Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 25

Ðề tài: Đạo Phật Siêu Khoa Học

  1. #1

    Mặc định Đạo Phật Siêu Khoa Học

    Đạo Phật Siêu Khoa Học - Minh Giác Nguyễn Học Tài

    Lời Dẫn

    Chủ đích của cuốn sách này là để dẫn chứng những điều đức phật và chư vị Bồ Tát đã nói cách đây trên 25 thế kỷ mà bây giờ khoa học mới dần dần khám phá ra.
    Thứ hai, trình bày những khám phá mới của hoa hoc về lãnh vực Khoa học, Thiên văn, Vật lý, Y học, Nhân chủng học v…v...
    Thứ ba, thắp sáng đuốc tuệ của Phật để duy trì ngôi Tam Bảo vĩnh cữu ở thế gian.
    Tu hành là phá Ngã chấp cũng như Jean Paul Sartre đã nói, "Le moi est haïssable" (Cái tôi thật đáng ghét!). Vì vậy, những điều tôi nói về "cái tôi đáng ghét" này không phải để "đánh bóng" nó mà chỉ có ý trình bày với quý vị rằng Phật pháp thật nhiệm mầu đối với những ai có thành tâm, thiện chí hồi đầu theo Phật.

    Hồi còn nhỏ đi học, tôi rất dốt về Toán, Lý Hóa. Dốt đến nỗi giải phương trình không được, lấy bút sắt đâm vào tay đến chảy máu. Khi thành niên, cũng vì "kỵ" Toán, Lý, Hóa nên phải học Văn Khoa.
    Về tu đạo tôi tự ví mình như một Phật tử "mất gốc" vì mãi đến năm 63 tuổi mới tìm về đạo Phật. Ðọc kinh sách trong hai năm cùng những sách báo Mỹ nói về Thiên văn Vật lý, tôi ngạc nhiên thấy những điều chư Phật và chư Bồ Tát đã dạy cách đây trên 25 thế kỷ bây giờ thấy đúng sự thật.
    Ðó là lý do thứ nhất tôi mạnh dạn viết cuốn sách này.
    Lý do thứ hai là để nhắc lại lời Phật dạy rằng chúng ta không bao giờ tìm được thực tại cuối cùng của sự vật.
    Ít nhất có hai vị khoa bảng đã ái ngại cho tôi dám làm công việc này bởi vì:
    "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri", nghĩa là, "Người biết không nói, người nói không biết".
    Tôi thuộc loại thứ hai vì không biết mà dám nói.
    Cũng vì lẽ đó, có một lần tôi hỏi pháp một bậc tri thức, Ngài nói có hai tiếng rồi ngồi im.
    Rồi:
    "Bốn mắt nhìn nhau
    Chẳng nói một câu!"
    Thế mới biết lời nói của quý Ngài là vàng ngọc!

    Ðã là Phật tử, ai cũng có ước vọng hoằng dương Phật pháp. Người có hằng sản thì lo việc tô tượng, đúc chuông, xây chùa, bố thí, cúng dàng v.v... Kẻ có hằng tâm thì lo làm pháp thí. Ðó là bổn phận tối thượng của người Phật tử đối với Tam Bảo.
    Trên một năm qua, mặc dầu với cái tuổi 73 bệnh họan và lãng trí; nhưng khi viết sách, tôi thấy trí tuệ thông suốt lạ thường. Tôi nghĩ rằng chư Phật và chư vị Bồ Tát đã ban cho tôi trí huệ để làm công việc pháp thí này.
    Hồi mới khởi tu, đọc kinh Lăng Nghiêm cùng những kinh Ðại thừa khác, tôi có hiểu Giáp Ất gì đâu? Nhưng nhờ các băng giảng của các vị tu sĩ và cư sĩ - nhất là cụ Nghiêm Xuân Hồng - tôi dần dần liễu tri những cái ách yếu của đạo Phật. Cụ Hồng dạy mỗi khi không hiểu kinh, nên khấn nguyện như sau:
    "Xin Ðức Thế tôn, Tôn giả A Nan, Bồ Tát Long Thọ và Văn thù Sư lợi ban cho con trí huệ để hiểu kinh đặng nói Pháp cho người khác nghe."
    Tôi đã làm và thấy có ứng nghiệm. Vậy quý vị hãy làm thử xem sao? Kinh dạy:

    "Năng lễ Sở lễ tánh không tịch
    Cảm ứng đạo giao nan tư nghì."

    Người lạy Phật và Phật đều cùng một bản thể nên không có Năng (Người lạy) và Sở (Phật). Nói một cách khác, chủ thể và đối tượng là một nên không có đối đãi. Vì đạo là Tâm nên sự cảm ứng không thể diễn tả bằng ngôn từ được.
    Ðức Ðại Thế Chí Bồ Tát nói rằng chư Phật và chư vị Bồ Tát thương chúng sinh như các con, nhưng vì các con cứ ngoảnh mặt đi thì mẹ biết làm sao được? Cũng như hai người đi ngược chiều thì bao giờ mới gặp được nhau? Chúng sinh không đoái hoài đến chư Phật thì làm sao có "Cảm ứng đạo giao nan tư nghì" được?
    Trong cuốn Ðạo Ðức Kinh, Lão Tử đã viết:

    "Ðạo khả đạo phi thường đạo
    Danh khả danh phi thường danh"

    Nếu là cái Ðạo đích thật phải là cái Ðạo tuyệt vời và thường hằng, không thể dùng ý niệm hay ngôn từ để diễn tả hết được mà chỉ được nhận thức qua cảm ứng.
    Cũng nằm trong ý nghĩa này có câu:

    "Ngôn ngữ đạo đoạn, Tâm hành, xứ diệt".

    Khi đã hướng Tâm chiêu cảm, ý cũng hết và lời cũng cạn, ý và lời cũng cạn, ý và lời không thể diễn tả hết cái Tâm thành ấy được.
    Kinh Lăng Nghiêm dạy, "Phàm hữu ngôn thuyết giai phi thực nghĩa", nghĩa là lời nói không có nghĩa thật.
    Cũng vì vậy mà Ðức Phật đã dạy rằng, "Trong 49 năm thuyết pháp, ta không hề nói một lời nào."
    Cũng có câu, "Ðức tin là mẹ thành công". Ðọc thiên kinh vạn quyển mà "bán tín bán nghi" thì dẫu có tu đến vô lượng vô kiếp sẽ không đắc quả cũng như muốn "nấu sạn thành cơm" vậy.

    Ðể chấm dứt Lời Dẫn này, theo chiêm nghiệm của ông già 72 tuổi, Phật pháp thật mầu nhiệm vì nhờ đó mà tôi đã dám viết về những lãnh vực chưa biết đến hoặc chỉ có đôi chút kiến thức. Nhưng vì hết lòng tin tưởng ở Phật pháp và có thiện ý muốn làm Pháp thí nên chư Phật và chư vị Bồ Tát đã ban cho tôi trí huệ để viết nên cuốn sách này.


    Phần I - Chương 1

    TÌM CẦU VÀ THỂ NGHIỆM

    Các khoa học gia và triết gia đã suy tư, tìm cầu, và thể nghiệm để tìm hiểu nguồn gốc của vũ trụ, của Thái dương hệ, của các đại dương, các Thiên Thể; nhất là nguồn gốc của loài người nói riêng và của những sinh vật nói chung. Không ai phủ nhận công lao của khoa học trong việc cải thiện nhân sinh. Nhưng công việc tìm cầu thực tại cuối cùng của sự vật thuộc lãnh vực khoa học hay tôn giáo, nhất là đạo Phật. Nói một cách khác, liệu đến một này nào đó, các khoa học gia có thể đạt đến mục tiêu cuối cùng của họ không? Ðiều này, Phật đã dạy rõ rằng chúng ta không bao giờ có thể tìm cầu được thực tại cuối cùng của sự vật. Gần 500 năm qua, nhất là trong 100 năm gần đây, trong đường hướng tìm cầu thực tại cuối cùng, một số trường phái khoa học đã tranh luận ráo riết, và trường phái này lần lượt đánh đổ trường phái kia. Sir Isaac Newton (1642-1727), khi khảo cứu về ánh sáng cho rằng ánh sáng không có lằn, nhưng có Hạt (Particle). Max Planck lại cho rằng ánh sáng do Bức xạ (Radiation), là Quanta (Lượng tử, Năng Tử). Albert einstein và Max Plack là những người đầu tiên viết về Nguyên lượng Cơ học (Quantum mechanics). Nhưng sau này Einstein lại cho rằng những thuyết về lượng tử đều là những thuyết Bất định (Incomplete theory). "Neil Bohr (1885-1950), nhà bác học Ðan Mạch, chủ trương rằng đối tượng của Vật lý lượng tử không thể giải thích vừa là Sóng và là Hạt, vì chúng là hai dạng của một thực tại bổ túc cho nhau. Nguyên lý ấy được suy rộng ra cho mọi phạm vi tư tưởng triết học, điều mà Bohr chịu ảnh hưởng của Trung Hoa".

    Rồi ngôi sao sáng Albert Einstein (187-1955) ra đời. Ông là dân Ðức gốc Do Thái và trở thành công dân Mỹ năm 1940. Ông đã đề xướng thuyết vế Chuyển Ðộng Brown (Brownian Movement), áp dụng thuyết này vào Thuyết Lượng tử với những Năng tử, và phát hiện các Quang Tử (Photon). Năm 1915, ông hoàn tất thuyết Tương Ðối Chung (General Relativity Theory) và thuyết này đánh đổ Luật Hấp Dẫn Vũ Vụ (Theories of Universal Gravitation) của Newton. Newton đã nâng khoa học và nền văn minh Âu Châu lên mức tuyệt đỉnh. Trong một thời gian lâu dài, thuyết Cơ học (Newton mechanics) của ông được coi như có thể giải thích được mọi hiện tượng thiên nhiên. Cho đến khi Ðiện khí và Ðiện từ lực được khám phá, người ta thấy Cơ học của ông còn thiếu xót vì không nói đến sức cản hay cọ sát của không khí, mà chỉ giải thích một cách hạn chế một số hiện tượng thiên nhiên như việc di động của một số vật chất rắn khác. Từ năm 1880 đến 1900, khoa Vật lý Nguyên tử (Neuclear physics) đã khám phá ra nhiều hiện tượng rất lạ khiến thuyết Cơ học của Newton không thể giải thích được. Ví dụ vấn đề vận tốc ánh sáng không thay đổi. Niel Bohr (1885-1962), một Vật lý gia Ðan Mạch là khuôn mặt sáng giá trong việc đề xướng thuyết Nguyên tử, và thuyết nầy mở đầu cho Nguyên lượng Cơ học (Quantum mechanics).

    Sau 50 năm trời (1900-1950), các Vật lý gia đã giải thích và hiểu biết rất nhiều về Âm ÐiệnTừ (Electron). Từ đó, mới bắt đầu chuyển qua việc nghiên cứu Lỏi (Core) của hạt Nguyên tử (Atom).

    Thuyết Tương Ðối của Einstein được chia làm hai giai đoạn:

    1/- Năm 1905, ông công bố thuyết Tương Ðối Hẹp (Special Relativity), và thuyết này dựa vào thuyết Tương Ðối của Galileo để được triển khai từ phạm vi Cơ học sang Ðiện từ học. Ðiều khác biệt là Nguyên tắc này quyết định mọi định luật của chuyển động, và được giới hạn trong phạm vi những chuyển động chóng đều.

    2/- Năm 1915, thuyết Tương Ðối Chung (General Relativity) ra đời. "Với thuyết này, Einstein đã chấm dứt thời đại Vật Lý học mà còn làm đảo lộn nền nếp suy tư của nhân loại trong mọi phạm vi tư tưởng, và dẫn đến vũ trụ quan lượng tử hiện đại..."

    Thuyết Cơ học cổ điển của Newton cho rằng Không gian và Thời gian hoàn toàn độc lập, và không liên hệ gì với nhau. Thuyết Tương đối của Einstein chủ trương rằng Không gian và Thời gian Liên tục Tương Ðối với nhau. Việc khám phá này rất phù hợp với lời giải thích về "Sự sự vô ngại pháp giới" ở trong kinh Hoa Nghiêm rằng Không gian và Thời gian dung thông với nhau. Ngoài ra, Vật lý gia Matt Visser thuộc Ðại Học Hoa Thịnh Ðốn đã viết về thuyết Tương Ðối Chung của Einstein như sau: "Einstein đã biến đổi vật lý học bằng cách chứng tỏ rằng Không gian và Thời gian thật ra chỉ là hai vẻ khác nhau của cùng một môi trường có thể dãn dài, uốn cong, và vặn vẹo hình thái bởi Trọng trường".

    Năm 1980, Vật lý gia Murray Gellmann quan niệm rằng Dương điện tử (Proton) va Trung hòa tử (Neutron) nằm trong Lõi của Nguyên tử lại được cấu tạo bằng những Hạt tử nhỏ nhiệm hơn mà ông đặt tên la Quark (Cực vi, Hạt ảo). Ðộ lớn của nó chỉ bằng 10-33 cm, hay 1/1000 tỉ tỉ hạt Nhân. Tháng 3 năm 1995, các Vật lý gia đã tìm được Quark Ðỉnh (Top Quark) bằng cách bắn vỡ những Dương điện tử và Ðối Dương điện tử (Anti-proton) khiến chúng tiêu diệt lẫn nhau và phát sinh Năng lượng, trong đó có nhiều Hạt tử và Quark Ðỉnh. "Trên 20 năm qua, Geoffrey và Fritjof Capra đã áp dụng thuyết Boostrap (Ðại Ủng) để khám phá ra chiều sâu của thế giới hạt nhân." Khoảng năm 1960 dến 1970, Salam và Weiberg lập ra thuyết Ðại Tổng Hợp (Grand Unification Theory - GUT). Thuyết này là bước đầu của Nguyên lượng Cơ học (Quantum mechanices) mà sau 50 năm nghiên cứu, các Khoa học gia mới biết liên kết Lực yếu và Ðiện từ lực với nhau. P.A.M. Dirac (1902-1970) viết về thuyết Phản Vật Chất (Anti-matter) và Chân Không Sinh Diệt (Vacuum Polarization). Thuyết Phản Vật Chất là một khám phá quan trọng của Nguyên lượng Ðiện Ðộng học (Electrodynamics - QED).

    Chân Không Sinh Diệt là một hiện tượng phân cực một phần hay toàn phần của Dương điện và Âm điện trong một hạt Nguyên tử, Phân tử (Molecule) hay hệ thống hoá học. Trong vũ trụ cũng có những hiện tượng tương tự. Ðức Phật đã dạy rằng, "Hư không hay Chân không không phải là Ngoan không (nghĩa là chẳng có gì cả) mà khắp nơi, khắp xứ, chỗ nào cũng có đủ loại quang minh cùng những loài chúng sinh cư ngụ."

    Trong Chân không có Tĩnh Ðộng, Sinh Diệt, Sắc Không, Tạo dựng va Hủy hoại. Ngày nay, các Khoa học gia đã khám phá trong Chân không có Vật thể (Matter) và Ðối Vật thể (Anti-matter), có Quarks và Đối Quarks (Anti-quarks), có Positron đối nghịch với Electron. Họ cũng khám phá rằng Vật thể và Ðối Vật thể tiêu diệt lẫn nhau.
    Thuyết Chân Không sinh Diệt (Vacumm Polarization) rất phù hợp với thuyết Tương Sinh Tương Duyên Trùng Trùng Duyên Khởi, Sắc Không, và Sinh Diệt của đạo Phật.

    Khoa học ngày nay cũng đã khám phá ra trên 200 Phân tử (Particle) trong vũ trụ mà cách đây trên 2,500 năm, các trường phái ngoại đạo gọi là "vi trần", và luận cứ rằng những "vi trần" này nhảy múa loạn xạ để tình cờ hay ngẫu nhiên tạo thành những chúng sinh thấp như những con sâu kèn, và những chúng sinh cao như khỉ và loài người. Luận cứ này đã bị Phật bác bỏ.
    "Khoa học ngày nay cũng đã khám phá ra rằng dòng họ Quark như Hadron có cùng độ Quay Tự Nội (Intergrated Spins) có thể trao đổi cho nhau được."

    Chúng thay hình, đổi dạng, tan hợp, hợp tan. Quang phổ (Photon) chẳng hạn, sự cấu tạo và chuyển hoá của nó cũng không kém mê đồ ảo phố. Về lượng tử, đã có rất nhiều thuyết như Einstein và Max Planck đã viết thuyết Cổ Nguyên lượng Cơ học (Old Quantum mechanics). Neil Bohr (1885-1950), Weiner Heisenberg, Scrodinger, và Max Born viết Tân Nguyên lượng Cơ học (New Quantum mechanics). Richard Feynman, Tomonaga và Swinger viết Nguyên lượng Ðiện động học (Electrodynamics - QED), và Murray Gellmann viết Nguyên lượng Sắc động học (Quantum Chromodynamics-QCD).

    Về ứng dụng, Nguyên lượng Cơ học và Nguyên lượng Ðiện động đã rất thành công, nhưng về phương diện triết lý và lý thuyết thì không mấy thích hợp. Niềm mơ ước của những Vật lý gia vào những năm 1940-1950 là tìm ra một lý thuyết tổng hợp, nhưng họ đã gặp rất nhiều trở ngại. Mãi đến năm 1970, thuyết Ðại Tổng Hợp (GUT) mới ra đời, và từ đấy các khoa học gia mới thấy đỡ thắc mắc.

    Tóm lại, gần 500 năm qua, nhất là trong 100 năm gần đây, các khoa học gia đã suy luận, tranh cãi, điều tra, nghiên cứu, và thử nghiệm rất nhiều. Nhưng kết quả ra sao?

    Cách đây gần 100 năm, họ đã tìm ra Nguyên tử và cho rằng Nguyên tử là đơn vị cuối cùng cấu tạo vật chất. Ðường kính của một hạt Nguyên tử bằng 10 -8 (1 phần trăm triệu của 1 cm) hay 1 Angtrom.
    Khoa học khám phá rằng trong một hạt Nguyên tử nhỏ bé có cả một khoảng hư không mênh mông vì Lõi của nó chỉ bằng 1/100,000 của khoảng hư không đó. Kinh ví Lõi như một con ruồi đậu ở giữa một căn phòng rộng lớn. Trong Lõi lại có Quark và dòng họ, và Quark chỉ bằng 10-33 cm (hay 1/1,000 tỉ tỉ) của cái Lõi. Thế mà Quark vẫn chưa được công nhận là đơn vị cuối cùng cấu tạo vật chất.
    Năm 1980, thuyết Super String (Siêu Tơ Trời - STT) được đề xướng. Thuyết này là do một trường phái của một số đệ tử của Einstein chủ trương. Toán học áp dụng cho thuyết STT rất phức tạp, nhưng loại bỏ được những xảo thuật trong việc Tái an Bài (Renormalization)
    Trường phái thuyết STT cho rằng chính STT và Tachyon mới là những Lượng tử Căn bản (Elementary particle) cấu tạo Vật chất.
    Theo định nghĩa, Lượng tử Căn bản là những Lượng tử không có cấu trúc nội tại.

    Chúng thuộc loại những Lượng tử Dẫn lực (Force-carrying particle).
    Mỗi Phân tử cặp đôi với một Ðối Phân tử.
    Những Lượng tử (Hạt tử) phảng phất như sương khói này chỉ tìm thấy ở trong những phương trình toán học mà thôi. Toán học dùng trong thuyết STT rất khó, hiện nay chỉ có khoảng 50 Vật lý gia và Khoa học gia hiểu rõ mà thôi. Xin xem bài Thuyết siêu Tơ Trời và Tachyon để biết thêm chi tiết. Không biết Khoa học còn tìm thêm được những Hạt ảo vi tế và nhỏ nhiệm đến đâu nữa? Dẫu sao mặc lòng, nếu các Ngài cứ dấn thân mãi vào trong toà lâu đài huyền thoại của thế giới lượng tử, các Ngài sẽ trở thành những Thiện Tài Ðồng Tử đi hoài đi mãi trong lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền mà không tìm được lối thoát. Lối thoát độc nhất là con đuờng tìm về những bí ẩn và huyền nhiệm của đạo giáo Ðông Phương, nhất là đạo Phật. Steven Weinberg, tác gỉa cuốn, "The Three Units" (Ba Ðơn Vị), nói khoa học hiện đại đã trở thành khoa học giả tưởng hay Thần học. Một số Vật lý gia khác cho rằng Nguyên lượng Cơ học (Quantum Mechanics) - vừa Triết Lý vừa Vật Lý - đang đi dần đến Siêu hình và Phong thần. Phật đã dạy rằng chúng ta không bao giờ có thể tìm được những Cực vi (Hạt ảo) cuối cùng vì chúng vừa là Hạt vừa là Sóng. Không có Hạt nào gọi là Hạt cơ bản cả. Chúng không phải Vật (Matter), không phải tâm (Mind), mà chỉ là những ảo ảnh xuất hiện ở biên giới giữa Vật và Tâm. Riêng tôi, tôi gọi chúng là loại Phi Vật Phi Tâm.

    ***
    Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao khoa học không thể tìm kiếm được những viên gạch cuối cùng cấu tạo vật chất? Nói cách khác, tại sao khoa học không thành công trong việc đi tìm thực tại cuối cùng?
    Tại vì họ tin Vật có thật, và tất cả những sum la vạn tượng trong vũ trụ này đều có thật hết. Sở dĩ tin tuởng như vậy bởi vì họ nhìn sự vật bằng "đôi mắt thịt với mấy chiếc ống nhòm", dẫu tối tân và đắt tiền như Viễn vọng kính Hubble. Có người nói, "Ủa! Vạn vật xuất hiện sờ sờ trước mắt mà sao đạo Phật nói không có hay như huyễn?". Thấy có sự vật, trong kinh gọi là Kiến trược, nghĩa là cái nhìn đục ngầu, sai lầm như thị quan ảo giác, thính quan ảo giác, khứu quan ảo giác v.v... Trông gà hoá cuốc, trông sợi dây thừng tưởng là con rắn … là thị quan ảo giác. Vì khúc xạ ánh sáng, ta thấy đồng tiền ở đáy lu nổi lên gần mặt nước. Vậy đồng tiền đó có thật không hay chỉ là cái bóng đồng tiền đang nằm dưới đáy lu? Nước trong sa mạc cũng là do khúc xạ ánh sáng (Kinh Phật gọi là dương diệm). Những đoàn người đi trong sa mạc thấy nước nhẩy xuống tắm thì lại nhẩy vào đống cát!

    Trong Lăng Nghiêm, Phật dạy nếu trong đêm tối có người cầm cục than quay thành vòng lửa. Vậy vòng lửa đó có thật hay không? Kinh Lăng Nghiêm có kể dân chúng ở một nước nọ thấy hai mặt trời, mặt trăng. Tại sao chúng ta thấy có một? Kinh khác cũng kể loài người thấy nước uống và tắm được. Loài quỷ thấy nước toàn là lửa đỏ, loài rồng thấy nước là toàn cung điện, và chư thiên thay nước toàn là ngọc bích. Kinh đã dạy rằng nhãn lực là tuỳ theo nghiệp lực và đạo lực. Nghiệp lực hết và đạo lực cao là cái thấy của những đấng giác ngộ. Ví dụ Phật thấy vi trùng trong nước hay Cực vi trần (Hạt ảo). Cái thấy không phải do những Phù trần căn (mắt, tai, mũi, lưỡ, thân, ý) mà do Tịnh sắc căn đã dung thông với Diệu Tâm.

    Lấy thí dụ khoa học. Các nhà Thiên văn Vật Lý viết rằng Sao Bắc Ðẩu (Polaris) đã phóng ánh sáng của nó từ năm 1300. Ánh sáng này phải bay mất 696 năm mới đến được nhãn quang chúng ta. Vậy thì chúng ta thấy Sao Bắc Ðẩu thật hay chỉ thấy ảnh tượng của nó?
    Bây giờ đến lượt điểm báo để tìm những tương đồng giữa khoa học và Phật Giáo:

    "Theo các nhà khoa học hiện nay, Chân không không phải là trống không, trống rỗng, không có gì cả. Chân không thực ra là một khoảng trống, không trống rỗng, nhưng trong đó vẫn có những hạt và phản hạt bỗng nhiên xuất hiện rồi tự hủy."

    "Pagels quan niệm về Hữu / Vô của ông như sau: Cái gì không hiện hữu, Vô thể hay Chân không đều là trò chơi bỡn cợt của Ðấng Phù Thủy muôn đời. Những nhà Vật lý học lý thuyết và thực nghiệm ngày nay đang nghiên cứu về Chân không - đều chẳng có gì cả. Những cái ấy Vô ấy chứa tất cả cái Hữu."

    3. Theo Lý thuyết Bổ sung (Complimentary Theory), cái Hữu/Vô có thể là Hạt (Particle/Matter) hoặc là Sóng (Wave/Mind).

    Theo Nguyên tắc Bất Dịnh (Uncertaincy Principle), không thể xác định dứt khoát vấn đề Hạt hay Sóng.

    Ðệ tử của Neil Bohr không ngờ rằng ông đã đề xướng ra Lý thuyết Bổ sung sau khi nghiên cứu và áp dụng triết lý của Á Ðông."

    Kinh Phật dạy rằng Hư không (hay là Chân không) không phải là ngoan không, nghĩa là chẳng có gì cả, mà trong đó có đủ loại quang minh cùng các loài chúng sinh cư ngụ. Kinh Lăng Nghiêm, trang 221 Phật dạy, "A Nan! Như hột bụi trần gần như Hư không vì chia mà thành ra hạt bụi gần Hư không, mà thành lại sắc tướng."
    Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Quán Chúng sinh, trang 67, kể lại cuộc đối thoại giữa Bồ Tát Văn Thù và Duy Ma Cật, theo đó cái Có là do ở cái 0 mà ra. (Xin xem thêm ở bài Nguyên tử).


    "Nếu trước đây, với cơ học lượng tử, hạt được quan niệm là một Ðiểm thì khi chuyển động trong không gian, nó vạch thành đường mà ta có thể gọi là đường trời . (World Line).

    Theo M. Kaku và J. Trainer, ngoài vấn đề giải thích các hạt cơ bản như các Tơ trời vi ba là từ thân xác ta cho đến các vì tinh tú đều là hình thức tổ hợp của các Tơ trời..."

    Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, nhất là Kinh Hoa Nghiêm, khi đức Phật phóng quang thì lúc đầu những quang minh chạy theo đường thẳng, rồi dần dần uốn tròn thành hình trôn ốc mà lập thành Sắc tướng. Như vậy, thân căn của chúng sinh và của muôn loài đều được dệt bằng quang minh. Vì được dệt bằng quang minh nên vạn hữu cũng đều toả ra quang minh. Hiện nay, có máy chụp hình hào quang tỏa ra từ trên đầu người ta. Chính tôi có một tấm hình một cụ tu từ trên 30 năm, trên đầu cụ tỏa ra một vầng hào quang đủ màu rực sáng. (Xin xem thêm bài Sáu Căn Hỗ Tương).

    "1. Theo Nguyên lý Bất định của Heisenberg, những hạt lượng tử có thể sinh từ Vô thể... Ðó là một lượng tử ảo. Nó có thể trở thành một lượng tử thật, một hạt thật, nếu hội đủ số năng lượng cần thiết...
    2. Ngoài ra, tư tưởng về cấu trúc Hadron với tính cách phi nền tảng, phi cục bộ đã thống nhất vũ trụ khoa học với nhân sinh quan huyền nhiệm của truyền thống đông phương"


    Phật dạy rằng, "Người ta muốn phân tích, tìm cầu một Cực vi cuối cùng trọn không thể được. Cái cực vi đó không phải là Vật mà chỉ là ánh biến hiện của quang minh thôi nó biến ảo vô cùng. Thế mà khi những Cực vi đó ra ngoài giác quan của chúng ta, khi nào chúng nó tụ hội, giả hợp với nhau, nó biến thành cái mà mình thấy được.."
    "Hiện nay, các nhà khoa học đưa giả thuyết coi ý thức tâm linh huyền nhiệm có thể là Lực cơ bản thứ năm của vũ trụ." "Pháp giới như là một màn Thiên la võng (Màn lưới báu) vừa của chung vừa của riêng." Khi tu hành lọt vào Tàng thức thì tâm thức của hành giả sẽ dung thông với pháp giới, tức là cái màn Thiên la võng của vũ trụ. Tất cả những gì xẩy ra trong vũ trụ, hành giả đều biết hết (Bộ lạc Kogi ở Nam Mỹ, tuy sống cách biệt thế giới loài người nhiều ngàn năm mà những gì xẩy ra ở thế giới họ đều biết hết. Theo những tài liệu này, những vị thành niên của Bộ lạc Kogi phải ngồi Thiền trong 7-8 năm trời, cũng như Tổ sư Ðạt Ma đã quay vào vách đá ngồi Thiền trong số năm tương tự).
    Nói chung, Khoa học dựa vào toán học, vật lý học và thí nghiệm để tìm hiểu thiên nhiên. Triết lý và tôn giáo từ nhiều ngàn năm đã dựa vào suy luận và sự huyền nhiệm để liễu tri những bí ẩn của vũ trụ.
    Người Âu châu, với bộ óc thiên về vật chất và khoa học đã có một nền văn minh khá cao, đạt được những tiến bộ đáng kể, và khám phá được những điều đáng khích lệ.
    Ngược lại, người Á châu thiên về đạo đức, tâm linh, và huyền nhiệm nhiều hơn.
    Một câu châm ngôn cổ của Trung Hoa nói rằng huyền nhiệm hiểu biết được gốc rễ của Ðạo mà không biết được cành lá. Khoa học biết cành lá mà không hiểu được gốc rễ.
    Như đã kể trên, một số Khoa học và Vật lý gia đã trở về nghiên cứu những tư tưởng huyền nhiệm của đạo lý Ðông phương nhất là đạo Phật. Thomas Cleary với cuốn, "Entry into the Inconceivable" (Bước vào Thế Giới Huyền Nhiệm), đã bừng tỉnh thoát khỏi cái mê lâu của Khoa học bằng cách cổ võ việc ngộ nhập vào thế giới huyền nhiệm của đạo lý Ðông phương. Ken Welber với "The Hollographic Paradigm" (Khuôn Mẫu Toàn Ký), và Michael Talbot với "The Hollographic Universe: (Pháp Giới Như Huyễn), đã giác ngộ cái lẽ Sắc Không của đạo Phật. Trong bài tự thuật, Albert Einstein, cha đẻ của khoa học hiện đại, đã nói rằng ông là một người không tôn giáo, nhưng nếu có tôn giáo thì ông phải là một Phật tử. Ðiển hình nhất là Vật lý gia người Mỹ gốc Áo Fritjof Capra đã làm chấn động giới khoa học Tây phương sau khi ông xuất bản cuốn "The Tao of Physics" (Ðạo của Khoa Vật Lý) năm 1974. Trong đó ông trình bày những sắc thái đặc biệt của đạo Lão, đạo Phật, đạo Thiền. Trong nhiều năm trời, ông đi diễn thuyết ở nhiều nơi, nêu lên những cái bất quân bình của xã hội Tây phương như trọng khoa học hơn tôn giáo, và ưa thực nghiệm hơn huyền nhiệm... Ông kêu gọi giới khoa học và dân chúng Tây phương cần tìm hiểu những tư tưởng siêu việt và huyền nhiệm của đạo lý Ðông phương vì những đạo lý này có thể làm khuôn mẫu tốt đẹp và thường hằng cho những lý thuyết tuyệt đỉnh nhất của giới Vật lý Tây phương. Jemery W. Hayward hăng hái cổ võ bằng đề tài cuốn sách ông xuất bản năm 1987, "Shifting Worlds, Changing Minds, Where the Sciences and Buddhism Meet" (Chuyển Hoá Thế Giới, Thay Ðổi Tư Duy để Khoa Học và Phật Giáo Gặp Nhau).Trong lời giới thiệu cuốn "Vật Lý học và Phật Giáo" của Tiến sĩ Vật lý Vương Thủ Ích thuộc Ðại Học Michigan, Thượng Tọa Thích Viên Lý đã viết:
    "Khoa học chú tâm vào việc khám phá chân lý để soi sáng ý nghĩa nhân sinh và vũ trụ, đồng thời để tạo ích lợi cho con người. Phật học nỗ lực truyền thừa chân lý để được nghiệm chứng để mang lại phúc lạc thật sự cho muôn loài. Một bên là thể nghiệm một bên là tìm cầu. Lẽ tất nhiên, con đường tìm cầu đến lúc nào đó sẽ trực diện với sự thể nghiệm, chứ không phải sự tìm cầu, mới có thể hội chứng được chân lý..." Xem như vậy, việc kêu gọi đổi mới tư duy và tìm cầu chân lý trong đạo lý Ðông phương của một số khoa học gia tiền phong Tây phương đã rất phù hợp với những nhận định của Thượng Tọa Thích Viên Lý.

    Tôi xin trình bày Sơ dồ Nguyên tử và dòng họ như sau:
    SƠ ĐỒ NGUYÊN-TỬ CÁC HẠT VI-PHÂN TIỀM NGUYÊN-TỬ
    (Sketch of an Atom and its Subatomic Particles)
    Phân-tử (Molecule)
    Nguyên-tử (Atom)
    Dương điện-tử (Proton)
    Trung hòa-tử (Neutron)
    Âm điện-tử (Electron)
    (Nhẹ) (Nặng)
    Lepton Quarks Hadron Gluon
    Electron Trên Meson Baryon Graviton
    Muon Dưới Photon
    Tauon Kỳ lạGluon yếu
    Electron neutrino Ðẹp PionProton Gluon mạnh
    Muon neutrino Ðáy Kaon Neutron
    Tauon neutrino Ðỉnh Eta Lambda
    Sigma
    Siêu Tơ Trời Cascade
    (Super String) Omega
    Tachyon
    Chân-không Sinh Diệt
    (Vacuum Polarization)
    Càn Khôn Dương (+) Âm (-)
    Sinh Diệt
    Sắc Không
    Quark Antiquark
    Positron Electron

    Tôi để Chân không Sinh Diệt (Vacuum Polarization) ở cuối cùng chỉ có tính cách tạm bợ vì tất cả những hạt nói trên đều nằm trong Chân không, sinh sinh, diệt diệt. Sơ đồ nhằm giúp quí vị có một ý niệm khái quát về những hạt tử (Lượng tử, Hạt ảo, hay Cực vi) được khám phá gần đây mà khoa học cho là những viên gạch cuối cùng cấu tạo vật chất. Việc sắp xếp vị trí các Hạt cũng rất gượng ép bởi vì những Hạt này đều được cấu tạo, chuyển hóa và biến đổi trong khoảnh khắc. Tuy nhiên, chúng tôi cũng căn cứ vào thứ tự những Hạt được khám phá cùng việc sắp xếp của các Vật lý gia dựa theo bốn Lực của thiên nhiên cùng sự Tương Ðắc (Interaction) của chúng.

    Ðể quý vị thấu đáo việc cấu tạo vạn vật trong vũ trụ, tôi xin tóm lược việc so sánh rất hay của nhà bác học H.R. Pagels (Group Theory) như sau:
    1. Các Hạt tử như Quarks và dòng họ Hadron, Lepton và Gluon là những mẫu tự.
    2. Những mẫu tự này chắp lại thành chữ, tức là Nguyên tử.
    3. Nhiều chữ chắp lại thành câu, tức là những Phân tử.
    4. Nhiều câu chắp lại thành cuốn sách, hay nhiều Phân tử chắp lại thành thân căn của chúng ta hay của muôn loài.
    5. Nhiều cuốn sách hay muôn loài đều nằm trong thư viện tức là vũ trụ.


    Theo lối sắp xếp như vậy, tôi để Phân tử lên đầu. Kế đến là Nguyên tử và ba thành phần chính của nó là Dương điện tử (Proton), Trung hòa tử (Neutron), và Âm điện tử (Electron). Gần đây, Vật lý gia Murray Gell-Mann cho rằng dưới Proton và Neutron còn có những hạt Vi phân Tiềm Nguyên tử vi tế hơn mà ông đặt tên la Quark (tôi dịch là cực vi, cụ Mạc Ngọc Pha dịch là Hạt ảo). Ðể cho rõ ràng, tôi vẫn giữ nguyên chữ Quark. Theo Nguyên lượng Sắc động học (Quantum Chromodynamics - QCD), Quark có 3 màu: Ðỏ, Xanh dương và Xanh lá cây. Quark cũng có 6 vẻ (Flavor): Trên (Up), Dưới (Down), Ðẹp (Charm), Kỳ lạ (Strange), Ðỉnh (Top) và Ðáy (Bottom).
    Dòng họ của Quark là Hadron, Lepton và Gluon. Hadron được chia thành Meson và Baryon. Meson có Pion, Kaon và Eta. Baryon có Proton, Electron, Neutron, Lambda và Omega. Lepton có Electron, Muon, Tauon, Electron neutrino, Muon neutrino và Tauon neutrino. Gluon có Graviton, Photon (Quang Tử), Gluon yếu và Gluon mạnh.
    Sau đó là Siêu Tơ Trời (Super String do cụ Mạc Ngọc Pha dịch), Tachyon và tận cùng bằng Chân Không Sinh Diệt.

    Một trường phái gồm những đệ tử của Einstein cho rằng Quark là dòng họ do Gell-Mann khám phá chưa phải là những Phân tử căn bản mà những Phân tử căn bản phải là Siêu Tơ Trời và Tachyon. Tận cùng là Chân Không Sinh Diệt (Vacuum Polarization), thuyết của P.A.M. Dirac. Thuyết này gần giống như đức Phật đã dạy về Hư không (hay Chân không) rằng "Hư không không phải là Ngoan không, nghĩa là chẳng có gì cả, mà trong đó có đủ loại quang minh cùng các loài chúng sinh cư ngụ. Trong Chân không là Càn (Dương +), Khôn (Âm -), Sinh Diệt, Sắc Không, Tạo dựng và Hủy hoại. Gần đây, các Vật lý gia đã khám phá ra rằng trong Chân không có Phân tử và Ðối Phân tử (Particle and Anti-particle), có Quark và Đối Quark (Quark and Anti-Quark), có Vật thể và Ðối Vật thể (Matter and Anti-matter), và có Positron đối nghịch với Electron. Họ cũng khám phá ra rằng những Hạt tử này gặp nhau thì tiêu diệt lẫn nhau. Ðó là cái nghĩa Sinh Diệt, Sắc Không của đạo Phật.
    Như vậy, trong Sơ đồ này tôi đã trình bày đầy đủ sắc thái Tĩnh và Ðộng của các Hạt tử.

    Xin mời quí đạo hữu xem tiếp các phần tiếp theo tại đây: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.a...83a3q3m3237n1n
    Last edited by DieuHoa; 24-03-2008 at 05:06 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Cảm ơn Liên Hoa Diệu Hỉ. Bài Post của bạn cũng chẳng qua là coppy and paste. Trong cái bài mà bạn coppy cũng có nhiều thứ thiển cận rồi. Ví như :
    "Theo các nhà khoa học hiện nay, Chân không không phải là trống không, trống rỗng, không có gì cả. Chân không thực ra là một khoảng trống, không trống rỗng, nhưng trong đó vẫn có những hạt và phản hạt bỗng nhiên xuất hiện rồi tự hủy."

    Tôi kg trách Bạn, vì Bạn chẳng hiểu gì cả. Tôi chỉ mach cho bạn biết, bên vật lý người ta đo đạc được 1 phản hạt phải là 1 kỳ công. Và có 1 câu hỏi làm đau đầu các nhà Vật lý, tại sao kg tìm ra nơi tập trung các phản hạt tương ứng với các hạt trong thế giới được khám phá này.

    Tôi tôn trọng những lời Phật dạy, vì rất khoa học nhưng kg bao giờ tôn trọng những đệ tử của Ngài dựa vào đó mà phát biểu càn

  3. #3

    Mặc định

    Nhắc lại cho mọi người được rõ. Khái niệm chân kg chỉ đúng cho bài học lứa tuổi cấp 2, hoặc cho môn hóa học. Tại sao như thế, vì cấp 2 chưa đủ sức hiểu vấn đề cần phải hiểu, hóa học chỉ thâm nhập các phản ứng ngoài vỏ ( electron) nguyên tử. Với vật lý, kg có cái gì là chân không cả ( xưa quá rồi Diễm), bên Nhật người ta xây dựng cả 1 đường hầm vật lý để thu được những hạt cơ bản, hạt đó xuyên qua cả trái đất này, và bên khoa học người ta đang nghi ngờ những nhà tu tập sẽ giữ lại được những hạt này nên mới tạo ra Xá lợi. Và tại sao khoa học khuyên Bạn đừng nên đựng thưc ăn uống quá nóng vào bịch, bao bì bằng nilon, nhựa v.v
    Thế thôi, khoa học phát triển theo con đường riêng của nó, xin hãy đừng phỉ báng nó. Cho dù có phỉ báng, nó vẫn tồn tại độc lập

  4. #4

    Mặc định

    Trích :" Cảm ơn Liên Hoa Diệu Hỉ. Bài Post của bạn cũng chẳng qua là coppy and paste. Trong cái bài mà bạn coppy cũng có nhiều thứ thiển cận rồi."...
    Bạn Liên Hoa Diệu Hỷ đã làm một việc hay...Có thể là lạc hậu với hiện tại nhưng trong chừng mực nào đó vẫn có giá trị . Và bạn ấy có nói mình là tác giả đâu ?
    Giọng điệu của SCC kiêu căng ngạo mạn quá . Tôi thấy những ý kiến SCC vừa phát biểu nào phải do chính bạn khám phá mà cũng chỉ là môt dạng coppy and paste ...Mình cũng như người ta. Vậy mà lại gáy thật to . Hay nhỉ ?
    Tinh thần khoa học là thế sao ?

  5. #5

    Mặc định

    Oh, tại sao tôi nói coppy and paste, vì anh không có chính kiến gì ở đây cả. Bài viết của tôi luôn có chính kiến của tôi đó kinhduong àh. Tội nghiệp cho Bạn quá

  6. #6
    Đai Đen Avatar của laduykhanh
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Tu viện Drikung Kagyupa
    Bài gởi
    540

    Mặc định

    DieuHoa mến .
    Khoa học là khoa học Phật Pháp là phật pháp . Nếu ai đó nhìn từ góc độ khoa học mà đo lường chẳng thà bỏ đi còn hơn .

    Đành rằng PG đáp ứng dc rất nhiều chứng minh khoa học hiện tại , nhưng có 1 số giáo lý mà có khi phải đợi mãi sau này mới được công nhận .

    -KHoa học là thế gian pháp , PP là xuất thế gian . So sánh cũng chỉ là khập khiễng .

    scc nói không có căn cứ , cũng chỉ là nghe người khác nói lại , thì khác chi copy and paste . Bạn có cái nhìn của bạn , dieuhi có cai nhìn của bạn ấy . Bạn chấp cái kiến thủ rồi cho rằng mình thế này , người thế nọ . Nên chăng . Cống cao ngã mạn
    Lama Drikung Konchog Tinley
    :yb663:Namo Gurube:yb663:

    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.

    Y!: laduykhanh

  7. #7

    Mặc định

    Tôi biết những đệ tử của Ngài sẽ nhào vô tranh luận 1 cách cuồng tín và bảo thủ mà bản thân Ngài cũng kg bao giờ muốn thế.
    Chợt nhớ tới buổi thuyết trình của Anh – xít – Tanh về thuyết tương đối để đạp đổ thần tượng Newton cũng giống như Đức Phật khi khẳng định rằng : Định kiến là gì, là những kiến thức mà ta được học mà không cần phải chứng minh nó
    Chợt nhớ tới lời Ngài dạy : Từ Bi Trí tuệ
    To laduykhanh, Bạn đâu đã biết tôi làm gì, học vị là gì sao Bạn bảo tôi coppy and paste. Điều cơ bản tôi có chính kiến của tôi, và đó là tôi. Phật cũng bảo thế mà, hãy hiểu về con thì sẽ hiễu được vũ trụ
    Tại sao tôi phản biện bài viết này, vì DieuHoa kg có chính kiến, vì người viết bài này viết sai về khoa học.Cụ thể trong 1 đơn vị không gian lượng hạt cao hơn rất nhiều lần phản hạt, kg phải bất kỳ chân không nào cũng tồn tại Hạt và Phản hạt cùng lúc. Và nhiều thứ nữa, nói chung kg phải là 1 bài viết nghiêm túc công minh. Thế thôi

  8. #8

    Mặc định

    Trích : "To laduykhanh, Bạn đâu đã biết tôi làm gì, học vị là gì sao Bạn bảo tôi coppy and paste. Điều cơ bản tôi có chính kiến của tôi, và đó là tôi..."

    Bạn còn thứ nào ngoài học vị đang có nữa không ? Đối với nhà Phật đó chính là sự vay mượn thu nạp bên ngoài có hệ thống chứ không phải thực sự Trí Tuệ của mình. Nếu bạn học Phật thì nên biết Bản Ngã bạn đang phì đại...có hay ho gì mà khoe ra như vậy. Trên diễn đàn này đâu thiếu Tiến sĩ mà có ai thô thiễn như bạn đâu ?
    ...Xỉu...

  9. #9

    Mặc định

    Tôi biết Bạn sẽ lý luận kiểu con gà mắc tóc ấy mà. Mãi mãi không bao giờ thoát ra được Bạn àh. Lời nói luôn có ngữ cảnh của nó, vì Bạn laduykhanh nói tôi cũng coppy and paste, cho nên tôi mới hỏi Bạn thế. Nói chung, tôi sẽ kg tranh luận 1 cách vô ích, cũng là cách thực thi theo lời Phật dạy vậy. Chấm dứt nhé
    Lời Đức Phật giảng dạy luôn có ngữ cảnh, nhưng đệ tử của Ngài sử dụng 1 cách vố ý thức

  10. #10

    Mặc định

    TO SSC : Tôi xem lại tất cả bài trong topic này và hoàn toàn đồng ý với Kinhduong & Laduykhanh : Bạn cũng chỉ coppy and paste mà thôi.
    Dẫn chứng của SSC cũng chỉ là ghi nhận lại những gì của người khác thực hiện và bạn chỉ viết lại. Thế không phải một dạng coppy and paste là gì ?

  11. #11
    Đai Nâu Avatar của ngoc.khanh198
    Gia nhập
    Nov 2007
    Nơi cư ngụ
    Đâu đó ở Ta Bà
    Bài gởi
    341

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi scc Xem Bài Gởi
    Oh, tại sao tôi nói coppy and paste, vì anh không có chính kiến gì ở đây cả. Bài viết của tôi luôn có chính kiến của tôi đó kinhduong àh. Tội nghiệp cho Bạn quá
    Người ta copy và pase bài khác mà vẫn ghi tên tác giả và không phạm nội quy diễn đàn thì DD thêm phong phú chứ có gì sai sao SCC lại chỉ trích?

    Chúng ta ngày nay có được lượng kiến thức nào đó là được thừa hưởng một lượng lớn kiến thức nhờ đứng trên vai người khổng lồ, cũng là do ta copy và pase vào bộ nhớ mình thôi. Có ai bác bỏ tất cả các kiến thức ngày nay ngay từ hồi mới sinh, trở về thời đại nguyên thủy, rồi phát minh, chứng minh lại từ đầu thì hãy nói là mình không copy & pase. Chắc là chẳng có người nào đến mức như vậy trong đó có cả bạn đó. Bài viết trên của bạn cũng là kiến thức copy & pase thôi, đâu có phải bạn phát minh ra mà chỉ trích người ta? Kiến thức của người khác mà tưởng là "chính kiến" của mình, lời lẽ thật ngã mạn. Thấy tội nghiệp cho bạn mới đúng.

    Người ta post bài cho những người khác đọc có phải cho riêng bạn đâu. Nếu bạn có ý kiến nào khác với tác giả của bài viết thì bạn cứ viết, có bài nào hay thì cứ đăng cho mọi người tham khảo, không nên chỉ trích đệ tử Phật thế này thế khác, chỉ trích người post bài với tinh thần như trên.
    Last edited by ngoc.khanh198; 26-03-2008 at 10:03 AM.
    Hôm nay là ngày đầu tiên của quãng đời còn lại :ciao:

  12. #12

    Mặc định

    SCC và cả nhà ơi ! Lộn rồi đó nha,Dieu hoa và Dieu hy cùng họ khác tên đấy.

    Theo dieuhy thấy dù copy and paste,hay mượn bài viết của ai post lên mạng mà có xin phép tác giả,nêu tên tác giả thì hoàn toàn hợp lý.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH:listen:

  13. #13

    Mặc định

    Anh SCC thi y minh co mot chut von lieng khoa hoc nen ai dung toi khoa hoc la anh phan ung lien.
    Con tac gia bai viet (khong phai Lien Hoa Dieu Hy) thi chinh la mot Phat tu thanh tam muon hoang duong Dao Phap, mac du khong phai la nha khoa hoc, lai di ban ve khoa hoc. Trach nao anh SCC khong len tieng.
    Tận nhân lực, Tri thiên mạng

  14. #14

    Mặc định

    trích :"Bài viết trên của bạn cũng là kiến thức copy & pase thôi, đâu có phải bạn phát minh ra mà chỉ trích người ta? Kiến thức của người khác mà tưởng là "chính kiến" của mình, lời lẽ thật ngã mạn. Thấy tội nghiệp cho bạn mới đúng..."

    Huynh ngockhanh198 viết rất đúng...

  15. #15

    Mặc định

    Thế siêu khoa học là cái khoa học gì vậy ta??? Các bác am hiểu giải thích giùm em với, nhà em chả biết tí khoa học và chưa đủ duyên nghiên cứu Phật học nên chạ hỉu dư thế lào. Bác LDK, bác NK và mấy bác khác trong nhóm Phật học cho em biết các bác nghiên cứu rùi phát hiện ra cái gì rùi? Bác scc bác nghiên cứu bác phát hiện ra cái gì??? Các bác phát hiện ra gì và chứng nghiệm được việc gì giữa 2 thứ đó thì các bác nói cho em biết chứ em thấy các bác cãi nhau ngã mạn với gì gì toàn là từ ngữ chuyên ngành rắc rối quá. Làm ơn giảng cho em nghe loại gì dễ hiểu chút nhé. Chúc các bác sớm trả lời cho em nghe, bác nào mà không trả lời được thì thật là phí topic siêu hay này lắm.
    Thế gian riêng một mình tôi
    Phiêu diêu lãng đãng mây trời núi sông

  16. #16
    Đai Nâu Avatar của beothixau
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Hà Nội
    Bài gởi
    445

    Mặc định

    Hìhì trước khi các huynh muốn chứng minh Đạo Phật siêu Khoa học thì phải chứng minh rằng Đạo Phật rất Khoa học, nghĩa là phải chứng minh được sự tồn tại có giá trị của cả 2 lĩnh vực/ trường phái này, nghĩa là Khoa học cũng hay - Đạo Phật cũng giỏi, nghĩa là đừng phủ định cái này - khẳng định cái kia một cách lộn xộn như chúng ta vẫn làm, nghĩa là phải khẳng định hết và luôn đi tìm cái chưa biết để mà khẳng định thêm... ("nghĩa là" nhiều quá, hết cả hơi!).

    Phật đã nói những gì Ngài đã thuyết giảng chỉ ví như nhúm lá trong bạt ngàn lá rừng của tri thức vũ trụ. Khoa học cũng còn đang bở hơi tai để đi tìm những định đề, những quy luật, những nguyên nhân vận hành cả một vũ trụ vô viên. Khiếp quá, nghĩ đến sự bao la hun hút này đã thấy rùng rợn, không biết đằng nào mà lần :D

    Vậy nên tôi thấy ở đây các huynh đừng tiếp tục phủ định nhau nữa. Lãng tử nói là right đấy! Lãng tử mà ở gần đây thì tôi phải mời ngay huynh ấy 1 cốc cafe say quắc cần câu rồi!

    Cả các huynh khác nữa nhé, ai nghiền món cafe này thì ới cái để lập hội nhơ!

    :ciao:
    Đang túc tắc trèo xuống :D

  17. #17
    Đai Nâu Avatar của ngoc.khanh198
    Gia nhập
    Nov 2007
    Nơi cư ngụ
    Đâu đó ở Ta Bà
    Bài gởi
    341

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Lãng Tử Xem Bài Gởi
    Thế siêu khoa học là cái khoa học gì vậy ta??? Các bác am hiểu giải thích giùm em với, nhà em chả biết tí khoa học và chưa đủ duyên nghiên cứu Phật học nên chạ hỉu dư thế lào. Bác LDK, bác NK và mấy bác khác trong nhóm Phật học cho em biết các bác nghiên cứu rùi phát hiện ra cái gì rùi? Bác scc bác nghiên cứu bác phát hiện ra cái gì??? Các bác phát hiện ra gì và chứng nghiệm được việc gì giữa 2 thứ đó thì các bác nói cho em biết chứ em thấy các bác cãi nhau ngã mạn với gì gì toàn là từ ngữ chuyên ngành rắc rối quá. Làm ơn giảng cho em nghe loại gì dễ hiểu chút nhé. Chúc các bác sớm trả lời cho em nghe, bác nào mà không trả lời được thì thật là phí topic siêu hay này lắm.
    Bạn hỏi cũng thật khó. NK không dám nói là am hiểu gì gì đó nhưng theo thiển ý của NK mà tạm nói như sau:

    Bản thân tên của chủ đề này cũng đã đủ gây ra nhiều tranh luận rồi.
    Sao người ta dùng Khoa học để chứng minh Phật giáo?
    Vì Phật giáo nói nhiều đến những phạm trù siêu hình (không phải mê tín) đặt ra nhiều câu hỏi đối với các nhà Khoa học mà họ chưa giải đáp hết được và vẫn còn tìm hiểu.
    Còn vấn đề dùng Phật giáo để chứng minh khoa học thì không hiểu để làm gì vậy? :confused:

    Khoa học và Phật giáo tuy cùng mang đến lợi ích thiết thực cho con người nhưng mục đích có khác nhau, hình thức cũng khác nhau, do vậy nếu ghép vào nhau thành một chủ đề đôi khi gây ra tranh luận vô ích.
    Bạn nói "chưa đủ duyên nghiên cứu Phật học" , trên diễn đàn TGVH đây ngoài những bài sưu tầm hay ra, cũng có nhiều cao nhân post bài theo tri kiến của họ cũng rất hay. Nếu thích tìm hiểu Phật giáo ta cứ âm thầm học hỏi cũng đâu có phải ít duyên, ít cơ hội?

    Người Phật tử ai tu nấy chứng cũng như ai ăn nấy no. Không dễ gì người ta nói sự chứng đắc của người ta cho bạn và cho NK đâu.

    Phúc cho ai tìm hiểu rồi mới tin.
    Vô phúc cho ai, chẳng tìm hiểu và cũng chẳng tin. :cool:

    Thân!
    Hôm nay là ngày đầu tiên của quãng đời còn lại :ciao:

  18. #18

    Mặc định

    Tôi xin lỗi Liên hoa diệu hỉ với Diệu Hoa nhỉ, vì thật ra mà nói, tôi cũng phải vật lộn cuộc sống tranh đấu lừa lọc nhau nên mới có được 20K chiều nay tui đi ăn cơm bụi. Âu cũng là Phật thương nên cho tui có bữa cơm.
    Tôi phản biện bài của các Bạn vì rằng tui kg có đồng ý. Nên nhớ tôi kg bao giờ dám phản biện với Đức Phật, chỉ phản biện với đám đệ tử của Ngài mà thôi
    Tôi luôn có chính kiến riêng của mình
    Đám đệ tử của Ngài lần này thật là có lễ độ làm I em cảm động quá sức là cảm cảm động
    Kg tranh luận gì nữa

  19. #19

    Mặc định

    Thế là hết rùi hả các bác, cứ tưởng được nâng cao tầm mắt chút ai ngờ lại bị ai ăn no được thì no làm thất vọng thật sự. Không biết các bác nào có chứng nghiệm gì kjhoong
    Thế gian riêng một mình tôi
    Phiêu diêu lãng đãng mây trời núi sông

  20. #20
    Đai Nâu Avatar của beothixau
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Hà Nội
    Bài gởi
    445

    Mặc định

    SCC đã gặp Đức Phật đâu mà biết sẽ không phản biện Ngài? Tôi đảm bảo nếu gặp thì bạn sẽ cãi nhoay nhoáy cho mà xem! Hihi thật ra thì cũng nên như vậy!

    Như tôi đã nói trước đây rồi, Phật Pháp hay Khoa Học đều là những người học trò đang song song tìm hiểu về bản chất sinh diệt của vũ trụ, của mọi cái mà họ biết đến. Biết thêm cái này rồi lại phải tìm hiểu tiếp cái gì đã tạo ra, cái gì là cốt lõi của cái đã biết ấy. Quá trình tìm hiểu của 2 cậu học trò này đã bắt đầu từ rất lâu, có lẽ là từ cái thời kỳ khởi nguyên của sự xuất hiện 2 cậu. Ở đây xin mọi người hiểu là Khoa học không phải chỉ mới xuất hiện, cùng lắm có tuổi đời vài ngàn năm. Khoa học cũng như Phật Pháp, có từ cực lâu rồi, có từ vạn triệu năm trước, có từ ngàn ngàn kiếp trước. Nếu ai đã từng biết đến những (nhiều) nền văn minh tồn tại trên Trái Đất trước nền văn minh của loài Người hiện nay thì sẽ biết rằng sự tồn tại của Khoa học không hề ngắn tí nào.

    Mà thôi, vạch ra mà bàn thì có lắm vấn đề để nói lắm, càng nhiều hơn vấn đề để tranh cãi --> mệt mỏi, bức xúc, bấn loạn thân tâm :D

    Tôi chỉ thấy còn 1 vấn đề ở đây chính là sự kết hợp, sát nhập của 2 cậu học trò Phật Pháp và Khoa Học. Từ thời khởi đầu nền văn minh loài người hiện nay thì 2 cậu này vẫn đi trên 2 con đường song song. Bây giờ có vẻ biết đến nhau rồi. Khi nào chặp 2 con đường này làm 1 thì có lẽ sẽ dễ dàng hơn trong sự nghiệp nghiên cứu và sáng tạo của cả 2 cậu.

    Tại sao lại ko có sự sát nhập này khi mọi cặp hiện tượng đối lập tồn tại trên đời này (theo cả quan điểm của Phật Pháp và Khoa Học) đều đã được giả thiết là có thể sát nhập, và chỉ là 1 mà thôi? Ví dụ: âm và dương là 1, không gian và thời gian là 1, hạt và phản hạt là 1, chân không và vật chất là 1, có và không là 1, thân và tâm là 1...

    Tóm lại là đấy, chỉ còn lại 1 vấn đề là sát nhập lại, liên kết lại mà thôi. Giảm tranh cãi, đối đầu đi, nhập lại đi rồi muốn làm gì hãy làm!
    Đang túc tắc trèo xuống :D

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •