kết quả từ 1 tới 9 trên 9

Ðề tài: BÍ PHÁP 5 CUNG.

  1. #1
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định BÍ PHÁP 5 CUNG.

    BÍ PHÁP 5 CUNG.

    1.- HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN
    2.- PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN
    3.- TẠO HÓA HUYỀN THIÊN
    4.- HƯ VÔ CAO THIÊN
    5.- HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN


    Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có kể lại khi Đức Ngài phục lịnh xuống thế mở Đạo, Đức Chí Tôn có hỏi: “Con mở Thể Pháp trước hay Bí Pháp trước?” Đức Ngài xin mở Bí Pháp trước, Đức Chí Tôn bảo rằng: “Nếu mở Bí Pháp trước, đời sẽ thấy cơ huyền diệu, xúm nhau dành giựt tàn hại thì cơ Đạo sẽ ra thế nào? Còn thể Pháp là hữu hình hửu hoại, miển mặt Bí Pháp còn thì Đạo còn.”

    Lời dạy trên đây cho chúng ta hiểu: Dù Thể Pháp hoặc là Bí Pháp của Đạo Cao Đài cũng đều do chính tay của Hộ Pháp.

    Đàn cơ tại Chợ Lớn ngày 11 và 12-3 năm Bính Dần (1926), Đức Ngài đã được Chí Tôn trục thần. Từ đây Đức Ngài là HỘ PHÁP THIÊN TÔN, Đức Chí Tôn hữu hình khai Đạo đúng ngày rằm tháng 10 Bính Dần. Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài, Giáo Chủ Đạo Cao Đài tại thế đó vậy.

    Còn Đức Chí Tôn vô vi Chưởng Quản Bát Quái Đài đã định nền Chánh Giáo phải trải qua nhiều giai đoạn để phù hợp với chánh trị Càn Khôn Vũ Trụ và đúng với luật thay đổi của cơ Tạo Hóa. Do đó mà giai đoạn Thể Pháp từ khi khai Đạo cho đến lúc ban hành Đạo Lịnh số/HT-ĐL ngày 04-2-Kỷ Mùi (03-01-1979) đã kết liểu lời quyết định của Đức Chí Tôn đối với Thể Pháp, tức là cả cơ thể hữu vi của Đạo đến thời buổi giải thể đặng chuyển sang Bí Pháp.

    Cũng may cho nhơn sanh. Khi Đức Hộ Pháp còn tại thế đã cho biết danh phẩm và Chơn Linh các Đấng Thiêng Liêng xuống thế mang xác phàm mở Đạo Cao Đài.

    Trong đó, Đức HIẾN PHÁP là Phật QUAN ÂM. Nên lúc lưu vong qua Kiêm Biên, Đức Hộ Pháp ủy nhiệm cho Hiến Pháp thay thế tại Tòa Thánh Tây Ninh, cầm giềng mối Đạo cả Hiệp Thiên Đài lẫn Cửu Trùng Đài, và Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 16 và 17-04 Quí Sửu (18-19-05-1973) Đức Lý Đại Tiên Nhứt Trấn Oai Nghiêm đồng ý với Đức Hộ Pháp ban đặc quyền cho Hiến Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.

    Nói về Pháp Chánh Truyền thì Hiến Pháp nắm mật pháp nên Đức Hộ Pháp đã giao cho Đức Ngài một nhiệm vụ yếu trọng là khai hoát Phạm Môn Trí Huệ tức cửa Phật HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN để minh chứng sự xuất hiện Bí Pháp của Đạo Cao Đài. Vì một khi Thánh Thể Đức Chí Tôn trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà không có lưu hậu chứng cứ, không có hậu nhân kế chí bảo thủ Pháp Chánh Truyền để cho cơ Đạo đến hồi giải thể thì câu nghi vấn Hiệp Thiên Đài là Tòa ngự của Đức Chí Tôn, “dù cho còn một mặt Tín Đồ Hội Thánh vẫn giữ bản quyền Hội Thánh” phải giải đáp sao đây khi không còn Bí Pháp nữa?

    Do đó mà Thiêng Liêng cho xuất hiện một vị Phật CHUẨN ĐỀ, được Đức Hiến Pháp nhìn nhận và Đức Ngài cho biết đã xuất vía về hội kiến cùng Đức Hộ Pháp, được Đức Hộ Pháp đồng ý, ban cho vị Phật CHUẨN ĐỀ bút hiệu PHI PHÀM.

    Nói rõ hơn, CHUẨN ĐỀ Bồ Tát Chưởng Quản Cung Hạo Nhiên Pháp Thiên đã được thọ truyền Bí Pháp do chính Đức Hiến Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, quyền năng Hiến Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài cũng như Hộ Pháp vậy, làm cho lời khẳng định: “Chủ quyền Chơn Đạo một mình ta” của Đức Chí Tôn phải thành sự thật.

    Nên về mặt Thể Pháp mà hiểu thì:

    PHẬT: Tức Đức Chí Tôn vô vi đến giáo hóa bằng cơ bút đặng mở Đạo, Ngài vi chủ Bát Quái Đài.

    PHÁP:Thông công hữu hình với vô vi làm chủ tinh thần Đạo, gọi là Ngự Mã Thiên Quân tức là Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.

    TĂNG: Thập Nhị Thời Quân chia làm ba chi: PHÁP, ĐẠO, THẾ tức là Thánh Thể của Đức Chí Tôn đó vậy.

    Còn Bí Pháp Chơn Truyền tức là quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn đã cầm nơi tay Ngài đến cùng con cái mỗi người một quyền hành, đủ phương pháp, đủ quyền năng tự giải thoát lấy mình. Nên về mặt Bí Pháp thì:

    PHẬT: Là HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN, tương liên hiệp một cùng Đức Chí Tôn.

    PHÁP: Là HƯ VÔ CAO THIÊN thuộc về Pháp Giới, cầm cả luật Thiên Điều.

    TĂNG: Là HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN thuộc Tạo Hóa, thuộc Tăng.

    Phật vị có 3 đẳng cấp ấy đặng nắm cả quyền năng trong Càn Khôn Thế Giới.

    Bây giờ, ta muốn về gặp Đức Chí Tôn, ta không có con đường nào khác hơn là con đường dục tấn tinh thần trên Thiêng Liêng Hằng Sống. Vậy ta phải đi. Ta dục tấn tinh thần qua 5 Cung Bí Pháp như sau:

    1.- HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN:

    Nơi Vạn Linh qui hiệp về đây tùng lịnh CHUẨN ĐỀ Bồ Tát, PHỔ HIỀN Bồ Tát.

    CHUẨN ĐỀ Bồ Tát là Đấng Chưởng Quản Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa, có đủ quyền năng thi Nhơn Đạo và Thiên Đạo đặng ban cho ta được Chơn Linh điểm trí mà hiệp Tam Bửu mới mong dục tấn trọn con đường Thiêng Liêng Hằng Sống. Câu kinh đệ Thất Cửu có tả như vầy:

    “Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa,
    Kiến Chuẩn Đề thạch xá giải thi”.


    Có nghĩa là những Nhơn Hồn được thi pháp mà Phật CHUẨN ĐỀ chấm đậu thì đến ngày Long Hoa Đại Hội sẽ được nêu lên bảng vàng hay bảng đá.

    PHỔ HIỀN Bồ Tát chuyển cơ giáo hóa cho Cung Phật, hiệp các đẳng Chơn Linh chèo Bát Nhã Thuyền tận độ Vạn Linh hiệp nhứt linh câu kinh đã để:

    “Động Phổ Hiền, Thần, Tiên, hội hiệp,
    Dở Kim Cô đưa tiếp Linh Quang”


    Nhiệm vụ Hạo Nhiên Pháp Thiên phải:

    -Trừ ma chướng quỉ tai.
    -Cứu khổ ách Nghiệt chướng.
    -Độ tận Vạn Linh đắc qui Phật vị.

    Nếu được vào cung Phật, ta mới hiểu những lời thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp rất chơn thật mà thâm thúy, nồng nàn, có giá trị tuyệt đối là: “ Nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN, một vị Phật cao trọng toàn tri, toàn năng gần như Đức Chí Tôn nữa mà xuống thế gian nầy đặng học bài học khổ, dám làm kẻ ngu dốt lắm. Đấng toàn tri, toàn năng ấy là Đấng đầu tiên hiệp lại với Đức CHÍ TÔN”.

    Hoặc chú ý thêm, ta sẽ biết được: “HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN tương liên hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN, nắm quyền trị thế, chính quyền năng Đức CHÍ TÔN định”.

    Vì vậy mà Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát phải chuyển Bí Pháp cho ra thiệt tướng. Nên ta mới thấy được: “Đấng làm chủ Cung ấy ra lịnh cho vị cầm đầu chỉ hướng, giáo hóa, dìu dẫn anh chị em nam nữ cho rõ thông chơn lý đặng giải thoát đạt Đạo được đưa lên Cung PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN kiến diện Đức TỪ HÀN.”

    Còn tiếp

  2. #2
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    2.- PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN:

    Cung nắm quyền hành Tạo Đoan loài người, đồng thể, đồng tánh với PHẬT, thuộc PHẬT. Đã lảnh phận sự nơi Đức CHÍ TÔN, cầm Nguơn khí của con người, giữ sanh mạng vạn vật kêu là Vạn Linh. Nên khi ta được vào đây phải tùng TỪ HÀN Bồ Tát. Chính là QUAN THẾ ÂM Bồ Tát vâng mạng lịnh Đức DI LẠC Vương Phật chèo thuyền Bát Nhã qua lại sông Ngân Hà rước người từ khổ hải về Bát Quái Đài.

    Cung PHI TƯỞNG có nhiệm vụ:

    -Năng trừ tà ma, năng trừ nghiệt chướng.
    -Năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai.
    -Độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ.


    Và nơi đây thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng. Đức HIẾN PHÁP lúc sanh tiền có dạy:

    Người ta tin QUAN ÂM chớ. Nhưng tin QUAN ÂM vô vi, chớ không tin QUAN ÂM hửu hình. Chờ chừng nào Qua chết đi rồi biết

    Ngày giờ nầy, Đức Ngài đã trở về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống , tiếp tục Phật sự do chính Hộ Pháp đã giao. Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài vô vi chuyển pháp cho kịp lời hứa Đức Ngài: “Chừng nào rước Liên Đài của Đức HỘ PHÁP chính Qua đi rước mới là thiệt đa nghe”.

    3.- TẠO HÓA HUYỀN THIÊN.

    PHẬT MẪU cầm Pháp chuyển cơ sanh hóa không cùng tận, cầm sanh khí biến xuất để tạo sanh vạn vật….Đấng Tạo Hóa năng du ta bà thế giới, dưỡng dục quần sanh, dưỡng dục quần linh qui nguyên Phật vị.

    Lúc ban sơ, PHẬT MẪU đến ngự tại Hiệp Thiên Đài làm mẹ chữ Khí, tức là khí sanh vạn vật, lấy nguơn pháp trong chữ Khí mà biến thành Càn Khôn Vũ Trụ. Chữ Khí tương quan trong Hiệp Thiên Đài, nên PHẬT MẪU trước đến tạo Hiệp Thiên Đài, thuộc Pháp, tức là Tòa Ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu Trùng Đài. Người đến gọi mình là bạn của Chúng Sanh, tự xưng Thiếp, đem Bí Mật từ thử chưa ai nghe đối với CHÍ TÔN thế nào, nói rõ không kiên phép Ngọc Hư, vì để tạo gia nghiệp cho con cái của Người thì Người có quyền nói không ai cản nổi.

    Vạn Linh dục tấn đến đây đã thấy Pháp hóa tướng Tông, nhưng có điều chưa dám nói. Bởi Đức HỘ PHÁP đã dạy: “Không có mỵ thuật, mỵ pháp đâu, nếu có thì Đức Tam Tạng khi đi thỉnh kinh không bỏ xác trôi giữa dòng sông”.

    Nếu ta tin Đức HỘ PHÁP mang xác phàm sống trở lại về lên ngôi GIÁO TÔNG, tức là Đức PHẠM GIÁO TÔNG, thì chỉ theo duy linh mà thôi. Như vậy, sẽ đứng bên ngoài của luật thay đổi Tạo Đoan và trái với Pháp Chánh Truyền ấn định.

    Đức CHÍ TÔN đã phân quyền rõ rệt, nếu hiệp nhứt tức là cả hai quyền chính trị và luật pháp trong tay thì Vạn Linh dễ bị áp chế độc tài.

    Hơn nữa HỘ PHÁP hửu hình mà quyền năng Thiêng Liêng, trách nhiệm của Đức Ngài rất quan trọng là mở cửa Phạm Môn Trí Huệ dẫn dắt con cái CHÍ TÔN vào Bát Quái Đài chớ đâu vì cảnh hửu vi sắc tướng để các nguyên căn lầm đường lạc ngã. Trong bài thài Đức Ngài than:

    “ Rồi đây ai đến cầm Chơn Pháp,
    Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời!?”


    4.- HƯ VÔ CAO THIÊN:

    Khi ta còn ở Cung Phi Tưởng thì ta được phổ hóa đạt Pháp, nếu dục tấn đến đây sẽ được giáo hóa Chơn Truyền phổ tế chúng sanh đạt Phật. Ta đến Cung nầy phải nhờ PHẬT MẪU cho “ Phục nguyên nhơn hườn tồn Phật tánh”.

    Rồi ta nhớ lại con đường Thiêng Liêng đi qua, ta biết nơi HẠO NHIÊN có Cung Chưởng Pháp, một Cung toàn hảo do thiên thơ tiền định, gồm cả ba vị Phật: CHUẨN ĐỀ, DÀ LAM, PHỔ HIỀN. Nếu ta hiểu nền chánh trị Càn Khôn Vũ Trụ quá vĩ đại ngoài tưởng tượng của chúng ta, thì Cung nắm chánh trị Càn Khôn cũng khó đo lường, vì nơi đây không thiếu một pháp giới nào bởi Hư Vô phải lãnh một nhiệm vụ Thể Thiên Hành Hóa, nếu muốn thì họ có tất cả.

    Như ta đã biết dù có 3 vị Phật mà tại HẠO NHIÊN chỉ tùng lịnh CHUẨN ĐỀ và PHỔ HIỀN, thử hỏi tại sao không tùng lịnh DÀ LAM? Phật DÀ LAM là Chơn Linh của Đức QUAN THÁNH đạt vị, đã đạt tới CÁI THIÊN CỔ PHẬT.

    CHUẨN ĐỀ Bồ Tát là Giáo Chủ Tây Phương Cực Lạc.

    PHỔ HIỀN Bồ Tát là một trong 12 đại Đệ Tử NGỌC HƯ CUNG, cả 2 vị đều có mặt ở Phong Thần thời hưng Châu phạt Trụ. Còn Phật DÀ LAM thuộc vô vi nên đến HƯ VÔ CAO THIÊN ta mới biết, chính DÀ LAM dẫn nẽo Tây Qui, nên Tiểu Tường có câu: “Ngôi Liên Đài quả phúc DÀ LAM”.

    DÀ LAM hướng dẫn Vạn Linh về gốc, vì đó mà nơi đây xuất hiện TIẾP DẪN PHẬT ( TIẾP DẪN và CHUẨN ĐỀ là một nguyên căn, cùng là Giáo Chủ Tây Phương Cực Lạc, nên cả 2 vị Phật thay đổi trong 2 Cung thường du đó vậy).

    TIẾP DẪN PHẬT đem Chơn Pháp cho Vạn Linh đạt mà nhìn nhận Đức CHÍ TÔN tại thế, tức là Đức DI LẠC Vương Phật. Tại HƯ VÔ CAO THIÊN vâng mạng lịnh nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN nắm chánh trị Càn Khôn đã vừa lo cho Vạn Linh đạt chơn pháp, lại vừa lo chuyển nhập Cực Lạc Quốc.

    5.- HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN:

    Khi Đức HIẾN PHÁP giao cho Phật CHUẨN ĐỀ mở HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN để truyền bá đức tin thờ Đức HỘ PHÁP có lần Đức Ngài đã dạy: “ Đường nầy là đường của CHÍ TÔN nếu không đi thì đi đường nào?

    Mấy em đã phăng được cái gốc rồi thì đừng trèo ra nhánh nữa, lở tuột nó té mấy em Qua làm sao đở kịp!


    Kỳ nầy Đức DI ĐÀ đã vào Lôi Âm Tự nhường Kim Tự Tháp cho Đức DI LẠC. Nên thờ HỘ PHÁP thì Đức DI LẠC mới lên ngôi GIÁO TÔNG, bởi GIÁO TÔNG quyền năng hửu hình, vì vậy mà Kinh Đại Tường có đoạn:

    Hổn Ngươn Thiên dưới quyền Giáo Chủ,
    DI LẠC Vương thâu thủ phổ duyên.
    Tái sanh sửa đổi chơn truyền”


    Đức DI LẠC đến chỉnh sửa những sai sót làm cho Chánh Giáo biến ra phàm giáo mà thất pháp. Kể từ khi được giải thể Vạn Linh dục tấn tới đây mới rõ câu kinh “Giáng Linh HỘ PHÁP DI ĐÀ”.

    Nhờ Tử Khí HỘ PHÁP huyền diệu Thiêng Liêng thức tỉnh Vạn Linh sớm hiệp Tông Đường để được Đức DI LẠC cho an định cương vị. Chuyển cho Vạn Linh hiệp Chí Linh tại Cung Chánh Pháp của Đạo Cao Đài để tại mặt thế nầy cho nhơn loại đạt đến. Nơi đây cốt yếu chung hợp các đẳng Chơn Hồn cao siêu trí thức từ Tiên Thiên tới Phật Vị. Chính nơi đây quyết định chương trình Long Hoa Đại Hội của toàn thể Vạn Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Khi Vạn Linh đã vào Lôi Âm Tự kiến diện Đức DI ĐÀ, lúc trở ra Đức DI LẠC mới nhìn nhận và chịu danh là ĐẠI TỪ PHỤ, cũng bởi Vạn Linh dục tấn đến đây thì đã đạt Chơn Pháp thấy rõ câu:

    Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
    Chủ quyền Chơn Đạo một mình ta
    ”.

    Đức CHÍ TÔN đã không hề dối gạt một ai.
    Và tại hửu hình, Đức DI LẠC chuyển Chơn Pháp thành Chơn Đạo, chiếu theo

    Bộ công DI LẠC Tam Kỳ độ sanh

    Mà định phẫm vị cùng ban thưởng cho toàn thể Vạn Linh đặng kết thúc Long Hoa Đại Hội tại Bạch Ngọc Kinh ( Tòa Thánh Tây Ninh).

  3. #3
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    BÁT QUÁI ĐÀI


    Nhìn lên Đền Thánh, ta hiểu được 2 Đài tượng trưng là: Cửu Trùng và Hiệp Thiên.

    Hiệp Thiên Đài do HỘ PHÁP Chưởng Quản vi chủ tinh thần Đạo. Còn Cửu Trùng Đài do GIÁO TÔNG Chưởng Quản vi chủ thể xác Đạo.

    HỘ PHÁP thì ta thấy, GIÁO TÔNG ta chưa thấy.Ta chỉ thấy có Quyền GIÁO TÔNG, vì Đức LÝ GIÁO TÔNG quyền hành lớn lao ở NGỌC HƯ CUNG vô vi mà ngôi GIÁO TÔNG hửu hình chưa đến ngự.

    Chừng nào ngôi GIÁO TÔNG mới có người ngự?

    Khi Đền thờ CHÍ TÔN phải hiện tượng đủ 3 Đài tại thế thì chừng đó GIÁO TÔNG mới ngự.

    Sở dĩ HỘ PHÁP đã ngự Hiệp Thiên Đài bởi vì Hộ Pháp là quyền năng của Đức CHÍ TÔN thay Ngài mà đến làm phận sự Ông TRỜI tại thế.

    Còn GIÁO TÔNG phải chờ có Bát Quái Đài hửu hình mới được ngự trên ngai GIÁO TÔNG Cửu Trùng Đài của Người, bởi xác không vi chủ tinh thần.

    Ta biết Đức LÝ GIÁO TÔNG vô vi đã mở tịch Đạo Thanh Hương. Còn đối với GIÁO TÔNG hửu hình sẽ đổi tịch lại sang: Đạo Tâm.

    Nhơn sanh khi mới mở Đạo tuy tín ngưỡng mạnh mẽ, nhưng trọn đức tin ở phần vô vi nên Các Đấng chỉ ngự ngôi vô vi chuyển pháp.

    Ngày nay, nhơn sanh tấn hóa khả quan định được hành tàng: “Cõi Thiên cảnh tục cũng dường chung nhau” nên đã hiểu bóng tất phải biết hình. Cũng do tâm đức đó, mà các Đấng phải đến ngự ngôi hửu hình và đổi thành tịch Đạo Tâm đúng như Đức CHÍ TÔN ấn định.

    Nói như vậy, ta cũng chưa tìm thấy Bát Quái Đài. Lại càng sợ sệt khi tưởng đến một Đài có hằng hà sa số Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đang chầu Đức CHÍ TÔN.

    Sự tìm hiểu Bát Quái Đài nầy, phải chăng là sự nông nổi hoặc viễn vông? Chúng ta chỉ có điều muốn cho rõ ràng chân lý.

    Trong khi Đức HỘ PHÁP cùng Thánh Thể CHÍ TÔN lo tạo cho có Ông TRỜI tại thế đặng cứu sanh nhơn loại, Đức Ngài đã hứa mở cửa Bát Quái Đài cho ta làm bạn cùng các Đấng Thiêng Liêng, thúc dục tinh thần, không lẽ ngồi chờ đợi cho người ta làm sẵn, thì giá trị kiếp sanh của ta phải cân nhắc thế nào? Nếu thuộc hạng Thiên Mạng, đố ai ngăn cản con đường Bát Quái Đài.

    Tại sao phải tìm? Nếu không thấy Bát Quái Đài khó được làm bạn với các Đấng Thiêng Liêng, tức không gặp Đức CHÍ TÔN, không thấy GIÁO TÔNG của triều Đức DI LẠC Vương Phật.

    Ta tìm từ trong lẽ Nhơn Sinh Quan để đi lần đến Vũ Trụ Quan, từ Tiểu Thiên Địa đến Đại Thiên Địa, tức ta tìm từ cá thể đến đại thể đó vậy.

    Ta thừa hiểu Đức CHÍ TÔN vi chủ Bát Quái Đài vô vi đã vì ái truất thương sanh nên mở cơ tận độ. Chúng ta đã hiểu phần Thể Pháp nhưng phần Bí Pháp thì chưa, hỏi tại sao vậy?

    Tại vì chúng ta chỉ thích sự chơn thật, trân trọng sự chơn thật, trân trọng một cách thái quá mà lại quên đi cái lý chơn thật tức là chơn lý của nó.

    Mỗi nhơn hồn tại mặt thế gian nầy đều có Tam Bửu: TINH, KHÍ, THẦN. Chúng ta đã dâng lên cả Tam Bửu cho Đức CHÍ TÔN và PHẬT MẪU. Nên sanh hồn của ta chỉ là một con kỵ vật cho hai Đấng Tạo Hóa sử dụng. Nhưng thực tế, có thật như vậy hay chăng?

    Hãy dục tấn tinh thần theo cơ chuyển pháp của Đức CHÍ TÔN mới thấy rõ điều nầy.

    Khi mở Đạo, Đức CHÍ TÔN chỉ đến với huyền diệu cơ bút. Ngài ngự Bát Quái Đài vô vi là linh hồn của Đạo. Quyền năng hửu hình có HỘ PHÁP Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài nắm vững tinh thần mà điều khiển thể xác của Đạo tức Cửu Trùng Đài.

    Luật thay đổi hửu hình hửu hoại của cơ Tạo Hóa từ không biến sắc, sắc trở về không, dù cho Đức CHÍ TÔN xuống thế cũng không ra ngoài khuôn viên của cơ tấn hóa. Nên lúc sống do sự khôn ngoan của tinh thần ta, có quyền chọn trong hai con đường Đạo hay Đời. Đời thì thể xác khống chế, Đạo thì Chơn Linh vi chủ. Đức CHÍ TÔN cũng vậy. Ngài là Đạo, Đạo là Ngài. Nên tinh thần Hiệp Thiên Đài hướng về Chơn Linh Bát Quái Đài tuyệt đối, một khi thể xác của CHÍ TÔN giải thể, Ngài cũng phải:

    “ Kêu Chơn Thần vịn níu Chơn Linh.
    Năng lai năng khứ khinh khinh,
    Mau như điển chiếu nhẹ thành bóng mây.
    Cửa Tây Phương khá bay đến chốn


    Chơn Thần Hiệp Thiên Đài nhập vào Bát Quái Đài đến cửa Tây Phương Cực Lạc. Từ nhứt bổn tán vạn thù, chung qui, vạn thù qui nhứt bổn.

    Ban sơ PHẬT MẪU đến ngự tại Hiệp Thiên Đài, Đức CHÍ TÔN đã giao cho Tạo Hóa Huyền Thiên lãnh nhiệm vụ tạo hóa và mở cơ giáo hóa. Còn Đức QUAN ÂM Bồ Tát giữ mật Pháp và bảo lãnh nữ phái, PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN lãnh nhiệm vụ tạo đoan gìn giữ ngươn khí Vạn Linh nắm cơ phổ độ.

    Hai Đấng Chưởng Quản của hai Cung Tạo Hóa và Phi Tưởng đã về cõi Thiêng Liêng, để 3 hột tối tiểu của tinh thần Hiệp Thiên Đài một dương, hai âm, vận chuyển năng lực từ trường tạo bởi Bát Quái Đài, là nơi tương liên hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN, chính là HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN, Đấng đã chuyển từ Thể Pháp sang Bí Pháp tác thành Chơn Pháp. Nếu sánh với bất cứ tôn giáo nào từ tạo Thiên lập Địa đến nay, cũng chưa bao giờ có.

    Ngày sắp tàn cuối hạ ngươn tam chuyển, ta đâu còn thời gian nghiền ngẫm tìm tàng thiên kinh vạn quyển, mang tiếng mọt sách, một cách oan uổng, không phải tịnh luyện, xuất hồn, xuất thần, chỉ HỘ PHÁP mới gặp Đức CHÍ TÔN, Phật chuyển Pháp, Pháp qui Phật. Còn ngoài ra ta không cần giã tướng, giã cảnh trong cái không: không có thật, không tam lập.

    Ai cũng có Tam Bửu là ba mối nợ thêm nợ đồng sanh. Trả nợ Tam Bửu, nợ đồng sanh, hành tam thiện mới là chơn lý.

    Trước cơn nước lửa, sự đau khổ cả xác lẫn hồn của bạn đồng sanh không chỉ riêng một nhóm, một nước mà toàn mặt địa cầu! Mỗi cá nhân tự biết:

    Sứ mạng làm xong mới nghĩ an,
    Dầu phần lớn nhỏ cũng Trời ban.
    Lớn thì lao trí vì vai gánh,
    Nhỏ lại sức mòn bởi sở năng
    ”.

    Ta đạt chơn lý ấy, biết rõ Đấng tạo nên chân lý mới mong đi cùng chân lý.

    Cũng nên phân tích hai pháp lý của chân lý là Thể Pháp và Bí Pháp ở tinh thần Hiệp Thiên Đài. Nên Hiệp Thiên Đài: bán thể, bán lý, bán hửu hình, bán vô vi.

    Nếu xu hướng Cửu Trùng Đài thì Hiệp Thiên Đài bán hửu hình, Thể Pháp Thế Đạo: Đức CHÍ TÔN giao cho Chi Thế , THƯỢNG SANH Chưởng Quản.

    Nếu xu hướng Bát Quái Đài thì Hiệp Thiên Đài bán vô vi, Bí Pháp Thiên Đạo: Đức CHÍ TÔN giao cho Chi Đạo, THƯỢNG PHẪM Chưởng Quản.

    Lấy những nét đặc sắc chuyển thế Nho Tông và chấn hưng Phật Giáo, một Tôn giáo vô tiền khoáng hậu dẫn dắt nhơn sanh đi tận đường phàm dĩ chí Phật vị.

    Quan sát mặt Thể Pháp thì ta hiểu, còn mặt Bí Pháp chỉ có mường tượng. Phải biết mới được. Những khi ta đọc hay tụng Di Lạc Chơn Kinh, Phật Mẫu Chơn Kinh là CHÍ TÔN đem chánh truyền mà chơn truyền, đem chơn thật để trong cửa Đạo, ta mới theo chân Ngài. Nhưng khi có ai hỏi Bí Pháp thì ta lúng túng mơ hồ, không thể trả lời hoặc miễn cưỡng ấp úng. Vô tình ta đã làm cho CHÍ TÔN câm sao? Ngài còn chỉ rõ cái tạm, cái giã, ta ngược lại ôm ấp cho đó là cái còn, cái thiệt, mãi để Bí Pháp duy chủ quyền Đạo chỉ là giả tướng không có chơn thật, mặc Chơn Linh ngã phân hiềm tị, rủi Long Hoa Đại Hội trể kỳ thì phước tội về đâu?

    Một tín đồ thờ ơ, một nỗi khổ!

    Cả nhơn sanh lảnh đạm, khối khổ riêng CHÍ TÔN âm thầm trọn lảnh!

    Điều ấy tưởng tượng được, có lẽ ai cũng chạnh lòng để thương, để nhớ! Mà tự xét phải hy sinh, can đảm, sáng suốt, vững tâm, bền chí, nhẫn nại. Vì không phải vô cớ mà ta dám nhìn nhận CHÍ TÔN tại mặt thế gian nầy. Nên giải thích có bằng chứng hửu vi để tránh bị thiên hạ cho là mê hoặc trước buổi dương quang không xuyên thấu trược khí âm quang, thì đêm ngày chỉ phỏng đón nếu thiếu bằng chứng chỉ định thời gian.

    Đạo cũng vậy, Thể Pháp hoặc Bí Pháp cùng gốc Hiệp Thiên Đài nắm Đạo quyền, tức phải phù hợp với Pháp Chánh Truyền bất di, bất dịch như trang 39 có đoạn chú giải:

    Ngày nay chẳng biết các Đấng Thiêng Liêng là Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát Quái Đài đã thọ lịnh của Thầy mà hành pháp vì thuộc về quyền hành của các Đấng ấy ngày nay mới tính sao? Trong các Bí Pháp có cơ mầu nhiệm đắc Đạo bây giờ các Đấng ấy có cho hay là không. Thảm…( Cười). Nếu Lão có phương chỉnh đốn nền Đạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy thì không có một người đạt pháp, Cửu Trùng Đài cũng đã yểm quyền Bát Quái Đài mà chớ! Thật vậy đó chút!”

    Diễn văn Đức HỘ PHÁP trang111 Pháp Chánh Truyền có đoạn: “ CHÍ TÔN đã đến hế, hạ mình đặng làm Thầy dạy dổ chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hòa hiệp nơi lòng bác ái từ tâm của Người là hiệp làm một cùng Người, mới có đủ quyền hành độ tận chúng sanh qui hồi cựu vị”.

    Để làm sao, ngày gần đây lương tâm không ray rức dày dò do ân hận trong những ngày tàn của cơ đại ân xá: “Rưới chan hạnh phúc bởi lòng tin”.

    Vì biết Chúa, ai dám bán Chúa? Thấy Phật, đâu làm đổ máu Phật, đâu có tìm giết Phật?!

    Gương xưa hằng tái diễn, nên Đức CHÍ TÔN tuy sống làm Thầy phải dè dặt tâm tánh của con cái Ngài. Lẽ đó mà sử dụng Bí Pháp, một điều quá đau buồn cho Ngài muốn đem sự chơn thật chế ngự toàn mặt địa cầu sớm tạo thánh đức lại không được.

    Thay thế phận sự Thiêng Liêng, bởi Ngài là ĐẠI TỪ PHỤ, phải có Ngài mới giải quyết sự công bằng bác ái đầy đủ ý nghĩa.

    Ngài cần ở ta, ta cần nơi Ngài. Điều nơi Ngài dễ dàng chuyển trong nháy mắt. Còn điều ở ta dám hứa chắc hay không? Nếu may duyên được làm bạn với các Đấng Thiêng Liêng tại Bát Quái Đài chỉ dạy thì ta chẳng dám nói là: Chưa hứa chắc.

    Chẳng phải lớn gan đại ngôn như vậy, ta mong sự chơn thật nhan nhãn trước mắt thiên hạ cùng giải rõ mà thôi.

    Không lẽ Tam Thể CHÍ TÔN trên nóc Bát Quái Đài dựng lên do tài liệu Đạo sử để làm chứng nhân điển tích, chịu mãi cảnh nhuộm nắng phơi sương!

    Ngay cả tượng hình Đức PHẬT MẪU cởi Chim Loan đã mấy mươi năm nhơn sanh chiêm bái mà Đức HỘ PHÁP còn nói: “ Ci-va là Pháp, Pháp là PHẬT MẪU, PHẬT MẪU là gì mà không biết, có con mắt mà không biết PHẬT MẪU là gì?”

    Đức Ngài nói thêm:

    Dù Đức DI LẠC đến bực cao trọng bao nhiêu cũng là con…quyền năng bực nào nghĩa là Mẹ cũng vẫn là quyền Mẹ. Trái ngược lại, cầm quyền vi chủ mà Bần Đạo làm con phải hiếu hậu vi tiên, quyền năng ấy cũng để là Mẹ”.

    Đức Ngài chỉ dạy không thừa không thiếu, không điều nào vô giá trị trong cửa Đạo Cao Đài. Nói thì phải có, không có thì không Chơn Pháp.

    Như lúc ban sơ thì PHẬT MẪU và QUAN ÂM là Chơn Thần Hiệp Thiên Đài thể pháp. Nay vâng mạng lịnh Bát Quái Đài, Tạo Hóa Huyền Thiên và Phi Tưởng Diệu Thiên tiếp tục chuyển Bí Pháp cho Đức CHÍ TÔN nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN.

    Còn Bộ Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài do TIẾP DẪN ĐẠO NHƠN Chưởng Quản là hình trạng NGỌC HƯ CUNG phải qui về HƯ VÔ CAO THIÊN vâng mạng lịnh nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN cầm pháp giới, nắm luật Thiên Điều.

    Nếu trọn vẹn Đạo Tâm, sẽ lên cây cầu bắt ngang bờ rất huyền diệu, ai đứng đó được mới biết mình nhập vào Bát Quái Đài.

    Trở ngại là lúc để bước lên cầu, cầu ấy chuyển đi làm cho chúng ta phải yếu, muốn thối bộ. Nhưng người nào bước tới cũng đặng.

    Và muốn đến sẽ bị trở ngại khó khăn hơn, là ráng vượt qua ao ô trì.

    Với Bí Pháp tạo hình nó có 8 gốc giống như cây cột, 7 cửa là Thất Đầu Xà, duy chỉ chừa có cửa Phật. Chúng ta ở ngoài thấy mênh mông hào quang chiếu diệu, khi chúng ta vô Đài rồi thì Đài ấy biến mất chỉ còn Càn Khôn Vũ Trụ, nhưng Đài ấy vẫn xây, xây mãi phải chăng Bát Quái Đài là Tòa Tam Giáo NGỌC HƯ CUNG? Ta thành Tiên, thành Phật cũng tại đó.

    Còn như theo chơn pháp mà nói thì át Quái Đài nó thù lù ở dưới đất trồi lên trước mặt chúng ta. Dù cho biến cách nào, ít ra cũng còn chứng tích như ao Bát Đức ở Tây Phương, Hồ Sen Bát Quái tượng trưng cảnh Phật, cảnh Thiêng Liêng vinh diệu để ta tự tu thân giải oan nghiệt tội chướng, đoạt chân huệ tinh thần.

    Ta tìm cũng vì lẽ ấy. Vì có Bát Quái Đài tại thế thì Đền Thờ CHÍ TÔN chứng minh được sự tương liên hiệp một cả 3 Đài hửu hình do Tam hồn của Đức CHÍ TÔN Chưởng Quản, tức là Tam Thể CHÍ TÔN đó vậy.

    Ngày giờ đó, Đền Thánh sẽ do Hổn Ngươn Khí hằng sống biến hình BẠCH NGỌC KINH mà Đấng vi chủ chế ngự trên khối nguyên tử không ai khác hơn chính là Đức GIÁO TÔNG DI LẠC Vương Phật.

    Ta thử nghĩ trên ba con đường đang đi:

    - Con đường thứ nhứt dẫn đến Cửu Trùng Đài.
    - Con đường thứ hai dẫn đến Hiệp Thiên Đài.
    - Con đường thứ ba đưa vào Bát Quái Đài.

    Cả ba con đường cùng đưa Vạn Linh về với Đức CHÍ TÔN. Nhưng có đường độ sanh và có đường độ tử.

    Nếu ta đi trên con đường độ sanh mới mong hiệp Tam Bửu vì có Tam Thế CHÍ TÔN do Đức DI LẠC vi chủ mà vi chứng một khi Bí Pháp ra thiệt tướng.

    Thiêng Liêng chỉ chuyển, hửu hình lại khác.

    Muốn Bí Pháp ra thiệt tướng sớm hay muộn cũng còn tùy thuộc nơi sở hành. Nói không tới. Làm mới tới.

    Trả xong nợ đặng giải thoát kiếp nầy hoặc chờ kiếp sau, kiếp khác đến thất ức niên, ta tự định kiếp số của ta. Hai Đấng Tạo Hóa đã đem Bí Pháp chơn truyền trao tận tay ta y mỗi người, vì gia tài sự nghiệp chung, ai cũng được hưởng phần hương hỏa.


    Còn tiếp
    Last edited by mynhan; 07-09-2010 at 03:08 PM.

  4. #4
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    PHI TƯỞNG PHÁP & HƯ VÔ PHÁP

    PHÁP, thuộc quyền năng của Đức PHẬT MẪU. Đạt Pháp hay đạt ý là hiểu rõ và hành đúng theo Chơn Pháp trong lời dạy của Đấng Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài hay HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN.

    Bởi vì nền Chơn Đạo của CHÍ TÔN đã phân ra:
    - Tạo nên hình do HỘ PHÁP Thể Pháp.
    - Thành tướng do CHƯỞNG PHÁP Bí Pháp.
    Cả hai đều phải chính PHẬT MẪU định đoạt.

    Như Hiệp Thiên Đài có THƯỢNG PHẪM, THƯỢNG SANH, thì THƯỢNG SANH Thể Pháp lo giúp cho chúng sanh tấn hóa theo cơ phổ độ, khác nào QUAN ÂM Bồ Tát nương Bát Nhã thuyền độ người từ khổ hải.

    Còn THƯỢNG PHẨM Bí Pháp đưa Chơn Linh vào Bát Quái Đài, khác nào TIẾP DẪN PHẬT độ phụ về Tây Phương Cực Lạc.

    Cơ giáo hóa dục tấn nhơn sanh trên Cửu Thiên Khai Hóa thì PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN cầm pháp độ, gìn giữ ngươn khí của Vạn Linh. Trái lại, HƯ VÔ CAO THIÊN nắm chánh trị, cầm luật thiên điều giúp cho Vạn Linh đoạt Đạo hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN.

    Khi phân tách hai pháp giới, có điều nghi vấn tại sao QUAN ÂM Bồ Tát Chưởng Quản PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN lại vâng mạng lịnh nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN?

    Đây là chánh trị Càn Khôn Thế Giới, ta muốn hiểu nhưng không hiểu đặng. Tinh thần dục tấn của ta chưa đến mức đạt huệ nhãn. Chớ còn Đức CHÍ TÔN chỉ có sử dụng con bài tráo lật ngửa cũng khó ai đánh trúng.

    Do tại cương vị của ta nơi địa cầu 68, nên không thể thấy được. Nếu được may duyên đứng ở Vân Động DIÊU TRÌ CUNG nhìn xuống thế gian sẽ thấy QUAN ÂM Bồ Tát đang độ sanh toàn thiên hạ.

    Đức HỘ PHÁP cho thấy điều nầy trong Thiêng Liêng Hằng Sống: “ Bần Đạo nói: họ đang nói chuyện mà trên đầu họ muôn ánh hào quang xẹt tứ tung ở trên không trung, họ đương nói chuyện ở đây mà họ điều đình tới địa giới khác, cả Càn Khôn Vũ Trụ huyền bí vô biên không tỏa đặng. Ấy là một phẩm vị Thể Thiên Hành Hóa cầm quyền tạo đoan, không có điều gì họ không làm đặng”.

    Còn Đức HIẾN PHÁP, Ngài nói như vầy: “ Họ tin QUAN ÂM chớ sao không tin. Nhưng họ chỉ tin QUAN ÂM vô vi, chớ không tin QUAN ÂM hửu hình. Đợi chừng nào Qua chết đi rồi mới biết”.

    Ngài đã giữ mật pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài giúp tay cho HỘ PHÁP khai mở Bí Pháp về mặt Thế Đạo.

    Quyền năng ấy là âm năng của Đức CHÍ TÔN.

    Nay, Ngài Chưởng Quản PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN cầm cơ phổ độ, ngoài ra có các Đấng Thiêng Liêng giúp sức cho trọn cơ tận độ nầy. Ta được may duyên hửu phước ở trong Tông Đường của Ngài thì kiếp sanh nầy không uổng phí. HIẾN PHÁP vâng lịnh HỘ PHÁP như QUAN ÂM Bồ Tát vâng lịnh Đức DI LẠC VƯƠNG PHẬT. Vô vi và hửu hình chỉ là hình bóng. Thể Pháp dể thấy còn Bí Pháp khó tìm, như tu hành thì dể, đạt thì khó, tin rất khó, theo rất dể.

    Thử nhận xét: Nếu HIẾN PHÁP không tùng lịnh HỘ PHÁP thì làm sao biết được Bí Pháp lấy ếm Long Tuyền Kiếm? Cũng như, nếu QUAN ÂM không tùng lịnh Đức DI LẠC thì làm sao tới HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN, Pháp Chánh đâu mà rước người từ khổ hải về được Bát Quái Đài? Vấn đề tất yếu ở đây là nơi hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN nắm quyền trị thế cho đến Cung Định Cung Pháp quyết định chương trình Long Hoa Đại Hội phải tương quan thế nào để Vạn Linh hiệp nhứt linh, GIÁO TÔNG ra đời? Một bên là Cung Phật, một bên là Cung Tăng. Tương liên thế nào khi đã biết một nơi nắm quyền trị thế chính quyền năng Đức CHÍ TÔN định và một nơi để chịu danh là ĐẠI TỪ PHỤ? Tu hành của ta từ bấy lâu nay, nếu tới đây mà không đến được để kiến diện Ngài, có phải chăng bởi mờ hồ, phân vân hay lầm lạc đã đua chen theo con đường giả pháp?

    Còn PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN nhờ:

    “ BÁT NƯƠNG thật Đấng Chí Linh,
    Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu”.


    Cùng chèo Bát Nhã hộ trì Vạn Linh sanh chúng, vâng mạng lịnh HỔN NGƯƠN là Tăng đồng thể đồng tánh với PHẬT THUỘC PHẬT HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN nên PHI TƯỞNG có đủ PHẬT, PHÁP, TĂNG.

    Trước kia, điều nầy Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát cho biết: Trong năm Cung, Cung nào cũng có đủ PHẬT, PHÁP, TĂNG.

    Ngày nay, chính Đức CHÍ TÔN đến giải quyết Tứ Diệu Đề, đưa Vạn Linh nhập Cực Lạc Thế Giới, chuyển Pháp Độ PHI TƯỞNG đặng cứu khổ không những về thể xác vật chất khí, còn cứu khổ tinh thần gìn giữ Ngươn Khí của Vạn Linh, đúng như lời Đức HỘ PHÁP đã thuyết:

    Nếu ai đã thấy thì đó không phải là cảnh phàm nầy vậy, mà mãi từ thử đến giờ, làm người, ai có biết tìm chổ thật của mình không?”

    Chứng tỏ pháp độ PHI TƯỞNG là đưa Vạn Linh đến tận thức để vào:

    Cung DIỆT BỬU Ngọc rèm đã xủ,
    Nghiệp hửu hình tượng đủ vô vi.


    Vạn Linh nương theo tu hành chốn PHẠM MÔN để được trí huệ.

    Khi PHẬT MẪU nhìn nhận nơi ĐỊA LINH ĐỘNG Phổ Hiền những ai có màng màng tam lập thì sẽ đem Chơn Thần lên NGỌC HƯ CUNG tức là được trí giác. Có như vậy thì ta mới có thể trả cái hiếu hạnh cùng PHẬT MẪU, đối với nợ tình không riêng ở kiếp nầy mà ta đã đa mang nó từ bao kiếp trước.

    Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát có nói: “ Mình phải làm hết, còn Đức HỘ PHÁP về tới đây là đã xong rồi, Ổng chỉ định vị mà thôi. Và nếu ai cũng có đức tin, chỉ bằng một hột mè mà thôi, thì chừng nữa giờ đồng hồ sau, Ổng sẽ về tới”.

    Sở dĩ phải như thế, vì cơ phổ độ của CHÍ TÔN đã chuyển qua Bí Pháp, nên ai cứ đứng chờ là tự giục thối tinh thần, kể như chỉ còn tin Đạo Giáo, chớ con đường Thiêng Liêng mà Đức HỘ PHÁP đã mở ra, ta không thể thấy được.

    Còn ai muốn thẳng tới HƯ VÔ CAO THIÊN, là muốn tới điểm giao hợp khởi nguyên không gian, bắt đầu thời gian, từ đó phát xuất, vì đó phản hồi, thì vẫn đúng chơn lý, dù cho theo Tôn Giáo nào cũng dạy phản bổn hoàn nguyên. Bởi muôn loài đều do Kim Bàn hiển hiện, tùng Chánh Pháp siêu rổi. Theo như trong nền Chơn Đạo của CHÍ TÔN, trước đã tạo Thể Pháp có Bộ Pháp Chánh trong nội thân Hiệp Thiên Đài. Phẫm TIẾP DẪN ĐẠO NHƠN Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh phải tùng Hiệp Thiên Đài. Kể đến Bí Pháp thì Đấng cầm quyền trong pháp giới là HƯ VÔ CAO THIÊN phải vâng mạng lịnh nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN, ta thấy nơi đây mới có Cung CHƯỞNG PHÁP lo xây quyền Tạo Hóa. Hể hình thế nào thì bóng như vậy.

    Khi ta đã trí giác rõ được Chơn Pháp thì nơi đây nhờ Đức HỘ PHÁP MỞ CỬA Bát Quái Đài để cho ta làm bạn với các Đấng Thiêng Liêng. Vậy nơi HƯ VÔ CAO THIÊN thế nào? Là nơi dành cho những giác hồn được kiến diện Đức CHÍ TÔN để hưởng hồng ân do Đức CHÍ TÔN ban cho Chơn Linh.

    Ta chẳng rõ quyền năng của CHÍ TÔN tới đâu, nhưng biết rằng nếu Ngài đã ban cho ta Chơn Linh thì Vạn Linh đều hiểu là ta đã được tương liên hiệp một trong Tam Bửu mà giải thoát đạt Đạo. Bởi HƯ VÔ CAO THIÊN là nơi qui pháp. Tất cả Tông Đường phải qui hiệp để được Đức CHÍ TÔN điểm Đạo.

    Ai lại chẳng mong, nhưng muốn đến đây phải để tinh thần dục tấn trên đường Cửu Thiên Khai Hóa. Đó là con đường Chánh Pháp của Đạo Cao Đài.

    Con đường nầy có độ sanh và độ tử.

    - Độ tử, nương theo từ nhứt cửu đến Đại tường, sau khi bỏ xác.
    - Độ sanh thì qua Thể Pháp, tùng Bí Pháp, dục tấn tinh thần lên cầu Bát Quái Đài mà đi từ HẠO NHIÊN đến HỔN NGƯƠN.

    . Có điều đáng nói là phải tới HƯ VÔ CAO THIÊN mới đắc Pháp, đắc Phật, vì chính Ngôi THÁI CỰC tại đây. Ở đây đợi Đức CHÍ TÔN phán định ngôi thứ.

    Xét qua trong Pháp Chánh của CHÍ TÔN đã định quyền cho HỘ PHÁP vô vi, GIÁO TÔNG hửu hình, hơn nửa HỘ PHÁP còn nắm luôn cả Bát hồn, tức là vi chủ Bát hồn, dù đạt tới Phật vị vẫn dưới quyền năng HỘ PHÁP.

    Theo như câu kinh: “Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn Chưởng Âm” đã hiểu rằng trong 9 tuần cửu, cứ mỗi cửu đều có một vị Tiên Nương trách nhiệm, cho đến ngày giờ Thiên cơ chuyển định thì Cửu Vị trở về chầu Đức PHẬT MẪU làm chủ các Tử Hồn, mà Bát Hồn thì trong tay HỘ PHÁP.

    Còn lúc “ Hư vô Bát Quái trị Thần qui nguyên” thì số Âm linh nầy được PHẬT MẪU đưa đến HƯ VÔ CAO THIÊN. Số Tử Hồn hay Âm Linh là tử khí phải thọ lịnh HỘ PHÁP, khi mở cửa Bát Quái Đài thì họ chính là những người bạn Thiêng Liêng đến giúp đỡ con cái Đức CHÍ TÔN còn đang dung ruổi trên đường hằng sống. Rồi từ NGỌC HƯ CUNG, Linh Tiêu Điện, các Nhơn Hồn theo chơn Đức HỘ PHÁP qua mở Cực Lạc Thế Giới.

    Tuy trước đây, Đức CHUẨN ĐỀ đã cung nghinh Đức HỘ PHÁP Di Đà vào ngự nơi Lôi Âm Tự, nhưng cũng còn lời hứa của Đức HỘ PHÁP: “Bần Đạo hứa sẽ mở cửa Bát Quái Đài…”. Nên tới đây Đức Ngài còn phải:

    Giáng Linh HỘ PHÁP DI ĐÀ”.

    Giúp cho Đức Di Lạc Chưởng Quản HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN. Và vì lo chuyển vô vi mà HỘ PHÁP giao cho Đức DI LẠC thay quyền CHƯỞNG PHÁP độ rổi Vạn Linh tấn hóa lên ngươn Thánh Đức.

    Đối với cơ quan nắm chánh trị Càn Khôn và luật Thiên Điều là HƯ VÔ CAO THIÊN mà trách nhiệm trọng yếu đó, hiện nay vẫn còn trong tay Đức Lý. Nhờ vậy Đức Lý có đủ quyền năng Thiêng Liêng giúp cho cơ chuyển pháp sớm ra thiệt tướng đặng giao quyền GIÁO TÔNG lại cho Đức DI LẠC Vương Phật.

    Thành ra, muốn lập nên một chương trình Long Hoa Đại Hội phải có đủ hai điều kiện tiên quyết:

    1.-Các Tông Đường đã qui hiệp tại NGỌC HƯ CUNG rồi.
    2.-Đã vào Lôi Âm Tự kiến diện Đức HỘ PHÁP Di Đà.

    Thử hỏi vì sao mà Đức DI LẠC cũng phải tùng HỘ PHÁP Di Đà mới khai mở được HỘI NGƯƠN THIÊN?

    Đây là Bí Pháp “ Phật, Pháp, Tăng”. Ta khó tìm cho thấu đáo. May nhờ Đức LÝ ĐẠI TIÊN đã lộ quyết định Thiên Cơ:

    Từ trước mấy ai đến trị phàm,
    . Giữa trần nay đến lập Lôi Âm
    .”

    Rõ ràng từ Thể Pháp Hiệp Thiên Đài có tương liên mật thiết với Bí Pháp HƯ VÔ CAO THIÊN.

    Nếu Hiệp Thiên Đài giáo hóa Chơn Truyền Phổ Tế Chúng Sanh, thì HƯ VÔ CAO THIÊN dẫn độ Chơn Linh đắc Pháp, đắc Phật thuộc về Bí Pháp Thiên Đạo.

    Đã cùng đi trên con đường Đạo, ai không thấy Chơn Pháp CHÍ TÔN để nương theo, thì không sao tới Cung Phục Linh mà được phục linh tánh Phật, thì nguyện vọng muốn chứng kiến cái cảnh Đại Hội Long Hoa tới đây , có phải chăng là ta đã tự khép mình nằm ôm nguyện vọng trong ảo giác?

    Nói đến đức tin thì ai cũng có. Ai cũng tin quyền năng tạo hóa của CHÍ TÔN: Hễ đã làm chết được thì sẽ làm sống được. Ta tin nhưng chưa thấy. Khi nào cơ chuyển Pháp tới HƯ VÔ CAO THIÊN thì cả thảy Vạn Linh đều mục kiến. Đến ngày giờ qui pháp thì việc sử dụng quyền linh chắc chắn không còn ai không tùng phục. Chỉ may duyên cho những ai không đợi tới cảnh tượng đó mà họ đã tin, đã kính phục, tìm Chơn Pháp trở về CHÍ TÔN.

    Vì tới đây sẽ được phục nguyên Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN đặng nhìn thấy Đức DI LẠC, đến chừng Ngài nhìn nhận tại HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN đã trở nên TĂNG.

    Ta đã biết ban sơ khai Đạo, Đức CHÍ TÔN vẫn tùng theo định luật tấn hóa mà mở cơ phổ độ, như đứa trẻ chỉ biết sống từ bẩm sinh cho đến cái sống của tiểu hồi do PHẬT MẪU ban cho. Đạo cũng vậy, mới khai Thể Pháp thì chỉ cần tạo Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, tức Pháp và Tăng. Đến khi trưởng thành, ta đã ý thức mọi việc, mọi lẽ thì sự dục tấn tinh thần được PHẬT MẪU chuyển lên quyền năng của CHÍ TÔN đặng ban thêm cho ta cái sống đại hồi. Cái sống đó đã thích nghi được theo cơ qui nhứt, mới xuất hiện vô vi Bí Pháp để chúng sanh tùng pháp sống với đại hồi, đặng rõ chốn:

    Hư vô Bát Quái trị Thần qui nguyên” nằm trong cửa Đạo Cao Đài. Vạn Linh tấn hóa đến đây mới nói là đạt Đạo. Và nhớ lại lời hứa của Đức CHÍ TÔN: “Sẽ sống cùng con cái của Người đời đời không cùng đến thất ức niên”thêm lời khẳng định: “ Không giao Chánh Giáo cho tay phàm”, thì ta đủ đức tin rằng chính mình Đức CHÍ TÔN phải đến. Đến thì phải có Tăng, nhưng cái Tăng của Ngài nơi HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN. Ngài cũng mang mảnh thân tứ đại như ta đặng giải quyết tứ diệu đề.

    Thương thay cho cái thảm khổ đắng cay mà Ngài đã tự đày đọa để sống chung cùng con cái của Ngài, vậy mà dù tới HƯ VÔ CAO THIÊN, Ngài cũng chưa chịu danh là ĐẠI TỪ PHỤ. Ngài còn gánh thêm khổ hải để nâng đở con cái của Ngài cho đến khi ra Chơn Đạo mới thôi.

    Giải bày ra đây, không biết có phạm hay chăng? Nhưng ta đã cả gan dám phanh phui không những PHI TƯỞNG Pháp, lại còn HƯ VÔ Pháp, cũng vì lẽ ấy.

    Còn tiếp

  5. #5
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    CHƠN PHÁP LUYỆN ĐẠO.


    Luyện là tạo sức mạnh hửu hình tức Thiền.
    Tịnh là tạo sức mạnh vô hình tức Đạo.
    Luyện đi trên Cửu Thiên Khai Hóa là Thức.
    Tịnh về với Cực Lạc Thế Giới là Ngủ.

    Pháp môn của Tôn Giáo tu tập có khác pháp giới, phương tiện, nhưng đều tiến đến mục đích hoàn nguyên Tam Bửu đạt Đạo. Ngay cả Đạo Cao Đài cũng có nơi tịnh, luyện như: Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung, Vạn Pháp Cung. Hiện nay chưa áp dụng, chỉ dâng Tam Bửu trong thời cúng và phải cùng lo tam lập. Vì phải qua hai thời kỳ:

    Nhơn Đạo là phần lo cho mình.
    Thiên Đạo là phần lo cho người khác, để trả nợ tiền khiên và hiện tại.

    Nhơn Đạo có Tam Cang, Ngủ Thường, Tam Tùng,Tứ Đức và đủ tam lập mới mong lập ngôi vị.

    Thiên Đạo từ tam lập tiến lên tam thiện, hành Phương Luyện Kỷ của Đức HỘ PHÁP chỉ dạy.

    Trải qua giai đoạn sống với tiểu hồi vào đường Thánh là: Hỉ, Lạc, Ái, đối chiếu kinh từ đệ ngủ cửu đến đệ thất cửu. Và nơi Thiêng Liêng Hằng sống có hai chữ Vạn màu trắng và đỏ hồng hồng ngăn chận Cực Lạc môn ngoại, nên câu kinh ngủ cửu:

    “ Ánh hồng chiếu đường mây rở rở,
    Cõi Xích Thiên vội mở ải quan”
    .

    Trong đệ lục cửu:

    “ Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
    Cõi Kim Thiên nhẹ tách tiên xa.
    Vào Cung Vạn Pháp xem qua”.


    Đến đệ thất cửu là không còn ngồi chờ đợi nơi Cực Lạc môn ngoại, ta bắt đầu sống với đại hồi, nên thấy được:

    “ Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa,
    Kiến CHUẨN ĐỀ, thạch xá giải thi”.


    Thể Pháp dứt, chuyển qua Bí Pháp. Không riêng Đạo Cao Đài, CHÍ TÔN đã chuyển Bí Pháp khắp nơi cho Nhơn Sanh biết tìm về cái sống trường sanh hòa sự sống trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Từ Nhị Kỳ, Đức Phật THÍCH CA chỉ dạy 8 vạn 4 ngàn pháp môn để tùy căn cơ phổ độ. Nay buổi Tam Kỳ, Vạn pháp qui nhứt, do chính Đức Phật thuyết định trong DI LẠC CHƠN KINH: “ Nhược hửu chúng sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp Điều Tam Kỳ Phổ Độ”. Chứng minh rằng: NGỌC HƯ CUNG bát luật, LÔI ÂM TỰ phá cổ có Thiên Thơ tiền định. Nên Bí Pháp Đạo Cao Đài không riêng hoặc ưu tiên cho bất cứ một ai.

    Nó là đề thi tuyển chọn bậc Đạo Tâm đại học của Tam Giáo Ngủ chi, kể cả Vạn Linh trong Càn Khôn Thế Giái. Đức CHÍ TÔN rộng mở độ sanh, nhưng tùy căn cơ độ lần mà phán ra buổi ban đầu:

    · Đường thứ nhứt: tạo Chơn Khí thuộc Cửu Trùng Đài,
    · Đường thứ hai: Ban Chơn Thần thuộc Hiệp Thiên Đài.
    · Đường thứ ba: Ban Chơn Linh thuộc Bát Quái Đài.

    Chỉ là 3 đoạn đường nối tiếp, trở thành con đường Chánh Giáo của Đức CHÍ TÔN để dìu dắt lẫn nhau trên Cửu Thiên Khai Hóa mà đạt Đạo.

    Vì tin biết Bí Pháp là cơ quan giải thoát đạt Đạo, nên khi nghe có Chơn Sư chỉ dạy Bí Pháp luyện Đạo, truyền tâm ấn, khai ngộ Phật tánh, xuất Chơn Thần, hiệp Tam Bửu thì ai cũng mê, nông nã theo nhiệt tình, tín ngưỡng mạnh mẻ. Việc nầy, không phê phán rằng hay dở, đúng sai, chỉ có vui lây cùng thời buổi nhơn sanh tỏ ngộ lo trường trai đạo đức, thật đáng quí biết bao.

    Nhơn sanh tu, muốn đạt Đạo, dĩ nhiên phải nhờ Chơn Sư chỉ điểm, khai khiếu.
    Vấn đề then chốt là ở đây.
    Chơn Sư thì quán thông vô vi, thực chứng hửu hình bởi Chơn Linh vô vi, thể xác hửu hình, rõ cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống vì đã nhập vào cảnh giới. Đã đi khắp các Cung, các Điện, diện kiến Đức CHÍ TÔN NƠI Bạch Ngọc Kinh và THỌ LẢNH Thiên Mạng, tức là mang trọng trách qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, đại đồng nhơn loại đặng mở Long Hoa Đại Hội, kết thúc tam chuyển, để bước qua kỷ nguyên Thánh Đức.

    Nói ngắn gọn thì Chơn Sư đạt Bí Pháp, thông thể pháp, tánh hiệp vô vi, nhất quán Phật, Pháp, Tăng và có Thiên Mạng.

    Bây giờ, ta tìm căn bản trong Pháp Môn luyện Đạo là lấy Tiên Thiên Khí, vận hành khí âm dương trong cơ thể làm cho chơn tinh hóa chơn khí, luyện tinh đã hóa khí thì thành phần tế bào nguyên tử là 1 dương, 3 âm.

    Còn Đức CHÍ TÔN? Cơ thể là Cửu Trùng Đài tức Tịnh, vận hành pháp giới nên Chơn Khí nếu nói hửu vi là đạt ánh khí: GIÁO TÔNG và 3 ĐẦU SƯ.

    Tạo được Chơn Khí, PHẬT MẪU ban hiệp Chơn Thần tức HỘ PHÁP trấn giữ Nê Hườn Cung, hoặc HỘ PHÁP ngự tại Trí Huệ Cung, Đức Ngài có dạy: Tinh Thần ta khôn ngoan là nhờ 3 hột tối thiểu nơi trí não: Một điện tử dương và 2 điện tử âm.

    Còn Chơn Thần Đức CHÍ TÔN là Hiệp Thiên Đài: Một là HỘ PHÁP, còn 2 là THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH.

    Đến giai đoạn luyện khí hóa Thần, là từ Nê Hườn (phách cực dương) nhờ Dương Quang Đức CHÍ TÔN phá khiếu huyền quang vô hình xuyên thấu phách Thượng Đình đạt huệ nhãn. Còn Đức CHÍ TÔN thì chuyển pháp từ Hiệp Thiên Đài đưa qua Bát Quái Đài là tạo đệ nhị xác thân ( đó là tử khí).

    Trong Bí Pháp luyện Đạo, chuyển khí âm dương thông các phách, mỗi vòng là một chu kỳ gọi luân xa, điểm tối trọng phải tạo được ngủ khí. Tiểu Thiên Địa của ta có ngủ tạng do các tế bào nguyên tử liên kết hình thành khi chuyển luân xa, ngủ tạng nhờ dương khí mà tiết ra chất hơi thành ngủ khí tức Hậu Thiên Ngủ Khí.

    Đại Thiên Địa của CHÍ TÔN có Ngủ Cung, cũng phải do các tế bào liên kết, chỉ khác nhau tế bào lớn nhỏ.

    - Chuyển luân xa qua ngủ tạng là phương pháp độc luyện.
    - Dục tấn tinh thần qua Ngủ Cung là phương pháp đồng luyện.

    Độc luyện là luyện từ ngoài vào trong, hồi quang phản chiếu khai ngộ Phật tánh, xuất Chơn Thần, đạt Hậu Thiên Ngủ Khí từ ngủ tạng, bằng con đường sống hiện minh là dục tấn luân xa. Nên chỉ tìm Phật tánh bên trong, còn ngoài Càn Khôn, thấy cảnh mà không phải cảnh, thấy vật cũng chẳng phải vật, hàm ý mơ hồ rằng: Sắc tức thị không, không tức thị sắc.

    Còn như pháp môn Đại Đạo thì phân hai bí pháp:

    1.- Ứng dụng luyện Đạo tập thể tại Trí Huệ Cung và Vạn Pháp Cung sau ngày Long Hoa Đại Hội.

    2.-Áp dụng cho cơ phổ độ đại ân xá hiện nay bằng pháp giới đồng luyện.

    Vì Bí Pháp đạt Đạo Đức CHÍ TÔN để trước mặt thiên hạ. Ta thấy bên ngoài cơ thể Đức CHÍ TÔN là hình trạng Thể Pháp, bên trong là Bí Pháp Ngủ Cung mà Đức Phật THÍCH CA đã thuyết trong DI LẠC CHƠN KINH.

    Nếu ngủ tạng đã do hằng tỷ tế bào âm dương liên kết nên hình tạo thành Hậu Thiên Ngủ khí thì ta nương cái sống đó mà sống nơi Bí Pháp Ngủ Cung, tức là luyện từ trong ra ngoài, chuyển Hậu Thiên hòa cùng Tiên Thiên Ngủ khí.

    Luyện bên trong là con đường luân xa, luyện ra ngoài là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống hay Ngủ Cung, đạt Tiên Thiên Ngủ khí bởi dục tấn với tam lập, hành phương Luyện Kỷ cả Nhơn Đạo và Thiên Đạo.

    Chơn Thần ta sáng suốt nhờ 3 hột nguyên tử. Chơn Thần CHÍ TÔN sáng suốt nhờ 3 chi: Pháp, Đạo, Thế.

    Xuất Chơn Thần là Tử Khí trên đây. Vì không gian đã đứng trên, thời gian ở dưới không gian nâng đở, thời gian chuyển vận.Thời gian đi từ không gian (không tức thị sắc) mà tác thành cơ tạo hóa để giữ mức điều hòa.

    Cho nên Cửu Trùng Đài và Phước Thiện cũng là Thể Pháp, thuộc quyền năng bán hửu hình của Hiệp Thiên Đài. Còn phần bán vô vi là Hiệp Thiên Đài hiệp một với Bát Quái Đài. Thiên Nhãn hay huệ nhãn phát hiện từ điểm linh quang nầy được dương quang xuyên thấu mà tử khí vận hành nơi Thiêng Liêng Hằng Sống theo thời gian đi tận cùng chơn lý và theo luật hoàn nguyên: Thành, Trụ, Hoại, Không (sắc tức thị không) thời gian lại đứng trên không gian ở dưới để giữ cho đúng nét công bình.

    Dương Quang từ Nê Hườn mở đệ bát khiếu vô hình sẽ phát xạ hào quang huệ nhãn nơi thượng đình.

    Nên ta đứng tại Bát Quái Đài của Tòa Thánh nhìn lên thấy đại hải mênh mông, dẩy đầy thiên tượng, mà tinh thần ta bắt đầu đi từ Tịnh Tâm Đài. Kế thấy sau Thánh Tượng Đức HỘ PHÁP là chữ Khí, tức khí sanh quang hằng sống .

    Thể Pháp đã tạo nên hình,
    Bí Pháp phải tạo nên tướng.

    Thử hỏi, ta tìm Đức CHÍ TÔN trên đường dục tấn (Thần hườn hư) ta gặp cảnh HỘ PHÁP đã gặp là thấy PHẬT MẪU đứng trước, còn Đức DI LẠC quì sau lưng đang chấp tay đưa lên thì nghĩ ra sao? Có vị Chơn Sư nào thực chứng điều nầy?

    Nếu câu trả lời: Đó chỉ là tư tưởng tạo nên ảnh tượng. Hóa ra câu: Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng do Phật THÍCH CA chỉ dạy trong Tân Kinh DI LẠC là vô giá trị hay sao?.

    Các Chơn Sư cùng bước trên đường Thiêng Liêng Hằng Sống phải biết rõ cảnh đó vì đã thông đồng tư tưởng. Như không thể, thì cách giải thích thứ nhứt là các Chơn Sư không đến cảnh mà Đức HỘ PHÁP đã gặp.

    Cách thứ hai là các Chơn Sư xuất Chơn Thần đi trong cảnh giới vô vi chỉ là vô vi, chớ không cùng đi trên một con đường Hằng Sống với HỘ PHÁP.

    Điều nầy có lẽ do sự luyện Đạo mà tạo cho sợi dây tử khí có năng lực thun, giản khác nhau nên biến thành làn sóng điện phát sóng khác nhau.

    Quan trọng của luyện Thần hườn hư ngay điểm nầy.

    Luyện Thần hườn hư, nếu may duyên được hồng ân diện kiến Đức CHÍ TÔN, tức khối công bình bác ái, thì ta trả lời thế nào về sở hành nhơn Đạo và Thiên Đạo để chứng minh tam lập cho vừa sức CHÍ TÔN muốn, cho vừa ý CHÍ TÔN định, ngõ hầu Ngài ban Chơn Linh rồi trở lại cùng thể xác thiêm thiếp đợi chờ.

    Còn thiếu thì tiếp tục và thực hành đúng luật thương yêu rồi thì Đức CHÍ TÔN giữ quyền công chánh như đệ tam hòa ước nơi Tịnh Tâm Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

    Riêng Bí Pháp luyện Đạo, nếu hiện có trong ngưỡng cửa Cao Đài, thì khi cầu xin Đức CHÍ TÔN tăng sức thêm Thần tức là niệm Phật, Đức CHÍ TÔN đang trấn ngự tại HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN. Khi cầu xin Đức HỘ PHÁP giữ Nê Hườn Cung tức là niệm Pháp, Đức HỘ PHÁP đang ngự tại Cung CHƯỞNG PHÁP để xây quyền tạo hóa.

    Còn vị Chơn Sư khai khiếu là vị đã được CHÍ TÔN và HỘ PHÁP nhìn nhận sở hành thay thế tại hửu hình tức là niệm Tăng.

    Nếu vị Chơn Sư đã chấp nhận truyền tâm ấn, chỉ cho thấy Phật tánh của ta, cần nhứt là dám bảo lãnh sự đạt Đạo hiện kiếp, ta mới đủ niềm tin luyện Đạo, vì Chơn Sư nói ờ một tiếng là ta thấy đủ tam bửu bởi quyền năng của Chơn Sư do Đức CHÍ TÔN và HỘ PHÁP ban quyền ,quyết định.

    Phạm Môn tu chơn phải là Chơn Tu, khai khiếu cho đạt Đạo là bậc Chơn Sư. Chơn Sư phải như thế mới đúng nghĩa.

    Chơn Sư rất nhiều trong Càn Khôn Thế Giới, đã thọ lãnh mạng lịnh của Đức CHÍ TÔN, nhưng Chơn Sư gọi là đúng nghĩa: Dạy cho đạt Đạo, giúp cho hiệp tam bửu, có lẽ không ngoài Đức DI LẠC.

    Khi Thần hườn hư là ta được đặc ân về đến HƯ VÔ CAO THIÊN. Bất cứ một Chơn Thần nào cũng phải tìm về, nơi đây là NGỌC HƯ CUNG qui hiệp tất cả các Tông Đường, trong đó đã có các bậc Chơn Sư Thiên Mạng dẫn nẽo tây qui.

    Đức HỘ PHÁP cho biết Tông Đường cao trọng hơn hết là Tông Đường QUAN ÂM BỒ TÁT, kế là Tông Đường Đức DI LẠC. Nhưng Đức QUAN ÂM đã vâng mạng lịnh nơi Đức DI LẠC Vương Phật, ta nên tìm hiểu Thánh ý rất cao xa.

    Các Tông Đường lớn, nhỏ đều qui hiệp để tùng lịnh một Đấng chủ quyền tối cao gọi là GIÁO TÔNG.

    Nếu luyện đến mức Thần hườn hư, tức là hoàn nguyên thì Tiên Thiên Ngủ Khí trở thành Dương Khí, gọi Chơn Nhứt Khí hay Hổn Ngươn Khí, thì các Chơn Sư Thiên Mạng cùng các bậc nguyên căn đều được “Vào Lôi Âm kiến A-Di” chính Đức Ngài đã giáng linh “ Thâu các Đạo hửu hình làm một

    Tới đây thì không còn lạ gì việc xuất Chơn Thần. Ta xuất Chơn Thần mà sợi dây tử khí của ta không tiếp được làn sóng điện từ sợi dây tử khí của Ngài thì không thể kiến diện Ngài, mà không kiến diện A-Di tại Lôi Âm Tự thì dù cho luyện Đạo biết rõTiên Tánh, Phật Tánh cũng chỉ là giã tướng mà thôi.

    Phải kiến diện Ngài trước đã, mới mong được phục nguyên Thánh Thể, là Tiên Tánh, Phật Tánh của ta.

    Tuy không ai dám kết luận Ngài đang ở cõi Thiêng Liêng Hằng Sống hay đang tại mặt địa cầu, nhưng một khi ta đã có đức tin cùng bằng chứng vô đối để xứng đáng là phần tử trong Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN, sẽ không còn thuộc Phật nữa, mà đương nhiên thuộc Tăng.

    Cho nên giữa lúc nầy ta chẳng cần biết ta là ai, ai cũng được, miễn sao đề thi Bí Pháp của Đức CHÍ TÔN ta làm đặng, làm đúng, mang bằng cấp đáng giá về cho Ngài, thì khuê bài Thiêng Liêng vị, Ngài sẽ ban cho ai?

    Ta hiểu Đấng ngự Ngôi Thái Cực từ khí Hư Vô là khối bác ái công bình thì cứ thanh tâm thường lạc mà sống với cái sống đúng nghĩa của một nhơn hồn.

    Kỳ nầy Đức CHÍ TÔN mở cơ đại ân xá cho hiệp Thần. Đã hơn hai ngàn năm, quyền Thiêng Liêng không cho hiệp Thần bởi thất pháp. Nay Đấng vi chủ đến chỉ rõ sự tương liên tam bửu, nên ta chỉ luyện trong pháp môn của chính Ngài mới mong đạt Đạo.

    Cụ thể là khí hóa thần, thần ở đâu?

    Đức CHÍ TÔN vi chủ Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát Quái Đài thuộc Thần, Đấng ấy chủ về Thần.

    Ta muốn luyện để hiệp tam bửu, mà thấn thuộc quyền Bát Quái Đài, ta vân du khắp Vũ Trụ Càn Khôn cũng chưa từng thấy Bát Quái Đài, nếu tự xưng là Tiên, là Phật thì quả nhiên quá đáng. Phải chi ta lấy sở hành từ bi, bác ái, phụng sự chúng sanh, thức tỉnh con cái của Đức CHÍ TÔN trở về dưới chân Ngài. Sở hành xuất hiện như vậy là Tiên Tánh, Phật Tánh. Còn điều khiển sở hành Đạo Đức đó tức là Phật Tâm. Nếu có nhận xét thì thấy ngay, chớ kiếm tìm xa xôi không có lợi ích gì.

    Để kết luận, ta cần đặt vấn đề:

    Tại sao nền Chánh Giáo của Đức CHÍ TÔN ngày nay lại xuất hiện Chơn Pháp luyện Đạo? Là để cho phù hợp tinh thần dục tấn của nhơn sanh đang tìm đường Thiêng Liêng Hằng Sống, nên phân tách việc luyện Đạo xuất Chơn Thần. Nếu Đức CHÍ TÔN không cho Dương quang xuyên thấu thì không ai phá được khiếu vô hình để đạt huệ nhãn. Muốn đạt, ta luyện trong cơ thể của Đức CHÍ TÔN, làm tế bào liên kết từ não bộ là Hiệp Thiên Đài nhờ Đức CHÍ TÔN chiếu Dương quang chuyển phá huyền quang vô hình tức Bát Quái Đài mới đạt huệ nhãn tại Thượng Đình Cửu Trùng Đài.

    Thuyết Đạo của Đức HỘ PHÁP có nói: “ Cửa Hư Linh không ưa kẻ tàn bạo, lạ thay! Thiêng Liêng vị phần nhiều do những kẻ tàn bạo phá cửa chung vô”.

    Thể Pháp là hình, Bí Pháp là bóng.
    Thể Pháp đã giải, Bí Pháp phải tan.
    Luyện Chơn Pháp, Tịnh Chơn Đạo.
    Chơn Pháp thành thì Chơn Đạo thành.
    Chơn Đạo thành thì Đại Hội Long Hoa khai mạc.


  6. #6
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    [u]PHẬT-PHÁP-TĂNG


    Khi khai Đạo, thọ sắc lịnh của Đức CHÍ TÔN, PHẬT MẪU đến ngự tại Hiệp Thiên Đài.

    Nhưng ta không thấy PHẬT MẪU, chỉ thấy vị Giáo chủ hửu hình là HỘ PHÁP mà thôi, đến lúc mở Cửu Thiên Khai Hóa, tại thế là Cửu Trùng Đài, ta cũng không thấy được Đức LÝ GIÁO TÔNG, chỉ có vị Chưởng Quản Cửu Trùng Đài là Đức QUYỀN GIÁO TÔNG mà thôi.

    Tại sao đã khai Đạo rồi mà Đức CHÍ TÔN chưa có định vị cho các bậc tiền bối được ngự trên 7 cái ngai thuộc ngôi Nhơn Đạo? Cũng bởi Chánh Giáo. Ngài không giao cho tay phàm. Khi nào chính mình Ngài đến, chánh pháp trong tay Ngài, Ngài chủ tọa đại hội, phán định ngôi thứ cho toàn thể con cái của Ngài thì chừng đó mới có quyền ngự.

    Nói như vậy thì thời gian còn chờ đợi chừng bao lâu nữa? Câu hỏi nầy duy có kẻ bàng quang thụ hưởng thì họ mới dám nhanh nhẹn trả lời, chẳng khác nào kể chuyện: Người đui lại dắt người mù. Chớ còn nói đến Chơn Pháp thì ta chỉ cần tự trả lời với chính ta, dựa vào Thánh Ý của Đức HỘ PHÁP: “Nếu mấy người làm cho vừa sức tôi muốn, vừa ý của tôi định thì tôi sẽ trả lại cho mấy người ngôi vị Thần, Thánh, Tiên, Phật”. Hễ đạt được ngôi vị nầy, đó là ta đã đạt được Tam Bửu rồi vậy. Điều ấy thật là tối quan trọng cho một kiếp sanh biết Đạo của ta. Nên cần phải hiểu Tam Bửu như thế nào? Lần lượt tìm xem trước hết là Tam Bửu của CHÍ TÔN rồi dựa vào đó mới hiểu biết khi ta đã hiến dâng Tam Bửu của ta cho CHÍ TÔN sử dụng để phụng sự cho Vạn Linh trong cơ phổ độ là như thế nào?

    Nói thẳng với sự tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT là danh Tam Giáo tôn kính Đức CHÍ TÔN, đã khẳng định buổi Tam Kỳ nầy, Ngài sẽ hạ trần với cả PHẬT, PHÁP, TĂNG.

    Lúc đầu khai Đạo, tạo ra Thể Pháp, chỉ có đoàn Ngự Mã Quân thay thế hình ảnh làm Thánh Thể cho Ngài, chỉ có PHÁP và TĂNG. Nhắc lại khi mở Đạo:

    PHẬT: Từ Bát Quái Đài vô vi, Đức CHÍ TÔN dùng huyền diệu Tiên Gia để Thánh Ngôn, Pháp Chánh Truyền, Thi Văn dạy Đạo trong những năm đầu rồi giao quyền cho HỘ PHÁP.

    PHÁP : Thuộc Hiệp Thiên Đài, vô vi do Đức PHẬT MẪU. Hửu hình có Đức HỘ PHÁP, ở nơi đây mới có quyền thông công cùng Đức CHÍ TÔN.

    TĂNG : Thuộc Cửu Trùng Đài, vô vi do Đức LÝ ĐẠI TIÊN, hửu hình có Đức Quyền Giáo Tông. Sau khi đóng cửa Phạm Môn, biến tướng thành cơ quan Phước Thiện. Nói chung cả 4 cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo là Hành Chánh, Phước Thiện,Phổ Tế, Tòa Đạo đều là Tăng.

    Hễ Thể Pháp thì phải có sắc tướng, ngoài hình thể trên đây HỘ PHÁP đã lập nên cảnh tượng:

    TRÍ HUỆ CUNG, Thiên Hỉ Động thuộc PHẬT.
    TRÍ GIÁC CUNG, Địa Linh Động thuộc PHÁP.
    VẠN PHÁP CUNG, Nhơn Hòa Động thuộc TĂNG.

    Với Thể Pháp nền Đạo, Đức CHÍ TÔN đi từ Phật chuyển Pháp ra Tăng. HỘ PHÁP nương cái Tăng thể pháp đó mà chuyển qua Bí Pháp.

    Vậy chuyển sang Bí Pháp có hiện tượng gì minh chứng? Có ai biết hay không?

    1./Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài được Đức HỘ PHÁP và Đức LÝ GIÁO TÔNG thừa nhận ban chánh vị cho Đức HIẾN PHÁP, Ngài vẫn giữ Mật Pháp của Đạo.

    2./Đối ngoại thì HIẾN PHÁP đã ra Thông Điệp liên tôn Thế Giới tại hội nghị Tân-Đề-Ly (Ấn Độ).

    3./Đối nội thì HIẾN PHÁP mở Phạm Môn Bát Quái Đài giúp cho HỘ PHÁP chuyển Bí Pháp ra Chơn Đạo.

    4./Đến Bí Pháp, cũng phải do Hiệp Thiên Đài, chính Thời Quân BẢO ĐẠO đã tuyên bố giải thể với Đạo Lịnh số: 01/79.

    Đây là vài nét nổi bậc để minh chứng trước Nhơn Sanh: Cơ Đạo đến hồi sang Bí Pháp.

    Từ Thể Pháp đến Bí Pháp đã nói, chỉ thuộc phần Thế Đạo, nên Đức HỘ PHÁP có dạy: “Bần Đạo dắt tới ngã đường, ai biết thì đi còn không biết cứ đứng đó chờ Bần Đạo”.

    Tới Thiên Đạo là phải dục tấn tinh thần trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Ta nên xét lại để rõ Chơn Lý của Đức CHÍ TÔN để tại mặt thế, trước khi bước lên Thiên Đạo. Là Bí Pháp từ đâu mà có? Nếu không dựa vào con cái của Ngài, những hạng Đạo Tâm tin tưởng trọn vẹn theo chân Ngài, trung gian nhờ tay HIẾN PHÁP dẫn nẽo tới Phạm Môn Bát Quái Đài. Như vậy muốn vào Bát Quái Đài cũng phải đi từ Tăng nhờ Pháp mới đến Phật.

    Ta đây thuộc về Tăng phải tùng Pháp, Pháp do Hiệp Thiên Đài. Ban sơ mở Đạo thì Hiệp Thiên Đài phải hướng về Tăng mà phổ độ và tạo lập Cửu Trùng Đài, Phước Thiện cùng nhiều cơ quan khác theo Thể Pháp, nhưng thời kỳ nầy thì Hiệp Thiên Đài phải hướng về Phật, theo Bí Pháp gọi là HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN.

    Lấy nghĩa lý Tam Bửu mà tiến dẫn tinh thần nhơn loại nương theo cửa Đạo đặng trở về với CHÍ TÔN.

    Vậy thì trường lớp giáo hóa của CHÍ TÔN đi từ PHẬT đến PHÁP chuyển ra TĂNG. Ta phải dựa vào chân lý nầy và chỉ có chân lý nầy mới trở lại được với CHÍ TÔN mà đoạt khuê bài Thiêng Liêng vị.

    Khi vào được Bát Quái Đài, bắt đầu từ HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN. Nơi đây có cả PHẬT, PHÁP, TĂNG. Đức HỘ PHÁP đã tiền định Thiên Mạng lo về phần TĂNG tức là lo chung cả Càn Khôn Vũ Trụ từ Bí Pháp đến Thế Đạo. Đến thời cơ, vị nầy sẽ qui hiệp để cầm Chơn Pháp tối cao đặng dẫn nẽo tây qui, đúng với câu kinh:

    “Dà Lam dẫn nẽo Tây Qui,
    Kim Chung mở lối kịp kỳ kỵ sen”.


    Thiên Mạng lo về PHẬT tức là lo tạo cảnh Cực Lạc Thế Giới sẽ trực tiếp với HỘ PHÁP thì thuộc về Bí Pháp Thiên Đạo. Còn Thiên Mạng lo về PHÁP thì do nơi PHẬT, nói khác là nhiệm vụ Phổ Hiền, ai cũng làm được PHỔ HIỀN, miễn lo giáo hóa phổ độ con cái của Đức CHÍ TÔN.

    Nhưng khi được CHÍ TÔN nhìn nhận thì chỉ có một gọi là Bồ Tát. Chơn Linh trúng là Chơn, trật là giả.

    Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát có dạy như vầy:

    Hồi đó Ông có nói căn PHỔ HIỀN là bà SÁU LIÊM, nhưng bà không giúp ích được gì cho đường nầy, nên Thiêng Liêng đã rút căn lại rồi, hiện giờ PHỔ HIỀN ở ngoại quốc, nữa về đây giúp mình”

    Nơi HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN có Cung Chưởng Pháp để thay mặt và tương liên với HỘ PHÁP từ Hiệp Thiên Đài thì ta hiểu về mặt vô vi đã được tương liên với Cung TẠO HÓA HUYỀN THIÊN ( Chủ về Pháp).

    HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN hiệp một với CHÍ TÔN, Đấng vi chủ Bát Quái Đài ( Chủ về Phật).

    Do chơn lý đó mà CHÍ TÔN đã gom lại từ Thể Pháp đến Bí Pháp, Ngài chỉ cần sử dụng Chơn Pháp mà thôi.

    Đặc điểm của HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN là:

    -Nói theo Thể Pháp thì CHUẨN ĐỀ là một vị Tín Đồ đã nêu trong Pháp Chánh Truyền: “Còn một mặt Tín Đồ, Hội Thánh vẫn giữ quyền Hội Thánh”.

    -Nói về Bí Pháp thì Đức HIẾN PHÁP có cho biết CHUẨN ĐỀ Bồ Tát là vị Giáo Sư trên cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống.

    -Nói với Chơn Pháp thì CHUẨN ĐỀ Bồ Tát nắm quyền Chưởng Pháp thay cho HỘ PHÁP đến cặm bông tiêu cho GIÁO TÔNG DI LẠC.

    Theo lý thông thường Thiên Hạ đã hiểu thì Tam Bửu của Trời là Nhựt-Nguyệt-Tinh, của Đất là Thủy-Hỏa-Phong, của Người là Tinh-Khí-Thần. Nhưng ở đây ta muốn nói tới PHẬT-PHÁP-TĂNG là tam thể của CHÍ TÔN đó vậy.

    Vào thời Nhứt Kỳ Phổ Độ, CHÍ TÔN tá danh PHẬT là Brahma Phật.

    Vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ, CHÍ TÔN tá danh PHÁP là Civa Phật.

    Còn buổi Tam Kỳ Phổ Độ, CHÍ TÔN tránh cái gương đã đóng đinh của Chúa Jesus Christ là Đấng Christna Phật nên Ngài đến với cả Tam Thể CHÍ TÔN nơi cửa Đạo Cao Đài mà ta thấy có Thể Pháp, Bí Pháp, đến Chơn Pháp là vậy.

    Tiến tới PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN là Cung PHÁP nhưng thuộc PHẬT, lo pháp độ cho Vạn Linh đắc Pháp.

    Đến HƯ VÔ CAO THIÊN cũng là Cung PHÁP, tùng lịnh Phật lo giữ luật Thiên Điều mà dẫn độ Chơn Linh hiệp cùng Đức CHÍ TÔN để đắc Phật, đem tinh thần Chánh Trị Đạo biến thành cơ quan nắm chánh trị Càn Khôn Vũ Trụ đặng đưa Vạn Linh nhập vào Cực Lạc Quốc.

    Điểm đáng ghi nhớ là Đức HỘ PHÁP mở Cực Lạc Thế Giới từ Hư Vô Tịch diệt cho Vạn Linh hiệp Chí Linh nơi HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN nằm cuối đường Thiêng Liêng Hằng Sống tại thế, để Vạn Linh đạt tới cảnh giới thấy đủ Phật, Pháp, Tăng.

    Nói cho dể hiểu thì Phật, Pháp, Tăng mà ta đi tìm là Tam Thế CHÍ TÔN.

    Nhứt Thế CHÍ TÔN: CHRISTNA PHẬT là Tăng, là sanh hồn cầm quyền năng Chưởng Pháp thuộc Cửu Trùng Đài. Nhị Thế CHÍ TÔN: CIVA PHẬT là Pháp là Giác Hồn, nơi Chơn Thần tương liên tức Âm Năng, có quyền năng xuất vía, giáng linh thuộc Hiệp Thiên Đài.

    Tam Thế CHÍ TÔN: BRAHMA PHẬT là Phật, là linh hồn tức Dương Năng vi chủ Bát Quái Đài. Tam Thế hiệp nhứt hay hiệp một cùng CHÍ TÔN tức âm dương hiệp nhứt nơi Linh Đài trở nên Chơn Linh, rồi:

    “Chơn Linh phối nhứt thân vi Thánh Hình”.

    Thánh hình thuộc Tăng, mới nói Người trị thế.

    Chơn linh thuộc Phật, mới nói Trời trị hồn.

    Ta thấy Tam Bửu của CHÍ TÔN, ta mới tin rằng tới đây sẽ đạt được Tam Bửu. Vậy, để “thúc nhắc bài vở cho kịp Long Hoa Đại Hội” thì Pháp là HƯ VÔ CAO THIÊN, nơi Phục Linh Tánh Phật giúp cho phục nguyên Thánh Thể mới tỏ tường nơi HỔN NGƯƠN THIÊN, Đức DI LẠC vi chủ cả PHẬT, PHÁP, TĂNG là Đấng nào?

    Nhớ lời dạy của Đức HỘ PHÁP, ta phải “ăn thiệt, nói thiệt, làm thiệt”.Nếu giải quyết làm ăn thì còn dễ, bằng như nói thiệt thì quá khó. Đã không rõ Chơn Pháp, làm sao thay thế được ngôn ngữ của CHÍ TÔN mà bảo rằng thiệt.

    Thế gian nầy “nhơn vô thập toàn”. Đức LÝ khép khuôn chớ không khắc khe gì, chỉ nâng đở cho ta đoạt Đạo. Phải tìm Đạo nơi CHÍ TÔN. Chỉ cần ta trọn đức tin, dù ngu muội dốt nát cho đến trí thức thượng lưu thấp cao nơi giá trị Đạo Đức tinh thần. CHÍ TÔN không cần điều nào cao hơn sự tín ngưỡng để “Rưới chan hạnh phúc bỡi lòng tin”.

    Nếu tin thì sớm tới Thánh Đức. Còn không tin thì Càn Khôn Thế Giới chỉ do nhơn loại tranh dành, đua chen ảnh hưởng mà dẫn tới cơ tự diệt.

    Thậm chí, bản thân CHÍ TÔN đến chìu chuộng, nâng niu, an ủi, vổ về, mà câu trả lời chẳng một chút e dè, ngần ngại: “là tôi không tin Ông. Tôi chỉ tin Đức CHÍ TÔN Ông đang trên Trời chớ đâu đây”. Kẻ có trình độ ôn tồn hơn hỏi lại: “CHÍ TÔN hứa đến nhưng sao thấy được? Còn như muốn làm Trời, Ông chuyển cho thành Đạo, làm cho thế giới hòa bình, Tam Giáo Ngủ Chi qui hiệp cho được thì tôi mới tin, chừng đó, Ông muốn bao nhiêu lạy, tôi cũng chịu”.

    Tuy con cái Ngài, nhưng khi Ngài đến thì chẳng tin Ngài. Họ chỉ tin quyền năng. Dù Chơn Đạo mà Tín Đồ duy linh, bao giờ cơ Đạo mới ra thiệt tướng, chẳng lẽ công bình không cần, Thiên Điều cũng bỏ.

    Muốn ra thiệt tướng, Đức CHÍ TÔN phải chọn Đạo Tâm, chỉ dùng Chơn Pháp, sử dụng Tín Đồ biết hy sinh phụng sự đúng theo Thánh Ý của Ngài.

    Sở dĩ có cảnh trạng tin mà không tin vì họ chưa tìm tàng thấu đáo chân lý, chớ Đức CHÍ TÔN hứa là “Thầy ở cùng con cái đời đời không cùng đến thất ức niên” hoặc “Hảo Phùng NGỌC ĐẾ ngự trần gian” mà ta vẫn còn tin Đức CHÍ TÔN chỉ ở vô vi, có đến cũng đến bằng cơ bút nữa hay sao?

    Không lẽ Ngài sợ thế gian? Nếu sợ thời đối với Chơn Đạo, Ngài không buộc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng mà làm gì. Phải hiểu rõ Đạo lý nầy, giúp cho cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng, góp công cho sự tấn hóa sanh hồn trước cơ tiêu diệt. Nếu hiểu rõ thì biết được buổi hạ trần phổ độ ân xá của CHÍ TÔN, Ngài đã định pháp giới như thế nào?

    · Thể Pháp: Ngài dùng huyền diệu cơ bút mở Đạo. Trước chọn Thánh Thể lập Hội Thánh, lấy tinh ba các Tôn Giáo lọc lượt tổng hợp thành một triết lý siêu việt, hướng dẫn nhơn sanh tùng Nhơn Đạo đến Thiên Đạo, dùng Nho Tông chuyển thế, chọn Phật Giáo chấn hưng. Trong nhất thời chỉ mới Thể Pháp, ta không sao đạt được yếu lý. Thể Pháp nặng về lập công hơn để tu tạo cho đủ hình tướng hửu vi giúp cho cơ tận độ. Con đường Đạo vô vi xuống hửu hình kể từ Phật qua Pháp đến Tăng, tức là từ Đạo qua Pháp đến thế.

    · Bí Pháp: Cả hệ thống cơ quan Chánh Trị Đạo, cả kho tàng Giáo Lý, cả Tân Kinh, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền đã làm mực thước cho sự tu học hoặc hành Đạo suốt mấy mươi năm. Đến khi Đức HỘ PHÁP cho biết đã dẫn tới ngã ba đường thì Đức Ngài đã gián tiếp cho hiểu là cơ Đạo đến lúc chuyển sang Bí Pháp. Đối với Bí Pháp thì chuyên về lập đức hơn, giúp cho sắc dân gương mẫu Thần Thông Nhơn thêm tín ngưỡng mạnh mẽ, thấu đáo lẽ âm dương Trời Người hiệp một. Con đường Bí Pháp từ Tăng tùng Pháp về Phật tức là từ Thế tùng Pháp về Đạo.

    · Chơn Pháp:
    Nếu lưu ý sẽ thấy Đức CHÍ TÔN đến giáo hóa như hồi mới mở Đạo. Cũng đến từ Phật qua Pháp ra Tăng. Nhưng Thể Pháp thì dạy lý thuyết, còn Chơn Pháp thì dạy thực hành và có khác chăng là giá trị lập ngôn. Chơn Pháp quan trọng ở lập ngôn đặng thay ngôn ngữ CHÍ TÔN mà “cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn”, tận độ Vạn Linh đạt vị đã nêu trong: “Bộ công DI LẠC Tam Kỳ độ sanh”. Phải thực hiện mục đích công bằng cho tới đại đồng thiên hạ. Đã có Chơn Pháp thì PHẬT MẪU mới mở “Khoa môn Tiên Vị ngộ kỳ Phật duyên” chỉ trừ những ai trốn thệ, thất thệ, còn cả thảy đều được trải qua “Trường thi Tiên, Phật dượt kiếp khiên” thi thố từ Nhơn Đạo đến Thiên Đạo mới mong đạt được khuê bài Thiêng Liêng vị. Nên Đức CHUẨN ĐỀ đã nói: “Thế gian nầy chưa biết ai cao, ai thấp, phải vào Cung HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN rồi mới biết”.

    Nếu không mờ hồ, CHÍ TÔN sẽ dẫn dắt trọn đường Hằng Sống. Bởi Phật, Pháp, Tăng là Chơn Pháp, vì vậy mà Đức CHUẨN ĐỀ cho biết: “Kể từ nay, ai còn nói Bí Pháp nữa, chỉ là mê hoặc nhơn sanh mà thôi”.

    Khi ta thấy tiền đề Phật, Pháp, Tăng là bửu bối phá tan trận Vạn Tiên đã bí mật trong cửa Đạo Cao Đài thì đắc thành Chơn Đạo.

  7. #7
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    NGUYÊN TỬ KHÍ.


    Từ buổi phân Lưỡng Nghi, khí dương là nơi phát sanh của Dương Quang tiếp dẫn bởi ngôi Thái Cực. Nơi Dương Quang hằng sản xuất biết bao điểm linh mà có nên cõi vô hình. Những điểm linh ấy sau một thời gian trải bước trên trường thi công quả mà tạo nên ngôi vị.

    Nơi cõi vô hình chia ra Tam Thập lục Thiên mà từng cao nhứt là ngôi Chúa Tể cả Càn Khôn Vũ Trụ, 36 từng Trời ấy chia ra làm 3000 Thế Giới đẳng lập nên võ trụ hửu hình tức các Cung, các động mà ta đã thấy hằng đêm khi nhìn lên Trời gọi là hằng hà sa số vì sao.

    Những sao mà Khoa Học gọi là định tinh ấy là nơi của Chư Đại Tiên Trưởng hằng ngự để điều khiển Thế Giới của mình, còn các sao gọi là hành tinh là nơi của các Chơn Linh đang thi hành phận sự. Trong 3.000 Thế Giới lại chia ra Tứ Đại Bộ Châu đặng Chưởng Quản về Thất Thập Nhị Địa.

    Nơi cõi Hư Vô là cõi vô hình theo sắc tướng, song đối lại với dương quang vô tướng thì nó lại là hửu hình. Khí Dương Quang là những nguyên tử cấu tạo, vậy thì các Chơn Linh cũng là sự kết hợp của tế bào Dương Quang đó vậy. Do đó mà trong cõi hửu hình loài người đã tìm ra những luồng sóng điện vô hình. Vậy cho nên những vị đắc Pháp có huệ nhãn thì thấy được, có huệ tỷ thì ngửi được, có huệ tâm thì ứng được.

    Khi loài người đã lộ hết lẽ huyền vi cho nhau đặng hiểu rõ thì cớ bí mật chẳng còn nữa do đó mà sự qui cổ phải trở lại đặng cho các nguyên nhân thấy rõ mọi đường học hỏi về sự biến chuyển là lẽ nào.

    Ngày nay các nguyên nhân xuống thế mà hiện còn ở tại thế đã chuyển kiếp mấy lần 90.000 kiếp rồi, bởi đó mà CHÍ TÔN xây cơ chuyển thế cho các Nguyên Nhân thấy rõ sự huyền vi bất khả xâm phạm của Thiên Điều, là dù cho tay phàm kiếm đặng sự bí mật của Tạo Hóa mà họ có thể kiếm đặng sự sanh của Đức CHÍ TÔN hằng dể hay chăng?

    Ngày nay các Nguyên Nhân đã thấy rõ sự tiến hóa của họ về vật chất là mầm tiêu diệt nên tự họ phải nhường bước trước hình phạt Thiêng Liêng. Họ đã hiểu đặng huyền vi bí mật của vũ trụ mà họ không hiểu lẽ sanh tồn do đâu mà có. Vì vậy mà lần hồi họ chỉ nhờ học hỏi nơi đạo đức mới hiểu lẽ ấy do đâu.

    Lần nầy vì các Chơn Linh xuống phàm quá lâu, nên Đức CHÍ TÔN muốn đem về hết một lượt rồi cho trở xuống học lại lớp khác. Bởi cớ, tam ngươn tận mãn thì nhứt ngươn kế tiếp là vậy.

    Để mở kỷ nguyên Thánh Đức, Đức CHÍ TÔN đã cho các Bác Học, Khoa Học Gia thu dụng được nguyên tử khí, nhưng sự hằng sống do đâu? Đó là một đề tài không phải đơn giản. Nếu Đức CHÍ TÔN không cho các Đấng Thiêng Liêng chỉ dạy trong cơ đại ân xá nầy, thì sự tìm tàng của thế gian chỉ là chuyện mò trăng đáy nước.

    Từ hổn độn sơ khai, Ngôi Thái cực phân âm dương biến hóa thì trong khí hư vô đã có sẵn các tế bào. Sau tiếng nổ âm dương phân tách, khí Dương Quang là khí nhẹ nhàng bay lên trên, còn khí âm là khí chất chứa các tế bào nên lóng xuống dưới.

    Các khí chất trên liên đới với tế bào mà tựu lại thành chất khí và biến thành vạn vật; khi chưa thành hình thể hửu vi thì chất khí quyện tựu lại là một cục lửa do khí Dương Quang đốt cháy. Sau đó, nơi Diêu Trì Cung thâu Thập Nhị Địa Chi mà biến khí Dương Quang và chất khí làm Ngũ Hành. Vậy cho nên: Đất, Nước, Sắt, Đá và Lửa được nảy sanh trước hết đó là Kim Thạch Hồn.

    Còn Vật Chất Hồn thì nguyên thỉ của nó cũng là tế bào, nhưng nó ở chung lộn cùng nhau chẳng phân tách riêng một thứ gì. Sau một thời gian biến chuyển chịu dưới sự điều động của khí âm dương mà biến nên hình tướng đặng tạo thành Ngũ Khí. Nó tuy không cử động, không tri giác, nhưng thật sự thì nó có sự biến đổi hình dạng. Đó là hồn của nó vậy.

    Sự vận hành của âm dương trong vòng cương tỏa của ánh Dương Quang tức sanh quang, khi thành hình cả khí chất đều trở nên những hột liên kết lẫn nhau mà mỗi hột vẫn có dương tử làm nhân và âm tử làm bao và có những từ trường chạy vòng theo các dương tử và âm tử. Từ Trường đó là năng lực của hột âm dương.

    Tất cả đều vận chuyển do sự truyền dẫn của ngôi Thái Cực để cho cơ Tạo Hóa hấp thụ lấy chơn dương mà luân truyền khắp không gian.

    Mặc dù đã thành khối thể chất, các hột âm dương cũng vẫn vận hành tùy theo năng lực gọi là biến chuyển tử năng mà các từ trường của các hột âm dương vẫn là yếu tố chánh yếu cho các sự kết cấu thành hình trạng của mỗi thể chất. Khối từ trường đó là sanh hồn.

    Sanh hồn phát sanh do cơ tấn hóa của khí đến hình chất, rồi hoàn nguyên trở lại khí.

    Cuộc vận chuyển như vậy vận hành mãi mãi.

    Trải qua thời gian vận chuyển, hơi nóng được phân chất do quyền năng Tạo Hóa, Đức PHẬT MẪU vận hành trục giao điểm âm dương, tức nhiên Chơn Pháp xuất phát tại Kim Bàn làm cho các hột âm dương được chọn định cương vị nên hơi nóng lần hồi trở thành chất lỏng. Đó là những khối lửa nước vĩ đại rải rác khắp không gian.Trong chất lỏng đã có sẵn các tế bào vật thể.

    Khi mới thành hình thể thì nó chỉ là một cục lửa, cực độ của dương quang trụ lại, lần lần khối lửa ấy bị âm quang rưới hơi lạnh mà nguội dần. Trong khí ấy mới phân tách Ngũ Hành riêng biệt. Như Đất thì tế bào là một (1) điện tử dương bao bọc bởi bảy mươi hai (72) điện từ âm. Loại kim khí thì một dương với chín mươi hai (92) điện tử âm. Các loại kim khác nhau là do thứ có lẫn lộn tế bào của thảo mộc, thứ thì lẫn lộn tế bào của nước. Có thứ lẫn lộn nhiều thứ tế bào mà có nước thì tế bào là một (1) dương với sáu mươi bảy âm (67). Lửa là tế bào của dương quang tức là chỉ có điện tử dương mà thôi, hiệp với tế bào của loại kim mà có.

    Những tế bào của đất ngày ngày biến chuyển theo thời gian mà thay đổi hình tướng thành: Sắt, Đá, Cây, Cỏ. Sự biến chuyển ấy là cơ tấn hóa của Kim Thạch Hồn. Ấy là thời kỳ Khai Thiên Lập Địa và các tinh cầu xuất hiện. Từ các tế bào cho đến các tinh cầu đều phải vận chuyển xoay tròn hòa đồng với sự chuyển vận của các hột âm dương để phát tiết từ trường mà tạo lấy năng lực của mỗi hột.Năng lực đó là sức sống của mỗi vật thể, khoáng thể.

    Các tinh cầu lần hồi nguội lại và những địa cầu xuất hiện. KHOÁNG CHẤT Kim Thạch vận hành tiết ra chất hơi khác hòa hợp với khí Ngủ Hành và từ trường của địa cầu mà hóa khí quyển và quỉ đạo, Kim Thạch Hồn được phát sanh và tiết ra khí Ngủ Hành. Do nơi khí Ngủ hành ung luyện mà các tế bào vật thể lần hồi quy tựu đông đặc thành hình thể, phân loại thể chất và biến hóa.

    Sức sống của Kim Thạch phát tiết ra ngoài để tấn hóa, được Thái Cực chiếu ánh dương quang nên các vi ti tế bào được sống mạnh mẽ hơn mà trở thành sự sống hiện minh.

    Từ Kim Thạch Hồn, các tế bào thâu khí âm dương mà liên đới lại tạo nên Thảo Mộc. Các Thảo Mộc đều chung một thứ tế bào, song tùy theo giống: Có thứ mình nước như loại Thảo, thứ mình cứng, có 3 phần tế bào của Thảo Mộc và một phần nước là cây tạp, còn thứ chỉ một phần tám nước là gổ quí.

    Trong các thứ cây đều có tế bào của Kim Thạch, tùy theo mỗi giống mà có những tánh chất khác nhau: Chất ngọt do đạm khí và Lân chất, chất đắng do Kim khí, chất mặn do Kim và Thạch khí lẫn lộn với đạm và lân khí, chất chua do Thạch khí và Thổ khí lộn với Thủy khí.

    Còn các sắc màu của hoa lá là do nơi Khí Dương Quang chiếu vào chất khí của nó tiết ra mà có.Các tế bào đến Thảo Mộc Hồn tức là bước lên trường thi công quả rồi đó. Bởi do nơi Thảo Mộc tự mình thâu các tế bào của âm dương khí làm món thực dụng cho thú cầm và nhân loại. Sự nuôi dưỡng đặng là các tế bào đã liên đới mà tạo thành sanh khí.

    Bởi cớ, lẽ sống của đệ nhị xác thân đã có bởi khí tiết của Thảo Mộc Hồn. Do đó mà sau một sự biến chuyển, các tế bào của Thảo Mộc liên đới với tế bào của Kim Thạch mà biến hóa ra Thú Cầm.

    Khi đã thành Thú cầm rồi thì các Linh đã bước vào con đường tấn hóa vì nó được hưởng chút ít ân huệ của PHẬT MẪU ban cho Chơn Thần hay là Giác Hồn đó vậy.

    Nhờ nơi đặc tánh của Thú Cầm Hồn mà CHÍ TÔN đã tạo nên loài người bằng phương cho thêm đệ tam xác thân đặng khai đường tấn hóa cho các hồn thuộc về hạ đẳng hồn.

    Trong Thú Cầm Hồn, những vật đã đủ (…?……) những vật đã đi được trên đường tấn hóa.

    Từ Kim Thạch vật đã đi được trên đường tấn hóa.

    Từ Kim Thạch đến Thú Cầm là qua lớp học biến chuyển tạo nên lần vũ trụ trong buổi lập địa, tức là Sửu Thời địa tịch. Bây giờ qua Nhơn Sanh Dần Chi.

    Khi các Thú Cầm đã hóa sanh đầy đủ thì các sanh hồn và giác hồn đã đến lúc huệ khai vì đó Đức CHÍ TÔN rưới Linh Quang ban cho một thể thứ ba là Chơn Linh. Giống Hầu là giống đã được tấn hóa hơn nên vì cớ La Hầu đã được Chơn Linh điểm trí mà tạo nên Thỉ Tổ loài người.

    Từ tạo ra nhơn hồn cho đến tạo được sự uy linh của nó phải trải qua hai chuyển. Đến cuối nhị chuyển thì các Chơn Linh tức là nguyên nhân mới bước vào trường thi công quả và mở Thượng Ngươn tam chuyển. Từ ấy đến nay đã đến Thượng Ngươn Tứ Chuyển, nhơn hồn còn thêm phần tấn hóa nữa.

    Trong Nhơn Hồn, từ buổi tam chuyển được tấn hóa thêm bốn phẩm nữa là: Thần, Thánh, Tiên, Phật Hồn. Như vậy các hình chất hửu vi từ Kim Thạch Hồn đến Nhơn Hồn đều do PHẬT MẪU đem âm quang hiệp với dương quang mà liên đới tế bào (đã có sẵn trong âm khí).

    Bây giờ nói về Nhơn Hồn.

    -Mỗi thể xác đều do những tế bào mà trong nguyên tử tinh trùng cấu tạo bởi những hột nguyên tử trong đó có một dương và chín (9) điện tử âm. Thể xác là nguyên tinh của Thảo Mộc và Vật Chất tạo nên, khi thể xác đã trở về đất thì trở nên đất. Nó là đệ nhứt xác thân.

    -Đệ nhị xác thân: Do Chơn Khí (một dương ba âm) là sự tiết khí của chơn tinh bốc ra hiệp với chơn thần (một dương hai âm) là điểm linh của PHẬT MẪU ban cho, nên nó thuộc về âm (gọi âm khí hay âm quang).

    -Đệ tam xác thân: là dương khí hay dương quang do nơi ngôi Thái Cực, tức là CHÍ TÔN chiếu xuống. Gọi Chơn Linh, tế bào nguyên tử: Một dương, một âm.

    Về tam thể xác thân cấu tạo bởi nguyên lý ấy. Nói cho thật hửu vi thêm nữa thì ngôi Thái Cực là một khí chơn dương, chỉ có thanh khí mới có thể tiếp được linh quang chiếu rọi,

    Đệ nhứt xác thân là vật thể hửu hình, nó nuôi dưỡng bởi chơn tinh, do đó có bốc ra chất hơi gọi là chơn khí.

    Chơn khí có một ánh sáng riêng của nó, nhờ hào quang đó biến đổi hình sắc mà nơi cõi Hư Linh thấu triệt hành tàng tâm ý của mỗi người. Chơn khí là một điểm quang của thể xác bốc ra nên nó dung hợp với điện âm dương trong thể xác. Nó là trung gian tiếp điển của Chơn Thần là của PHẬT MẪU và Chơn Linh của CHÍ TÔN.

    Do nơi Chơn Thần diêu động mà phát hiện ra một linh quang vi chủ ấy là Nê-Hườn-Cung. Nói rõ hơn là bộ óc. Nhờ điển linh quang vận hành mà các thể phách được vận hành phát tiết áp lực nuôi sống và gầy thêm trí não cùng sự sống của con người.

    Chơn Linh do nơi Thái Cực chiết ra. Vì đó, sự sáng suốt của đệ tam xác thân tức là sự sáng suốt của CHÍ TÔN

    Nguyên hình của đệ tam xác thân là một luồng điện do tế bào cấu tạo, luồng điện ấy vẫn hằng ở nơi Tam Thập Lục Thiên và đến hiệp với Chơn Thần đặng giúp cho đệ nhị xác thân vi chủ lấy đệ nhứt xác thân của nó.

    Nói rõ là Linh Hồn điều khiển Giác Hồn đặng chế ngự Sanh Hồn đó vậy.

    Khi được trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống cả Chơn Linh và Chơn Thần được hiệp một mà ngự trên đài sen tức là công nghiệp của Sanh Hồn tạo nên. Lúc ấy gọi là hiệp nhứt qui bổn hay là đắc vị đó vậy. Mà sự hiệp nhứt Nhơn Hồn cũng do chính bàn tay của Đức CHÍ TÔN tác thành Chơn Pháp cho vạn linh nương theo cơ siêu việt tấn hóa mà tạo nên hư vô thanh khí, tức là cơ tạo đoan tấn hóa đến chỗ tận thiện, tận mỹ vậy.

    Trong đệ nhứt xác thân đã có ngũ quan biết xúc động và các tế bào để cho đệ nhứt xác thân cử động, đi đứng, làm cho con người có cái sống thực tế theo con mắt thấy hằng ngày của loài người. Nhưng đến khi gọi là chết, không lẽ nó bị tiêu diệt? Vì nó đã có cái sống sẵn trong bản thể của nó.

    Ấy là nó phải chịu luật tiến hóa của Tạo Đoan thay cũ đổi mới để cho đệ nhứt xác thân trở nên đẹp đẻ đặng phù hạp với linh quang sáng suốt của Đức CHÍ TÔN ban cho nơi mặt thế nầy, để thay thế cho Ngài đặng bảo vệ cơ sanh hóa tồn tại.

    Như trước kia, con người mới được sanh ra thì thân thể xấu xa, ăn lông ở lỗ chẳng khác chi hình tượng con vật.Với thân hình ấy, mặc dù Đức CHÍ TÔN đã ban cho một Chơn Linh thánh đức cũng khó mà tạo nên một xã hội văn minh hay cơ khí được.

    Ngày nay loài người đã phải có sự thay đổi xác thân để cho con người học hỏi cho tinh vi và đoạt được cơ sanh hóa của Tạo Đoan. Càng ngày mới khai thác, phát kiến, phát minh và tổ chức một xã hội văn minh, từ cách ăn, thói ở cũng đoan trang hơn khi xưa. Rồi lần hồi loài người sẽ đạt đặng cả sự bí mật của Tạo Đoan mà thay thế cho Đức CHÍ TÔN làm chủ cơ sanh hóa của Ngài.

    Đệ nhứt xác thân phải bị luật thay đổi chớ không phải chết đâu. Khi xác thân nầy bị luật thay đổi của Tạo Đoan thì nó không khi nào hoàn hình lại được, mà nó phải lộn với đất để nuôi dưỡng chất sanh như là Thảo Mộc, rồi từ Thảo Mộc sẽ nuôi đến Thú Cầm, rồi cũng từ Thú Cầm nó lại nuôi cho loài người, cũng như người ta bón phân đó. Nó vẫn ở lộn cùng đất mà thôi, chớ không thể bay đi đâu được. Đã nói rằng xác thân nó lộn với đất thì lẽ dĩ nhiên nó là đất rồi. Cái xác nào cũng phải biến thành đất cả, chỉ có lâu hay mau do sự chôn cất nó kín hay hở hoặc chắc hay không chắc đó thôi.

    Ở mặt thế nầy không chi là bền cả, vì nó là vật chất biến sanh thì nó phải chịu luật tiêu diệt hay là luật thay đổi của Tạo Đoan.

    Đến như sắt hoặc đá chắc là bao, nhưng nó còn có giới hạn thời gian mà tiêu mòn.

    Luật thay đổi và luật luân hồi rất có ích cho cơ sanh hóa của Tạo Đoan, vì mỗi lần thay đổi hoặc luân chuyển là mỗi lần tiến hóa cao lên. Nên luận về Bí Pháp thì không có gì là mất hay chết cả, mà nó còn mãi mãi với vạn vật.

    Đối với đệ nhị xác thân là một thể vô hình bất tiêu, bất diệt, luôn luôn tiến hóa hay ngưng trệ do mỗi lần tái kiếp được dày công hay đắc tội. Nói cho rõ hơn nữa thì nó là lục dục thất tình. Vậy khi lục dục thất tình được điều độ là nhờ đệ tam xác thân điều khiển nỗi, bằng không thì nó vì đệ nhứt xác thân tức là hình vật sai biểu theo bản chất của nó.

    Đệ nhị xác thân là hình bóng đi lập công bồi đức, thoảng như nó trọn nghe lời của đệ tam xác thân thì được trọn lành mà về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà chúng ta gọi là đắc quả.

    Trong tam thể xác thân, chỉ có đệ tam xác thân là có phận sự quan trọng hơn cả, vì nó phải chịu trách nhiệm đối với CHÍ TÔN khi trở về ngôi vị của mình.

    Đệ tam xác thân là nền tảng cho sự tiến hóa của nhơn loại, thì lẽ dĩ nhiên nó phải chịu khảo thí trong trường thi của Đức CHÍ TÔN lập nơi mặt thế nầy, nếu một Chơn Linh thắng được cái thể thứ nhứt và chế ngự được những dục vọng của nó thì được thăng vị, còn thắng không được thì phải chịu hình phạt. Đó là luật công bình của Đức CHÍ TÔN: Công thưởng tội trừng. Như Đức CHÍ TÔN không dùng phương pháp ấy để lọc lừa các hành động của Chơn Linh thì làm sao mà phân biệt được hàng phẩm cao hay thấp, tùy theo công nghiệp của đệ tam xác thân cho đặng.

    Để thu ngắn hơn thì trong vũ trụ, vạn vật thảy đều hửu hình, nhưng trong hửu hình lại là vô vi biến tướng. Mỗi hình thể là một sự cấu tạo của những tế bào, những tế bào ấy lại kết tụ bởi khí ngủ hành, khí ngủ hành biến chuyển bởi âm dương, âm dương ấy lại diêu động được là nhờ khí hư vô vận chuyển. Vì cớ trong mỗi xác thân dù vật chất, thảo mộc, thú cầm hay loài người thảy đều do sự biến chuyển của khí hư vô.

    Vậy thì mỗi hình vật hửu vi đã phải chịu nơi quyền năng vô biên của khí Thái cực mà được trở nên hình tướng. Những tế bào là những hột điển quang của âm dương chi khí.

    Trong mỗi tế bào đều có hột điện âm và điện dương vận chuyển. Do sự khác nhau chỗ hột điện âm nhiều hay ít mà sự sáng suốt của khối linh quang được tỏ rõ cùng không. Hễ âm nhiều thì phải nặng trịu, còn về mặt vô hình thì chỉ là lưỡng nghi biến hóa mà thôi, không phải là hình tướng hửu vi của vũ trụ được.

    Trong hửu hình có vô vi vận chuyển, còn vô hình lại là khí điển quang mà thôi.

    Vậy thì vô vi là cơ biến hóa, còn hửu hình lại là sự biến chuyển. Hai đàng là hình bóng, hễ hình đã mất tức là các tế bào đã tan rả, thì khí lưỡng nghi trở lại cõi hư vô.

    Còn như những tế bào khi tan rả lại lẫn lộn điển âm dương, khiến cho khí lưỡng nghi ở trong thể xác không hiệp được với khí lưỡng nghi của khí hư vô, thì những nhơn hồn đó phải chịu trầm luân khổ hải.

    Nhơn hồn là gồm cả tam bửu, đều là tế bào âm dương mà nguyên thỉ là khối Thái Cực.

    Từ vật chất, thảo mộc, thú cầm đến loài người đều hửu hình, phải do thời gian biến chuyển hình sắc tấn hóa, đều phải chịu dưới luật thay đổi. Mỗi lần thay đổi thì các tế bào tan rả dần trong đất. Các tế bào lẫn lộn trong đất mà làm chất dưỡng sinh, rồi lần theo thời gian để bước dần trong cơ tấn hóa.

    Chơn Thần, Chơn Linh nhờ khí sanh quang mà sống, mỗi lần tái kiếp là đến giáo hóa, kềm thúc cho đệ nhứt xác thân. Khi mãn kiếp sanh của Nhơn Hồn thì nó là tử khí bất tiêu, bất diệt.

    Dù cho sanh hóa hay qui cổ cũng do năng lực nguyên tử mà cội nguồn là khí Hư Vô.

    Nguyên tử khí do khoa học tìm ra cũng từ nơi đó. Nhưng thay vì, Đức CHÍ TÔN ban cho họ có khối óc thông minh có thể dám sánh với các bậc Địa Tiên, khối óc sáng suốt đó tìm tàng thấu đáo bí mật của cơ Tạo Hóa rồi để tâm thánh thiện mà tạo hạnh phúc và phụng sự nhơn loại cùng tấn hóa, nhưng đã trái ngược lại. Họ đã lợi dụng sức mạnh nguyên tử để tàn hại lẫn nhau.

    Nếu chiến tranh thế giới thứ ba bùng nổ thì nguyên tử khí sẽ tiêu diệt toàn nhơn loại trên mặt địa cầu, trong đó có cả Đức CHÍ TÔN nữa đó vậy! Phải chăng những ác tính đó đã dành lấy chủ quyền nắm cơ tiêu diệt? Ngay cả Chơn Linh của một nhơn hồn, nếu không kềm thúc chế ngự tinh thần lẫn thể xác của nó được còn phải chịu hình phạt của Đức CHÍ TÔN thay huống hồ là mở đường diệt sanh cơ Tạo Hóa.

    Chỉ có Đức CHÍ TÔN, chính Ngài mới có chủ quyền đó. Vì Đấng ấy đã tạo hóa mới có quyền diệt hóa. Nhưng khối Thái Cực là một khối bác ái, công bình, nên trước vực thẳm mà nhơn loại đang chờ chực đã buộc lòng Đức CHÍ TÔN phải đến, đến để qui bổn thiện, cứu rổi và siêu rổi con cái của Người cho qua cơn nước lửa.

    Trong Thiêng Liêng Hằng sống có đoạn: “Nơi Bạch Ngọc Kinh nó là Hổn Ngươn Khí biến hình nó ra, Hổn Ngươn Khí là khí sanh quang của chúng ta đã thở và hô hấp, khí đã nuôi cả sanh vật sống, ta sống cũng do nơi nó xuất hiện mà biểu làm sao không sống?”

    Còn Đức CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, Chưởng Quản Hạo Nhiên Pháp Thiên đã để lời hiệu triệu cùng nhơn loại:

    Thiên cơ chuyển pháp, Thiên Điều phục nguyên Thánh Thể lại, lập triều Đức DI LẠC Vương Phật tức là Hổn Ngươn Thượng Thiên.

    Cung Hổn Ngươn Khí để cho loài người và vạn vật hằng sống. Từ Hổn Ngươn Khí đến Hư Vô Khí, đến Huyền Ảnh Khí, tức là NGUYÊN TỬ Khí mà khoa học đoạt đặng nhưng họ không biết, cái gốc nó ở đâu và tánh chất nó ra sao?

    Nó là thuốc trường sanh bất tử để phục nguyên Thánh Thể lại, Vạn Linh hiệp Chí Linh. Đức DI LẠC ngồi trên Kim Tự Tháp khối Nguyên Tử là chủ của Nguyên Tử Khí đó vậy”.

    Hạnh phúc thay cho nhơn loại, Đức CHÍ TÔN đã ban cho con cái của Ngài sự khôn ngoan siêu việt để đoạt được và sử dụng với năng lực Nguyên Tử Khí. Đó là Ngài muốn lột trần cơ Tạo Hóa, vận hành cho con cái của Ngài thấy rõ mà thức tỉnh, để biết lẽ đồng sanh, nhìn nhau và hiệp một trên con đường hằng sống.

    Vì vậy mà Ngài phải đến ngự tại Hổn Ngươn Thượng Thiên chuyển Pháp, phục nguyên Thánh Thể và chế ngự trên khối Nguyên Tử Khí ngỏ hầu tái tạo hòa bình, hạnh phúc cho nhơn loại./.

  8. #8
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    DI LẠC CHƠN KINH: 5 CUNG.
    .


    Đạo có Thế Đạo và Thiên Đạo

    Kẻ đã trọn về mặt Thể Pháp tức nhiên hiểu biết Bí Pháp, vì Bí Pháp không chi lạ hơn là phương pháp bí yếu để nâng cao giá trị cho Thế Đạo. Nói rõ hơn là phương làm cho đời trở nên tận thiện, tận mỹ.

    Nói theo nhơn sanh triết lý thì Bí Pháp là kế hoạch nâng cao đời sống trong nhơn nghĩa.

    Trong Thiên Đạo cũng có Thể Pháp và Bí Pháp như Thế Đạo. Về Thể Pháp Thiên Đạo tức nhiên là những nơi học hỏi để ung đúc tinh thần trên khuôn viên chánh pháp.

    Trong Thể Pháp Thiên Đạo chia ra 3 thời kỳ:

    1.-Thứ nhứt là thời kỳ khai thác.
    2.-Thứ nhì là thời kỳ luyện tập.
    3.-Thứ ba là thời kỳ thi hành.

    Trong thời kỳ sau nầy mới thường gặp những cơ khảo đảo đặng thử thách tinh thần.

    Khi đã trọn phần Thể Pháp rồi, liền bước qua mặt Bí Pháp là phương tu tâm sửa tánh hầu lập thành Chơn Khí thanh khiết mà hiệp với Chơn Thần đặng tiếp Chơn Linh để giải phương cứu khổ thêm bề siêu lý diệu chơn. Ấy là phương tầm hiểu Chơn Truyền Chánh Pháp khi đã vẹn sạch Tinh, Khí, Thần thì là đắc Pháp đó vậy.

    Lộ trình từ Thế Đạo đến Thiên Đạo tức là con đường Cửu Thiên Khai Hóa.

    -Phần Thế Đạo: Kể từ Tam Cửu đến Lục Cửu thuộc Thể Pháp; còn Thất Cửu là Bí Pháp Thế Đạo cũng là Thể Pháp Thiên Đạo.

    -Phần Thiên Đạo: Thất Cửu, Bát Cửu là Thể Pháp Thiên Đạo

    Cửu Cửu, Tiểu Tường là Bí Pháp Thiên Đạo (đường về đến Hư Vô chi khí).

    Riêng Đại Tường là Chơn Pháp của nền Đại Đạo thuộc Tây Phương Cực Lạc.

    Nền Chánh Giáo khi chuyển Thế Đạo sang Thiên Đạo để cho con cái Đức CHÍ TÔN dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, trước hết phải lên cầu Bát Quái Đài, mới nhập vào Hạo Nhiên Pháp Thiên.

    Dù quyền năng Đức CHÍ TÔN đã định vậy nhưng ta cũng phải cần tìm hiểu chơn lý ra sao mà nhập vào Hạo Nhiên?.

    Nếu dựa theo sấm Trạng Trình:

    “Cửu Cửu Càn Khôn dĩ định”.

    Thì Thất Cửu là thời gian từ 1963-1972 giai đoạn xuất hiện Hạo Nhiên Pháp Thiên.

    Thực tế hơn, là dựa theo chủ quyền Đạo Đức HIẾN PHÁP Chưởng Quản Nhị Hửu Hình Đài đã có nhìn nhận vị Phật CHUẨN ĐỀ và vị Phật cũng được Đức HỘ PHÁP ban cho bút hiệu Phi Phàm.

    Hai Ngài đã ban cho vị Phật đầy đủ Bửu Pháp. Đặc biệt, ngoài các Bửu Pháp còn cho biết Bí Pháp lấy ếm Long Tuyền Kiếm, tức là Bửu Ấn để minh chứng Thiên Mạng, cầm Thiên Đạo xây quyền Tạo Hóa.

    -HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN:

    Tương liên, hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN nắm quyền trị thế, chính quyền năng Đức CHÍ TÔN định.

    Với những yếu tố chánh yếu đúng như Pháp Chánh mà nơi đây trở thành cửa Bát Quái Đài. Nên Hạo nhiên Pháp Thiên gọi là Cung Phật trong đó còn có Cung Chưởng Pháp để chi?.

    Đã nói rằng Thất Cửu là mạch giao chuyển từ Bí Pháp Thế Đạo sang Thể Pháp Thiên Đạo, có như vậy mới phù hạp với Pháp Chánh Truyền trang 70:

    Thầy dạy: “
    Chưởng Pháp cũng là GIÁO TÔNG mà còn trọng hệ hơn, là vì Người thay mặt cho HỘ PHÁP nơi Cửu Trùng Đài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị GIÁO TÔNG, thì lẽ nào cho ngồi địa vị HỘ PHÁP con
    ”.

    Trang 85:

    Cửu Trùng Đài là Đời, mà Hiệp Thiên Đài là Đạo, cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rổi cho nhơn sanh chuyển cơ Tạo Hóa.

    Cái hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài thì không có Đạo. Trời Đất qua chớ Đạo không qua, Nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên Đài không tuyệt
    ”.

    Cũng Pháp Chánh Truyền:

    Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo, hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn còn
    ”.

    Ý nghĩa Hiệp Thiên Đài có phải là Đài tương liên, hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN đó chăng?.

    Nếu Thế Đạo, Hiệp Thiên Đài do HỘ PHÁP Chưởng Quản thì Thiên Đạo, Hạo Nhiên Pháp Thiên do Chưởng Pháp Chưởng Quản.

    Dù Thể Pháp hoặc Bí Pháp cũng do chính HỘ PHÁP. Lẽ đó mà Đức HỘ PHÁP đã ban cho Phật CHUẨN ĐỀ bút hiệu, để thừa nhận Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN, kế chí bảo thủ Pháp Chánh Truyền.
    “Còn một mặt Tín Đồ, thì Hội Thánh vẫn giữ bản quyền Hội Thánh”.
    Vào cung nầy:

    “Kiến CHUẨN ĐỀ thạch xá giải thi”.

    Mặt thế nầy chưa biết ai cao, ai thấp phải vào Hạo Nhiên Pháp Thiên rồi mới biết, biết thi Nhơn Đạo và Thiên Đạo như thế nào.

    Nơi đây là nơi Đức CHÍ TÔN chuyển pháp phân ra Lưỡng Nghi, tức hai lằng Hạo Nhiên Khí chớ chẳng chi lạ.

    Bởi Tam Ngươn hầu mãn, Đức CHÍ TÔN muốn đem cả con cái của Ngài cùng về một lượt để mở Thượng Ngươn Tứ Chuyển, nên Ngài phải:

    “Hạo Pháp Du Hành An Võ Trụ,

    Nhiên Thiên vận chuyển Tịnh Càn Khôn”.

    Nếu quyết định mà chỉ là để cắt nghĩa mà thôi thì vô giá trị, còn không đủ quyền năng lại dám thực hiện thì sở hành sẽ vô hiệu lực.

    Đức CHÍ TÔN vận hành pháp giới cho cả Càn Khôn Võ Trụ an tịnh tức là không gian đở thời gian mà biến thể điều hòa, thời gian điều độ, nương nhờ không gian mà giữ mực công bình.

    Điều nầy kết liểu hay chăng? Ta cũng nên nghiệm xét. Theo như ta đã hiểu rằng: Chưởng Pháp cũng là HỘ PHÁP, thì ta thử nhìn lại khuôn mặt Hiệp Thiên Đài của Tòa Thánh.

    Hai bên là Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài. Rồi đối chiếu để Thất Cửu sẽ hiểu thấu:

    -Kim Chung mở lối kịp kỳ Kỵ Sen.



    -Lôi Âm trống thúc lên Đàng Thượng Thiên.

    Nếu nói Thiêng Liêng Hằng Sống, thì từ Ngọc Hư Cung, Đức HỘ PHÁP vâng Thánh Lịnh của Đức CHÍ TÔN qua mở Cực Lạc Thế Giới.

    Thật ra, Chơn Pháp của Đức CHÍ TÔN không phải dễ dàng hiểu được, nên Ngài đã dạy trong Thiêng Liêng Hằng Sống như vầy:

    “Mình phải ráng học, cần mẫn học, ấy là một điều chẳng phải dễ, nhưng phải làm cho đặng thay thế ngôn ngữ cho Đức CHÍ TÔN. Đem Chơn Truyền của Ngài để vào tinh thần của Nhơn Loại. Nếu mình làm không đặng, cũng như mình làm cho Đức CHÍ TÔN câm sao!

    Mình phải làm đặng, thay thế ngôn ngữ cho Ngài. Nếu mình làm không đặng thì thay thế cho Ngài không đặng.”

    Vì vậy mà Hạo Nhiên Pháp Thiên phải mở một Viện Đại Học cho đúng Thánh Ý của Đức HỘ PHÁP và Thánh Lịnh của Đức HIẾN PHÁP:

    “Đạo Tâm Đại Học mở khoa Trường,

    Giáo Hóa Sinh Viên có kỷ cương.
    Mở rộng thâu người vào học Pháp,
    Khép khuôn cho kẻ đến thí trường.

    …………………………………….”

    Bởi có học mới phân biệt được chánh, tà, nên, hư, giả, thiệt. Câu tục ngữ: “Không Thầy đố mầy làm nên”. Phải đúng như vậy.

    Nên trong bài Thài của Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát lúc qui Thiên có chỉ rõ:

    “Nhờ ơn Thầy trở lại Nguyên Căn,
    Tiến dẫn anh em nghĩa hửu bằng.
    Bạch Ngọc tiếp người vào khỏi đọa
    Lôi Âm rước kẻ được siêu thăng.
    …………………………………”


    Dù có căn duyên phước đức, dù thọ giáo lâu năm mà nếu theo Đạo, Đức CHÍ TÔN dìu dắt tới đâu thì hay tới đó thành ra không phải tin tưởng, tại vì Chúa Jesus chỉ nói: Cha ta trên Trời, Đức HỘ PHÁP cũng nói: Đức CHÍ TÔN trên Trời. Cớ đó mà khi Đức HIẾN PHÁP còn sanh tiền có dạy:

    “Chức Sắc lớn mà thiếu nhận xét cũng không đạt, còn mấy em tuy nhỏ, mà mấy em biết nhận xét cũng đạt”.

    Thật vậy, tu hành mà nhận xét thiếu chính chắn thì sự dục tấn của tinh thần càng ngày càng thêm những điểm mờ hồ thành thử: “Con đường đã mở để dìu dắt cả toàn nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ, không thấy được”.

    Hãy nhận xét đã, nhận xét một cách thật chín chắn rồi trụ cả khối tin thần đồng tâm mạnh bước trên con đường thứ ba Đại Đạo.

    PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN:

    Cung Phi Tưởng do Đức TỪ HÀN QUAN ÂM Chưởng Quản.

    Đức QUAN ÂM Bồ Tát, nguyên căn là thời gian.

    Khi Thái Cực phân Lưỡng Nghi biến hóa thì có thời gian xuất hiện.

    Không gian nâng đở để thời gian chuyển vận.

    Vì căn nguyên đó mà khi mở nền Đại Đạo, Đức CHÍ TÔN đã giao cho HIẾN PHÁP, Chơn Linh là QUAN ÂM, nắm mật pháp Hiệp Thiên Đài mà xây cơ chuyển thế. Thế là công bình tức thời gian chuyển vận.

    Về mặt Thể Pháp, Đức HIẾN PHÁP đã từng thay thế điều hành Đạo sự tại Tòa Thánh do sự ủy quyền của Đức HỘ PHÁP, và đã Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài cho đến ngày nay, nếu không muốn nói Ngươn Linh Thời gian là mãi mãi.

    Đối lại, QUAN ÂM Bồ Tát vâng mạng lịnh của Đức DI LẠC VƯƠNG PHẬT chèo thuyền Bát Nhã qua lại sông Ngân Hà rước người từ khổ hải về Bát Quái Đài, trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Còn có hằng hà sa số Chư Phật trông nom về cơ Phổ Độ mà QUAN ÂM Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Nên dù cho còn trong giai đoạn Thể Pháp mà Đức HIẾN PHÁP đã có nói cùng Phật CHUẨN ĐỀ:

    Bí Pháp lấy ếm Long Tuyền Kiếm là cái Ấn đó. Qua chỉ nói cho một mình em biết mà thôi, chớ Thập Nhị Thời Quân, Qua cũng không cho biết nữa”. Và Đức Ngài còn nói:

    Chừng nào rước Liên Đài Của Đức HỘ PHÁP, chính Qua đi rước mới là thiệt đa nghe”.

    Mỗi khi nhắc đến câu nầy, Phật CHUẨN ĐỀ tõ lời buồn bã:

    “Nghe Ông nói vậy, tôi tưởng Ông còn ở lâu với mình, nên không có hỏi. Bây giờ Ông đã qui rồi, biết hỏi ai? Nghĩ lại sao hồi đó tôi ngu quá, không chịu hỏi Ông cho biết!”

    Còn việc tôi thỉnh giáo Đức Phật CHUẨN ĐỀ về cái Ấn Long Tuyền Kiếm, khi đó đã bị Đức Phật nạt liền:

    -Mầy cũng không biết nữa à?

    -Thưa Ông Đức HIẾN PHÁP chỉ nói cho một mình Ông biết mà thôi, còn Thập Nhị Thời Quân cũng không cho biết thì con làm sao biết được.

    Ông cười và nói đơn giản:

    -Ờ, thì Đông du chỉnh về.

    Ngày nay đây, CHUẨN ĐỀ Bồ Tát đã được an ngự trên ngôi thờ, làm cho tôi thu buồn và cảm nghĩ:

    Có phải Ông hối hận về việc rước Liên Đài mà bù trừ lại để cho tôi hối hận về cái Ấn Long Tuyền Kiếm hay chăng!?

    Chỉ có điều đáng an ủi cho tôi, là khi biết được và bày giải cho toàn thể con cái của Đức CHÍ TÔN cùng biết được điều nầy:

    Kể từ Đức HIẾN PHÁP đã trao mật pháp cho Hạo Nhiên Pháp Thiên rồi, trải qua thời gian Thiên Cơ chuyển biến, “Đấng làm chủ Cung ấy ra lịnh cho vị cầm đầu chỉ hướng giáo hóa dìu dẫn anh, chị, em nam nữ cho rõ thông Chơn Lý đặng giải thoát đoạt Đạo, được đưa lên Cung Phi Tưởng Diệu Thiên kiến diện Đức TỪ HÀN”.

    Nhờ quyền năng Thiêng Liêng ám trợ để thực hiện phần hửu vi:

    Chơn Giáo Cao Đài Cứu khổ vạn Linh Qui Đại Đạo.
    Pháp Khai Ngươn Thượng Nguyên Nhân Tỉnh Ngộ Hiệp Đồng Tâm”.


    Thật ra, người tu ai cũng cho mình làm đúng Chơn Pháp và hể để đức tin về một Tôn Giáo nào cũng gọi Đạo Tâm được.

    Ở đây, muốn đặt tôn chỉ Tam Giáo Qui Nguyên, Ngủ Chi phục nhất, nghĩa là tinh thần Đạo đều qui tụ trong khối tinh thần Đại Đạo bởi CHÍ TÔN là cha chung. Người đến thời kỳ nầy ở cùng con cái của Người đời đời không cùng đến Thất Ức niên. Nên phải tìm Chơn Pháp nơi Người và có Đạo Tâm cũng bởi nơi Người.

    Thể Pháp của Đức CHÍ TÔN phải lập Thánh Thể trước để làm cơ quan phổ độ vạn linh lấy căn bản là Hội Thánh.

    Còn Bí Pháp thì Đức CHÍ TÔN chọn Nguyên Căn từ trong vạn linh mà dẫn độ vạn linh đến cảnh thiên hạ đại đồng. Do sở hành tam thiện mà xuất hiện Hội Thánh của triều Đức DI LẠC VƯƠNG PHẬT.

    Căn bản Bí Pháp là vạn linh. Nên Bí Pháp ra thiệt tướng tức là vạn linh hiệp Chí Linh đó vậy.

    Ngẫm nghĩ Thánh Ngôn: “Nếu các con không đến trường Thầy lập mà thi thố để đoạt thủ địa vị mình thì không đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ”. Đức HIẾN PHÁP cũng đã có nhắc nhở: “Mấy em đã phăng được cái gốc rồi thì đừng trèo ra nhánh nữa, lở nó tuột nó té mấy em, Qua làm sao đở kịp”.

    Hạ Ngươn hầu mãn, thời gian không dừng, ngày giờ nầy, có Đạo Tâm không thể đứng ở ngã ba đường nữa rồi, vì dục tấn trên đường hằng sống còn dài, thời gian quá ngắn, nếu dục tấn với dạng “chuyến xe tốc hành” thì chưa, mà phải bằng “phi thuyền” thì may ra.

    TẠO HÓA HUYỀN THIÊN:

    PHẬT MẪU là Đấng Tạo Đoan cả Càn Khôn hửu vi, nắm trọn Chơn Pháp tạo thành sắc tướng cho muôn loài trong vũ trụ, ban cho ta Chơn Thần để bảo sanh thể xác, gầy dựng nên cơ Đời, lập trường thi công quả hầu đoạt phẩm vị Thiêng Liêng. Chưởng quyền khai tông định Đạo, dưỡng sanh bảo đảm hồn hài cho vạn vật, tức là Mẹ sanh của tất cả.

    Từ Ngôi DIÊU TRÌ KIM MẪU xuất tích một khối Linh Quang gọi là Thần. Do nơi khối ấy chuyển di ra cho các Chơn Linh đặng phối hiệp với các Thể Chất mà làm nên đệ nhị xác thân, ấy là Chơn Thần.

    Nơi DIÊU TRÌ CUNG là nơi tạo hình hài cho cả vạn linh. Nhờ đó Thần được tịnh, quang được minh, thì do nơi Kim Bàn phát hiện mỗi ảnh tượng mà chiếu sáng cho Chơn Thần, tức là khai hoát Thiên Môn cho Giác Tánh.

    PHẬT MẪU đã vâng mạng lịnh nơi Đức CHÍ TÔN, ban sơ đến ngự tại Hiệp Thiên Đài, Bà là Mẹ chữ KHÍ nên về mặt Thể Pháp, chính là HỘ PHÁP đó vậy.

    Mỗi cái chết có cái tử khí. Tử Khí của HỘ PHÁP về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, Ngài đã ngự Cung Diêu Trì, cầm Bí Pháp giúp cho con cái của Ngài sớm qui hiệp Tông Đường đặng kiến diện Đức CHÍ TÔN.

    Cung Tạo Hóa là Huyền Ảnh Khí.

    Trong hai lằn Hạo Nhiên Khí tương hiệp biến hóa, tương xung kết tụ do chính tay PHẬT MẪU. Khi âm dương đã tương hiệp, tương xung rồi từ đó mới biến ra Khí Ngủ Hành hay Ngủ Khí. Nguyên Tử Khí biến xuất cũng từ Cung nầy, nên dù cho Đức DI LẠC Chưởng Quản Càn Khôn Vũ Trụ, ngự trên khối Nguyên Tử Khí, cũng là con mà thôi. Chỉ vâng mạng lịnh của PHẬT MẪU mà nắm quyền trị thế. Còn Mẹ vẫn là quyền Mẹ. Đúng như ta đã biết thì Pháp Chánh Truyền ấn định HỘ PHÁP hửu hình mà quyền năng Thiêng Liêng.

    Dù đã về cõi vô hình thì mãi mãi vẫn cầm quyền:

    Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh”, nên câu: “Tam Châu Bát Bộ HỘ PHÁP Thiên Tôn” cũng đã nói quyền năng Tạo Hóa của Ngài.

    Do đó khi luận Thể Pháp và Bí Pháp chẳng chi ngắn gọn và chơn thật hơn là: chỉ trong tay Ngài.

    Bằng chứng hiển nhiên Ngài đã tạo cơ hửu hình làm nền tảng cho vạn linh nhập trường công quả lần bước từ Thế Đạo đi lên đã vi chủ tinh thần Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.

    Ngài mở Phạm Môn Trí Huệ tức là cửa Hạo Nhiên Pháp Thiên cho vạn linh hành tam thiện, hành Phương Luyện Kỷ, dục tấn trên con đường thứ ba Đại Đạo, thì lẽ đương nhiên phải nắm quyền Chưởng Pháp độ sanh toàn thiên hạ để tạo ngôi vị cho Đức DI LẠC. Vì vậy mà HỘ PHÁP trở về vô vi cầm Bí Pháp chuyển PHẬT ra TĂNG, làm cho chơn pháp tương liên, hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN tượng đủ Tam Hồn của CHÍ TÔN tại thế.

    Tạo Hóa Huyền Thiên do PHẬT MẪU ChưỞng Quản và ngự tại Cung Diêu Trì. Vậy Diêu Trì Cung là nơi nào?

    Nơi Ao DIÊU TRÌ có một Đài phát hiện Âm Quang, đài ấy thâu lằn sanh quang của Ngôi Thái Cực rồi đem Dương Quang hiệp với Âm Quang mà tạo nên Chơn Thần cho Vạn Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    PHẬT MẪU là Đấng nắm cơ sanh hóa thay quyền CHÍ TÔN đứng ra thâu cả Thập Thiên Cang đem hiệp với Thập Nhị Địa Chi mà tạo nên vạn vật.

    Nơi Cung DIÊU TRÌ là nơi tạo nên Chơn Thần và Thể Xác. DIÊU TRÌ CUNG là Cung Điện bằng Ngọc Diêu ở bên Ao Thất Bửu chớ chẳng chi lạ: Ngọc tượng trưng cho sự quí giá còn Diêu là chất hơi kết tụ mà thành. Dưới quyền của PHẬT MẪU có cửu vị Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa cho vạn linh. Nơi CUNG DIÊU TRÌ còn có một cõi Âm Quang riêng biệt gọi là Phong Đô đặng giáo hóa các Chơn Thần đã bị lạc nẽo trên đường trần.

    Vắn tắc hơn, DIÊU TRÌ CUNG là cơ sanh hóa vạn linh và vạn vật.

    Trục giao điểm của bốn phương trên dưới vẫn là sự đối chiếu của chơn không mà phát hóa năng lực chơn dương để diêu động chơn âm vận chuyển không ngừng, cho nên thời gian đi từ không gian để rồi lại về với không gian mà tạo thành cơ sanh hóa của vũ trụ gọi là cơ Tạo Hóa, hay là PHÁP.

    Nên dù cho Đức DI LẠC cũng vậy, phải tùng PHẬT MẪU, vì chính Đấng ấy, đã năng tạo, năng hóa, phải tôn thờ Đấng ấy một cách cho xứng đáng công phu của người, mà “Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang”. Thoảng như ta lãnh đạm thờ ơ thì đối với tinh thần Nho Tông chuyển thế, khi Chơn Pháp xuất hiện, liệu ta giải thích, biện bạch lẽ nào?

    HƯ VÔ CAO THIÊN:

    Từ hổn độn chưa khai cho đến khi Càn Khôn hiện thể, Khí Hư Vô phân lọc lưỡng nghi tỏa ra tứ tượng, định hình bát quái, tạo khí ngủ hành mà nên Nhựt, Nguyệt, Tinh Cầu, cùng các tầng Thiên đặng giữ lấy mức điều hòa âm thinh sắc tướng trong cõi bao la trùng điệp của khí vỉnh sanh, rồi từ đó nét công bình phải nên giữ lẽ.

    Bóng thiều quang, làn sanh khí, ngày đêm luân chuyển, chẳng một mảy lông không bẩm thọ âm dương đào tạo. Công thưởng, tội trừng, chuyển chuyển, luân luân vận hồi tấn hóa để tạo nên bầu bác ái công minh.

    Cả cơ thể tạo đoan đi trong khuôn viên bác ái, lấy điều hòa giữ lẽ thương yêu gìn công chánh đưa đường tấn hóa.

    Sơ khai, Thái Cực phân Lưỡng Nghi làm thành định luật cao và rộng. Tại Ngôi Thái Cực, Khí Hổn Độn biến hình lên và xuống, nhẹ lên nặng xuống, tạo thành bề cao hay bề đứng. Rồi cũng tại điểm đó, sự biến hình được lan ra chung quanh tạo thành bề rộng hay bề nằm.

    Ấy là Dương và Âm. Do đó, Dương và Âm có sự tương hiệp ngẩu nhiên mà thành tứ tượng hay nói là bốn phương trên dưới, tức là không gian.

    Như vậy, dẫn chứng rằng trong âm có phần dương, trong dương có phần âm mà biến chuyển tương hiệp, tương xung. Sự giao động không ngừng của âm dương gọi là trước qua sau tới hay là thời gian vũ trụ nên hình qua kết cấu cô động do sự vận chuyển của thời gian, gọi thanh và trược. Trược thành hình thể, Thanh hóa vô vi.

    Vậy thì chủ của không gian và thời gian vốn là Ngôi Thái Cực và chốn giao điểm của không gian và thời gian ấy là Ngôi Tạo Hóa.

    Nơi không trung bao la Thiên Tượng, tại thế gian đầy dẩy địa hình, có có, không không, đi đi, lại lại, mất còn, còn mất, thảy thảy uy linh.

    Vậy thì Vũ Trụ Càn Khôn đứng trong điều hòa giữ lẽ hằng sanh tấn hóa mãi mãi không ngừng ấy là Đạo, hướng về nẽo vũ trụ quan mà tạo nên chơn lý. Cả cơ thể hửu vi biến chuyển không ngừng tạo thành cơ tấn hóa, ấy là Thế, định trong lẽ Nhơn Sanh Quan mà đi cùng chơn lý.

    Đạo là điều hòa, tức không gian nâng đở.Thế là công bình, tức thời gian chuyển vận, thời gian và không gian là bốn phương trên dưới.

    Ấy là huyền vi của Đấng CHÍ TÔN đã để. Ngôi Thái Cực giữ lấy vị trí Chơn Dương hay Chơn Không cũng vậy mà điều hành cuộc vận chuyển của âm dương đặng điều hòa không gian và thời gian. Cho nên Ngôi Thái Cực vốn tuyệt đối là Ngôi CHÍ TÔN.

    Quyền năng vô đối đó cho thấy rằng: trong trạng thái bất di, bất dịch của không gian vẫn có sự lưu hành của thời gian mà viên định pháp luân, nên gọi là Đạo và Đấng Quản trị gọi là THƯỢNG ĐẾ, Đấng CAO ĐÀI.

    Ngôi Thái cực Đấng CHÍ TÔN bình quyền tuyệt đối, tất cả đều nằm trong sự tương đối, dầu tấn, dầu thối, dầu biến, dầu hóa.

    Giá trị của con người là phân biệt được thiện, ác, giả, thiệt để trau dồi Đạo Đức, Chơn Pháp đào tạo con người bằng pháp tướng hửu vi, đem khuôn viên Đạo Đức cho con người lần bước vịn theo mà tiến đến vô vi diệu pháp.

    Nói rõ hơn, Giác hồn là tay thợ rành nghề kiến tạo Nhơn hồn có một kiến trúc tân kỳ, tân mỹ mà hạ tầng cơ sở được xây đúc vững chắc bền bỉ đặng thượng tầng kiến trúc mới cao đẹp nguy nga.

    Ngược lại, thượng tầng đã không thể đồ sộ mà còn là không thể tạo được kiến trúc sở.

    Từ trong hoàn cảnh tự nhiên thực tại mà vượt đến siêu nhiên hầu đạt phẩm vị hằng sống. Để tấn hóa, Nhơn hồn nương theo Chơn Pháp mà tiến và nhờ Chơn Pháp mà đoạt đặng lãnh vực hoàn nguyên của cơ Tạo hóa.

    Vậy cho nên sự đắc vị của Nhơn Hồn để trở nên Thần, Thánh, Tiên, Phật Hồn là do nơi Nhơn Hồn tự tạo nên nghiệp mà định căn công quả hửu vi của con người đã giúp cho Nhơn Hồn kiến tạo được cơ lọc lượt bản thể gọi rằng đức độ, nhờ đó mà Giác Hồn tiếp chế được sanh hồn và giảm lần sự trả vay nhơn quả.

    Đức độ càng nhiều thì phẩm vị Thiêng Liêng càng cao và giá trị ở thế gian càng lớn.

    Mức tuyệt đối mà Nhơn Hồn trở về với cái Hằng Sống của THƯỢNG ĐẾ đã ban cho tức là đắc vị chốn CAO ĐÀI.

    Vậy cho nên lúc còn ở thế, Nhơn Hồn gặp hai định tướng: Chơn tướng và giả tướng.

    Nhơn hồn đi theo sự cứu rổi hay độ rổi ở trong lòng của con người không bóng sắc và không chủ quan, lấy vị tha, bác ái và công bình làm mực thước đức độ. Con người hòa đồng với con người thì mới có khái niệm khách quan hầu tự điều chỉnh tư tưởng và hành động để hướng về ánh sáng trọn lành của Đấng CHÍ TÔN rọi chiếu.

    Do đó, trong cơ tấn hóa, Nhơn Hồn phải hướng định nẽo thăng lối đọa, tức nhiên Chơn Pháp vốn là khuôn linh cho Nhơn Hồn nương bước trên đường gặp ghềnh chia ngã đặng trở về với Đấng CHÍ TÔN mà Pháp Chánh vốn dĩ giữ cho vững bước lập vị.

    Khi mới hoằng dương chánh pháp, Đức CHÍ TÔN phải tạo Thể Pháp cho các đẳng Nhơn Hồn nương theo lần bước trên trường thi công quả, nên phải tạo thành hình tướng hửu vi giúp cho cơ phổ độ, tức là không gian nâng đở thời gian và thời gian nhờ không gian mà giữ mực công bình.

    Không gian chuyển từ không ra sắc, thời gian nhờ không gian mới an vững mà biến từ sắc trở lại không.

    Không gian vô hình đứng trên, đi tại ngoài chuyển vào trong, cho nên mọi hình vật hửu tướng phải chịu dưới luật thay đổi mà theo thời gian giải thể hay tan rả.

    Còn tinh thần dục tấn đã đến lúc hoàn nguyên Hư Vô chi khí tức HƯ VÔ CAO THIÊN, vì đó mà Bí Pháp phải ra thiệt tướng và chính Đức CHÍ TÔN cầm quyền Chưởng Pháp soi rọi dương quang để phục nguyên Thánh Thể và để cho liên kết các tế bào hưởng ánh dương quang tỏa rộng làm cho các Đạo hồn biến thể Quốc Hồn mà hiện tượng Cực Lạc Quốc. Nên thời gian hửu tướng đứng trên, hiện từ ngoài đến trong. Không gian vô hình ở dưới đi tại trong chuyển ra ngoài. Bởi lẽ mà Đức CHÍ TÔN chưa muốn cho thấy Ngài, chỉ cho thấy rõ sự chơn thật mà thôi, nên Ngài dùng vô vi pháp đến với HƯ VÔ CAO THIÊN là một vị Thượng Hoàng hay là Đức NHIÊN ĐĂNG Cổ Phật để có giáo hóa chơn truyền dẫn độ Chơn Linh.

    Ngày giờ nầy cơ Tạo Đoan đến hồi qui nguyên phục nhứt trở lại thanh khí hư vô, tức là vạn thù qui nhứt bổn, đúng như Chơn Pháp.

    Nên đối với Bí Pháp Chơn Truyền thì Đức HỘ PHÁP đã dạy:

    Người làm cho thiên hạ mê tín dị đoan được là Bần Đạo, mà Bần Đạo không làm, Bần Đạo coi việc làm ấy hèn tiện và vô Đạo Đức, nên chỉ lấy lời lẽ chơn thật đặng giáo hóa cho con cái Đức CHÍ TÔN mà thôi.

    Còn Bí Pháp Chơn Truyền, đợi đến khi nào dùng được Bần Đạo mới dùng
    ”.

    Như vậy muốn đến Hư Vô Cao Thiên, có lẽ Đức Ngài phải sử dụng quyền năng vô đối của Ngài đó rồi, và cũng nhờ NGỌC HƯ CUNG bát luật, nếu không thì làm sao dục tấn tới đây cho được. Nhờ NGỌC HƯ CUNG bát luật nên từ Tây Phương Cực Lạc Đức Phật CHUẨN ĐỀ đã giáng lâm mà “Tái sanh sửa đổi Chơn Truyền” cho đúng với Bí Pháp. Chẳng những thế, Bồ Tát đã qui hồi Tây Phương nhờ Phật TIẾP DẪN cùng đến rước các Nhơn Hồn tu thành Chơn Pháp, phát xạ hào quang minh khí. Tuy hạnh phúc nầy phải được hưởng, nhưng hạnh phúc nào cũng có sự đánh đổi. Vì từ trận tứ tượng, lưỡng nghi, đến Thái Cực phải rõ nét, không còn một điểm mờ hồ và nếu Bửu Pháp chưa tinh luyện thì làm sao:

    “Phá trận Vạn Tiên Thế Giới bình”.

    Mà không dám phá hoặc phá không đặng cũng bội ước cùng Đức Tôn Sư. Đức HỘ PHÁP đã dạy: “Nếu làm không đặng tức là làm cho Đức CHÍ TÔN câm sao?”
    Nếu không thì TIẾP DẪN phải chờ đợi cơ duyên nào để kiến diện “DÀ LAM dẫn nẽo Tây Qui” để có cuộc đàm luận về đạo lý rất hửu tình, rất may duyên.

    Phải chăng “Pháp Hóa Tướng Tông” đã đến hồi “Phổ Tế Tổng Pháp Tông”

    Nếu không có bàn tay Thiêng Liêng của Đức HỘ PHÁP thì mặt thế nầy chưa có một khối óc nào, dù là khối óc thông minh đến đâu đi nữa, cũng chưa ai dám đương đầu.

    Một khi cõi sắc tướng Hậu Thiên trở nên Tiên Thiên Khí thì dứt tam chuyển. Qua Thượng Ngươn Tứ Chuyển hiệp Chư Phật tạo định thiên thi tận độ chúng sanh là thời gian của Thánh Đức vận hành từ trong Cực Lạc Quốc.

    HỔN NGƯƠN THƯỢNG THIÊN:

    Cả cơ Tạo Hóa hửu vi là Tăng. Kỳ nầy. Đức DI LẠC Chưởng Quản Càn Khôn Vũ Trụ, nắm quyền trị thế thì Ngài cũng phải là Tăng.

    Mỗi Nhơn Hồn đều có Tam Bửu thì Đức DI LẠC cũng thế. Ngài vi chủ Tam Thế CHÍ TÔN:

    -CHRISTNA Phật, tại Hạo Nhiên Pháp Thiên, cửa Bát Quái Đài nơi tương liên hiệp một cùng Đức CHÍ TÔN (thuộc TĂNG).

    -CIVA Phật, tại Tạo Hóa Huyền Thiên lúc ban sơ đến ngự Hiệp Thiên Đài tức là HỘ PHÁP (thuộc PHÁP).

    -BRAHMA Phật, tại Hư Vô Cao Thiên, các Tông Đường Thiêng Liêng qui hiệp nơi nầy, do CHÍ TÔN cầm quyền Chưởng Pháp đến thu hồi pháp giới cho Dương Quang hiệp với Âm Quang mà an định cương vị tại Ngôi Thái Cực (thuộc PHẬT).

    Kể từ Chưởng Quản Bát Quái Đài vô vi, Đức CHÍ TÔN đã dùng huyền diệu cơ bút giáo hóa (tức Phật).

    HỘ PHÁP Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, bảo thủ Chơn Truyền Chánh Pháp, cầm luật Thiên Điều mà nâng đở Nhơn Sanh có phương đạt Đạo (tức PHÁP).

    Ngài đã tạo Cửu Trùng Đài làm nơi qui hiệp con cái của Đức CHÍ TÔN vào khuôn Đại Đạo để chung lo bảo tồn văn hiến, cùng thực thi Tam lập và hành đúng Chánh Pháp mà lần bước trên đường Cửu Thiên Khai Hóa, nên Cửu Trùng Đài là cơ quan hành pháp (tức TĂNG).

    Riêng Hiệp Thiên Đài là phương tiện của Đức CHÍ TÔN đến truyền Chánh Pháp, nên dù cho “Nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên Đài không tuyệt”. Minh chứng rằng nhơn loại không tuyệt thì Hiệp Thiên Đài vẫn hằng hửu.

    Chỉ vì Đức CHÍ TÔN sử dụng Chánh Pháp nên từ trường thi công quả chuyển sang trường thi công đức đặng tạo giá trị cho con cái của Ngài, Ngài phải chuyển di phương tiện đó thôi để cho con cái của Ngài từ tam lập tiến đến tam thiện, thi thố mà tự định vị lấy mình.

    Thánh Ngôn đã có hé màn: “Kỳ nầy Thầy đánh bài tráo lật ngửa mà thắng mới là lạ cho chớ”.

    Còn Thuyết Đạo của Đức HỘ PHÁP lại cảnh giác: “Như kẻ đánh bông vụ kia, nếu đánh trúng thì ăn tiền nếu để chén ngửa ra thì thiên hạ đánh trúng hết còn gì”.

    Tiền đề đã có sẵn, nhưng kết luận thì phải trả lời cho được Đức DI LẠC thật sự là ai?

    Chắc chắn điều nầy chưa có một trí thức nào tại mặt thế gian trả lời thỏa đáng.

    Tuy Bí Pháp Chơn Truyền do quyền năng vô đối của Đức CHÍ TÔN, nhưng mỗi khi nói đến Đức CHÍ TÔN tức nhiên đã hàm súc cả khối thương yêu và công chánh. Cho nên không có một cá nhân nào được đặc ân Chơn Truyền Bí Pháp cả. Do đó mà mỵ thuật, mỵ pháp lan tràn, nên Đức HIẾN PHÁP ưu tư để lời:

    Đường nầy tuy đông nhưng đến ngày thành Đạo không có mấy người”.

    Vì ngay cả Đức DI LẠC dù đã tái sanh đi nửa cũng không bao giờ vổ ngực xưng tên. Tại sao vậy? Nếu ai có nghe thì chắc chắn Ngài phải trả lời như vầy: “Tao chưa điên. Tao chưa đi nhà thương Biên Hòa”.

    Cũng may là Ngài không phải đến cảnh phàm, bởi Đức HỘ PHÁP không để cho Ngài đến.

    Ta cũng hiểu trước hết phải có Đức CHÍ TÔN, sau mới có HỘ PHÁP, có HỘ PHÁP rồi mới có DI LẠC.

    Vì HỘ PHÁP là PHẬT MẪU, còn DI LẠC là GIÁO TÔNG. CHÍ TÔN là PHẬT, PHẬT MẪU là PHÁP, DI LẠC là TĂNG.

    Nhưng Chơn Pháp của Đức CHÍ TÔN đã định cho Đức DI LẠC vi chủ cả PHẬT, PHÁP, TĂNG mở Thượng Ngươn Tứ chuyển.

    Nên ta cũng phải tìm hiểu nhận xét coi Chơn Lý do đâu?

    -Về Thể Pháp thì Đức HỘ PHÁP cũng như về Bí Pháp thì Đức Chưởng Pháp cùng dạy:

    Hạo Nhiên Pháp Thiên (thuộc PHẬT).

    Hổn Ngươn Thượng Thiên (thuộc TĂNG).

    Chỉ khác (Cung PHÁP) là thay đổi giữa Phi Tưởng Diệu Thiên và Hư Vô Cao Thiên mà thôi.

    Ngày nay ta đối diện cùng Chơn Pháp thì phải giải thích cách nào?

    Ta phải mạnh dạn mà nói rằng:

    -Hạo Nhiên Pháp Thiên thuộc về TĂNG, vì ta đã nắm rõ được minh chứng kia mà.

    -Tạo Hóa Huyền Thiên thuộc về PHÁP vì PHẬT MẪU là Đấng Tạo Đoan cầm Pháp biến xuất.

    -Hư Vô Cao Thiên thuộc về PHẬT, vì khí Hư Vô nảy sanh CHÍ TÔN (Ngôi Thái Cực).

    Đức CHÍ TÔN đã định cho:

    -Hạo Nhiên Pháp Thiên nắm quyền trị thế cả Càn Khôn Vũ Trụ, có Cung Chưởng Pháp thi pháp và xây quyền Tạo Hóa.

    -Tạo Hóa Huyền Thiên nắm quyền Tạo Đoan cả cơ thể hửu vi trong Càn Khôn Vũ Trụ có Cung DIÊU TRÌ cầm pháp biến xuất.

    -Hư vô cao Thiên nắm Chánh trị Càn Khôn Vũ Trụ, có Cung NGỌC HƯ cầm pháp Thiên Điều.

    Nếu ngày giờ nào cả ba cung PHẬT, PHÁP, TĂNG đã nói trên đây được hiệp nhứt, thì ta sẽ thấy rõ ràng chính là Cung Định, Cung Pháp mà thôi.

    Còn Phi Tưởng Diệu Thiên do QUAN ÂM tức là thời gian chuyển vận, để Pháp Điều Tam Kỳ Phổ Độ từ biến xuất đến qui pháp, mà hiện tượng nên Cung Định, Cung Pháp đó là Hổn Ngươn Thượng Thiên do chính Đấng vi chủ Càn Khôn Vũ Trụ, tức là vi chủ cả không gian và thời gian đó vậy.

    Có thành Chơn Pháp thì hình trạng Bạch Ngọc Kinh tại thế là Tòa Thánh Tây Ninh có đủ quyền năng cả ba Đài tương liên hiệp một và do Hổn Ngươn Khí biến hình mà tạo nên cảnh Hằng Sống Thiêng Liêng.

    Hể thành Chơn Pháp thì Đức DI LẠC đến để cầm quyền GIÁO TÔNG, chủ Tọa Long Hoa Đại Hội.

    Vì địa vị vinh sang như vậy mà lắm kẻ thèm thuồng lăm le, nhưng họ có vào Lôi Âm Tự kiến diện Đức DI ĐÀ hay chưa thì không thấy được bằng chứng và họ dám ngồi trên khối Nguyên Tử hay không lại là một việc khác.

    Còn điều đáng nói là Đức DI LẠC đến, không phải đến để ngồi, mà đến để phụng sự nhơn loại. Ngài đến với mảnh thân nô dịch, tù đày, đeo đai một khối thảm khổ, nhưng lại ban ra cả khối từ bi bác ái cho Nhơn Loại và:

    “Rưới chan hạnh phúc bởi lòng tin”.

    Chỉ có Ông Trời mới như thế. Chỉ có Ông Trời lâm phàm mới làm việc phi phàm.

    Điều nầy hễ nói ra phải là hiện tượng chơn lý, chớ không thể ám chỉ tưởng tượng hay mặc khải Thiêng Liêng.

    Cho nên trước Ngươn Thánh Đức Thiên Điều đã định, tinh thần dục tấn đến lúc hoàn nguyên thì không gian vô hình ở dưới đi từ trong chuyển ra ngoài, cho dù Nhơn sanh muốn biết cũng chẳng biết đặng, nên Đức DI LẠC vẫn ẩn tích mai danh trong màn bí mật.

    Còn thời gian hửu tướng đứng trên hiện từ ngoài đến trong, nhờ đó mà Đức HIẾN PHÁP QUAN ÂM có đủ quyền năng chống chèo Bát Nhã, giúp cho an định cương vị nơi Cực Lạc Thế Giới.Thì Chơn Pháp chỉ có giải bày Thể Pháp Ngũ Hương là tượng Ngũ Khí của Bí Pháp. Do hai lằn Hạo Nhiên Khí âm dương tương hiệp, tương xung biến thành Ngũ Khí, Đức CHÍ TÔN soi rọi Dương Quang tạo nên án Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn. Từ chơn lý đó, Đức CHUẨN ĐỀ đã dạy: “Trong 5 Cung, Cung nào có Bồ Tát thì tại thế”.

    Vậy PHẬT, PHÁP, TĂNG là Hạo Nhiên, Phi Tưởng và Hỗn Ngươn.

    Còn Tạo Hóa Huyền Thiên và Hư Vô Cao Thiên là âm năng cùng dương năng của CHÍ TÔN hiệp một tại Ngôi Thái Cực. Từ đó Bí Pháp Kim Bàn chiết xuất Chơn Linh một dương, một âm phối hiệp nhơn thân tượng nên hằng hà sa số Chư Phật trong cảnh Cực Lạc Thế Giới./.

  9. #9
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    VIII.- QUỐC ĐẠO NAM PHONG

    QUỐC ĐẠO NAM PHONG.
    (Từ Trung Hiếu Nghĩa)

    Trường hổn độn, một nền văn minh gồm có tinh thần duy vật mạnh mẻ. Cái chánh sách của loài người chạy theo duy vật đương nhiên thì mặt địa cầu nầy chưa hòa bình. Họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí Thánh, vật chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu chửa. Duy có Đức CHÍ TÔN đến cứu loài người mà thôi.

    May thay trong nòi giống tổ phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm môn thuốc cứu cả tinh thần nhân loại trong hoàn cầu nầy và trong tủ thuốc thiêng liêng đó để làm vị cứu sanh.

    Tổ phụ ta trước kia lấy lương thiện làm căn bản, lấy nhơn nghĩa làm môi giới.

    Nhơn loại vì quá ỷ tài sức nương theo cái tinh thần khoa học mà làm mất cái tinh thần căn bản nhơn luân. Đương nhiên bây giờ tinh thần loài người chỉ xu hướng theo trí thức của họ. Họ có thể được cái hành vi bí mật thiêng liêng mà lập nên cơ giới phi thường ở mặt địa cầu nầy. Nhưng cơ giới ấy do nơi hóa công sản xuất ra tâm não của kẻ trí thức thông minh đặng bảo vệ sanh mạng của loài người và lập hạnh phúc cho loài người.

    Trái ngược lại những hạng trí thức thông minh ở trong thời đại nầy đều nảy sanh do một tâm lý khoa học mà thành hình, rồi tâm lý khoa học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đã ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu đã giết hại nhau, nên hiện giờ trên mặt địa cầu đã tự giết chết biết bao nhiêu mà kể, nên Đức CHÍ TÔN phải đến.

    Đêm 21 tháng12 năm Đinh Hợi (1948) Đức CHÍ TÔN giáng cơ dạy Ông cựu Thủ Tướng Lê Văn Hoạch đem bài thi nầy qua Hồng Kông cho Ông NGUYỄN VỈNH THỤY (BẢO ĐẠI).

    Thượng, Hạ nhị Thiên xử địa hoàn,
    Việt Nam nhứt quốc nhứt giang sơn.
    Hoàng đồ toàn bảo Thiên thi định,
    Đảnh tộ trường lưu tổ nghiệp tồn.
    Quốc Đạo kiêm triêu thành Đại Đạo,
    Nam phong thử nhựt biến nhơn phong.
    An bang liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,
    Văn hóa tương lai lập đại đồng.


    Từ bài thi nầy rõ ràng là Đức CHÍ TÔN đến để chỉ và cho lại Quốc Đạo Nam Phong, Ngài đã đền bù sự thiệt thòi của một đất nước nhỏ bé giàu lòng tin, một cách xứng đáng.

    “Quốc Đạo kiêm triêu thành Đại Đạo”

    Các Tôn Giáo hiện hửu tại mặt địa cầu nầy đã mất quyền. Điều đó quyết hẳn vậy. Thiên hạ tinh thần đã loạn mà không ai cầm quyền điều khiển nên tự do sát hại với nhau.

    Đức CHÍ TÔN đến, đến đặng cứu con cái của Ngài. Ngài đã làm thế nào? Chỉ tăng cường đạo đức làm giềng mối cho tâm lý loài người đặng bảo tồn sanh mạng cho cả nhân loại với phép duy tâm thì đời mới tồn tại.

    Chúng ta quan sát coi nền Quốc Đạo của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn Giáo cho toàn cầu? Nền Tôn Giáo của Đức CHÍ TÔN lấy tinh thần làm căn bản, hỏi vậy tinh thần của nhơn loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn minh vật chất, tinh thần ấy có đủ quyền năng tự vệ lấy họ chăng? Tinh thần họ có đủ lực lượng chiến thắng chăng? Nếu không quật khởi lên tự quyết, tự chủ, tự định phận đặng mà phải chịu làm nô lệ cho văn minh vật chất thì tương lai của Đạo Cao Đài sẽ ra sao?

    Chẳng những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, còn phải bảo vệ chân tướng của Đạo Đức tinh thần cả loài người trở mặt ra đối với tinh thần cường liệt của CHÍ TÔN, thì tương lai nơi mặt thế nầy sẽ như thế nào?

    Có điều CHÍ TÔN tạo hình thể nào đặng bảo trọng tinh thần Đạo Đức, đó là phương pháp ta nương theo đặng tạo dựng khối đức tin vững chắc bền bỉ vậy.

    CHÍ TÔN đã nói cùng người Pháp:

    “Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô lệ chớ chưa biết vi chủ vì vậy mà ta đến bồi thường sự bất công ấy, Đạo giáo đã dạy chúng ta chí thiện, chí nhơn, đại từ, đại bi, tinh thần đó vậy. Hỏi chớ ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng? Dám chắc giọt cam lồ ấy, tinh thần loài người đã khao khát để bảo tồn sanh mạng, bằng chẳng vậy thì nhơn loại phải tự diệt mà thôi.”

    Ta thừa hiểu: Nòi giống Việt Nam xuất hiện ở hoàng địa Tàu, thời Ngủ Đế tương tranh (không phải Tam Hoàng Ngủ Đế) bộ lạc của Hoàng Đế chiến thắng tất cả, cho nên các vị Đế cầm đầu bộ lạc là Thanh Đế, Xích Đế, Bạch Đế, Hắc Đế đã phối hiệp bộ lạc mà đánh trả, vì vậy mà Hoàng Đế cùng đoàn tùy tùng phải giả trang chạy về phương Nam, nên ta không ái ngại nói Việt Nam nầy là sắc dân Tàu. Đất địa tổ quốc ta không phải ở đây, ở Bắc Tam Tỉnh là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam kể luôn Đông Kinh (Tonkin) tức là Hà Nội và Hải Nam nữa là tổ quán.

    Nòi giống Việt Thường là con cháu nước Lỗ mà Nho Tông xuất hiện cũng ở nước Lỗ, giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là Nho Tông chúng ta vi chủ. Nói vi chủ tức là của mình.

    Bây giờ trở về cội nguồn Đại Đạo thì như chúng ta đã hiểu Đức CHÍ TÔN duy có một mình, Ngài phân ra mới có PHẬT MẪU, Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp lại đệ nhất quyền đủ quyền năng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ để lập gia đình cho loài người. Nhờ CHÍ TÔN phân tánh là Bí Pháp lập thành xã hội.

    Mỗi cá nhân đều có nguyên do căn bản. Ngày nay nhơn loại lại xu hướng theo phương pháp vật hình, quyền năng khoa học sống không quyền lực tinh thần duy chủ,tổ phụ chúng ta sống từ Thượng Cổ đến nay ba ngàn năm (3000) một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm luật xã hội nhơn quần. Ngài định phải có gia đình, có tổ tông, có xã hội. Ngài lập pháp trọn trong điều ấy từ thường dân chí Vương Đế không ai ra khỏi mặt luật. Tổ phụ chúng ta chịu Đạo Giáo để lại sự thờ phượng tông tổ gia đình chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá vảng, ta coi người chết như sống, chúng ta tôn sùng mạng sống của con cái người, vì loài người là Thiên Hạ mà Thiên Hạ là Trời.

    Chúng ta biết nhìn nhận Trời trên mặt địa cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời tức nhiên thờ loài người đó vậy. Đạo giáo chúng ta để lại 2.000 năm vậy điều trọng hệ là thờ Trời và thờ Người.

    Buổi hổn độn nầy, khoa học dẫn đến một đường tử lộ chúng ta cần đến Đạo Giáo phô trương trên mặt địa cầu cho nhơn loại biết tự tỉnh để trụ tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.

    Cái trí thức tinh thần khoa học ấy có làm gì cho đồng bào và thời đại nầy đặng hạnh phúc chăng? Trái lại nó làm cho đời một tấn tuồng thống khổ! Cái thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rõ tâm lý khổ não của đời đem lòng thương hại đến nhân sanh.

    Từ Phật Giáo ra đời đến bây giờ tinh thần của loài người mới biết thương hại cho nhau, nơi nào có một tâm hồn ưu ái thì các Tôn Giáo đương nhiên trước kia là một hườn thuốc để cứu chửa cái bịnh thảm khổ của loài người, nhưng nay hườn thuốc ấy nó không thể trị đặng một bịnh tinh thần khoa học của họ đã sản xuất trên mặt địa cầu.

    Chúng ta chỉ biết đem hai chữ nhơn nghĩa mà lập nên hạnh phúc cho họ mà thôi. Nên nay ta đem cái Đạo nhơn nghĩa mà thức tỉnh loài người đặng cho họ nhìn với nhau vì danh nhơn nghĩa hầu thương yêu nhau, dìu dắt đi đến chủ nghĩa đại đồng.

    Đạo Nho phát sanh từ Vua Phục Hy là tối cổ. Ta không thể tìm đâu xa, duy biết rằng Đức KHỔNG PHU TỬ học Nho của Ông CHÂU CÔNG đặng chỉnh đốn lại Đạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy Đạo Nho đã làm được những gì?

    Ta thấy Đạo Nho của chúng ta có Hội Thánh mà Hội Thánh ấy bí ẩn, khéo léo lạ lùng duy có một người có thể kiến thiết quốc phong của một nước mà thôi, chớ không đủ năng lực chuyển cả tâm lý toàn cầu được. Vì sự khuyết điểm ấy, Đức CHÍ TÔN mới đến lập Hội Thánh đền thờ của Ngài kêu là CAO ĐÀI, danh từ đó chỉ rõ Đền Thờ cao trọng của Ngài tại thế.

    Hội Thánh Đạo Khổng lập quốc thế nào?

    Ta thấy Hội Thánh của Đạo Khổng trong gia đình làm gia pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm. Người Chưởng quản gia đình tức là Giáo Sư Hội Thánh của Đạo Khổng tức là Cha (kêu là chủ gia).

    Trong Hương Đảng có Hội Thánh của Hương Đảng, theo cổ tục thì Ông Hương Chủ là chủ của Hội Thánh Hương Đảng.

    Khởi đầu trong gia đình rồi mới tới Hương Lân, trong Hương Lân, chức Hương Chủ là lớn hơn hết rồi mới ra đến Quốc Gia, người chủ của Quốc Gia là nhà Vua.

    Ông cha ta trong gia đình, Ông Hương Chủ trong Hương Thôn, Ông Vua trong nước, cả ba người ấy giữ ba giềng mối Đạo. Phụng thờ ba Tôn Giáo. Tổng số ba Tôn Giáo ấy lại là Nho Tông.

    Ông Cha trong nhà thì thờ Tiên, Tằng, Tổ, Khảo, Ông là Giáo Sư, là thầy cả trong gia đình.

    Ông Hương Chủ thì thờ Chư Thần, tức là cả công thần vì nước mà hy sinh cả tánh mạng được nhà Vua ân tứ làm chủ Hương Lân, nên trong Làng ta chỉ thấy có Đình thờ Thần thiên thu phụng tự mà thôi. Nên Ông Hương Chủ là Thầy Cả của Làng.

    Nhà Vua thì thờ Đức CHÍ TÔN tức là NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ.Ta thấy sự tế tự Đấng CHÍ TÔN ấy lưu truyền từ đời Thượng Cổ nên hằng niên mới có tế Nam Giao, đó là tế Đức CHÍ TÔN vậy.

    Ta đã thấy Đạo Nho lấy gia đình làm căn bản, bước từ tiểu gia đình là gia tộc lên đại gia đình là quốc gia, lại lấy sự khéo léo trong gia đình là phương pháp thực hành. Các phần tử trong gia tộc hiệp lại thành Tông Đường. Một gia tộc nào đủ nhơn nghĩa đạo đức thì tông đường đó để mắt nông nả cho có đủ phương pháp thi thố cả sở năng của mình, bởi chỉ trông cậy nơi mình làm cho gia đình đứng đợt được với thiên hạ một cách vinh diệu, mà hể tông đường được vinh diệu, tức nhiên người đại diện cho tông đường ấy khi ra thay mặt cho tông đường đã đào luyện trí thức, tinh thần, sở năng, sở kiến đặng thay thế tông đường cho xứng đáng trước luật quan phép nước. Làm đầu tông đường được tức nhiên trong Hương Đảng đã để dành địa vị cho danh thể cao trọng ấy rồi.

    Trong Hương Thôn có mặt nào đứng đợt làm đầu Hương Thôn, mặt ấy không lẽ triều chính không biết đặng, nên danh nghĩa trong Hương Đảng liên quan mật thiết với triều đình mà hể có liên quan tất nhiên là địa vị triều đình sẽ dành để cho người cầm quyền Hương Đảng đó vậy.

    Tổ chức xã hội chúng ta đi từ tiểu gia đình lên đại gia đình là quốc gia, vì cớ nên tiên nho chúng ta dầu cho để tam quyền là Ông Cha trong gia đình mà có tội đem ra giữa triều chính buộc tội là trị Đạo bất nghiêm, còn đệ nhị chủ quyền lại là trị dân không nghiêm, cũng gọi là trị Đạo bất nghiêm. Hình phạt nặng nề sẽ định án cho hai chủ quyền đệ nhị và đệ tam đó không phương chối cải.

    Cái Đạo, nói tiếng Đạo mà người cầm quyền trị Đạo phải thực hành được Đạo đã không dễ thì cầm quyền trị Đạo lại càng không dễ nữa. Phải làm thế nào thi thố cho dân sự trong bổn thôn thấy tâm Thánh của mình là thay thế Đức KHỔNG PHU TỬ làm cha mẹ dân, mà chẳng vậy thôi, còn cầm quyền Thầy trong bổn thôn đó nữa. Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối báu do CHÍ TÔN để lại mà trau dồi làm cho có giá trị, cứ do theo điều mới mẻ thì chỉ có làm cha, làm chủ bướng vậy thôi, nên cần phải biết sửa dương lại thì xã hội nầy sẽ đứng đầu hơn hết.

    Cha nâng đở danh thể làm cho con thế nào thì Ông Chủ quyền của Hương Thôn cũng phải làm cho dân thế ấy, nghĩa là tâm lý của Ông cho cầm quyền gia đình trị con thế nào thì Ông chủ cầm quyền Hương Lân trị dân cũng như Cha trị con vậy.

    Thượng gia đình là quốc gia, trung gia đình là Hương Đảng, hạ gia đình là tông đường, không có chi là lạ là khó, nhưng căn nguyên ấy ta không sửa lại đặng bởi ba bực: Hạ, Trung, Thượng của cơ tấn hóa thế nào thì gia đình cũng thế ấy. Cả Càn Khôn có Thượng giới, Trung giới, Hạ giới mặt luật thiên nhiên của sự tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu hủy đặng. Nên cần phải tô điểm nam phong do tinh thần tổ phụ ta để lại làm căn bản mới đủ sức mạnh đủ cường liệt đứng đợt với toàn cầu vạn quốc. Bằng chẳng vậy thì đừng mong hưởng sớm, còn xa vời lắm.

    Ngày giờ nầy, vì quốc dân xu hướng theo văn minh tân thời muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do bởi cớ nên Đức THANH SƠN để câu thi tự hào rằng:

    “Văn hóa bốn ngàn năm có sẵn,
    Chi cần dị chủng đến dâng công.”


    Trong phong hóa của ta gồm có: Phong hóa của nhà, phong hóa của làng, phong hóa của nước, tức là phong hóa chung của xã hội nhơn quần Việt Nam ta đó. Nho Tông đối với xã hội là gì? Tức nhiên ta thấy có luật pháp, tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.

    Đạo Nho có thất thập nhị hiền và Tam Thiên đồ đệ. CHÍ TÔN đến lập Hội Thánh có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập lục Thánh, Thất Thập nhị hiền,Tam Thiên Đồ Đệ, rõ ràng là Hội Thánh của Đạo Nho. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp dụng nền Chánh trị của nhà Châu đặng lập chánh trị của Đạo, làm cho cả cơ quan yếu thiết của Đạo Cao Đài ra thiệt tướng đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không có gì mà nghi ngờ nữa cả. Cái nền nhơn nghĩa của chúng ta nó có thể làm môi giới cho các chủng tộc trên thế giới, Đạo nhơn nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc thể cho nước Việt Nam và có thể thành quốc đạo được.

    Nếu ta tìm tàng sự ảnh hưởng Nho Tông đối với nền chánh trị của nước Trung Hoa tối cổ vững chắc mạnh mẽ phi thường, nếu có nghiêng đổ là tại họ phế cổ tùng kim làm cho hủy hoại nền chánh trị tối cổ quí báu mạnh mẽ khi xưa. Phương pháp chánh trị Càn Khôn cũng vậy. Còn nước Việt Nam là nòi giống Trung Hoa của người Tàu thì chúng ta đã có nền chánh trị về Tông Đường đó muốn thiên hạ hiệp lại đại đồng thì ít ra các Tông Đường phải hiệp trước đã, phải đi từ cái nhỏ mà đến cái lớn.

    Đạo nhơn luân khởi thủy từ hôn nhơn mà Nho phong đã định cho cha mẹ vi chủ, nếu để cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi, nếu gia đình hư tức nhiên sẽ có ảnh hưởng tới xã hội.

    Ấy vậy căn bản phong hóa của Việt Nam ta do nơi đạo nhơn luân nơi gia đình, dù ai thuyết minh phong hóa như thế nào đi nữa nguyên căn tinh túy cũng vẫn do nơi gia đình mà thôi.

    Chúng ta lấy Nho phong làm căn bản, phục sanh hồn nước đã điêu tàn cho nó phục sanh lại làm sống quốc hồn của mình trong bốn ngàn năm về trước. Như nó thành tướng chừng đó chúng ta không muốn bán cũng có kẻ mua, chẳng phải một nước Việt Nam nầy thôi mà toàn cầu vạn quốc nài mua đó vậy.

    Nếu Đạo Cao Đài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên mặt địa cầu sẽ thành ra ác thú.

    Hỏi thử ngày giờ gần đây, ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao?

    Cả Đạo nhơn luân điên đảo, phong cách suy đồi, không còn nguyên hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô tục gớm ghiết. Nên khi Cao Đài xuất hiện đã áp dụng tôn chỉ Nho Tông chuyển thế. Đức LÝ GIÁO TÔNG Ngài lập chức Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự rồi Ngài lại nhờ Đức HỘ PHÁP lập chức Thông Sự hiệp thành Bàn Trị Sự tức Hội Thánh em. Vậy mơ vộng của Đức LÝ để Chánh Trị Sự làm gì?

    Đức LÝ có ý đem qui cũ Đạo vào đệ nhị chủ quyền, đặng phục hồi lại y như trước. Ngài quyết định hơn nữa là để vị chức sắc ấy nắm quyền Hội Thánh tức là vào Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN. Ý muốn là vậy, mà thử hỏi Bàn Trị Sự toàn thể quốc gia ta ngày kia có đủ năng lực và đủ tinh thần đạo đức để chỉnh đốn xã hội ta trong hương thôn, lần lần sửa lại theo tổ chức tối cổ của quốc gia xã hội ta trước được không? Đương buổi nầy thiên hạ đang thống khổ tâm hồn nếu họ thấy chánh sách của ta đạt được họ sẽ lấy và đồ theo, mà lấy trong tay Cao Đài họ không thẹn mặt.

    Chúng ta thấy trong ba quyền, duy có quyền Chúa là trên hết, sau biến tướng đến quyền Cha, quyền Thầy. Ấy là đạo Tam Cang: Phu Tử, Sư Đệ, Quân Thần. Đạo Tam Cang ảnh hưởng sâu sắc trong Đạo Cao Đài. Nên Huấn Từ của Đức HỘ PHÁP ngày 12 tháng 7 năm Mậu Tý (1948) đã có dạy “Bổn phận phải đào tạo mãi cho thành Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN, tức là tạo Ông Trời tại thế nầy cho ra tướng, nếu không có Ông Trời tại thế gian nầy, chúng ta sẽ khổ não, thế gian sẽ bị tiêu diệt, vì con đường tấn hóa về vật hình sẽ xô đẩy nhơn loại đi đến đâu chưa biết , mặt địa cầu nầy nhơn loại sẽ mất bảy hay tám phần mười nếu Đạo không thành chơn giáo.”

    Vậy ta hãy đặt vấn đề ngay chỗ thành chơn giáo? Tại sao phải thành chơn giáo? Chơn giáo là gì mà phải thành? Và từ trước tới nay chưa được chơn giáo hay chăng? Chúng ta có quyền tìm hiểu mà thấu đáo dễ dàng hơn là phơi bày thì chẳng hóa ra mình tự “mèo khen mèo dài đuôi hay sao?” Chúng ta chỉ cần biết Đức CHÍ TÔN chủ quyền Chơn Đạo, đã phân quyền một cách quá khéo léo.

    Thể pháp thì giao cho Đức HỘ PHÁP. Bí Pháp thì giao cho Chưởng Pháp CHUẨN ĐỀ Bồ Tát. Chơn pháp thì giao cho GIÁO TÔNG DI LẠC Vương Phật.

    Rồi Đức CHÍ TÔN đến để thức tỉnh nhơn sanh nên mới có câu Ngài nói với nhà Vua: “Nam Phong thử nhựt biến nhơn phong” là thêm ý rằng Tổ Phụ chúng bây để lại cho bây một phong hóa nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại vậy.

    Đức CHÍ TÔN đến độ rổi, lập giáo rồi lại bắt minh thệ. Hỏi tại sao Ngài lại bắt minh thệ buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau, mỗi người có một chút đức tin, Thầy bảo qui đức tin ấy lại, phải có tâm đức tin tưởng, yêu ái lẫn nhau, phải nhìn nhận có Thầy, có đức tin nơi Thầy. Hại thay! Có nhiều đứa con của Ngài cũng nghe, cũng tìm Đạo, cũng thọ giáo, cũng minh thệ đủ phép tắc biết bao nhiêu khi mới đến cùng Thầy, quì dưới chơn Thầy, mà hễ ra khỏi chơn Ngài rồi thì lại phản phúc Ngài và con cái của Ngài.

    Riêng Đạo Thánh thì các Tông Đồ chối Chúa, còn Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát lúc sanh tiền có cho biết như vầy: “Tới đây tôi làm cho lòi ra Trung, nịnh, phản.”

    Đoán xét qua thì Tam Cang không thể thiếu được nên Nho Tông cần trong cơ chuyển thế. Do đó mà câu kinh nhựt tụng đã chỉ dạy ngay điều nầy: “Khai nhơn tâm tất bổn, ư đốc thân chi hiếu, thọ quốc mạch tất tiên, ư trí Chúa chi trung”.

    Nếu tìm tinh túy của Đạo Tam Cang tức là tìm sự thâm thúy của tính chất Trung, Hiếu, Nghĩa đó vậy. Nguồn gốc Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái phát hiện, đó là cái tình độc nhứt có liên quan mật thiết với Chơn Linh. Đến đổi ta thấy hình trạng nó như trẻ sơ sinh kia vậy. Vì tình ái xuất hiện ra tướng diện nên nó gần với Thánh, một khi giải thể rồi lên tầng thứ bảy là chắc chắn được giải thoát, đạt vị bởi nó gần với Thánh.

    Tại sao trung? Tại vì tình ái cao thượng dồi dào đối với quốc gia nòi giống lên đến nhiệt độ nó quá vĩ đại. Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, Trung ấy chưa phải là trung với Vua mà trung với nước chớ. Có điều Vua là tượng trưng cho nước, cho nên trung với Vua tức là trung với nước, mà có trung đặng là vì quyền năng ái chúng, ái quốc nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên tình ái ấy vi chủ tinh thần.

    Tới hiếu, tại sao có hiếu? Bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu có sẵn hai điều hiếu:

    1-Hiếu với Đấng Tạo Đoan Chơn Linh.

    2-Hiếu với Đấng Tạo Đoan Chơn Thần.

    Bởi có hiếu trước với hai Đấng ấy, biết trọng quyền năng tạo hóa chơn linh và chơn thần thì tự nhiên phải biết nhìn Đấng Tạo Hóa hình hài của mình đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà phát hiện vì nó có sẵn, mà hễ có sẳn tâm hiếu tức nhiên phải là Chơn Linh cao trọng thấu đáo được nguyên do đâu mình đến và là con của ai? Đã hiểu rằng mình có hiếu với Đấng Tạo Sanh Chơn Linh và Chơn Thần như thế nào rồi thì đến hiếu với Đấng tạo sanh hình hài đã sẳn có rồi vậy. Nên hiếu không thể dạy được, hoặc có hiếu, hoặc không hiếu mà thôi.

    Bây giờ tới nghĩa. Tại sao có nghĩa?Tại sao nghĩa lại hiện tướng trên tánh đức của một Chơn Linh cao trọng?

    Nơi cõi hư linh mỗi người có một gia tộc, một đại nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu, biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát Nhã chở các nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các hóa nhân và quỉ nhân lại không có chúng ta ngồi chung trong đó? Đã từng chia đau sớt khổ cùng nhau, chẳng những trong thế giới nầy mà còn trong các thế giới khác nữa, đã từng chung sống cùng nhau, cái thâm tình vĩ đại đã nhiều….

    Ban sơ, nơi cõi Hư linh thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu Chơn Linh khác, dầu nguyên do của mình là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt thế nầy, lo tìm người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm tình trong cảnh khổ não truân chuyên, chịu hình thử thách nầy.

    Tìm mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai dù là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi Thiêng Liêng sẽ hổ thẹn, hối hận muôn phần. Đối với nhơn loại ta đã sẵn có đại nghĩa đó, đi tìm nghĩa tức là đi tìm bạn, dù nơi cõi Hư Linh hay tại thế đại nghĩa vẫn còn lưu lại, ta không từ chối được. Cho nên hễ đi tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta tìm nghĩa ở đâu trước nhứt, tìm thân tộc anh em, sau mới ra toàn thiên hạ được.

    Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vị Thánh, nên Tiên Nho tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó.

    Ta cũng nên nghiệm xem những dẫn dụ điển hình rồi tầm từ cái lý cho đến hình trạng tức là cái chơn của nó, mà Đức HỘ PHÁP đã treo những tấm gương sáng để chỉ dạy giúp cho chúng ta đúc kết tạo thành khuôn thước căn bản như vầy: “Từ khi Bần Đạo đến đây, ai xô cũng không ngả, đuổi cũng không đi, dầu còn dầu mất, dầu nên hư Đức CHÍ TÔN bảo Bần Đạo ngồi nơi đây, ở nơi đây dầu cho vì mạng lịnh ấy mà mảnh thân nầy có phải bị tiêu diệt để bảo trọng nền quốc Đạo thì Bần Đạo cũng không bước ra khỏi đây một bước.

    Đức CHÍ TÔN bảo ở, dầu sống chết, ngồi nơi đây ôm chân Ngài mà thôi”.

    Thêm một dẫn dụ:

    “Đức Chúa Jesus Christ trong buổi ấy đã được ĐẠI TỪ PHỤ nhìn nhận là con yêu dấu của Ngài vì cớ cho nên Ngài có quyền xưng là con của Đức CHÍ TÔN, Ngài có quyền kêu Đức CHÍ TÔN bằng Cha, đã chẳng phải Ngài dụng quyền ấy mà thôi, Ngài lại càng muốn toàn cả nhơn loại hưởng đặc ân được làm con của Đức CHÍ TÔN như Ngài, vì cớ cho nên Đạo Thiên Chúa đã truyền bá toàn mặt địa cầu nầy.

    Chúng ta ngó thấy ba năm Ngài hành Đạo, Ngài đã bị cái quyền Đạo Giáo tức nhiên với cái quyền lực của Moise khủng bố, bắt buộc chẳng khác nào như chúng ta đã bị, Thiên Chúa Giáo cũng đã bị mà thôi, giờ phút nầy cũng chưa dứt khủng bố bắt Đạo và bắt Ngài do toàn quyền Herode Antipas của nước Palestine xử tử Ngài.

    Chúng ta ngó thấy thời buổi ấy gần ngày lễ trọng hệ của Đạo Pose, ngày lễ ấy người tù nhân được tha án tử hình, trong hai người tướng cướp giết người cướp của tàn hại nhơn sanh không biết là bao nhiêu, bị án tử hình đem ra giữa quốc dân Juifs, tức nhiên dân Do Thái. Trong hai người nầy cướp của sát nhân là Baraba, còn Jesus Christ chúng lên án: “Mê hoặc quốc dân phiến loạn”.

    Hỏi vậy quốc dân muốn tha ai. Dân Do Thái nói tha Baraba, giết Jesus Christ.

    Ba năm truyền bá không lâu giữa nước Israel buổi nọ bị thâu chiếm thuộc địa do dân Romain tức nhiên dân La Mã. Sự truyền giáo của Ngài không có đắc lực mảy may nào cả nên buổi ấy đã lên án Ngài là kẻ trộm, kẻ cướp đồng án với kẻ sát nhân nên đóng đinh Ngài lên cây Thánh Giá như kẻ tội nhơn tử hình kia vậy.

    Cái hiếu của Ngài đến giờ chót đối với Đức CHÍ TÔN đã trọn, còn Đức CHÍ TÔN nếu không phải giữ nghĩa với đứa con yêu dấu, con hiếu hạnh của Ngài thì cái chết của Jesus Christ bất quá như kẻ tù nhân chết mà thôi, có đâu lên phẩm vị Giáo Chủ ngồi trên Ngai Thiêng Liêng vô cùng quí báu trên mặt địa cầu nầy gần 2.000 năm.”


    Còn đây là dẫn dụ khác:

    Hớn THỌ ĐÌNH HẦU QUAN VÂN TRƯỜNG buổi nọ là một vị tướng của Thục tức là LƯU BỊ. Ta thấy đại nghĩa của Ngài Trung, Cang, Nghĩa, Khí của Ngài nhứt là bằng hửu chi giao tình nghĩa đối với bạn hửu của Ngài dám chắc dầu chúng ta dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh hưởng văn hóa của Nho Tông chưa có được người nào đã giống như Ngài vậy.

    Tâm trung nghĩa chẳng vì sang mà theo Tào chỉ chuộng Hớn, Nghĩa chẳng vì bạn buổi khổ não truân chuyên mà phụ rải tình nhau, trung và nghĩa ấy hi hửu. Nói đến chí khí của Ngài, Bần Đạo tưởng không luận hết: Ngài bất sát hạ mã chi nhơn, truyện sách lưu lại rằng Ngài suýt bị HẠ HẦU ĐÔN giết vì nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi dụng nếu không có TRƯƠNG LIÊU đến cứu.

    Hỏi Ngài lập chí với bộ sách Xuân Thu mà thôi, người sau có tặng Ngài đôi liễng:

    “Chí tại Xuân Thu, Công tại Hớn,

    Trung đồng nhựt nguyệt nghĩa đồng Thiên.

    Bần Đạo dám quả quyết Ngài không phải là Thiên Phong mà chính là người của vạn linh bầu cử, cho nên Đức CHÍ TÔN mở Đạo là cơ quan hiệp nhứt vạn linh, để Đấng ấy là một Trấn oai nghiêm đặng làm quan Trạng sư cho vạn linh đạt kiếp”.

    Chúng ta đã mục kiến những dẫn chứng làm cho tinh thần thêm cường liệt thắm thiết làm sao! Đạo Tam Cang đã rõ nét tô điểm cho giá trị con người và từ những điển hình thay cho ngọn đuốc thiêng để hồi quang phản chiếu tự soi rọi mà thấy được phẩm chất giá trị của mình xứng đáng với sở năng, sở hành của nó.

    Cũng bởi nền Đại Đạo lấy tôn chỉ Nho Tông chuyển thế, nên phải bắt đầu thực hiện từ chỗ tu thân: nam là Tam Cang, Ngũ Thường, nữ là Tam Tùng, Tứ Đức.

    Song đó chỉ là thể của Nhơn Đạo hửu hình nếu hằng ngày tâm niệm có bấy nhiêu thì làm sao trọn vẹn được.

    Trong Thế Đạo phải phân tích ra làm hai pháp lý: Một là Thể Pháp Thế Đạo. Hai là Bí Pháp Thế Đạo, Tam Cang Ngũ Thường, Tam Tùng Tứ Đức là thể đặng làm sở hành cho một Thể Pháp Thế Đạo. Lấy đó làm chánh đề mà đi. Bây giờ muốn giữ Tam Cang, Ngũ Thường phải làm thế nào? Quân Thần Cang: Thì Vua là kẻ chăn dân, vậy bổn phận ấy là phải lập trên những hành tàng để cứu giúp dân cho khỏi điều thống khổ ấy là công việc của cơ quan Phước Thiện. Tôi phải tỏ dạ trung thành đặng vừa giúp Vua mà làm cho bá tánh an cư lạc nghiệp, tức là bổn phận của hàng Thánh Thể.

    Phụ Tử Cang: Cha là người thay quyền CHÍ TÔN trong một tiểu gia đình tức nhiên là phải biết mình có bổn phận giáo hóa dưỡng nuôi, tức nhiên là một Hội Thánh trong một gia đình. Vậy con phải trọn hiếu không làm điều nhục tổ, hổ tông, ấy là bổn phận của Tín Đồ hay nói đúng hơn là một Môn Đệ xứng đáng của Đức CHÍ TÔN.

    Phu Thê Cang: Chồng là người cầm lề giữ lái đặng đưa một tiểu gia đình đến chổ đạo đức thanh bạch ấy là bổn phận của cơ quan Hành Chánh đó vậy. Vợ là người tùng theo chồng để giúp an sự nghiệp, tạo nên hạnh phúc của gia đình, tức là bổn phận của Bảo Cô Quân. Còn Ngũ Thường thì:

    Nhơn: Là phải biết nghĩa đồng sanh, biết tình đồng hưởng âm dương chi khí, chẳng để lòng sái loạn chơn truyền tức là phải trọn dâng theo luật công bình bác ái.

    Nghĩa: Là phải biết trọn phận người để tạo nên danh trọng giá cao giữ nên phẩm hạnh mà nhìn rõ của chung đồng hưởng.

    Lễ: Là giữ hạnh nết đứng đắn để tạo nên một nhơn phẩm, biết nhường, biết nhịn giữ trọn hạnh Đạo đó vậy.

    Trí: Là phải thông hiểu việc thế mà đi chẳng để tên tuổi phải bị lời chê tiếng nhẽ, phải trọn vâng Luật Pháp Chơn Truyền.

    Tín: Là phải đúng lời, đúng hẹn, danh chánh, ngôn thuận, thuyết hành phải được giống in nhau tức là phải trọn thệ đó vậy.

    Về Tam Tùng, Tứ Đức là phần của nữ phái:

    Tùng Phụ: Như người con gái phải giữ tiết trinh cũng như kẻ Tín Đồ giữ tròn danh Đạo.

    Tùng Phu: Như bóng tùy hình phải ví mình như một trong Thánh Thể tùng Hội Thánh.

    Tùng Tử: Là phải vì đám hậu sanh mà quên mình đặng tạo thành sự nghiệp tương lai cho chúng tức nhiên là bổn phận của Chức Sắc.

    Công, Dung, Ngôn , Hạnh: Là việc làm cho Nhơn Sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ đặng treo gương mặt thế, phải biết nâng cao giá trị của Thánh Thể CHÍ TÔN, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu, làm nền móng cho Đại Đồng thế giới.

    Đó là mặt Thể Pháp Thế Đạo, còn mặt Bí Pháp Thế Đạo tức là phương giúp đời an nhàn đạo đức và trở nên tận thiện, tận mỹ.

    Chúng ta chỉ nói ở đây là Thế Đạo của Nhơn Luân mà thôi, còn Thiên Đạo là nếu chúng ta chịu tội tình phép huyền vi vô đối của Càn Khôn Vũ Trụ buộc cả Tông Đường tổ tông từ trước phải chịu cho ta, làm chứng cho ta, chúng ta phải biết các Đấng nhập Vào NGỌC HƯ CUNG tức nhiên các Đẳng linh hồn ấy đã đoạt kiếp được, có những kẻ đến thế nhập vào pháp thân mà họ đã tạo căn quả thì cả Tông Đường họ khổ não lắm.

    Tông Đường Thiêng Liêng thường ở NGỌC HƯ CUNG, cao trọng hơn hết là Tông Đường của QUAN ÂM Bồ Tát, cao trọng thứ nhì là Tông Đường của ĐỊA TẠNG VƯƠNG Bồ tát, Tông Đường thứ ba là Đức DI LẠC, còn nhiều Tông Đường, mỗi người đều có Tông Đường đặng ngồi ở đây là chờ ta.

    Chúng ta đã ngó thấy Càn Khôn Vũ Trụ nắm quyền lực làm cho chúng ta sợ hơn hết là làm cho Tông Đường ta phải chịu khổ, trước cái thương của Tông Đường ta ấy là cái hình phạt vĩ đại ở cảnh Thiêng Liêng, đến khi mãn kiếp trở về đoạt được cái thương hay là cái khổ của Tông Đường thì mình đau khổ vô cùng, hình phạt ấy vĩ đại lắm, nên các Chơn Hồn đều sợ sệt hơn hết.

    Ngày mình không còn ở Tông Đường của Đức CHÍ TÔN là ngày mình bị nhục, tưởng sống mà thân mình trả đặng nợ hay chưa cũng không đáng sợ, trong Tông Đường của mình bị nhục mới đáng sợ.

    Đức HỘ PHÁP đã có điều căn dặn cần thiết: “Coi chừng mở con mắt cho lớn, phải nhặc nhiệm khôn khéo, đừng để ma dắt lối, quỉ đem đường, nó dùng mưu chước đặng phá hoại cả cơ nghiệp của chúng ta, nó quyết định thâu chiếm lại”.

    Cũng vì nguyên do đó mà nhiều nơi đã thấy được nên dùng trí thức để phối hợp và mơ vọng về được cùng CHÍ TÔN lại vô tình biến Bí Pháp Chơn Truyền của CHÍ TÔN trở thành một trường dị đoan mê tín, hoặc giả muốn được ca ngợi là những trang hiếu hạnh trung thành cùng Đức CHÍ TÔN mà nhập vào cơ Phong Thần hay Phong Thánh.

    Đức CHÍ TÔN đã bảo rằng các con làm không được đâu việc đó hãy để Thầy làm mới được. Vì Ngài đến chỉnh lại Nho Tông đặng chuyển thế, còn phải chấn hưng cả Phật Giáo để đưa nhân loại đến chủ nghĩa Đại Đồng. Nên ngôi vị GIÁO TÔNG chẳng của riêng ai hay riêng cho nước nào mà GIÁO TÔNG cả toàn cầu đó vậy.Ngài buộc phải áp dụng theo Nho Tông là tạo lập Tông Đường trước đã, hễ có chủ quyền của Tông Đường mới lần lên tới chủ quyền Quốc Đạo, tức là GIÁO TÔNG DI LẠC Vương Phật.

    Chủ quyền có mới thực hiện mục đích của Đạo Cao Đài là: Công bằng, bác ái, vị tha, ưu nhơn, ái vật, cải thiện dân sinh làm cho đại đồng thiên hạ.

    Muốn hiện tượng mục đích nầy thì chúng ta phải: hy sinh, can đảm, khôn ngoan, sáng suốt, vững tâm, bền chí, nhẫn nại.

    Nhưng hiện giờ GIÁO TÔNG DI LẠC ở đâu mà tính? Trong khi Bí Pháp của CHÍ TÔN đã giao cho Phật CHUẨN ĐỀ để giữ cửa Thiêng Liêng. Nên bất cứ một Chơn Linh nào muốn kiến diện Đức DI LẠC dù cho xuất hồn, xuất vía đi khắp cùng các cảnh giới cũng chẳng tìm gặp Đức DI LẠC được. Hỏi tại sao? Có gì là khó khăn đâu, bởi cửa Thiêng Liêng muốn vào tận Hổn Ngươn Thượng Thiên phải ngang qua cửa ải của Phật CHUẨN ĐỀ. Một vị Phật có những 24 đầu 18 tay kinh khiếp, lúc cười không biết Ông muốn biến mấy tay, khi khóc không biết Ông muốn hiện mấy đầu.

    Có khi cả đầu, tay Ông chuyển hết không chừng. Đố ai biết được tâm lý của Phật CHUẨN ĐỀ kể cả cho dù Môn Đồ của Ông đi nữa?

    Có biết được là biết tâm tánh từ bi bác ái của Phật mà thôi. Cũng may là Phật CHUẨN ĐỀ, một vị Phật nhân chứng công bằng đối với Đức D LẠC cho nên chúng ta khỏi đi tìm Đức DI LẠC làm chi cho xa xôi. Chỉ biết rằng Ông ở Cung Phật vừa ý thì Ông ở Cung Tăng cũng vừa dạ đó thôi.

    Biết đâu những lúc năng du, Đức DI LẠC chẳng ghé qua HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN?

    Thử hỏi cung nầy do chính quyền năng Đức CHÍ TÔN định nắm quyền trị thế mà bảo sao Đức GIÁO TÔNG DI LẠC không đến hiệp một để định thế Nho Tông?

    Và ta có quyền khẳng định một cách hợp lý là Quốc Đạo Nam Phong phải cần những ai có tâm: Trung, Hiếu, Nghĩa giúp cho triều Đức DI LẠC Vương Phật.

    Còn Thánh Thơ Đức HỘ PHÁP thì kêu con cái của Đức CHÍ TÔN hãy hùn vốn với Đức Ngài mà đánh ván mẽ chót, một ván cầu âu.

    Ai dám đánh ván cầu âu thì hùn vốn, cái vốn sẵn có của Tổ Phụ ta để lại chính là Trung, Hiếu, Nghĩa, lấy nó đặng làm phương tiện gầy dựng Quốc Đạo Nam Phong.

    Nếu làm đặng dù cho Đức DI LẠC Vương Phật chưa có tới trong buổi nầy, thì Đức CHUẨN ĐỀ Bồ Tát cũng phải xử công bằng minh chứng, vì Đức Phật đã có dạy:

    “Thanh quang rọi khắp nơi trần thế,
    Sử Đạo ghi Trung, Hiếu, Nghĩa thành!”


    http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...mCung/bpnc.htm

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 23
    Bài mới gởi: 30-01-2019, 10:45 PM
  2. Tạng Mật Tu Pháp Tinh Tuý
    By vampire2001vn in forum Mật Tông
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 01-08-2011, 03:40 PM
  3. Kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
    By 123456789 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 21-04-2011, 09:56 PM
  4. Tổng hợp các pháp môn của Đức Quán Thế Âm
    By Le Ngọc Chi in forum Đạo Phật
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 20-10-2007, 04:23 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •