kết quả từ 1 tới 19 trên 19

Ðề tài: BÀI THƠ TÌNH BẤT TỬ

  1. #1

    Mặc định BÀI THƠ TÌNH BẤT TỬ

    HAI SẮC HOA TY-GÔN
    TTKH

    Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
    Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
    Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
    Tôi chờ người đến với yêu đương.

    Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
    Dải đường xa vút bóng chiều phong,
    Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
    Ta vít dây hoa trắng chạnh lòng.

    Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
    Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
    Bảo rằng:"Hoa, dáng như tim vỡ,
    Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"

    Thuở đó, nào tôi đã hiểu gì
    Cánh hoa tan tác của sinh ly,
    Cho nên người đáp:"Màu hoa trắng
    Là chút long trong chẳng biến suy."

    Đâu biết lần đi một lỡ làng,
    Dưới trời gian khổ chết yêu đương.
    Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm,
    Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

    Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
    Lòng tôi còn giá đến bao giờ
    Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
    Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

    Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
    Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
    Mà từng thu chết, từng thu chết,
    Vẫn giấu trong tim bóng "một người".

    Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
    Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
    Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
    Và đỏ như màu máu thắm pha!

    Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
    Một mùa thu trước rất xa xôi...
    Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
    Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

    Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
    Chiều thu, hoa đỏ rụng. chiều thu
    Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
    Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

    Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
    Trời ơi! Người ấy có buồn không?
    Có thầm nghỉ tới loài hoa... vỡ
    Tựa trái tim phai, tựa máu hồng? (TTKH)

    Cho đến tận bây giờ vẫn chưa ai có được minh chứng thuyết phục tác giả ttkh là ai
    SỰ THẬT GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
    eatdrink004

  2. #2
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguyenvutungson78 Xem Bài Gởi
    HAI SẮC HOA TY-GÔN
    TTKH

    Cho đến tận bây giờ vẫn chưa ai có được minh chứng thuyết phục tác giả ttkh là ai
    TTKH
    Vậy T.T.Kh. là ai? Nam hay nữ? Bút danh này chỉ thấy ghi ở ba bài thơ đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy và một bài trên báo Phụ nữ, rồi thôi, không thấy xuất hiện nữa.

    Ông Hoài Thanh, năm 1941, có soạn cuốn Thi nhân Việt Nam cũng trích dẫn T.T.Kh. với lời ghi chú: “Sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao, đến mấy người nhất quyết T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài thơ ấy là những áng thơ kiệt tác…”.

    Hôm nay xin công bố với bạn đọc, một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh. Người kể còn sống, mà T.T.Kh. cách đây bốn năm vẫn còn gặp. Chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc là văn học sử sau này.

    Số là vào dịp hội đền Bà Tấm năm nay (Kỷ Tỵ, 1989), chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội. Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp thơ trước Cách mạng tháng Tám, năm nay đã 74 tuổi (tên thật là Phạm Quang Hòa), bạn thân với các nhà thơ :Thâm Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. Chính bài Tống biệt hành Thâm Tâm viết tặng Phạm Quang Hòa khi đi hoạt động cách mạng. Nguyễn Bính cũng có bài thơ tặng Phạm Quang Hòa mở đầu bằng hai câu:

    Tôi và anh: Bính và Hòa
    ở đây xa chị, xa nhà, xa em…
    Và đây kết thúc bằng hai câu:
    Đây là giọt lệ phân ly
    Ngày mai tôi ở, anh đi, bao giờ…?

    Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu, và tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về họ tên tác giả Hai sắc hoa ti-gôn được công bố dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Tú Sót.
    T.T.Kh. tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau, nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (số tháng 9-1937) xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy.

    Bài thơ in ra gây xôn xao trong làng văn chương như ông Hoài Thanh ghi nhận. Tiếp đó để giải thích lý do viết bài Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.Kh. gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết tặng riêng Thâm Tâm bài thơ Đan áo.

    Lại càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận là người yêu của mình, trong số này có nhà thơ Nguyễn Bính.

    Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ "Đan áo" để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có sự đồng ý của T.T.Kh.

    Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề "Bài thơ cuối cùng" gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương, và cũng từ đấy T.T.Kh. “tắt lịm” trên thi đàn.

    Sau này, Thâm Tâm có viết một bài thơ dài để trả lời T.T.Kh. bài Các anh, (tập thơ mới của Thâm Tâm, nhà xuất bản Văn học 1987, có in bài Các anh nhưng đây chỉ mới trích một phần).

    Lời bàn:
    Có người viết hàng trăm bài thơ, in hơn chục tập thơ, mà không gây được mộ vang hưởng nào trong nghệ thuật thơ. T.T.Kh. viết bốn bài, có bài đã gây được vang hưởng.

    Được biết T.T.Kh. về sống ở Thanh Hóa đã bốn năm nay, không biết bây giờ bà còn hay mất, nhưng cứ xin phép cho chúng tôi được công bố điều bí mật trên vì nghĩ rằng:

    Thời gian đi đã dài, nhà thơ Thâm Tâm đã mất, ông nhà cũng quy tiên. Vả lại, cũng vì công việc của văn sử học, nếu đã tìm ra tác giả của một tác phẩm nổi tiếng thì dù đắn đo đến đâu rồi cũng phải công bố.
    Hoàng Tiến
    (Nhân dân Chủ nhật số 23 tháng 7-1989
    http://www.tanhieptho.com
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  3. #3

    Mặc định

    Hồi con còn học ở DHSP, có 1 lần nghe bình giảng về bài thơ này nên rất ấn tượng nhưng tuyệt nhiên chưa nghe giảng sư nói về tác giả hay tiểu sử tác giả................về điều khẳng định của chú thienhung wu , con mạn phép ko nêu ý kiến , chỉ từ từ tìm dẫn chứng, nếu đúng được như vậy thì thú vị thật
    SỰ THẬT GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
    eatdrink004

  4. #4
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguyenvutungson78 Xem Bài Gởi
    .......về điều khẳng định của chú thienhung wu , con mạn phép ko nêu ý kiến , chỉ từ từ tìm dẫn chứng, nếu đúng được như vậy thì thú vị thật
    Ôi .Đâu phải mình khẳng định ,mà tác giả bài này cơ.Nhưng hồi đó mình cũng đã từng xem 1 bài báo nào cũng nói về chuyện này : TT là Thâm Tâm ,còn KH là Khánh .Nhưng người ta cũng còn giải thích TTKh là Trần thị Khánh :D
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thienhung_wu Xem Bài Gởi
    Ôi .Đâu phải mình khẳng định ,mà tác giả bài này cơ.Nhưng hồi đó mình cũng đã từng xem 1 bài báo nào cũng nói về chuyện này : TT là Thâm Tâm ,còn KH là Khánh .Nhưng người ta cũng còn giải thích TTKh là Trần thị Khánh :D
    Năm học 12 , Thầy chủ nhiệm của lớp HY là Thầy dạy Văn và làm chủ nhiệm hội nhà văn của Tỉnh , năm ấy là năm cuối cùng của Thầy ( vì Thầy đến tuổi hưu ) . Thầy có ngâm bài thơ Hai sắc hoa Tigon và cũng kể về nghi án TTKH , Thầy cũng bảo cô ấy là người yêu của Thâm Tâm .
    HY rất ấn tượng với bài thơ , vì những giọt nước mắt trên khuôn mặt nhiều nếp nhăn của Thầy ! Tiếc rằng lúc ấy HY chưa có yêu ai , nên khg hiểu vì sao Thầy lại khóc và càng khg hiểu hết ẩn ý của bài thơ !!!
    Tìm lại giấc mơ

  6. #6

    Mặc định

    Hi, gguu3i thêm một bài thô tình hay nhất thế kỷ cho nhũng người yêu thơ thưởng thức.

    BÀI THƠ TÌNH HAY NHẤT THẾ KỈ XX

    V à câu chuyên tình Không biên giới….
    Hơn 30 năm qua, các thế hệ sinh viên VN, đặc biệt là SV miền Bắc và những người yêu thơ đã cực kỳ yêu thích bài thơ “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban- căng”, một bài thơ tình với những lời thơ nồng nàn, da diết: “Em đi tìm anh trên Bán đảo Ban-căng/ Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng/ Một mình em trong màn đêm thanh vắng/ Tim bồi hồi chân bước vội dưới trăng”. Chúng tôi đã thuộc, đã chép cho nhau, truyền tay nhau những câu thơ tình bất hủ, mặc dù không biết tác giả là ai, nhưng ai cũng nghĩ rằng đó là câu chuyện tình của những chàng trai cô gái châu Âu xa xôi…
    Mãi cho đến năm 2004 T ác giả thật sự của b ài thơ mới gửi hồ sơ đến trung tâm bản quyền của Hội nhà văn Vn, và sau khi được họ xác minh đã nhận được giấy chứng nhận bản quyền của mình.
    Đó là ông Khổng Văn Đương: mối tìng đầu trong trắng tuyệt vọng của ông thời lưu Học sinh với một cô gái Rumani Chàng là một sinh viên Việt Nam tài hoa với rất nhiều tài lẻ, du học tại Rumani những năm 60 cuả thế kỷ XX. Nàng là sinh viên người bản xứ, xinh đẹp, tóc vàng, mắt biếc. Như duyên trời định, họ bất ngờ gặp và quen nhau trong một kỳ nghỉ hè bên bờ Biển Đen. Và họ yêu nhau. Tình yêu nồng nàn đắm say của tuổi trẻ dạt dào như sóng biển…Tiếc rằng thời kỳ đó Chuy ện y êu đ ư ơng c ủa b ất c ứ SV Việt Nam nào v ới ng ư ời b ản s ứ Đ ều kh ông đ ư ợc đ òan L ư H ọc Sinh ch ấp nh ận.
    chàng bị “tổ chức” bắt buộc phải chia tay nàng mà không được tiết lộ với người yêu nguyên do… Bỗng dưng chàng biến mất, cô gái đã phát bệnh tâm thần và lang thang đi tìm người yêu ở tất cả những nơi trước đây 2 người đã từng hò hẹn, từng chỉ non thề biển… Chàng trai đau khổ đến tột cùng khi phải câm lặng chứng kiến nỗi đớn đau vì bị phụ tình của cô gái trong trái tim mình, chàng đã bật lên những lời thơ, mà lúc ấy chàng không hề nghĩ rằng nó đã lập tức trở thành những áng thơ tình bất hủ và sau này còn được bình chọn là một trong những bài thơ tình hay nhất thế kỷ XX…

    Em đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng

    Khổng Văn Đương

    Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng
    Một mình em trong màn đêm thanh vắng
    Tim bồi hồi chân bước vội dưới trăng
    Em trèo lên đỉnh núi cao Các-pát
    Nhìn theo anh mất hút biết về đâu
    Chân ai đi xa lắc tím trời Âu
    Dòng nước mắt bỗng trào ra chua chát!

    Em lại đến Biển Đen xưa dào dạt
    Sóng xô bờ liên tiếp gọi triền miên
    Buồn! Chao ôi, gió làm em phiêu bạt
    Thân cô đơn kinh khiếp cả trăng hiền!

    Ôi dòng xanh rầm rì sông Đa- nuýp
    Mây trời in lồng lộng giữa dòng sông
    Nên ngàn năm êm đềm trôi một nhịp
    Chỉ mình em nhức nhối vết thương lòng!

    Hỡi trái đất rộng làm chi bao la
    Cho loài người chia biên giới thế gian
    Cho sa mạc nổi bùng cơn bão cát
    Cho tình anh chưa bén đã lụi tàn?

    Em xin hỏi Trời cao và Đức Phật
    Cõi Niết Bàn có mãi mãi mùa xuân
    Đâu trời Tây, đâu xa gần cực lạc
    Mà trần gian đầy bể khổ trầm luân?

    Con lạy Chúa Jêsu ban phép lạ
    Cho nước Người hết ly biệt, chia phôi
    Hai chúng con quỳ trước Người đa tạ
    Xin hoà tan làm một, ngàn đời!

    Em cầu nguyện. Còn anh anh chẳng biết
    Trái tim anh sao giá lạnh thờ ơ?
    Và hôm nay dù tình anh đã hết
    Em vẫn mong, vẫn hy vọng, vẫn chờ...

    Vẫn trèo lên đỉnh cao Các-pat
    Vẫn theo dòng Đa-nuýp những đêm trăng
    Em lại đến Biển Đen xưa dào dạt
    Đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng!
    Bucades 19-03-1969
    Gia Đình Vô Hình

  7. #7

    Mặc định

    Cà phê có đắng thêm đường ngọt
    Tình đắng cay rồi biết lấy chi
    .....
    Ai đẩy xe tang chầm chậm lại
    Chờ cho hoa phượng rủ quan tài
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thienhung_wu Xem Bài Gởi
    TTKH
    Vậy T.T.Kh. là ai? Nam hay nữ? Bút danh này chỉ thấy ghi ở ba bài thơ đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy và một bài trên báo Phụ nữ, rồi thôi, không thấy xuất hiện nữa.

    Ông Hoài Thanh, năm 1941, có soạn cuốn Thi nhân Việt Nam cũng trích dẫn T.T.Kh. với lời ghi chú: “Sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao, đến mấy người nhất quyết T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài thơ ấy là những áng thơ kiệt tác…”.

    Hôm nay xin công bố với bạn đọc, một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh. Người kể còn sống, mà T.T.Kh. cách đây bốn năm vẫn còn gặp. Chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc là văn học sử sau này.

    Số là vào dịp hội đền Bà Tấm năm nay (Kỷ Tỵ, 1989), chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội. Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp thơ trước Cách mạng tháng Tám, năm nay đã 74 tuổi (tên thật là Phạm Quang Hòa), bạn thân với các nhà thơ :Thâm Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. Chính bài Tống biệt hành Thâm Tâm viết tặng Phạm Quang Hòa khi đi hoạt động cách mạng. Nguyễn Bính cũng có bài thơ tặng Phạm Quang Hòa mở đầu bằng hai câu:

    Tôi và anh: Bính và Hòa
    ở đây xa chị, xa nhà, xa em…
    Và đây kết thúc bằng hai câu:
    Đây là giọt lệ phân ly
    Ngày mai tôi ở, anh đi, bao giờ…?

    Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu, và tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về họ tên tác giả Hai sắc hoa ti-gôn được công bố dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Tú Sót.
    T.T.Kh. tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau, nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (số tháng 9-1937) xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy.

    Bài thơ in ra gây xôn xao trong làng văn chương như ông Hoài Thanh ghi nhận. Tiếp đó để giải thích lý do viết bài Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.Kh. gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết tặng riêng Thâm Tâm bài thơ Đan áo.

    Lại càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận là người yêu của mình, trong số này có nhà thơ Nguyễn Bính.

    Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ "Đan áo" để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có sự đồng ý của T.T.Kh.

    Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề "Bài thơ cuối cùng" gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương, và cũng từ đấy T.T.Kh. “tắt lịm” trên thi đàn.

    Sau này, Thâm Tâm có viết một bài thơ dài để trả lời T.T.Kh. bài Các anh, (tập thơ mới của Thâm Tâm, nhà xuất bản Văn học 1987, có in bài Các anh nhưng đây chỉ mới trích một phần).

    Lời bàn:
    Có người viết hàng trăm bài thơ, in hơn chục tập thơ, mà không gây được mộ vang hưởng nào trong nghệ thuật thơ. T.T.Kh. viết bốn bài, có bài đã gây được vang hưởng.

    Được biết T.T.Kh. về sống ở Thanh Hóa đã bốn năm nay, không biết bây giờ bà còn hay mất, nhưng cứ xin phép cho chúng tôi được công bố điều bí mật trên vì nghĩ rằng:

    Thời gian đi đã dài, nhà thơ Thâm Tâm đã mất, ông nhà cũng quy tiên. Vả lại, cũng vì công việc của văn sử học, nếu đã tìm ra tác giả của một tác phẩm nổi tiếng thì dù đắn đo đến đâu rồi cũng phải công bố.
    Hoàng Tiến
    (Nhân dân Chủ nhật số 23 tháng 7-1989
    http://www.tanhieptho.com
    Search trên Google về đề tài Nghi án văn học TTKH thì có rất nhiều bài viết, nhiều ý kiến khác nhau, và đây cũng là 1 ý kiến khác tôi coppy và post lên để tham khảo, đây là 1 phần trong nhiều bài phân tích của ông Trần Đình Thu đăng trên báo Sài gòn giải phóng:
    Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 6: Ai có thể là T.T.Kh. ?


    Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các "ứng viên" là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba... cùng một số "ứng viên" nữ như Trần Thị Khánh...

    Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một "ứng viên" duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công luận vào năm 1994.

    Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia đình với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.

    Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng họa với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đã có một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài.

    Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp.

    Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 viết: "Đưa ra tên tuổi thật của T.T.Kh, với đầy đủ cuộc đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đã quá lâu, nay lỡ biết rồi thì không thể không công bố". Tác giả Ngọc Tình trên Báo Sài Gòn Giải Phóng vào ngày 9.10.1994 cũng viết: "Cuối cùng bí mật đã được phát giác, tác giả cuốn sách giải trình đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua". Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 viết: "Một nghi án văn học đã gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T.T.Kh. Đến nay, Thế Nhật với những tư liệu và chứng cứ rõ ràng mới bật mí được câu chuyện tình lãng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này".

    Các ý kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy. Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.

    Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là "ứng viên" để vào vị trí T.T.Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).

    Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất nhiều.

    Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau.

    Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất: "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".

    Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: "Và một ngày kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".

    Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.

    Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.

    Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung ...
    Last edited by phuhoa; 18-08-2010 at 08:15 AM.

  9. #9

    Mặc định

    VẬY ĐẤY, CÓ RẤT NHIỀU GIẢ THUYẾT VỀ TÁC GIẢ TTKH LÀ AI, nhưng phần nhiều nghiên về 2 đáp án của chú thienhung và anh phuhoa, .....nhưng thật tình các giả thuyết đều chưa làm hài lòng bạn đọc và tác giả bài thơ tình này có lẽ mãi mãi vẫn là 1 nghi án lớn trong văn học viẹt nam
    SỰ THẬT GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
    eatdrink004

  10. #10
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    * Đây là bài thơ thứ hai sau bài HAI SẮC HOA TI-GÔN nhưng T.T.KH lại lấy tên là : Bài thơ thứ nhất - đăng trên tiểu thuyết thứ bảy (ngày 20-11-1937), cùng cách nhau mấy tháng với bài thơ trên đây.
    Sách đã dẫn tr.28

    Bài thơ thứ nhất

    Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
    Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
    Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
    Êm ái trao tôi một vết thương
    Tai ác ngờ đâu gió lại qua
    Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
    Thổi tan tâm điệu du dương trước
    Và tiễn người đi bến cát xa.
    Ở lại vườn Thanh có một mình
    Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
    Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
    Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
    Và một ngày kia tôi phải yêu
    Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
    Những cô áo đỏ sang nhà khác
    Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
    Từ đấy không mong không dám hẹn
    Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
    Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
    Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
    Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
    Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
    Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
    Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên
    Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
    Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
    Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
    Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
    Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
    Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
    “Cố quên đi nhé câm mà nín
    Đừng thở than bằng những giọt thơ”.
    Tôi run sợ viết lặng im nghe
    Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
    Như tiếng chân người len lén đến
    Song đời nào dám gặp ai về.
    Tuy thế tim tôi vẫn có người
    Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
    Biết đâu tôi một tâm hồn héo
    Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
    T.T.KH 20/11/1937
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  11. #11
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Bài thơ cuối cùng

    Anh ạ tháng ngày xa quá nhỉ
    Một mùa thu cũ một lần đau
    Ba năm vì biết anh còn nhớ
    Em đã câm lời có nói đâu.
    Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
    Càng khơi càng thấy luỵ từng khi
    Trách ai mang cánh Ty-gôn ấy
    Mà viết tình em được ích gì
    Chỉ có ba người được đọc riêng
    Bài thơ đan áo của chồng em
    Bài thơ đan áo nay rao bán
    Cho khắp người đời thóc mách xem.
    Là giết đời nhau đấy biết không
    Dưới làn hoa máu tiếng mưa rừng
    Giận anh tôi chép dòng dư lệ
    Là chút dư hương điệu cuối cùng.
    Từ nay anh hãy bán thơ anh
    Là để yêu tôi lấy một mình
    Những cánh hoa lòng ừ đã ghét
    Thì mang mà đổi lấy hư vinh .
    Ngang trái đời hoa đã úa rồi
    Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
    Buồng nghiêm thờ thẫn buồng eo hẹp
    Để nhớ người không muốn nhớ lời.
    Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
    Tôi run sợ viết bởi rồi đây
    Nếu không im được thời tôi chết
    Đêm hỡi làm sao tôi thế này.
    Năm lại qua năm cứ muốn yêu
    Mà phương trời gió chẳng làm quên
    Mà người vỡ lở duyên thầm kín
    Lại chính là anh , anh của em.
    Tôi biết làm sao được hỡi trời
    Giận an không nỡ nhớ không thôi
    Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
    Sợ quá đi anh có một người.

    TTKH. 30/10/1938
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  12. #12
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Bài này được viết vào ngày Fri Aug 26, 2005
    Sự công bố hiện tượng văn học T.T.KH là có thật lại bắt đầu tiếp:


    T.TKH tên khai sinh và thẻ căn cước là Trần Thị Chung (tên thường gọi là trần Thị Vân Chung)
    Sinh ngày 25/8/1919 ở Thị xã Thanh Hoá, trong một gia đình quan lại. Bố mẹ Vân Chung có năm người con, ba gái hai trai. Vân Chung có người anh trai cả, bà là trưởng nữ, kế đến hai em gái và một trai út. Năm 1934, qua mối mai, hai gia đình đã thuận gả chồng, cưới vợ. Chồng là luật sư Lê Ngọc Chấn, đậu cử nhân luật, tri huyện. Sau 1950, ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam. Trước năm 1963, vị cựu Tổng trưởng Quốc phòng (MN) bất đồng chính kiến, ông Lê Ngọc Chấn bị đưa đi an trí ở Côn Đảo ba năm, đến năm 1964 mới được trả tự do , sau khi chế độ đệ nhất cộng hoà Ngô Đình Diệm sụp đổ. Ông cũng từng giữ chức đại sứ Việt Nam ở Anh Quốc. Ông bà Lê Ngọc Chấn có bốn con : hai trai và hai gái.

    Bà Lê Ngọc Chấn, nhũ danh Trần Thị Vân Chung (có thể gọi là T.T.KH hậu chiến) dưới bút danh Vân Nương là chính. Bà còn ký các bút hiệu: Lê Đông Phương, Tam Nương. Bà tham gia trong nhóm thơ Quỳnh Dao.

    Trước 1975 bà viết bút ký, thơ đăng trên nhật báo Ngôn luận (SG)
    Năm 1986, ông Lê Ngọc Chấn qua đời ở Sài Gòn. Sau đó bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Từ đó, bà đăng thơ, bút ký tên các tập chí Pháp Duyên (Mỹ), Pháp Ẩm (Nally), Làng Văn (Canada), Hiện Diện (Toulouse, Pháp), Văn Hoá (Paris, Pháp) vv…

    Hiện bà sống ở Dordogne, miền Đông Nam nước Pháp.
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  13. #13
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Truyện ngắn
    "Hoa ti gôn" của nhà văn Thanh Châu
    đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy
    1625, 25/10/2005

    “… Hoa leo ti gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…” KHÁI HƯNG (Gánh hàng hoa)


    Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn. Đó là thói quen của họa sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa ti gôn nở nhiều nhất, trong nhà họa sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư Lê là đúng: Hoa ti gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào. Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.

    *
    Một buổi trưa – hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một họa sĩ nghèo mới ở trường ra – một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh vẽ. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.

    Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe, nghễnh cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.

    Nhưng từ hôm đó, hôm nào họa sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.

    Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.

    Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…

    Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Họa sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã họa sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.

    Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự.

    Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:

    - Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?

    Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:

    - Ông nói gì… tôi không hiểu.

    - Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…

    Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:

    - Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?

    Nàng nói tiếp:

    - Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…

    Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ họa sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.

    Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:

    - Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?

    Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:

    - Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.

    Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.

    Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.

    Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”

    Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.

    Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.

    *

    Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.

    Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt…, hay vì sầu muộn…

    Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa ti gôn nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.

    Thanh Châu
    VĂN HOÁ - NGHỆ THUẬT
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  14. #14
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Đến với bài thơ hay: "Tống biệt hành" của Thâm Tâm

    Đưa người ta không đưa qua sông
    Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
    Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

    Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
    Một giã gia đình, một dửng dưng...

    Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
    Chí lớn chưa về bàn tay không,
    Thì không bao giờ nói trở lại!
    Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

    Ta biết người buồn chiều hôm trước
    Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
    Một chị, hai chị cũng như sen
    Khuyên nốt em trai dòng lệ sót (*).

    Ta biết người buồn sáng hôm nay:
    Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
    Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
    Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

    Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
    Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
    Chị thà coi như là hạt bụi,
    Em thà coi như hơi rượu say.

    Mây thu đầu núi, gió lên trăng (**)
    Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
    Ly khách ven trời nghe muốn khóc,
    Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm (***).

    (1941)
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  15. #15

    Mặc định

    Đây là bài thứ tư: (Tác giả không gửi cho tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy mà gửi cho tờ báo PHỤ NỮ THỜI ĐÀM)

    BÀI THƠ ĐAN ÁO ( ĐAN ÁO CHO CHỒNG )

    Chị ơi, nếu chị đã yêu
    Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
    Đã xa hẳn quãng đời hương
    Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
    Hay chăng chị mỗi chiều đông
    Đáng thương những kẻ có chồng như em
    Vẫn còn giá lạnh trong tim
    Đan đi đan lại áo len cho chồng
    Con chim ai nhốt trong lồng
    Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
    Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
    Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
    Tháng ngày miễn cưỡng em đan
    Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
    Như con chim nhốt trong lồng
    Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
    Ngoài trời hoa nắng xôn xao
    Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
    Ai đem lễ giáo giam em
    Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
    Lòng em khổ lắm chị ơi
    Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
    Quang cảnh lạ, tháng năm dài
    Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
    - TTKH -
    Last edited by phuhoa; 18-08-2010 at 11:38 PM.

  16. #16

    Mặc định

    Một số bài thơ liên quan đến nghi án này của những tác giả có liên quan:

    MÀU MÁU TIGÔN

    Người ta trả lại cánh hoa tàn
    Thôi nhé tình duyên cũng dở dang
    Màu máu Tigôn đà biến sắc
    Tim người yêu cũ phủ màu tang.
    K ... hỡi, người yêu của tôi ơi
    Nào ngờ em giết chết một đời
    Suối mồ đau khổ, anh ghi nhớ
    Hình ảnh em hoài, mãi thế thôi.
    Quên được làm sao thuở ban đầu
    Một cánh Tigôn dạ khắc sâu
    Một cánh hoa xua màu hy vọng
    Nay còn dư ảnh trái tim đau
    Anh biết làm sao được hở trời?
    Dứt tình bao nỗi nhớ không nguôi
    Thôi em hãy giữ màu hoa úa
    Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời.
    - Thâm Tâm -

    -----------------------------
    DANG DỠ

    -Thơ Thâm Tâm gởi tặng T.T.Kh-

    Khi biết lòng anh như đã chết
    Mây thôi hồng, và lá cũng thôi xanh
    Màu hoa tươi cũng héo ở trên cành
    Và vũ trụ thảy một màu đen tối

    Anh cố giữ lòng anh không bối rối
    Để mơ màng tưởng nhớ phút giây xưa
    Em cùng anh sánh gót dưới bóng dừa
    Một đêm trăng sáng trên đường lá đổ

    Em nói những gì? Anh còn nhớ rõ
    Nhưng làm sao? Anh hiểu tại làm sao?
    Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào
    Tình đã chết, có mong gì sống lại!

    Anh không trách chi em điều ngang trái
    Anh không buồn số kiếp quá mong manh
    Còn gì đâu khi bướm muốn xa cành,
    Anh cứ tiếc cái gì xưa đã chết

    Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
    Anh càng buồn, càng muốn kết thành thơ
    Mộng đang xanh, mộng hoá bơ phờ
    Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn

    Và thành chúc đời em luôn tươi sáng
    Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh
    Như hương trinh bát ngát ý dịu lành
    Hòa nhạc mới triều dâng tơ hạnh phúc

    Cuộc ly biệt ngờ đâu vừa đúng lúc
    Lòng bâng khuâng, bối rối trước khúc quanh
    Đi không đành, mà ở cũng không đành
    Muôn chim Việt hãy về thành Nam cũ

    Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá
    Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi
    Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi
    Niềm uất hận của một thời lạc lội

    Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối
    Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền
    Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên
    Nàng kiều nữ chốn lầu hoa thầm kín

    Trong khi ấy, thanh niên không bịn rịn
    Giã gia đình, trường học để ra đi
    Họa xâm lăng đe dọa ở biên thuỳ
    Kèn gọi lính giục lòng trai cứu quốc

    Thôi em nhé! Từ đây anh cất bước
    Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui
    Đừng buồn thương, nhớ tiếc hoặc ngậm ngùi
    Muôn việc thảy đều do nơi số kiếp
    -----------
    TRẢ LỜI NGƯỜI YÊU (hay GỬI TTKH hay CÁC ANH)

    Các anh hãy chuốc thật say,
    Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im!
    Giờ hình như quá nửa đêm,
    Lòng đau đau lại cái tin cuối mùa.
    Hơi đàn buồn tựa trời mưa,
    Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi!
    Giờ hình như đã tối rồi,
    Bánh xem đã nghiến, đã rời rã đi!...

    Hồn tôi lờ mờ sương khuya,
    Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời.
    Vâng, tôi vẫn biết có người
    Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng,
    Để hôm sau khóc trong lòng.
    Vâng, tôi vẫn biết cánh đồng thời gian,
    Hôm qua rụng hết lá vàng,
    Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
    Tiếng xe trong vết bụi hồng,
    Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
    Tiếng xe trong xác pháo xưa,
    Nàng đi có mấy bài thơ trở về.
    Tiếng xe mở lối vu quy,
    Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời.
    Miệng chồng Khánh gắn trên môi,
    Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
    Đàn xưa từ chia đường tơ,
    Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
    Kéo dài một chiếc áo lam,
    Tơ càng đứt mối, nàng càng kéo giay.

    Nàng còn gỡ mãi trên tay,
    Thì tơ duyên mới đã thay hẳn mầu.
    Chung hai thứ tóc đôi đầu,
    Bao giờ đan nổi những câu ân tình.
    Khánh ơi, còn hỏi gì anh?
    Lá rơi đã hết màu xanh màu vàng.
    Chỉ kêu những tiếng thu tàn,
    Tình ta đã chết anh càng muốn xa.
    Chiều tan, chiều tắt, chiều tà,
    Ngày mai, ngày mốt vẫn là ngày nay.
    Em quên mất lối chim bay,
    Và em sẽ chán trông mây trông mờ.
    Đoàn viên từng phút từng giờ,
    Sóng yên lặng thế em chờ gì hơn?
    Từng năm từng đứa con son,
    Mím môi vá kín vết thương lại lành.
    Khánh đi còn hỏi gì anh,
    Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên.
    Em về đan nốt tơ duyên,
    Vào tà áo mới, đừng tìm mối xưa.
    Bao nhiêu hạt lệ còn thừa,
    Dành ngày sau khóc những giờ vị vong.
    Bao nhiêu những cánh hoa lòng,
    Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng hồn cha.
    Nhắc làm chi chuyện đôi ta,
    Bản năng anh đã phong ba dập vùi.

    Hãy vui lên các anh ơi!
    Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về.
    Tâm hồn lạnh nhạt đê mê,
    Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều.
    Giờ hình như gió thổi nhiều,
    Những loài hoa máu đã gieo nốt đời.
    Tâm hồn nghệ sĩ nổi trôi,
    Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh.
    Sái chi những truyện tâm tình,
    Lòng đau đau chứa trong bình rượu cay.

    - Thâm Tâm -
    Last edited by phuhoa; 18-08-2010 at 11:48 PM.

  17. #17

    Mặc định

    Bài thơ Nguyễn Bính đã viết cho T.T.Kh.

    DÒNG DƯ LỆ
    Nguyễn Bính



    Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
    Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên
    TTKH

    Gió đưa xác lá về đường
    Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời
    Sầu thương nhuộm lấy hồn tôi,
    Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm.

    Một ngàn năm, một vạn năm,
    Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ.
    Tặng người gọi một dòng thơ
    Hay là dòng nước mắt thừa đêm qua?

    Đường về Thanh Hóa bao xa
    Bao giờ ra nhớ rủ ta với, chàng
    Bảo rằng quan chẳng cho sang
    Ai đời quan cấm đò ngang bao giờ!

    Vườn Thanh qua đấy năm xưa
    Trọ nhờ đêm ấy trời mưa tối trời
    Quanh lò sưởi ấm, bên tôi
    Bên người lão bộc đương ngồi quay tơ

    Tuổi nàng năm ấy còn thơ
    Còn bao hứa hẹn đợi chờ một mai.
    (Rồi đây bao gió bụi đời,
    Tôi quên sao được con người vườn Thanh).

    Lạnh lùng canh lại sang canh,
    Lòng tôi thao thức với tình bâng quơ.
    Bởi sinh lạc kiếp giang hồ,
    Dám đâu toan tính xe tơ giữa đường.

    Thu sang rồi lại thu sang
    Cúc bao lần nở, lá vàng bao rơi?
    Bao nhiêu vật đổi sao dời?
    Đường bao dặm thẳm! Hỡi người bốn phương!

    Trọ bao nhiêu quán bên đường,
    Nhưng không lần nữa qua vườn Thanh xưa.
    Cô nàng năm ấy quay tơ
    (Tôi quên sao được!) Hẳn chưa lấy chồng.

    Một hôm lòng lại nhủ lòng:
    "Nơi đây giáp với cánh đồng vườn Thanh"
    Rồi tôi len lén một mình
    Ra đi với một tấm tình hây hây.

    Đường mòn tràn ngập bông may
    Gió heo (mây) báo trước một ngày thu sang.
    Dừng chân trước cửa nhà nàng.
    Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau.

    Tìm nàng chẳng thấy nàng đâu.
    Lá rơi lả tả bên lầu như mưa...
    Chợt người lão bộc năm xưa
    Từ đâu mang mảnh guồng tơ lại nhà

    Một hai xin phép ông già
    Trọ nhờ đêm ấy, nữa là hai đêm.
    Ông già nể khách người quen.
    Ngậm ngùi kể lại một "thiên hận tình."

    Rồi ông kết: (giọng bất bình)
    "Trời cay nghiệp thế cho đành! Thưa ông,
    Cô tôi nhạt cả môi hồng,
    Cô tôi chết cả tấm lòng ngây thơ.

    Đâu còn sống lại trong mơ,
    Đâu còn sống lại bên bờ sông yêu?
    Buồng the sầu sớm thương chiều.
    Khóc thầm biết có bao nhiêu lệ rồi.

    Tơ duyên đến thế là thôi!
    Thế là uổng cả một đời tài hoa.
    Đêm đêm bên cạnh chồng già
    Và bên cạnh bóng người xa hiện về..."

    Rùng mình tôi lại gạt đi:

    "Già ơi! Thảm lắm! Kể chi dài dòng?
    Cháu từ mắc số long đong,
    Yêu đương chìm tận đáy lòng đã lâu.
    Đau thương qua mấy nhịp cầu,
    Cạn dòng nước mắt còn đâu khóc người!

    "Dối già một chút mà thôi,
    Nghe lời già kể cháu mười đêm luôn
    Chợt thương, chợt khóc, chợt buồn
    Cháu như một kẻ mất hồn, già ơi!"

    Truyện xưa hồ lãng quên rồi,
    Bỗng đâu xem được thơ Người Vườn Thanh
    Bao nhiêu oan khổ vì tình,
    Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa?

    Phải chăng? Mình có nên ngờ?
    Rằng người năm ngoái bây giờ là đây?

  18. #18
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Mình mới đọc 1 trang web nói về TTKh có thể là tác giả trong tưởng tượng của Thâm Tâm ,nhưng mình bấm nhầm nên mất trang web đó ,bi giờ tìm lại mãi mà chưa ra .
    Tác giả của bài đó là Thiên Việt green3
    Thiên Việt kể rằng : sau bài "Hai sắc hoa Tigon" thì Thâm Tâm sáng tác "Bài thơ thứ nhất" để kể lại mối tình ,bà ấy biết được ,đã không bằng lòng (vì sợ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình) nên Thâm Tâm phải làm tiếp bài thơ thứ 3 với tựa đề là "Bài thơ cuối cùng"
    (Tức là cả 3 bài thơ đều là của Thâm Tâm lấy bút danh TTKh)
    Last edited by thienhung_wu; 19-08-2010 at 08:42 AM.
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  19. #19

    Mặc định

    Câu chuyện về Thâm Tâm có khá nhiều người kể. Chẳng hạn Nguyễn Vỹ, một người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã viết một bài dài trên Tạp chí Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường về nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà mình uống rượu. Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện tình của mình. Thâm Tâm cho biết, người yêu của mình là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh. Nàng đã có lần gợi ý Thâm Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp chưa có gì. Bẵng đi một thời gian, một hôm chàng nhận được phong thư báo tin nàng sắp lấy chồng. Đã bị người yêu bỏ đi lấy chồng, lại còn bị đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. Vì thế đã phải thức một đêm để làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, ký tên T.T.Kh. Thâm Tâm làm như vậy với dụng ý để các bạn của mình tin là của Khánh làm, cho khỏi mang tiếng bị tình phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới tòa soạn. Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền viết thư phản đối Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ trong bức thư này để viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn ký là T.T.Kh...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. ***Những bài thơ vô đối tự sáng tác***
    By cuonphong in forum Góc sáng tác
    Trả lời: 24
    Bài mới gởi: 28-04-2012, 06:57 PM
  2. HOÀI CẢM ( BÀI THƠ DUY NHẤT )
    By nguyenvutungson78 in forum Văn học - Hội họa - Thi Ca
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 26-11-2011, 05:44 AM
  3. ***Những bài thơ bất diệt***
    By cuonphong in forum Văn học - Hội họa - Thi Ca
    Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 17-01-2011, 12:00 PM
  4. MỚi sưu tầm được bài hay chia sẻ cùng các bạn !!!
    By fasttofast in forum Lớp học, Câu lạc bộ, trao đổi kĩ năng, kinh nghiệm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 12-08-2010, 09:21 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •