kết quả từ 1 tới 17 trên 17

Ðề tài: Các cõi tiên,thiên & atula

  1. #1

    Mặc định Các cõi tiên,thiên & atula

    Trinh dan tu nguon...thuvienhoasen.org
    CÁC CÕI TIÊN,THIÊN & ATULA

    Tiên là những chúng sinh trên loài người, nhưng không nương theo giới định tuệ, không biết tam-ma-đề, lại riêng tu theo vọng niệm, để tâm củng cố hình hài, vào trong rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên. Mười thứ tiên như sau:
    “A Nan, các chúng sinh kia, kiên cố dùng đồ bổ mà không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu, thì gọi là Địa hành tiên.
    Kiên cố dùng cỏ cây mà không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu, thì gọi là Phi hành tiên.
    Kiên cố dùng kim thạch mà không dừng nghỉ, khi đạo hóa chất được thành tựu, thì gọi là Du hành tiên.
    Kiên cố làm những động tác mà không dừng nghỉ, khi khí tinh được thành tựu, thì gọi là Không hành tiên.
    Kiên cố luyện nước bọt mà không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên hành tiên.
    Kiên cố hấp thụ tinh hoa mà không dừng nghỉ, khi hấp thụ được thành tựu, thì gọi là Thông hành tiên.
    Kiên cố làm thuật phù chú mà không dừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu, thì gọi là Đạo hành tiên.
    Kiên cố chuyên chú tâm niệm mà không dừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu, thì gọi là Chiếu hành tiên.
    Kiên cố về thủy hỏa giao cấu mà không dừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, thì gọi là Tinh hành tiên.
    Kiên cố tập luyện biến hóa mà không dừng nghỉ, khi giác ngộ được thành tựu, thì gọi là Tuyệt hành tiên”.
    “A Nan, các vị ấy đều ở trong loài người mà luyện tâm, tuy không tu chính giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ ở trong núi sâu hoặc trên đảo giữa bể cả, cách tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển. Nếu không tu phép Tam muội, thì khi quả báo hết rồi, trở lại tản vào trong lục đạo
    Tiên là những người bỏ chốn thế gian ồn náo, vinh hoa phú quý, danh lợi thị phi, ẩn mình trong hang, trong núi, hải đảo, nơi mà loài người không đến được để tu theo những pháp củng cố hình hài, trường thọ sống lâu, chớ không tu tập theo giới định tuệ.
    Do tu nhân riêng biệt thành quả hư vọng, do tu luyện pháp trường sanh nên tiên cũng có thần thông, khinh an, sống thọ, nhưng dù có thọ đến đâu thì tiên vẫn còn bị chi phối bởi luật sanh tử và cũng có ngày thân này phải tan mà đọa lạc.
    1. Địa hành tiên: đồ bổ của những người tu tiên, chỉ có họ mới biết với nhau, mình mà dùng nhiều đồ bổ thì nó thành độc, phải có những món thuốc đặc biệt. Một số vị kiên cố dùng đồ bổ, chuyên dùng những loại chất bổ không dừng nghỉ. Khi chất bổ này thành tựu thì vị tiên đó đi trên mặt đất rất nhẹ nhàng vậy.
    2. Phi hành tiên: vị này nếm theo vị của từng loại cỏ cây, biết loại nào trị bịnh nào, loại dược thảo nào dùng vào khiến cơ thể khoẻ mạnh, khoan khoái, bình an. Như các ông lang thầy thuốc, cắt, phơi khô hay sao cây cỏ lên, rồi nghiền nát thành bột, bào chế dùng để trị bịnh. Cũng thế do chuyên dùng cỏ cây, các loại thuốc dược thảo nên cơ thể các vị tiên rất khoan khoái an ổn. Và tiên luyện như vậy liên tục, không dừng nghỉ. Khi thuốc này thành tựu thì tiên phi hành như bay, đi như bay.
    3. Du hành tiên: trong đá có nhiều loại ngọc, vàng, kim khí, đá ngọc rồi tiên mài, nấu, ngâm, bào chế các chất này thế nào đó để họ dùng được. Kiên cố bền tâm lâu dài dùng các loài bào chế này không dừng nghỉ. Khi công phu thành tựu thì vị này sẽ đi nhanh như chạy, để thấy cái khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, cứng cáp của cơ thể.
    Ở đỉnh núi Thị vải, Bà-rịa, Vũng Tàu, có một người sống ở đấy. Chỗ ở của ông chỉ là một cái lều, nằm ngủ ở trên một cái chõng và trồng mấy cây bắp rau để ăn. Ông làm nghề đi gánh thuê buôn bán dưới chân núi. Thế cho nên buổi sáng ông phải từ đỉnh núi đi xuống chợ gánh thuê để lấy tiền sinh sống. Đến chiều xong việc rồi lại lên núi tiếp.
    Từ chân núi đến đỉnh núi là chúng ta phải trèo hì hục mất cả ngày, nhưng chân ông bước nhanh như chạy thoăn thoắt như thỏ mà không bám vào đâu cả, thoáng một cái ông đã đến đỉnh núi rồi. Chắc là kiếp trước ông có tu tiên, được quả du hành tiên này nên kiếp này thật lạ lùng là lên đỉnh núi mà ở một mình yên tĩnh và đi nhanh như chạy.
    4. Không hành tiên: kiên cố bền chí hoạt động, tập thể dục có phương pháp, những động tác có bài bản. Tập như thế không ngừng, như đây đã nói hai chữ kiên cố, thì mới hy vọng thành công, chứ không phải là dễ được. Khi phương pháp tập khiến cho cơ thể nhẹ mạnh này được thành tựu, vị tiên này đi được ở trong hư không, đi như thoảng qua gió mà mình không hay.
    5.Thiên hành tiên: kiên cố luyện nước bọt không dừng nghỉ. Nước bọt rất bổ và chuyên dùng luyện. Khi nhuận đức này thành tựu thì vị này gọi là Thiên hành tiên.
    6. Thông hành tiên: kiên cố hấp thụ tinh hoa không dừng nghỉ. Buổi sáng, trưa, chiều, tiên hướng về mặt trời nhìn đăm đăm vào mặt trời để thâu cái tinh khí của mặt trời. Khi luyện thành tựu thì vị này gọi là Thông hành tiên.
    7. Đạo hành tiên: kiên cố luyện những loại phép thuật phù chú bay loạn không dừng nghỉ. Khi thuật pháp được thành tựu thì gọi là Đạo hành tiên.
    8. Chiếu hành tiên: kiên cố chuyên chú tâm niệm không dừng nghỉ. Các vị này cũng có phép thuật của họ, chuyên một câu nào đó khi thành tựu thì thành Chiếu hành tiên có ánh sáng chiếu quanh tiên.
    9.Tinh hành tiên: thủy hỏa giao cấu giao nhau không dừng nghỉ. Khi cảm ứng được thành tựu thì gọi là Tinh hành tiên.
    10. Tuyệt hành tiên: kiên cố tập luyện biến hoá không dừng nghỉ. Khi thành công mà đây tiên gọi là giác ngộ thì thành Tuyệt hành tiên.
    Như vậy, tiên cũng có từng danh hiệu riêng nhau. Tu tiên nhưng mỗi người tu mỗi cách, ở đây Phật nói cho chúng ta biết là có mười loại tiên.
    Mỗi vị tiên, Đức Phật đều nhắc lại hai chữ kiên cố tức phải có công phu tinh tấn không dừng nghỉ. Những việc tu luyện này phải bền tâm lâu dài và mắc công, chứ không qua loa cho xong mà được đâu. Kiên cố và có tâm luyện tập, tiên phải hơn mình vì có tinh thần, sức khoẻ và sống thọ, nhưng cũng không phải là tiên không chết. Hết phước, hết thọ rồi thì tiên cũng đọa, nên Đức Phật cũng khuyên chúng ta không nên nguyện tu theo những hạnh này, vì còn lẩn quẩn trong tam giới.
    CÕI TRỜI DỤC GIỚI (còn dục)
    A Nan, các người thế gian, không cầu đạo thường trụ, chưa có thể rời bỏ được sự ân ái với vợ mình, nhưng tâm không buông lung trong việc tà dâm, do tâm đứng lặng sinh ra sáng suốt, sau khi mệnh chung ở gần với mặt trời, mặt trăng; một loài như thế, gọi là Tứ Thiên Vương Thiên.
    Đối với vợ mình, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư, không được toàn vị, thì sau khi mệnh chung, vượt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp nhân gian; một loài như thế, gọi là Đao Lợi Thiên.
    Gặp cảnh dục tạm theo, bỏ đi không nhớ nghĩ, ở trong nhân gian, động ít, tĩnh nhiểu, thì sau khi mệnh chung, sáng rỡ ở yên trong cõi hư không, ánh sáng mặt trời, mặt trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có ánh sáng; một loài như thế, gọi là Tu Diệm Ma Thiên.
    Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến bên mình, chưa chống đối được, thì sau khi mệnh chung, lên trên chỗ tinh vi, không tiếp với những cảnh nhân thiên cõi dưới, cho đến gặp hoại kiếp, tam tai cũng không đến nơi; một loài như thế, gọi là Đâu Suất Đà Thiên.
    Chính mình không có tâm dâm dục, chỉ đáp ứng với người khác mà làm, trong lúc phô bày, vô vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh chung, vượt lên sinh vào cảnh biến hóa; một loài như thế, gọi là Lạc Biến Hóa Thiên.
    Không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm việc ngũ dục; trong lúc làm việc ấy, rõ ràng là siêu thoát, thì sau khi mệnh chung, vượt trên tất cả những cảnh biến hóa và không biến hóa; một loài như thế, gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.
    A Nan, sáu cõi trời như thế, hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục Giới
    Dục giới là những vị này chưa rời bỏ được ân ái, dục nhiễm. Họ tu thập thiện, thiền định, bố thí nhưng vẫn còn dục nhiễm. Tùy theo lòng dục giảm nhẹ đến đâu thì ở trên cõi trời cao đến nấy. Các vị trời dục giới thân hình tuy không động nhưng tâm còn dấu vết.
    Từ cõi trời dục giới thứ sáu trở xuống là từ cõi Tha hoá tự tại thiên trở xuống vẫn còn bị tam tai tức cõi dục giới còn tam tai. Tam tai: có lửa (vì có dục nên còn lửa), gió (thổi tan xác đi), bão lụt (nước nhận chìm).
    Cõi dục giới thứ sáu là cõi trời Tha hoá tự tại thiên: chỉ đồng thế gian mà làm việc ngũ dục. Như chúng ta không thiết ăn nhưng đến bữa cơm vẫn vào ngồi ăn mà không có cảm giác gì. Tuy là đáp ứng vợ chồng nhưng dục cảm vô vị tức tâm vị trời này không thiết tha nữa, nên siêu thoát.
    Từ trạng thái chán dục này mới bước lên cõi trời sắc giới là không còn dục nữa.
    Đức Phật khi sắp thành Phật rồi mà ngài ở cõi trời Dục giới là một cõi rất thấp trong các cõi trời. Voi trắng sáu ngà từ cung trời Đâu Suất thiên (cõi thứ tư của dục giới) giáng trần. Thật ra đây là Đức Phật hiện thân ở cõi trời Đâu Suất chứ không phải bị nghiệp lực và đọa ở cảnh ấy. Vì nguyện lực, bồ tát mới hiện thân ở cõi ấy. Tương lai Đức Phật Di Lặc cũng từ Đâu Suất xuống ta bà.
    Các đức Phật vì nguyện lực giáng sanh xuống trần, khi tái sanh đều giáng sanh vào dòng thắng lưu có phước đức tức là dòng thù thắng, tức là cõi trời hoặc ngài sanh vào dòng quý phái Thích Ca vua chúa sát-đế-lợi là giới quan quyền thượng lưu trong xã hội, còn nghèo hèn tầm thường gọi là hạ lưu.
    Tu nhân gì để về cõi Đâu suất? Phải có thiền định, phải có thập thiện, tâm dục nhẹ.
    Đâu Suất nội viện khác với Đâu suất là thế nào?
    Đối với những tầng trời sắc và vô sắc, những cõi trên, thì Đâu Suất hãy còn nặng nghiệp lắm.
    Nội viện Đâu suất là những vị có duyên với Đức Phật Di Lặc. Viện là chỗ an trú viện của Đức Phật Di Lặc. Người nào có duyên, có nguyện chịu sự giáo hoá của Đức Phật Di Lặc thì chọn cõi Đâu suất nguyện về vì có Đức Phật Di Lặc giảng pháp. Đức Phật Thích Ca cũng ở đấy để giảng pháp. Giảng Thắng Pháp tập yếu luận cho mẫu hậu Ma-ya trong bảy ngày.
    CÕI TRỜI SẮC GIỚI (ly dục)
    A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền na, thì không có trí tuệ.
    Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm dục, trong lúc đi, lúc ngồi, đều không nghĩ nhớ, lòng ái nhiễm không sinh, không còn ở trong Dục Giới, thì bản thân liền được làm phạm lữ; một loài như thế, gọi là Phạm Chúng Thiên.
    Tập quán ngũ dục đã trừ rồi, tâm ly dục hiện ra, vui vẻ thuận theo các luật nghi, thì người đó liền có thể thực hành những phạm đức; một loài như thế gọi là Phạm Phụ Thiên.
    Thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, uy nghi không thiếu, cấm giới trong sạch, lại có thêm trí sáng, thì người đó liền được thống lĩnh phạm chúng, làm Đại Phạm Vương; một loài như thế gọi là Đại Phạm Vương.
    A Nan, ba loài tốt đó, tất cả khổ não không bức bách được; tuy không phải chân chính tu phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc của Dục Giới không lay động được, nên gọi là Sơ Thiền.
    Còn tiếp.....
    Last edited by COLONY; 09-01-2010 at 11:23 AM.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  2. #2

    Mặc định

    Tu nhân gì để về cõi Đâu suất? Phải có thiền định, phải có thập thiện, tâm dục nhẹ.
    Đâu Suất nội viện khác với Đâu suất là thế nào?
    Đối với những tầng trời sắc và vô sắc, những cõi trên, thì Đâu Suất hãy còn nặng nghiệp lắm.
    Nội viện Đâu suất là những vị có duyên với Đức Phật Di Lặc. Viện là chỗ an trú viện của Đức Phật Di Lặc. Người nào có duyên, có nguyện chịu sự giáo hoá của Đức Phật Di Lặc thì chọn cõi Đâu suất nguyện về vì có Đức Phật Di Lặc giảng pháp. Đức Phật Thích Ca cũng ở đấy để giảng pháp. Giảng Thắng Pháp tập yếu luận cho mẫu hậu Ma-ya trong bảy ngày.

    Xin hỏi : có thể mêu tả về hình ảnh của cõi Đâu Suất như thế nào ? trên đó có gì? có cây bông hoa lá , có nhiều Phật ? có gì không ? Và làm sao để biết mình có duyên với Đức Phật Di Lặc ?

  3. #3

    Mặc định

    Chúng tôi nghe nói rằng ngoài cõi Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà còn có các cõi Tịnh độ khác như Tịnh độ Đâu Suất của Bồ tát Di Lặc. Xin cho biết đôi nét về cõi Tịnh độ Đâu Suất và pháp tu để được vãng sinh về Tịnh độ này đồng thời kính hỏi vì sao ngày nay khuynh hướng tu tập cầu vãng sinh Tịnh độ Đâu Suất không phổ biến bằng vãng sinh Tịnh độ Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà?

  4. #4

    Mặc định

    A Nan, thứ nữa, các hàng Phạm Thiên khi thống lĩnh phạm chúng, lại tu tập phạm hạnh được viên mãn, làm cho tâm đứng lặng không lay động, và do sự đứng lặng ấy, sinh ra sáng suốt; một loài như thế gọi là Thiểu Quang Thiên.
    Hào quang sáng suốt thêm nhiều, chói sáng không cùng, ánh vào thập phương thế giới đều thành trong sáng như ngọc lưu ly; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
    Nắm giữ hào quang viên mãn, tạo thành giáo thể, phát ra sự giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang Âm Thiên.
    A Nan, ba loài tốt ấy, tất cả lo buồn không bức bách được; tuy không phải chân chính tu hành phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc thô động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị thiền.
    A Nan, những loài trời như thế, khi dùng hào quang viên mãn làm việc giáo hóa, do sự giáo hóa càng rõ lẽ nhiệm mầu, phát ra hạnh tinh tiến, thông với cái vui yên lặng; một loài như thế gọi là Thiểu Tịnh Thiên.
    Cảnh thanh tịnh hiện tiền, dẫn phát không có bờ bến, thân tâm được khinh an, thành cái vui yên lặng; một loài như thế gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
    Thế giới và thân tâm, tất cả hoàn toàn thanh tịnh, đức thanh tịnh được thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền, dồn về vui yên lặng; một loài như thế gọi là Biến Tịnh Thiên.
    A Nan, ba loài tốt đó, đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên lặng, được cái vui vô lượng; tuy không phải chân chính được phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm yên ổn, hoan hỷ được đầy đủ, nên gọi là Tam Thiền.
    A Nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức bách, nguyên nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường trụ, lâu rồi cũng phải tiêu tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng thời đều phóng xả; những tướng thô nặng đã diệt, thì phúc thanh tịnh sinh ra; một loài như thế, gọi là Phúc Sinh Thiên.
    Tâm phóng xả được viên mãn, sự nhận hiểu cao xa càng thanh tịnh; trong cái phúc không gì trở ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột vị lai; một loài như vậy, gọi là Phúc Ái Thiên.
    A Nan, từ cõi trời đó, có hai đường trẽ : Nếu dùng cái tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng trước kia, mà tu chứng an trụ nơi phúc đức viên mãn sáng suốt, thì một loài như thế, gọi là Quảng Quả Thiên.
    Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm chán cả cái khổ và cái vui, lại nghiền ngẫm cái tâm phóng xả, tiếp tục không ngừng, đi đến cùng tột sự phóng xả, thân tâm đều diệt hết, ý nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp, người ấy đã lấy cái sinh diệt làm nhân, thì không thế phát minh tính không sinh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sinh; một loài như thế gọi là Vô Tưởng Thiên.
    A Nan, bốn loài tướng tốt ấy, tất cả những cảnh khổ, vui trong thế gian không lay động được; tuy không phải là chỗ bất động chân thật của đạo vô vi; song, nơi cái tâm hữu sở đắc, công dụng đã thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền.
    A Nan, trong đó, lại có năm bậc Bất Hoàn Thiên, các vị này đã diệt hết tập khí chín phẩm tư hoặc trong cõi dưới rồi, khổ, vui không còn, bên dưới không có chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phận của tâm phóng xả.
    A Nan, khổ, vui cả hai đều diệt, không còn tâm niệm ưa ghét; một loài như thế, gọi là Vô Phiền Thiên.
    Tự tại phóng xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế, gọi là Vô Nhiệt Thiên.
    Khéo thấy thế giới mười phương thảy đều đứng lặng, không còn tất cả những cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế, gọi là Thiện Kiến Thiên.
    Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, sử dụng được không ngăn ngại; một loài như thế, gọi là Thiện Hiện Thiên.
    Quán sát rốt ráo các cực vi, cùng tột tính của sắc pháp, vào tính không bờ bến; một loài như thế, gọi là Sắc Cứu Kính Thiên.
    A Nan, những bậc Bất Hoàn Thiên đó, chỉ riêng bốn vị Thiên Vương Tứ Thiền được có kính nghe, nhưng không thể thấy biết; cũng như hiện nay, có các thánh đạo trường nơi rừng sâu đồng rộng thế gian, đều là những nơi trụ trì của các vị A La Hán, nhưng những người thô thiển thế gian không thể thấy được.
    A Nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy của hình hài; từ đó trở về, gọi là Sắc Giới[3] .
    Chúng ta có thể hiểu các cõi trời sắc giới như sau:
    • Sơ thiền: Phạm chúng thiên, Phạm Phụ Thiên. Đại Phạm Thiên.
    • Nhị thiền: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang thiên, Quang Âm Thiên.
    • Tam thiền: Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên, Biến Tịnh thiên.
    • Tứ thiền: Phước Sanh Thiên, Phước Ái thiên, Quảng Quả thiên và Vô Tưởng thiên.
    • Ngũ Tịnh Cư Thiên: Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Kiến thiên, Thiện Hiện thiên, Sắc Cứu Cánh thiên.
    Cõi sơ thiền tuy không phải chánh định, nhưng không có nhiễm, không có những lỗi lầm như của dục giới nên thoát được các khổ não. Các vị này đã thoát những dục tâm, ngũ dục (sắc thanh hương vị xúc) tuy nhiên họ vẫn còn cái lụy hình hài, nên gọi cõi sắc.
    Như vậy, vừa lên đến sơ thiền là bắt đầu hết lòng dục.
    Lên nhị thiền thì thoát ly được các ưu thụ, trong tâm thanh tịnh. Tất cả tuy không tu chánh định nhưng đã uốn dẹp được các thô lậu tức lầm lạc thô thiển.
    Rồi lên đến cõi tam thiền thì rời bỏ được cái hỷ thọ ở nhị thiền, được cái vui khinh an vô lượng, nên thân tâm cho đến cảnh giới thảy đều thanh tịnh. Trong Phật giáo hay ví vui như vui ở cõi tam thiền.
    Còn tiếp....
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  5. #5

    Mặc định

    Các thông tin rất bổ ích, tuy nhiên khoan vội tin, hãy xem xét kỹ vì những lý do sau:
    - quy luật vũ trụ biến thiên không ngừng, do đó sẽ có sự biến đổi mà chưa kịp cập nhật. Vì đây trích trong kinh, chỉ có đức phật mới hiểu rõ thời đó như thế nào.
    - Biết được những điều như thế, tâm mình như thế nào? Xem thường họ, hãy coi chừng tâm tự mạn nỗi lên.

  6. #6

    Mặc định

    Cõi tứ thiền đã thoát ly được các cảnh khổ, vui thế gian, nên tuy không phải là chánh định, nhưng trong tâm đã có chỗ sở đắc, công phu cũng đã bắt đầu thuần thục và phước báo cũng cao.
    Các vị này tham, sân, si không hiện lên được, nếu loại bỏ được thì chứng A-la-hán, có định lực hàng phục được, nhưng còn ở trong đường luân hồi vì vẫn còn trụ pháp, trụ sắc thân.
    CÕI TRỜI VÔ SẮC GIỚI (ly sắc thân)
    Lại nữa, A Nan, từ chỗ cao nhất của Sắc giới, lại có hai đường trẽ. Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí tuệ, trí tuệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A La Hán, vào Bồ Tát thừa; một loài như thế, gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán.
    Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế gọi là Không xứ.
    Các chất ngại đã tiêu trừ rồi, nhưng không diệt được cái vô ngại, trong đó chỉ còn thức A lại da và còn nguyên vẹn phần nửa vi tế của thức Mạt na; một loài như thế, gọi là Thức xứ.
    Sắc và không đã hiết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt trừ, mười phương vẳng lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô sở hữu xứ.
    Thức tính vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn, mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
    Bọn này xét cùng cái không, nhưng không tột lý không; nếu từ thánh đạo cõi trời Bất Hoàn mà xét cùng, thì một loài như thế, gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La Hán. Nếu từ cõi trời Vô Tưởng và ngoại đạo mà xét cùng cái không, không biết trở về, mê lầm không nghe chính pháp, thì sẽ vào trong luân hồi.
    A Nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả và khi sự báo đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong luân hồi. Thiên vương các cõi kia, thường là Bồ Tát, dùng Tam ma đề mà lần lượt tiến lên, hồi hướng về đường tu hành đạo Phật.
    A Nan, những cõi trời Tứ Không đó, thân tâm diệt hết, định tính hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả; từ đó đến cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
    Bọn đó, đều do không rõ Diệu giác minh tâm, chứa nhóm cái vọng, mà giả dối phát sinh ra ba cõi, giả dối theo bảy loài trong đó, mà chìm đắm và cá thể thụ sinh cũng theo từng loài[4] .
    Các vị này chẳng những thọ mà đến tưởng cũng không, nhưng còn ở trong hành ấm. Coi như lạc ở Vô sắc rồi thì không còn trần tướng, hôn trầm, ngũ trược, căn cảnh đối nhau.
    Dục giới: còn dục và còn sắc,
    Sắc giới: hết dục nhưng còn sắc,
    Vô sắc giới: không dục và không sắc và những cõi này xa xôi lắm, không biết gì. Ở trong định lực thấy không, thấy huyễn, nhưng không nắm được lý không để nhận được tánh chân không, thành ra trụ vào cái không không đó, khi hết định lực thì đọa xuống nên vẫn còn luân hồi.
    Các vị này vẫn còn thức mạt na vi tế và chưa biết rõ đường đi tam-ma-đề. Các ngài ở cõi vô sắc giới xả được phần thô mà chưa xả được phần vi tế vì không biết làm sao mà xả. Còn thân là còn chướng ngại, các ngài không còn thân nữa nhưng còn vô ngại, còn trụ định là ta. Bởi vì thức a-lại-da tuy nó vô ngại nhưng nó vẫn còn chấp trì. Nên các vị này vẫn còn thức thực và tư thực trong bốn thực (như đã nói ở phần tam tiệm thứ), vẫn còn thức chấp duy trì mạng vị.
    CÕI A-TU-LA
    Lại nữa, A Nan, trong ba cõi trời ấy, còn có bốn giống A tu la.
    Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ chính pháp, được thần thông vào hư không, thì giống A tu la này, từ trứng sinh ra, thuộc về loài quỷ.
    Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa, chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng, thì giống A tu la đó, từ thai sinh ra, thuộc về loài người.
    Có chúa A tu la, nắm giữ thế giới, sức mạnh đến chỗ không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; giống A tu la này, nhân biến hóa mà có, thuộc về loài trời.
    A Nan, riêng có một số A tu la thấp kém, sinh ra trong lòng biển lớn, lặn trong thủy huyệt, ban ngày đi chơi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; giống A tu la này, nhân thấp khí sinh ra, thuộc về loài súc sinh.
    A-tu-la là loài quỷ thần hay còn gọi là phi thiên (không phải các vị trời như vừa nêu trên). Tuy a-tu-la có thần thông biến hoá, nhưng còn nhiều lòng sân hận, tranh đấu hơn thua sát phạt nên không được lên cõi trời.
    Có bốn loại a-tu-la:
    1. A-tu-la trời (do hoá sanh),
    2. A-tu-la người (do thai sanh),
    3. A-tu-la quỷ (do noãn sanh),
    4. A-tu-la bàng sanh (do thấp sanh).
    Trong vòng luân hồi, Đức Phật minh họa hình ảnh a-tu-la là tay cầm cung tên, đao gươm và đánh chém tranh hơn tranh thua sát phạt với nhau.
    Đây là những cõi tu nhân riêng biệt mà gặt quả hư vọng nên còn luân hồi.
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  7. #7

    Mặc định

    Cảm ơn Bồ Tát Colony đã chia sẽ ha..ha..
    Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
    Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.
    Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
    Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

  8. #8

    Mặc định

    nếu có thể colony post thêm về cõi đĩa ngục ,ngạ quỉ lên luôn,các loài ma ,quỉ ,ác thần do đâu mà nên ...
    đã lên cõi trời cõi tiên rồi mà không có tâm cứu độ chúng sanh thì có khác chi loài người chỉ biết sống cho riêng mình sợ địa ngục đau khổ trước mắt mà tìm trốn tránh hưởng lạc nơi thiên đường vậy chẳng phải là si hay sao
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

  9. #9

    Mặc định

    NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
    giáo đạo Nam phương


    Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ.

    Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt. Cười...

    Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!

    Bởi vậy cho nên, Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành.

    Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình. Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

    Ấy vậy, rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.

    Nghe và ráng tuân theo.

  10. #10

    Mặc định

    NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
    giáo đạo Nam phương


    Hỉ chư môn đệ, chư nhu.

    Nghe dạy:

    Sự chơn thật và sự giả dối, mắt phàm các con đâu có thế phân biệt đặng.

    Một trường thử Thánh, Tiên, Phật, vì vậy mà phải lập nơi thế gian nầy. Nếu buổi sanh tiền, dầu cho một kẻ phàm tục tội lỗi biết đặng cơ quan mầu nhiệm của Ðấng Chí Tôn là Trời đã sắp đặt, thì cũng chẳng dám gây ra tội lỗi mà thôi, lại có thể đắc đạo mà gấm ghé phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng nữa, huống lựa là các Ðấng ấy phải bị đọa trần mà biết mình hằng giữ, thì mầu nhiệm thử Thần, Thánh, Tiên, Phật, chẳng có nghĩa lý gì hết.

    Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng: Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi.

    Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.

    Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời Thầy dạy là chơn thật.

    Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy đã muộn rồi.

    Vậy các con khá tuân lịnh dạy.

  11. #11

    Mặc định

    Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
    VÔ CÔNG DỤNG HẠNH - VÔ KHUẤT LIỄU HẠNH - VÔ CẤU PHÁP - VÔ TÁT Ý - VÔ SỞ ĐẮC - VÔ SỞ CẦU - VÔ SỞ TRỤ - VÔ SỞ ÚY

  12. #12

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vuive Xem Bài Gởi
    NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
    giáo đạo Nam phương
    Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình. Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

    Ấy vậy, rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.

    Nghe và ráng tuân theo.
    Nam mô A Di Đà Phật, đọc tới đoạn này thì tôi hơi thắc mắc. Thầy thả 1 lũ hổ lang cắn xé chúng sanh, rồi cũng chính Thầy cho chúng sanh mặc bộ thiết giáp để bảo vệ. Như vậy càn khôn vũ trụ, toàn bộ sanh linh này được tạo ra là do trò chơi của Thầy?
    Là Phàm phu đôi khi không hiểu thấu được cái lý huyền vi mà Thầy đã ban tặng cho chúng sanh. Nhưng đôi lúc cảm thấy buồn vì sự cho nhận này.
    Các cao nhân có thể giải thích để người trần mắt thịt có thể hiểu thêm.

    Nam Mô Thường Bất Khinh Bồ Tát Ma Ha Tát

  13. #13

  14. #14

    Mặc định

    Các bạn thiện hữu trí thức!
    Vâng, là vậy đó, xem Cựu Ước, Tân Ước của Công Giáo đôi khi còn kinh hãi, shock hơn. Chỉ những điều nho nhỏ thế thôi, bạn hữu cũng thấy được Phật Pháp, con đường Giác ngộ mà Như Lai đã chỉ ra cho thấy Trí tuệ của Ngài như thế nào rồi, ngẫm lại mới thấy thật có duyên phước lớn và thiện lành biết bao mới gặp được Phật Pháp khi mà còn chưa đến hồi quá rối loạn, diệt tận (Thời Mạt Pháp). Thôi thì cứ thế mà tu tập tinh tấn, kiên cố tâm tu, kíp kíp mau đạt quả vị A-La-Hán, Bồ-Tát, Phật, không thì cố gắng tính tấn về Ngũ Phương Chư Phật: Đông Phương Thế giới Phật A Súc - Phật Dược Sư , Nam Phương Thế giới Phật Bảo Sanh, Tây Phương Thế giới Phật A-Di Đà, Bắc Phương Thế giới Phật Thành Tựu, Trung Ương Thế giới Phật Tỳ Lô hay ghé về Nam Hải - Phật Quán Thế Âm cũng được.
    Tôi thường nói với các đạo hữu khi trò chuyện Đạo-Đời: "Phật A-Di-Đà ơi! Cho con lên làm cọng cỏ trên đó cũng được, con sợ ở ta-bà quá rồi" (hay qua Nam Hải - Phật Quán Thế Âm - làm giọt nước biển, giọt cam lồ hay lá dương liễu xíu xíu cũng được). Các bạn tôi cười khẩy: "Ối dào, ông mà tới sân bay là police của Ngài mời ông xuống trở lại ta-bà rồi chứ ở đó mà cho nhập với cảnh". Tôi cười và nói: "Ừ! dám thế thật!. Thôi kệ cứ cố gắng tu tập, nếu đến được sân bay ở đó chút xíu cũng được!". Các bạn hữu nào nếu có lên được đó rồi thì nhớ độ ADV lên theo với nhé, rất là cảm ơn lắm lắm.

    "Sống thì ung dung tự tại
    Chết thì giải thoát siêu thăng"
    (Chư Tổ)

    "Thân ta ở tạm nơi trần thế
    Tâm hướng Tây Phương quyết chí về".

    Vài lời chia sẻ. Chúc các bạn hữu đạt thành tâm nguyện.

    Cầu mong Chư Phật, Chư Bồ-Tát từ bi gia hộ cho mọi người.
    Từ Bi- Trí Tuệ - Dũng Lực
    Last edited by AnhDaoVang_2010; 30-04-2010 at 05:30 PM.

  15. #15

    Mặc định

    Phật không dọa người, tất cả do nhân quả, ma thường hay làm ngược lại, dọa mãi chẳng ai tin.
    A Mi Là Phật

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi COLONY Xem Bài Gởi
    Đức Phật khi sắp thành Phật rồi mà ngài ở cõi trời Dục giới là một cõi rất thấp trong các cõi trời. Voi trắng sáu ngà từ cung trời Đâu Suất thiên (cõi thứ tư của dục giới) giáng trần. Thật ra đây là Đức Phật hiện thân ở cõi trời Đâu Suất chứ không phải bị nghiệp lực và đọa ở cảnh ấy. Vì nguyện lực, bồ tát mới hiện thân ở cõi ấy. Tương lai Đức Phật Di Lặc cũng từ Đâu Suất xuống ta bà.
    Các đức Phật vì nguyện lực giáng sanh xuống trần, khi tái sanh đều giáng sanh vào dòng thắng lưu có phước đức tức là dòng thù thắng, tức là cõi trời hoặc ngài sanh vào dòng quý phái Thích Ca vua chúa sát-đế-lợi là giới quan quyền thượng lưu trong xã hội, còn nghèo hèn tầm thường gọi là hạ lưu.
    Tu nhân gì để về cõi Đâu suất? Phải có thiền định, phải có thập thiện, tâm dục nhẹ.
    Đâu Suất nội viện khác với Đâu suất là thế nào?
    Đối với những tầng trời sắc và vô sắc, những cõi trên, thì Đâu Suất hãy còn nặng nghiệp lắm.
    Nội viện Đâu suất là những vị có duyên với Đức Phật Di Lặc. Viện là chỗ an trú viện của Đức Phật Di Lặc. Người nào có duyên, có nguyện chịu sự giáo hoá của Đức Phật Di Lặc thì chọn cõi Đâu suất nguyện về vì có Đức Phật Di Lặc giảng pháp. Đức Phật Thích Ca cũng ở đấy để giảng pháp. Giảng Thắng Pháp tập yếu luận cho mẫu hậu Ma Datrong bảy ngày.
    Cõi trời Đâu Suất là nơi rất trang nghiêm, thù thắng, hưởng đủ mọi sự vui thắng tuyệt diệu. Để hiểu thêm về cõi trời này, cần đọc qua hai bộ Kinh sau đây: Kinh quán Di Lặc Bồ-tát thượng sanh Đâu-suấtPhật Nói Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật



    Kinh quán Di Lặc Bồ-tát thượng sanh Đâu-suất
    - Hán dịch: Tống , Cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh
    - Việt dịch: Thích nữ Như Phúc, Chùa Kim Quang, Nha Trang.


    Tôi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-Cô-Độc, rừng cây Thái tử Kỳ-Đà, nước Xá-Vệ. Lúc bấy giờ là đầu đêm, toàn thân đức Thế Tôn phóng ra hào quang sắc vàng. Hào quang ấy tỏa chiếu chung quanh khắp vườn Kỳ-Đà đến 7 vòng, tỏa chiếu nhà trưởng giả Tu-Đạt cũng sắc vàng. Hào quang vàng rực rỡ như những đám mây. Khắp nước Xá-Vệ nơi nào cũng mưa tuôn những hoa sen màu vàng và trong hào quang ấy có vô lượng trăm ngàn các vị hóa Phật xướng rằng: “ Nơi đây hôm nay có ngàn Bồ-tát, vị thành Phật đầu tiên tên là Câu Lưu Tôn và vị thành Phật cuối cùng tên Lâu Chí”.

    Khi nghe lời này xong, tôn giả A-nhã Kiều Trần Như xuất thiền cùng với 250 quyến thuộc, tôn giả Ma-ha Ca-Diếp cùng với 250 quyến thuộc, tôn giả Đại Mục Kiền Liên cùng với 250 quyến thuộc, tôn giả Xá Lợi Phất cùng với 250 quyến thuộc, Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng 1.000 Tỳ-kheo ni quyến thuộc, trưởng giả Tu-Đạt cùng 3.000 Ưu-bà-tắc, bà Tỳ-xá-khư cùng 2.000 Ưu-bà-di. Lại có Bồ-tát Ma-ha-tát tên Bạt-đà-ba-la cùng 16 quyến thuộc, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử cùng 500 Bồ-tát quyến thuộc vân tập. Tất cả đại chúng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà... trông thấy hào quang tỏa sáng của đức Phật nên đều vân tập.

    Lúc bấy giờ đức Thế Tôn xuất tướng lưỡi rộng dài, phóng ra ngàn hào quang sáng, mỗi một hào quang có ngàn màu, trong mỗi một màu có vô lượng hóa Phật. Các vị hóa Phật này đều đồng thanh nói về các pháp đà-la-ni bất khả tư nghì sâu xa của các đại Bồ-tát thanh tịnh. Đó là những đà-la-ni như: A nan đà mục khư, Không tuệ, Vô văn tánh, Đại giải thoát vô tướng.

    Khi ấy, đức Thế Tôn dùng một âm thanh để nói trăm ức đà-la-ni môn. Thế Tôn nói đà-la-ni này rồi, trong hội chúng có một Bồ-tát tên Di-Lặc nghe lời Phật nói liền đạt trăm vạn ức đà-la-ni môn. Bồ-tát rời chỗ ngồi, sửa y tề chỉnh, cung kính chắp tay đứng trước Phật.

    Khi ấy tôn giả Ưu-ba-ly cũng rời chỗ ngồi, cúi đầu đảnh lễ Phật, thưa:

    - Bạch đức Thế Tôn! Thuở xưa ở trong Luật và các tạng Kinh đều dạy là A-dật-đa tiếp đến sẽ làm Phật, nhưng A-dật-đa hoàn toàn còn thân phàm phu, chưa đoạn các lậu hoặc, người này khi chết sẽ sanh về đâu? Hiện tại tuy đã xuất gia nhưng A-dật-đa không tu thiền định, không đoạn phiền não mà được Phật thọ ký: “Người này chắc chắn thành Phật” . Vậy thì người này khi chết sẽ sanh vào cõi nước nào?

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Thầy hãy lắng nghe thật kỹ, khéo suy tư và nhớ nghĩ những điều này: Hôm nay Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri ở trong đại chúng này nói về sự thọ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đại Bồ-tát Di-Lặc. Từ đây cho đến 12 năm sau khi chết, người này chắc chắn sẽ được sanh sang cõi trời Đâu-Suất. Lúc bấy giờ trên trời Đâu-Suất có 500 vạn ức thiên tử, mỗi một thiên tử đều tu pháp bố thí ba-la-mật sâu xa để cúng dường vị Bồ-tát còn một đời sẽ làm Phật và dùng phước lực trời tạo thành cung điện. Mỗi mỗi thiên tử đều mở mũ chiên-đàn ma ni bảo trên người, quỳ gối chắp tay phát nguyện: “Nay con đem mũ trời châu báu vô giá này để cúng dường chúng sanh tâm rộng lớn. Người này chẳng bao lâu trong tương lai sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con ở nơi thế giới trang nghiêm của đức Phật kia được thọ ký, làm cho mũ báu của con hóa thành những vật cúng dường” . Như thế, các thiên tử đều quỳ gối và phát nguyện rộng lớn. Lúc các thiên tử phát nguyện xong, các mũ báu hóa thành 500 vạn ức cung báu. Mỗi một cung báu có 7 lớp tường. Mỗi một lớp tường do 7 báu tạo thành. Mỗi một châu báu phát ra 500 ức ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có 500 ức hoa sen. Mỗi một hoa sen hóa thành 500 ức hàng cây 7 báu. Mỗi một lá cây có 500 ức màu châu báu . Mỗi một màu châu báu có 500 ức ánh sáng vàng Diêm Phù Đàn. Trong mỗi một ánh sáng vàng Diêm Phù Đàn phát ra 500 ức Bảo nữ chư thiên. Mỗi một Bảo nữ đứng dưới cây cầm trăm ức châu báu và vô số anh lạc phát ra âm nhạc vi diệu. Trong âm nhạc diễn nói hạnh pháp luân Bất thối chuyển địa. Cây ấy sanh ra quả màu như pha-lê. Tất cả các màu nhập vào trong màu pha-lê. Các ánh sáng này lượn vòng bên phải, chuyển thành những thanh âm diễn nói pháp đại từ đại bi. Mỗi một vách tường cao 62 do-tuần, dày 14 do-tuần, có 500 ức Long vương vây quanh tường này. Mỗi mỗi Long vương phun ra 500 ức hàng cây 7 báu làm tăng thêm sự tráng lệ trên tường. Tự nhiên có gió thổi vào làm xao động những hàng cây. Các cây chạm vào nhau tạo thành lời diễn nói các pháp ba-la-mật và khổ, không, vô thường, vô ngã. Tại cung có một đại thần tên Lao-độ-bạt-đề rời tòa đứng dậy kính lễ chư Phật khắp 10 phương và phát nguyện: “Con vì phước đức cúng dường thiện pháp đường cho Bồ-tát Di-Lặc, trên trán của con tự nhiên có bảo châu “ . Phát nguyện xong, trên trán của đại thần tự nhiên có 500 ức bảo châu, lưu ly, pha-lê đủ tất cả màu sắc như màu xanh sẫm ánh đỏ trong suốt từ trong ra ngoài. Ánh sáng của ngọc ma-ni ấy xoay vần trong hư không hóa thành cung điện báu cao 49 tầng, vô cùng tốt đẹp. Chung quanh cung điện có lan can do vạn ức ngọc ngà châu báu của trời Phạm thiên hợp thành. Giữa các lan can ấy hóa sanh 9 ức thiên tử, 500 ức thiên nữ. Trong tay của mỗi thiên tử hóa sanh vô lượng ức vạn hoa sen 7 báu. Trên mỗi một hoa sen có vô lượng ức ánh sáng và trong ánh sáng ấy có đủ các nhạc khí. Nhạc trời này không đánh tự kêu. Khi tiếng nhạc trỗi lên thì các thiên nữ tự nhiên cầm những nhạc khí đua nhau ca múa. Họ ca ngâm, diễn nói 10 pháp lành, 4 thệ nguyện lớn. Chư thiên nghe được đều phát tâm đạo vô thượng.

    Trong các cảnh vườn có ao lưu ly 8 màu, mỗi một ao được tạo thành bởi 500 ức châu báu. Trong mỗi ao có nước 8 công đức và đủ 8 màu, nước phun lên quanh các trụ. Phía ngoài 4 cửa hóa sanh 4 hoa, nước từ trong hoa chảy ra thành dòng hoa báu, trên mỗi hoa có 24 thiên nữ thân sắc tươi đẹp, trang nghiêm như thân tướng của các Bồ-tát. Trong tay thiên nữ hóa ra 500 ức bình báu, trong mỗi bình báu tự nhiên chứa đầy chất cam-lồ. Vai trái họ mang vô lượng chuỗi anh lạc, vai phải của họ đeo vô lượng nhạc khí, từ nước hiện lên như mây tụ giữa hư không, tán thán 6 pháp ba-la-mật của Bồ-tát.

    Người nào vãng sanh lên cõi trời Đâu-Suất, tự nhiên được các thiên nữ này hầu hạ. Có tòa sư tử lớn bằng 7 báu cao 4 do tuần trang trí bằng vàng Diêm Phù Đàn và vô lượng châu báu. Ở đầu 4 góc tòa sanh 4 hoa sen, mỗi mỗi hoa sen do trăm châu báu tạo thành, mỗi mỗi châu báu phát ra trăm ức ánh sáng. Ánh sáng vi diệu ấy hóa thành 500 ức những hoa báu xen nhau và các trướng báu.

    Khi đó khắp 10 phương có trăm ngàn vua Phạm thiên, mỗi một vị cầm một món báu của Phạm thiên dùng làm linh báu treo trên bảo trướng. các tiểu Phạm vương cầm các châu báu trời dệt thành lưới rộng lớn che lên trên trướng. Có trăm ngàn vô số thiên tử, thiên nữ mang hoa báu rải trên tòa, các hoa sen này tự nhiên hiện ra 500 ức bảo nữ, tay cầm phất trần trắng đứng hầu dưới trướng. Có 4 trụ báu chống đỡ 4 góc cung điện, mỗi một trụ báu cao trăm ngàn tầng lầu, toàn dùng ngọc ma-ni trời Phạm thiên kết làm dây giăng. Trong các cung điện có trăm ngàn thiên nữ xinh đẹp không ai bằng, tay cầm nhạc khí trỗi lên thanh âm diễn nói các pháp ba-la-mật, khổ, không, vô thường, vô ngã. Thiên cung này có trăm ức vạn vô lượng màu sắc báu và tất cả thiên nữ cũng đều có sắc quý báu. Khi vô lượng chư thiên ở khắp 10 phương qua đời đều nguyện sanh về cung trời Đâu Suất.

    Cung trời Đâu Suất có 5 đại thần:

    - Đại thần thứ nhất tên Bảo Tràng, thân tuôn 7 báu rải trong tường cung trời, mỗi một châu báu hóa thành vô lượng nhạc khí treo giữa hư không và tự phát ra thanh âm. Có vô lượng thanh âm làm cho chúng sanh vui thích.

    - Đại thần thứ hai tên Hoa Đức, thân tuôn vô số hoa phủ che cung tường và hóa thành lọng hoa, mỗi một lọng hoa làm thành trăm ngàn tràng phan để dẫn đường.

    - Đại thần thứ ba tên Hương Âm, trong lỗ chân lông nơi thân tuôn ra mùi hương vi diệu như hương chiên-đàn hải ngạn. Hương ấy như mây, tạo thành trăm màu quý báu, thơm quanh cung điện 7 vòng.

    - Đại thần thứ tư tên Hỷ Lạc, tuôn ra ngọc như ý, mỗi mỗi châu báu tự nhiên trụ trên tràng phan kêu reo vô lượng các pháp quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và 5 giới, các pháp ba-la-mật, vô lượng pháp lành làm lợi ích và khuyên tu tâm hạnh Bồ-đề.

    - Đại thần thứ năm tên Chánh Âm Thanh, các lỗ chân lông trên thân tuôn ra các dòng nước. Trên mỗi một dòng nước có 500 ức hoa. Trên mỗi bông hoa có 25 ngọc nữ. Các lỗ chân lông trên thân những ngọc nữ đó phát ra tất cả thanh âm tuyệt diệu, hơn cả âm nhạc của hoàng hậu cung thiên ma.

    Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Đó là cảnh giới Đâu Suất Đà Thiên, do phước báo tu thập thiện mới được phước đức thù thắng vi diệu như vậy. Nếu Ta ở đời một tiểu kiếp để giảng rộng về quả phước tu 10 điều thiện và báo ứng của Bồ-tát còn một đời sẽ thành Phật cũng không thể hết được. Nay Ta chỉ giảng nói tóm tắt cho các ngươi mà thôi.

    Này Ưu-ba-ly! Như có Tỳ-kheo và tất cả đại chúng nào muốn sanh lên cõi trời ấy thì đừng nhàm chán sanh tử, tâm yêu kính tuệ giác vô thượng, muốn làm đệ tử Bồ-tát Di Lặc thì hãy quán tưởng thế này: giữ trọn vẹn 5 giới, 8 giới Bát-quan-trai và giới Cụ túc, thân tâm tinh tấn, không cầu đoạn kiết sử, tu pháp 10 điều thiện, luôn luôn tư duy về sự an vui tốt đẹp bậc nhất ở cõi trời Đâu-Suất. Quán như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi là tà quán.

    Tôn giả Ưu-ba-ly rời tòa, sửa y ca-sa, cung kính đảnh lễ và bạch Phật:

    - Bạch đức Thế Tôn! Trên trời Đâu Suất mới có sự an vui và cực kỳ tốt đẹp như vậy. Nay khi nào đại sĩ này chết ở Diêm Phù Đề và được sanh đến cõi trời kia?

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Xưa kia Di-Lặc sanh nơi nhà đại Bà-la-môn Ba-bà-lợi, thôn Kiếp-ba-lợi, nước Ba-la-nại. Đến ngày rằm tháng hai, 12 kiếp sau Bồ-tát sanh trở lại nơi này với tư thế ngồi kiết-già như nhập Diệt định, thân màu vàng ròng, tỏa hào quang sáng rực rỡ như trăm ngàn mặt trời chiếu đến trời Đâu Suất Đà. Toàn thân Xá-lợi của Bồ-tát tĩnh lặng không dao động, như pho tượng vàng. Trong hào quang viên mãn ấy có chữ nghĩa Thủ Lăng Nghiêm tam muội và Bát-nhã ba-la-mật rạng rỡ sáng ngời.

    Khi ấy các thiên nhân liền đến xây tháp bằng châu báu tốt đẹp để cúng dường xá-lợi Bồ-tát, rồi Bồ-tát bỗng hóa sanh nơi cung trời Đâu Suất Đà, trên điện ma-ni, trong đài 7 báu, ngồi kiết già trên hoa sen nơi tòa sư tử. Thân cao 16 do-tuần, sắc vàng như Diêm-phù-đàn, đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Nhục kế nơi búi tóc trên đảnh màu lưu ly xanh biếc. Trên mũ trời của Bồ-tát được trang trí bằng ngọc Thích-ca-tỳ-lăng-già và trăm ngàn vạn ức Chân-thúc-ca-bảo có trăm vạn ức màu. Trong mỗi một màu nơi mũ có vô lượng trăm ngàn Phật hóa hiện, có các Bồ-tát hóa hiện làm thị giả. Phương khác lại có các đại Bồ-tát làm 18 cách biến đổi, tùy ý tự tại ở trong mũ trời. Giữa chân mày của Bồ-tát Di-Lặc có ánh sáng tướng bạch hào phát ra các ánh sáng tạo thành trăm màu châu báu và 32 tướng. Trong mỗi mỗi tướng có 500 ức màu báu, trong mỗi mỗi tướng tốt cũng có 500 ức màu báu. Mỗi một tướng tốt tuyệt diệu đó phát ra 8 vạn 4 ngàn mây ánh sáng. Các thiên tử đều ngồi trên tòa hoa, ngày đêm 6 thời thường nói về sự thực hành pháp luân Bất thối chuyển địa. Trải qua một thời gian, Bồ-tát giáo hóa thành tựu 500 ức thiên tử, làm cho họ được Bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

    Như thế, Bồ-tát ở cung trời Đâu Suất Đà ngày đêm thường nói pháp Bất thối chuyển này để hóa độ các thiên tử, theo như ở Diêm Phù Đề tính ra là 56 ức vạn năm. Lúc ấy Bồ-tát mới hạ sanh cõi Diêm Phù Đề, như kinh Di-Lặc Hạ Sanh đã ghi.

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Đây là sự việc của Bồ-tát Di-Lặc ở Diêm Phù Đề, chết rồi sanh lên cung trời Đâu Suất. Sau khi Ta diệt độ, các đệ tử của Ta có người tinh tấn tu hành các công đức oai nghi đầy đủ, quét tháp, dọn tinh xá, đem các hoa thơm tươi đẹp nhất để cúng dường, thực hành thiền định sâu xa, thọ trì đọc tụng kinh điển. Những người đó nên chí tâm, cho dù chưa đoạn tận phiền não hay chưa đắc lục thông. Hãy nên chánh niệm, nghĩ nhớ Phật và hình tượng, danh hiệu đức Di-Lặc. Người như vậy, hoặc trong khoảng một niệm thọ trì 8 trai giới, tu các tịnh nghiệp, phát thệ nguyện rộng lớn, sau khi qua đời, chỉ trong khoảnh khắc liền được vãng sanh lên cõi trời Đâu Suất, được ngồi kiết già trên hoa sen, có trăm ngàn thiên tử trỗi kỹ nhạc trời, dùng hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la rải lên trên những người ấy. Các thiên tử ngợi khen: “Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Người ở Diêm Phù Đề tu nhiều phước nghiệp, được sanh đến cõi này. Cõi này gọi là trời Đâu Suất Đà. Chủ cõi trời này là đức Di-Lặc. Ngươi hãy quy y Bồ-tát Di-Lặc” .

    Khi nghe xong, những người đó liền đảnh lễ Bồ-tát, rồi nhìn kỹ vào tướng hào quang sáng giữa chân mày của Bồ-tát, tức thì họ được vượt khỏi tội sanh tử trong 90 ức kiếp. Lúc bấy giờ Bồ-tát tùy theo duyên đời trước của người ấy mà thuyết pháp vi diệu, làm cho họ được tâm vững chắc và không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng. Những chúng sanh nào nếu tu các nghiệp thanh tịnh, thực hành 6 pháp hòa kính, kiên định không nghi ngờ sẽ được sanh lên trời Đâu Suất, gặp Bồ-tát và theo Bồ-tát Di-Lặc xuống lại cõi Diêm Phù Đề, được nghe pháp đệ nhất, vào đời tương lai được gặp tất cả chư Phật ở đời Hiền kiếp. Đến kiếp Tinh Tú cũng được gặp chư Phật Thế Tôn, được các đức Phật thọ ký đạo quả giác ngộ.

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Sau khi Ta diệt độ, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già... Các đại chúng này nếu ai được nghe danh hiệu đại Bồ-tát Di Lặc mà hoan hỷ cung kính, lễ bái, những người này sau khi chết, chỉ trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh, như đã nêu trên. Chỉ được nghe danh hiệu Bồ-tát Di Lặc mà sau khi chết cũng được khỏi đọa vào chỗ tối tăm, chỗ biên địa tà kiến, các ác luật nghi, thường sanh chánh kiến, có quyến thuộc giàu sang, không hủy báng Tam bảo.

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Nếu người nam, người nữ nào phạm các giới cấm và tạo nhiều nghiệp ác mà được nghe danh tự đại bi của Bồ-tát, cung kính chí thành đảnh lễ sám hối thì các nghiệp ác đó được trong sạch ngay. Đời tương lai có những chúng sanh nghe được danh hiệu đại bi của Bồ-tát này mà tạo lập hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, lọng lụa, tràng phan, lễ bái và niệm danh hiệu Ngài, khi sắp chết người này được Bồ-tát Di Lặc phóng hào quang trắng giữa chân mày, cùng các thiên tử mưa hoa Mạn-đà-la và đến nghênh đón. Phút chốc người này liền được vãng sanh, được gặp Bồ-tát Di-Lặc và cung kính đảnh lễ Ngài, chưa kịp ngẩng đầu lên đã được nghe pháp nhiệm mầu, được Bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng. Đời tương lai cũng sẽ được gặp hằng hà sa số chư Phật Như Lai.

    Này Ưu-ba-ly! Ông hãy lắng nghe, đời tương lai Bồ-tát Di Lặc đại từ sẽ là chỗ quy y của vô lượng chúng sanh. Người quy y với Bồ-tát Di Lặc thì biết đó là không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng. Khi Bồ-tát Di Lặc thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì những người này gặp được hào quang Phật, liền được thọ ký.

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Sau khi Ta diệt độ, 4 chúng đệ tử, trời, rồng, quỷ, thần, ai muốn sanh lên cõi trời Đâu Suất nên tu quán tưởng, tư duy chánh niệm về cõi trời ấy và giữ giới thanh tịnh, từ một đến 7 ngày chuyên trì niệm hạnh Thập thiện và 10 Thiện đạo, do công đức này hồi hướng nguyện sanh đối trước Phật Di Lặc thì hãy quán tưởng điều này. Người quán tưởng, nếu thấy một vị thiên nhân ngồi trên một hoa sen hoặc trong một khoảnh khắc niệm danh hiệu Bồ-tát Di Lặc, người này sẽ được tiêu trừ 1.200 kiếp tội ác sanh tử. Nếu nghe danh hiệu Bồ-tát Di Lặc mà chắp tay cung kính, người này trừ được 50 kiếp tội sanh tử. Người kính lễ Bồ-tát Di Lặc sẽ trừ được trăm ức kiếp tội sanh tử. Nếu như không được sanh lên cõi trời Đâu Suất thì đời tương lai trong hội Long Hoa, dưới cội Bồ-đề cũng được gặp Phật, phát tâm đạo vô thượng.

    Khi đức Phật nói những lời này, vô lượng đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và Bồ-tát Di Lặc rồi nhiễu quanh Phật cùng Bồ-tát Di Lặc trăm ngàn vòng. Những người chưa đắc đạo đều phát thệ nguyện:

    - Chúng con trời người và tám bộ chúng hôm nay ở trước Phật thành thật phát nguyện: “Đời tương lai sẽ gặp Phật Di Lặc, khi xả bỏ thân này đều được sanh lên trời Đâu Suất” .

    Đức Thế Tôn ghi nhận và dạy:

    - Đời sau các ngươi tu phước, trì giới đều sẽ sanh sang cõi Bồ-tát Di Lặc và được Bồ-tát Di Lặc thọ ký.

    Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:

    - Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán. Nếu quán khác đi gọi là tà quán.

    Lúc bấy giờ tôn giả A-nan rời chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật:

    - Bạch đức Thế Tôn! Lành thay đức Thế Tôn! Ngài đã nói về công đức của Bồ-tát Di Lặc và thọ ký cho những ai đời sau tu phước thiện sẽ được quả báo. Con xin tùy hỷ. Xin đức Thế Tôn cho biết pháp này thọ trì như thế nào và kinh này tên là gì?

    Đức Phật bảo A-nan:

    - Ông nhớ lời Ta dạy, cẩn thận đừng quên mất, để đời sau khai mở con đường sanh lên cõi trời và chỉ bày đạo lộ giải thoát, chớ để đoạn mất hạt giống Phật. Kinh này nên gọi là Bồ-tát Di-Lặc nhập Niết-bàn, cũng gọi là Quán Di-Lặc sanh Đâu Suất Đà thiên. Khuyên người tu phát tâm Bồ-đề nên thọ trì như vậy.

    Khi đức Phật dạy những lời này có 10 vạn Bồ-tát ở phương khác đến đại hội đạt Thủ Lăng Nghiêm Tam muội, 8 vạn ức chư thiên phát tâm Bồ-đề, đều nguyện theo Phật Di Lặc hạ sanh.

    Lúc Phật dạy những lời này, 4 chúng đệ tử, trời, rồng, bát bộ nghe lời Phật dạy tất cả đều vui mừng đảnh lễ Phật mà lui ra.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  17. #17

    Mặc định



    Phật Nói Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật
    Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh


    Ta nghe như vầy : một thuở kia Đức Phật ở tại núi Thứu Phong, trong thành Vương Xá, cùng với các bậc Trưởng lão Đại Đức đều tụ họp đông đủ.

    Khi ấy đại trí Xá Lợi Tử , là bậc tối thắng trong hàng pháp tướng, vì nặng lòng thương cõi thế gian, nên từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo áo bày vai bên phải và quỳ gối chắp tay cung kính mà thưa với Phật rằng :

    Thế Tôn ! Tôi nay muốn thưa hỏi một ít chuyện, xin Phật vui lòng nghe cho.

    Phật nói với Xá Lợi Tử : “ Tuỳ theo chỗ ngươi hỏi ta sẽ nói cho nghe ”.

    Tức thời Xá Lợi Tử đọc bài tụng mà hổi Thế Tôn rằng : “ Đại Sư thọ ký cho Phật hạ sanh sau nầy, huy hiệu là Từ Thị, như trong Kinh đã nói, xin đấng Nhơn Trung Tôn phân biệt lại lời tụng, tôi nay vui muốn nghe, thần thông oai đức kia”.

    Phật bảo Xá Lợi Tử phải định tâm lắng nghe : “ Ta vì ngươi bày tỏ, chuyện Từ Thị sau này :

    Lúc ấy nước biển lớn giảm dần ba ngàn, ba trăm Du ThiênNa [1] , rõ rộng đương Luân Vương, châu Nam Thiệm rộng dài, cả vạn Du Thiên Na, hữu tình ở trong ấy, chỗ nào cũng sung mãn, quốc độ đều giàu có, không hình phạt tai ách, các hạng người nam nữ, do nghiệp lành sinh ra. Địa cầu không gai góc, mọc những cỏ xanh mềm, chân đi dẫm lên trên, ví như bông vải mịn, tự nhiên có nếp hương, mỹ vị đều sung túc, các cây sanh áo mặc, đủ các thứ trang nghiêm, cây cao ba Câu Xá, hoa quả thường sung thiệt.

    Khi ấy người trong nước, đều sống tám muôn tuổi, không có các tật khổ, khỏi não thường an vui, thân tướng thảy đoan nghiêm, sắc lực đều viên mãn, mạng người khi gần hết, tự đến rừng Thi Lâm.

    Kinh thành Diệu Tràng Tướng chỗ Luân Vương đóng đô, dọc mười hai do tuần, rộng bảy do tuần lượng, dân cư trong thành ấy, toàn trồng sẵn nhơn mầu. Thành ấy có đức “ thắng”, người ở đều vui mừng. Lầu đài chỗ khước địch, dùng bảy báu xây thành, then chìa với cửa nẻo, mỗi mỗi đều đồ báu. Hào rảnh xung quanh thành, xây bằng món diệu trân, bông quý thảy đều đủ, chim tốt bay đậu luôn, bảy hàng cây Đa La, vòng quanh vây bốn phía, đủ thức báu trang nghiêm, đều treo lưới chuông mỏ, gió nhẹ thổi cây báu, diễn ra những tiếng mầu, dường như đánh bát âm, người nghe sanh vui mừng. Đâu cũng có ao hồ, tạp sắc đều giăng phủ, vườn tược cây thơm ngát, trang nghiêm thành quách này.

    Trong nước có Thánh Chúa tên gọi là Hướng Khư, làm Vua thông bốn châu, giàu có nhiều oai lực. Vua ấy sẵn phước đức, mạnh mẽ gồm bốn binh, bảy báu đều thành tựu, có cả ngàn người con, bốn biển đều im lặng, không có cuộc chiến tranh, chánh pháp dạy quần sanh, giáo hoá đều bình đẳng.

    Vua có bốn kho lớn, đều ở trong các nước, mỗi kho có chứa trữ, trân bảo trăm muôn ức ... Trong nước Yết Lăng Già, có kho Băng Kiệt La, trong Mật Si La, có kho Bác Trục Ca, kho Y La Bát La, ở về nước Kiền Đà, còn kho Hướng Khư ở nước Ba Tư Nặc Tư.

    Các kho phục tàng ấy, thuộc về Vua Hướng Khư, nhờ có trăm phước nghiệp, quả báo đều thành tựu.

    Quan đại thần giúp nước, Thiện Tịnh bà la môn, hiển đạt cả bốn minh, làm quốc sư tại trào, rộng thông các tạp luận, nghe thiện giáo thọ trì, huân giải với tinh minh, đều có nghiên cứu cả. Có hiền nữ Tịnh Diệu, phu nhơn của đại thần, danh tiếng đều đoan nghiêm, ai thấy cũng vui đẹp. Từ Thị đại trượng phu, từ cõi trời Hỷ Túc, thác thứ vào phu nhơn, mượn chỗ sanh thân mình. Bà mang thai Đại Thánh, đầy đủ trong mười tháng, ngày kia từ tôn mẫu, ra dạo vườn diệu hoa, lúc đi đến vườn kia, không ngồi cũng không nằm, thủng thỉnh vịn cây bông, bỗng sanh Đức Từ Tôn.

    Khi ấy Tối Thắng Tôn, ra hông bên phải rồi, như mặt trời ló mọc, phóng ánh sáng khắp nơi, không nhiễm xúc bào thai, như sen ra khỏi nước, sáng soi trong ba cõi, đều ngưỡng ánh đại từ.

    Đương khi vừa sanh ra, trời Đế Thích thiên nhãn, tự mình nâng Bồ Tát, (mừng gặp Đức Đại Giác), Bồ Tát trong lúc đó, tự nhiên đi bảy bước, ở dưới hai chân ngài, nở ra hoa sen báu, xem khắp cả mười phương, bảo cho trời người biết : thân nầy là thân chót, không sanh chứng Niết Bàn. Rồng phun nước trong sạch, tắm rửa thân đại bi, trời ngợi khen rải hoa, từ hư không sa xuống, chư thiên cầm lọng báu, che Đức Đại Bi Tôn, mỗi người được tâm lành, nhứt định theo Bồ Tát. Bảo mẫu nâng Bồ Tát, thân ba mươi hai tướng, đầy đủ các ánh sáng, bồng ẳm trao cho bà. Ngự giá đem xe báu, dùng đủ thứ trang nghiêm, mẹ con ngồi vào trong, các trời xúm lại đẩy, ngàn thứ tiếng nhạc mầu, dẫn đường mà về cung. Từ Thị vào đô thành, trời dâng hoa cúng dường.

    Ngày Từ Tôn giáng đản, hàng thể nữ có thai, đều được thân an ổn, đều sanh con khôn ngoan. Thiện Tịnh cha Từ Tôn, thấy hình con kỳ diệu, đủ ba mươi hai tướng, trong tâm rất vui mừng, theo phương pháp xem xét, biết con có hai tướng : ở tục làm Luân Vương, xuất gia thành Chánh giác.

    Bồ Tát đã thành lập, thương xót các quần sanh, trong các khổ hiểm nạn, luân hồi mãi không dứt. Thân vàng chói sáng loà, tiếng như vọng Đại Phạm, mắt giống lá sen xanh, chi thể đều viên mãn. Mình dài tám mươi chẩu, vai rộng hai mươi chẩu, mặt rộng độ mười chẩu, đoan trang như trăng tròn.

    Bồ Tát thông nhiều nghề, khéo dạy kẻ thọ học, số trẻ nhỏ xin học, tám vạn bốn ngàn người.

    Thuở ấy vua Hướng Khư, kiến lập thất bảo tràng, cao độ bảy mươi tầm, rộng sáu mươi tầm chẳn. Tạo bảo tràng xong rồi, vua phát lòng đại xả, thí cho Bà La Môn, và lập vô-già hội. Khi ấy bọn Phạm Chí, có tới số ngàn người, được tràng báu mầu nầy, hư bể trong giây lát. Bồ Tát thấy vậy rồi, nghĩ thế tục đều vậy, sanh tử khổ trói nhốt, lo tìm cách xuất ly, duy có đạo tịch diệt, âu bỏ tục xuất gia, cứu chúng sanh ra khỏi, vòng sanh lão bệnh tử.

    Ngày Từ Tôn phát nguyện, tám vạn bốn ngàn người, đều sanh lòng nhàm chán, cùng theo tu phạm hạnh. Trong đêm mới phát tâm, bỏ tục mà xuất gia, lại cũng một đêm đó, mà lên bực Đẳng Giác.

    Thuở có cây Bồ Đề, tên gọi là Long Hoa, cao bốn du thiên na, sầm uất mà tươi tốt, cành lá phủ bốn phía, che mát sáu cu-lô. Từ Thị Đại Bi Tôn, ngồi dưới cây thành Phật , bực tôn thắng trong người, đủ tám giọng phạm âm, nói pháp độ chúng sanh, khiến ra khỏi phiền não, khổ và khổ sanh xứ, tất cả đều trừ diệt, hay tu bát chánh đạo, bên bờ Niết Bàn kia.

    Vì các hàng thanh tín, nói bốn chân đế ấy, nghe như pháp được rồi, chí thành mà vâng giữ.

    Ơ trong vườn Diệu Hoa, thính chúng như mây nhóm, đầy khoảng trăm do- tuần, quyến thuộc đều sung mãn. Vua Luân Vương Hướng Khư, nghe pháp thâm diệu rồi, nguyện xả hết của báu, lòng ham mộ xuất gia, không quyến luyến cung phi, chỉ cầu sự xuất ly. Tám muôn bốn ngàn chúng, đều theo mà xuất gia. Lại tám muôn bốn ngàn, đồng tử Bà - la- môn, nghe vua xả trần tục, cũng đến xin xuất gia. Tam-Tạng thần trưởng giả, tên gọi là Thiện Tài, với một ngàn quyến thuộc, cũng đến xin xuất gia. Bảo nữ Tỳ Xá Khư, với bao nhiêu tùng giả, tám vạn bốn ngàn người, cũng đến xin xuất gia. Lại có số trăm ngàn, người thiện nam thiện nữ, nghe Phật nói pháp mầu, cũng đến xin xuất gia.

    Vô Thượng Thiên Nhơn Tôn, Đại Từ Bi Thánh Chúa, quán khắp tâm chúng hội, mà diễn thuyết yếu pháp : “Chúng ngươi cần nên biết, Từ Bi Thích Ca Chủ, dạy người tu chánh đạo, thì sanh trong pháp ta ; hoặc lấy hương tràng hoa, phướn phan lọng nghiêm sức, cúng dường Mâu Ni Chủ, thì sanh trong pháp ta ; hoặc uất kim nước trầm, hương nê dùng tô phết, cúng dường tháp Mâu Ni , thì sanh trong pháp ta ; hoặc quy y Tam Bảo, cung kính thường thân cận, phải tu các hạnh lành, thì sanh trong pháp ta ; hoặc trong những pháp Phật, thọ trì theo chỗ học, khéo giữ không thiếu sót, thì sanh trong pháp ta ; hoặc với Tăng bốn phương, thí y phục ẩm thực, dâng cho những thuốc hay, thì sanh trong pháp ta ; hoặc trong bốn thời chay, và những tháng thần thông, vâng giữ tám chi giới, thì sanh trong pháp ta...”

    Hoặc dùng ba thứ thông, thần cảnh ký truyền dạy, hoá đạo chúng Thinh Văn, khiến trừ hết phiền não.

    Hội ban đầu thuyết pháp, rộng độ hàng Thinh Văn, chín mươi sáu ức người, khiến khỏi phiền não chướng.

    Hội thứ hai thuyết pháp, rộng độ hàng Thinh Văn, chín mươi bốn ức người, vượt khỏi biển vô minh.

    Hội thứ ba thuyết pháp, rộng độ hàng Thinh Văn, chín mươi hai ức người, khiến lòng hay điều phục.

    Ba lần chuyển pháp rồi, người trời đều trọn sạch, dẫn các chúng đệ tử, vào trong thành khất thực. Đã vào thành Diệu Tràng, đường nẻo đều nghiêm sức, vì lễ cúng dường Phật, trời rải bông Mạn Đà. Bốn vua cùng thiên chúng, dưng hương hoa cúng dường, giúp cho Đức Đại Bi.

    Các trời Đại-Oai-Đức, rải những y phục mầu, khắp cả trong thành ấp, chiêm ngưỡng Đại Y Vương, lấy hương hoa mầu báu, rải khắp các nẻo đường, dậm đạp đi lên trên, ví như bông vải mịn, âm nhạc và tràng phan, bày hàng giáp hai bên.

    Người trời chúng Đế Thích, xưng tán Đại Bi Tôn, Nam Mô Thiên Thượng Tôn, Nam Mô Sĩ Trung Thắng, lành thay Bạc Già Phạm, hay thương xót thế gian.

    Có trời Đại Oai Đức, đương làm vua chúng ma, quy tâm mà đảnh lễ, chiêm ngưỡng Đức Đạo Sư.

    Phạm Vương các Thiên chúng, quyến thuộc mà vi nhiễu, đều dùng giọng Phạm âm, xiển dương pháp nhiệm mầu. Ở trong thế giới ấy, phần nhiều là La Hán, trừ sạch nghiệp hữu lậu, hằng sa phiền não khổ, người trời và long thần, càn-thát a-tu-la, la-sát và dược-xoa, đều hoan hỉ cúng dường.

    Khi ấy các đại chúng, dứt chướng trừ nghi hoặc, siêu việt dòng sanh tử, hay tu nết trong sạch. Khi ấy các đại chúng, lìa nhiễm xả của báu, không lòng ngã, ngã sở, hay tu nết trong sạch. Khi ấy các đại chúng, huỷ phá lưới thâm ái, tròn vẹn lòng vắng lặng, hay tu nết trong sạch.

    Từ Thị Thiên Nhơn Tôn, thương xót loài hữu tình, hẹn sống sáu muôn tuổi, nói pháp độ quần sanh, hoá đạo trăm ngàn ức, khiến qua biển phiền não, có duyên được chẩn tế, mới vào cõi Niết Bàn.

    Từ Thị Đại Bi Tôn, vào Niết Bàn về sau, chánh pháp trụ thế gian, cũng đủ sáu muôn năm.

    Nếu ở trong pháp ta, thâm tâm tin chịu được, ngày hạ sanh sau này, được thờ Đại Bi Tôn.

    Nếu có người thông huệ, nghe nói việc như thế, ai lại chẳng vui mừng, nguyện gặp Đức Từ Bi. Nếu cầu người giải thoát, trông gặp hội Long Hoa, thường cúng dường Tam Bảo, siêng năng đừng phóng dật.

    Khi ấy Đức Thế Tôn, vì Xá Lợi Tử và các đại chúng, thọ ký việc Từ Thị hạ sanh rồi, lại kêu Xá Lợi Tử mà nói rằng :

    Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào, nghe pháp này rồi, thọ trì đọc tụng và giảng nói cho kẻ khác nghe, y như lời của ta mà tu hành, dùng hương hoa cúng dường, hoặc chép Kinh này mà lưu bố ra, thì những người ấy sau nầy ắt được gặp Đức Từ Thị hạ sanh, và ở trong ba hội mà nhờ phần cứu độ nữa.

    Thuở ấy Đức Thế Tôn nói bài tụng rồi, Xá Lợi Tử cùng các đại chúng vui mừng tin chịu, đảnh lễ vâng làm.

    Phật nói Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật xong.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •