Chào tuyettrang. Ngăn chứa trong hộp thư của em đầy quá nên không gửi tin được, em xóa bớt đì thì sẽ lại gửi tin được bình thường.
con gái tôi bị xà theo, nó mới 5 tuổi, có cách nào trục hết ra không? xà thì miễn nhiễm với mọi loại bùa chú :(
Sao thế nhỉ??????
Last edited by nhutdo; 28-06-2016 at 05:56 AM.
Sao thế nhỉ???????
Last edited by nhutdo; 28-06-2016 at 05:56 AM.
Mong bác giúp dùm cháu.
Cháu bị người âm theo trêu , phá .
Chuyện rất dài, cháu không tiện nói trên này.
Người âm này rất mạnh , cái gì cũng không sợ (tỏi, vòng đeo tay xin trên chùa, bạc nguyên chất), giờ cháu cũng không biết làm sao nữa , mong bác giúp dùm cháu.
Cháu sinh năm 1991 , ở Gia Lai
Mail cháu : huynhchicong91@gmail.com
Mong chú giúp cháu.
Cháu bị người âm theo trêu , phá.
Mail cháu : huynhchicong91@gmail.com
Kinh QUANG MINH TU ĐỨC trọn bộ
TIÊU ĐÀN
Muôn sự ở đời có gốc mới có ngọn: gốc vững bền ngọn mới tốt tươi, nếu gốc hư nát ngọn phải héo úa.
Vậy gốc của mọi sự trong Thế gian này chính là:
TU - ĐỨC
Bộ kinh “Tu - Đức” này chia ra làm bốn phẩm, nghĩa kinh rõ ràng, cảm - động, đàn - bà con trẻ cũng có thể hiểu được: Có hiểu mới có cảm, có cảm mới biết sám hối.
Tụng kinh: Miệng đọc, tâm suy, theo nhời kinh mà rèn tính sửa lòng, nếu duy trì được thiên tâm Giời, Phật, Tiên, Thánh nói giáng ứng, có giảng ứng cầu đảo mới linh - nghiệm.
Thực là một quyển kinh thiết thực với nhân - tâm thế đạo, cần dùng cho mọi hạng người trong xã hội.
Thiện nam, tín nữ nên phát hằng tâm in kinh mà truyền tặng cho nhiều công đức thực vô - biên, vô - lượng…
Ước mơ một ngày kia khắp mọi gia - đình đều có một quyển kinh Tu - Đức làm chuẩn - đích; ngõ hầu ai ai cũng biết hối - ngộ cải quá tránh dữ theo lành
Lấy Giời, Phật làm Cha Mẹ
Lấy Vũ - Trụ làm Gia - đình
Lấy nhân - loại làm anh em…
Bể khổ biến thành Cam - lộ.
Huyết - hồ hoá lại Ao - sen…
Thế - giới trở lên Cực - Lạc.
Trì tụng Quang - Minh Tu - Đức cảm lòng Đức Thượng - Đế.
Ngày mồng 8 tháng 4 năm Nhâm Thân, giờ tuất, đức Thích - Ca Như - Lai Phật - Tổ có giá ngự. Thanh - Hương đàn giáng bút thuyết pháp khuyên người Thiện - nam, Tín - nữ mười phương Thế giới nên nhất tâm trì - tụng Quang - Minh Tu - Đức và sám - nguyện chân kinh, vậy xin kính trích một đoạn như sau:
Nghi tuân trì kinh Tu - Đức - Nghị tuân Sám - nguyện chân - kinh Nhật trì tụng đắc nhất biến - Nhất biến phả thấu Hoàng - Thiên - Khâm sai ty Thần giám sát - Giám sát nhất nhật mỗ viên - Hà nhân liên trì tụng niệm - Đắc thập đắc bách biến thiên - Độ thoát cửu huyền thất Tổ - Độ thoát ly xuất cửu tuyền - Trì kinh liên liên vạn biến - Tức đắc thành Phật, thành Tiên, vân vân…(Nếu muốn biết rõ bài thuyết pháp, xin xem ở Quang - Minh Tu - Đức Sám nguyện Chân - Kinh Thích - Ca Mâu – Ni - Phật.)
Lược định ra văn - ca bằng tiếng Quốc Âm như sau này: Tuân - trì Tu - Đức Quang - Minh - Tuân trì Sám - nguyện ứng linh vô cùng. Trì một biến thấu muôn trùng - Cảm lòng Thượng - Đế ân - hồng sắc ban.
Thiên - Thần giám sát rõ ràng - Mỗi ngày một vị so vang kỳ điện.
Ai mà tụng niềm cần chuyên - Trì kinh mười biến vô biên phúc lành. Tụng - trì trăm biến chân kinh - Cửu huyền thất tổ siêu sinh Thiên - đàng. Ly địa ngục xuất Cửu Toàn -Quang - Minh trì tụng muôn ngàn phúc hay. Liền liền chẳng đoạn khi nay - Trì kinh muôn biến đắc nay Chân chuyền. Tức được thành Phật Thánh Tiên…vân vân
Chú ý: Lời dặn rất cần! tối quan trọng!
Phàm là kinh" Đức Thiên” chư tôn đã nhận được nên coi là của rất báu! Vàng Ngọc khôn so! Nếu Phật tâm tụng được thì càng hay. Không cũng phải xem đọc cho kỹ từ đầu chí cuối, suy xét nghĩa lý. Trong kinh sau lại ngẫm nghĩ thần tâm mình ra sao? So sánh cho kỹ, luống cố tu gắng sửa uốn nắn, rũa, mài, sao cho Thân Tâm khiết tịnh. Đức Hạnh hoàn hảo. chớ thấy dài mà chán, thấy khó mà nản, xem tụng xong lại cung kính để lên án tiền, chớ đừng bạ đâu vứt đấy, khinh nhờn, ngạo mạn ắt có tội to nghĩ tối cần trọng!
Thiện - nam tín nữ nhận được kinh nên thể lòng tin bi ra Tâm Thiện, đức xuất tài xuất lực ấn tống lưu truyền, truyền tăng khắp miền, bốn phương thiên hạ, Tiên hương quế xạ sực nức ngạt - ngào, truyền phàm tục hóa thanh tao, ánh hồng quang thu hắc khí, Khiến ai nấy sám - hối Tu trì kiên tâm quyết trí thiên đạo chí công huyền huyền diêu bi bách phúc dõ lâm, vạn sự thắng ý, từ tốn vinh quy, hồng nhật sơ thần, hy hy trùng trùng, khánh cát hưng long - vô biên âm đức vô lượng âm công, một lòng chí thiết, một dạ ân cần, một vạn cõi Đức, Vun đắp nền nhân.
Bộ kinh Quang - Minh Tu - Đức quý báu lớn hồng vô cùng thấy kinh nào khuyên dạy kỹ, khuyên cặn kẽ rõ ràng cảm động như Quang - Minh Tu - Đức chân kinh. Thực là bộ kinh quý báu Tôn trọng vô cùng! Thiên nam, tín nữ nhận học kinh nên hết lòng tín ngưỡng trì tụng Quang - Minh Tu - Đức chân kinh là Tiên Đan, Phật Dược rất thiêng liêng không có của báu nào sánh kịp. Trì tụng biết rõ nghĩa bộ mới có lòng cảm, có cần mới hết lòng Sám - hối hâm mộ, hiểu cầu tất thông, hữu cảm tác ứng, nhất niệm chí thành cảm thông Tam Giới để có nhiều thiện nam, tín nữ trì tụng Quang - Minh Tu - Đức đều thấy linh ứng hiển hách lạ thường Mới được như lòng
Quang - Minh Tu - Đức chân kinh
Tiên - Đan, Phật Dược Thiên Đình Giời ban
Nuốt vào khoan khoái nhẹ nhàng
Tấm lòng trong sạch tiêu tan nghiệp trần.
Tinh Anh sáng suốt muôn phần
Thoát vòng trần tục phi - đằng Tiên cung
Tiên - Đan Phật Dược tối linh
Cứu người thoát khỏi Tử -sinh Luân -Hồi
KINH TỤNG
THẮP NHANG CHUYỀN CHÚ
Đạo do tâm học, tâm dả hương truyền, hương nhiệt ngọc lô, tâm tồn đế - tiền, chân - linh hạ hệ, tiên bội lâm hiên, kim thần quan cáo, kính ngự Tam Thiên, sở khải sở nguyện, hàm tứ - như ngôn.
TỊNH -TÂM THẦN – CHÚ
Thái thượng thái tinh, ứng biến vô đình, khu tà phọc mỵ, bảo mệnh hộ thân, trí tuệ Minh - Tĩnh, tâm thần an ninh, tâm hồn vĩnh cửu, phách võ táng khuynh. Cấp như luật lệnh.
TỊNH - KHẨU - THẦN - CHÚ
Đan chu khẩu thần, thổ uế trừ phân, thiệt thần chánh luân, thông mệnh dưỡng thần, la thiên sử thần, khước tà vệ chân, hầu Thần hổ phún, thân khí dẫn tân, tâm thần đan nguyên, linh ngã thông chân, tư thần luyện dịch, chinh khí trường tồn. Cấp như luật lệnh.
TỊNH THÂN THẦN CHÚ
Linh Bảo Thiên Tôn, an - úy thân hình, đệ tử hồn - phách, ngũ tạng huyền minh, thanh long bạch hổ, đội trượng phân vân, chu - tước huyền vũ, thị vệ ngã chân. Cấp như luật lệnh.
AN THỔ ĐỊA THẦN CHÚ
Nguyên - thủy an chấn, phê cáo vạn linh, nhạc độc chân quan. Thổ địa kỳ linh, tả xả hữu tắc, bất đắc vọng kinh, hồi hương chính đạo, nội ngoại túc thanh, các an phương vị, bị thủ đế đình, thái thượng hữu mệnh, siu hộ tà tinh, hộ pháp thần vương, bảo vệ tụng kinh, quy y đại đạo, nguyên hanh lợi chinh, Cấp như luật lệnh
TỊNH THIÊN ĐỊA THẦN CHÚ
Thiên địa tự nhiên, uế khí phân tán, động chung huyền như, hoảng lẵng, thái nguyên, bát phương uy thần, sử ngã tự nhiên, linh bảo phù mệnh, phổ cáo cửu thiên, kiền la đáp na, động cương thái huyền, trảm yêu phọc tà, sát quỷ vạn niên, chung sơn thần chú. Nguyên thủy ngọc văn, ngã tụng nhất biến, khước quỷ duyên niên, án hành ngũ nhạc, bát hải chi văn, ma vương thúc thủ, thị vệ ngã hiên, hung uế tiêu tán, đạo khí trường tồn, Cấp như luật lệnh.
TRÌ KINH ÍCH LỢI SỰ
Trì kinh Tu - Đức nhiệm màu
Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm
Trì kinh công đức muôn phần
Bi - ai - khổ - não nợ nần rõ thanh
Kiên tâm dốc một lòng thành
Trì kinh Tu - Đức lòng lành Giời ban
Bệnh - tật, tai - chướng, gian - nan
Trì kinh Tu - Đức tiêu tan tức thì
Một lòng mộ đạo từ - bi
Trì kinh Tu Đức Phật trì độ cho
Một nhà cơm áo ấm no
Bình an khánh cát thiên thu thọ tràng
Con hiền cháu thảo vẻ vang
Trì kinh Tu - Đức muôn ngàn phúc hay
Thắp hương trì tụng đêm ngày
Trì kinh Tu - Đức phúc nay hằng hà
Trì kinh độ được thân ta
Độ được cha mẹ ông bà siêu thăng
QUANG - MINH TU - ĐỨC KINH
KÍNH THƯỢNG ĐẾ SÁM HỐI TẬP PHÚC
PHẨM ĐỆ NHẤT
(Phần này phải quỳ gối, chắp tay, cúi mặt cho đến hết)
Đức Thượng - Đế đại - từ đại - bi, thương sót loài người xa đắm trong vòng bể khổ, đã giáng sinh vạn ức kiếp xả thân cứu chúng - sinh công - đức hằng hà sao xiết kể!
Vì chúng - sinh không biết ăn - năn sám - hối phạm bao điều tội ác khó dung: Kẻ bất trung, bất tín, bất hiếu, bất nghì, tội ác xiết ghi! Bể thảm thành sầu, bi - ai, phiền não loài người gây ác - nhân chịu ác quả, lại oan Giời tránh đất tội đà thêm nặng xiết bao!
Đức Thượng - Đế đại thần thông, đại trí tuệ, dựng giời đất muôn vật, chuyển chư Thần, chư Thánh, chư Tiên, sinh nhật nguyệt tinh tú, sáng soi Thế Giới.
Đức Thượng - Đế đại Quang - Minh, phóng thần quang soi khắp chúng - sinh, xét thiện ác công bình chính trực.
Đức Thượng - Đế hữu đại hiếu sinh chi đức, thương chúng - sinh như thể đàn con, vì loài người bạo ác hung tàn, gây huyết chiến thần sầu quỷ khóc, tương tàn tương sát, tranh lợi, tranh danh trái hẳn đức hiếu sinh Thượng - Đế, thoát sao khỏi bể khổ sông mê luân hồi sinh tử phép Giời báo ứng chỉn ghê!
Đức Thượng - Đế quyền phép vô cùng, vô cực, vô lượng, vô biên, đại - từ bi, đại thần thông, đại trí tuệ, đại Quang - Minh, công đức kẻ hằng hà sa số!...
Chúng - sinh đội nhuần ơn khôn xiết kể nên đem hết lòng tôn kính đức Hoàng - Thiên, mỗi năm ngày mồng 9 tháng giêng là ngày Đản nhật, ngoảnh phương đông thành kính khẩn cầu dạ từ bi hỉ xả tâm tính làm đầu lại trai giới, phóng sinh, làm phúc làm lành.
Thiên - tường bách phúc biến trăm
Mai sau lại được siêu thăng Thiên Đường
Chí tâm đính lễ: Hiệu Thiên Chí Tôn Ngọc Hoàng huyền cung Cao Thượng Đế (Đọc ba lần lễ)
SÁM HỐI VĂN
Đức - Thượng - Đế là cha đại - từ đại - bi đã hết lòng yêu thương cứu vớt chúng con...thoát khỏi bể khổ sông mê...cho con tới bến....tới bờ...tới nơi Cực lạc là nước Thiên đường, hưởng phước đời đời. Đức - Thượng - Đế là cha đại - từ đại - bi đã hết lòng yêu sót cứu vớt chúng con... chúng con... u ám tối tăm... muôn tội, ngàn lỗi lòng tự hối lòng tấc dạ phân vân;
Nào tội bất hiếu song thân. Bất trung, bất tín, bất nhân, bất nghì. Sát sinh tội ác xiết ghi! Gian dâm nói dối tội thì nặng sao! Lấn vườn tranh ruộng tranh ao Khinh - nhờn Tam bảo xiết bao tội tình! Chê bai tội ác muôn phần. Sui nguyên đục bị lìa thân thích người. Chửi mưa cán đất trách Giời. Xa hoa kiêu ngạo tội thời khôn dung. Lừa thầy tội ác muôn chùng
Phép Giời báo ứng không dung kẻ tà
Biết bao tội ác kể ra!...
Thân làm mình chịu há đà kêu oan?
Phạm bao tội ác trần - hoàn
Thân làm mình chịu kêu oan được nào.
Tưởng rằng không thấu Giời cao
Mắt Thần soi xét ty - hào phân minh
Con xin phát nguyện đinh minh
Quyết lòng sám hối trời xanh độ trì
Bao nhiêu tội ác một khi
Quyết lòng sám hối tội thì tiêu tan
Mai sau đến nước thiên đàng
Là nước Cực - Lạc vẻ vang vô cùng!
Chí tâm đỉnh lễ: Hiệu thiên chí tôn Ngọc - Hoàng, huyền Cung Cao Thượng Đế. (ba lần, lễ ba lễ)
(Hết phẩm đệ nhất).
QUANG MINH TU ĐỨC KINH
TU ĐỨC HÀNH THIÊN SÁM HỐI TẬP PHÚC
PHẨM ĐỆ NHỊ
(Quỳ dâng ba nén nhang đọc bài này)
Hương thơm thấu đến Cửu - Chùng
Tấm lòng thành cảm muôn từng Giời xanh
Chúng con một dạ đinh - ninh
Trì kinh Tu - Đức hiển vinh đời đời ...
Một lòng mộ đạo Phật Giời
Đem hết tâm thời tôn kính Hoàng Thiên
Thần - thông pháp lực vô biên!
Tây Phương Phật - tổ ngự trên tòa vàng
Phóng ra muôn ức tường quang
Khắp hòa thiên hạ nhân - gian ơn nhờ
Ơn nhờ Đức - Phật độ cho
Độ cho đến bến, đến bờ khi nay
BÀI TỤNG THỨ NHẤT
Phép Phật vô biên vô lượng
Đạo Phật vô thượng độ khắp Thiện Nhân.
Cõi đời là bể trầm luân
Bi - ai - khổ - não muôn phần đắng cay!
Sót thương kẻ thế mê say
Xa vòng tội lỗi đọa nay Luân - Hồi
Sót thương kẻ thế tơi bời ...
Muốn cho ai nấy lòng thời ăn năn.
Đức Phật đại thiện đại nhân
Muốn cho ai nấy siêu thăng nước Người
Nước Người cảnh sắc tốt tươi...
Muôm hồng vạn tía tứ thời điều xuân
Bông sen thay sắc phàm thân
Muốn gì được nấy mặc ăn sẵn sàng,
Trên cây hoa ngọc nụ vàng
Gió đưa thoang thoảng mùi nhang ngạt ngào...
Rung cây thành tiếng sôn sao
Hóa ra âm nhạc xiết bao lạ lùng!
Lâu đài bát ngát chùng - chùng,
Ngọc vàng mã não lại cùng chân châu,
Như sành như sỏi khác đâu,
Phép Phật nhiệm màu biến hóa kỳ thay.
Phượng loan ríu rít đêm ngày,
Hòa ra Tiếng sác khi nay tiếng đàn...
Dưới ao sen đỏ sen vàng
Sen xanh, sen trắng rõ ràng chẳng sai,
Một lòng niệm Phật Như - Lai
Kiên tâm bền trí giám phai lòng vàng.
Tu sao trọn vẹn mọi đàng
Mai sau ắt được vẻ vang muôn phần!
Dốc lòng Tu - Đức tu nhân,
Tu tâm - tu tính mười phân vẹn mười.
Mai sau hưởng phước đời đời
Từ bi Phật độ sang thời Tây Phương
Ngự tòa Cửu phẩm sen vàng,
Hưởng phước thanh nhàn khoái lạc vui thay!
Chí tâm đính lễ: Ta Bà giáo chủ - vô lượng độ nhân Thích Ca Mâu - Ni Phật (Đọc ba lần, lễ ba lễ)
BÀI TỤNG THỨ HAI
Cõi đời bể khổ - Tai qua họa tới - Vui ít phiền nhiều - Vậy nên tu tâm - Tu tính Tu - Đức - Siêng năng hành thiện - Sao cho càng ngày -Tăng tiến thêm ra - là đạo mầu nhiệm - Cho người vượt qua - Thoát khỏi trầm hải - Lên đường hạnh phúc.
Đức năng thắng số - Thiện khả hồi thiên - Phúc lộc duyên niên - Đời đời vinh hiển. Điều thiện Quang - Minh - Điều ác u ám - Thiên Đình Địa ngục - Nào có xa đâu - Phép Giời thưởng phạt - Thực tuyệt nhiệm mầu. Ác bệnh ác tật - ác thần ác sát - Tam tai cửu hoạnh - Tu - Đức hành thiện - Đạo tuyệt mầu nhiệm - Có thể phá tan - Đạp đổ mọi điều - Hung ác độc dữ. Ma chướng báo chướng - Lại phiền não chướng - Cho người cay đắng - Khổ não trên trần - Dốc lòng tu nhân - Tu tính tu Đức - Sẽ được cắt đứt - Các giây ác chướng - Lên chốn Quang - Minh. Mọi nhời trong kinh - Chớ coi làm thường - Xem phải nên xét - Xét phải nên suy - Cho đức càng to - Cho thiện càng rộng. Tu Đức hành thiện - Cảm động Hoàng Thiên - Con cháu thảo hiền - Phúc lộc đề đa - Độ được thân ta - Độ được toàn gia - Khang ninh khánh - cát. Nước bốn bể còn vơi - Hạt lệ người nhiều nữa - Tai qua họa lại tới - Muôn thảm với ngàn sầu - Tu Đức đạo nhiệm màu - Cho người qua trần hải - Dốc lòng theo Tu - Đức - Thoát khổ não bi - ai.
BÀI TỤNG THỨ BA.
Làm tôi tận trung - Chính trực công bằng - Chẳng tham bổng lợi - Chẳng màng tu - án - Yêu nước thương dân - Liêm - chính từ nhân - Làm con tận hiếu - Báo đức sinh thành - Hiếu đầu vạn thiện - Dành dành chẳng sai - Vợ chồng hòa thuận - Cầm sắt duyên hài - Anh em yêu mến - Chớ có đơn sai - Bạn bè tín nghĩa - Gặp túc họa tai - Ra tay cứu giúp - Loài người hơn vật - Là đạo nhân luân - Khá nên tận tâm - Dốc lòng sửa nết. Chớ có oán Giời - Chớ nhờn Tam Bảo - Hủy báng chính đạo - Tội ác ngàn trùng. Ăn ở thủy chung - Chớ hề đen bạc - Chớ nên gian ác - Chớ có tham lam - Chớ hay nói càn - Chớ hề kiêu trá - Chớ nên giận dữ - Bỏ hẳn oán thù - Quảng đại từ - bi - Rèn lòng thanh tịnh. Rượu hay biến tính - Chớ có ham mê - Bài bạc thuốc sái - Hại người gớm ghê - Chớ có gần kề - Phải nên xa lánh. Xa hoa phung phá - Quen nết chơi bời - Hoang toàng phí của - Sớm không tu tỉnh - Họa thời theo sau. Dằn lòng nín nhịn - Giời giáng phúc lành - Nóng nảy hung bạo - Họa lớn khôn tránh. Diệt lòng dâm tà - Chớ ham sắc đẹp - Sửa nết thẳng ngay - Xa kẻ gian ác. Giới sát phóng sinh - Làm phúc làm lành - Bách phúc biến trăn - Thiên tường vân tập. Ăn năn sám hối - Thượng Đế ban ơn - Dốc lòng mộ Đạo - Vĩnh viễn giải thoát. Nước chảy đá mòn - Một dạ sắt son - Chớ hề nản trí - Sắt mài nên kim - Ở đời muôn sự - Có trí thì nên. Suy xét kỹ càng - Tỉnh giấc mơ màng - Ghi để tâm can - Thân được vẻ vang - Rực rỡ tông môn - Truyền tử di tôn - Đời đời vinh hiển - Nên Thánh nên Hiền - Nên Phật nên Tiên - Công đức vô biên - Danh ghi thanh sử - Tiếng để vạn niên - Mai sau trăm tuổi - Đến cõi Tây Thiên - Ngự tòa Kim Liên - Tới nước Thiên Đàng - Hưởng phước thanh nhàn - Vô cùng khoái lạc.
BÀI TỤNG THỨ TƯ
Muôn dân sĩ tử bốn phương
Trì kinh Tu - Đức mở đường từ - nhân
Danh thơm thơm nức xa gần
Vun giống cây Đức muôn phần hiển - vinh
Lòng thành động đến Đế - Đình
Ban cho Phúc - Lộc Tràng - Sinh đời đời
Luyện tu uốn nắn rũa mài
Ngũ luân gìn giữ đạo người phân - minh
Gái thời một dạ tiết - trinh
Trai thời trung - hiếu đinh ninh một lòng
Làm con giả nghĩa đền công,
Báo ơn công đức song thân sinh thành
Hiếu đầu vạn thiện dành dành,
Gốc vun bền vững, ngọn nhành tốt tươi
Ở sao tận đạo hôm mai,
Phụng thờ cha mẹ dám phai lòng vàng
Ân hồng Ngọc - chỉ sắc - ban
Vẻ vang hiếu tử rỡ ràng tông môn
Hiếu - tâm cảm động Chí - tôn
Châu phê quyển Ngọc bút Son Đế đình
Trần gian muôn kiếp lưu danh.
Hiếu năng cảm động lòng thành Hoàng -Thiên
Dạy con đức hạnh thảo hiền.
Muôn ngàn phúc quý duyên niên thọ - tràng,
Một nhà vinh hiển vẻ vang.
Chân châu vàng ngọc quan sang nào bì?
Mở lòng quảng đại - từ bi
Thấy kẻ nghèo khổ chớ thì bỏ qua
Thấy người tàng - tật sót xa.
Thấy người hoạn - nạn thì ta giúp cùng,
Thấy người lo sợ hãi hùng,
Dùng lời khuyên bảo thủy - chung ngọt - ngào
Lại người u ám biết bao
Mê man xa đắm ta sao an lòng
Khuyên người mau tỉnh giấc nồng
Khuyên người hối - ngộ một lòng ăn năn.
Lại người quan - tụng cạnh tranh
Tranh ngôi, tranh thứ, tranh ăn, tranh phần!
Là kẻ sa bể trầm luân
Hết lòng cứu vớt khuyên ngăn giải hòa,
Cứu người Giời lại giúp ta
Âm công âm đức thực là to thay!
Chớ nên phản bạn lừa thầy,
Hủy báng chính đạo tội nay ngàn chùng
Gian - dâm, bạo - ác, độc - hung
Sát sinh, thâu đạo si - sân tham - tàn
Thấy vàng lòng chớ tưởng càn
Thấy sắc lòng chớ mơ - màng nguyệt - hoa
Theo đường chân chính mới là
Diệt lòng quỷ mỵ, ma - tà mới hay
Tu tâm tu tính khi nay
Tu nhân, Tu - Đức Giời nay độ trì
Nghiệp - chướng báo - chướng một khi
Lại phiền - não - chướng tức thì tiêu - tan
Liệt danh Tiên Tịch Tiên - Ban
Siêu thăng Cực -Lạc vẻ vang muôn phần.
Chí tâm đính lễ: Ta Bà giáo chủ - vô - lượng độ nhân - Thích -ca Mầu - Ni Phật (Ba lần lễ ba lần)
Khấu đầu sám - hối đức Hoàng - Thiên, chư Phật, chư Thánh, chư Tiên, chư Thần.
Chí tâm sám lễ: Hoàng Thiên, Hậu - Thổ, Tiên, Phật, Thánh, Thần A - Di Đà - Phật. (1 lễ )
Khấu đầu lạy tạ đức Hoàng - Thiên, chư Phật, chư Thánh, chư Thiên, chư Thần.
Chí tâm tạ lễ: Hoàng Thiên Hậu Thổ, Tiên, Phật, Thánh Thần A - Di Đà - Phật (1 lễ)
Khi đã tụng xong rồi thì đọc bài tạ ơn như sau:
Một tạ ơn trời đất che chở, Thánh thần cứu độ
Chí tâm đính lễ: Hoàng - Thiên - Hậu Thổ, Tiên, Phật, Thánh Thần, A- Di Đà - Phật. (1 lễ )
Hai tạ ơn Quốc Vương nhiệm trị, Sư trường tác thành.
Chí tâm đính lễ: Lịch triều Thánh Chúa lịch đại Tổ Sư A- Di Đà - Phật (1 lễ).
Ba tạ ơn tổ tiên sáng tạo cha mẹ sinh nuôi.
Chí tâm đính lễ: Tỵ tổ nhĩ ông phụ thiên mẫu địa A -Di- Đà - Phật.
Khấu đầu một lễ: Kim - quyết tả - tướng Quan - Thánh Đế Quân, Ngài dựng đạo thần con xin quy chính.
Khấu đầu hai lễ: Kim quyết tuyển tiên Phụ hịu Đế quân Ngài ban pháp bút con điều mộc ân.
Khấu đầu ba lễ: Ngọc - chân - Khánh cung - Văn xương Đế quân. Ngài đủ kim kinh con chừa cõi thái.
Tự Quy Y Thích nguyện cho chúng con thần sắc mới linh hồn là một kiếp vẹn tuyền.
Chí tâm đính lễ: Ta Bà Giáo - Chủ - vô lượng độ nhân Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lễ).
Tự Quy Y Nho nguyện cho chúng con trí tuệ cùng trí giác gồm hai hằng năm tịnh tiến.
Chí tâm đính lễ: Đại - thành - chí - thánh, Văn - tuyên vương hưng nho thịnh thế Thiên tôn (1 lễ).
Hết phẩm đệ nhị
QUANG - MINH TU - ĐỨC KINH
NIỆM PHẬT SÁM HỐI
PHẨM ĐỆ TAM
(Quỳ dâng ba nén nhang đọc bài này: )
Phức phức tiên - nhang cảm Thượng - Phang
Di Đà Phật Tổ giáng đàn Tràng
Từ bi lân mẫn quần sinh chúng
Giảm tội, ban ân PHÚC QUẢ HOÀN
Trì kinh Tu Đức nhiệm - màu
Muôn ngàn Phúc quý sở cầu tòng tâm.
Thấu cửu Tằng, đạt thượng chân,
Chư Phật Bồ - Tát sâm - sâm giá đàn,
Nguyện xin bền vững gan vàng,
Ăn năn Sám - hối dốc đàng Quy y.
Một lòng mộ đạo từ - bi
Lạy xin Phật tổ độ - trì chứng minh,
Ban con Phúc - quả Viên Thành,
Tràng - Phan tiếp dẫn siêu sinh nước người
Chí tâm đính lễ: Tây Phương Giáo chủ - vô - lượng độ nhân đại - từ đại - bi Tiếp dẫn Đạo Sư A- Di - Đà - Phật (Đọc ba lần, lễ ba lễ)
Tây - Phương nhà ngọc đất vàng
Đền đài lâu các rỡ ràng vui thay
Phượng loan ríu rít đêm ngày
Hòa ra tiếng sáo khi nay tiếng đàn
San hô hổ phách ngọc vàng
Chân - châu mã - não lại càng đẹp sao
Sen vàng, sen đỏ dưới ao
Sen xanh, sen trắng, ngạt ngào mùi nhang
Chiếu ra năm sắc hào quang
Hoa nào sắc ấy rõ ràng chẳng sai
Trên tòa đức Phật Như - Lai
Thuyết pháp mọi nhời tận độ chúng - sinh
Chí tâm đính lễ: Tây phương Giáo chủ vô - lượng độ nhân đại - từ đại - bi Tiếp dẫn đạo sư A - di đà - Phật ( 3 lần, lễ 3 lễ)
Đời người giấc mộng lương - hoàng
Như hoa sớm nở tối tàn ngán sao!
Trò đời giả - dối xiết bao!
Sông Mê bể Khổ biết bao thảm sầu!
NIỆM PHẬT đạo tuyệt nhiệm - màu!
Bao nhiêu bể thảm Thành Sầu phá tan!
Chí tâm đính lễ: Tây phương giáo chủ vô - lượng độ nhân đại - từ đại - bi Tiếp dẫn đạo sư A - di đà - Phật ( 3 lần, lễ 3 lễ)
Na - mô A - di Đà Phật (100 lần trở lên)
Na - mô Quán - Thế - Âm Bồ - Tát (100 lần)
Na - mô Đại - Thế, Chí Bồ - Tát (10 lần)
Na - mô Thanh - tịnh Đại hải chúng Bồ - Tát (10 lần)
Niệm Phật trước phải sửa tâm
Phật ban phúc báu, muôn phần Quý thay!
Niệm Phật ăn ở thảo ngay
Hiếu, Trung, Tiết, Nghĩa đạo nay cương - thường
Ở sao trọn vẹn mọi đường,
Công cha đức mẹ lo dường non cao
Đền ơn Cúc dục cù - lao
Khi đau lúc yếu ra vào trông nom
Làm con tận đạo thần hôn
Phụng thờ cha mẹ sơm hôm hết lòng
Làm quan Trung - trực công bằng
Yêu nhà, yêu nước, lòng hằng thương dân
Chẳng tham bổng lợi tư ân
Giữ điều liêm - chính từ nhân làm đầu,
Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu
Sửa sang mọi việc trước sau trong nhà
Yêu đương quý mến thuận hòa
Chồng nói vợ kính mới là gia - môn
Anh em giúp đỡ mọi đường
Cùng chung xương thịt nên thương nhau cùng
Bạn bè tín nghĩa một lòng
Gặp lúc hoạn nạn nên cùng cứu nhau
Năm điều giữ vẹn trước sau
Tuy không niệm Phật như hầu đọc kinh
Phật từ lân - mẫn quần sinh,
Cho kẻ sám hối siêu sinh Thiên Đường
Bao điều tội ác nhân gian.
Lòng nên tu tỉnh Phật ban phước lành
Một lòng kính sợ Giời xanh
Cung kính Tam - Bảo Thần minh độ trì
Độ cho thoát nạn một khi
Bệnh tật tai chướng tức thì tiêu tan
Độ cho con cháu đầy đàn
Vinh hoa phú quý rỡ ràng mẹ cha
Độ cho khắp cả trong nhà
Toàn gia Khánh cát thực là vui thay
Bốn phương Nam Bắc Đông Tây
Lòng thành sám - hối Phật nay độ trì
Dục Tình Ái Ố Sân Si
Lòng thành - sám hối tội thì tiêu tan
Niệm Phật chớ có gian tham
Chớ hề nói dối, chớ ham sắc lành
Niệm Phật giới - sát phóng - sinh
Tu - nhân tích - đức đề đành mai sau
Bồ đề đạo Phật nhiệm mầu
Ai hay sám hối tội hầu tiêu tan
Niệm Phật lòng chớ đa đoan
Chớ hề trộm cướp chớ ham rượu chè
Oán Giời Tội đó chỉn ghê!
Chửi mưa mắng gió nặng nề xiết bao
Ai hay thành kính trông vào
Quyết lòng sám hối tội nào chẳng tan
Nghĩa kinh dạy đã rõ ràng
Dạy người chớ có mơ màng nguyệt hoa
Dạy người chớ ở lòng tà
Đấu nhớn đấu nhỏ tội đà nặng thay!
Dạy người hiền hạnh thảo ngay
Cân nặng cân nhẹ đong đầy đong vơi
Bán buôn gạt khách lấy lời
Dùng thước dài ngắn tội thời khó dung
Dạy người ăn ở thủy chung
Sao cho tứ đức tam tòng vẹn hai
Dạy người chớ ở đơm sai
Chớ hề kiêu - ngạo coi ai như mình
Lòng son dạ sắt đinh ninh
Chớ phí ngọc thực hủy Kinh Thánh Hiền
Dạy người hành thiệt vi tiên
Cùng, thông, thọ, yếu số biên dành dành
Số đà ghi tại Thiên Đình
Hoàng - Thiên định phận công bình chẳng tư.
Đức nhân Đạo Hạnh Hiền từ
Chuyên tâm hạnh thiện lo tu sửa mình.
Hiếu Sinh niệm Phật tụng kinh
Mai sau hưởng phúc Quang - Minh đời đời
Độ mình sau lại độ người
Độ được cửu tổ tức thời siêu thăng
Kìa người chài lưới bắn săn
Ăn thịt trâu chó tội hằng siết bao
Sớm không tu tỉnh chút nào
Mai sau hồn phải đọa vào Âm Ty
Đọa vô dán ngục một khi
Quỷ Sứ móc ruột lại thì lôi gan
Ai người trong cõi Thế Gian
Kiêng thịt trâu chó muôn ngàn phúc hay
Tu sao cho Quả - phúc dày
Mọi đàng mọi nết mọi hay mới là!
Lại còn một tội xa hoa
Hoang toàng hư nết tội đà nặng thay!
Ai ơi tu tỉnh chớ chày
Giữ điều tiết kiệm Giời nay độ trì
Theo nhời kinh Thánh chép ghi
Trông giấy chữ chớ thì bỏ qua
Tích Tự Giời độ cho ta
Âm - công âm - đức hằng hà xiết bao!
Lại người chỉ mống chỉ sao
Ngoảnh mặt phương bắc rêu rao kẻ thù
Biết bao tục tử ngu phu
Ăn ở hung dữ chẳng tu sửa mình
Ai mà một dạ đinh ninh
Ăn năn Đức - Phật chứng minh độ trì
Bao nhiêu tội ác một khi
Ăn - năn sám - hối tội thì tiêu tan
Ai ơi! tỉnh dấc mơ màng
Cửa Giời hằng mở Thiên - Đàng đâu xa?
Nhân sinh tự hữu Di - Đà
Tâm tín, biến hiện ra toa Lạc Thiên
Ai mà có chí thì nên
Niệm Phật công đức vô biên hằng hà...
Niệm Phật lại ngẫm mình ta
Tu sao đức hạnh nết na hoàn toàn
Mai sau hưởng phúc thanh nhàn
Ngôi cao chín Phẩm tòa vàng Liên Hoa.
Tự quy y Phật đương nguyện chúng - sinh thể giải đại đạo phát võ thượng tâm.
Tự quy y Pháp đương nguyện chúng - sinh thâm nhập kinh Tạng, Trí Tuệ như hải.
Tự quy y Tăng đương nguyện Chúng - sinh thống lý đại chúng nhất thiêt vô ngại.
Hòa nam Thánh Chúng.
Nguyện di thử công đức, phổ cập ư nhất thiết, ngã đẳng dữ chúng - sinh giải cộng Thành Phật Đạo.
Hết phẩm đệ tam
QUANG - MINH TU - ĐỨC KINH
QUAN ÂM BỒ TÁT DUYỆT TỘI TRỪ TAI TẬP PHÚC
PHẨM ĐỆ TỨ
Quan - Âm Bồ - Tát giáng nhân gian
Phả tế quần sinh vạn sự toàn
Dương - liễu chi đấu thùy pháp lực
Cam Lồ tịnh thủy ứng linh đan
Tam Thiên Thế - giới tiêu trần cấu
Vạn ức - âm - hồn - thoát - nghiệp oan
Khả bảo âm dương quân lợi lạc
Phúc đồng nhân chúng phúc ban ban
Bể Hải Nam sen vàng đua nở
Núi Hương Sơn sực nức tiên hương
Đức Quan Âm phóng đại tường quang
Đại Từ - Bi năng cứu khổ nạn
Na - mô Thiên thủ thiên nhãn đại - từ đại - bi cứu khổ độ nạn linh cảm Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát. (Đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
Nước Cam Lộ tất chư phiền não
Cành Đương - liễu tận độ chúng - sinh
Đức - Quan Âm trí tuệ Quang - Minh
Phép thần thông vô - biên vô - lượng
Na - mô Thiên thủ thiên nhãn đại - từ đại - bi cứu khổ độ nạn linh cảm Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát.
Mắt từ - bi trông xuống cõi Trần
Động lòng thương cứu vớt muôn dân
Ai chuyên tâm trì niệm Quan Âm
Phật độ thoát luân hồi Sinh tử
Na - mô Thiên thủ thiên nhãn đại - từ đại - bi cứu khổ độ nạn linh cảm Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát.
Đạp thành sầu phá tan bể thảm
Cứu nhân - gian công - đức hằng - hà
Ai một lòng quy chính tịch tà
Phật độ thoát Tam đồ khổ não
Na - mô Thiên thủ thiên nhỡn đại - từ đại - bi cứu khổ độ nạn linh cảm Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát. ( Ba lần )
NGŨ THẬP DANH QUÁN - THẾ - ÂM
Từ - bi cứu khổ Quan - âm
Thệ nguyện cứu khắp chúng nhân trong đời
Ai mà có tội tức thời,
Niệm Phật Phật độ tội thời tiêu - băng
1) Na - mô năng thoát ngũ nghịch trọng tội Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát
2) Na - mô trì niệm năng duyệt chư trọng tội Quán - Thế - Âm - Bồ -Tát (Các câu dưới này cũng đọc danh hiệu đức Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát như trên và mỗi câu 1 lễ)
Ai mà phúc bạc nhất tâm
Chuyên cần niệm Phật Quan Âm độ trì
Niệm Phật công đức xiết ghi
Chính tâm chính niệm chẳng mê loạn thần
3) Na - mô thụ nhân lễ bái phúc bất đường quyên
4) Na - mô thụ nhân cúng dàng phúc bất cùng tận
5) Na - mô phúc tụ hải vô lượng
Một lòng niệm Phật ân cần
Vào lửa lửa tắt muôn phần quý thay,
Niệm Phật hiếu - thuận thảo ngay
Vào nước nước lại cạn ngay tức thời.
Một lòng kính sợ Phật Giời,
Binh đao đạo tặc tức thời tiêu - tan!
6) Na - mô bất vi thủy hỏa phiêu phần tử
7) Na - mô năng trừ binh đao thủy hỏa tai ách
U sầu phiền não nhân - gian
Phật ban nước phép muôn vàn vui thay
Bao điều nghiệp chướng đọa đày
Niệm Phật Phật độ sạch ngay tức thời
8) Na - mô chú cam lộ pháp vũ
9) Na - mô duyệt chư phiền não diễm
10) Na - mô duyệt chư hữu khổ
11) Na - mô năng cứu sản nạn khổ
12) Na - mô năng linh chúng - sinh đắc đại thắng ích
13) Na - mô năng linh chúng khổ đắc đại thắng lạc
14) Na - mô phá nhất thiết nghiệp chướng
15) Na - mô chú lực năng linh ác nghiệp chướng phá hoại
Ác thần, ác bệnh não người
Ác mộng ác quái tức thời tiêu – băng
16) Na - mô bất vi ác bệnh chiều thân tử
17) Na - mô năng trừ bát vạn tứ thiên chưởng bệnh.
18) Na - mô năng phục nhất thiết ác quỷ thần.
19) Na - mô ư khổ não tử ách năng vị tát y hỗ
20) Na - mô năng trừ tâm tai cửu-hoạnh
21) Na - mô trừ oan gia kiếp đạo
22) Na - mô trừ ác mộng biết quái
Đi thuyền gặp trận ác phong
Sóng to gió lớn muôn phần ghê thay!
Niệm Phật Quan Âm khi nay!
Sóng yên gió lặng ngày dày bình an,
Giữa đường gặp phải quân gian,
Giết người lấy của Thế Gian thường tình
Một lòng một dạ đinh ninh
Niệm Phật gặp cướp hãi kinh hết hồn
23) Na - mô Phật sắc Long - Thiên - Thiện - Thần ủng hộ.
24) Na - mô Thiện - Thần thường đương ủng - hộ
25) Na - mô chúng oán tất thoái tán
26) Na - mô năng trừ ác quân ác tặc
27) Na - mô viễn ly nhất thiết chư úy
Ai hay cầu của cầu con
Phật độ con cháu tông môn rỡ ràng
Ngạt - ngào quế xạ tiên - nhang...
Mai tòng, tịnh, mậu, cúc, lan mặn - mà
Tiền gạo sung túc đầy nhà
Giai hiền gái thảo thực là vui thay!
28) Na - mô dữ nhân nhân đắc nam nữ
29) Na - mô năng - linh trì niệm nhân cụ thế gian lài
30) Na - mô năng dữ trường mệnh
31) Na - mô năng dữ phú quý trường thọ
Tham, sân, si, ái ngày dày
Niệm Phật, Phật độ sạch ngay tức thời
Kìa lòng dâm - dục tơi bời...
Niệm Phật, Phật độ tức thời thanh tâm
Ở cho có đức có nhân
Niệm Phật công quả muôn phần to thay!
32) Na - mô năng linh nhân ly dục
33) Na - mô năng linh nhân ly sân
34) Na - mô năng linh nhân ly si
35) Na - mô năng linh chúng - sinh đắc thiện quả
Thần thông phép thuật mới hay
Khi biến cư sĩ khi nay đàn - bà
A - tu - la Ca - lâu - la
Thiên hình thiên tướng thực là nhiệm thay!
Biến ra nghìn mắt nghìn tay
Hào quang chiếu khách khi nay dưới đời
Mắt trông khắc bốn phương Giời
Tai nghe khắp cả mọi nơi cõi trần
Ai mà niệm Phật Quan Âm
Phật ban cho phúc muôn phần hiển vinh
Một lòng niệm Phật đinh linh
Phật độ cho thoát Tử - sinh Luân - hồi
Quan - âm Phật tổ Như - Lai
Pháp thuyền nguyện độ khắc người nhân - gian
Tràng phan tiếp dẫn Tây phương
Đời đời ngự tọa Tòa vàng Niên - hoa
36) Na - mô dư chưởng chưởng hình du chư quốc độ
37) Na - mô dư chư quốc độ thoái chúng - sinh
38) Na - mô cụ túc thần thông lực
39) Na - mô quảng tu chí phương tiện
40 Na - mô năng hàng chư Thiên ma
41) Na - mô năng chế chư ngoại đạo
42) Na - mô năng hiện Cực - lạc - thế - giới linh nhân lợi lạc.
43) Na - mô thường kiến thập phương Phật
44) Na - mô thường vân nhất thiết thiện pháp
45) Na - mô thường đồ thiên thú thiên nhãn
46) Na - mô trì niệm giả chúng nhân ái kinh
47) Na - mô trừ Tam đồ khổ não
48) Na - mô Sinh - Lão - Bệnh, Tử, Khổ, tức duyệt
49) Na - mô tội ác tiêu duyệt cíu kính Thành -Phật
50) Na - mô năng mãn nhất thiết nguyện
Na - mô đức Phật Quan Âm
Từ - bi tận độ chúng nhân trong đời
Khắp là trong bốn phương Giời
Đâu đâu đức Phật chẳng thời hiện thân
Hiện thân vớt kẻ trầm - luân
Cứu khổ cứu nạn muôn dân đội nhờ
Na - mô thiên thủ thiên nhãn đại từ, đại - bi cứu khổ độ nạn Linh Cảm Quán - Thế - Âm -Bồ - Tát (Ba lần)
PHẬT THUYẾT CỨU - KHỔ CHÂN KINH
Na - mô cứu khổ cứu nạn Linh - cảm Quan - thế Âm Bồ - Tát, bách thiên vạn ức Phật, hằng hà xa số Phật, Vô lượng công - đức Phật, Phật cáo át - nan ngôn, Thử kinh đại thánh, Năng cứu ngục tù, Năng cứu trọng bệnh, Năng cứu bách nạn khổ, Nhược hữu nhân độc tụng nhất thiên biến, nhất thân ly khổ nạn; độc tụng nhất vạn biến, toàn gia ly khổ nạn, Na - mô Phật lực uy, Na - mô Phật - lực - hộ, sử nhân vô ác tâm, linh nhân thân đắc độ. Hồi quang Bồ - Tát, Hồi thiện Bồ - Tát, A nốc đại thiên vương, Chính thiện Bồ - Tát, ma - hiu ma - hiu, thanh tịnh tỷ khiêu, quan sự đắc tán, tự sự đắc hưu, chư đại Bồ - Tát, ngũ bách la - hán cứu hộ đệ tử ........(Thân) tất giai ly khổ nạn; tự nhiên Quan Thế Âm, anh lạc bất tu giải, cần độc thiên vạn biến, nhất thiết tai ương tự nhiên đắc giải thoát, tín thụ phụng hành tức thuyết chân ngôn viết. Kim ba kim - ba - đế, Cầu ha cầu - ha - đế, Đà la - ni - đế, Ni - a - la -đế, Tỳ - lê - nễ - đế, Ma - ha - ca - đế, Chân - lăng kiền -đế, Bồ - đề tát - bà - ha, Na - mô Phật, Na - mô Pháp, Na - mô Tăng, Phật quốc hữu duyên, Phật Pháp tương nhân, thường lạc ngã tịnh, chiêu - niệm Quan -Thế - Âm, mô -niệm Quan - thế - âm, niệm niệm lòng tâm khởi, niệm Phật bất ly tâm, thiên la thần, địa - la - thần, nhân ly nạn, nạn ly nhân, nhất thiết tai ương hóa vi trần.
Án a rô lặc kế sa - bà - ha
Quan Âm đại sĩ, tích hiệu viên thông, Thập nhị đại nguyện thệ hoàng thâm, khổ hải độ mê tân, cứu khổ tầm thanh, vô sát bất hiện thân
Na - mô quan thế âm Bồ - Tát ma - ha -tát ( 3 lần ) Giải kết giải kết giải oan kết, giải liễu oan hòa nghiệp tẩy tâm, dịch lự phát kiền thành kim đối Phật tiền cầu giải kết:
Giải kết, giải kết giải oan kết
Giải liễu tiền sinh oan trái nghiệp
Bách thiên vạn kiếp giải oan thù
Vô - lượng vô biên đắc giải thoát
Giải liễu oan duyệt liễu tội
Nguyệt kiến đương lai long - hoa - hội
Long - hoa tam - hội nguyện tương phùng
Vô thượng bồ đề chân bất thoái
Án sỉ lâm án - bộ lâm - duyệt
Kim tra kim tra tăng kim - tra
Ngô kim vị ngữ giải kim - tra
Chung bất dữ nhữ kết kim - tra
Án cường chung cường cát chung cát
Ma ha hội lý hữu thù luật,
Nhất thiết oan gia ly ngã thân
Ma ha - bát - nhã - ba - la - mật
Na - mô Giải - oan - kết Bồ - Tát -ma - ha - tát ( 3 lần)
THẬP NHỊ ĐẠI NGUYỆN
1) Na - mô hiệu - viên - thông danh tự tại Quan Âm Như - Lai quảng phát hoằng thệ nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
2) Na - mô nhất niệm tâm vô quải ngại Quán - Âm Như - Lai thường cư Nam - Hải nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
3) Na - mô chư Ta - Bà u minh giới Quán - Âm Như - Lai tầm thanh cứu khổ nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
4) Na - mô hàng tà ma trừ yêu quái Quán - Âm Như - Lai năng trừ nguy hiểm nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
5) Na - mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quán - Âm Như - Lai cam lộ sái tâm nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
6) Na - mô đại - từ đại - bi năng hỉ xả Quan - Âm Như - Lai thường hành bình - đẳng nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
7) Na - mô chú dạ tâm vô tồn hoại Quan - Âm Như - Lai thệ duyệt Tam - Đồ nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
8) Na - mô vọng nam nham cầu lễ bái Quan - Âm Như - Lai giải tỏa thoát nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
9) Na - mô tạo pháp thuyền du khổ hải Quan - Âm Như - Lai độ tận chúng - sinh nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ).
10) Na - mô tiền tràng phan hậu bảo cái Quan - Âm Như - Lai tiếp dẫn Tây - Phương nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ).
11) Na - mô Vô - lượng thọ Phật cảnh Giời Quan - Âm Như - Lai Di Đà thụ ký nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ)
12) Na - mô đoan nghiêm thân vô ty sai Quan - Âm Như - Lai quả tu thập nhị nguyện Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát (1 lễ).
Hết phẩm đệ tứ
TU - ĐỨC TÂM - KINH
THƯỢNG ĐẾ PHẨM ĐỆ NHẤT
Ất hợi niên chính nguyệt sơ cửu nhận Thanh - Hương linh điện phụng đảo Ngọc - Hoàng Thượng Đế giá đàn giáng bút đào:
1) Ngọc đế loan dư giá điện đường
Linh linh phù duyệt giám kim chương
Tâm - kinh nhất bộ viên hoàn - hảo
Ấn tống lưu truyền thí thập phương
2) Quang - Minh chí bảo bảo Quang - Minh
Ngọc - Đế loan dư giá điện đình
Phức phức nhang trầm thông cửu quyết
Hoàng hoàng đăng trúc sán tam tinh
Tam thiên môn hạ lại triều củng
Vạn địa thần linh đảo phụng nghênh
Thiện sĩ nhất tâm tuân mệnh lệnh
Tâm kinh nhất bộ riệc nhi linh
CHÍ TÂM TRIỀU LỄ
Thái thượng di la vô thượng thiên, riệc hữu huyền chân cảnh, riễu riễu tử kim quyết, thái vi Ngọc - Thanh cung vô - cực vô thượng thánh, khoác - lạc phát Quang - Minh tịch tịch hiệu vô tôn, huyền phạm tổng thập phương, trạm tịch chân thường đạo khôi mạc đại thần thông cung thương chân - lão riêu - viên thanh tĩnh trí tuệ biện tài Tam - Giới sư, hỗn nguyên Tổ, vô ví thánh - chủ, tứ sinh từ phụ, cao thiên thượng thánh, đại - từ nhân giả thập hiệu viên mãn, vạn đức chu thân, vô - lượng độ - nhân, bạt sinh tư khổ, vạn Thiên chi Chúa, chúng Thánh chi Vương, chư Phật chi sư, thái - thượng khai thiên, chắp phù ngự lịch, hàm chân thể đạo, kim - quyết vân - cung cửi - cung lịch - ngự, vạn đạo vô vi, thông minh đại điện,
Hiệu thiên, kim - quyết, Ngọc - Hoàng đại Thiên Tôn, huyền cung cao Thượng Đế. (Khấu đầu 9 lần).
DÂNG NHANG
Tâm - kinh chuyển - tụng cảm Thiên Đình
Chư Phật Hoàng - Thiên tác chứng minh
Tín ngưỡng liên liên trì niệm tụng
Duyệt tiêu chướng nghiệp đắc siêu sinh
( Khấu đầu 9 lần)
Trò đời cơn gió thổi, khác chi vờ buổi tối, đêm lại sác khô. Cuộc thế đám mây bay, tựa như hoa sớm ngày, chiều đà tàn úa! Đời như trò giối, ngắn tựa tấc gang, chua chát trăm đàng, đắng cay ngàn nỗi, mịt mù tăm tối, bối rối tơ vò, than lửa một lò, giang thiêu nung nấu. Ai ơi! đắm chi trần lụy cấu, mau tỉnh lại khấu thủ Quy Y, một lòng sám hối một gia tu trì. Quang - Minh đường sáng cố bước đi. Tu - Đức đạo màu ra công luyện Tâm cho kiên quyết, chí chớ lạt phai, Thần khí thảnh thơi, thần tâm bất hoại.
Đức Thượng - Đế đã phú cho người khi mới sơ sinh một con. Tâm sáng suốt sạch trong, ngay lúc lọt lòng, một ngôi thứ quang - vinh hoàn hảo. Hoàng Thiên đại đạo, Thượng - Đế chí nhân, xót muôn loài thương muôn giống cảm muôn dân hiển hiện cảnh Tiên - Thần khai mở đường Cực - Lạc. Chỉ vì người đời nhiễm ác tâm chẳng sửa tu, kẻ thế ô - đồ lòng không gìn giữ. Than ôi! nên nỗi Tăm ngày đen tối, đục vẩn, gợn, dơ, phụ cả ân từ, lìa sa nguyên thể.
Nước giời trong sạch, cảnh Phật vẻ vang, khuyên ai khá rèn rũa tâm can, luyện tu đức tính, ghi nhớ đinh ninh. Tâm Quang - Minh, dạ Nhật - Nguyệt, thông Thiên - Quyết đạt Cửu - trùng cảm đẹp lòng đức Cha đệ nhất! Này phép luyện đạo muôn cách ngàn chướng, đạo tu hành lắm đường nhiều lối, nếu đã tìm được mối chỉ tơ kia vò rối gỡ chẳng khó chi! Đạo Chân - Tiên lấy luyện tâm Quang - Minh ứng hiển diệu kỳ, chính cội rễ thực đâu mối gỡ.
1) Tâm là cỗi rễ một khi...
Tâm tối hiển ứng riệu kỳ linh thông:
Long - lanh gương sáng nước trong
Chiếu diệu thế giới hư - không vô - cùng!
Sắc mà sắc vẫn thành không
Thông huyền tỏ lý trơn không rất mầu
Ta người muôn sự có đâu?
Cảnh không duyên tắt Tâm - hầu cũng không
Tâm không não nhiễm bụi hồng
Mây tan Nhật Nguyệt muôn phần quang - huy!
Phá vô minh tỏ Huyền vi...
2) Tâm Nhật - Nguyệt, dạ Quang - Minh
Cảm lòng Thượng - Đế Thiên Đình sắc ban
Linh linh ứng hiện Linh - Quang
Thiên - thần hộ - niệm bách quan phù - trì
Uy thần giời giúp một khi
Cho lòng nhất nguyện tu trì hoàn viên
Ban pháp bảo đắc chân chuyền
Thiên biến vạn hóa vô - biên vô cùng.
TIÊU - DAO DỮ ĐẠO TRƯỜNG TỒN
(Vái và khấu đầu 9 lễ)
Thiên đàng thụy khí tường - quang
Tường vân bao phủ rỡ ràng đẹp sao!
Thiên - Đàng khoái lạc tiêu - rao
Quỳnh - lâu Kim quyết ra vào vẻ - vang
Hoa khai ngũ sắc hào quang
Xạ tiên sực nức quế nhang ngạt - ngào...
Linh phù thần - dược, tiên đào
Tràng sinh bất lão tiêu rao tháng ngày
Kim đan ngự - tửu quý thay!
Lầu son, phủ tía cung mây điện vàng
Bông Sen thay sác tục phàm
Chân châu đằng bảo Thiên Đàng thiếu chi?
San - hô hổ - phách lưu - ly
Sà - cừ, mã - não thiếu chi Ngọc -Vàng
Loan ca, lân vũ, long bàn
Hóa ra âm nhạc lại càng lạ thay!
Thiên đàng càng ngắm càng say
Nụ vàng, quả ngọc, thân cây điểm ngà
Kim quang muôn đạo chiếu ra
Long lanh nhấp - nhoáng sao sa lạ lùng!
Hoa bay bát - ngát tưng - bừng
Màu vàng, màu trắng, mầu hồng, mầu lam
Gió bay thoang thoảng tiên - nhang
Lòng chong trí sáng nhẹ nhàng thảnh - thơi
Thiên đàng thượng giới nước Giời
Mặn mà sắc sảo, tốt tươi muôn phần
Thiên đàng sở nguyện tòng tâm
Muốn sao được vậy như lòng ước nên.
Thiên đàng nước Phật nước tiên
Tiêu rao tự tại duyên - niên đời đời...
Đức Cha thương xót loài người
Đắm xa bể khổ, luân hồi, chuân chuyên
Lòng người điên đảo, đảo điên
Lòng người đen bạc, bạc đen trăm đường.
Lòng người bất nghĩa bất lương
Bất trung, bất hiếu khôn dường kể ra
Lòng người quỷ mị ma tà!
Lòng người hiểm ác thật là khó dung.
Lòng người tàn - bạo gian - hung,
Lòng người mê - loạn tham sân, dục tình
Lòng người bất chính bất minh
Cương - thường đạo đức coi khinh coi thường
Lòng người ngẫm nghĩ mà thương
Bụi trần che phủ tấm gương sạch lầu
Càng về hội cuối hội sau
Lòng người biến đổi cơ màu lạ thay!
Nước trong sóng biển cõi này
Khó mà gột rửa khi nay lòng người
Tự gây nghiệp chướng nên thời
Cũng đừng oán đất trách giời kêu oan
Này tai, này chướng muôn vàn
Này bệnh này tật gian - nan đọa đầy
Thành sầu, bể thảm kinh thay!
Tà thần, ma quỷ đầy nay gian trần
Dương suy Âm thịnh muôn phần
Sui người cám dỗ xa vòng tối tăm
Sui người mờ ám lương - tâm
Sinh yêu tác quái không ngần nào thôi
Tự người tác nghiệp nên thôi
Hoàng - thiên chí chính phép giời chí công!
Sống thời khổ - não muôn - chùng
Thác đi hồn phải đọa vòng trầm - luân
Đọa vào vô - gián ngục chung
Đời đời hình phạt lửa lòng cháy thiêu
Thiên thần vạn thánh lên triều
Trình tâu kẻ thế tội nhiều nặng thay!
Thương người u - ám đọa đầy
Thiên đàng sáng suốt khi nay chẳng vào
Ngục kia đen tối lạ sao
Rủ nhau cùng xuống Âm tào hôi tanh
Đức Cha đức đại, đại nhân
Muốn cho kẻ thế ăn năn tu trì
Muốn cho khắp cõi thế ny
Hối ngộ cải quá Quy Y chân - thành
Nhất tâm Tu - Đức Quang - Minh
Quyển Vàng, bút Ngọc Thiên Đình chép biên
Trừ oan báo giảm tội khiên.
Tai tiêu, nạn diệt phúc duyên đời đời
Đàn - sinh Thiện - tín ai ai
Ăn năn sám - hối tâm trai tín thành
Quyết kiên một dạ đinh ninh,
Luyện tâm Nhật Nguyệt Quang - Minh rõ ràng
Bền dạ sắt, vững gan vàng
Rũa, mài, nắn, uốn, sửa sang tấm lòng
Trừ tam, Độc tuyệt tục Trần
Tâm kinh Tu - Đức ân cần tụng chuyên
Thấu Cửu Tằng dạ Cửu Tuyền
Cảm thông Tam giới chư Thiên hộ trì.
Linh linh ứng giám tức thì!
Công Đồng Tứ Phủ đồng kỳ giáng lâm.
Vô biên âm - đức âm - công
Sở nguyện như ý tòng tâm sở cầu.
Chí tâm triều lễ: Hiệu thiên chi tôn Ngọc - Hoàng huyền cung cao Thượng Đế (Đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
Thiên Đàng Địa Ngục tại tâm ta
Tu tỉnh tâm kia chớ đắm xa
Tâm sáng sạch trong tâm tức Phật
Tối đen gợn đục biến vi Tà
1) Tăm tối quan - hệ -Tâm là Chúa Tể -Tâm chính cội rễ - Trong một thân ta - 2) Thiên Đàng Địa Ngục - Nào có đâu xa - Tâm đục là tà - Tâm trong tức Phật - 3) Cảm động giời xanh - Một tấm lòng thành - Tâm là quý nhất - Ta chớ coi khinh - Bao quát càn khôn - Vô lượng hư không - Tăm tối linh thông - Chí huyền chí diệu - 5) Tâm phải cho định - Cho chính cho minh - Thu nhiếp tâm linh - Chuyên tâm bất dịch - Chớ nghi chớ hoặc - Chớ khá phân vân - Tâm phải chí chân - Tĩnh thiên thủ nhất - 7) Cho khiết cho tịnh - Tâm phải thinh thinh - Đừng mê đừng loạn - Chớ hãi chớ kinh - 8) Đừng nhiễm sa trần - Chớ biến động tâm - im liềm vắng lặng - Dưỡng tính an thần - 9) Tâm phải luyện rèn - Cho cần cho chuyên - Tâm phải quyết kiên - Cho vững cho bền - 10) Cám dỗ tâm ta - Quỷ mỵ ma tà - Tâm chớ đắm xa - Việt siêu dũng mãnh - 11) Sui khiến tâm ta - Vật dục ngoại cảm - Tâm chớ mờ ám - Tịnh tiến uy cường - 12) Tâm tối nan trị - Ta chớ khinh khi - Ngẫm nghĩ xét suy - Rũa mài nắn uốn - 13) Kiến tính minh tâm - Phật hiện tại tâm - Minh tâm kiến Phật - Phật tức thị Tâm - 14) Tâm trong chí sáng - Là thuốc trường sinh - Tu - Đức Quang - Minh - Tiên đan Phật dược - 15) Đan tại thân ta - Há phải đâu xa - Muốn được chân chuyền - Ngẫm nghĩ cho ra.
Tâm chí Triều lễ: Hiệu thiên chí tôn Ngọc - Hoàng huyền - cung cao Thượng - Đế (đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
(Hết phầm đệ nhất)
TU - ĐỨC TÂM - KINH
THÁI THƯỢNG PHẨM ĐỆ NHỊ
CHÍ TÂM TRIỀU LỄ
Hồng - mông hỗn xuất thiên địa sơ phân, khí Thánh - tổ nguy nguy kim - quyết hóa sự tôn nghiễm nghiễm thanh khung, thượng thừa chân khí, hạ giáng đầu thai, mẫu huyền riệu mộng kiến thôn nhật, khí bạch ngưu ứng hiện nhâm thần, bát thập nhất xuân nhi khai chung động - xuất, nhị nguyệt vọng nhật nhi đính thượng sinh tuần, kiến nam - tử bạch phát thành thân, sinh lý mộc dĩ, Lý thị vi tính, hiệu Lão - Đam húy lý - bá - Dương đạo Tổ - sư danh vi Thái - Thượng, đại - bi, đại nguyện, đại - thánh, đại - từ, vô - lượng - độ nhân Thái - thượng Lão - Quân Phả am. Thuyền sư - Hỗn - nguyên Đạo - Đức Thiện tôn Riệu - cao Thượng - Đế.
(Khấu đầu 9 lần)
DÂNG NHANG
1) Tiên xạ đạt Tam Thanh - Lão Quân tác chứng minh - Nhất tâm sám - hối - Pháp nguyện tụng tâm kinh.
2) Tín ngưỡng Quy Tu Đức - Vinh hoa đại hiển vinh - Tiên ban danh liệt liệt - Cửu Tổ đắc siêu sinh.
Mênh - mông bể khổ cõi trần.
Muôn loài chìm nỗi bao phần xót thương!
Lu - sầu phiền - não tai - ương
Oan - gia nghiệp - chướng tơ vương vấn mình
Khá chỉn ghê! Thật hãi kinh!
Lò than hồng nấu chúng - sinh đêm ngày
Giang thiêu đốt giã lại say!
Quanh - co nhào - lộn vần - xoay xoay - vần
Kiệt khổ hải lấp trầm - luân
Tam -Thanh Thái -Thượng nhất châu đạo mầu
Phá bể thảm đạp thành sầu
Muôn dân đội đức khấu đầu nhất tâm
Đại Thiên Tôn Đại Thánh - Nhân
Đại bi, đại - nguyện, đại - nhân đại - từ
Chủ Đạo - Đức thủy Tổ - Sư
Ngự Tam Thanh động đúc lò luyên đơn
Thống vạn Linh quản chư Tiên
Thiên biến vạn hóa vô - biên vô cùng!
Đại thần - thông! Đại thần-thông!
Nhất thân biến bách ức thân vạn hình
Giáng Thế trần độ sinh - linh
Truyền đạo truyền giáo, truyền kinh, ban phù
Hóa thành hình đống xương khô
Linh ẩn bí quyết linh phù linh linh!
Hiện tường - vân phóng Quang - Minh
Chiếu mười phương khắp chúng - sinh ơn nhuần
Trừ yêu ma chúng tà thần
Diệt khổ ách cứu gian - chuân tai nàn
Huyền huyền riệu riệu kim - đan
Thiên thiên khổ bệnh nguy nan tinh trừ
Đội công - đức cảm lòng từ
Phương phương sứ sứ khang - cù an - ninh
Đạo ni thâm, đức duy hinh
Hiệu Tôn Thái - thượng Tam - thanh Thượng - đình
Đại thiện - tâm, đại hiếu - sinh
Xót - xa thương cảm chúng - sinh muôn loài
Ngày đầu - sinh, rằm tháng hai
Đồng tâm tôn niệm, tâm trai ân cần
Niệm tôn Thái -Thượng Lão - Quân
Khắp hòa muôn nước muôn dân một lòng
Đại công - huân! Đại công - huân!
Niệm tôn kính - ngưỡng Lão Quân tận thành.
Cảm Tam Thanh đạt Thiên đình
Liệt danh tiên tịch Ngọc đình chép biên,
Cửu Huyền thất Tổ sinh Thiên
Công - đức vô - lượng vô - biên hằng - hà...
Chí tâm triều lễ: Thái -thượng Lão Quân Hỗn nguyên đạo đức Thiên - tôn Riệu - Cao Thượng - Đế.
Trò đời gió thổi mây bay
Ham chi trần - tục đắm say bụi - hồng.
Khuyên ai luyện đạo ra công
Tu tâm, tu tính, tu nhân một lòng
Hiếu kia là gốc tối cần
Thần hôn hiếu dưỡng song thân ông bà
Vợ chồng quí mến thuận hòa
Anh em xương thịt mặn mà yêu - thương
Bạn bè tín nghĩa một đường,
Rộng dung kẻ dưới kính nhường bề trên
Chí cho vững! dạ cho bền!
Ngũ - luân trước phải khá nên giữ gìn
Gọt mài uốn nắn luyện rèn
Tu sao toàn thiện đại hiền chí nhân
Hằng sám hối quyết ăn năn,
Tam nghiệp trong sạch nhật tâm sửa mình,
Lửa lòng răn nén chờ sinh
Luyện tâm hỉ - xả công bình từ bi
Khẩu kia chớ có khinh khi
Nói năng ngẫm nghĩ xét - suy kỹ càng
Nên ngọt ngào khá dịu dàng
Nói nhời hiền - hậu ôn - tồn khoai thai
Chớ đừng nguyền rủa mỉa mai
Nói nhời đen bạc kính đời kiêu - căng
Thân cho khiết tịnh sạch trong,
Ý cho từ - thiện tâm lòng thinh linh...
Tuyệt tam độc: Tham si sân
Chẳng hờn dận dữ hung hăng bạo tàn
Của người lòng chớ gian tham
Bạc vàng châu báu chẳng màng tơ vương
Gian - dâm tội ác khôn lường
Bỏ đường tà khúc theo đường chính - chân
Mau tu tỉnh chớ phân vân
Ngày giờ giây phút ăn năn sửa mình
Xét suy phán đoán công - bình
Lập sổ công quả phân minh tỏ tường
Một lòng hiền hậu tròn vuông
Chẳng quên nghĩa cũ bạc đen ân tình
Yêu thân người khác chi mình
Chẳng hề nhiễu loạn chẳng sinh lụy phiền
Nghèo giầu số định tự thiên
Quang - Minh chính chực khá nên tạc lòng
Vui Cực - lạc, vui Doanh - Bồng
Say mê Đạo - Đức vui cùng kệ kinh
Đua chen tài khí lợi danh,
Cuộc đời trò thế phù sinh ảo huyền
Quy y bền dạ quyết kiên
Quy y Tu - Đức Chân -Tiên Đạo mầu,
Ngày đêm, sáng, tối nguyện cầu,
Luyện tâm rèn tính sạch lầu sáng thanh
Làm duyên, làm phúc, làm lành
Tu kinh, thí thuốc phóng - sinh cúng dàng
Bắc cầu xây quán sửa đường
Vớt loài ngã quỷ cô hồn trầm - luân
Cảm cầu tụng niệm kinh văn
Nguyện âm hồn chúng thoát chưng ngục hình
Tích âm công cảm giời xanh
Cứu sinh đệ tử đinh - ninh tâm thành
Thấy kẻ cơ nhỡ sót tình
Thương người tuổi tác thân hình yếu đau
Thương người hoạn nạn cơ cầu
Thương người tàn tật âu sầu sót xa
Điếc, câm, què, cụt, đui, lòa
Thấy người khổ não ta đà chẳng an
Tùy lực tài, chớ ngại ngần
Ý cho thành kính mà lòng chí chân
Giầu bỏ của khó ra công
Chớ nài bao quản thì ân giúp người
Yêu đương con trẻ mồ côi
Sót xa kẻ hóa lòng thời cảm thương.
Phù nguy ách, cứu tai ương,
Hòa giải kiện tụng, tìm đường can ngăn.
Thương thân người khác chi thân
Thấy người xa đắm tối tăm chẳng đành
Tương thân, đồng thiện, đồng hành
Hóa nhân, hóa kỷ, tận thành chí chân
Tâm - kinh chuyển tụng cần cần
Cảm thông Tam - Giới liệt thần Ban Tiên
Ác bệnh ác tật triền - miên
Oan gia túc trái tiền duyên đoạn - trừ
Từ tôn hiếu thảo lương từ
Thuận trên hòa dưới khang cù âu ca
Phúc hà - xa đức hà - xa
Tâm - kinh trì - tụng gia gia trình tường
Siêu thăng Cực - lạc Thiên - Đường
Chí tâm đính lễ: Thái- thượng Lão Quân Hỗn nguyên Đạo-Đức hiên Tôn Riệc- Cao Thượng - Đế (3 lần, lễ 3 lễ)
( Hết phẩm đệ nhị)
TU - ĐỨC TÂM - KINH
CỬU TẰNG PHẨM ĐỆ TAM
CHÍ TÂM TRIỀU LỄ
Hồng - mông hỗn - xuất, kể tử du hồn, tòng phi ẩn nhi vô hình, hiện tự nhiên, chi chính khí, bao hàm vạn tượng, biến hóa vô nhai, tác vạn cổ chi - Toàn cơ, cửu quần - Sinh chi khổ nạn.
Na mô thượng hư không Cửu Tằng Thiên sắc, sắc không không, bao la Thế - Giới, Chí -tôn -Phật
(Khấu đầu 9 lần)
DÂNG NHANG
Phức phức tiên hương cảm Cửu Chùng
Thượng - hư - không - Phật tử ánh hồng
Nguyệt tăng phúc lộc niên tăng Thọ
Miễn nạn trừ tai giải họa hung.
(Khấu đầu 9 lần)
1) Hương thơm truyền cảm chín từng
Sen vàng đua nở tưng bừng xiết bao!
Bồng - Lai Tiên - cảnh Động - đào
Ba ngàn thế giới ngạt ngào Hương - Tiên
Giời nay chứng giám tâm hiền
Cho nên giời mở phúc duyên ngày dầy
Từ phương Nam, Bắc, Đông, Tây
Tiên Hương sực nức tỏa bay khắp miền
Phật ban luyện đạo Chân - Tiên
Mai sau cũng được danh truyền khôi khoa
Khắp người thế giới Ta - Bà
Quy Y Tu Đức nên đà gắng công
Mai sau con giống cháu giòng
Danh thơm lưu để muôn trùng giài lâu
Hương thơm khói tỏa một bầu
Ngạt ngào sực nức đâu đâu dưới đời...
Quy Y hưởng phước lâu giài...
Quang - Minh trì tụng ai ai một lòng
Gia tâm luyện đạo cố công
Siêu thăng thượng giới thoát vòng gian -nan
Cửu - Tằng Phật - Tổ giáng đàn
Khuyên chư Thiện - Sĩ gan vàng Quyết - Kiên
Nhất tâm luyện đạo Chân - Tiên
2) Tằng tằng Phật Tổ Cửu -Tằng
Thượng hư - không Phật lòng hằng thương dân
Đại - bi đại - đức đại - nhân
Sót thương kẻ thế tối - tăm ám mờ
Xa vòng đen tối tanh dơ
Đắm chìm bể khổ sông mê thảm sầu
Vô - biên phép Phật nhiệm mầu
Bốn - phương thiên hạ đâu đâu ơn nhuần
Muốn cho ai nấy ăn - năn
Muốn cho muôn nước muôn dân đến bờ
Ai ai!tỉnh lại một giờ
Cửa giời hằng mở đợi chờ thiện nhân
Sửa tâm sáng suốt sạch trong
Quy Y Tu Đức ăn năn một lòng
Quy Y Phật tổ Cửu -Tằng
Thượng - hư không Phật vô cùng thần thông!
Quy Y Thượng Thánh Tam - Thanh
Quy Y liệt vị Đế Đình Thiên - Tôn
Quy Y Phật tổ Quan - Âm
Quy Y Tam Bảo nhất tâm tận thiềng
Đạt Tam Quan Cảm Cửu Thiên
Nam Tào Bắc Đẩu danh biên rõ ràng
Ghi chép quyển ngọc sổ vàng
Niên tăng thọ toán phúc tràng hậu lai
Quang - Minh xuất tự lòng Giời
Cho người trần - thế cõi đời ăn - năn
Ăn năn huyền đạo tu chân
Ăn - năn sửa tính luyện tâm tu - trì
Đừng nhờn - mạn chớ khinh - khi
Tâm kinh Tu Đức nhật trì tụng chuyên
Linh linh riệu riệu huyền huyền...
Quang - Minh Chí Bảo Chân Tiên đạo mầu
Chí tâm đính lễ: Na mô Thượng - hư không Cửu - Tằng - Thiên sắc sắc không không bao - la Thế - Giới Chí tôn Phật. (Đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
Cảnh Phật sáng suốt sạch trong
Ai ơi! xin quyết ăn năn một lòng
Tuyệt trừ tam độc Tham Sân
Si là ngu ngốc tối tăm muôn phần!
Xét suy bền dạ gắng công,
1) Hương thơm truyền cảm chín từng
Sen vàng đua nở tưng bừng xiết bao!
Bồng - Lai Tiên - cảnh Động - đào
Ba ngàn thế giới ngạt ngào Hương - Tiên
Giời nay chứng giám tâm hiền
Cho nên giời mở phúc duyên ngày dầy
Từ phương Nam, Bắc, Đông, Tây
Tiên Hương sực nức tỏa bay khắp miền
Phật ban luyện đạo Chân - Tiên
Mai sau cũng được danh truyền khôi khoa
Khắp người thế giới Ta - Bà
Quy Y Tu Đức nên đà gắng công
Mai sau con giống cháu giòng
Danh thơm lưu để muôn trùng dài lâu
Hương thơm khói tỏa một bầu
Ngạt ngào sực nức đâu đâu dưới đời...
Quy Y hưởng phước lâu dài...
Quang - Minh trì tụng ai ai một lòng
Gia tâm luyện đạo cố công
Siêu thăng thượng giới thoát vòng gian - nan
Cửu - Tằng Phật - Tổ giáng đàn
Khuyên chư Thiện - Sĩ gan vàng Quyết - Kiên
Nhất tâm luyện đạo Chân - Tiên
2) Tằng tằng Phật Tổ Cửu - Tằng
Thượng hư - không Phật lòng hằng thương dân
Đại - bi đại - đức đại - nhân
Sót thương kẻ thế tối - tăm ám mờ
Xa vòng đen tối tanh dơ
Đắm chìm bể khổ sông mê thảm sầu
Vô - biên phép Phật nhiệm mầu
Bốn - phương thiên hạ đâu đâu ơn nhuần
Muốn cho ai nấy ăn - năn
Muốn cho muôn nước muôn dân đến bờ
Ai ai!tỉnh lại một giờ
Cửa giời hằng mở đợi chờ thiện nhân
Sửa tâm sáng suốt sạch trong
Quy Y Tu Đức ăn năn một lòng
Quy Y Phật tổ Cửu -Tằng
Thượng - hư không Phật vô cùng thần thông!
Quy Y Thượng Thánh Tam - Thanh
Quy Y liệt vị Đế Đình Thiên - Tôn
Quy Y Phật tổ Quan - Âm
Quy Y Tam Bảo nhất tâm tận thiềng
Đạt Tam Quan Cảm Cửu Thiên
Nam Tào Bắc Đẩu danh biên rõ ràng
Ghi chép quyển ngọc sổ vàng
Niên tăng thọ toán phúc tràng hậu lai
Quang - Minh xuất tự lòng Giời
Cho người trần - thế cõi đời ăn - năn
Ăn năn huyền đạo tu chân
Ăn - năn sửa tính luyện tâm tu - trì
Đừng nhờn - mạn chớ khinh - khi
Tâm kinh Tu Đức nhật trì tụng chuyên
Linh linh riệu riệu huyền huyền...
Quang - Minh Chí Bảo Chân Tiên đạo mầu
Chí tâm đính lễ: Na mô Thượng - hư không Cửu - Tằng - Thiên sắc sắc không không bao - la Thế - Giới Chí tôn Phật. ( Đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
Cảnh Phật sáng suốt sạch trong
Ai ơi! xin quyết ăn năn một lòng
Tuyệt trừ tam độc Tham Sân
Si là ngu ngốc tối tăm muôn phần!
Xét suy bền dạ gắng công,
Quang - Minh trì tụng thoát vòng si mê
Cửu Tằng, Phật Tổ đại - bi
Muốn cho khắp cõi thế ni đến bờ
Khuyên đừng nghi hoặc u - mờ
Ai ơi! Tỉnh lại một giờ chớ say!
Tiên hương ngào ngạt thoảng bay...
Duyệt tiêu phiền não sạch ngay bụi - trần
Tiên - hương sực - nức xa gần
Oan - gia nghiệp - chướng nợ nần dữ thanh
Quang - Minh Tu - Đức tâm kinh
Tiên - Đan Chi Bảo Thiên Đình giời ban
Chí tôn Phật ngự sen vàng
Hào - quang sáng chiếu nhân - gian xa gần...
Hư - không Phật -Tổ Cửu - Tằng
Vô - biên Pháp - lực vô - cùng thần - thông
Muốn cho muôn nước muôn dân
Ăn - năn sám - hối luyện tâm tu - trì
Muốn cho khắp cõi thế ny
Tây Phương nước Phật tức thì siêu - thăng
Đại - bi đức Phật Cửu - Tằng
Sót thương nhân thế tối tăm ám - mờ
Ai ơi! chớ có mơ hồ
Kìa thuyền tế - độ đợi chờ thiện nhân
Rèn, rũa, uốn, nắn, luyện tâm
Tiêu trừ tam độc tham sân si mờ
Tam Độc là bả hại người
Đắm xa bể khổ luân - hồi gian - chuân
THAM kia tội ác muôn phần
Sinh lòng thâm độc lương tâm ám - mờ
Tranh vườn cướp đất lấn bờ
Thấy vàng tối mắt những mơ tưởng càn
Ma Tà, Quỷ mỵ đủ đàng
Đi vay vỡ nợ buôn hàng cướp tranh
Kìa người không chút tâm lành
Hút người máu mủ chẳng tanh, chẳng nhờn
Kìa người ăn ở bất nhân
Bầy nhiều trò quỷ chước gian nực cười
Nào là thước ngắn thước dài
Đấu nhớn, đấu nhỏ đong đầy đong vơi
Cân nặng cân nhẹ gạt người
Miễn là nhiều lợi lắm lời thì thôi
Kìa người tranh phận gia tài
Phần hơn mình chiếm chẳng thương ai cùng!
Lìa cốt nhục chặt tay chân
Tiền nặng hơn nghĩa tài cân hơn tình
Quan môn kiện cáo tụng đình
Cửa tan nhà nát nghĩa tình cũng tan!
Kìa người tham nhũng tàn hung
Lấy oai quyền thế để chưng mọi người
Khinh nhờn phép nước luật giời
Chẳng tin quả báo luân - hồi chi chi!
Gạt người đầu nối kẻ si
Bất trung, bất tín, bất nghì, bất lương.
Suy ra ở một độc tham
Khiến người tội ác muôn vàn than ôi!
Sân độc thói ấy nên thôi
Nóng nảy giận - dữ lòng thời xấu xa
Hung hăng sấu sộ hét la
Lửa thiêu công đức thực là kinh thay!
Si độc là ngốc khi nay
Mê mê tỉnh tỉnh, say say, ngu đần
Chẳng tường chân lý chân tâm
Chẳng tường gốc ngọn, chẳng phân thau vàng
Tối tăm u ám đủ đàng
Suy ra Si độc lại càng chỉn ghê!
Ai ơi! luyện đạo gắng đi
Tuyệt trừ Tam Độc, Sân, Si ám mờ
Sớm, khuya sáng, tối, ngày, giờ
Xét - suy ngẫm - nghĩ đắn đo mọi đường
Bền dạ sắt, vững gan vàng
Quyết - kiên, dũng - mãnh, uy cường, việt - siêu
Núi cao chớ quản chèo - leo!
Càng cao! Càng gắng! quyết chèo! Quyết lên!
Tâm - kinh nhật tụng cần - chuyên
Cảm thông Tam Giới vô biên phúc lành!
Chí chân, chí tín, tận thành
Tâm - kinh trì tụng thinh thinh tấm lòng...
Thoát vòng trần tục bụi hồng...
Phi - đằng Thượng giới Doanh - Bồng Thần Tiên
Tam độc chỉn ghê bả hại người
Đắm xa bể khổ đọa luân hồi
Sân, si, tham nọ tiêu trừ duyệt,
Sạch rũ nghiệp trần dạ thảnh thơi.
Chí tâm đính lễ: Na mô thượng – hư - không, cửu tằng, thiên sắc sắc không không bao - la Thế - Giới Chí - Tôn Phật. (Đọc ba lần lễ ba lễ)
Phật bản vô-lượng từ -bi
Cảnh Phật nào có hẹp chi cho người?
Ai ơi! tu tỉnh tức thời.
Rèn lòng trong sạch đời đời vẻ-vang
Lòng chong trí sáng rõ-ràng,
Lòng mà gợn đục mê-man nặng-nề
Ai ơi! Chớ có hoài nghi
Tu-tâm luyện đạo xét suy kỹ càng.
Cảnh Phật chong sạch vẻ vang
Khác lòng trần-tục mê man đục ngầu
Yêu, ma, quỷ, mỵ cơ-cầu
Tâm tà, ý ác lòng hầu đảo điên
Cầu cầu thiết thiết mới nên!
Tâm kia gột rửa rũa rèn chớ khi!
Quang - minh đường sáng gắng đi!
Tu sao hết đạo huyền-vi chơn chuyền,
Tâm-kinh Phật Dược Đan Tiên...
Luyện thân bất hoại duyên niên đời đời
Cố công ra sức ai ơi!
Ngoảnh xem cõi thế trò đời ngán sao!
Hoàng-lương nhất mộng tiêu rao,
Trăm năm thấm thoát được bao nhiêu là
Bầy bầy, sóa sóa, nhòa nhòa
Hợp tan còn mất sót-xa muôn phần!
Tiền duyên, tức trái, nợ-nần
Oan gia báo chướng, nghiệp trần thảm sao!
Ai hay thành kính trông vào
Ăn năn sám hối Giời Cao chứng lòng.
Lục trần: nhờn, nhĩ, ty, thân!
Quyết lòng rèn luyện gắng công tu trì
Chớ nhìn sắc đẹp hay mê
Sắc đẹp là bả gớm ghê hại người
Chớ nghe tiếng ác ai ơi!
Nghe nhời thuyết pháp thảnh thơi lòng vàng.
Mũi thời hằng ngửi mùi nhang,
Lưỡi hân đạo đức rõ ràng chẳng sai
Thân cho thanh kiết tâm trai
Chớ nhiễm dâm uế xin ai ghi lòng
Ý cho thành-kính sạch-chong
Chớ hề Nam, Bắc, Tây, Đông gian-tà.
Thiên đàng địa ngục đâu xa?
Phật, Tiên, Ma, Quỷ tự - ta - đổi - lòng.
Non Tiên, Cảnh Phật có xa chi?
Nhỡn, nhĩ, tỵ, thân, quyết luyện di!
Đoạn tuyệt Lục Trần tiêu nghiệp cấu.
Lòng thành, chí sáng, dạ từ bi
Chí tâm đính lễ: Na mô Thượng hư không Cửu Tằng Thiên sắc sắc không không bao - la Thế Giới chí – Tôn - Phật. (đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
DÂNG NHANG
Tu - Đức Quang - Minh đạo nhiệm màu!
Xa gần chiếu sáng khắp đâu đâu...
Khu tà sạch rửa lòng trần tục
Giảm tội tiêu khiên diệt não sầu.
1) Phật Tổ Cửu Tằng - Thượng- Phật hư không - Đại bi đại - thiện - Đại đức - đại nhân
2) Xót thương muôn dân - Xa đắm trầm - luân - Muốn cho ai nấy - Sám hối - ăn - năn
3) Phật - Tổ Cửu -Tằng - Độ bến mê tân - Tây - Phương nước Phật - Liên hoa hóa thân.
4) Khắp hòa chúng nhân - Vạn phương xích tử - Quy Y Phật Tổ - Cửu Tằng Hư - Vô.
5) Tam Độc tiêu trừ - Lục Trần đoạn tuyệt - Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt - Si án tham sân.
6) Tham độc sinh thâm - Mờ ám lương tâm - Gian tà quỷ mỵ - Tội ác muôn phần.
7) Sân độc sinh dữ - Bỏ hết lòng từ - Lửa giận trong lò - Hóa thiêu tâm đức.
8) Si độc là ngốc - Khiếu khiếu hồ lấp - mê man xa đắm - Ngu đần u uất.
9) Đừng mê đắm sắc - Mắt chớ ngắm trông - Phạm điều tà dâm - Đầu muôn tội ác.
10) Tiếng dâm tiếng ác - Xa lánh chớ gần - Thảnh thơi muôn phần - nghe lời thuyết pháp.
11) Ngạt - ngào bát - ngát - Quế xạ tiên nhang - Khoan - khoái tâm can - Lưỡi tân đạo đức.
12) Thân cho tinh khiết - Tâm phải sạch trong - Ý cho chính định - Chi thành chí chân.
13) Gốc kia ngũ luân - Chớ ở sai lầm - Ghi tạc ân cần - Đầu muôn cõi Đức
14) Làm điều âm chất - Tích đức âm công - Giúp kẻ gian chuân - Cứu người tàng tật.
15) Yêu người thương vật - Dốc một lòng từ - Rèn rũa luyện tu - Gắng công ra sức.
16) Tôn hiền ngưỡng đức - Ái kính phương viên - Nhường dưới trọng trên - Khoan hồng đại độ.
17) Thương người góa bụa - Sót kẻ cô - nhi - Tỉnh kẻ si - mê - Vớt người đắm đuối.
18) Chẳng khoe tài giỏi - Không dạ kiêu căng - Hằng báo ân thâm - Há quên nghĩa cũ.
19) Chẳng nhớ oán thù - Không gây oán báo - Giải việc kiện cáo - Hòa việc phân tranh.
20) Chớ nhờn mạn khinh - Nói người tội lỗi - Gìn giữ miệng lưỡi - Chính ngữ chính ngôn.
21) Đừng nói thiệt hơn - Dèm pha cười cợt - Cũng đừng nhả nhớt - Nhạo báng chê bai.
22) Dịu dàng khoan thai - Trang nghiêm đoan chính - An thần dưỡng tính - Ngẫm nghĩ xét suy.
23) Đạo ngạn xá chi - Xin cố tu trì - Đừng kinh sóng gió - Chớ hãi gian nguy.
24) Mở chất ngu si - Quang - Minh Nhật nguyệt - Luyện tâm kiên quyết - Bất dịch bất di.
25) Cảnh Phật hẹp chi - Cửa then hằng mở - Kìa thuyền đón chở - Đợi kẻ quyết kiên.
Chí Tâm đính lễ: Na mô Thượng hư không Cửu - Tằng - Thiên sắc sắc không không bao la Thế -Giới Chí -Tôn- Phật. (đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
(Hết phẩm đệ tam)
TU - ĐỨC TÂM - KINH
DI ĐÀ PHẨM DỆ TỨ
Quý Dậu niên chính nguyệt sơ nhất nhất tuốt bài thanh hương Linh điện phụng đảo A - Di - Đà - Phật giá đàn ứng giáng bút đào:
1) Nguyên Đán minh niên tiết chính xuân
Chỉnh thành soạn tập bộ kinh tân
Đệ trình Ngọc điện từ bi lực.
Phủ duyệt kinh chung - sứ sử hân
2) Di - Đà Phật lực đại từ - bi
Kiến nhữ đàn sinh đại thiện quy
Bất nhật thành công, công đại hiệu
Hữu thời sích quả, quả phương huy
Gia công luyện thiếc thành kim đã
Miễn lực ma đồng hóa ngọc chi
Viên hoàn đức thụ chi chi điệp
Khả bảo quần dân phúc lý - tuy.
3) Nhất thủ thi đề diễn ngọc kinh
Kinh văn sứ sứ tổng viên thành
Tuân nghi từ chỉ lưu san ấn
Phúc diễn vô cùng hậu thế minh
4) Ngã nãi A di - đà Phật
Xuân thiên nguyên đán chính nhật
Long phi, Quý Dậu, Hoàng triều
Phủ dám kinh văn chu tất
Toại san ấn khắc lưu truyền
Các sử hồi tâm cẩn mật
Quốc âm nhất bộ kinh văn
Lưu truyền vĩnh vi kỷ vật
Cẩn chi! Cẩn chi! Cẩn chi!
Kiên tâm, tâm tức thị Phật
Quý Dậu niên chính nguyệt sơ cửu nhật tuất bài: Phụng đảo Ngọc Hoàng - Thượng Đế giá đàn ứng giáng bút đào.
1) Nhất phẩm Di - Đà diễn Quốc - Âm
Đệ trình Ngọc - Đế giáng lai lâm
Phủ duyệt kinh chung thông cú đậu
Ngã ban ấn tống khải trần tâm
2) Thanh - Hương Ngọc - Điện hiển linh thông
Tứ - phủ công - đồng giá ngự chung!
Hách hách quyết thanh cầu tất ứng
Phúc thùy Nam Bắc biến đông tây
3) Hương đăng nhật dạ tới ân cần
Phụng đảo khai minh nhất đạo tân
Ngọc Đế loan dư linh điện ngự
Ân ban đàn tín đại công huân.
Quý Dậu niên thập nhất nguyệt sơ lục nhật hợi bài, phụng đảo Thích- Ca Phật -Tổ giá đàn ứng giáng bút đào :
1) Bảo Đinh hương yên đại thượng từng
Di - Đà quốc ngữ soạn thành âm
Thích - Ca giáo chủ thùy từ lực
Bồ - tát, Như - Lai phóng tuệ tâm
Tam thập, tam thiên thừa hạc giá
Vạn thiên vạn thánh hộ lai lâm
Công đồng tứ phủ tiên ban liệt
Phủ duyệt kinh hoàn khắc ấn khâm
2) Tường - vân nguyệt ảnh chiếu hào quang
Nhất đóa hoa khai đại cát tường
Tu - Đức môn đình nghênh Thụy khí
Mãn thiên hồng tử phúc dương dương...
3) Phật tôn hiệu bản Thích - Ca
Giáng đàn phủ duyệt DI - ĐÀ QUỐC ÂM
Từ bi lân mẫn phàm tâm
Giáng lâm điện thượng ứng lâm bút đào
Tuy vận thiên tri tại cao
Chính thực ty dã nhất hào bất sai.
Thượng -Tằng Phật - tổ Như - Lai
Tam thiên Thiên - Đế liệt đài tiên cung
Giá phi phong, nhất phi phong
Lai lâm trắc giáng hội đồng duyệt kinh
Đạo Quang - Minh Tu - Đức Quang - Minh
Gia công tu soạn CHÂN KINH DI ĐÀ
Tam thiên thế giới Ta Bà
Nhất tâm niệm tụng gia gia trình tường
Đồng nhân vật dĩ tầm thường
Trì kinh lợi lạc âm dương lưỡng đồ
Hoặc hà lũy kiếp cứu thù
Trì kinh đoạn duyệt oan thù tiền duyên
Giải trừ nghiệp chướng đa khiên
Giải trừ tam chướng tam duyên thất tình
Tam Đồ lục Đạo chúng - sinh
Đồng - văn thuyết pháp QUANG - MINH DI - ĐÀ
Đoạn trừ lũy kiếp oan gia
Sinh Cực lạc DI ĐÀ TÂY PHƯƠNG
Giáp tuất niên chính nguyệt sơ cửu nhật hợi bài, phụng đảo Quan -Âm- Bồ -Tát giá đàn ứng giáng bút đào:
1) Quan - Âm Bồ - Tát giáng nhân - gian
Phả tế quần sinh Vạn sứ toàn,
Dương - Liễu chi dầu thùy pháp - lực,
Cam - Lồ tịnh thủy ứng linh đan,
Tam - thiên Thế giới tiêu trần - cấu
Vạn ức âm - hồn thoát nghiệp oan,
Khả bảo Âm Dương quần lợi lạc,
Phúc đồng nhân chúng phúc ban ban...
2) Giáp - tuất minh - niên chính đản - kỳ
Ngọc - Hoàng Thượng - Đế giam tâm chi,
Quan - Âm Bồ - Tát thùy bảo thủ,
Ứng bút Di Đà Quốc - ngữ y.
3) Công THÀNH danh toại ức niên HƯƠNG
Thụy khí nghênh lai mãn thất đường
Phức ức Liên - hoa hoa xuất hiện.
Lưỡng hằng loan quế cảnh phần phương.
Giáp - tuất niên tam nguyệt sơ cửu nhật dậu bài, phụng đào Nhiên - Đăng cổ Phật giá đàn ứng giáng bút đào.
1) Thượng cổ Nhiên - Đăng đại giác sư
Linh - văn bí chí riệu chân như
Càn - khôn sáng tạo tam thiên giới
Kinh giáo hoằng khai thượng đinh cư.
Phả chiếu Quang - Minh thiên Vũ trụ
Hoằng khai trí tuệ vạn kinh thư
Tòng tiền hà hữu chí Ngô đạo
Lân mẫn quần sinh tứ phúc dư.
2) Nhữ đẳng đàn sinh đại hữu công
Di - Đà tu soạn cảm năng thông
Cửu - tằng Phật tổ thùy từ lực
Tam Giới Thiên tôn phả hội đồng
Phủ duyệt kinh chung thành phúc quả,
Ngưỡng quan điện thượng ứng kim dung
Thanh Hương phức ức thông tam giới,
Nhữ đẳng đàn sinh đại hữu công.
3) Ta nay về ngự chốn đàn tiền,
Thấy lũ đàn sinh có phúc duyên.
Cho nên mở bảo cho đường lối
Ấn khắc Di Đà tập một thiên.
4) Nhữ đẳng đàn sinh nghi chuyên tâm tri chí san ấn Di - đà quốc âm dĩ di vạn thế chi lương phương dĩ, kỳ phụ nữ nhi đồng dị hiểu dị ngộ, cố Ngã hứa nhữ san ấn chi dĩ thành tập Ngô thi:
Thượng cổ dĩ lai vị giáng trần,
Từ - bi bất xả mẫn phàm nhân
Khai kinh giác thế Quang - Minh đạo
Cố ngã lam đàn cáo nhất chân
TU - ĐỨC TÂM KINH
1) Di đà Như - Lai - Cực lạc giáo chủ - Vương tòng sĩ tử - tưởng niệm gương ích
2) Chí thành chí chân - Niệm tôn Phật hiệu - Huyền huyền riệu - riệu - Cảm ứng linh thông.
3) Khắp hòa chúng nhân - Tâm trai cẩm mật - Nhớ ngày đản nhật (1) - Tưởng niệm rõ ràng.
4) Chuyển tri Minh - Quang, Di - Đà sám nguyện - Một lòng hướng thiện - Tu - Đức phóng sinh.
5) Cảm đạt Thượng - Đình - Phật - Tổ hư vô - Kim quyết chế độ - Tam thanh cung động.
6) Ngưỡng tôn niệm tụng - Công đức vô biên - Như ý ước nên - Tòng tâm sở nguyện.
Lô nhang xạ nhiệt pháp giới mông huân - Chư Phật hải hội, tất giao văn tùy sứ kết tường vân, thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân,
Na - mô hương - vân cái Bồ - Tát ma ha tát (10 chữ này đọc 3 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHÂN NGÔN
Án tu lỵ tu lỵ ma ha tu lỵ, tu tu lỵ tát bà ha (Đọc 3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN
Án sa phà bà phà, chuật đà sa phà, đạt ma sa phà, bà phà chuật độ hám (đọc 3 lần)
ÁN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN
Na - mô tam mãn đá một đà nẫm án độ rô độ rô địa vĩ Tát bà ha (đọc 3 lần).
PHỔ CÚNG DÀNG CHÂN NGÔN
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thụ trì,
Nguyện giải Như - Lai chân thực nghĩa
Na - mô Bản - Sư - Thích - Ca Mầu - Ni - Phật ( 3 lần)
BÀI TỤNG THỨ NHẤT
Đức Phật Di - Đà từ - bi vô lượng,
Thấy đời xa đắm động lòng thương,
Nợ tai ách phiền não trăm đường!
Này oan nghiệp vấn vương nghìn nỗi.
Cuộc thế như sương sa mây nổi
Trò đời tựa gió thổi sóng cồn
Biết bao nhiêu đoạn thảm tình thương,
Sầu tuôn lệ nhiều hơn nước bể
Lò than hồng nấu nung cõi thế,
Đốt, giang, thiêu, xiết kể vần xoay
Cõi trần hải ảo não đọa đầy
Chìm chìm nổi mê say đắm đuối
Đức Di - Đà đại - bi đại đức
Xót muôn loài thương khắp muôn dân,
Thương chúng - sinh u ám tối tăm
Chẳng sám hối chẳng ăn năn tội
Lấn bờ cõi tranh danh, tranh lợi
Cướp đất vườn tương sát tương tàn,
Quỷ quyệt, yêu ma, độc, giữ, tham
Tinh - quái, mỵ tà, hung bạo, ác
Gốc chẳng vun mục hư đổ nát.
Ngọn lại trong tươi tốt được sao
Rễ đạo đức chẳng kính trời cao
Khinh, Luân thường, nhờn ngôi Tam - Bảo
Giai không hiếu lòng kia điên đảo,
Gái chẳng trinh gia nọ dâm hào
Xét tội ác này kể xiết bao,
Ngẫm trò đời thật ngao ngán nỗi,
Đọa đầy xa hang sâu vực tối
Chìm đắm đuối bể thảm sông mê
Đức di đà đại thiện đại - bi
Xót kẻ thế mê si tăm tối
Muốn ai nấy ăn năn sám hối
Vượt bể khổ thoát khỏi sông mê
Phật muốn cho khắp cõi thế ny
Đăng Lạc - quốc tu trì THÀNH ĐẠO
Na - mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại - từ đại - bi Tiếp Dẫn Đạo-Sư A - Di -Đà - Phật (3 lần lễ 3 lễ)
BÀI TỤNG THỨ HAI
Muôn hồng ngàn tía hương sực nức,
Cảnh Tây phương tươi tốt mặn mà
Na mô A - Di Đà - Phật, niệm Na mô A - Di Đà - Phật
(Từ đây trở xuống cứ đọc hai câu lại theo cách niệm Phật như ở câu trên; trong khi niệm ngồi ngay ngắn chắp hai tay vào ngực niệm thật thong thả rõ ràng)
Ngôi giáo - chủ Phật hiệu Di Đà
Độ chúng - sinh hà - sa vô - lượng
Nước cực vui chẳng phiền chẳng muộn
Cầu như lòng ước nguyện ắt nên
Trắng, vàng, đỏ năm sắc hoa sen
Chiếu hòa quang hương tiên ngào ngạt,
Trùng điệp điệp ngắm trông bát ngát,
Chân châu đẳng như cát như sành
San - hô vàng pha - lê hổ phách,
Lưu - ly ngọc lánh đẹp sao
Ca thi kệ tuế nguyệt tiêu rao,
Đồng âm niệm Như - Lai Phật hiệu,
Lại long vũ loan ca phượng khiếu
Hòa âm nhạc tiếng sáo cung đàn
Ngự tòa - Báu Cửu - Phẩm Sen -Vàng
Phật phóng - hiện kim - quang muôn đạo
Cảnh tây phương tốt tươi sắc - sảo
Nước cực lạc bổng đảo Non tiên,
Lòng từ bi có chí ắt nên
Sang nước Phật bông - sen thay sác
Thân vinh hiển đời đời hưởng phước
Danh thơm tho sực nức xa gần
Độ ông bà độ được đứng thân
Ly địa ngục siêu thăng Lạc Quốc
Na - mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại - từ đại - bi Tiếp Dẫn Đạo-Sư A - Di - Đà - Phật (đọc 3 lần lễ 3 lễ)
BÀI TỤNG THỨ BA
Di - Đà Phật Tổ Như - Lai
Hào quang phóng hiệu sáng soi cõi đời
Biến thân vạn ức độ người
Bốn mươi tám nguyện muôn loài nhuần ơn
Lòng từ thương sót nhân gian
Sót thương kẻ thế đàn con ngây đần
Đọa xa đắm dưới trầm luân
Mắt vòng khổ não gian truân tai nàn
Muốn cho ai nấy ăn năn
Muốn cho muôn nước muôn dân đến bờ
Phép Phật vô lượng hà sa
Vô cùng vô cực thực là linh thông
Siêu tam giới độ thiên nhân
Phép Phật quảng đại hoằng thâm diệu huyền
Khuyên ai tâm phải luyện rèn
Tu trì một đạo quyết kiên một lòng
Tịnh tâm Phật hiện tại tâm
Tâm tức thịnh Phật gia công tu trì
Tâm mau tỉnh chớ kinh khi!
Ngày giờ giây phút xét suy vấn lòng
Tâm mau sửa phải chuyên cần
Rũa, mài, ngột, rửa bụi trần dũ thanh
Tâm mau luyện dạ đinh ninh
Sạch - trong sáng suốt thinh thinh tấm lòng
Đạo đâu xa? chính là gần!
Xa gần cũng bởi tự lòng trần gian
Gan kiên quyết dạ uy cường
Vực sâu chớ thoái! sóng cồn đừng lui!
Lòng tinh - tiến trí việt - siêu
Bể to cố vượt! Núi cao quyết chèo!
Lòng nên thắm dạ chớ phai
Sắt kia có lúc gọt mài nên kim
Gan phải vứng trí phải bền
Đá này sửa rũa ắt nên ngọc lành
Na - mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại - từ đại - bi Tiếp Dẫn Đạo - Sư A - Di -Đà - Phật (đọc 3 lần lễ 3 lễ)
BÀI TỤNG THỨ TƯ
1) Di - đà Như - Lai - Công đức hằng hà - thấy đời đắm sa - Động lòng thương sót.
Na-mô A-Di-Đà Phật, niệm Na-mô A-Di-Đà Phật.
(Từ đây trở xuống cũng theo như trên, cứ cách hai giòng nghĩa là 4 câu lại theo cách niệm Phật như trên - Nếu thì giờ co hẹp thì cứ tụng luôn không niệm cũng được)
2) Muốn cho muôn nước - Cõi thế Ta - Bà - Ai nấy sinh ra - Đồng đăng bi ngạn.
3) Cứu chư khổ nạn - Bách ức hóa thân - Pháp lực hoằng thâm - Huyền huyền diệu - diệu.
4) Bi quang biến chiểu - Hiện ánh mười phương - Quế xạ tiên hương - ngạt ngào ba cõi.
5) Tiêu khiển giải tội - Đoạn chướng trừ căn - rẩy tưới muôn dân - Cảnh dượng nước phép.
6) Ai ơi! suy xét - Ngắm cảnh trần hoàn - Hợp hợp tan tan - Chìm chìm nổi nổi.
7) Tơ vò bối rối - Phiền não lo toan - Chua chát trăm đàng - Đắng cay ngàn nỗi.
8) Tanh hôi đen tối - Lụy tục cấu trần - Thiết thiết cần cần - Chân thành sám hối.
9) Khắp hòa thế giới - Muôn giống muôn loài - Tưởng niệm Như - Lai - Di Đà Phật hiệu.
10) Linh thông huyền diệu - Cảm ứng nhiệm màu - Như ý sở cầu - Tòng tâm sở nguyện.
11) Niệm Phật Phật hiện - Phóng đại Quang - Minh - Cứu độ tiên linh - Thoát vòng khổ hải.
12) Thân tâm khoan khoái - Phiền não diệt tiêu - Quỷ mỵ tà yêu - Chẳng hề sám nhiễu.
13) Niệm tôn hiệu Phật - Đoạn chư nghiệp duyên - Bệnh tật triền miên - Oan gia túc trái.
14) An ninh khang thái - Khánh cát hưng long - Bách phúc biến trăn - Thiên tường vân tập.
15) Niệm tôn Phật hiệu - Công đức vô biên - Thấu đạt cửu Thiên - Cảm thông tam giới.
16) Qua vòng đen tối - Thoát chốn lửa lò - Lục đạo tam đồ - Luân hồi sinh tử.
17) Cửa then hằng mở - Cảnh Phật hẹp chi - Bền dạ tu trì - Ra công rèn luyện.
18) Quảng - hành phương tiện - Tích đức âm công - Tuyệt tham sân si - Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt.
19) Tâm cho kiên quyết - chí phải việt siêu - Sớm tối nguyện cầu - Ngày đêm tụng niệm.
20) Chờ người duyên thiện - Tiếp dẫn Tây - Thiên - Đón kẻ quyết kiên - Độ siêu Lạc - quốc.
Na mô Tây Phương Cực - Lạc thế giới đại -từ đại - bi Tiếp dẫn Đạo sư A -Di - Đà - Phật. (Đọc 3 lần, lễ 3 lễ)
BÀI TỤNG THỨ NĂM
1) Nay đệ tử mỗ thị mỗ danh - Hướng thiện quy Tu - Đức Quang - Minh - Chuyên tâm niệm Lục tự hồng danh - Nguyện Như - Lai chứng minh công đức.
2) Nhất tâm thành quy đạo Quang - Minh - Luyện Di - Đà Lục tự hồng danh - Nước Cực - Lạc sen báu hiện hình - Hà xa số vô biên công đức.
3) Khởi tinh thần gắng công ra sức - Dốc lòng tin chớ hoặc đừng ngờ - Thuyền Bát nhà Phật đã đón chờ - Hẳn có lúc qua bờ xuống bến!
4) Đại nhẫn kiên việt siêu tịnh tiến - Tâm bất loạn trì niệm liên liên - Niệm Phật chuyên hoa đẹp tươi thêm - Khai mở nhị bông sen thay sác.
5) Về nước Phật nghe nhời thuyết pháp - Minh chân lý ly ác tỉnh tâm - Chuyển lục căn tức hòa lục Thông - Chứng Diệu đạo chính chân chính giác.
6) Niệm Phật duyệt tiêu lũy kiếp khiên
Thoát vòng khổ hải vàng Tây - Thiên
Di - Đà Lạc quốc then hằng mở
Quyết trí ai ơi! ắt được nên!
7) Sen vàng choi chói cảnh Tây - Thiên
Tòa Báu còn chờ kẻ quyết kiên
Luyện luyện rèn rèn mau tỉnh giấc
Cứu mình qua bến vượt mê xuyên.
A - Di - Đà Phật thâm kim sắc
Tướng hảo Quang - Minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di.
Hám mục chừng thanh tứ đại hải
Quang chung hóa Phật vô số ức
Hóa Bồ - Tát chúng riệc vô biên
Tứ thập bát nguyện độ chúng - sinh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Na mô Tây - Phương Cực Lạc Thế giới đại - từ đại - bi A - Di Đà Phật.
Na mô Tây Phương Cực lạc, thế giới tam thập lục, vạn ức thập nhất vạn cửu thiên, ngũ bách đồng danh, đồng hiệu đại - từ đại - bi Tiếp Dẫn đạo sư A di đà Phật (đọc ba lần).
Na mô A di đà Phật ( 3 tràng )
Na - mô quán thế âm Bồ - Tát (đọc 10 lần)
Na - mô Đại - Thế chí Bồ - Tát (10 lần)
Na - Mô thanh tịnh Đại Hải - Chúng Bồ - Tát (10 lần).
TỰ QUY
Tự quy y Phật đương nguyện chúng - sinh thể giải đại đạo - phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp đương nguyện chúng - sinh thâm nhập kinh tạng trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng đương nguyện chúng - sinh thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại.
Hòa nam Thánh chúng - Nguyện dĩ thử công đức. Phổ cập ư nhất thiết - Ngã đẳng đủ chúng - sinh - giai cộng thành Phật Đạo.
(Hết phẩm đệ tứ).
QUANG - MINH TU - ĐỨC TÂM KINH CHUNG
NHỜI DẶN TỐI CẦN - Đến đây là vừa hết kinh
QUANG - MINH TU - ĐỨC - Chia ra như sau này:
Quang - Minh Tu - Đức kinh 4 phẩm, Quang - Minh Tu - Đức Tâm Kinh 4 phẩm; cộng cả thảy 8 phẩm cũng như 8 quyển kinh riêng khác nhau. Vậy trong khi tụng cả quyển kinh. Tụng một phần hoặc hai ba phầm cũng được, nhiều ít tùy theo thời gian nhàn dỗi hoặc bận rộn, nhưng khi tụng xong rồi bao giờ cũng phải đọc 5 bài như: 1) Niệm Phật - 2 ) Bát nhã - 3) Sám hối - 4) Phát nguyện 5) Tự quy theo thứ tự như dưới này:
1) A - di - đà - Phật thân kim sắc, Tướng hảo đoan nghiêm vô đẳng luân, bạch hảo uyển chuyện ngũ Tu Di, Hám mục chừng thanh tứ đại hải. Quanh chung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ - Tát chúng riệc vô biên, Tứ thập bát - nguyện độ chúng - sinh, Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Na - Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn, cửu thiên ngũ bách đồng danh, đồng hiệu, đại - từ đại - bi Tiếp dẫn đạo sư A - Di - Đà - Phật.
Na mô A di đà Phật (100 lần trở lên)
Na mô Quán Thế Âm Bồ - Tát (10 lần trở lên)
Na Mô Đại - Thế - Chí Bồ-Tát (10 lần)
Na Mô thanh tịnh Đại Hải chúng Bồ - Tát. (10 lần)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quán ngại, vô quán ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế, Yết-đế, Ba La Yết-đế, Ba La Tăng Yết-đế, Bồ-Đề Tát Bà Ha – Ma ha bát nhã ba la mật đa ( 3 lần )
Bát nhã tâm kinh quan tự - tại, cố tâm vô quản ngại, việt siêu khổ hải đại minh thần chú diệt trừ tai, ngũ uẩn không pháp thể chu sa giới ngũ uẩn không pháp Thể chu sa giới.
Na mô Quan tự tại Bồ - Tát ma - ha -tát.(10 đọc 3 lần)
3) SÁM -HỐI VĂN
1) Hối tội chẳng hiếu mẹ cha 2) Chẳng trung tội chẳng hòa phu thê. 3) Hối tội chẳng tín bạn bè. 4) Nghĩa thầy không báo xa lìa anh em. 5) Hối lòng quỷ quyệt gian tham. 6) Hối nhời giả giối phũ phàng điêu ngoa. 7) Hối khi nguyền rủa hét la. 8) Hối lúc nóng nảy tính đà hung hăng. 9 Hối lòng ác độc kiêu căng. 10) Chê nhạo báng hối tâm chẳng lành. 11) Hối không cung kính trời xanh. 12) Hối nhờn Tam bảo Thần minh Thánh Hiền, 13) Hối tâm chẳng nhẫn chẳng kiên.14) Hối lòng chẳng luyện, chẳng rèn, chẳng tu. 15) Hối tâm không chính không từ. 16) Hối lòng tà khúc u mờ hoặc nghi. 17) Tiếng dâm tai hối hằng nghe. 18) Sắc đẹp mắt hối ngó mơ tưởng càn. 19) Xướng ca hối tính hay đam. 20) Rượu chè hối lúc mê man lẫn nhầm. 21) Hối lòng gợn vẩn tối tăm. 22) Không cần uốn nắn chẳng chăm rũa mài. 23) Hối muộn ức tội nhầm sai. 24) Hối trăm nghìn nỗi hối nhời hối tâm.
4) BÀI PHÁT NGUYỆN NÔM
1) Phát nguyện Sám - hối. 2) Khiết tịnh Tam nghiệp. 3) Đại chính định tâm. 4) Kính cẩn thành ý 5) Khai trí tuệ căn. 6) Minh kỳ chân ly. 7) Đoạn tuyệt nghiệp Trần. 8) Bất hoại Thân Tâm. 9) Thành chứng Bồ - Đề
1) Sám hối NGUYỆN Phật hộ trì
Khuể thủ khấu thủ Quy y chân thành (một lễ)
2) Tam nghiệp NGUYỆN khiết, tịnh, thanh.
Tham, Sân, si ám lục căn đoạn trừ ( 1 lễ)
Định tâm NGUYỆN bất dịch di
Chẳng điên đảo tính chẳng mê loạn cuồng (một lễ)
Thành ý NGUYỆN tín một đường
Chẳng rẽ nẻo Quỷ lạy đường tà ma ( 1 lễ)
Tuệ căn NGUYỆN khai mở ra
Quang - Minh chiếu diệu cần xa muôn chùng( một lễ)
Chân lý NGUYỆN sáng tỏ tường
Qua vòng hối ám tới đường chính chân (một lễ)
Nghiệp Trần NGUYỆN rũ sạch thanh
Tội khiên tiêu duyệt chung căn đoạn trừ (một lễ)
Thâm tâm NGUYỆN chẳng hoại hư
Tinh anh kết ngọc Chân như vững bền (một lễ)
Bỏ đi nguyện chung hoàn viên
Đời đời ngự tọa KIM LIÊN NGỌC ĐÀI (một lễ)
TỰ QUY
Tự quy y Phật đương nguyện chúng - sinh thể giải đại đạo - phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp đương nguyện chúng - sinh thâm nhập kinh tạng trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng đương nguyện chúng - sinh thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại.
Hòa nam Thánh chúng - Nguyện dĩ thử công đức. Phổ cập ư nhất thiết - Ngã đẳng dữ chúng - sinh - giai cộng thành Phật Đạo.
Last edited by phamhuuthao.1964; 30-09-2016 at 11:22 AM. Lý do: lỗi
HIỂU ĐÚNG THẾ NÀO LÀ YÊN CĂN, YÊN SỐ
Có lẽ mệnh làm tôi chẳng mong cầu gì hơn là bản thân có thể "yên căn, yên số, yên sổ thiên đình". Mong cầu là thế, nhưng để hiểu thế nào cho đúng thì không đơn giản.
1. Yên căn, yên số là gì?
Người như thế nào là chưa yên căn yên số:
+ Người có căn số chưa trình đồng mở phủ: Những người này đang trong vòng cơ hành, trả nghiệp. Tuỳ vào phúc phận, duyên nghiệp mà mỗi người sẽ bị cơ hành khác nhau: cơ tiền, cơ tâm, cơ tình, cơ sức khoẻ, cơ kết hợp.
+ Người đã trình đồng mở phủ có những biểu hiện sau đây:
- Vẫn chưa thoát khỏi vòng cơ hành, cuộc sống vẫn đảo điên thậm trí còn cùng cực hơn trước.
- Trên sập hầu nhưng bản thân cảm thấy không hoan hỉ, vui tươi, cảm thấy mình làm lỗi làm sai gì đó nhưng không tự mình lý giải được,
- Đêm hôm vẫn mơ mộng đi đền đi phủ, mơ hết vị thánh này đến vị thánh kia về báo, mỗi lúc một kiểu lúc rõ ràng, lúc mơ hồ, hoặc mơ thấy ma quỷ, đi lang thang nghĩa trang, bị rượt đuổi...
- Đi lễ đền, phủ bị ốp bóng, đảo bóng, khóc lóc, quỳ lậy, mất kiểm soát.
- Thỉnh thoảng bị hết người này đến người kia ốp vào tự xưng là bóng thánh, gia tiên, vong...
- Ra hầu rồi vẫn hoang mang không biết ai là người cầm bản mệnh của mình (có người ra hầu nhưng thầy mở phủ không nói ai là người cầm bản mệnh, nói chung chung, hoặc nói theo kiểu căn người này, bóng người kia, ăn lộc người này, sát người kia...), hoặc biết nhưng vẫn cảm thấy có gì đó không đúng, không có cơ sở để tin...
- Thần tâm bất ổn, lúc nóng lúc lạnh, có những lúc mất kiểm soát như không phải mình, mất cân bằng cuộc sống, hoang mang lo sợ, mất niềm tin.
2. Tại sao người đã trình đồng mở phủ, bắc ghế cha ngồi bắc ngôi mẹ ngự mà vẫn chưa được yên căn yên số. Có thể có những lý do sau đây
+ Do đồng thầy
"Làm lính có công, làm đồng có phép", không phải đồng nào cũng được cha mẹ giao cho chức phận làm "Đồng thầy", đồng hầu, đồng pháp, đồng dí, đồng soi, đồng chữa không được phép trình đồng mở phủ cho đồng con, nhưng vô tình hoặc tự ý làm đồng thầy dẫn đến làm sai, không mở thông được 4 phủ cho con đồng.
Việc đồng thầy có khả năng mở phủ hay không, không thể nhìn bằng mắt dương được, vì vậy tốt nhất trước khi các bạn định theo đồng thầy nào trước hết phải tỉnh táo suy nghĩ thực tế xem người thầy đó có đủ tư cách, đủ tâm, đủ tài để dẫn dắt mình không?
Những người thầy đã dẫn dắt hiện nay họ ra sao? cách thức, phong thái thầy làm việc như thế nào? Cái thứ hai là các bạn có thể sắm lễ ra đền thờ thánh nào linh thiêng, vào ban mẫu kêu xin mẫu, bề trên soi xét, soi đường chỉ lối cho mình "con nhất tâm 1 lòng 1 dạ quy hàng phật thánh, sám hối nghiệp duyên, con muốn tìm đồng thầy đủ tâm đủ đức đủ tài chỉ bảo dẫn dắt con, nay con biết đồng thầy tên...địa chỉ..., nếu người đó cơ duyên làm thầy của con xin cha mẹ cho con 1 đồng nhất âm nhất dương" sau đó bạn gieo đài xin.
- Do đồng thầy căn thấp, đồng con căn cao hơn, dẫn đến việc soi sai người cầm bản mệnh, hoặc soi đúng cũng không mở được. (đồng thầy căn hàng nào chỉ có thể mở cho đồng con căn ngang hàng hoặc thấp hơn, không mở được cho người căn cao hơn mình)
- Đồng thầy theo tà ma ngoại đạo, đồng thầy phủ thuỷ, mượn uy danh nhà thánh làm việc thánh thực chất thờ âm binh, ma quỷ, tà đạo...
+ Do đồng con
Đồng con mặc dù được dẫn trình đúng cửa, mở thông 4 phủ, nhưng do sái tâm dẫn đến quay cuồng, đảo điên, tâm thần bất yên
- Sái tâm vì tiền: rất nhiều đồng con bắc ghế hầu cha hầu mẹ với suy nghĩ để xin lộc xin tài, xin ngân xin xuyến mà không hiểu rõ 1 điều bản thân việc bắc ghế hầu cha mẹ là trước là để tạ ơn cha mẹ, sau để tự tu lập bản thân theo chính đạo, bản thân mình phải tự cố gắng chứ không có chuyện ngồi 1 chỗ và mong cầu cha mẹ bàn tài ban lộc cho.
Càng hy vọng thì càng thất vọng, càng mong cầu thì càng đảo điên, càng tìm càng không thấy, càng muốn nhiều thì càng thấy ít, dẫn đến loạn tâm, quay cuồng trong chữ tiền từ đó chuyển sang oán trách cha mẹ, đồng thầy...
- Sái tâm vì háo danh, ham đạo: nhiều người căn cô căn cậu nhưng đi đâu cũng vỗ ngực là con mẫu, con quan, người chỉ là đồng hầu nhưng hầu xong lại mong cầu nhà thánh ban cho khả năng soi âm soi dương, làm thầy, được cái này lại muốn cái kia, lòng tham vô đáy, hậu quả là loạn tâm, tâm ma dẫn dắt rồi dẫn đến hại người hại cả bản thân mình.
Khả năng của mỗi người là do cha mẹ sắp đặt ban cho, quyền lợi cũng đi kèm với gánh nặng, trách nhiệm chứ không oai, không hách gì cái việc làm thầy, làm thầy có chắc vững được tâm, làm đúng đạo, giúp đời giúp người hay có khả năng trong tay rồi vì tham tiền dẫn để làm sai làm láo...
Nếu cứ làm sai mà bị phạt, bị chịu hậu quả ngay có lẽ không thầy nào dám làm, nhưng rất nhiều thầy chỉ nhìn được cái lợi trước mắt mà không nhìn được cái hoạ về sau, tới lúc bản thân tan nát, vận cả vào gia đình con cái, nhận ra thì đã quá muộn.
3. Kết luận: Yên căn yên số là gì? Làm thế nào để yên căn yên số
Yên căn yên số là việc con nhà tứ phủ được đồng thầy dẫn trình đúng cửa cha cửa mẹ, bắc ghế hầu cha mẹ, mở thông bốn phủ.
Bản thân đồng 1 lòng quy hàng phật thánh, sám hối nghiệp duyên, an tâm, biết đúng biết sai tu sửa bản thân theo con đường chính đạo.
Bản thân cảm thấy nhẹ nhõm, cuộc sống dần trở về bình thường trước lúc bị cơ hành, đồng hầu bắt đầu cân bằng cuộc sống, lo làm ăn, gia đình và tu đạo, những đồng sau được cha mẹ giao phó cho làm đồng soi, đồng pháp, đồng chữa...thì bắt đầu quá trình cân bằng âm dương, học hỏi, tu lập trước khi làm việc.
Mong rằng sau bài viết này các bạn có cái nhìn đúng về "yên căn, yên số" từ đó có những quyết định tỉnh táo cho bản thân khi bước vào con đường tu đạo.
Sưu Tầm
Các kiểu Cơ Hành
Mỗi người một căn, một số phận khác nhau vì vậy khi bước vào vòng cơ hành cũng mỗi người một khác không ai giống ai, xin tổng hợp và sưu tầm 1 số kiểu cơ hành chính mà nhiều người gặp phải.
1. Cơ tiền.
Đời sống con người nằm trong sự tương tác của nhiều mặt, nhiều yếu tố, trong đó tài chính là một phần có ảnh hưởng không nhỏ. Đây cũng là một trong những phương diện hay bị ảnh hưởng trong thời điểm cơ hành nhất.
Tuỳ từng công việc và khả năng tài chính của mỗi người mà cơ hành lại khác nhau, có người làm công ăn lương đang yên đang lành thì bị giáng chức, chuyển công tác, chuyển vị trí ( đang từ vị trí tốt sang vị trí kém hơn, ít bổng lộc hơn …) hoặc tệ hơn nữa là mất việc.
Người làm nghề tự do, kinh doanh buôn bán, hay chủ doanh nghiệp thì lại có vô vàn kiểu cơ về tiền bạc. Có nhiều người đang làm ăn lâu năm ổn định thì bỗng công việc trục trặc, thua lỗ, càng xoay sở thì càng bế tắc, càng vùng vẩy cố tìm cách vực lại thì càng mất mát, có người còn vỡ nợ, lao vào vòng lao lý…
Có những người chẳng mưu cầu gì giàu sang, chỉ mong đủ ăn đủ sống nhưng vẫn lận đận mãi không tìm được công việc ổn định, làm gì cũng khó khăn đụng đâu hỏng đấy. Nhiều người làm được nhưng không đọng được của, chi phí phát sinh nhiều, hao tài tán của.
Cần phân biệt rõ cơ hành khác với vận hạn. Trong cuộc đời con người thì luôn có lúc thăng lúc trầm, lúc khó khăn lúc may mắn, chuyện tiền bạc sự nghiệp cũng vây, tuy nhiên vận hạn thì chỉ có tính thời kì và thường trong thách thức vẫn có cơ hội, trong rủi vẫn có may, lúc gặp hạn thì cuối đường vẫn có lối thoát. Còn khi bị cơ hành thì dài kì, nhiều nỗi éo le, giông tố chưa qua phong ba đã tới, liên tiếp tối tăm mặt mũi, xoay sở kiểu gì cũng không thấy lối thoát.
Bên cạnh đó, trong cơ hành về tiền bạc thì không thể không nói đến trường hợp cơ Giàu Xổi.
Có nhiều người bỗng nhiên làm ăn gặp người, gặp của, lên như diều gặp gió, may mắn thuận lợi liên miên mà chính người ta cũng không thể tưởng tượng được.
Thực chất của việc giàu xổi là cơ hội thứ 2 cho người bị cơ hành ( thường trước đó người đó đã biết đến việc mình có căn quả phải ra trình đồng mở phủ), đó là việc cha mẹ cho đồng ngân đồng xuyến để ra trình thánh, nhưng thói đời thường ngủ quên trên chiến thắng, lúc trên đỉnh vinh quang không ai nghĩ mình có thể xuống dốc, có người con tự tin rằng mình làm được là do nội lực của bản thân không thế lực nào có thể đánh đổ được cho đến khi mất tất cả mới thức tỉnh.
2. Cơ tình
Rất nhiều bạn có chia sẻ về những trục trặc về chuyện tình cảm trong thời gian cơ hành.Nhiều bạn mặc dù ngoại hình ưa nhìn, công việc tốt nhưng nhiều năm cứ lận đận về đường tình duyên, yêu ai cứ được một thời gian thì lại cãi cọ chia ly, nhiều tuổi mà vẫn chưa kết hôn.
Có bạn thì đã có gia đình nhưng hạnh phúc gia đình liên tục gặp xung đột, vợ chồng khắc khẩu, cãi vã thậm chí đánh đập lẫn nhau…và trong lúc bế tắc, tuyệt vọng các bạn cũng tìm đến các thầy với hy vọng có thể cứu vớt được hạnh phúc của mình trên bờ vực của chia ly.
Các thầy soi ra bói thấy được với rất nhiều lý do: không hợp tuổi, nằm trong cung xung khắc, cưới nhau vào ngày giờ xấu, có vong âm theo vợ ( hoặc chồng) quấy phá, rồi làm đủ thứ lễ: di cung hoán số, kết dây tơ hồng, làm bùa yêu, ngải… Thế rồi tiền mất tật mang vợ chồng vẫn chia ly, không biết rằng là do căn quả mà nên, âu cũng do phúc mỏng nghiệp dày không gặp được người có tâm soi sáng.
3. Cơ sức khỏe
Sức khoẻ là yếu tố quan trọng nhất với đời sống con người, có sức khoẻ là có tất cả. Có nhiều người bỗng dưng đang khoẻ mạnh lăn đùng ra ốm, cứ đi khám thì hết bệnh ( hoặc không ra bệnh ), đi khám các nơi, uống đủ thứ thuốc cũng không hết.
Tới khi tìm đến các thầy soi ra mới biết do mình căn quả, phải bắc ghế hầu cha mẹ mới yên căn yên số hết bệnh. Các bạn lưu ý, đoán đúng được nguyên nhân của mình là do căn quả, nhưng nếu trình đồng mở phủ sai do làm sai phép, hay do đoán sai người cầm bản mệnh (căn người này lại đi hầu người khác) thì có thể bệnh không giảm còn nặng hơn, cuộc sống trở nên khó khăn vất vả hơn lúc trước.
4. Cơ tâm.
Có những người bỗng dưng được nhà thánh ban cho những khả năng phi thường như soi bói, nhìn âm, nghe âm tuy rằng họ vẫn chưa mở phủ, được gọi là đồng nổi.
Những người này khi mới nổi thường xem rất chuẩn, nhìn âm nét, nói chuyện với người âm thông thạo, cho xuất bóng đến các nơi để soi xét. Thường đồng nổi nghĩ mình chưa ra hầu đã được như vậy, tâm sinh tự mãn, cho rằng mình là tài giỏi hơn người, thân phận cao quý, khi nào thích hầu thì hầu, không thích thì cũng chẳng sao.
Thực chất của việc cho lộc nổi, trước tiên là để cho đồng biết đến căn quả của mình, thứ hai là cho cơ hội để tạo tiếng tăm nhiều người biết đến trước khi chính thức được lệnh làm việc. Ngoài ra có một số trường hợp khác khi được ban lộc âm thì trở nên sợ hãi phải hầu hạ dạ vâng nhà thánh, không muốn tu theo con đường chính đạo vì sợ gian nan vất vả.
Ngoài ra, cơ tâm còn có một dạng khác đó là trong thời gian bị cơ hành, thân tâm luôn điên đảo, bất an, thần kinh căng thẳng sinh ra cáu bẳn, nổi giận hoặc sợ hãi vô cớ. Tuy nhiên đây vẫn được coi là cơ tâm dạng nhẹ. Cơ hành nặng đó là bỗng nhiên thích làm những việc quái dị như thích ăn thịt sống, lối sống trở nên dị biệt theo hướng tiêu cực, hôn ám. Cá biệt, có một số trường hợp cơ hành lâu ngày còn bị xui khiến làm một số việc tà quái như tự tử, hại người…
Trường hợp cơ bị điên thì xưa nay lại càng phổ biến.
Đây là kiểu cơ phức tạp nhất, khi đã cơ tâm thì mỗi người một kiểu, mỗi người một câu chuyện không ai giống ai. Cơ tâm cũng là dạng cơ có sức ảnh hưởng mạnh nhất vì nó tác động trực tiếp đến tâm lý và sức khỏe tâm thần của con người, bản thân con người không chủ động kiểm soát hay điều chỉnh được.
5. Cơ kết hợp.
Trên thực tế, ít người bị cơ đơn thuần một kiểu (chỉ bị cơ về tiền, chỉ bị cơ về sức khỏe…). Nếu có, đó là những người được cho là vẫn còn may mắn, phúc phận còn dày. Còn lại, đã có nhiều trường hợp cùng lúc bị cơ về nhiều mặt, vận rủi liên tiếp, tứ bề thọ địch.
Đời sống trở nên tối như đêm, dày như đất. Ví dụ có người vừa gặp không may trong làm ăn (cơ tiền) vừa đột nhiên gặp bệnh (cơ sức khỏe); có người không may mắn trong tình cảm (cơ tình) đồng thời tài chính cũng đi xuống (cơ tiền)…
Như vậy, có thể thấy cơ hành thiên biến vạn hóa, có rất nhiều kiểu; mức độ cơ hành cũng phụ thuộc vào duyên nghiệp của mỗi người, mỗi dòng họ. Khi ai đã vào vòng cơ hành có nghĩa là người đó có mắc nợ hồng ân Bốn phủ, chắc chắn người đó phải ra trình Cha tấu Mẹ, cắt tóc làm tôi nối đời làm con.
Cơ hành không hóa giải hoặc hóa giải sai giống như nợ chồng lên nợ. Xin khẳng định lại lần nữa là việc căn quả không thể khất hay tiễn giải được. Vậy đối với những người chưa từng tiếp xúc với công việc Tiên Thánh hay chưa có điều kiện để ra bắc ghế Mẹ ngồi bắc ngôi Cha ngự, làm thế nào để nới ách cơ hành?
Trước tiên về phần âm đó là cậy nhờ gia tiên kêu thay lạy đỡ cho con cháu nơi Tiên cung cửa Thánh; chỉ dạy mách bảo cho con cháu tìm đến người thày tâm đức có khả năng giúp con cháu tìm về hầu hạ đúng căn đúng cửa.
Đồng thời bản thân người có mệnh con tôi Tứ Phủ cũng cần biết thành tâm kêu cầu cửa Thánh, nhất tâm quy hàng; sám hối nghiệp duyên đã gây ra, khởi niệm tâm lành, hành trì thiện sự.
Trên đây là một số tổng hợp và chia sẻ về Cơ hành. Đạo làm tôi Thánh kết miền trần châu, hi vọng đã phần nào giúp ích được cho các lính ghế gần xa đã, đang và sắp trở thành tôi con phụng sự Cửa Đình thần Tam Tứ Phủ. Ngưỡng nguyện Hội đồng Tiên Thánh khuông phù bảo trợ, giáng phúc trừ tai hai hàng bốn phủ !
Sưu Tầm
Cho xin cách liên hệ
TÂM SỰ CỦA MỘT THANH ĐỒNG
Việc bắc ghế cho ngài ngồi, bắc ngai cho ngài ngự là con đường mà tôi và các bạn đang đi, đó cũng chính là con đường để TU THÂN của mỗi Đồng nhân. Có thể 10 năm 20 năm hay thậm chí lâu hơn nữa quay đầu nhìn lại quãng đường mình đã qua và nhận ra rằng " ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần" Không phải ngẫu nhiên mà lại có tạ bách nhật và có giai đoạn “ 3 năm thử lính 9 năm thử đồng”. Con đường Tu nào mà chẳng có chông gai phải không các bạn?
Có khó khăn thì mới quý trong những gì mình vất vả để đạt được. 100 ngày sau mở phủ chính là giai đoạn khảo tâm con đồng, và “ 3 năm thử lính 9 năm thử đồng” là quá trình thử thách để thanh đồng có đủ sự chín chắn trong cuộc sống, tuổi đời và trong công việc tâm linh.
TU THÂN: Sau khi mở phủ bị khảo Tâm bằng hình thức cho khả năng tâm linh hơn người, nhưng thay vì chịu khó tu sửa, khiêm tốn, cầu thị học hỏi thì lại trở nên cao ngạo, càng cao thì đến lúc ngã lại càng đau, không sớm nhận ra mà tự sửa, một ngày không xa cha mẹ thu quyền thu phép lại thêm cơ Tâm loạn bóng, lúc đó biết kêu ai cho thấu đây.
Sau khi mở phủ sinh tâm mong cầu lợi lộc, danh vọng. Bạn nghĩ đơn giản, tôi mở phủ nhiều ngân nhiều xuyến thì cha mẹ sẽ ban tài tiếp lộc cho tôi để bù lại.
Cứ chờ thể nào sung sẽ rụng, sung thì chả thấy đâu mà người thì điên cuồng lên vì tâm mong cầu không đạt được.
Lại cũng có bạn nghĩ mở phủ xong tôi sẽ được dạy soi bói, khai nhãn nhĩ và những điều thần thông khác.
Càng chờ càng bặt tăm. Đồng con không đạt sở nguyện liền sinh ra oán trách Đồng thầy, rồi xoay khăn tứ tung, càng xoay càng bấn loạn.
Ví dụ điển hình như vậy và còn rất nhiều biến thể khác. Tất cả đều do lòng THAM mà ra. Có vượt qua được 100 ngày khảo ấy là do chính bản thân tự khởi tâm thanh tịnh, thay vì phóng tâm ham cầu ta hãy thu tâm lại, tĩnh lặng mà TU.
Tu không mong cầu gì. Chỉ nguyện một điều duy nhất là xin cho con thân tâm thường an lạc. Mọi việc hãy để cha mẹ, gia tiên và đồng thầy của các bạn sắp xếp.
Làm được như vậy tâm sẽ nghĩ thông suốt, từ chỗ chưa yên sẽ yên dần dần, gia đạo thuận hoà, công việc thuận lợi, thuyền xuôi một bến nước chảy một dòng.
TU NHÀ: Sau khi mở phủ các cụ tổ tiên lo lắm, tổ cô sẽ cắt cử một hương linh trong dòng họ đi theo để uốn nắn con cháu mình không đi sai đường. Được Âm phần độ cho chúng ta cũng phải xuất tâm báo đáp. Sớm thay hoa chiều lọc nước hương khói thờ phụng kêu cầu gia tiên hàng ngày.
Khi lên hương chỉ cần kêu xin: “ Con tuổi còn trẻ đầu còn xanh âm phần thờ phụng còn sơ mơ lầm lỗi chưa lo tròn, cúi xin gia tiên thương xót mách bảo chỉ đường cho con biết đường thờ phụng. Nay con đồng tân lính mới nương nhờ phép tứ phủ tu tâm dưỡng tính, cúi xin gia tiên có lời tấu cửa cha cửa mẹ cho con được nhất một lòng tòng một đạo, được yên căn yên số, thuyền xuôi một bến nước chảy một dòng” Làm được điều này sẽ tránh được cảnh đi sai đường, sai là gia tiên chỉnh cho, nhầm lỗi gia tiên kêu cầu các cung các cửa cho con cháu mình được trọn vẹn quả tu.
NHẤT TÂM THEO THẦY: Đây chính là một điểm các bạn thường mắc phải, thầy đã trình cho bạn đúng cửa, đúng phép nhà ngài, 4 phủ đã mở, mã đã nhận, nhưng các bạn cứ chờ mãi chả thấy cuộc sống xoay chuyển gì, rồi sinh lòng oán trách đồng thầy. Làm như vậy là trái đạo lý " trên theo phật thánh dưới theo đồng thầy", muốn lên bậc Đại học thì phải lần lượt qua các bậc tiểu học, việc đồng con yên dần phụ thuộc vào việc tu tâm dưỡng tính của đồng con và nhất tâm theo thầy. Người thầy sẽ uốn nắn cho lề lối hầu thánh, tu tâm ra sao, đối nhân xử thế, đường ăn lẽ ở cho chu toàn, không thầy đố mày làm nên câu nói từ ngàn xưa có sai đâu.
CHĂM CHỈ TÍCH PHÚC: Nhiều bạn còn chưa chú ý đến điều này, các bạn hãy mở tâm ra chia sẻ khó khăn với người nghèo, một miếng khi đói bằng một gói khi no, thực hành bố thí và phóng sinh sẽ giúp chúng ta mở tâm từ bi, trí huệ khai mở, chúng ta tích phúc hành thiện để cho bản thân ta và thế hệ tương lai hưởng cái phúc ẩm tổ tiên sâu giầy ấy.Đã bao giờ các bạn đứng trước một Hồ nước phẳng lặng và thầm nghĩ ước gì tâm mình đươc tĩnh lặng và dịu mát, trong lành như mặt hồ kia ?
ĐỊNH TÂM chính là điều mà tất cả mọi người, mọi thanh đồng đều mong muốn. Một lúc nào đó khi đạt đến ngưỡng của tâm tịnh, các bạn sẽ cảm nhận thấy cuộc sống dễ chịu biết bao, mọi lo âu buồn phiền phút chốc tan dần.
Điều cuối cùng khi bị loạn bóng, rực bóng, tâm bấn loạn, hãy ngồi tĩnh lặng, mắt nhắm, hít thật sâu giữ yên vài giây rồi thở ra và quán tưởng mọi nỗi buồn phiền đi ra cùng hơi thở. Chỉ 5, 10 phút ngồi thiền như vậy các bạn sẽ thấy mọi việc thật dễ dàng.
Bài viết tâm sự này mình xin dành tặng cho các bạn do vô tình hay hữu ý đọc được bài này, và cũng là viết để tặng cho mình như một lời nhắc nhở để tự tu sửa hoàn thiện mình, chúc các bạn an lành trong đường tu, chúc các bạn tinh tấn với con đường mình đã chọn. Con xin nguyện một lòng thờ phụng Phật Thánh, Cha, Mẹ tới mãn chiều xế bóng.
Nam mô hương cúng dàng bồ tát ma ha tát.
Last edited by phamhuuthao.1964; 15-06-2017 at 09:46 AM. Lý do: sai
TÌM HIỂU BÀN TAY
Khi quan sát bàn tay chúng ta không quên lưu ý đến sắc thái. Nhận định về sắc thái của bàn tay một người, chúng ta có thể tìm hiểu đại cương về cá tánh và có thể cả bệnh lý của người ấy. Bác sĩ Josef Ranald đã phân ra bốn loại sắc thái ở bàn tay.
I. Sắc thái ở bàn tay nóng nảy:
- Tính chất bàn tay: Nhỏ, dài, tam giác, có chu vi khác thường, nhiều nếp nhăn và nhiều chỉ, ngón mềm mỏng, nhọn và ngón út ngắn, tay thô. Đường ngang trên có dạng như dây thừng.
- Cá tánh: Nóng nảy, dục tốc, tự cao, nhiều tưởng tượng, tính bất thường.
II. Sắc thái ở bàn tay lãnh đạm:
- Tính chất bàn tay: Lòng bàn tay mềm, dày, ẩm ướt, ngón ngắn không đều, ít chỉ tay, rộng trắng nhạt. Móng tay rộng, lưng bàn tay có lấm chấm tàn nhang.
- Cá tánh: Người trầm mặc, lạnh lùng, kiên nhẫn, đa tình, chuộng lý luận
III. Sắc thái ở bàn tay hờn giận:
- Tính chất bàn tay: Vuông hay chữ nhật, có vẻ ốm nhưng thật ra nhiều thịt, nóng ấm, lòng bàn trũng, chỉ tay rõ nét, sậm màu, ngón dài, đầu ngón bè ra. Đường ngang dưới dài và thẳng, ngón cái dài.
- Cá tánh: Tự ái cao, nhiều tham ng, tự kiêu. Sức khỏe: yểu tướng.
IV. Sắc thái ở bàn tay ương ngạnh:
- Tính chất bàn tay: Rộng, ngắn, dày, nóng ướt, màu hồng, lưng bàn tay có nhiều lông, ngón cái ngắn. Gò kim tinh cứng. Chỉ tay đậm, màu hồng nhưng ít chỉ.
- Cá tánh: Ngang ngạnh, không ưa sự bình thản dễ nổi giận, có tư tưởng cao siêu. Không nể nang ai hay lý sự.
NHỮNG MẪU BÀN TAY
CỦA MỘT SỐ DANH NHÂN THẾ GIỚI
Các nhà nghiên cứu về bàn tay và chỉ tay đã phân ra 12 mẫu bàn tay khác nhau và mỗi loại nói lên cá tính, tài năng, thọ yểu….
1. Bàn tay nhỏ nhắn so với tỷ lệ cơ thể: người tỉ mỉ, chịu khó, khéo léo, có tài bắt chước, suy đoán, nhận thức nhanh.
2. Bàn tay lớn so với tỷ lệ cơ thể: người bảo thủ, cương quyết nhưng chậm chạp.
3. Bàn tay dài: người hay do dự, phân vân, cẩn thận.
4. Những danh nhân có ngón tay hình cái bay (doigts spatulés) (xem hình);
Nhà nghiên cứu Henry Rem cho rằng khi nghiên cứu về bàn tay và ngón tay hình cái bay ông lưu ý xem xét thật kỹ dạng thể để định tên và phân loại cẩn thận để có những tay thuộc loại này. Sau đây là một số danh nhân có ngón tay rất đặc biệt mà Henry Rem đã quy vào nhóm ngón tay có hình cái bay:
- Về chính khách có Napoléon II, Lamennais, Fernand Lubori…
- Về hội họa có Rubens, Rembrandt, Jorrdaens, Bouguereau…
- Về kịch nghệ có Faure de L’Opéra, Antoine…
LÒNG BÀN TAY VÀ CÁC CHI TIẾT LIÊN HỆ
Lòng bàn tay đều đặn, no đủ, ấm dịu: Hoạt bát, rõ ràng, sống động.
Nếu mềm mại: Uể oải, trầm mặc.
Nếu mềm + nhiều chỉ nhỏ: Tiêu pha rất nhiều nhục dục.
Lòng bàn tay dày mềm nhiều thịt: Say mê xa hoa.
Lòng bàn tay mỏng, dẹp: Nhác, hẹp hòi, thiếu thông minh và nghị lực.
Lòng bàn tay có nhiều gò đều nổi: Là biểu hiện của nóng tánh, dễ cảm xúc.
- Phẳng mặt: Thông minh.
- Quá nảy nở: Tự phụ, ích kỷ.
- Cứng: Hung bạo trong dâm dục.
- Lưu ý lòng bàn tay trũng: Thiếu kiên nhẫn (nếu ngón dài thì không gọi thiếu kiên nhẫn) ý chí, kém sút tiền tài. Thường chỗ trũng hay theo chiều đường chỉ nào đó hay gò nào đó nên sẽ ảnh hưởng vào đường chỉ hay gò đã chỉ ấy. Nếu theo sanh đạo sẽ rắc rối gia cảnh, theo mạng đạo thất vọng trong công việc đeo đuổi….
- Bàn tay trái: báo hiệu cho chúng ta những gì có thể tránh.
- Bàn tay mặt: Ý chí của chính mình, là bản thân ta, nếu bạn thuận tay nào thì tay đó là biểu hiện của bản thân. Tay kia là biểu hiện của định mệnh (Destiny). Do đó, khi xem tay cho bất cứ nam hay nữ nên áp dụng phương thức trên có tính cách khoa học hơn là cứ theo phương châm “Nam tả Nữ hữu” vì có người thuận tay trái thì sao?
NGÓN CÁI
Ngón cái là ngón quyết định ý chí, lý chí và chiều hướng ảnh hưởng của bàn tay.
Ngón cái lớn rất quan trọng giúp phụ trợ giảm bớt những phần xấu của những ngón tay khác. Ngón cái ngắn gây ngưng trệ sự phát huy giá trị những ngón khác.
Lóng một của ngón cái xác định ý chí khi lóng một nảy nở quá dày, to hơn lóng hai: Cứng đầu, táo bạo, hay gây sự.
Nếu đầu ngón nhọn: Biết tiết chế tật xấu trên, nếu ngón chè bè thì tật xấu trên tăng. Vuông: Ương ngạnh, cuồng tín.
Lóng một dài: Ích kỷ, làm thầy đời.
Ngắn: Vô tư, chần chờ, do dự, không tự tin, nóng nhưng dễ hối, nham hiểm quỷ quyệt.
Lóng một ngắn, lóng hai dài: Có chương trình vĩ đại nhưng không thực hiện được.
Ngược lại lóng hai ngắn, lóng một to lớn: hành động không suy xét.
Lóng hai ốm: người khéo léo, tinh vi, sáng suốt (ngón cái).
Ngón cái thô kệch nặng nề không đều: Thiếu thông minh, ương ngạnh, vũ phu.
Ngón cái mỏng: Thông minh, có khả năng trí thức.
Ngón cái nhỏ: Thiếu ý chí, hẹp hòi, mê rượu gái, ăn hại, có thể trộm cướp, dễ bị cám dỗ.
Ngón cái cụt (tề đầu): hèn nhát.
Ngón cái mỏng: Nam giới: dễ sa ngã; Nữ giới: Hoan dâm.
Ngón cái không dang xa ngón trỏ: Gian dối, hẹp hòi, dễ bị đàn bà đàn áp.
Ngón cái cong về phía sau (nếu cong quá): Lười, hay tìm vui ở mọi nơi. Nữ giới không trung thành với chồng, thiếu sót việc nội trợ. Nếu nhiều tiền của: Nô lệ tiền của, ăn chơi, có dâm dục tính. Nếu mềm và oằn xuống được qua gò thái âm: bại hoại luân thường. Nếu trật ngược ra sau lưng bàn tay thì hào hiệp, bênh vực kẻ yếu nhưng thiếu kiên nhẫn, thích bình an.
NGÓN TRỎ
Ngón Mộc tinh: Chỉ về lòng ham muốn, tài điều khiển, khát vọng quyền thế, tự phụ.
Ngón trỏ dài hơn cả: Những tính trên phát huy tối đa, nếu gầy lép thì không thành công.
Ngón trỏ cứng: Chuyên chế ở địa vị chỉ huy.
Ngón trỏ cong như cái móc: Ích kỷ, thiếu thận trọng.
Lóng chót ngón trỏ dày: Mê dâm, không kềm hãm được dâm tính.
NGÓN GIỮA
Xác định ý chí. Nếu cao hơn hai ngón bên: Nghiêm, thích tìm sự an nhàn, trào lộng tế nhị. Ngắn: Nông nổi thiếu chủ định.
Lóng chót ngón giữa ngắn là biểu tượng yêu cuồng sống vội.
ÁP ÚT:
* Tầm mức giao du, lỗi lạc nghệ thuật.
* Ngón áp út trội hơn các ngón: nghệ sĩ có tài.
* Lóng giữa áp út dài: Sáng tá nỗi danh
* Lóng ba ngón áp út dày: Có khiếu kịch nghệ, chọn màu giỏi, có óc sáng tạo.
NGÓN ÚT:
- Thực tài về giao tế, khả năng diễn cảm tâm trạng, ý chí bằng lời nói, lời văn.
- Đầu ngón chè bè: có sáng kiến, hoạt động nhiều lợi lộc, dễ rung cảm.
- Nếu đầu ngón tròn là: Có tài, khéo.
- Nếu cong về phía sau: Người hay tò mò, ham mê chuyện.
- Nếu dài: quan sát giỏi, sáng trí, giỏi xã giao. Nếu ngắn thì ngược lại.
* Lóng hai ngón út mỏng mảnh: Cờ bạc, tham lam.
* Lóng hai ngón út dài: Giỏi thương mãi, lý lẽ.
* Lóng chót dài: Có tài hùng biện, xảo trá. Nếu dày thì dâm, còn mỏng thì tỉ mỉ.
Lưu ý quan sát kỹ các ngón rồi quan sát những gì ở lòng bàn tay xong mới kết luận và cần phần nghiêng về giá trị nặng nghĩa là nằm ở phần ngón tay. (Chủ động).
Còn nữa
thầy ơi ck con bị gì cứ ngủ là hay nằm mơ thấy co người con gái nằm kế bên ck con. rồi ngày ko ăn đêm tới là ăn tới 4 5 h sáng tính tình thay đôi cọc cằn ai làm gì củng chửi rồi đem ngủ cứ hay mớ rồi la lên ngày xưa ck con hay đi chùa lắm nhưng bây h lai ko đi nghe kinh chua dai bi la kêu tắt ko chịu nghe. ngày xưa con ko biết kinh chua đại bi chính ck con là người kêu mở mổi ngày nghe nhưng bây h con mở là ck con tắt à. rồi nhiều lí do khác nửa lắm vậy con phải làm sao h thầy
Mình là một người thường xuyên gặp ma, và bị ma phá ngay tại nhà, mình bị ma phá tận 2 năm trời, đêm nào cũng đè, có hôm dở mùng mình cho mình thấy luôn, nhưng khi mình nhìn vào mặt nó mắt mình mờ đi không thấy được, nhìn chỗ khác mắt mình lại sáng, sau này nhờ cúng nó đầy đủ đồ ăn mới hết. Chuyện là mình mới xin được việc thủ kho ở một kho hàng, kho này có 4 tầng, lúc đầu mình làm luôn nghe những tiếng bước chân trên tầng, vì sàn trên lầu làm bằng những tấm thép nên nghe rất rõ, cầu tiêu có gắn đèn led cảm ứng ai bước vào là nó sáng, khi đông người thì không có gì, nhưng khi có một mình đèn nó tự sáng lên, có hôm mình nhớ đã đóng cửa tầng 1 và cửa sổ chặt, sáng ra mở lại thấy trên tầng bị ai mở ra, lại không có dấu hiệu của trộm vì bên ngoài có che lưới, khi làm việc soạn đồ trong kho giao cho khách lâu lâu nghe tiếng ai gọi mình, nhưng không thấy ai.
Một hôm làm một mình vì mấy cậu kia về có việc, một bạn làm ở cửa hàng ngoài trước vào nói mình "coi chừng gặp ma, nó ở tầng 3 tầng 4, nhà này có ông treo cổ, ông chủ mua giá rẻ xây thành cái kho", mình không để ý lắm nói "đừng có hù, tao không sợ đâu" thực sự là mình không sợ, ngày hôm sau mình cũng muốn có chuyện kể cho vui nên hỏi hết mọi người ai cũng xác nhận là 2 năm trước có người thắt cổ ở đây do cãi nhau với vợ, ông này trung niên rồi, lát sau bắt tay vào công việc cùng với đứa bạn của tôi, nó rất sợ ma, mình cứ thấy nó lạ lạ lúc mới vào làm đến giờ, luôn kè kè theo mình, đi lên lầu cứ rủ mình đi chung, ngày đáng nhớ nhất, có toa cần hàng giao gấp cho khách, mình kêu nó lên nó không dám, mình cầm toa nói "nhát quá, tao lên cho" mình vừa lên tầng 2 nghe cái rầm, đồ đạt rớt hết, toàn mấy thùng chứa máy móc nặng, mình ở dưới cầu thang nhìn lên tầng 3 thấy rõ ràng có cái bóng, nên mình đi xuống và xin nghỉ, thằng bạn mình thấy mình bình thường gan mà hôm nay thấy mặt mình tái mét nó cũng nghỉ luôn, ông chủ mình có gọi cho mình khuyên mình làm lại, theo ae có nên làm lại nơi có ma thần vòng không, tại vì trong kho có thang máy chở hàng, mà ông chủ lại không kiên cố mấy cây sắt chỗ đường lên hàng gì cả, ai không để ý bước hụt chân là rơi xuống luôn, mình sợ đang làm nó đẩy mình là toi.
tahi sao mình luôn sống tốt, không bao giờ làm chuyện lợi mình hại người, luôn giúp người khó khăn, giúp làng xóm, là Phật tử, cũng đọc kinh, nhưng sao số mình khổ quá, toàn thấy ma, người ta nói không làm ác ma quỷ rất sợ, mà có sợ đâu, nó làm đảo lộn cuộc sống của mình.
PHÁP NGỮ (Hòa Thượng Hư Vân Khai Thị)
LỜI GIỚI THIỆU
Tuy thuyết pháp trong bốn mươi chín năm trường mà đức Phật Thích Ca tự bảo rằng Ta chưa từng nói một lời nào. Tuy truyền trao tâm ấn cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp qua hình ảnh "Niêm Hoa Vi Tiếu", mà đức Phật cũng chưa hề nói một chữ "Thiền".
Tuy bao đời lịch đại tổ sư, thầy trò "Dĩ Tâm Truyền Tâm" với nhau, nhưng chưa từng nói rằng có một pháp nào để truyền thừa. Tiếp nối tông chỉ này, thiền sư Hư Vân, bậc minh nhãn thiện tri thức thời cận đại, tuy giảng kinh thuyết pháp, hoằng truyền tông giáo, khơi dậy mạch nguồn Thiền tông, tiếp thừa hệ phái ngũ gia (Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng), hóa độ hàng chục ngàn tăng ni và hàng triệu cư sĩ tại gia trải qua một thế kỷ, mà chính tự tay Ngài chưa từng viết một quyển khai thị hay pháp ngữ nào.
Mãi cho đến khi Ngài bị công an Cộng Sản Trung Quốc tra tấn dã man trong hai lần liên tục, chư đệ tử mới khẩn thỉnh Ngài tự thuật lại cuộc đời tu hành, hoằng pháp lợi sanh, hầu mong làm tấm gương sáng cho hậu thế. Vì lòng từ bi quảng đại, tuy bị trọng thương qua hai lần bị tra tấn cực hình, Ngài vẫn cố gượng kể lại cuộc đời tu hành của mình, mà sau này chư đệ tử viết lại thành quyển "Biên Niên Tự Thuật" (đã được chúng tôi và anh Nguyên Phong phiên dịch cùng phóng tác ra Việt ngữ, qua quyển "Đường Mây Trên Đất Hoa").
Lại nữa, vì hương thơm đức hạnh tu hành của Ngài lan truyền khắp nơi, khiến chư đệ tử phải thâu thập những bài giảng thuyết, khai thị, pháp ngữ của Ngài, rải rác trong bao thập niên, rồi gom lại thành tập "Pháp Ngữ", để lưu truyền hậu thế. Tuy bị công an Cộng Sản Trung Quốc tra tấn, chết đi sống lại hai lần, nhưng xuyên qua những bài pháp ngữ cùng trong quyển "Biên Niên Tụ Thuật", Ngài chưa từng đả kích hay lên án chế độ Cộng Sản, mà chỉ bảo là do nghiệp duyên tiền kiếp, nên nhẫn nhịn gánh chịu.
Lịch đại tổ sư đã từng bị bao nghịch duyên oan trái như tôn giả Mục Kiền Liên bị ngoại đạo đánh chết, tổ Sư Sử bị vua Di La Quật chém đầu, tổ Bồ Đề Đạt Ma bị người hãm hại bằng thuốc độc, nhưng các ngài chẳng hề oán trách ai, mà chỉ vui lòng thọ nhận oan khiên tiền kiếp, vì đã nhận ra "Bổn Lai Diện Mục", tức chủ nhân ông trong thân tứ đại bọt bèo huyễn hóa. Ngược lại, phàm phu vừa bị một trong tám gió thổi đến, thì tham sân si bèn nổi lên.
Quyển Pháp Ngữ mà hiện tại quý độc giả đang cầm trên tay, được chúng tôi phiên dịch từ quyển "Hư Vân Hòa Thượng Khai Thị Lục" do pháp sư Tịnh Huệ, và một phần trong quyển "Hư Vân Văn Tập" do hai cư sĩ Hồng Khánh Sùng cùng Hoàng Khánh Lâm biên tập ghi chép lại.
Đối với hành giả Thiền Tông nói riêng và hàng Phật Tử thành tâm cầu đạo giải thoát nói chung, sẽ thấy quyển này vô vàn quý giá vì là kim chỉ nam và cẩm nang cho người tu tập pháp Tổ Sư Thiền, như những bài "Điều kiện tiên quyết khi tu thiền", hay "Phương pháp quán thoại đầu cùng phản văn văn tự tánh", mà chính thiền sư Hư Vân đã "Thật Tu Thật Chứng".
Lại nữa, nếu muốn thâm nhập vào ba môn vô lậu học, tức giới định huệ của Phật giáo Đại Thừa, hành giả phải nên đọc qua quyển Pháp Ngữ này, vì trong đây thiền sư Hư Vân giảng sâu rộng về phương thức trì giới thanh tịnh, thâm nhập chánh định, phát khởi trí huệ vô sư.
Ngoài ra, có đọc qua những bài pháp ngữ này, chúng ta mới cảm kích thâm sâu hạnh nguyện nhẫn nhục, tâm hồn vị tha vô ngã, đạo tâm kiên cố trường viễn, hành tung bình dị, hạnh tu đầu đà của thiền sư Hư Vân, một vị thánh tăng trong đời cận đại, cho dầu thế sự có đảo điên, hay "Nội Ưu Ngoại Hạn" của quốc gia dân tộc.
Phiên dịch quyển Pháp Ngữ này, chúng tôi hy vọng quý độc giả mến chuộng tu thiền sẽ nghiền ngẫm và áp dụng những lời vàng ngọc của thiền sư Hư Vân vào cuộc sống tu tập hằng ngày, hầu mong ly khổ đắc lạc, và sống lại với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình.
Kế đến, chúng con thành tâm đốt nén tâm hương kính lễ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, ba đời mười phương chư Phật, chư Bồ Tát chư hiền thánh Tăng, đại lão hòa thượng Hư Vân, ân sư đại lão hòa thượng Tuyên Hóa trong cõi Niết Bàn thấu rõ và chứng minh cho bản dịch Pháp Ngữ này.
Trong kinh thường dạy: "Hãy chí thành viết một chữ hay truyền cho kẻ khác chừng một câu thì công đức phước báu vô lượng". Vậy có bao nhiêu công đức do dịch quyển Pháp Ngữ này, chúng con thành tâm hồi hướng cầu nguyện cho quê mẹ Việt Nam và thế giới được thanh bình; Phật giáo Việt Nam và Thế Giới mãi được trường tồn; tất cả chúng sanh đồng phát tâm Bồ Đề chứng quả vị Phật.
Cuối cùng, chúng con thành tâm cầu xin chư vị thiện tri thức trong mười phương từ bi xá tội và chỉ dạy những lỗi lầm sơ suất trong bản dịch này.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
PHẦN I
I. Quý cư sĩ tại Thượng Hải thỉnh giảng năm 1911
Hôm nay, tôi được quý cư sĩ yêu cầu lược giảng Phật pháp. Bàn về việc này, lão nạp thật hổ thẹn muôn phần. Chướng duyên che lấp, tự mình chẳng có chút tu hành chân thật. Tuy đàm luận những lời thô thiển, nhưng không ngoài việc nhắc lại những lời dư thừa của cổ nhân mà chẳng có chút gì liên hệ với mình.
Nhớ lại khi xưa, đức Phật vì đại sự nhân duyên mà giáng thế, giáo huấn, và dạy bảo hơn tám mươi bốn ngàn pháp môn. Tất cả đều nhằm vào mục đích tùy theo căn bịnh mà cho thuốc. Thật ra, nếu không có bịnh thì dùng thuốc để làm gì ? Tuy nhiên, một khi còn bịnh thì chẳng thể không dùng thuốc.
Các phương thuốc tại cõi Hoa Mạn này là những toa linh dược rất linh nghiệm mà không ngoài: Thiền-tông, Luật-tông, Giáo-tông, Tịnh-độ-tông, Mật-tông. Những phương thuốc đó đã từng một thời phát triển rạng rỡ ở phương này. Ngoài ra, có những tông phái được xem là hưng thịnh một thời như tông Thiên Thai, tông Hiền Thủ, tông Duy Thức, Đông Mật, Tây Mật . Các tông phái đó tuy thù thắng vi diệu, nhưng chỉ có Thiền-tông và Luật-tông là nhiều người không chú ý đến.
Tuy nay là đời mạt pháp, nhưng thực ra pháp không mạt tận, mà chỉ tại do người. Tại sao ? Người người chỉ lo đàm luận suông thiền này Phật nọ. Giảng Phật học rất nhiều, nhưng không chịu học Phật. Xem thường hạnh Phật, chẳng rõ nhân quả, phá giới luật Phật chế. Những tệ đoan xấu xa, đại khái phát xuất từ những nguyên nhân đó. Vì vậy, chúng ta, những người chân chánh vì sanh tử mà học Phật, phải cẩn thận chú ý, chớ xem thường bỏ qua.
Pháp môn tuy nhiều, nhưng mỗi mỗi đều vì cắt đứt sanh tử luân hồi. Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Xoay về nguồn tánh thì không hai, nhưng phương tiện lại có nhiều".
Trong hai mươi lăm vị thánh, mỗi vị chuyên môn tu một pháp môn. Do đó, chư Tổ bảo rằng phải thâm nhập một pháp môn. Chư thánh hiền nếu tham tu tập nhiều pháp môn thì e rằng không thể chứng đắc đạo viên thông. Vì vậy, thọ trì sáu mươi hai ức hằng sa danh tự của các vị Pháp Vương Tử , không bằng thọ trì một danh tự Quán Âm Bồ Tát.
Người học Phật quý tại chân thật, chứ không biểu diễn tu đạo; phải thường dẹp trừ những tâm kiêu ngạo giả dối; chí nguyện phải kiên cố; chẳng tham đắm thần thông diệu dụng; tin sâu lý nhân quả; kiên trì giữ giới như giữ hạt sương mai buổi sớm; tận lực hành trì chẳng phạm giới pháp thì sẽ có ngày thành Phật mà tuyệt nhiên không có gì là kỳ lạ.
Tâm, Phật, chúng sanh vốn không sai biệt. Tự tâm là Phật. Tự tâm làm Phật. Sao có tu chứng ? Vì do sự khác biệt giữa mê và ngộ, cùng tình ái, tập khí nặng nề, mới tạm phân thành mười pháp giới. Phải nên hiểu rằng mười pháp giới xuất phát từ một nguồn tâm, hay gọi là Phật. Vì thế, phải tận lực hành trì, tiêu diệt hoặc nghiệp. Tập khí và tật bịnh nếu được trừ hết thì tự nhiên không cần dùng đến thuốc. Người xưa bảo:
Dẹp hết tâm phàm, thật không có chư thánh giải thoát.
Ví như khi nước dơ nếu bỏ phèn vào thì trở nên lắng trong. Tu đạo cũng như thế. Tập khí và tình ái như bụi trần; nước như tự tâm; phèn lọc nước dơ, khiến nước đó liền được lắng trong. Lúc tu hành, người phàm phu hãy cố gắng chuyển tánh phàm thành tánh thánh.
Tuy nhiên, phải phân rõ gì là chánh, và gì là phụ. Hoặc niệm Phật là chánh, còn các pháp môn khác là phụ trợ, rồi hồi hướng công đức tu hành về cõi Tịnh Độ. Niệm Phật quý nơi tâm và khẩu không khác biệt. Niệm niệm không gián đoạn. Niệm đến lúc không niệm mà niệm. Thức ngủ luôn nhất như. Dụng công như vầy, sao lo gì không đến cõi Cực Lạc ?
Tham thiền vốn là pháp môn siêu vượt hơn các pháp môn khác. Dâng cành hoa mỉm cười, khiến xuất sanh biết bao bậc minh tâm kiến tánh. Đây thật là tông chỉ truyền ngoài giáo lý của đức Như Lai mà phàm phu không thể hiểu nổi. Nếu chưa gặp được bậc minh tâm kiến tánh, chỉ nên nỗ lực tham quán một câu thoại đầu. Chớ nên đem tâm cầu giác ngộ, hay để tâm trống không, rồi ngồi khởi vọng tưởng, cùng tham nghĩa huyền diệu, công án, thần thông, v.v...
Phải nên quét sạch tri kiến, chỉ trụ một câu thoại đầu, rời ngoài niệm ý thức. Lúc một niệm chưa sanh, hãy nhìn thẳng vào, dầu lâu chẳng thối và chẳng màng ngộ hay không ngộ. Khi nghi tình hiện rõ, tâm tự kết thành phiến. Lúc động tịnh nhất như , nếu gặp được cơ duyên, ngồi thiền liền cắt đứt mạng căn, như quả đã chín thì phải rụng, rồi mới thật tin rằng mình cùng Phật không khác. Ngài Quy Sơn nói:
Đời đời nếu không thối chuyển, quyết sẽ có kỳ đạt đến quả vị Phật.
Sao tự khi dối mình ! Mỗi suy nghĩ và cách nhìn đều không biết tông chỉ của Thiền-tông, nên lầm chấp giữ tà tín xằng bậy. Dùng cuồng thiền tà định, chế nhiễu hủy báng và bảo rằng Thiền-tông như thế này hay như thế nọ mà chẳng biết việc tốt xấu. Nào biết đâu, từ xưa đến nay, thành Phật làm Tổ như lột vỏ lúa, đơn độc chỉ có tông này siêu vượt hơn những pháp môn khác.
Luận về đời nay, trong Thiền-tông những bậc ngoại hộ thật ích sư tử hống thật rất hiếm có. Những tông phái khác cũng đều tệ hại như thế. Người đời nay chẳng có chút sự tinh tấn tu hành; cứ mắc bịnh nơi bảo ăn mà chịu không ăn, hay chỉ lo đếm trân bảo cho người khác, hoặc vứt bỏ luật nghi nhân quả, thật tệ hại quá lắm !
Nếu thiền gia dùng công phu tu thiền mà niệm Phật thành phiến, thì vẫn giống như người thường niệm Phật, sao lo gì không gặp Phật Di Đà ? Nếu người niệm Phật dùng tâm niệm đến lúc không niệm mà niệm, thức ngủ như nhau, để tham thiền như thiền gia thì lo gì không ngộ đạo?
Tổng quát, phải nên dốc tâm hành trì thâm sâu vào một pháp môn. Tu pháp môn nào cũng đều như thế. Nếu dụng công tu hành như vậy thì tôi dám bảo đảm rằng ai ai cũng sẽ thành Phật. Sao sợ nghiệp căn sâu dầy, tập khí thâm sâu, mà không được đốn ngộ giải thoát ? Ngoài những pháp này ra, nếu có những pháp thuật khác hay hơn, thật tôi không biết đến !
Những người học đạo khó tinh tấn hay khó đạt được ích lợi, phần nhiều vì tâm làm biếng và tham lam chưa dứt. Nay tham thiền, mai niệm Phật, rồi mốt lại trì mật chú, cùng tu bao loại pháp môn khác mà không phân biệt môn nào chánh, môn nào phụ. Luôn luôn thay đổi cửa ngõ môn đình mà vọng cầu thành Phật; chẳng hành chút hạnh Phật, chỉ tạo bao nghiệp ma, nên thường làm quyến thuộc ma. Tu đến khi tóc bạc mà chẳng thành, bèn trở lại phỉ báng chế giễu chánh pháp. Người xưa bảo:
Nếu không muốn bị đọa vào ngục vô gián, chớ phỉ báng chánh pháp của Như Lai.
Hôm nay gặp thắng hội Đại Sĩ, mọi người đồng tâm làm lễ, và phải tự nhận ra đại sĩ Quán Tự Tại trong nhà mình. Đại sĩ Quán Tự Tại từ văn, tư, tu, rồi nhập vào tam ma địa. Ngài A Nan vì Ỷ trí nhớ hay, nên không tránh khỏi tà tư. Dùng tánh nghe để trì danh hiệu Phật, sao không tự biết cái nghe ? Nghe lại tự tánh, tánh liền thành đạo vô thượng.
Hư Vân tôi vốn là kẻ nương núi rừng hoang dã, tri thức cạn cợt, chỉ vì do ý tốt của quý vị, thỉnh mời đến đây, để lược bày những việc hành trì thối thất và tăng ích của sự tu hành.
Hôm nay là ngày mười chín tháng chín, cùng với quý vị, dùng miệng thô tục niệm danh hiệu Quán Âm. Đại sĩ Quán Âm do từ cái nghe mà nhập vào cửa pháp, rồi xả bỏ mọi mắt, mũi, thân, ý, các vật sở hữu, và quên hết có, không, nơi chốn, thân mạng. Quý vị hãy tự tại mà quán tâm niệm !
II. Khai thị trong kỳ Phật thất tại Phước Kiến Công Đức Lâm, năm 1933
Tu hành trong Phật thất quý tại nhất tâm. Tâm nếu không chuyên nhất thì mắt nhìn đông, hay tai nghe tây. Tu hành cách đó, cho đến Phật Di Lặc hạ sanh, nghiệp chướng vẫn còn ràng buộc nơi thân. Phật pháp hay thế gian pháp cũng đều giống nhau. Chẳng chú tâm làm việc pháp thế gian còn không được, hà huống tu Phật pháp !
Đối với người niệm Phật, từ đầu đến cuối, phải liên tục niệm thầm lặng; phải niệm rõ ràng mỗi câu mỗi chữ, không thể lầm lộn. Phật đến cũng niệm hay ma đến cũng niệm. Niệm đến lúc gió thổi không vào thân, hay mưa rơi không ướt mình thì mới có ngày thành tựu.
Tại sao ? Phật là bậc giác ngộ. Nếu muốn giác ngộ thì phải tự biết dùng sự chuyên tâm mà niệm. Ma tức là phiền não. Chúng não hại huệ mạng của chúng sanh. Biết ma vốn thường não hại huệ mạng, đương nhiên phải nên dụng công lực, chuyên tâm niệm Phật để hàng phục chúng. Thế nên, khi giác ngộ viên mãn thì thường thấy Phật. Khi bị tổn hại thì đó là gặp ma.
Trong đạo tràng niệm Phật, nếu ngồi bất động và liên tục niệm Phật thì chắc chắn sẽ gặp Phật. Khi tôi đến, quý vị ra đón tiếp lễ bái. Quý vị đón tiếp để làm gì ? Thật có uổng phí thời gian lắm không ? Làm sao chứng đắc được gì ? Có phải khi tôi đến, khiến làm não hại tịnh nghiệp nhất tâm của quý vị không ? Việc này, cũng vì quý vị đặt tôi vào điện Diêm Ma La. Thật buồn thay !
Thương thay cho người thế tục ! Họ không biết cung kính Tam Bảo. Họ đem heo quay, gà quay, cá nướng đến cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm; đó là phạm giới giết hại, lại không biết cung kính Ngài. Lần nọ, tôi ở Thượng Hải, gặp lúc bọn ca múa hát xướng đến ca diễn.
Một vị cư sĩ nọ mua vé cho vài chỗ ngồi, mất cả trăm đồng. Ông ta mời tôi đi xem ca diễn. Tôi bèn bảo ông ta rằng hãy nói thử xem, đệ tử tại gia khi thọ tám giới quan trai, không được đi xem ca diễn, hà huống tôi là người xuất gia !
Ông mời tôi đi xem diễn kịch, cũng giống như đem heo quay cúng Bồ Tát. Ông ta liền cúi đầu sám hối, và thưa rằng hôm nay bỏ ra cả trăm đồng mới được nghe lời giáo huấn, cùng biết cách thức cung kính chư tăng.
Phật pháp vô thượng, quý tại dụng tâm.
III. Thư đáp tướng Tưởng Giới Thạch
Ngày nay, Phật giáo lan truyền khắp thế giới. Phật giáo tiên phong mở đường cho chủ nghĩa đại đồng. Trên thế giới, xem xét kỹ càng, nhận thấy có hai luồng tư tưởng: Luận Duy Thần và luận Duy Vật. Tuy nhiên, chủ thuyết quả báo luân hồi ảnh hưởng phổ cập khắp nơi; đây là điều không thể nghĩ bàn !
Theo luận Duy Thần của đạo Cơ Đốc thì Thần thường ban an vui cho người hiền, nhưng lại trừng phạt những kẻ ác. Vì vậy mà chấp nhận sự tồn tại của thần linh, và cho đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, những nhà Duy Thần đó chẳng biết giáo điều như thế, không thể khiến người đời tin sâu, nên đưa đến việc họ cùng những nhà Duy Vật tranh cãi bài bác.
Do đó, đạo Cơ Đốc không thể duy trì nền hòa bình cho thế giới. Thật ra, thần tức là vật. Vật tức là tâm. Tâm cũng là thần. Tuy nhiên, thần cũng không phải thần, hay vật cũng không phải vật, và tâm cũng không phải tâm. Đức Phật giải thích rõ rằng ba cõi vốn không có một pháp nào cả, mà chúng đều là vọng khởi từ chân tâm. Từ chân tâm này sanh ra muôn pháp. Tuy gọi là "Chân Tâm", nhưng thực ra vì có vật chất hư vọng đối đãi nên mới giả lập danh tự. Bàn đến lẽ cùng tột, gọi là "Chân Tâm" cũng không đúng.
Ví như trong biển cả, tâm là nước, và muôn pháp (muôn sự vật) là sóng. Khi biển êm gió lặng thì gọi là nước biển. Khi gió thổi biển động thì gọi là sóng biển. Khi sóng lặng thì là nước biển. Lúc nước biển khởi dậy thì biến thành sóng biển.
Giả sử không có tướng nước chảy cuồn cuộn thì không thể lập danh từ hư giả là sóng biển. Nếu không có danh từ sóng biển thì danh từ nước biển hư giả do đâu mà sanh ra ! Những danh từ hư giả này, chỉ do chúng ta tùy tiện lập ra.
Vì vậy, vật tức là tâm. Hữu vi tức là vô vi. Sắc tức là không. Vọng tức là chân. Phiền não tức là Bồ Đề. Chúng sanh tức là chư Phật. Lúc một niệm bị mê hoặc thì tâm trở thành vật; vô biến thành hữu vi; không biến thành sắc; chân biến thành vọng; Bồ Đề biến thành phiền não; chư Phật biến thành chúng sanh; nước biển chảy cuồn cuộn thì biến thành sóng biển.
Khi có một niệm giác ngộ thì vật chẳng khác tâm; hữu vi chẳng khác vô vi; sắc chẳng khác không; vọng chẳng khác chân; phiền não chẳng khác Bồ Đề; chúng sanh chẳng khác chư Phật; sóng biển lặng thì là nước biển. Lại nữa, vì tâm khởi mê hoặc nên mới giả lập ra vật chất, hữu vi, sắc tướng, vọng không, phiền não, chúng sanh, v.v... để đối đãi với chân tâm, vô vi, chân không, Bồ Đề, chư Phật.
Vì thế, dẫu gọi là duy tâm, duy vật, hữu thần, hay vô thần, tất cả đều do tâm thức phân biệt đặt để. Có người bảo:
Nếu như thế thì Phật giáo cũng theo luận Duy Tâm !
Nhà Phật tuy nói duy tâm, nhưng khác hẳn với luận lý Duy Tâm của các nhà triết học. Luận Duy Tâm của triết học là nơi tâm chấp có và nơi vật chấp không. Vì vậy,
Phật Thích Ca bảo rằng chúng sanh chấp tâm suy tính so đo làm tự tánh và chấp vọng tưởng sanh tử làm thật thể.
Người theo chủ nghĩa duy vật, chấp vật thể là có thật và chấp tâm là hư vô. Phật Thích Ca bảo rằng những người này thường làm những việc điên đảo, vì ngộ nhận vật chất mà cho là mình, nên mãi mãi lưu chuyển trong dòng sanh tử.
Luận Duy Thần phân tách rõ ràng giữa thật thể của vật chất và thật thể của thần linh. Vì thế, luận Duy Thần và Duy Vật phân biệt thành hai thế giới riêng biệt. Phật Thích Ca bảo rằng khi tâm thức bị mê hoặc thì nhận lầm bọt biển làm biển cả. Đó gọi là sự hiểu biết sai lầm. Hoặc vì gần gũi, thấy hình trâu mà cho là trâu thật. Hoặc nhìn sơ qua sừng trâu mà lầm nhận sừng trâu là con trâu. Hoặc do thấy đầu trâu mà cho đầu trâu là con trâu.
Thật ra, chẳng phải như thế ! Họ không nhìn thấy toàn thể tướng chân thật của con trâu. Phật giáo đàm luận cùng tận cội nguồn và thấu triệt chân lý qua việc chỉ rõ con trâu trắng chân thật. Nếu chỉ xem sơ qua mà chưa thật thấy toàn thể con trâu, đó là lạc vào thiên chấp của luận Duy Tâm và Duy Vật.
Biệt danh chân lý của nhà Phật là minh tâm kiến tánh, bản nhiên thanh tịnh, chân tâm thường trụ, giác tánh chân như, thật tướng pháp thân, v.v... Rời các danh tướng thì không có nơi chốn định nghĩa chân lý. Thể tánh tự giác vốn tự sáng soi và là đức tánh bổn hữu mà không có năng và sở đối đãi.
Gốc vốn không có gì gọi là mười phương hay ba đời. Lại nữa, chẳng có chi gọi là đất đai, con người, thú vật, cây cỏ, ngói đá, địa ngục, thiên đường, v.v...Thật ra, chỉ vì một vọng niệm mà khởi ra pháp hữu vi.
Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài Phú Lâu Na bạch hỏi Phật:
Bạch đức Thế Tôn ! Tánh giác vốn tự thanh tịnh, nhưng vì cớ sao lại đột nhiên sanh ra đất đai núi sông ?
Phật đáp:
Này Phú Lâu Na ! Ông hỏi rằng chân tâm đã vốn thanh tịnh, vì sao bỗng nhiên lại sanh ra núi, sông, đất liền ? Vậy ông có thường nghe Như Lai chỉ dạy rằng chân tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi không ?
Bạch đức Thế Tôn ! Con có thường nghe Phật dạy nghĩa ấy. Vậy chân tâm này, ông cho nó tự có tánh sáng suốt phân biệt chiếu soi hay là không có sáng suốt phân biệt chiếu soi ?
Bạch đức Thế Tôn ! Nó sẵn có tánh sáng suốt phân biệt chiếu soi nên mới gọi là tâm. Nếu không có tánh sáng suốt phân biệt chiếu soi thì không gọi là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì cả.
Ông nói rằng nếu nó không sáng suốt phân biệt chiếu soi thì không phải là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì cả. Vậy ông có hiểu chăng: Nếu có chiếu soi phân biệt thì không phải là chơn, còn không có chiếu soi thì chẳng phải là tâm. Nếu tâm mà không sáng suốt thì không phải là chân tâm thanh tịnh rồi.
Ông nên hiểu rằng chân tâm vẫn sáng suốt; vì ông vọng chấp cái Sáng Suốt Phân Biệt làm tâm, nên thành ra có năng phân biệt (tâm) và bị phân biệt (cảnh).
Chân tâm của ông không phải cái bị phân biệt, nhưng vì ông khởi ra cái năng phân biệt nên nó (chân tâm) trở thành cái bị phân biệt (cảnh). Đã vọng thành cái bị phân biệt thì dĩ nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái năng phân biệt.
Thế là ở nơi chân tâm của ông vẫn thanh tịnh, không có năng và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở.
Thể tánh chân tâm vốn không khác biệt. Do vọng niệm phân biệt có năng sở và bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới. Do có hư không và thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh lăng xăng đối đãi lẫn nhau nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt xấu, phải trái, v.v... Vì vậy mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới; cái không có hình tướng và yên tịnh là hư không. Khác với hư không và thế giới là chúng sanh.
Ngay trong chân tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư không mờ mịt vì vô minh sanh ra. Trong hư không có chất động, vì nó là vọng. Do đó, trong hư không có gió (phong luân) để duy trì thế giới.
Do hư không sanh ra gió và do nơi tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng chắc là vì tâm cố chấp sanh ra. Nó sáng ngời là do tâm phân biệt sanh ra). Đây là nguyên nhân có chất kim khí để bảo trì thế giới.
Vì tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt nên sanh ra chất cứng chắc là kim khí, và vì có vọng động mà thành ra gió. Rồi gió thổi kim khí và cọ xát mãi, khiến kim khí đó nóng lên, nên nháng sanh ra ánh sáng là lửa. Đây là nguyên nhân có lửa để nấu đốt các vật.
Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm mát. Do lửa xông lên nên có hơi nước rịn ra. Đây là nguyên nhân có nước để bao bọc cả mười phương thế giới.
Vì tánh lửa bốc lên, còn nước thì lại chảy xuống, nên chỗ có thấp ướt thì là sông biển, chỗ cao nổi lên là cồn đảo. Bởi lửa và nước dung hòa nhau, cho nên trong biển thỉnh thoảng bốc lên ánh sáng của lửa, và trong cồn đảo lại có sông rạch thường chảy ra nước.
Vì thế lực của nước yếu hơn lửa, nên bị lửa bốc lên kết thành núi cao. Do đó, đập đá thì có lửa, còn đốt quá nóng thì nó chảy ra nước.
Vì thế lực của đất yếu hơn nước, nên nó bị nước rút lên làm cỏ cây. Vì vậy, nếu đốt cỏ cây thì chúng trở thành tro, còn vò ép thì chúng lại ra nước.
Tóm lại, vì trong tâm chúng sanh có các vọng tưởng xen nhau phát sanh, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có các cảnh vật. Do nhân duyên này mà thế giới tiếp nối nhau sanh ra mãi không dứt.
Lại nữa, nầy Phú Lâu Na ! Cái Hư Vọng Phân Biệt đó không có gì lạ, chỉ vì ông chấp cái Phân Biệt Chiếu Soi làm tâm. Đã có cái Phân Biệt thì dĩ nhiên phải có cái Bị Phân Biệt đối đãi lẫn nhau. Vì vậy, cái Năng Phân Biệt không vượt ra ngoài cảnh Bị Phân Biệt. Do nhân duyên này mà nghe không ngoài tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mùi, nếm không ngoài vị, v.v... rồi vọng thành sáu căn và sáu trần đối đãi nhau, nên phân ra có: Thấy, nghe, hiểu, biết.
Đồng nghiệp trói buộc lẫn nhau mà có hợp, có tan, có thành, có hóa. Khi thấy sáng tỏ thì thấy các màu sắc phát ra. Nhận rõ sự thấy thì kiến chấp thành tư tưởng; ý kiến khác nhau thì thành ra ghen ghét; tư tưởng đồng nhau thì thành ra yêu thương.
Dòng ái lan ra làm thành hạt giống, rồi do giao cấu phát sanh, khiến thu nạp tưởng thành bào thai, tức là chiêu dẫn chúng sanh đồng nghiệp, nên có nhân duyên sinh yết la lam, át bồ đàm, v.v...
Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hay hóa sinh, tùy chỗ của các loài ấy mà ứng hiện. Loài noãn sanh chỉ do tâm tưởng mà sinh; loài thai sinh do tình dục mà ứng hiện; loài thấp sinh do tâm hợp mà cảm sanh; loài hóa sinh do phân ly mà hiện ra.
Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau, nên các loài thọ nghiệp báo và theo đó mà có thăng trầm, lên xuống. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh tiếp nối sanh sản không ngừng.
Này Phú Lâu Na ! Tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau, khiến mến luyến mãi không rời. Thế nên, trong thế gian, cha mẹ con cháu nương nhau sinh ra tiếp nối không dứt. Những việc như thế, đều do tham dục làm gốc.
Lòng tham và yêu mến cùng tăng trưởng. Tham mãi không dừng, nên trong thế gian, các loài noãn sinh, hóa sinh, thấp sinh, thai sinh, tùy theo sức mạnh yếu mà ăn nuốt lẫn nhau. Những việc như thế, đều do tâm tham giết hại làm gốc.
Người ăn thịt dê; dê chết làm người và người chết làm dê. Như thế cho đến mười loài chúng sanh, chết sống và sống chết ăn nuốt lẫn nhau, khiến đồng tạo ác nghiệp, suốt đời vị lai. Những việc như thế, đều do tâm tham lam trộm cắp làm gốc.
Loài này cướp giựt thân mạng loài kia; loài kia giết hại lại loài này; trả vay, vay trả lẫn nhau đến trăm ngàn kiếp không thể ra khỏi sanh tử.
Trai mê sắc gái; gái thương tình trai; vì tình ân ái thương yêu lẫn nhau, nên trăm ngàn kiếp bị triền phược trói buộc mãi trong vòng luân hồi.
Tóm lại, chỉ có ba thứ như giết hại, trộm cắp, dâm dục làm cội gốc, nên nghiệp (nhân) và quả tiếp nối không ngừng.
Này Phú Lâu Na ! Ba thứ điên đảo (thế giới, chúng sanh, nghiệp quả) đều nằm trong chân tâm; vì vô minh vọng động sanh ra Năng Phân Biệt và Sở Phân Biệt đối đãi lẫn nhau, nên vọng thấy có núi sông đất đá, thế giới, chúng sanh, rồi tiếp tục sanh diệt biến hóa, vô cùng hư vọng...
Trong tánh giác thể chân như bỗng nhiên sanh ra chân và vọng. Từ đó lại phân thành tướng bất biến và tùy duyên. Thể tánh bình đẳng bất biến, vượt ngoài những tướng sai biệt, chẳng phàm chẳng thánh, không thiện không ác, chân thật như thường, vốn là chân như bất biến.
Tùy duyên sanh diệt mà khởi tướng sai biệt, có phàm có thánh, có thiện có ác, đó là chân như tùy duyên. Lại nữa, gọi là chân như bất biến vì muôn pháp vốn là chân như, chứ chẳng phải tâm, vật, thần. Gọi là chân như tùy duyên vì chân như này vốn là muôn pháp, tức là tâm, vật, thần. Luận duy tâm lầm nhận thần linh, tức là chân như tùy duyên, mà cho đó là chân tâm.
Nhà Duy Vật đề xướng luận vô thần lại hẹp hòi biên kiến; triết lý của họ thuộc về chân như tùy duyên, tức chỉ thấy có vật chất. Người theo chủ thuyết Duy Vật lại căn cứ theo vật chất mà đề xướng luận vô thần. Người theo luận Duy Thần cũng hẹp hòi biên kiến, vọng sanh phân biệt, lầm nhận vật chất và thần linh, tức là chân như tùy duyên.
Người đề xướng luận Duy Thần nào biết tâm tức là vật, và vật tức là thần ! Tâm, vật, và thần đồng một thể tánh. Có tâm tức có vật. Có vật tức có thần. Vô tâm tức vô vật. Vô vật tức vô thần. "Có" không phải có trong cái "có, không", lại chẳng có mà có trong diệu hữu. Cái "không" chẳng phải cái không đoạn diệt, lại vượt ngoài cái diệu không của cái "có không".
Luận Duy Tâm, Duy Vật, Duy Thần chưa từng hiểu rõ nghĩa lý này, nên cùng nhau công kích đả phá. Thật ra, họ đều đúng và đều sai. Người nghiên cứu học Phật pháp, hãy nên phá vỡ những tảng băng đá này !
Đối với việc nghiên cứu bản thể vũ trụ của nhà Phật, tôi đã tường thuật rõ ràng như bên trên rồi. Ngoài ra, những việc như sự cấu tạo hay thành hoại của thế giới, hệ thống khí quản của thân người, cùng bao vấn đề khác, trong kinh Lăng Nghiêm và những bộ kinh luận khác đều đã thuyết minh, luận bàn tường tận rõ ràng. Đa số, những điều này đều phù hợp với những phát minh của các học giả, triết gia, khoa học gia trong hiện thời và tương lai.
Tuy nhiên, đối với giá trị nhân sanh, pháp tắc và hạnh nguyện của chư đại Bồ Tát, chỉ có chư thánh hiền mới biết được. Những điều này, trong kinh điển thường nhắc đến. Vì vậy, nên biết rằng Phật giáo rất thần diệu và vĩ đại. Tuy nhiên, Phật giáo tuyệt không khoe khoang những điều kỳ lạ, lại cũng không làm những việc hư dối, khiến mê hoặc quần chúng. Mỗi lời nói và hành vi đều y theo ba môn vô lậu học giới định huệ, mà thi hành thực tiễn.
Sao gọi là giới định huệ ? Phòng phi chỉ ác gọi là giới. Khi sáu căn tiếp xúc với cảnh, tâm không tùy duyên (mà khởi) nên gọi là định. Tâm và cảnh tròn đầy như hư không, và thường giác chiếu mà không mê hoặc, đó gọi là huệ. Phòng ngừa việc xấu, và đình chỉ việc ác của ba nghiệp, khiến dòng nước tâm tự lắng đọng trong sáng, tức do giới mà sanh định. Nước tâm lắng đọng trong sáng, khiến tự tánh chiếu soi khắp xum la vạn tượng, tức do định mà sanh huệ. Nhà nho cũng có câu:
Sau khi định tâm thì sẽ được tĩnh lặng; tĩnh lặng rồi sẽ được an lạc; an lạc rồi sẽ có khả năng suy xét quán chiếu; suy xét quán chiếu rồi sẽ có thể đắc đạo.
Các nhà triết gia cũng thường suy gẫm về sự tướng cùng sở học của họ. Tuy nhiên, nhà nho, nhà triết học, và nhà khoa học đều dùng tâm phan duyên (phân biệt) để suy tư về vạn vật và vũ trụ. Họ nào biết đâu vũ trụ và vạn vật cũng do từ tâm phan duyên tạo thành ! Năng tư sở lự đều bắt nguồn từ tâm phan duyên. Nếu muốn cầu chân lý thâm sâu phải ngồi thiền tĩnh lự. Các nhà triết học hiện nay, đối với sự nhận thức về các luận lý, thường lao xao tranh cãi, mãi không kết thúc.
Phật pháp rời ngôn từ và dứt đường tư lự (suy nghĩ), nên khiến trí huệ giác chiếu khắp vũ trụ cùng muôn vật muôn sự.
Nếu ngồi xuống, ung dung tự tại mà bàn luận, thì thấy rằng Phật giáo vốn tiên tri tiên giác, và bao hàm cả triết học, khoa học, tôn giáo. Lò nào cũng cùng một xưởng. Nhật Bổn tôn sùng Phật giáo làm quốc giáo, nên thời cận đại đạo Phật rất hưng thịnh. Những nhà duy tân và hiền sĩ anh tài xuất thân từ thiền học không ít. Đối với những việc của dân chúng, các ngài đều hiểu thấu. Nếu không dùng võ lực quân phiệt mê muội, không dùng sức mạnh bạo lực để giết chóc, và không dùng chính sách xâm lược khiến trái ngược với đạo, thì ngày nay được an ổn, đâu đến nỗi phải bị thảm bại.
Có người nghi rằng Phật giáo rất tiêu cực và mê tín, nên không xứng đáng làm quốc giáo; đây là vọng tưởng của những người chưa hiểu gì về đạo Phật. Thật ra, Phật giáo không hủy hoại tướng của thế gian, cớ sao gọi là tiêu cực ? Đạo Phật dẫn dắt con người đi từng bước để bỏ mê hợp với tánh giác thì cớ sao gọi là mê tín ? Suy nghiệm lại chữ Phật, theo tiếng Phạn phải nói cho đủ là Phật đà, và được dịch là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ Tát, tiếng Phạn gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch là giác hữu tình và hữu tình giác. Bồ tát có hai hạng là xuất gia và tại gia. Bồ Tát thường phát tâm rộng lớn vì chúng sanh mà cầu đạo Bồ Đề vô thượng. Các ngài vừa tự tu hành, vừa giáo hóa tha nhân. Đó là hạnh chánh tín và tích cực của chư Bồ Tát. E rằng trên thế gian hiếm có ai phát được những hạnh nguyện này.
Phật giáo y theo hai nghĩa "chiết" và "nhiếp" mà lập nhiều môn phương tiện. Sao gọi là chiết ? Chiết tức là chiết phục kẻ ác. Xưa kia, khi Thạch Lặc hỏi về giới cấm giết hại, thì ngài Phật Đồ Trừng đáp:
Ông là vua trăm họ, chớ nên giết hại chúng dân bừa bãi. Đó là nghĩa của giới cấm giết hại.
Lại nữa, chư Bồ Tát quyền thừa tại gia phải chiết phục kẻ ác để lợi sanh. Tuy cầm đao trượng, cho đến chặt đầu kẻ ác, mà không thật phạm giới cấm giết hại; ngược lại còn sanh thêm công đức. Nếu ác ý mà giết người, thì biết là không thể được. Vì thiện ý mà giết người, đó là thủ nhãn thiện xảo của đại Bồ Tát Kim Cang quyền thừa.
Sao gọi là nhiếp ? Nhiếp tức là nhiếp thọ người hiền. Chư Phật Bồ Tát vì lợi ích của chúng sanh, nên không quản ngại gian nan hiểm nạn. Có bốn pháp nhiếp thọ. Thứ nhất, bố thí nhiếp, tức là nếu có chúng sanh muốn tiền tài thì Bồ Tát bố thí tiền tài. Nếu chúng sanh muốn nghe pháp thì Bồ Tát bèn thuyết pháp bố thí, để khiến cho họ sanh tâm thân ái mà thọ đạo. Thứ hai, ái ngữ nhiếp, tức là tùy theo căn tánh của chúng sanh, Bồ Tát ban những lời khuyên nhủ, thí dụ ngọt ngào, để khiến cho họ sanh tâm thân ái mà thọ đạo. Thứ ba, lợi hành nhiếp, tức là thân miệng ý của Bồ Tát luôn hành thiện nghiệp, làm lợi ích chúng sanh, khiến họ sanh tâm thân ái mà thọ đạo. Thứ tư, đồng sự nhiếp, tức là dùng pháp nhãn mà quan sát căn tánh của chúng sanh; tùy theo sở thích của họ mà Bồ Tát phân hình thị hiện, và cùng họ làm những việc ích lợi, để họ phát tâm thọ đạo. Đó là những hạnh tích cực của chư Phật và Bồ Tát.
Sao gọi là phương tiện ? Tức là các ngài tùy theo căn tánh của chúng sanh mà cứu độ bằng những phương tiện quyền xảo.
Bên trên đã bàn về bốn pháp nhiếp thọ, đó cũng là những môn phương tiện quyền xảo. Phẩm Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa thuyết:
"...Ví như trong đường hiểm
Chỉ toàn loài ác thú
Lại chẳng có cỏ nước
Nơi người thường sợ hãi.
Vô số trăm ngàn chúng
Muốn thoát đường hiểm đó.
Đường ấy rất rộng dài.
Qua năm trăm do tuần
Có một vị đạo sư
Mạnh khỏe có trí huệ
Tâm sáng suốt cương quyết
Tại đường hiểm cứu nạn.
Chúng nhân đều mỏi mệt
Mà bạch đạo sư rằng:
Chúng con đều mệt nhọc
Nơi đây muốn thối lui.
Đạo sư bèn suy nghĩ:
Bọn trẻ thật đáng thương
Sao lại muốn thối bước
Bỏ mất châu báu lớn ?
Nên nghĩ kế phương tiện
Mà thiết lực thần thông
Hóa ra thành ấp lớn
Các phòng xá nguy nga.
Chung quanh có vườn rừng
Sông ngòi cùng ao tắm
Lầu gác cao, cửa lớn,
Trai gái đều đầy đủ.
Liền hóa làm thế rồi
An ủi chúng đừng sợ.
Các ngươi hãy vào thành
An trú tùy sở thích.
Chúng nhân liền vào thành
Tâm đều mừng vô ngần
Đều sinh tưởng an vui,
Tự cho là được độ.
Đạo sư biết đã nghỉ
Hợp chúng lại bảo rằng:
Đây chỉ là hóa thành
Thấy các ông quá mệt
Giữa đường muốn thối lui
Nên quyền thiết hóa thành.
Nay đương cần tinh tấn
Phải cùng đến bảo sở..."
Xem qua bài kệ này, chúng ta biết rõ thâm ý của Phật Thích Ca phân thời lập giáo, quyền thuyết phương tiện. Thế nên, những bậc thượng thiện căn thường hợp với thiền và giáo. Người chú trọng sự phân chiết thì hợp với Duy Thức học. Pháp môn phổ cập trong quần chúng là Tịnh Độ. Người xuất gia hay kẻ tại gia, dẫu tu theo Đại Thừa hay Tiểu Thừa, đều vì nhiệm vụ cứu độ giáo hóa rộng khắp quần sanh, khiến cho tất cả chúng sanh đều thọ pháp ích lợi.
Gần đây, có những người theo lập trường vô thần, thấy các Phật tử lễ bái hay trì danh niệm Phật, thì họ cho là mê tín. Họ không biết rằng lễ bái chư Phật chư Bồ Tát nào khác gì với sự cung kính các bậc trưởng thượng ! Sự niệm Phật, đối với việc tu tâm, chẳng phải là công phu tu hành sao ? Vả lại, trì danh niệm Phật, bất quá chỉ là một pháp môn phương tiện giản dị cho người sơ cơ. Ngoài ra, trong tông Tịnh Độ còn có các pháp môn như quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, thật tướng niệm Phật, v.v... Tông Tịnh Độ vốn rất diệu dụng vô cùng tận, mà họ tự không hiểu rõ, lại cho là mê tín.
Lại nữa, có người bảo rằng đạo Cơ Đốc cũng thoát thai từ tông Tịnh Độ. Xem xét chúa Giê Su mặc y phục cũng tương đồng với Phật. Trong kinh "Phật Thuyết A Di Đà" thường nhắc đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Tín đồ đạo Cơ Đốc cũng thường nói đến Thiên Quốc Cực Lạc. Cõi Tịnh Độ được phân thành chín phẩm. Gia giáo Lý Lâm Thiên Thần Phổ cũng nói là có chín phẩm vị thiên thần.
Trong kinh A Di Đà, Phật Thích Ca nói rằng không thể dùng chút ít nhân duyên phước đức thiện căn mà được sanh qua cõi Cực Lạc. Đạo Cơ Đốc cũng nói rằng nếu ở tại nhân gian mà không lập công bồi đức thì Thiên Chúa sẽ không rước về Thiên Quốc. Người tu theo tông Tịnh Độ, phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà trong sáu thời, khẩn cầu Phật tiếp dẫn.
Đạo Cơ Đốc cũng bảo tín đồ rằng ngày đêm sáng tối phải thường cầu khẩn Thượng Đế gia hộ. Trong nhà Phật có pháp quán đảnh. Đạo Cơ Đốc có lễ rửa tội. Xem xét những điều như trên, thấy rằng tông chỉ của đạo Cơ Đốc và tông Tịnh Độ thật rất tương đồng. Giê Su giáng sanh sau Phật Thích Ca hơn năm trăm năm. Ngài đã từng thọ giáo huấn của Phật Thích Ca, nên mới được kinh A Di Đà, rồi y cứ theo đó, mà sáng lập tôn giáo mới. Điều này không thể nào nghi ngờ được. Lại nữa, Giê Su đã từng qua Ấn Độ ẩn tích ba năm để tham học. Sự tuy vô căn cứ, mà dấu tích vẫn còn tồn tại.
Đạo Cơ Đốc tuy tựa như pháp môn trì danh niệm Phật của tông Tịnh Độ, nhưng rất kém xa. Tín đồ Cơ Đốc chỉ cầu tha lực. Tuy tin tha lực như thế, mà họ lại không hiểu tại sao phải tin. Gần đây, có những người miễn cưỡng trì danh niệm Phật, chỉ chú trọng vào tha lực, tự bảo là phù hợp với đạo. Chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm viết:
"...Chư Phật trong mười phương thường lân mẫn thương xót nghĩ nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con cứ chạy lẫn trốn thì mẹ có thương nhớ cũng vô ích. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con đều không cách xa. Nếu tâm chúng sanh thường nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tiền và tương lai, tất sẽ thấy Phật, và không xa cách Phật. Không cần giả lập phương tiện, tâm vẫn tự được khai ngộ...
Nhân địa của con, dùng tâm niệm Phật mà nhập vào vô sanh pháp nhẫn. Hôm nay tại nơi đây, nhiếp thọ người thường niệm Phật, quy nơi Tịnh Độ".
Có nhân thì có quả, tức là sự và lý không chướng ngại nhau. Đạo Cơ Đốc bảo rằng người hiền lương sẽ sanh qua Thiên Quốc vĩnh viễn. Giáo lý của tông Tịnh Độ bảo rằng vãng sanh Tịnh Độ thì mãi sanh nơi cõi Phật, thấy Phật nghe pháp, liễu ngộ vô sanh pháp nhẫn. Dùng diệt mà hiển thị sanh, nên có sanh diệt đối đãi. Cuối lúc diệt, sanh trong cái vô sanh, tức vốn tự vô sanh, nên không có diệt. Vì vậy, gọi là Vô Lượng Thọ.
Y theo hạnh nguyện của Bồ Tát, chẳng phải chỉ có người xuất gia mới cầu đạo vô thượng, mà người tại gia cũng hành được. Bất quá, người xuất gia chỉ sống xa quốc chủ, rời thân bằng quyến thuộc, xả bỏ ân ái gia đình, ý tại thoát ly tình dục trói buộc. Người xuất gia xả bỏ tình riêng mà phát triển đồng tình Phật tánh. Xả bỏ ân ái riêng tư để trở thành bậc bác ái vĩ đại. Lấy việc cứu độ tất cả chúng sanh làm trung. Dùng sự nhiếp thọ chúng sanh làm hiếu. Đó là ý nghĩa của chủ nghĩa đại đồng. Tiên sinh Tôn Trung Sơn thường nói:
Phật giáo lấy việc cứu thế gian làm nhân đức. Phật học là mẹ của mọi ngành triết học. Tôn giáo tạo thành nền văn hóa và duy trì hùng khí cùng thiên tánh tự nhiên của dân tộc. Nhân dân chẳng nên không có tư tưởng tôn giáo. Nghiên cứu Phật học giúp bổ xung vào những điểm khiếm khuyết của triết học.
Hôm nay, Ngài (Tưởng Giới Thạch) đã cho phép kết hợp Phật giáo vào nền văn hóa, tức là bổ ích thêm cho tư tưởng học thuật của nước nhà. Hiện tại, Phật giáo đang lan truyền rộng rãi khắp thế giới. Phật giáo luôn chủ trương khuyến tấn đại giáo đại đồng duy nhất. Đây không phải là lời trống rỗng.
Vả lại, ngày nay tự do tôn giáo, chẳng nên cưỡng ép người theo những đạo mê tín, thì mới khiến nhân tâm trung thành khâm phục mà sanh chánh tín. Nếu bỏ Phật giáo thì quy ngưỡng vào nơi nào ?
IV. Khai thị tại chùa Từ Vân ở Trùng Khánh vào ngày mười bảy tháng giêng, năm 1943
Hôm nay, quý vị phát tâm quy y Tam Bảo. Lão nạp rất vui mừng. Quý vị không quản đường xa, băng sông lội suối đến đây, không ngoài việc hy vọng đạt được sự lợi ích này. Tuy nhiên, nếu muốn đạt được lợi ích, phải tự thuận theo tự tướng mà hành trì. Nếu chỉ quảy đeo hư danh trống rỗng, sẽ không đạt được gì. Quý vị nên biết rằng hôm nay thọ giới quy y, tức là làm đệ tử Phật. Quý vị đã giống như được sinh vào nhà đế vương, tức là làm con cháu đế vương, nhưng phải cố gắng đôn đúc tu hành, đừng để bị trục đuổi, thì mới thật là phượng các loan đài, có phần lợi ích.
Từ nay về sau, phải y chiếu theo lời di giáo của Phật mà hành trì. Phải sớm biết muôn sự trên thế gian này như huyễn hóa. Suốt cuộc đời của con người, làm này tạo nọ, chỉ giống như ong hút mật, tằm dệt lưới. Do một niệm động khởi, nên chúng ta nhập bào thai. Được sanh ra đời xong, lại từ từ biết phân biệt mình người, khởi niệm tham sân si. Lớn lên, dần dần tiếp xúc với xã hội. Mọi toan tính đều vì lợi ích cho mình; tích lũy tiền tài riêng tư cho quyến thuộc. Bận rộn cả đời, chỉ lo chuyện vợ con. Kết quả, không một giây phút rảnh rỗi. Tự mình trói buộc không lối thoát, có khác gì ong hút mật ! Cả đời làm lụng này nọ, tạo bao nghiệp chướng, nên phải chịu quả xấu, phá vỡ chẳng được, nào khác chi tằm tự quấn tơ ! Cuối đời bị đọa lạc vào vạc lửa dầu sôi, ba đường ác. Hãy suy nghĩ kỸ càng !
Vì thế, mọi người phải y chiếu theo lời Phật dạy. Phải ăn chay trường suốt đời, chớ chỉ ăn chay tạm. Chẳng nên giết hại sinh mạng loài khác. Sao nhẫn tâm giết hại sinh mạng loài vật để bổ dưỡng cho thân mình ? Thử xem lúc giết gà, nó tất phải cố kêu la bỏ chạy. Chỉ vì chúng ta mạnh nó yếu, không đủ sức đề kháng chống cự, nên phải chịu nhẫn thọ, nhưng lại tích oán trong tâm, để đợi đến đời sau, nếu có dịp sẽ báo thù. Hiện tại, các cường quốc dùng các loại vũ khí ác độc, hủy diệt các dân tộc nhược tiểu, cùng việc giết gà đồng nhau không khác.
Quý vị đã là Phật tử, nếu việc gì trái với sự lý, chớ nên làm càn. Phật pháp vốn chẳng có gì kỳ lạ, vì luôn tuân theo chánh tâm, thuận theo lý đạo.
Có nhiều người thấy tôi tuổi lớn cơ tuần, nên mỗi lần gặp mặt thì tham thảo tìm tòi thần thông tình tự; họ kiểm nghiệm coi tôi có biết đời quá khứ vị lai của người khác hay không, hoặc thường hỏi chiến tranh bao giờ kết thúc, thế giới bao giờ hòa bình ! Thật ra, không những thiên ma ngoại đạo, mà ngay cả quỶ thần súc sanh cũng có năm loại thần thông. Những thần thông này, trong tự tánh vốn có đủ, chớ nên để tâm chú ý. Chúng ta học Phật pháp, phải vì việc minh tâm kiến tánh, giải thoát sanh tử, phát tâm Bồ Đề, hành đạo Bồ Tát. Lời cạn cợt thô thiển của tôi: Các việc ác chớ làm. Hãy nên hành các việc lành.
Không nên làm tổn hại người để lợi mình, mà phải tổn mình lợi người. Phải thường thiết thật hành trì giới; do giới sanh định, rồi do định sanh huệ. Tất cả việc đều tự biết tự thấy, thì việc quy y hôm nay chẳng phí uổng.
Vừa rồi có vài vị hỏi về yếu chỉ của kinh Lăng Nghiêm. Thể theo cơ duyên của đại chúng nơi đây, nay lược thuyết đại khái.
Ấn Độ, bộ kinh này vốn có một trăm quyển, nhưng tại cõi này, chỉ phiên dịch có mười quyển. Bốn quyển đầu nói về việc kiến đạo. Quyển thứ năm, thứ sáu, và thứ bảy nói về việc tu hành. Quyển thứ tám và thứ chín bàn về chứng quả của cách tu tiệm thứ. Quyển cuối cùng nói về những vọng tưởng phát xuất từ các ấm ma. Tôn giả A Nan vì đại chúng mà thị hiện hỏi đạo. Đầu tiên, đức Phật chứng minh các pháp đều do tâm mà sinh ra. Vì tôn giả A Nan thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, như các màu sắc vàng tím hội tụ, nên sanh tâm thích mến. Phật hỏi: Những tướng này dùng vật gì để thấy ? Ngài A Nan đáp: Con dùng mắt để xem thấy tướng hảo thù thắng của Như Lai.
Tâm và mắt trú tại nơi nào ?
Con quán thấy Như Lai, mắt xanh biếc như hoa sen, tại trên mặt của Ngài. Nay con quán thấy bốn căn phù trần ngay nơi trước mặt. Tâm thức này, thật trú tại trong thân.
Tâm chẳng ở trong, ở ngoài, hay chính giữa. Nếu không chấp trước mọi việc thì tâm không trụ nơi nào hết. Những vị tu hành không thể đắc được đạo Bồ Đề vô thượng chỉ vì không biết hai việc căn bản. Thứ nhất là cội gốc của sinh tử từ xưa đến nay; chúng sanh thường dùng tâm phan duyên làm tự tánh của mình. Thứ hai là vô thủy Bồ Đề Niết Bàn, thể vốn thanh tịnh. Tuy nhiên, ngay nơi tánh thức sáng soi lại sanh ra các duyên. Do những duyên này, nên chúng sanh quên cội gốc tròn đầy trong sáng. Tuy cả ngày thường mang theo tánh giác mà chẳng tự giác, nên oan uổng đi vào ba con đường ác. Phải biết sanh ra các pháp, vì do tâm ảnh hiện. Mọi nhân quả thế giới vi trần đều do tâm tạo ra. Chúng sanh không thể thành tựu đạo Bồ Đề chỉ vì ngộ nhận khách trần phiền não là mình. Sáu trần là màu sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm, pháp. Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Đó là mười hai xứ. Lại thêm nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức; tất cả cộng thành mười tám giới. Đất nước gió lửa hợp với không đại, kiến đại, thức đại, làm thành bảy đại. Gom hết lại thành số hai mươi lăm. Từ đây, mỗi vị trong hai mươi lăm vị Thánh tự trần thuật và nói rõ nhân duyên cũng như đường lối tu hành nhập đạo thuở xưa.
Sống trong sáu đường luân hồi, dâm dục là gốc. Lưu chuyển trong ba cõi do ái làm căn bổn. Ngài A Nan vì chúng sanh mà thị hiện tướng: Tuy bao kiếp tu hành, nhưng không thoát được nạn Ma Đăng Già. Trong các tội chướng, dâm dục đứng đầu. Vì dâm dục nhiều khiến tổn hại thân thể, nên giết hại sanh mạng chúng sanh để bổ dưỡng. Những tội ăn cắp nói láo v.v..., cũng theo đó mà phát sanh.
Ngài A Nan thấy ba mươi hai tướng tốt của đức Như Lai, như ánh sáng vàng tím hội tụ, nên đối với sắc đẹp của Ma Đăng Già chẳng ưa thích. Trai thích nhìn gái đẹp, hay nghĩ tưởng mình là thân gái. Gái thích nhìn trai, hay nghĩ tưởng mình là thân trai. Những vọng tưởng điên rồ này, cả ngày cứ xoay vần trong tâm niệm. Ví như lúc nhỏ khi còn ở nhà chưa xuất gia, tôi thường để râu tóc, mặc đồ thế tục. Cả ngày giao tế, nghĩ tưởng những việc thế tục. Tối đến lại mộng thấy cha mẹ nội ngoại, quyến thuộc, và bao việc thế tục. Từ khi xuất gia, những việc làm và suy nghĩ không ngoài việc Phật sự. Tối ngủ, mơ thấy những sự không ngoài việc niệm Phật, v.v...
Lại nữa, năm loại hành tỏi không thể ăn được, vì muốn tránh sự kích thích dục niệm. Trừ dẹp những trợ nhân đó rồi tu chánh tánh, tinh tấn chuyên cần, tự có thể từ từ thành tựu. Tự mình chuyên cần phấn tấn mà không Ỷ lại người khác.
Ngài A Nan là hoàng tử, cũng là em Phật. Ngài xả bỏ vinh hoa phú quý, theo Phật xuất gia, và hy vọng Phật sẽ tiếp tay giúp sức, chứng đắc quả vị. Tuy nhiên, nên biết phải tự tu tự chứng mà không thể nương nhờ người khác. Chúng ta nếu không làm biếng giải đãi, luôn phát tâm cần tu tinh tấn, thì sẽ chứng đắc các quả vị Bồ Tát như thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh, thập địa, cho đến đẳng giác, diệu giác. Ba cõi và sáu đường đều là huyễn hóa, và vốn không ngoài một tâm. Tất cả tánh giác vi diệu trong sáng của chư Phật cũng không ngoài một tâm. Thế nên, tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không khác biệt. Đồng Tử Hương Nghiêm cũng có thể gọi là mũi của chúng ta. Bồ Tát Kiều Phạm cũng có thể gọi là lưỡi của chúng ta. Nhân địa và cách thức tu hành của hai mươi lăm vị hiền thánh tuy không đồng, nhưng sự tu hành chứng ngộ vốn không hơn kém.
Hiện tại, những người sơ phát tâm tu đạo có thể theo pháp tu của Bồ Tát thứ hai mươi bốn và hai mươi lăm, tức là ngài Đại Thế Chí và Quán Thế Âm mà hỗ tương dụng công. Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ là vị Phật kế tiếp sau Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Sau Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài Đại Thế Chí sẽ làm Phật tại cõi đó. Ngài Đại Thế Chí dùng pháp môn niệm Phật tu hành chứng được viên thông. Chúng ta cũng phải tu tập, niệm Phật để nhiếp thọ sáu căn, đạt được tịnh niệm tương tục, đắc tam ma địa (chánh định). Mười phương chư Như Lai đều lân mẫn thương xót chúng sanh, như mẹ thương con. Tuy nhiên, nếu con cứ chạy trốn mãi thì mẹ nhớ cũng chẳng có ích gì ! Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì mẹ con đời đời không xa cách. Nếu tâm chúng sanh thường nhớ Phật và niệm Phật thì đời này đời sau, quyết định sẽ thấy Phật. Bồ Tát Quán Thế Âm từ văn tư tu mà nhập vào tam ma địa; trên hợp với mười phương chư Phật, đồng một lực từ; dưới hợp với chúng sanh trong sáu đường, đồng một bi ngưỡng. Nếu gặp thiện nam tử thường trì năm giới thì Ngài sẽ hiện thân nam mà vì người đó thuyết pháp, khiến cho được thành tựu đạo Bồ Đề. Nếu gặp người nữ thường thọ trì năm giới, Ngài cũng sẽ hiện thân nữ mà vì họ thuyết pháp, khiến được thành tụu đạo Bồ Đề. Cứ như thế, trong ba mươi hai ứng thân hoặc hiện thân trời người, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến thân Phật, cùng mười bốn lực vô úy, bốn pháp bất tư nghị, trải qua vô lượng kiếp, Ngài độ vô lượng chúng sanh. Chúng sanh vô tận, bi nguyện vô tận. Quý vị hãy tự suy gẫm !
V. Khai thị tại chùa Từ Vân ở Trùng Khánh vào ngày mười tám tháng giêng, năm 1943
Hôm nay cùng quý vị đàm luận. Đối với hai chữ khai thị, thật tình tôi rất xấu hổ, không dám đảm nhận. Hư Vân tôi, ngay chính mình cũng chẳng rõ, sao dám hàm hồ dạy người!
Lời Phật dạy trong các kinh điển, nhiều vô số. Tại các tùng lâm những lúc tọa hương ngồi thiền, đả Quán Âm thất, Phật thất v.v..., các vị ban thủ luân phiên khai thị. Tuy nhiên, việc bái sám lễ lạy thì không như ngồi thiền đả thất. Khi lễ sám, năm thể phải chạm đất và ba nghiệp phải thanh tịnh mà không nên tăng thêm những lời tán ngôn loạn ngữ. Trên đàn sám không ban những lời khai thị. Lúc lễ sám phải quán tưởng: "Người lễ, bậc thọ lễ, tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Nay con đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm, cảm ứng đạo giao tự hiện tiền".
Thân tâm mình lễ. Phật và Bồ Tát là những vị thọ nhận lễ. Tâm mình vừa lễ vừa quán tưởng thâm sâu về quá khứ, hiện tại, vị lai, nơi mọi thời, đều không thể đắc được. Tất cả đều không tịch, thì tạng tánh Như Lai sẵn có, tự nhiên hiển lộ. Kinh Kim Cang nói: "Nếu lấy sắc cầu Ta, lấy âm thanh cầu Ta, người này hành tà đạo, không thể thấy Như Lai... Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy Như Lai".
Đây là hai ý nghĩa vừa ẩn vừa hiển. Không chẳng phải không và sắc chẳng phải sắc, thì mới là không chân thật và là sắc chân thật.
Chúng ta đều là những người xuất gia. Nơi trong lửa bỏng dầu sôi, nước non loạn lạc, không gặp đạn dược cũng gặp phi cơ. Thật không may mắn. Tuy nhiên, trong việc không may mắn lại có những sự may mắn. Vì sao ? Người xuất gia vốn: "Một bình bát, ăn cơm ngàn nhà. Thân đơn độc, đi muôn vạn dặm".
Tuy nhiên, hiện tại không thể hành được những hạnh này.
Chúng ta phải nên xả bỏ tất cả, cùng thúc liễm thân tâm. Thân vốn là gốc khổ. Tâm nguyên là nguồn tội. Hiện tại, nếu không nỗ lực tu hành thì đợi đến chừng nào ? Một khi mất thân này thì muôn kiếp khó hoàn phục. Xả bỏ vọng tưởng thì bản tâm như như; muốn được như thế, phải tu hành ngay từ tự tâm, chứ không thể hành từ bên ngoài mà đắc được. Nếu luôn tinh cần tu trì thì lo gì không cắt đứt dòng sanh tử ? Nhà Nho có câu: "Từ thiên tử (nhà vua) đến thứ dân, mọi người phải lấy việc tu thân làm gốc".
Tâm người đời hiện nay khác xưa. Họ không biết sự quan hệ giữa chánh trị và tôn giáo. Dùng chánh trị để sửa thân. Dùng tôn giáo để chuyển hóa nội tâm. Những ý nghĩa này, họ đều không biết đến. Gần đây, chắc có nhiều vị trí thức biết rõ rằng nếu không nhờ sự nỗ lực nhất chí của chánh phủ và tôn giáo thì không thể cứu tế được thiên tai hoạn nạn trong đại kiếp nầy. Hiện tại, tổng thống cùng các vị bộ trưởng, đồng phát tâm kiến lập pháp hội Đại Bi Hộ Quốc Giải Trừ Thiên Tai Hoạn Nạn, cũng không ngoài ý này.
Xưa kia, việc kiến lập pháp hội là việc thường. Đối với pháp hội Thập Luân, Kim Cang v.v..., tôi nhớ không hết, nhưng biết rõ rằng sự dụng tâm tại những pháp hội đó không giống nhau. Các vị Lạt Ma Tây Tạng gần đây hoằng pháp tại Trung Nguyên rất nhiều. Chánh phủ rất mực tôn sùng kính trọng. Không biết có phải là tín ngưỡng đặc biệt của chánh phủ hay không ? Tăng sĩ áo xanh ngày càng lộng hành. Họ phá chùa đuổi tăng áo vàng. Tăng chúng áo xanh hay áo vàng đều là đệ tử Phật. Mật tông được truyền từ Nhật Bổn gọi là Đông Mật. Mật tông được truyền từ Tây Tạng, gọi là Tạng Mật. Những năm gần đây, Mật giáo tại Trung Quốc được thịnh hành một thời, vì đều có thể hiển hiện bao loại thần thông biến hóa. Tuy nhiên, vào lúc nhàn rỗi không chịu thắp hương. Gặp lúc khẩn cấp mới chạy đến ôm chân Phật thì không thể nào thành tựu được.
Hư Vân tôi đi khất thực khắp nhân gian; những nước lân cận hầu như đã đến. Tôi vốn là phàm phu, không có thần thông, không biết biến hóa, nên không dám ăn thịt, cũng không dám ăn quá giờ. Có một số người chẳng hiểu Phật pháp, chưa quên danh lợi, và thường cầu thần thông biến hóa. Tồn trữ những vọng tưởng như thế, chẳng là tà cũng tức là ma. Phải nên biết rằng Phật pháp tại tâm mình, nên không thể đem tâm hướng ngoại cầu pháp. Thần thông phát khởi do trình độ dụng công thì cớ sao khởi tâm hy vọng mong cầu ? Dụng tâm như thế, làm sao khế hợp với chân lý vô sở trụ ? Đức Phật bảo rằng những người này thật đáng thương hại!
Hiện tại, quý vị Bồ Tát đại tâm phát nguyện tu trì Đại Bi Sám Pháp, vì muốn hộ quốc tiêu tai, nên yêu cầu Hư Vân tôi ra làm chủ trì. Công đức Hộ Quốc Tiêu Tai, mọi người đều nên thành tâm nhất ý, cùng làm cùng tạo. Chúng ta bái sám, xưng dương thánh hiệu; Bồ Tát Quán Âm linh cảm vô vàn. Duyên lành của ngài Quán Âm đối với cõi này thật rất thâm sâu. Tuy nhiên, tâm nếu không chân thành thì không thể đạt được cảm ứng. Nếu thành tâm xưng thánh hiệu thì Bồ Tát Quán Âm sao không tầm thanh cứu khổ ? Giữa hai mươi lăm vị thánh trong kinh Lăng Nghiêm, duy chỉ có Bồ Tát Quán Âm là chứng quả vị viên thông vi diệu nhất.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Quán Âm trình bày cách tu chứng viên thông của mình:
Đức Phật kia (Phật Quán Âm) dạy con từ văn tư tu để nhập vào tam ma địa. Ngay trong cái nghe, không chạy theo âm thanh của trần cảnh, mà xoay cái nghe trở vào chân tánh. Nhập vào liền được tịch tĩnh, khiến hai tướng động tịnh, chấm dứt không sanh. Thứ nhất, bên trên khế hợp và đồng một lực từ với mười phương chư Phật. Thứ hai, bên dưới đồng một bi ngưỡng với mọi loài chúng sanh. Bồ Tát Quán Thế Âm thật đại vô úy. Ngài luôn dùng ba mươi hai ứng thân để hóa độ chúng sanh. Kinh lại bảo: "Giáo thể chân thật này, thanh tịnh tại âm thanh".
Niệm danh hiệu của sáu mươi ức hằng hà sa Pháp Vương Tử cũng đồng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bộ "Đại Bi Sám Pháp" do đại sư Tứ Minh Pháp Trí soạn. Bi nguyện thật không thể nghĩ bàn. Năng lực cảm ứng cũng không thể nghĩ bàn. Những câu chuyện cảm ứng được ghi trong sử sách rõ ràng tường tận. Từ sáng đến tối, năm thể chạm đất lễ sám, ba nghiệp thanh tịnh, thì đoạn được tội giết hại, ăn cắp, tà dâm, tham sân si,và chuyển mười việc ác thành mười việc lành. Tất cả đều phải phù hợp với diệu lý của sám pháp. Lại nữa, phát bốn lời đại nguyện, rồi dùng hương hoa, tự trang nghiêm phước đức trí huệ. Những sự lợi lạc như thế, sao lại không làm ? Lời nói là giả mà hành trì mới là chân. Hôm nay, đại khái đàm luận Phật pháp đôi chút. Phải nhớ rằng đức Phật là đấng trượng phu và mình cũng sẽ như thế. Tự tôn tự quý thì tự nhiên sẽ được cảm ứng.
Đời vua Khang Hy, hòa thượng Nguyên Thông trụ trì chùa Tây Vực. Ngày nọ, một vị tăng đắp y vàng đến chùa. Nhà vua rất tôn sùng kính trọng mà bảo hòa thượng Nguyên Thông ra tiếp đãi. Hòa thượng Nguyên Thông bảo rằng đó chẳng phải là tăng hay người, mà là con nhái tinh. Nó có thần thông vi diệu. Bấy giờ, gặp lúc trời hạn hán. Nhà vua ra lịnh cho vị tăng mặc áo vàng kia cầu mưa. Quả nhiên có mưa, nên nhà vua lại càng cung kính. Hòa thượng Nguyên Thông bảo: Hãy lấy nước mưa mà đem so với cức rái của các con nhái !
Quả nhiên thật giống nhau; tà chánh rõ ràng. Phải biết rõ ràng về năm mươi ấm ma trong kinh Lăng Nghiêm, bằng không thì sẽ bị chúng chuyển, khiến nhập vào đường ma. Xin đại chúng hãy lưu ý !
VI. Khai thị tại chùa Từ Vân ở Trùng Khánh vào ngày mười chín tháng giêng, năm 1943
Chư Bồ Tát ! Trong pháp hội này, Hư Vân tôi thật không biết tự lượng sức mình, lại không biết quý vị lên chánh điện, đến tổ đường, làm việc Phật sự, khổ nhọc muôn phần. Tối đến, lại thỉnh quý vị ra niệm Phật, nghe khai thị. Tôi có thật cản trở sự tu hành của quý vị không ? Trong lòng tôi còn vài việc, chưa thổ lộ được. Có một số cư sĩ tại pháp hội này, muốn nghe khai thị. Chư Phật và chư Bồ Tát khó làm mãn nguyện chúng sanh.
Tối hôm qua, tôi đã nói về sự khác biệt giữa bái sám và hành Phật thất, nhưng chưa bàn về những điểm then chốt. Quý cư sĩ đó phát tâm thật khó ai bì được. Hiện tại, tôi không phải là Hư Vân mà trở thành Hư Danh; thật tình thổ lộ không ra lời. Tôi đã từng nói với thầy trụ trì rằng kỳ pháp hội này, quý vị thọ khổ rất nhiều. Ngày ngày, ai ai cũng tự tu đạo và tạo công đức, như dự các tịnh thất và làm công quả, nên không có thời gian nghỉ ngơi. Nơi ngôi chùa này, không có một mảnh ruộng, miếng ngói. Nếu không làm Phật sự thì không thể thành công. Tuy nhiên, nếu làm Phật sự thì không thể dụng công, đả Thiền thất. Vì Phật sự quá bận rộn, nên đến tối mới làm lễ Phóng Diệm Khẩu tại đại điện. Thế nên, tại nơi đây tôi thiết phương tiện giảng kinh thuyết pháp trong ban ngày, để quý vị cư sĩ có thể băng sông, trở về nhà sớm. Trên đàn sám có bốn mươi chín người bái sám. Họ không thể dừng lại nửa chừng để nghỉ ngơi, mà phải cần có người khác đến luân phiên. Thường trụ lại quá bận rộn, nên hai mươi bốn người không thể xuống đàn.
Bàn về chữ khai thị. Khai tức là khai khải. Thị nghĩa là biểu thị, tức giảng giải việc thiện ác của con người, cùng khai mở bổn lai diện mục của mọi người. Tuy nhiên, sắc tướng vốn không có tướng lớn nhỏ, vuông tròn, phàm thánh, nam nữ, v.v...
Phàm tất cả tướng đều là hư vọng. Nếu thấy tướng mà không phải tướng, tức là thấy Như Lai. Dẹp hết tình phàm, thật không có giải thoát của chư thánh. Người học đạo phải chân thật, chớ treo đầu dê mà bán thịt chó. Phải tự tầm cầu bên trong, chớ tìm tòi bên ngoài. Lời nói không có nghĩa chân thật, đều giả dối. Hành trì mới là chân thật. Nếu được như thế thì triển chuyển dây chuyền, từ một người đến nhiều người, từ một nhà đến một quốc gia, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia, toàn thế giới không cần trị mà an.
Không luận tu học pháp môn nào, phải lấy việc trì giới làm căn bản. Nếu không trì giới mà trí huệ lại tinh xảo, thì tất cả việc làm đều là việc ma. Hai mươi lăm pháp môn trong kinh Lăng Nghiêm đều có thể tu chứng viên thông. Vì vậy bảo rằng phương tiện thì nhiều pháp môn, nhưng quy về cội nguồn thì không hai.
Tự mình chọn lấy một pháp môn làm chánh hạnh, còn những hạnh khác thì chỉ làm phụ. Phải tu cả hai phước và huệ. Nếu chỉ tu phước thì sẽ hưởng phước hữu lậu ở cõi trời người. Nếu chỉ lo tu trí huệ thì sẽ thành trí huệ khô khan. Tu hành mà không đoạn trừ tâm giết hại, đời sau nếu không làm thành hoàng thì sẽ làm thổ địa. Tôi thấy rất nhiều người, nửa ăn chay nửa ăn mặn. Tu học Mật tông lại ăn thịt. Thật rất đau lòng vì hoàn toàn trái ngược với tâm từ bi. Mạnh Tử nói:
Nghe âm thanh, không nhẫn ăn thịt của chúng.
Mạnh Tử còn nói như thế, huống hồ gì chúng ta đã là Phật Tử ! Cướp giựt sanh mạng của loài vật để thỏa lòng mình sao ? Miệng chỉ hưởng được chút ít vị ngon, mà tạo vô biên nghiệp ác. Gì là giữ và gì là xả ? Gì là nhẹ và gì là nặng ? Tôi thấy không ít các người Thích Tử xuất gia thường ăn thịt. Miệng mồm tôi không được hay, nên mỗi lần thấy những việc như thế thì không thể chẳng nói được. Xin quý vị hãy cố gắng tu hành!
VII. Khai thị tại chùa Kiềm Minh, Quý Dương, vào mồng một tháng hai, năm 1943
Hư Vân tôi lại y theo lời thỉnh mời của thủ tướng chánh phủ cùng quý đại cư sĩ để đến đây giảng thuyết và chủ trì pháp hội Đại Bi Hộ Quốc Tiêu Tai. Vì thời gian có hạn, nên không thể đến các đạo tràng khác bái kiến vấn đáp. Xin hãy niệm tình bỏ qua !
Quý vị đều là các bậc thượng tọa tu hành lâu năm. Đối với Phật pháp đã từng nghiên cứu tu học thâm sâu, đâu cần nghe nhiều lời của tôi. Tuy nhiên, vì quý vị nhất định muốn tôi ra thuyết giảng, nên không thể chẳng nói vài lời.
Hiện tại, các nước trên thế giới đang gây chiến tranh, giết hại lẫn nhau. Nhân dân đang sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Vì vậy nói: "Nhân dân không biết nương đâu mà sống".
Nơi đây may mắn có hòa thượng Quảng Diệu đang hoằng dương Phật pháp, độ khắp chúng sanh.
Hôm nay, Hư Vân tôi cùng quý vị hợp mặt tại chánh điện này thật chẳng phải là nhân duyên ngẫu nhiên. Tuy nhiên, bất quá Hư Vân tôi chỉ lớn tuổi hơn quý vị đôi chút, còn những việc khác thì chẳng hay ho chút nào.
Sau khi thành lập Dân Quốc, chánh phủ vốn đã chấp thuận cho tự do tín ngưỡng. Lời di chúc của Quốc Phụ (Tôn Trung Sơn) đã được ban bố rõ ràng. Nhận thấy những tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Gia Tô giáo, Hồi Giáo đều được chánh phủ bảo hộ. Tuy nhiên, việc phá chùa đuổi tăng lại xảy ra trong toàn quốc. Bị oan ức, sao chẳng có nơi giải bày ? Việc này quý vị hãy suy nghĩ đôi chút. Họ phá chùa đuổi tăng cố nhiên là không đúng. Nhưng vì vật tự thúi rữa, nên mới sanh ra trùng. Hiện tại, các Phật tử phần nhiều bỏ bê trách nhiệm, không biết rằng nếu là người Phật tử thì phải luôn làm Phật sự. Phật sự là gì ? Phật sự tức giới định huệ, là việc mà Phật tử phải tu hành. Nếu nhận chân tu trì, thì tự nhiên sẽ biết cách cảm hóa bọn ác ma, chuyển chúng thành những người hộ trì Phật pháp.
Ngày nay, các tăng ni phạm luật pháp thế gian, khiến làm lụy đến chư Phật. Chánh quyền chiếm chùa miếu, đuổi tăng ni. Họ không biết chùa chiền đâu có can hệ chi với những tăng ni bất hảo ! Một đảng viên bất hảo, đâu có can hệ gì với toàn đảng. Nếu một tăng ni bất hảo thì đi phá chùa chiền, còn nếu một đảng viên bất hảo thì có nên hủy diệt toàn đảng không ? Lý này, tôi hy vọng mọi người đều nên hiểu rõ. Mọi người hãy giúp một tay, lật đổ bồn cát này. Chớ nên bảo người Quý Châu chỉ lo Phật pháp ở Quý Châu. Phải nên biết Phật giáo là một hợp nhất. Mọi người không nên phân biệt oán thù hay thân thuộc, như đất chẳng phân biệt biên cương. Phải nên vì chủ nghĩa đại đồng chân chánh. Phải tự nhớ rằng sanh tử là việc lớn. Từ văn tư tu, nhập tam ma địa. Mọi người phải tự tinh tấn tiến bước. Chớ để một đời trôi qua vô ích.
Ma cỏ gì đâu. Toàn chơi đồ vào rồi thấy lung tung. Lời khuyên là bớt chơi đồ và lỡ có chơi thì chơi đồ tốt nhé 🤣🤣🤣🤣
PHÁP NGỮ
GIỚI LUẬT LÀ NỀN TẢNG CĂN BẢN CỦA PHẬT PHÁP
(Hoà Thượng Hư Vân Khai Thị)
Bí yếu của Phật pháp nằm nơi ba pháp vô lậu học, tức giới định huệ. Trong ba pháp này, giới luật là nền tảng căn bản. Nhờ giới luật mà sanh định. Do định mà sanh huệ. Nếu trì giới thanh tịnh thì định huệ tự nhiên sẽ được viên thành.
Thể theo ngôn từ, Phật chế giới luật, vốn có ba hạng: Thứ nhất là giới tại gia; giới này bao gồm năm giới và tám giới. Thứ hai là giới xuất gia; giới này bao gồm mười giới của Sa Di và Sa Di Ni, cùng giới Cụ Túc của tỳ kheo và tỳ kheo ny. Thứ ba là giới chung cho tu sĩ và cư sĩ (đạo tục thông hành giới), tức là tam tụ tịnh giới Bồ Tát.
Hôm nay, quý vị cầu thọ giới, tức là phát hạnh nguyện quan trọng, cao cả bậc nhất. Hạnh nghĩa là hành trì, tức y theo giới luật mà tu hành. Nguyện nghĩa là phát nguyện, tức phát bốn hoằng thệ nguyện. Hạnh nguyện nếu tương dung đầy đủ thì sẽ thành diệu dụng.
Phật chế giới luật, không ngoài việc khiến cho chúng sanh đoạn trừ thói quen tật xấu, ngưng ác hành thiện, bỏ trần lao, hợp với tánh giác. Kinh Hoa Nghiêm thuyết:" Giới là nền tảng căn bản của đạo quả Bồ Đề vô thượng. Phải nên hành trì tịnh giới đầy đủ".
Nhờ giới mà Phật pháp mới trụ thế dài lâu. Tăng già nương vào giới mà trường tồn, phát triển
GIỚI PHÁP, GIỚI THỂ, GIỚI HẠNH, GIỚI TƯỚNG
Giới được phân thành bốn loại: Giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng.
1- Giới pháp: Phật chế năm giới, tám giới cho ưu bà tắc và ưu bà di, chế sáu giới cho thức xoa ma noa, chế mười giới cho sa di và sa di ni, và chế giới cụ túc cho tỳ kheo và tỳ kheo ny. Năm chúng Bồ Tát xuất gia, thọ mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Hai chúng Bồ Tát tại gia, thọ sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh. Một trăm tám mươi bốn loại yết ma, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, cùng vô lượng luật nghi, được gọi là giới pháp.
2- Giới thể: Tức là lúc thọ giới, lãnh nạp giới pháp nơi thân tâm, khiến phát sanh một loại giới thể. Giới thể này, tuy phàm phu không thể nghe thấy biết đến, nhưng suốt đời hằng thường tương tục, có công năng phòng việc xấu ngưng việc ác. Được giới thể bậc ưu hay liệt, tùy theo sự phát tâm cao thấp trong lúc thọ giới. Người cầu giới, đầu tiên phải biết phát tâm. Phát tâm có ba phẩm vị thượng trung hạ.
Thứ nhất, phát tâm hạ phẩm, tức ngay lúc thọ giới, trí huệ mờ mịt, hạ liệt, thệ nguyện không rộng, hoặc tâm tán loạn, duyên cảnh không chu toàn. Tuy thủ trì giới tướng, nhưng không thể phát khởi công dụng của giới thể, tức phát tâm hạ phẩm, tức chỉ được giới thể hạ phẩm.
Thứ hai, phát tâm trung phẩm, tức ngay khi thọ giới, tâm duyên đến tất cả cảnh giới tình cùng vô tình. Song, tại những cảnh duyên này, có phát khởi phần đoạn các việc ác, phần tu các việc thiện, lại chỉ muốn tự giải thoát sanh tử, mà hoàn toàn không có thệ nguyện độ khắp chúng sanh, tức phát tâm trung phẩm, tức đắc giới thể bậc trung.
Thứ ba, phát tâm thượng phẩm, tức ngay nơi thọ giới, tâm tâm tương tục, thấy cảnh sáng trong thanh tịnh, duyên đến tất cả cảnh giới hữu tình lẫn vô tình. Ngay nơi cảnh duyên này, có thể quyết định phát đại thệ nguyện, tức nguyện đoạn tất cả ác, nguyện tu tất cả thiện, nguyện độ tất cả chúng sanh. Đó là phát tâm bậc thượng, tức đắc giới thể bậc thượng. Vì vậy, nếu muốn đắc được giới thể thượng phẩm, phải nên phát tâm thượng phẩm.
Do đó, trước khi thọ giới, phải khai mở tâm rộng rãi, kế đến lập chí cao viễn, thì khi thấy các tướng liền hiểu rõ. Nếu không chuẩn bị kỹ càng, chỉ mơ hồ về pháp tướng, thì làm sao đắc được giới thể thượng phẩm? Hoặc giả, hoàn toàn không phát khởi tâm cầu giới, chỉ được danh thọ giới trống rỗng, thật uổng công sức thọ giới, cùng lãng phí một đời tu. Quý vị hãy thận trọng lưu ý.
Cảnh duyên tuy nhiều, nhưng không ngoài hai loại hữu tình và vô tình. Cảnh duyên loài hữu tình tức là tất cả động vật có sanh mạng như loài người, cá, chim, trùng, thú, v.v... Cảnh duyên vô tình tức là tất cả loài không có sanh mạng như thực vật, khoáng vật, đất đai, núi sông, mặt trăng, mặt trời, tinh sao, cỏ cây, nhà cửa, dụng cụ, thuốc men, v.v...
Chúng sanh tạo nghiệp ác, do mê lầm cảnh duyên trước mắt, như vừa thấy tiền tài, liền khởi tâm muốn ăn cắp; vừa thấy sắc đẹp liền khởi niệm dâm dục. Song, nghiệp ác vốn do cảnh khởi, và nghiệp thiện cũng từ cảnh mà sanh. Cảnh là nơi nương tựa của sự chế giới, cũng chính là nền tảng căn bản phát khởi giới luật.
Ví như giới cấm giết hại và dâm dục, do cảnh hữu tình phát khởi mà chế giới. Những giới này, cũng y theo cảnh mà sanh. Giới cấm ăn cắp và nói láo, do cảnh hữu tình và vô tình phát khởi mà chế giới. Thế nên, cảnh của rừng cây thâm thẩm đều là gốc của sự chế giới, và là nhân của sự phát khởi giới. Nếu hưng khởi được tâm từ quảng đại, duyên cảnh hữu tình và vô tình, rồi phát khởi ba thệ nguyện rộng lớn, tương ưng cùng giới pháp, lãnh nạp vào thân, hộ trì suốt đời, tức đắc giới thể thượng phẩm.
3- Giới hạnh: Tức là sau khi đắc giới thể, trong cuộc sống hằng ngày, hành vi động tĩnh, ung dung tự tại, ngừng các việc ác, tu các điều thiện, thuận trì theo giới đã thọ, không vượt ngoài luật Tỳ Ni. Nơi pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, cùng tất cả pháp môn tu hành, đều không vượt ngoài giới hạnh, lại chẳng rời tất cả ngoại hạnh, nên đặc biệt gọi là giới hạnh.
4- Giới tướng: Tức là những giới do Phật chế. Nơi mỗi giới, có những phần thọ trì mà phạm và không phạm, lại có phân biệt nặng nhẹ và khai giá. Trì tức là thuận theo giới thể đã thọ mà lập danh, và được phân thành hai phần, chỉ trì cùng tác trì. Phạm tức là do vi phạm giới thể đã thọ mà lập danh, và được phân làm chỉ phạm cùng tác phạm.
Chỉ trì, tức là phương tiện chánh niệm, hộ trì giới thể đã thọ, ngăn ngừa cấm chỉ thân tâm, không tạo việc ác, nên gọi là chỉ. Chỉ mà không vi phạm, thuận theo giới đã thọ, khiến giới thể sáng trong tinh khiết, nên gọi là trì. Trì do chỉ mà thành, tức đối với các việc phi pháp ác nghiệp, không nên làm mà chẳng hề làm, đó là chỉ trì.
Tác trì, nghĩa là chuyên cần thúc liễm ba nghiệp thân miệng ý, tu tập giới hạnh, tức có việc thiện phát khởi thì phải hộ trì, nên gọi là tác. Tác đúng như pháp; thuận theo giới thể đã thọ, nên gọi là trì. Trì do tác mà thành, tức đối với những việc đúng như chánh pháp cùng nghiệp thiện, nên làm thì phải cố làm, đó là tác trì.
Chỉ phạm, tức do tâm ngu si giải đãi, ngã mạn, khiến hành ngược với giới thể đã thọ. Nơi các nghiệp thiện thù thắng, chẳng muốn tu học, nên gọi là chỉ. Chỉ mà có vi phạm, tức phản lại lời nguyện thọ giới, nghĩa là phạm. Phạm do chỉ mà thành, tức ngay nơi nghiệp thiện thù thắng phải nên làm mà không chịu làm, đó là chỉ phạm.
Tác phạm, tức là trong tâm đầy dẫy những chất độc tham sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tâm kích thích thân miệng, tạo cảnh vi phạm luân lý, đó gọi là tác. Tác mà có vi phạm, tức ô nhiễm giới thể đã thọ, nên gọi là phạm. Phạm do tác mà thành, tức nơi nghiệp ác phi pháp không nên làm mà lại cố làm, đó là tác phạm. Đối với những giới khinh trọng, khai giá trong tạng luật, quý vị phải nghiên cứu tu học kỹ càng. Hiện tại, không thể giảng thuyết tường tận. Những danh tự như thế, được gọi là giới tướng.
Bên trên, tuy phân làm bốn loại, nhưng thật ra chỉ là một. Chuyển phàm thành thánh, gọi là giới pháp. Tổng nhiếp nguồn tâm, gọi là giới thể. Tu tạo ba nghiệp, gọi là giới hạnh. Quán sát thấy khác mà phân biệt, gọi là giới tướng. Do pháp mà thành thể. Nhân thể mà khởi hạnh. Có hạnh tất y cứ vào tướng. Giới tướng tức là tướng của giới pháp, cũng là tướng của giới thể, và là tướng của giới hạnh. Pháp chẳng khác pháp, tức tướng là pháp. Thể chẳng khác thể, tức tổng tướng là thể. Hạnh chẳng khác hạnh, tức ngay nơi tướng mà thành hạnh.
Thế nên, người tu hành phải nghiên cứu tường tận giới tướng. Gọi là giới tướng, tức những tướng trì phạm mà trong luật đã nói rõ ràng. Những tướng trì phạm tuy nhiều, nhưng không ngoài tâm cảnh. Nghiệp ác do cảnh mà phát khởi, và không ngoài tâm mà thành. Giới thiện cũng không vượt ngoài cảnh mà phát, và không ngoài tâm mà sanh. Vì vậy, Nam Sơn luật sư Đạo Tuyên bảo:
Trước khi chưa thọ giới, tội ác đầy khắp pháp giới. Nay muốn thọ giới, liền vượt qua cảnh ác, khởi thiện tâm. Đó là nhân phát khởi giới, khiến giới thể biến khắp pháp giới.
Thế nên, người đắc giới thể, tức vượt qua muôn duyên ác từ bao đời vô thủy, khiến đầy đủ giới thiện, chuyển hóa báo nghiệp khổ hữu lậu, trở thành pháp thân thanh tịnh. Quý vị phát tâm thọ giới, phải nên dụng tâm lành thiện.
NHỮNG ĐIỂM GIỐNG NHAU
VÀ KHÁC NHAU GIỮA GIỚI ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Giới vốn phân chia làm hai phần, giới đại thừa và tiểu thừa. Giới Bồ Tát gồm có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Đây là giới Đại Thừa. Mười giới của sa di và sa di ny, cùng giới cụ túc của tỳ kheo và tỳ kheo ny, là giới Tiểu Thừa. Tuy là giới Tiểu Thừa, nhưng nếu người thọ giới phát tâm thượng phẩm thì đắc được giới thể thượng phẩm.
Giới thể thượng phẩm này tương đồng với giới thể Bồ Tát, tức tam tụ tịnh giới của đại thừa. Nghiêm trì giới, cấm ngăn việc ác khởi lên, tức nhiếp luật nghi giới. Dùng trí huệ quán sát, tức nhiếp thiện pháp giới. Chẳng ngoài việc hộ trì giới, tức là nhiếp chúng sanh giới. Vì thế, ngay nơi đây, giới Tiểu Thừa tương đồng với giới Đại Thừa. Thế nên bảo rằng trong tu mật hạnh Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn.
Song, giới Thanh Văn vốn chế phục thân không phạm. Giới Bồ Tát chế phục tâm không khởi phạm. Vì vậy, việc kết giới và phạm giới giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa không đồng.
Trong bộ luật Thập Tụng, kết giới phạm giới không ước định nơi tâm, chỉ khi thân miệng động thì mới thành phạm; đây chính là giới Tiểu Thừa.
Trong bộ luật Tứ Phần, kết giới và phạm giới ước định tại tâm. Nếu dùng niệm sau liên tục truy đuổi niệm trước, tức trở thành phạm giới; đây là thông giới Đại Thừa. Giới Bồ Tát kết phạm tối trọng, ước định tại tâm. Vọng tâm khởi lên, tức đã phạm giới. Đây chính là giới Đại Thừa. Tóm lại, chiếu theo giới luật Tứ Phần của Đại Thừa thì vừa khởi niệm là đã phạm. Chiếu theo luật Thập Tụng thì khi khởi động thân miệng, mới tính là phạm giới. Giới Đại Thừa và Tiểu Thừa, phân biệt rõ ràng như thế, phải nên nhận biết.
Tam quy y, ngũ giới
Không luận giới Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tam quy y và ngũ giới là nền tảng căn bản. Đối với người tại gia hay xuất gia, tam quy y và ngũ giới là hai việc quan trọng tối cực. (Người tại gia chỉ giữ giới không tà dâm. Người xuất gia giữ giới hoàn toàn không dâm dục.)
Tam quy y, tức là quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng.
Thứ nhất là quy y Phật.
Chữ Phật, tiếng Phạn gọi cho đủ là Phật Đà; Tàu dịch là bậc Giác Giả. Gọi bậc Giác Giả vì Ngài đã giác ngộ hết tất cả sự việc, tức những việc quan hệ với nhân quả tương sanh tương diệt, mà không hạn cuộc vào các loại sự tướng nhân quả, cùng phát hiện sự trật tự tất nhiên của lý nhân quả. Thật thế, Ngài phát hiện những thứ tự của mười hai nhân duyên, như vô minh duyên hành, cho đến sanh duyên già bịnh chết. Từ đó, Ngài chứng ngộ được chân tướng sự và lý của vũ trụ. Vì thương xót chúng sanh chưa hiểu rõ chân tướng này, và đang bị trầm luân trong biển khổ sanh tử, nên Ngài dùng vô số phương tiện, dạy dỗ giáo hóa. Người thuận theo lý này thì tất nhiên sẽ cải thiện cuộc sống, nhiếp thu tư tưởng hành vi quay về nẻo chánh, khiến xa rời mọi khổ não, đạt đến sự an lạc.
Đó gọi là bậc Giác Giả. Phật Đà giác ngộ chân lý gì? Đạo giác ngộ vô thượng, không thể dùng lời nói mà hình dung được, chỉ đơn cử nghĩa lý để thuyết minh.
Các pháp đều do duyên khởi; tánh của chúng đều là không. Các pháp tức là tất cả sự vật. Duyên, tức là bao gồm cả nhân thân thuộc và duyên hỗ trợ.
Duyên khởi tức khi các pháp sanh khởi, đều do nhiều nhân duyên giả hợp tạo thành. Ví như lúa là hạt giống, rồi do ruộng đất, mưa gió, ánh sáng, vật liệu, nhân công, cùng các loại duyên khác hợp lại, khiến sanh ra thóc. Tánh, được gọi là thể, tức thể tánh của các pháp, mà mỗi mỗi đều vốn tự như thế, vĩnh hằng bất biến, không do các loại duyên hợp thành. Tánh Không, vốn chỉ là lời nói, chớ ngộ lầm với việc không có chi hết. Bất cứ sự vật nào sanh khởi, phải do các duyên hòa hợp tạo nên. Chúng vốn không được gọi là thể tánh cố định vĩnh hằng bất biến. Thể tánh không cố định vĩnh hằng bất biến, mà nhà Phật gọi là tánh Không. Do đó, tổ thứ mười bốn ở Ấn Độ, tức Bồ Tát Long Thọ, bảo:
- Nhân duyên sanh ra các pháp, tức vốn vô tự tánh. Pháp do nhân duyên sanh, Ta bảo chúng là "Không", cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo. Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sanh. Thế nên, tất cả pháp vốn là không.
Phật thuyết tánh Không, chẳng phải bảo rằng tất cả sự vật đều không có, mà thể tánh của chúng vốn không vĩnh hằng bất biến.
Vì vậy, Phật Đà không phải là đấng chúa tể tạo ra muôn vật, mà Ngài là bậc triết nhân phát hiện ra chân lý sanh diệt liên tục của tất cả sự vật. Tuy chẳng phải là thần, nhưng vì lòng từ bi bao la, thương xót chúng sanh khổ nạn, nên Ngài dùng thần thông vô ngã để cứu hộ. Ngài là bậc vĩ nhân mang phước lạc đến cho chúng sanh. Suốt đời, chưa từng nghỉ ngơi, Ngài luôn giáo hóa và dẫn dắt kẻ ngu, phá trừ mê tín, khiến họ thoát khỏi bùn lầy ô nhiễm, quay về nơi thanh tịnh, tức nơi bờ giác.
Thứ hai là quy y pháp.
Pháp tức là lời lược thuyết của Phật, chỉ rõ chân tướng của sự vật cùng các hành vi chân chánh. Sự biểu hiện của hành vi cá nhân, quan hệ với đạo đức của nhân loại.
Hành vi phân rõ tà chánh, thiện ác. Song, việc phê phán thiện ác, quan điểm và lập trường của mỗi người đều không đồng. Nếu muốn biết tiêu chuẩn xác thật, phải dùng đạo lý tự nhiên về sự tướng của nhân quả mà xem xét, và cũng phải y theo cách nhìn khách quan về sự phát triển hiện thực của quy luật tự nhiên, để phán đoán đúng sai.
Xưa kia, xã hội Ấn Độ phân thành bốn chủng tộc: Bà La Môn (tức Phạm Chí), Sát Đế Lợi (tức vua chúa), Phệ Xá (tức thương nhân), Thủ Đà La (tức người hạ liệt). Những giai cấp tánh tộc này phân biệt rất nghiêm ngặt. Đại chúng bần khổ bị áp bức thống thiết mà không dám kêu ca. Cuộc sống khổ cực còn hơn loài vật. Song, đại chúng bần khổ kia lại nhận lầm rằng đó là do mệnh trời sắp đặt, tức đã được chủ định, không thể cải biến. Sau khi thành đạo nơi núi Tuyết Sơn, Phật Thích Ca Mâu Ni tự ta thán ba lần:
- Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, và có khả năng hiểu rõ các pháp đều do duyên khởi, tánh vốn không. Tất cả chúng sanh, loài hữu tình và vô tình, đều có thể thành Phật.
Ngài kết luận rằng bốn chủng tộc trên đều xác thật bình đẳng, như các dòng sông đồng chảy về biển cả, mà không có tên con sông này, con sông nọ. Do đó, Ngài cực lực nhấn mạnh và chủ trương sự bình đẳng, đả phá phân chia giai cấp. Đây là dùng chân tướng của sự lý mà làm lệ chứng tiêu chuẩn đạo đức.
Thứ ba là quy y tăng.
Chữ Tăng, tiếng Phạn gọi là Tăng Già; Tàu dịch là Chúng Hòa Hợp. Nhiều người cùng nhau sống chung một chỗ, hòa thuận, chí đồng đạo hợp, cùng tu hạnh tự lợi lợi tha.
Năm giới: Tức là giới không giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói láo, và uống rượu.
Mười giới, cụ túc giới, tam tụ tịnh giới
Bên trên đã lược thuyết tam quy y ngũ giới. Nay bàn về mười giới của sa di, sa di ny, giới cụ túc của tỳ kheo, tỳ kheo ny, cùng Bồ Tát tam tụ tịnh giới. Mười giới và giới cụ túc đều nhắm vào việc tự lợi; nghĩa là cầu tự giải thoát cho chính mình, nên chỉ là hương thơm biểu thị.
Giới Bồ Tát đa phần nhắm vào việc lợi người, tức tự rèn luyện thân tâm, để chuẩn bị xả thân cứu thế; tất nhiên là hương thơm cúng dường chư Phật. Người xuất gia, tức sa di và sa di ny, đều được dự vào giới phẩm Cụ Túc; bên trong phải tu từ bi hòa nhã; bên ngoài phải đắp y khác người thế tục; cử chỉ hành động đều luôn theo oai nghi phép tắc; chuyên cần học tập luật nghi về giới sa di và sa di ni; cẩn trọng, chớ phóng dật.
Tỳ kheo phải thường hành hai trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ny phải hành ba trăm bốn mươi tám giới.
Phòng cấm ba độc, điều phục bảy chi, đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh. Ba độc tức là tham, sân, si. Bảy chi tức là bảy chi phần của thân miệng. Thân có ba chi, khiến phạm giới giết hại, ăn cắp, dâm dục. Miệng có bốn chi, khiến phạm giới nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc.
Nơi bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, đều đầy đủ hai trăm năm mươi giới, cộng thành một ngàn. Thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều đầy đủ, nên cộng thành ba ngàn oai nghi. Nơi bảy chi của thân miệng, đều đầy đủ ba ngàn oai nghi, cộng thành hai mươi mốt ngàn. Nơi tham sân si cùng các đẳng phần, (khi tham khởi lên thì sân và si cũng theo nó mà khởi, nên gọi là đẳng phần) tức là trong bốn loại phiền não, nếu đều thanh tịnh không hủy phạm, tức là tám mươi bốn ngàn tế hạnh. Tám mươi bốn ngàn cũng chỉ cho con số lớn.
Trong giới luật, có một điều rất quan trọng, nay muốn nói rõ cho quý vị nghe. Trong giới bổn có cấm tỳ kheo tự tay đào đất, dệt vải. Hiện tại, chúng ta đang làm ruộng, dệt vải, vậy có phạm giới không? Chúng ta phải biết, việc chế giới luật của Phật, có hai loại tánh giới và giá giới. Thiên đầu là tội ba la di, tức tánh giới, cũng là giới căn bản; nếu phạm thì không thể sám hối được. Những giới khác, đều là giá giới; nếu phạm thì có thể sám hối. Người nghiên cứu kinh tạng, luật tạng, phải nên hiểu rõ tường tận về sự khác biệt giữa các giới khinh, trọng, khai, giá.
Đối với tánh giới, nếu làm thì vi phạm lý thể. Vô luận Phật có chế hay không chế, nếu làm thì phạm tội, như giết hại, ăn cắp, tà dâm, v.v... Giá giới, tức là lúc Phật chưa chế giới mà làm thì không có tội. Từ khi Phật chế giới ra, nếu làm thì thành tội, như giới đào đất dệt vải. Phật chế ra giá giới vì có nhiều nguyên nhân, như địa thế, sự việc, thời tiết. Ví như lập ra giới không được đào đất và dệt vải, là vì muốn tránh sự hiềm nghi của người đời. Xã hội Ấn Độ thời xưa, hành khất thức ăn y phục, vốn là việc của người xuất gia. Nếu tự mưu tính việc ăn mặc, thì bị người đời hiềm nghi. Vì vậy, Phật phải chế ra giới này. Song, xã hội và phong tục tập quán các nơi không đồng; phải thuận theo địa thế, sự việc thời tiết mà chế giới. Do đó, không thể giữ giới cứng chắc. Trong luật Ngũ Phần, Phật nói:
- Tuy Ta chế giới như thế, nếu tại các nơi khác, không thể hành thanh tịnh, thì không nên ứng dụng. Tuy Ta chẳng chế giới, nhưng tại các nơi khác, nếu nên hành ở các nơi khác để sự tu hành được thanh tịnh, thì phải hành theo.
Do đó, xưa kia tổ Bá Trượng thấy hoàn cảnh nước Tàu và Ấn Độ không đồng, nên cử ra giới: "Ngày nào không làm thì ngày đó không ăn". Nếu Phật giáng sanh nơi xứ này, thì quyết chắc sẽ không chế giới đào đất, dệt vải. Thế nên, chúng ta làm ruộng dệt vải, chẳng phải phạm giới luật. Hy vọng trong khi tu trì, quý vị chớ nên bỏ phế việc lao động. Trong lúc lao động, cũng không nên quên việc tu trì. Cả hai việc đều có thể làm cùng một lúc. Đối với việc thọ trì giá giới, quý tại tuân thủ bổn ý chế giới của Như Lai, chớ nên tử thủ chấp chặt giới điều. Nếu hiểu được ý Phật, tuy tương phản điều văn, nhưng cũng gọi là trì giới. Nếu không hiểu được ý Phật, tuy tôn thủ giới điều, nhưng cũng thành phạm giới. Song, không thể vay mượn lời tôi, mà phá giới luật Phật chế. Muốn hiểu chi tiết, quý vị phải nghiên cứu và thâm nhập sâu vào tạng luật.
Giới Bồ Tát nhiếp hết ba tụ: Nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiếp chúng sanh giới.
Thứ nhất, nhiếp luật nghi giới, tức là xa rời tất cả việc ác. Trong tụ giới này, chỉ tức là trì, và tác tức là phạm; phải thuận theo luật giáo mà hộ trì nghiêm túc, cẩn trọng chớ phạm.
Thứ hai, nhiếp thiện pháp giới, tức là tích tụ tất cả việc lành. Thân miệng ý đều lành; ba huệ văn tư tu, mười ba la mật, tám muôn bốn ngàn pháp trợ đạo, đều tu hành đến cứu cánh cùng cực. Nơi tụ này, tác tức là trì, chỉ tức là phạm; phải thuận theo giáo pháp mà hành, chớ hối hận, thối tâm.
Thứ ba, nhiếp chúng sanh giới, cũng gọi là nhiêu ích hữu tình giới, tức độ tận hết tất cả chúng sanh; dùng bốn môn vô lượng làm tâm, và dùng bốn nhiếp pháp làm hạnh.
Bốn môn tâm vô lượng tức là từ, bi, hỷ, xả. TỪ là ban vui. BI là cứu khổ. HỶ là hoan hỷ vui mừng khi chúng sanh thoát rời mọi khổ não, và đắc pháp lạc sung túc. XẢ là khiến chúng sanh hành hạnh Phật, đến nơi Phật địa, rồi khởi tâm xả bỏ.
Bốn nhiếp pháp, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Thứ nhất BỐ THÍ, tức là nếu có chúng sanh thích muốn tiền tài thì bố thí tiền tài; nếu thích nghe pháp thì bố thí pháp; nếu sợ hãi thì sẽ an ủi che chở, khiến họ sanh tâm thân ái, y theo mình mà thọ giáo học đạo. Thứ hai ÁI NGỮ, tức là tùy theo chúng sanh lợi căn và độn căn mà dùng lời lành thiện khuyên lơn an ủi, khiến họ sanh tâm thân thiết, y theo mình mà học đạo. Thứ ba LỢI HÀNH, tức là khởi hành động lành thiện từ thân miệng ý, làm lợi ích chúng sanh, khiến họ sanh tâm thân mến mà thọ đạo. Thứ tư ĐỒNG SỰ, tức là dùng pháp nhãn quán sát căn tánh của chúng sanh, tùy theo ý thích mà thị hiện; lại nữa, cùng làm việc, tạo ích lợi, khiến họ thọ đạo. Nơi tụ này, tác tức là trì, chỉ tức là phạm.
Ngoài ra, lúc Bồ Tát phát tâm, phải phát bốn hoằng thệ nguyện:
Thứ nhất, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Tức là phát tâm Bồ Tát, hành đạo Bồ Tát, y theo giáo pháp, đoạn trừ ngã ái, hy sinh thân mình cho người, lấy tâm chúng sanh làm tâm mình, lấy khổ chúng sanh làm khổ của mình, thường hành bố thí bình đẳng độ khắp chúng sanh. Bồ Tát Địa Tạng bảo:
- Chúng sanh độ tận hết thì Ta mới thành Bồ Đề. Địa ngục chưa trống không, Ta thệ không thành Phật.
Thứ hai, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, lưu lạc trong sanh tử, đều do chưa đoạn được phiền não. Phiền não do cội gốc sáu độc phát ra chi nhánh, tầng tầng lớp lớp vô tận. Cội gốc sáu độc tức là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
Từ đó, sanh ra giải đãi, làm biếng, phóng dật, đố kỵ, chướng ngại, hôn trầm, tán loạn, xiểm khúc, cuồng vọng, không biết xấu hổ, cùng vô số chi nhánh. Tuy phiền não rất nhiều, nhưng tổng quát không vượt ngoài hai sự chấp trước, tức là chấp ngã và chấp pháp. Chúng sanh vì chưa đạt được ý nghĩa đạo lý duyên khởi tánh không, nên vọng chấp thân tâm này là thật ngã, cùng phân biệt các pháp là pháp thật. Vì dùng chúng làm nhân, nên vọng lầm, khiến thọ quả khổ sanh tử. Thế nên, đức Thế Tôn thiết giáo phương tiện, tùy theo bịnh mà cho thuốc. Ngài thuyết ra vô lượng pháp môn, để trị vô tận phiền não của chúng sanh. Chúng ta phải y theo giáo mà phụng hành, thệ nguyện đoạn tận hết phiền não.
Thứ ba, pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Bồ Tát vì muốn lợi ích khắp muôn loài hữu tình, nên nơi vô lượng pháp thế gian, xuất thế gian, đều tùy thuận tu học. Vì vậy, Bồ Tát luôn cầu học pháp ngũ minh. Một là thanh minh, tức hiểu rõ ngôn từ văn tự. Hai là công xảo minh, tức hiểu rõ tất cả công nghệ, chi thuật, toán số v.v... Ba là dược phương minh, tức hiểu rõ y thuật. Bốn là nhân minh, tức học về luân lý, để định quyết chánh tà, hoạch kiểm pháp chân ngụy. Năm là nội minh, tức hiểu rõ tông chỉ của Phật. Vô luận pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, khoa học, triết học, Bồ Tát phải đều học. Lục Tổ bảo:
- Phật pháp tại thế gian, không rời sự giác ngộ trong thế gian. Nếu rời pháp thế gian mà cầu Bồ Đề, thì như tìm lông rùa sừng thỏ.
Vì vậy, không phải chỉ nhắm mắt, ngồi xếp bằng, mà tính là tu hành. Gánh nước, chặt củi, cuốc đất, trồng rau, cho đến ăn cơm, mặc áo, đi đại tiểu tiện, đều là tu hành Phật pháp. Người xuất gia chớ nên đóng cửa làm xe, tử thủ một pháp.
Thứ tư, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Phật đạo, tiếng Phạn gọi là Bồ Đề; Tàu dịch là giác. Giác tức là tự tánh linh giác. Giác tánh này nơi Thánh không tăng, nơi phàm không giảm, vốn tự viên thành, ai ai cũng có. Chư Phật thánh nhân, thị hiện thế gian, làm bậc đạo sư cho trời người, làm mô phạm cho đời hậu thế.
Các ngài lại chỉ dạy chúng sanh rằng nếu rời vọng tưởng chấp trước, tức có khả năng thành Phật.
Lục Tổ DẠY:
- Phải hướng vào trong tự tánh mà tìm Phật, chớ nên hướng ngoại truy cầu. Tự tánh ngu mê, tức là chúng sanh. Tự tánh giác ngộ, tức là Phật.
Chúng ta phải xả mê quay về giác, và thệ nguyện thành Phật đạo. Hoằng tức là thâm sâu và rộng rãi; nghĩa là thâm sâu đến tận cùng ba cõi, và rộng rãi biến khắp mười phương. Thệ tức là tự chế phục tâm mình. Nguyện tức là chí cầu đầy đủ. Bồ Tát phải phát những thệ nguyện như thế; chớ sợ, chớ thối tâm, chớ dao động, mãi đến tận đời vị lai, luôn dũng mãnh chuyên cần tu tập.
Hư Vân tôi bất quá chỉ thuyết lại những lời của Phật, để nhắc nhở kẻ hậu lai. Đức giáo chủ cõi Ta Bà, Phật Thích Ca Mâu Ni, là hòa thượng bổn sư của quý vị. Bồ Tát Đại Trí Văn Thù là hòa thượng Yết Ma A Xà Lê. Bồ Tát Di Lặc, nhất sanh bổ xứ, là hòa thượng giáo thọ A Xà Lê. Bảy vị Phật trong đời quá khứ và mười phương chư Phật, là những bậc tôn chứng. Mười phương Bồ Tát là các bậc thầy dẫn lễ, cùng là pháp lữ đồng học của quý vị. Tuy tôi thọ thỉnh, nhưng chỉ là pháp sư giáo giới của quý vị, được gọi là hòa thượng Bỉnh Giới.
KẾT KHUYẾN
Lúc lên đàn thọ giới, quý vị mỗi người phải thành tâm khẩn thiết, lễ bái cầu thỉnh chư Phật, chư Bồ Tát từ bi gia hộ. Lại nữa, phải thỉnh mời chư thiên, long thần, tám bộ quỷ thần, đồng lâm đến đàn tràng hộ giới. Tôi sẽ vì quý vị mà tác pháp hồi hướng.
Quý vị mỗi người tại nơi bổn xứ, phải thanh tịnh ba nghiệp, chăm chú nhất tâm; trong mười hai thời, y theo pháp mà lễ sám. Phải nên dũng mãnh tinh tấn, chớ tham ăn ngủ, khiến tự mất lợi ích. Song, không nên khổ nhọc quá mức, đến nỗi phải sanh bịnh. Khi tĩnh tọa, phải điều hòa thân thể: "Ngồi thẳng niệm nhớ thật tướng". Thật tướng tức là bổn tâm. Bổn tâm tức là Phật. Nếu vọng tưởng không sanh thì đắc tịnh giới. Nếu giới thanh tịnh thì đắc định. Định sanh tức phát huệ.
Phật thuyết đại tạng giáo, tức là giới, định, huệ. Nếu đắc được bổn tâm này, thì cành nhánh không bị hư hoại. Nếu luôn y theo đó mà hành trì, thì không uổng là giới tử của đàn tràng, lại cũng không phụ niềm hy vọng của tôi. Xin đại chúng, hãy cùng nhau phấn tấn. Những vị bên ngoài vào núi, ngày mai nên hoan hỷ trở về quê quán. Mỗi người phải tự hành trì.
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks