt thì niệm sau nữa lại sanh – đó chính là cái tâm phan-duyên “niệm niệm chẳng ngừng” vậy.

    Thế thì bây giờ phải làm sao? Phải nhiếp trì tâm phan-duyên--thâu nhiếp cái tâm ấy trở lại và giữ nó ở yên một chỗ! Chúng ta sở dĩ không thể thành Phật, không thể khai ngộ, không thể liễu Đạo, chính là vì chúng ta chưa khống chế được cái tâm này. Nếu khống chế được cái tâm này, giữ được nó ở yên một chỗ, thì chẳng có chuyện gì mà chúng ta không làm được; và bấy giờ, mọi việc đều thành công, mọi sự đều thành tựu. Cho nên, trước hết, chúng ta cần phải thâu nhiếp và chế ngự cái tâm phan-duyên; và đó chính là Giới, tức là biện pháp để “chỉ ác phòng phi” (chấm dứt điều ác và ngăn ngừa sự sai trái).

    Trước hết, quý vị cần phải có được Giới. Có được Giới thì cũng giống như chậu nước đục được để yên, không bị khuấy động. Khi không còn chao động nữa thì đất cát từ từ lắng xuống đáy chậu, nước trở nên trong trẻo. Đó là “do Giới sanh Định” vậy. “Định” tức là không dao động, không chao đảo. Do không dao động mà sanh ra “Định.” Khi không còn bị dao động, lay chuyển nữa, tức là có được Định rồi, thì sẽ “do Định phát Huệ”; như lời Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi:

    “Sạch tột, sáng thông suốt.”

    (Tịnh cực, quang thông đạt.)

    Hễ trong sạch tới cực điểm thì tự nhiên ánh sáng sẽ soi tỏ, xuyên suốt tất cả; “quang thông đạt” tức là được khai ngộ. “Do Định phát Huệ” nghĩa là từ trong Định sẽ nảy sanh trí huệ chân chánh.

    “Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.” Giới, Định và Huệ được gọi chung là ba môn học vô-lậu. Nếu quý vị giữ Giới thì sẽ có được Định, và từ Định sẽ nảy sanh Trí-huệ.



    Kinh Văn:

    Hán Việt: “A-Nan! Vân hà nhiếp tâm ngã danh vi Giới?”

    Việt: “A-Nan! Vì sao Ta gọi nhiếp tâm là Giới?”



    Giảng nghĩa:


    Đức Phật lại gọi: “A-Nan! Vì sao Ta gọi nhiếp tâm là Giới? Nhiếp tâm còn được gọi là gì? Ta đặt cho sự ‘nhiếp tâm’ cái tên Giới là có ý nghĩa gì? Bây giờ Ta sẽ nói cho ông rõ.”

    (Còn tiếp)
    Last edited by ngoc.khanh198; 29-03-2008 at 11:19 PM.
    Hôm nay là ngày đầu tiên của quãng đời còn lại :ciao:

  2. #2

    Mặc định Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng(Kinh Lăng Nghiêm)

    Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu, tức là ăn cắp, và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể! Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh.


    Hòa Thượng Tuyên Hóa

  3. #3

    Mặc định Tam Vô-Lậu Học

    Tam Vô-Lậu Học:

    ” Giới, Định và Huệ "được gọi chung là ba môn học vô-lậu.

    Nếu quý vị giữ Giới thì sẽ có được Định, và từ Định sẽ nảy sanh Trí-huệ.

  4. #4

    Mặc định đạo lý tu hành

    Tu hành thì cần phải căn cứ theo ba nghĩa quyết định--ba điều cố định, bất biến, dứt khoát không thể sửa đổi. Vậy, ba nghĩa quyết định đối với sự tu hành này là gồm những gì? Đó là: Nhiếp tâm là Giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ.” Ba nghĩa quyết định này là về Giới, Định và Huệ. “Nhiếp” tức là nhiếp thủ, nhiếp trì, có nghĩa là thâu giữ, thu hút, giống như đá nam-châm hút sắt .

  5. #5

    Mặc định Nhiếp tâm

    Thế nào gọi là “nhiếp tâm”? Tâm của chúng ta, đặc biệt là cái tâm phan-duyên, suốt ngày chỉ toàn âm mưu, toan tính chuyện lợi dụng người khác, nghĩ cách kết thân với những người giàu có hoặc có thế lực để dựa dẫm, trục lợi. Lúc nào cũng nghĩ ngợi những chuyện như thế tức là có tâm phan-duyên, và chính là không nhiếp tâm. “Nhiếp tâm” có nghĩa là thâu hồi cái tâm phan-duyên trở lại, không cho nó đi “phan duyên,” không để cho nó chạy rông nữa. Thế nhưng, cái tâm này, quý vị không muốn nó chạy, nó cũng tự động chạy; quý vị bảo nó đừng khởi vọng tưởng, song chưa tới một phút là vọng tưởng lại ùn ùn dấy lên rồi! Vọng tưởng này ngừng thì vọng tưởng kia dấy khởi, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh; niệm sau vừa diệt thì niệm sau nữa lại sanh – đó chính là cái tâm phan-duyên “niệm niệm chẳng ngừng” vậy.

  6. #6

    Mặc định Nhiếp trì tâm phan-duyên

    Thế thì bây giờ phải làm sao? Phải nhiếp trì tâm phan-duyên--thâu nhiếp cái tâm ấy trở lại và giữ nó ở yên một chỗ! Chúng ta sở dĩ không thể thành Phật, không thể khai ngộ, không thể liễu Đạo, chính là vì chúng ta chưa khống chế được cái tâm này. Nếu khống chế được cái tâm này, giữ được nó ở yên một chỗ, thì chẳng có chuyện gì mà chúng ta không làm được; và bấy giờ, mọi việc đều thành công, mọi sự đều thành tựu. Cho nên, trước hết, chúng ta cần phải thâu nhiếp và chế ngự cái tâm phan-duyên; và đó chính là Giới, tức là biện pháp để “chỉ ác phòng phi” (chấm dứt điều ác và ngăn ngừa sự sai trái).

  7. #7

    Mặc định Tịnh cực, quang thông đạt

    Trước hết, quý vị cần phải có được Giới. Có được Giới thì cũng giống như chậu nước đục được để yên, không bị khuấy động. Khi không còn chao động nữa thì đất cát từ từ lắng xuống đáy chậu, nước trở nên trong trẻo. Đó là “do Giới sanh Định” vậy. “Định” tức là không dao động, không chao đảo. Do không dao động mà sanh ra “Định.” Khi không còn bị dao động, lay chuyển nữa, tức là có được Định rồi, thì sẽ “do Định phát Huệ”; như lời Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi:

    “Sạch tột, sáng thông suốt.”

    (Tịnh cực, quang thông đạt.)

    Hễ trong sạch tới cực điểm thì tự nhiên ánh sáng sẽ soi tỏ, xuyên suốt tất cả; “quang thông đạt” tức là được khai ngộ. “Do Định phát Huệ” nghĩa là từ trong Định sẽ nảy sanh trí huệ chân chánh.

  8. #8
    Đai Nâu Avatar của ngoc.khanh198
    Gia nhập
    Nov 2007
    Nơi cư ngụ
    Đâu đó ở Ta Bà
    Bài gởi
    341

    Mặc định

    Không Dâm Tâm

    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Nhược chư thế giới Lục-đạo chúng sanh, kỳ tâm bất dâm, tắc bất tùy kỳ sanh tử tương tục.”

    Việt: “Nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.”

    Giảng nghĩa:

    “Nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.” Giả sử tại mọi thế giới, tất cả những chúng sanh trong sáu cõi là cõi trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, và cõi súc sanh, đều không còn lòng dâm dục, hết sạch dục niệm, thì dòng sanh tử của họ sẽ dứt hẳn, họ sẽ không còn bị tùy thuộc vào dòng sanh tử cứ tiếp diễn liên tục, không hề gián đoạn đó nữa -- sự sanh tử của họ được chấm dứt.


    Kinh Văn: Hán Việt: “Nhữ tu Tam-muội, bổn xuất trần lao, dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất.”

    Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm-dục thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”


    Giảng nghĩa:

    “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao.” “Ông” ở đây là chỉ ngài A-Nan. Đức Phật nói rằng: “Này A-Nan! Ông tu Định-lực cốt yếu là để vượt thoát trần-lao, ra khỏi sanh tử; nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm dục thì chẳng thể ra khỏi trần lao. Nếu ông không đoạn trừ cái tâm dâm dục thì việc thoát khỏi trần-lao là chuyện chẳng thể có được, không thể nào thực hiện được! Vì sao? Vì tâm dâm dục chính là ‘trần’ (bụi bặm), tức là một thứ ‘trần lao’ kia mà! Do đó, đừng nói là vi phạm bằng hành động, chỉ cần trong lòng ông dấy khởi một ý tưởng dâm dục, có cái dâm-tâm tồn tại, thì đó cũng chính là trần-lao rồi, và như thế là ông cũng vẫn chưa thoát ra khỏi nó được. Cho nên, nếu muốn tu Đạo, muốn được khai ngộ thành Phật, mà lại không chịu dứt bỏ dâm-tâm, thì là chuyện chẳng thể nào xảy ra được.”

    Do vậy, chỉ có những kẻ vô cùng si mê mới vừa muốn giữ cái tâm dâm dục lại vừa muốn được khai ngộ. Tư tưởng này thuộc loại ngu si tột đỉnh, và những người mang tư tưởng này là những kẻ khó có thể giáo hóa nhất; cho dù bây giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có giáng thế đi chăng nữa thì Ngài cũng không có cách nào làm cho họ đắc Đạo hay chứng quả vị được cả! Cho nên, hạng người này là ngu dốt nhất, si mê nhất!


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Túng hữu đa trí, Thiền-định hiện tiền, như bất đoạn dâm, tất lạc Ma-đạo, thượng phẩm Ma-vương, trung phẩm ma-dân, hạ phẩm ma-nữ.”

    Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”


    Giảng nghĩa:

    “Dầu có đa trí, Thiền định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo.” Đức Phật lại bảo ngài A-Nan : “Cho dù ông có trí huệ và hễ ngồi Thiền là đạt được cảnh giới khinh an, cảm thấy tốt đẹp vô cùng, nhưng nếu ông không đoạn trừ tâm dâm dục thì ông sẽ bị trở thành Ma-vương.” “Thiền định hiện tiền” tức là đã có khả năng nhập Định, công phu đã có chỗ thành tựu.

    “Thượng phẩm thì làm Ma-vương.” Làm ma thì bậc cao nhất là gì? Đó là làm Ma-vương ở Lục Dục Thiên. “Trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma nữ.” Bậc trung bình của loài ma là gì? Là ma dân, tức là dân chúng bình thường của loài ma. Còn bậc thấp kém nhất của ma đạo là gì? Là ma nữ, tuy là xinh đẹp nhưng vô cùng hèn hạ. Về điểm này, người có trí huệ cần phải thận trọng và người thông minh cần phải chú ý! Đừng để cho mình bị hại bởi sự thông minh của chính mình, đừng tự cho mình là tài giỏi, phi thường: “Các người không hiểu được đâu, chỉ có tôi mới hiểu nổi! Các người không biết gì cả, chỉ có tôi mới biết rành rẽ mà thôi!” Đó chẳng qua chỉ là thứ “tiểu trí tiểu huệ,” cái hiểu biết hạn hẹp, nông cạn. Song, cái “tiểu trí tiểu huệ” ấy của quý vị có thể huỷ hoại cả tiền đồ của chính quý vị đấy!


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Bỉ đẳng chư ma, diệc hữu đồ chúng, các các tự vị thành Vô-thượng Đạo.”

    Việt: “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”


    Giảng nghĩa:

    Quý vị xem, hạng người có chút “tiểu trí tiểu huệ” ấy vì không đoạn trừ dâm-tâm nên nói toàn những chuyện ái dục – anh yêu em, em yêu anh - cứ yêu qua yêu lại như thế rồi cuối cùng họ thành ma luôn! Thành ma rồi thì sao nữa?

    “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng.” Chúng ma ấy cũng có đồ đệ, cũng có kẻ ủng hộ chúng. “Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Bản thân loài ma không biết xấu hổ, kẻ nào cũng tự xưng rằng: “Tôi chính là Phật! Chúng tôi đây đều là những đấng tối cao, vô thượng!” Hễ cái gì là to lớn, thì chúng xưng chúng là cái đó. Chúng vốn là ma nhưng lại không chịu thừa nhận mình là ma, mà cứ xưng là Phật. Phật thì cũng có Phật giả mạo vậy. Trên thế gian này cái gì cũng có giả được cả, cho nên loài ma cũng có thể làm ông Phật giả. Song le, chúng không chịu nhận chúng là thứ giả. Chúng cho rằng chúng là thứ thiệt, và cũng là “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý) nữa!


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Ngã diệt độ hậu, Mạt Pháp chi trung, đa thử ma-dân xí thạnh thế gian, quảng hành tham dâm, vi Thiện-tri-thức, linh chư chúng sanh lạc ái kiến khanh, thất Bồ-đề lộ.”

    Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.”


    Giảng nghĩa:

    Trước khi nhập diệt, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: “Hiện nay Ta còn ở tại thế gian thì bè lũ Ma-vương không dám xuất hiện. Song le, sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, lúc Phật Pháp đang ở vào giai đoạn tàn lụn, thì sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm.” “Thời Mạt Pháp” chính là thời đại của chúng ta hiện nay. Vào thời điểm này, loại ma-dân ấy rất đông đúc và chúng đi khắp nơi nói chuyện dâm dục. Bất luận nam hay nữ, kẻ nào cũng ưa thích dâm dục và đồng thời cũng muốn thành Phật, muốn được khai ngộ.

    Làm sao tôi nhận biết được “con ma” loại này ư? Trước kia, có lần tôi gặp một người nọ - không cần phải đề cập đến tên của ông ta - tự xưng mình là Phật. Khi tôi nói rằng ông ta là ma, ông ta liền hỏi lại: “Ai là ma?” Tôi đáp: “Ông chính là ma đấy!” Vì sao tôi biết được ư? Vì ông ta cứ giở những trò của ma! Ông ta chuyên môn nói chuyện tình cảm, yêu đương; lúc nào cũng: “I love everybody.” Ông ta lấy tư cách gì mà thương yêu tất cả mọi người? Thật là không biết xấu, không biết hổ thẹn!

    Thời Mạt Pháp, ma-dân nhan nhản khắp nơi khiến cho thế gian này như trong cơn hỏa hoạn, đâu đâu cũng rừng rực ngọn lửa dâm dục. Những người thiếu hiểu biết đều hùa theo bọn chúng: “Họ nói nghe được lắm! Những điều họ nói đều rất có lý!” Đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi, ai nấy đều cảm thấy những điều chúng nói rất “tâm đầu ý hợp.” Có câu:

    «Cùng mùi thối thì hợp nhau. »

    (Xú vị tương đầu.)

    Người này thì hôi hám, người kia cũng thối tha, bởi “cá mè một lứa” cho nên người này bảo người kia giỏi, người nọ khen người này hay. Nếu không cùng “mùi,” chẳng cùng sở thích, thì sẽ không khen ngợi lẫn nhau ; bởi:

    « Khác chí hướng ắt không cùng nhau mưu sự được. »

    (Đạo bất đồng tắc bất tương vi mưu.)

    Tuy nhiên, nếu chí hướng giống nhau, lối suy nghĩ giống nhau, thì sẽ có trường hợp “người mù dắt người đui” xảy ra. “Người mù dắt người đui” có nghĩa là kẻ đui mù mà lại dẫn đường cho người mù đui. Quý vị thấy như thế có đáng thương hay không chứ? Tôi nói như vậy chẳng phải là muốn trách mắng người nào cả, nhưng quý vị phải biết rằng:

    Hồ đồ dạy hồ đồ,

    Dạy rồi chẳng ai hiểu,

    Sư-phụ đọa địa ngục,

    Đệ tử cũng xuống theo!

    Gặp lại nhau ở địa ngục, sư-phụ mới ngỡ ngàng hỏi đệ-tử : “Ủa, sao con cũng ở đây?” Đệ-tử đáp: “Thì thầy tới trước kia mà. Lẽ dĩ nhiên là con đi theo thầy thôi!” Thì ra đôi bên đều không biết làm thế nào mình lại lọt vào đó được! Quý vị thấy có đáng thương hay không?

    “Lại tự xưng là Thiện-tri-thức.” Bọn chúng còn khoe khoang không ngượng miệng : “Tôi đến chỗ nọ để giảng Kinh. Tôi tới chỗ kia để give lecture. I give lecture to everybody.” Thật là buồn cười hết sức!

    “Khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.” Chúng làm cho tất cả chúng sanh đều bị rơi vào hầm hố dâm dục và đi lạc ra khỏi con đường Bồ-đề. Con đường Bồ-đề đã mất, không còn nữa, thì chạy đi đâu? Chạy vô địa ngục! Bấy giờ, sư phụ trông thấy đệ-tử lù lù bước vô thì kinh ngạc hỏi: “Sao con cũng tới đây vậy? Đây chẳng phải là chỗ tốt đâu!” Đệ-tử chưng hửng đáp: “Thầy mới là người tới trước kìa! Con thì đương nhiên là phải theo thầy rồi, thầy là sư phụ của con mà!” Thầy thở dài ngao ngán: “Ui chao! Lẽ ra con không nên theo thầy, bởi đây là một nơi đầy thống khổ!”


    Kinh văn:

    Hán Việt: “Nhữ giáo thế nhân tu Tam-ma-địa, tiên đoạn tâm dâm, thị danh Như Lai, tiên Phật Thế Tôn, đệ nhất quyết định thanh tịnh minh hối.”

    Việt: “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật Thế Tôn thuở trước.”


    Giảng nghĩa:

    Sự khác biệt giữa “phản” (trái) và “chánh” (phải) – giữa Ma-vương và Bồ-tát - vốn rất vi tế; khác biệt như thế nào? Bồ-tát thương xót và che chở tất cả chúng sanh với lòng từ-bi, chứ tuyệt đối không có lòng dâm dục. Trong khi đó, Ma-vương đối với chúng sanh thì cứ đề xướng “ái”, chuyên môn nói chuyện dâm dục, chú trọng dâm dục; thậm chí chúng còn nói rằng hễ tâm dâm dục càng nặng bao nhiêu thì khai ngộ được quả vị càng cao bấy nhiêu, và dùng tà thuyết ấy để hại người.

    Bồ-tát thì không có tâm dâm dục, các ngài đối với tất cả chúng sanh hoàn toàn không có sự phân biệt. Có tâm dâm dục tức là ma. Không có tâm dâm dục, chỉ đơn thuần xót thương và cứu giúp tất cả chúng sanh – đó mới chính là cảnh giới của chư Phật và chư Bồ-tát. Ma thương người là có mưu đồ, có tham dục. Bồ-tát thương người thì không có tham dục. Không có tham dục tức là không có tâm dâm dục. Cho nên, trong Phật giáo có giảng về Thập Nhị Nhân Duyên như sau:

    Vô minh duyên Hành;

    Hành duyên Thức;

    Thức duyên Danh, Sắc;

    Danh, Sắc duyên Lục Nhập;

    Lục Nhập duyên Xúc,

    Xúc duyên Thọ;

    Thọ duyên Ái;

    Ái duyên Thủ;

    Thủ duyên Hữu,

    Hữu duyên Sanh;

    Sanh duyên Lão, Tử.

    Và, đó cũng chính là điểm bất đồng giữa Phật-giáo với các giáo phái của Ma-vương ở thế gian.

    “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Ông phải dạy cho tất cả mọi người ở thế gian muốn tu pháp-môn Định-lực này biết rằng việc đầu tiên họ cần phải làm là dứt bỏ dâm-tâm, quét sạch dục-niệm. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước.” Đạo lý này vốn do chính Đức Như-Lai và tất cả chư Phật, Thế-Tôn thuở trước dạy bảo. Các ngài đã đưa ra lời giáo huấn rất rõ ràng: “Nhất định phải cắt đứt, loại trừ tâm dâm dục!” Đây là điều kiện tất yếu thứ nhất, dứt khoát không được sửa đổi một mảy may. Đạo lý này là “quyết định nghĩa,” chứ không phải là “bất định nghĩa”; cũng chẳng phải là “không nhất định” - chẳng phải là có cũng được mà không có cũng được. Cái tâm dâm dục dứt khoát phải không còn tồn tại. Có tâm dâm dục tất sẽ bị lạc vào đường ma. Nếu vẫn giữ tâm dâm dục mà mong khai ngộ, thì chắc chắn sẽ trở thành quyến thuộc của Ma-vương!



    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Thị cố A-Nan, nhược bất đoạn dâm, tu Thiền-định giả, như chưng sa thạch dục kỳ thành phạn, kinh bách thiên kiếp, chỉ danh nhiệt sa. Hà dĩ cố? Thử phi phạn bổn, sa thạch thành cố.”

    Việt: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!”



    Giảng nghĩa:

    Quý vị xem, ở đây Phật lại nêu ra một tỷ dụ nữa. Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông chưa tin ư? Ông chưa tin thì Ta sẽ giảng nghĩa cho ông rõ.” Và Đức Phật dạy tiếp: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm. Vì lẽ ấy cho nên, A-Nan à, giả sử ông không đoạn trừ tâm dâm dục mà ngày ngày cũng ngồi Thiền, cũng tu hành, tất ông sẽ vừa tu hành vừa bị lậu thoát. Ông tu được một phần thì lậu thoát mười phần, tu được mười phần thì lậu thoát mất một trăm phần. Ông muốn ngồi Thiền mà lại không chịu dứt bỏ dâm-tâm ư? Ông vừa muốn ngồi Thiền để được khai ngộ, lại vừa muốn tìm cầu thứ lạc thú điên đảo ấy, thì chẳng khác nào muốn nấu cát và sạn cho thành cơm vậy.

    Ông đem cát sạn đi nấu, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Dù ông cứ nấu như thế trong suốt cả trăm ngàn kiếp đi chăng nữa, thì cũng chỉ có thể gọi đó là ‘sạn nóng’ mà thôi, chẳng có công dụng gì cả. Vì sao? Do duyên cớ nào ư? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn! Thứ mà ông đem nấu chính là cát sạn, chứ không phải là gạo, không có chất liệu của cơm! Nếu ông muốn khỏi dứt bỏ dâm tâm mà vẫn được khai ngộ thì cũng tương tự như nấu cát sạn mà mong thành cơm, ao ước cát sạn biến thành lúa gạo vậy.”

    Khi không còn dâm-tâm thì sẽ không thấy có tướng nam tướng nữ, không còn phân biệt giữa mình với người, và cũng không thấy có tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả nữa. Có những người không biết hổ thẹn, dám nói rằng: “Tôi là người như thế đấy!” Chỉ nói suông như vậy thì chẳng đáng tin. Không có gì làm bằng chứng thì làm sao quý vị biết được mình là người như thế? Nếu quả thật quý vị là người như thế thì quý vị phải là người hoàn toàn không biết mình là người như thế mới đúng; và quý vị cũng sẽ không nói: “Chứ sao! Tôi không có tâm dâm dục!” Người đã hết sạch dục niệm thì không có thứ kiến giải ấy. Không có, tức là không có. Họ chẳng làm rùm beng, chẳng quảng cáo, chẳng đăng báo, và cũng chẳng khoe khoang: “Tôi là người như thế đấy!” Chỉ một việc tự rêu rao, tự quảng cáo cho mình là đã không phải rồi; cho nên mọi người cần phải chú ý đến điểm này!

    Nếu quý vị quả thật không có tâm dâm dục, thì quý vị sẽ:

    Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có,

    Tai vẳng chuyện đời, tâm chẳng hay!

    (Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu

    Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.)

    Khi mắt nhìn biết bao hình sắc mà trong lòng chẳng thấy có gì hiện hữu và tai nghe những âm thanh êm dịu mà tâm trí lại không hay không biết gì cả, tức là đã có được chút “hỏa hầu.” Tâm phải không dao động, không một ý nghĩ nào dấy khởi, dục-niệm phải hoàn toàn không còn nữa, thì mới là đúng thật. Nếu có những lúc quý vị vẫn còn tơ tưởng đến phái nữ, thì vẫn chưa được.

    Có một người nọ sau khi khai ngộ rồi thì tới báo cho Sư-phụ của mình biết và thỉnh ngài khai thị ấn chứng. Vị Sư-phụ hỏi: “Ông khai ngộ cái gì thế?” Anh ta thưa: “Ồ! Trước kia con hoàn toàn không hiểu, nhưng nay thì con biết được rằng sư-cô là đàn bà!” Thì ra bây giờ anh ta mới biết rằng sư-cô, tức là Tỳ-khưu-ni, là đàn bà! Vị Sư-phụ bèn dùng Phật-nhãn để quán xét: “Ờ! Người này quả thật đã khai ngộ rồi,” và liền ấn chứng cho anh ta: “Ông được rồi đó!”

    Hẳn quý vị sẽ nghĩ: “Ai mà không biết điều đó?” Thế nhưng, người chưa khai ngộ thì sẽ không nói được câu ấy. Nhờ được khai ngộ rồi, cho nên người đệ tử này mới thốt ra một câu như thế! Vả lại, anh ta không thể nào dối gạt người khác được, vì Sư-phụ của anh ta có Phật-nhãn, ngài đã dùng Phật-nhãn quán sát và biết được đệ tử của mình đã đắc Đạo, đã chứng được Sơ-quả A-la-hán, nên ngài mới ấn chứng cho, nói rằng: “Đúng vậy!”



    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Nhữ dĩ dâm thân, cầu Phật diệu quả, túng đắc diệu ngộ, giai thị dâm căn, căn bản thành dâm, luân chuyển Tam-đồ, tất bất năng xuất. Như Lai Niết-bàn, hà lộ tu chứng?”

    Việt: “Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu-quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu-ngộ thì cũng đều là dâm-căn. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đồ, không thoát ra được. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do đường nào mà tu chứng?”


    Giảng nghĩa:

    Đức Phật dạy ngài A-Nan: “Ông có thích cô con gái của Ma-Đăng-Già ấy, như thế có nghĩa là không những tâm dâm dục mà ngay cả cái thân dâm dục của ông đều vẫn còn tồn tại. Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu-ngộ thì cũng đều là dâm-căn. Nếu ông dùng cái thân dâm dục để cầu mong chứng đắc quả vị nhiệm mầu của Phật, cho dù ông có đạt được đạo lý vi diệu đi chăng nữa, thì cũng còn vướng mắc cái gốc rễ dâm dục mà ông chưa chặt bỏ được. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đồ, không thoát ra được. Với cái gốc là dâm dục, thì tương lai ông nhất định sẽ bị đọa vào Tam-đồ. (“Tam-đồ” hay “Tam ác đạo,” tức là ba con đường xấu ác--địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.) Như thế, ông dứt khoát không thể nào ra khỏi ba đường ác ấy được, mà chắc chắn sẽ bị chuyển thân sanh làm súc sanh, ngạ quỷ, hoặc đọa địa ngục. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do đường nào mà tu chứng? Vậy ông căn cứ vào cái gì, nương theo con đường nào để có thể chứng được quả vị Niết-bàn của Phật?”


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Tất sử dâm cơ thân tâm câu đoạn, đoạn tánh diệc vô, ư Phật Bồ-đề tư khả hy ký.”

    Việt: “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đều dứt, và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, thì mới mong đạt được quả Bồ-đề của Phật.”


    Giảng nghĩa:

    “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đều dứt. Ông nhất định phải dứt bỏ dâm-cơ của thân và dâm-cơ của tâm.” “Dâm cơ” tức là một niệm dâm dục nhỏ nhất, vi tế nhất. “Dâm cơ” cũng có nghĩa là vô minh; do đó, cần phải dứt trừ vô minh.

    “Và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, ngay cả cái biết về tánh ‘dứt’ ấy ông cũng phải không được có nữa, như thế thì mới mong đạt được quả Bồ-đề của Phật, mới có thể nuôi hy vọng trên con đường giác ngộ của Phật vậy.”


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Như ngã thử thuyết, danh vi Phật thuyết; bất như thử thuyết, tức Ba-Tuần thuyết.”

    Việt: “Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần.”


    Giảng nghĩa:

    “Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần. Những lời như Ta giảng đây mới đích thực là Pháp do Phật nói ra. Nếu lời nói không phù hợp với đạo lý của Ta thì đó là lời của Ma-vương vậy.” “Ba-Tuần” là tiếng Phạn, có nghĩa là “ác giả,” kẻ ác. Ma Ba-Tuần tức là Ma-vương, vua của loài ma.

    Người đến nghe Kinh nhất định là đều sáng mắt. Người mù thì không thể đến nghe Kinh, cả người điếc và người câm cũng đều không thể đến để nghe Kinh được. Những kẻ đến đây nghe Kinh thì đều càng nghe càng thông minh, chứ không phải càng nghe càng ngu si. Do đó, bây giờ mọi người nên mở con mắt trí huệ chân chánh của mình ra và hướng nhĩ-căn chân chánh của mình vào trong để lắng nghe tự tánh, chứ đừng lăng xăng tìm kiếm ở bên ngoài nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với quý vị trong ngày hôm nay!
    Hôm nay là ngày đầu tiên của quãng đời còn lại :ciao:

  9. #9
    Đai Nâu Avatar của ngoc.khanh198
    Gia nhập
    Nov 2007
    Nơi cư ngụ
    Đâu đó ở Ta Bà
    Bài gởi
    341

    Mặc định

    Không Sát Sanh


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “A-Nan! Hựu chư thế giới, Lục-đạo chúng sanh, kỳ tâm bất sát, tắc bất tùy kỳ sanh tử tương tục.”

    Việt: “A-Nan! Lại nữa, nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không sát sanh thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.”


    Giảng nghĩa:

    Đức Phật dạy: “A-Nan! Lại nữa, nếu chúng sanh trong Lục-đạo - trời, người, A-tu-la, ngạ quỷ, điạ ngục và súc sanh - ở các thế giới, mà tâm không sát sanh...” Ở đây, “không sát sanh” chẳng phải chỉ đơn thuần thân không sát sanh, mà luôn cả tâm cũng phải không sát sanh nữa.

    Nếu trong lòng của các chúng sanh trong sáu đường ấy không hề có ý nghĩ giết hại sinh vật, trái lại còn muốn giới sát, phóng sanh, “thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.” Nếu không sát sanh, tất sẽ cắt đứt được sự tới lui trong sáu nẻo luân hồi, và do đó sẽ không còn bị tùy thuộc vào nghiệp báo tương tục của dòng sanh tử nữa.


    Kinh Văn:Hán Việt: “Nhữ tu Tam-muội, bổn xuất trần lao, sát tâm bất trừ, trần bất khả xuất.”

    Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm sát-sanh thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”


    Giảng nghĩa:

    “A-Nan! Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao. Thật ra, ông tu hành Định-lực với nguyện vọng là vượt khỏi trần lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm sát-sanh thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”

    Làm thế nào để dứt trừ tâm sát sanh? Phải giới sát, phóng sanh. Trong phần kinh văn trên, Đức Phật có dạy: “Nếu không dứt trừ tâm dâm-dục thì chẳng thể ra khỏi trần lao”; thì đối với tâm sát-sanh cũng vậy: “Nếu không dứt trừ tâm sát sanh,” thì cũng “chẳng thể ra khỏi trần lao.”

    Phải đoạn trừ tâm dâm dục thì mới có thể thoát khỏi chốn trần lao bụi bặm, vượt ra khỏi sáu nẻo luân hồi được. Nhưng nếu dâm tâm đã dứt sạch mà sát tâm vẫn còn tồn tại, thì cũng vẫn không thể ra khỏi trần-lao, không thể vượt thoát sáu nẻo luân hồi, và cũng không thể siêu xuất Tam-giới được.


    Kinh Văn:Hán Việt: “Túng hữu đa trí, Thiền-định hiện tiền, như bất đoạn sát, tất lạc Thần-đạo--thượng phẩm chi nhân vi Đại-lực Quỷ; trung phẩm tắc vi Phi-hành Dạ-xoa, chư Quỷ-soái đẳng; hạ phẩm đương vi Địa-hành La-sát.”

    Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ sát sanh, tất sẽ lạc vào Thần-đạo--người thượng phẩm thì làm Đại-lực Quỷ, trung phẩm thì làm Phi-hành Dạ-xoa hoặc làm Quỷ-soái, hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát.”



    Giảng nghĩa:

    “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ sát sanh, tất sẽ lạc vào Thần-đạo.” “Đa trí” ở đây không phải là trí huệ xuất thế mà là thế trí biện thông - thứ trí huệ của thế gian. Như vậy, cho dù quý vị rất thông minh, có được thế trí biện thông, có tài ăn nói, giỏi biện luận, khéo biện biệt, và công phu tu hành cũng đã tương ưng rồi; song le, nếu không dứt bỏ tâm sát sanh, thì trong tương lai, quý vị sẽ bị rơi vào đường Thần-đạo và có thể làm Thần, làm Thiên-vuơng, Thiên-chủ, hoặc Đại-lực Tướng-quân (tức Đại-lực Quỷ) ở cõi trời.

    “Người thượng phẩm thì làm Đại-lực Quỷ. Người thượng phẩm (tức là người giỏi nhất) thì làm loại quỷ thần có thế lực lớn; loại quỷ này cũng là thần. Đại-lực Quỷ chính là Thiên-hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa ở cõi trời). Trung phẩm thì làm Phi-hành Dạ-xoa hoặc làm Quỷ-soái. Hạng quỷ trung phẩm, thần trung phẩm này có thể là Phi-hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa bay liệng trên không), hoặc nguyên soái của loài quỷ. Hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát. Hạng người thuộc hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát, loại quỷ La-sát ở dưới đất.”


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Bỉ chư quỷ thần, diệc hữu đồ chúng, các các tự vị thành Vô-thượng Đạo.”

    Việt: “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”


    Giảng nghĩa:

    “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng.” Những quỷ thần này – Thiên chủ, Thần ở cõi trời, hoặc loài quỷ ở địa ngục, loài Địa-hành La-sát ở nhân gian, loài Phi-hành Dạ-xoa bay trên không, và Thần-vương Đại-lực Quỷ - đều có rất đông đồ chúng. “Đồ” tức là đồ đệ; “đồ chúng” tức là bè đảng rất đông, rất nhiều. Có rất nhiều loại quỷ, như Đại-lực Quỷ (quỷ có thế lực lớn), Đa-tài quỷ (quỷ có nhiều tiền của), Thiểu-tài Quỷ (quỷ có ít tiền của), Vô-tài quỷ (quỷ không có tiền của), Khứu hưong Quỷ (quỷ ngửi mùi thơm), Khứu-xú Quỷ (quỷ ngửi mùi hôi)... Bởi có tới mấy vạn loại quỷ khác nhau, cho nên Đức Phật nói: “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng” - kẻ này có đệ tử, kẻ kia cũng có đồ đệ, cho nên bọn chúng rất là đông đúc.

    “Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Những quỷ thần ấy, kẻ nào cũng ngạo mạn, tự xưng là mình đã thành tựu được Đạo Vô-thượng. Ở Trung-Hoa có vị Quan Đế Công vốn là loại Đa-tài Quỷ (quỷ có nhiều tiền của), song về sau đã quy y Tam Bảo và đưọc tôn xưng là Bồ-tát Già-Lam. Đối với Phật-giáo thì Bồ-tát Già-Lam là một vị Thần Hộ-Pháp; và khi ở trong chùa hay trước mặt Đức Phật thì vị Thần Hộ-Pháp này phải đứng, bởi không có chỗ ngồi cho thần.


    Kinh Văn:

    Hán Việt: “Ngã diệt độ hậu, Mạt Pháp chi trung, đa thử quỷ thần, xí thạnh thế gian, tự ngôn thực nhục đắc Bồ-đề lộ.”

    Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, sẽ có nhiều loại quỷ thần ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, tự nói rằng ăn thịt thì đắc được con đường Bồ-đề.”


    Giảng nghĩa:

    “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp…” Thời đại sau khi Phật nhập Niết-bàn tức là thời của chúng ta hiện nay và cũng chính là “thời Mạt Pháp” vậy.

    “Sẽ có nhiều loại quỷ thần ấy hiện ra đông đảo ở thế gian.” Những quỷ thần này vốn là những kẻ kiếp trước tuy có tu hành song lại không thể giới sát, nên phải cam chịu đọa lạc vào chốn Thần đạo. Trong thời Mạt Pháp, ở thế gian có rất nhiều quỷ thần như thế xuất hiện, và “tự nói rằng ăn thịt thì đắc được con đường Bồ-đề.” Những quỷ thần ấy còn tuyên bố với mọi người: “Tôi có ăn thịt đấy! Ăn thịt thì cũng thành Phật được như thường! Tôi không cần giới sát, cũng chẳng phải ăn chay, thế mà bây giờ tôi cũng khai ngộ, cũng làm Phật được vậy!” “Con đường Bồ-đề” có nghĩa là con đường thành Phật.

    Có một người nọ tự xưng rằng mình đã khai ngộ rồi, nhưng ông ta lại ăn thịt, uống rượu, hút thuốc, thậm chí còn xúi giục những thanh niên theo ông ta sử dụng ma-túy, nha phiến, và luôn cả LSD nữa. Ông ta nói rằng ông ta đã khai ngộ rồi ư? Làm gì có chuyện vô lý như thế được?! Đức Phật xưa kia khai ngộ là chính Ngài tự khai ngộ lấy, chứ tuyệt đối không đụng tới các dược phẩm như thế; còn ông ta bây giờ thì tự đầu độc mình bằng ma-túy, khiến cho tinh thần và thể xác đều rũ liệt, kiệt quệ đến gần chết, thế mà vẫn cứ khăng khăng cho rằng mình đã được khai ngộ! Quý vị nói xem, như thế là có điên đảo hay không chứ? Họ đúng là những chúng sanh điên đảo!


    Kinh văn:

    Hán Việt: “A Nan ! Ngã linh Tỳ khưu thực Ngũ Tịnh-nhục, thử nhục giai ngã thần lực hóa sanh, bổn vô mạng căn. Nhữ Bà-la-môn địa đa chưng thấp, gia dĩ sa thạch, thảo thái bất sanh. Ngã dĩ đại bi thần lực sở gia, nhân đại từ bi giả danh vi nhục, nhữ đắc kỳ vị. Nại hà Như Lai diệt độ chi hậu, thực chúng sanh nhục, danh vi Thích tử?”

    Vịêt: “A Nan ! Ta cho phép chúng Tỳ-khưu ăn Ngũ Tịnh-nhục; thịt ấy đều do thần lực của Ta hóa sanh chớ vốn không có mạng căn. Bà-la-môn các ông ở nơi nóng, ẩm, lại thêm có đá sạn nên rau cỏ không sống được; vì thế, Ta dùng thần lực đại bi gia hộ, do đại từ bi mà giả gọi là thịt cho các ông có được cái vị. Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, những kẻ ăn thịt chúng sanh lại gọi là Thích tử được?”

     
    Giảng nghĩa:

    “A-Nan! Ta cho phép chúng Tỳ-khưu ăn Ngũ Tịnh-nhục. Trong giáo pháp của Phật, Ta có cho phép các Tỳ-khưu ăn Ngũ Tịnh-nhục." Thế nào gọi là "Ngũ Tịnh-nhục"? Đó là năm thứ thịt thanh tịnh:


    1) Thịt của thú vật mà mình không thấy bị giết (bất kiến sát nhục).

    2) Thịt của thú vật mà mình không nghe bị giết (bất văn sát nhục).

    3) Thịt của thú vật mà mình không nghi ngờ là vì mình mà bị giết (bất nghi vi kỷ sát nhục).

    4) Thịt của thú vật tự nhiên bị chết (tự tử nhục).

    5) Thịt của thú vật mà chim ăn còn dư (điểu tàn nhục). Chẳng hạn như chim ưng bắt gà con để ăn, nhưng ăn không hết. Phần thịt còn thừa ấy, nếu quý vị trông thấy thì có thể nhặt lấy để ăn, và thịt đó được gọi là "điểu tàn nhục."


    "Thịt ấy đều do thần lực của Ta hóa sanh chứ vốn không có mạng căn". Năm thứ thịt thanh tịnh ấy đều là do Đức Phật dùng sức thần mà hóa sanh ra cho nên không có mạng căn. Thế nào gọi là "không có mạng căn"? Tức là không có ý thức, không có hơi ấm, không có sự hít thở - không có mầm sống.


    "Bà-la-môn các ông ở nơi nóng, ẩm." Những người dòng Bà-la-môn giữ hạnh thanh tịnh thường sống ở vùng có rất nhiều cát, lại rất nhiều nước nữa. "Nóng" tức là có khí nóng của cát đá bốc lên; và "ẩm" là có ứ đọng rất nhiều nước. "Lại thêm có đá sạn nên rau cỏ không sống được." Thêm vào đó lại còn có sỏi đá xen lẫn trong đất nữa, khiến cho cả rau lẫn cỏ đều không thể sinh trưởng được.

    "Vì thế Ta dùng thần lực đại bi gia hộ, do đại từ bi mà giả gọi là thịt cho các ông có được cái vị. Do lòng đại từ đại bi nên Ta giả gọi thức này là thịt mà thôi, chứ thật ra đó không phải là thịt; cho nên các ông có thể ăn những thức ăn này. Nay thì Ta cho Tỳ-khưu các ông được phép thọ dụng thứ thịt thanh tịnh này."

    "Làm sao sau khi Như-Lai diệt độ, những kẻ ăn thịt chúng sanh lại gọi là Thích-tử được?" Những kẻ không ăn năm thứ thịt thanh tịnh do Đức Phật định ra mà chỉ chuyên ăn thịt của chúng sanh thì có được gọi là "Thích-tử" không ? Dứt khoát là không! Những người như thế không thể nào gọi là Thích tử được! "Thích-tử" (đệ tử của Thích Ca) là một danh xưng khác để chỉ người xuất gia theo đạo Phật.


    Kinh văn:

    Hán Việt: "Nhữ đẳng đương tri, thị thực nhục nhân, túng đắc tâm khai tự Tam-ma-địa, giai Ðại La-sát, báo chung tất trầm sanh tử khổ hải, phi Phật đệ tử. Như thị chi nhân, tương sát tương thôn, tương thực vị dĩ. Vân hà thị nhân đắc xuất Tam-giới?"

    Việt: "Các ông phải biết: Những kẻ ăn thịt dầu được tâm khai tựa Tam-ma-địa, cũng chỉ là loài Ðại La-sát, đến khi báo chung phải chịu trầm luân trong biển khổ sanh tử, chớ không phải là đệ tử của Phật. Những người như vậy là hạng giết hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương ăn nuốt không dứt, thì làm sao ra khỏi được Tam-giới?"


    Giảng nghĩa:

    Ðức Phật dạy: "Trong thời Mạt Pháp, sau khi Ta nhập diệt, nếu có những thầy Tỳ-khưu xuất gia nào mà còn muốn ăn thịt--bất kể là loại Ngũ Tịnh-nhục hay Tam Tịnh-nhục, nói chung, cứ là thịt thì họ liền ăn, chẳng cần hỏi trước xem thịt ấy có thanh tịnh hay không--thì các ông phải biết: Những kẻ ăn thịt dầu được tâm khai tựa Tam-ma-địa, cũng chỉ là loài Đại La-sát, đến khi báo chung phải chịu trầm luân trong biển khổ sanh tử. Sau khi Ta diệt độ, những kẻ ăn thịt chúng sanh sẽ mạo xưng là đệ tử của Phật, rồi ăn thịt, uống rượu một cách tùy tiện, lại còn nói là ai cũng có quyền tự do làm theo sở thích. Hạng người ấy cho dù có đạt được chút cảnh giới hoặc trí huệ được khai mở đôi chút, và dường như cũng có được đôi chút Ðịnh-lực đi chăng nữa, thực chất, họ chỉ là loại Ðại La-sát--thứ Ma vương hoặc quỷ La-sát to lớn--mà thôi; và một khi thọ mạng của họ đã hết, họ chắc chắn sẽ bị đọa lạc. Ðọa lạc nơi nào? Ðọa lạc, chìm đắm trong biển khổ sanh tử!"

    "Tâm khai" nghĩa là trong lòng có hiểu được đôi chút đạo lý. "Tựa" tức là tương tự, giống như vậy thôi, chứ sự thật vốn không phải như vậy. Sự thật thì không phải là trí huệ của họ được khai mở, chẳng qua là họ tự cho rằng họ được như vậy mà thôi!

    Hôm nọ có một người đến đây và tự tuyên bố rằng mình giống Ðức Lục-Tổ, tôi bèn hỏi: "Tôi hỏi ông: Căn cứ vào đâu mà ông nói là ông giống Lục Tổ?“ Ông ta đáp: “Tôi ấy à, tôi không căn cứ vào đâu mà chẳng giống Lục Tổ!“ Ông ta tưởng rằng trả lời như thế tức là có trí huệ. Thật ra, ông ta chính là hạng người hiện đang được đề cập tới trong đoạn kinh văn này -- họ tuy mặc áo của Phật, ăn cơm của Phật, "chớ không phải là đệ tử của Phật."

    "Những người như vậy là hạng giết hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương ăn nuốt không dứt." Những người ấy vừa sát sanh lại vừa ăn thịt, họ không chịu giới sát mà cũng chẳng từ bỏ thói ăn thịt. Do đó, họ cứ ở trong cái vòng luẩn quẩn ăn nuốt lẫn nhau, vay trả qua lại--anh ăn thịt tôi thì tôi ăn thịt anh lại, anh ăn của tôi thì anh phải trả nợ ấy cho tôi, tôi ăn của anh thì tôi cũng phải đền nợ đó cho anh... "Không dứt" tức là cứ tiếp diễn liên tục, không có lúc chấm dứt. Vì sao lại "không dứt"? Vì nếu anh ăn thịt tôi thì tôi cũng sẽ ăn thịt anh, tôi ăn thịt anh thì anh sẽ ăn thịt tôi lại, kiếp này anh ăn thịt tôi thì kiếp sau tôi ăn thịt anh, rồi kiếp sau nữa anh lại ăn thịt tôi...; cứ như thế mà giết hại, ăn nuốt lẫn nhau không bao giờ ngừng dứt.

    "Thì làm sao ra khỏi được Tam-giới? Làm thế nào những người như vậy lại có thể vượt ra khỏi ba cõi đầy thống khổ--Dục giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới--này được chứ?"


    Kinh văn:

    Hán Việt: "Nhữ giáo thế nhân tu Tam-ma-địa, thứ đoạn sát sanh, thị danh Như Lai, tiên Phật, Thế Tôn, Ðệ Nhị Quyết Ðịnh Thanh Tịnh Minh Hối."

    Việt: "Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, kế đến phải dứt trừ sát sanh. Ðó là lời minh huấn quyết định thứ hai về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."


    Giảng nghĩa:

    "Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, kế đến phải dứt trừ sát sanh. Ông hãy giáo hóa và bảo cho những người thế gian tu Ðịnh-lực biết rằng trước hết họ cần phải đoạn trừ dâm dục, và sau đó là phải đoạn trừ sát sanh." Tâm dâm dục cần phải được dứt bỏ trước tiên là vì:

    Dâm tâm không trừ, trần-lao chẳng thoát.

    (Dâm-tâm bất trừ, trần bất khả xuất.)

    Tuy nhiên, nếu không trừ bỏ cái tâm sát sanh thì cũng chẳng thể nào ra khỏi chốn trần lao được; do đó, cần phải dứt tuyệt sát sanh.

    "Ðó là lời minh huấn quyết định thứ hai về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước. " Ðó chính là sự giáo hóa do Như-Lai Thế-Tôn đề xướng. Tất cả chư Phật, Thế-Tôn đời trước và chư Phật đời hiện tại đều răn dạy rõ ràng như thế cả. Ðó là lời minh huấn có ý nghĩa quyết định thứ nhì về tánh thanh tịnh. Mọi người nhất định phải tuân theo; bằng không, sẽ không thể nào ra khỏi Tam-giới được!


    Kinh văn:

    Hán Việt: "Thị cố A-Nan, nhược bất đoạn sát, tu Thiền-định giả, tỷ như hữu nhân, tự tắc kỳ nhĩ, cao thanh đại kiếu, cầu nhân bất văn, thử đẳng danh vi 'dục ẩn di lộ'."

    Việt: "Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ sát sanh thì cũng như người tự bịt tai rồi cất tiếng kêu to mà lại cầu cho người khác đừng nghe thấy; đó gọi là 'muốn giấu mà lại thành lộ rõ'."


    Giảng nghĩa:

    "Cho nên, A-Nan, ông phải biết rằng, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ sát sanh, không còn lòng từ bi nữa--chủng tử từ bi đã bị hủy diệt--thì cũng như người tự bịt tai rồi cất tiếng kêu to mà lại cầu cho người khác đừng nghe thấy." Tỷ dụ này cũng tương tự như "bịt tai trộm chuông"tự bịt chặt hai tai mình lại rồi đi ăn trộm chuông, tưởng rằng mình không nghe thấy tiếng chuông tức là mọi người cũng đều không nghe thấy!!!

    "Ðó gọi là 'muốn giấu mà lại thành lộ rõ'." Họ muốn giấu kín nhưng rốt cuộc chỉ khiến cho sự việc lộ liễu thêm mà thôi, và họ càng muốn giấu giếm bao nhiêu thì lại càng phô bày rõ rệt hơn bấy nhiêu! Cho nên, nếu tu Thiền-định mà không dứt bỏ sát sanh thì sẽ chẳng thể nào thành tựu được.


    Kinh văn:

    Hán Việt: "Thanh tịnh Tỳ-khưu cập chư Bồ-tát, ư kỳ lộ hành bất đạp sanh thảo, huống dĩ thủ bạt, vân hà đại bi thủ chư chúng sanh huyết nhục sung thực?"

    Việt: "Chư Bồ-tát và các Tỳ-khưu thanh tịnh khi đi trên lối rẽ còn không đạp lên cỏ sống huống hồ là lấy tay nhổ, thì sao kẻ có tâm đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh làm thức ăn?"


    Giảng nghĩa:

    "Chư Bồ-tát và các Tỳ-khưu thanh tịnh khi đi trên lối rẽ còn không đạp lên cỏ sống huống hồ là lấy tay nhổ." Ở các ngã ba ngã tư, nơi gặp gỡ của nhiều lối rẽ, đa số thường có nhiều cỏ mọc. Tuy nhiên, các bậc Bồ-tát, Ðại Bồ-tát, cũng như các thầy Tỳ-khưu tu hạnh thanh tịnh hết sức thanh cao, tinh khiết, đều không hề dẫm chân lên cỏ xanh--cỏ tươi, cỏ còn sống--vì không muốn xéo nát cỏ, sợ làm cỏ chết. Các ngài cũng không nỡ tự tay nhổ cỏ.

    "Thì sao kẻ có tâm đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh làm thức ăn?" Những người đành lòng lấy máu của chúng sanh để uống, lấy thịt của chúng sanh để ăn, thì làm sao có thể gọi là có tâm đại bi được chứ? Dứt khoát là không được rồi!


    Kinh văn:

    Hán Việt: "Nhược chư Tỳ-khưu, bất phục Ðông-phương ti miên quyến bạch, cập thị thử thổ ngoa lý cầu thuế, nhũ lạc đề hồ, như thị Tỳ-khưu, ư thế chân thoát, thù hoàn túc trái, bất du Tam-giới."

    Việt: "Những vị Tỳ-khưu nào không phục-dụng các thứ tơ bông, hàng lụa Ðông-phương, cùng các ủng da, giày dép da, áo da, áo lông, sữa, pho-mát, sữa đặc tinh của miền đó, thì những vị Tỳ-khưu ấy thật sự được giải thoát ở đời; trả xong nợ trước, họ sẽ không trở lại Tam-giới nữa."


    Giảng nghĩa:

    "Những vị Tỳ-khưu nào không phục-dụng các thứ tơ bông, hàng lụa Ðông-phương..." "Tơ" tức là sợi tơ do con tằm nhả ra. "Tơ bông" và "hàng lụa" (dệt từ tơ tằm) là những sản phẩm phải dùng tánh mạng của sinh vật để làm ra; loại "sơ bông" thông thường thì không đáng kể.

    "...Cùng các ủng da, giày dép da, áo da, áo lông, sữa, pho-mát, sữa đặc tinh của miền đó ..." Giả sử có những thầy Tỳ-khưu không mặc các loại y phục làm bằng thứ hàng của Ðông-phương, đồng thời cũng không dùng những thổ sản của xứ này--không mang ủng, hài hoặc giày dép làm bằng da thú; không mặc áo làm bằng da thú hoặc áo làm bằng lông cầm thú (như lông chim); cũng không thọ dụng sữa bò, pho-mát và sữa đặc tinh (pho-mát và sữa đặc tinh đều là những thực phẩm được biến chế từ sữa bò)--"thì những vị Tỳ-khưu ấy thật sự được giải thoát ở đời." Những thầy Tỳ-khưu làm được như thế tức là đã chân chánh đạt được sự giải thoát ngay tại thế gian này. "Trả xong nợ trước, một khi tất cả nợ nần xưa cũ đều đã được thanh toán phân minh thì họ sẽ không trở lại Tam-giới nữa."

    Tuy rằng ở trên có nói là không được dùng sữa bò và pho-mát, song trong Giới-luật của Tiểu-thừa và Ðại-thừa đều không triệt để ngăn cấm việc thọ dụng loại thực phẩm này. Phần kinh văn trên là nói về những người trì giới Không Sát-sanh hết sức thanh tịnh, thanh tịnh một cách phi thường--phàm bất cứ thứ gì có quan hệ nhân duyên với chúng sanh thì họ đều không dùng. Như về y phục chẳng hạn, họ không mặc các thứ tơ lụa, loại vải được dệt bằng tơ do con tằm nhả ra, bởi tơ tằm thì có liên quan đến sanh mạng của con tằm. Ngay cả mật ong họ cũng không đụng tới vì nó có liên quan với loài ong. Thật ra, về những điểm này thì trong Giới-luật đều có "khai duyên," tức là có thể tùy trường hợp mà áp dụng một cách linh động chứ không phải là bắt buộc. Tuy nhiên, nếu có thể không thọ dụng những sản phẩm ấy thì thanh tịnh nhất, tốt nhất.


    Kinh văn:

    Hán Việt: "Hà dĩ cố? Phục kỳ thân phần, giai vi bỉ duyên; như nhân thực kỳ địa trung bá cốc, túc bất ly địa, tất sử thân tâm, ư chư chúng sanh nhược thân thân phần, thân tâm nhị đồ bất phục bất thực, ngã thuyết thị nhân chân giải thoát giả."

    Việt: "Vì sao? Vì phục-dụng phần thân của chúng là tạo duyên với chúng, cũng như người ăn bá cốc từ đất thì chân không rời khỏi mặt đất vậy. Người nào có thể khiến thân tâm xa lánh thân và phần thân của mọi loài chúng sanh, cả thân lẫn tâm đều không mặc, không ăn chúng, thì Ta nói rằng người ấy là bậc giải thoát chân chánh."


    Giảng nghĩa:

    "Vì sao? Bởi lý do nào? Vì phục-dụng phần thân của chúng là tạo duyên với chúng, cũng như người ăn bá cốc từ đất thì chân không rời khỏi mặt đất vậy." Những sản phẩm có liên quan tới tánh mạng của sinh vật, như tơ lụa chẳng hạn, được gọi là "phần thân." Một khi quý vị mặc y phục làm bằng tơ lụa tức là quý vị tạo ra một mối nhân duyên với những con tằm đã nhả tơ để dệt nên tấm lụa. Nếu không muốn trở thành những loài vật ấy thì quý vị phải cắt đứt mọi nhân duyên với chúng.

    Thủy tổ loài người vốn đến từ trời Ðại Phạm. Trong nhiều kiếp lâu xa về trước, thế gian gặp nạn kiếp-hỏa và bị thiêu hủy đến không còn dấu vết loài người nữa. Trải qua một quãng thời gian dài không biết là bao lâu, thì có những thiên nhân từ trời Ðại Phạm bay tới thế gian. Bấy giờ, khắp mặt đất phủ đầy một thứ gọi là "địa phì” (mỡ đất); các thiên-nhân này thấy "địa phì" trông rất đẹp mắt, bốc lên ngửi thì thấy rất thơm, nên mới ăn thử. Ăn "địa phì" vào rồi thì họ không bay đi được nữa! Bởi không "cỡi mây cỡi sương" được nữa nên họ đành phải ở lại thế gian. Khi thấy anh chị em của mình và các thiên-nam thiên nữ khác bay ngang qua trên trời, họ liền gọi với lên. Những thiên-nhân ấy xuống tới thế gian thì cũng đều ăn "địa phì" cả, và ăn rồi thì ai nấy cũng đều không bay lên được nữa, nên đều không thể trở về lại cõi trời. Do đó, thế gian có loài người. Có nhiều người cho rằng loài người là từ khỉ tiến hóa thành, nếu thế thì tại sao con người lại không thành khỉ trở lại?

    Thưở ban sơ, thiên nhân từ trên trời bay tới thế gian, rồi do ăn "địa phì" mà phải ở lại nơi này và trở thành "loài người." Nhân số ở thế gian mỗi ngày mỗi gia tăng thì "địa phì" cũng mỗi ngày mỗi vơi dần. Khi món "địa phì" đã cạn, thì họ phải ăn bá cốc, tức là một trăm loại hạt của thế gian. Ðó là:

    1) khoảng hai mươi giống lúa dé (đạo);

    2) khoảng hai mươi giống kê (lương);

    3) khoảng hai mươi giống lúa nếp (thử);

    4) khoảng hai mươi loại rau (thái);

    5) khoảng hai mươi thứ trái cây (quả).

    Mỗi thứ có chừng hai mươi loại khác nhau, tổng cộng cả thảy ước khoảng một trăm loại, do đó gọi là "bá cốc." Khi loài người chuyển sang ăn bá cốc thì thế nào? Vì bá cốc vốn do đất sản sanh cho nên một khi loài người ăn bá cốc vào thì chân họ không rời khỏi mặt đất được nữa. Khoa học giải thích đó là do sức hút của trái đất; kỳ thật, đó là vì con người ăn những thứ này mà ra.

    "Người nào có thể khiến thân tâm xa lánh thân và phần thân của mọi loài chúng sanh, nhất định không để cho thân hoặc tâm mình tạo ra những nghiệp duyên có liên quan đến thân thể và tánh mạng của bất cứ sinh vật nào; cả thân lẫn tâm đều không mặc, không ăn chúng, thân không sát sanh, tâm cũng không sát sanh; không mặc những y phục có liên quan tới mạng sống của chúng sanh, cũng chẳng ăn thịt của chúng sanh (thứ thịt có sanh mạng); thì Ta nói rằng người ấy là bậc giải thoát chân chánh, một kẻ đã thật sự được giải thoát."


    Kinh Văn:

    Hán Việt: "Như ngã thử thuyết, danh vi Phật thuyết; bất như thử thuyết, tức Ba-Tuần thuyết."

    Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy tức là lời của Ma Ba-Tuần."


    Giảng nghĩa:

    "Như lời Ta nói đây mới gọi là Phật nói. Những đạo lý mà Ta nói đây chính là giáo pháp mà tất cả chư Phật trong mười phương ba đời thuyết giảng. Nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần. Những điều phù hợp với giáo lý do Ta thuyết giảng thì mới là Pháp do Phật nói; còn nếu trái ngược với những đạo lý ta dạy, thì là lời của Ma-vương vậy."

    Cho nên, quý vị được nghe Kinh Lăng-Nghiêm rồi thì có thể xem bộ Kinh này như tấm "kính chiếu yêu" vậy. "Kính chiếu yêu" là một loại kính tương tự như gương soi mặt, hễ đem kính này rọi vào kẻ nào thì nguyên hình của kẻ ấy sẽ hiện ra trong gương. Như những kẻ đội lốt người chẳng hạn, bất luận là quái vật, heo tinh, trâu tinh, ngựa tinh, sơn yêu thủy quái, hoặc quỷ vương... hễ lấy kính này ra soi thì quý vị sẽ biết được chân tướng của chúng. Bây giờ quý vị nghe Kinh Lăng-Nghiêm rồi, hễ ai nói ra pháp gì thì quý vị cứ đem pháp ấy so sánh với lời dạy trong Kinh là biết được họ nói đúng hay sai ngay; vì thế mà nói rằng bộ Kinh này cũng giống như một tấm "kính chiếu yêu" vậy.

    Hôm trước tôi có nói rằng người mù, người điếc và người câm đều không có cơ hội được nghe tôi giảng Kinh. Người điếc tất nhiên không nghe được gì cả, song tôi không phải nói về những người tai bị điếc, mà chỉ muốn nói tới những kẻ tuy tai nghe được rõ nhưng lại rất thờ ơ. Tôi giảng Phật Pháp cho họ nghe mà họ lại nghe không vô, như thế có khác gì người điếc đặc? Người câm thì không nói được, cũng chẳng thể hiểu hết được những gì tôi giảng; nguyên do cũng tương tự như trường hợp người điếc vậy.

    Do đó, sau khi nghe xong Kinh Lăng-Nghiêm, tôi hy vọng mỗi người trong quý vị sẽ trở thành một bậc Thiện-tri-thức, một người chân chánh hiểu Phật Pháp, và sẵn sàng đi truyền bá giáo pháp và cảm hóa những kẻ đui mù, câm, điếc nọ. Khi thuyết giảng, quý vị có thể dùng máy phát thanh để truyền thanh đến khắp mọi nơi; như thế, dù ở ngoài xa họ cũng có thể nghe được Phật Pháp và không còn là người câm, người điếc nữa. Những kẻ không hiểu Phật Pháp là những kẻ đáng thương nhất, do đó, sau khi đã chân chánh thông hiểu Phật Pháp rồi thì quý vị nên đi giáo hóa chúng sanh. Cho nên, bây giờ mọi người cần phải đặc biệt chú ý tu học Phật Pháp.

    (Còn tiếp)
    Hôm nay là ngày đầu tiên của quãng đời còn lại :ciao:

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •