Cuộc chiến 2/1979: Sự thật phơi bày thất bại của Trung Quốc
(Quan hệ quốc tế) - Mâu thuẫn nội bộ, khả năng tác chiến yếu kém là những nguyên nhân khiến Trung Quốc thảm bại trong cuộc chiến tranh phi nghĩa, xâm lược Việt Nam năm 1979.
Trong kỳ trước với tiêu đề: “Cuộc chiến 1979: Trung Quốc tự xếp vào vị trí thứ 3…” chúng ta đã tìm hiểu nguyên nhân vì sao Việt Nam giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc vào tháng 2/1979. Trong kỳ này, chúng ta tiếp tục tìm hiểu về thất bại của Trung Quốc và nguyên nhân thất bại của Bắc Kinh.
Thiệt hại của hai bên trong cuộc chiến
Sau khi cuộc chiến tranh xâm lược kết thúc, Tướng Ngũ Tu Quyền, Phó tổng tư lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tuyên bố rằng, số quân Việt Nam bị thương vong là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.Một số nguồn tin khác của Trung Quốc còn tuyên bố chiến thắng vĩ đại của quân đội nước này với tổn thất rất ít là 8.531 người chết và khoảng 21.000 bị thương.
Tuy nhiên, những công bố này đã nhanh chóng bị phản bác bởi chính những cựu quân nhân Trung Quốc và những học giả quốc tế, những phóng viên chiến trường người Liên Xô, người Pháp… đã từng lăn lộn trên biên giới Việt-Trung năm 1979.
Theo nhà sử học người Pháp Gilles Férier viết trong cuốn “Gilles Férier. Les trois guerres d'Indochine” (tạm dịch: “Gilles Férier. Ba cuộc chiến tranh ở Đông Dương”) do Nhà xuất bản Đại học Lyon xuất bản năm 1993, có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.
Còn Đại tá Russell D. Howard thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của Không Quân Hoa Kỳ cho rằng, quân Trung Quốc thương vong cỡ 60.000 người, trong đó số thiệt mạng là 26.000. Cuộc chiến tuy ngắn ngày nhưng cũng đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD.
Một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc. Trong đó, nhà nghiên cứu King Chen (Đài Loan, Trung Quốc) cho biết, chỉ tính riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam công bố tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người, phía Việt Nam có hàng nghìn binh lính và dân thường chết và bị thương.
Cộng đồng quốc tế đánh giá Việt Nam đã giành thắng lợi trước Trung Quốc trong cuộc chiến năm 1979 (Ảnh: Thông báo chiến thắng của Bộ Quốc phòng Việt Nam đăng trên Báo Nhân dân số ra ngày 20/3/1979
Con số này tương đối phù hợp với đánh giá của Tạp chí Time của Mỹ. Theo tạp chí này, có khoảng dưới 10.000 quân nhân Việt Nam thiệt mạng, còn Trung Quốc là trên 20.000.Theo tuyên bố chính thức của phía Việt Nam, quân đội ta đã diệt 62.500 tên địch (bình quân mỗi ngày có 1 trung đoàn Trung Quốc bị loại khỏi vòng chiến); phá hủy 280 xe tăng, xe thiết giáp và 270 xe quân sự các loại, 115 khẩu pháo cối và dàn phóng hỏa tiễn các loại. Trung Quốc đã tiêu hao mất 1,06 triệu quả đạn pháo, 23,8 ngàn tấn đạn, 55 triệu viên đạn cá nhân.
Mặt trận Lạng Sơn: Diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng: Diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Khi đó bao gồm Lào Cai và Yên Bái, chiến sự chỉ diễn ra ở Lào Cai): Diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: (Khi đó gồm Hà Giang và Tuyên Quang, chiến sự diễn ra ở Hà Giang) diệt 14.000 lính Trung Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch.
Tuy nhiên, để có được những thắng lợi đó, cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về quân sự và kinh tế cho Việt Nam, mà hậu quả của nó chúng ta đã phải mất tới hàng chục năm mới khắc phục được.
Các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường (Lào Cai) bị hủy diệt hoàn toàn, khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên ải bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống; 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia.
Nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này. Các cơ sở hạ tầng 6 tỉnh biên giới bị tàn phá rất lâu mới khôi phục được, đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng.Ngoài ra, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và những đồng minh mới của Bắc Kinh gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao.
Những nguyên nhân thất bại của Trung QuốcSự chia rẽ trong nội bộ Trung Quốc
Thất bại của một cuộc “Chiến tranh phi nghĩa”
Tác giả Edward C. O'Dowd đã nhận xét trong cuốn sách "Chiến lược quân sự Trung Quốc trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 3" rằng, chính sách dân vận của quân đội Trung Quốc đã thất bại trước tinh thần yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, sự giỏi chịu đựng, không dễ bị lung lạc của quân dân Việt Nam.Chiến tranh tâm lý của Bắc Kinh với lực lượng phòng thủ của Việt Nam cũng thất bại. Trong suốt cuộc chiến, không có đơn vị nào của Việt Nam rã đám mà ngược lại, càng ngày càng đánh trả quân Trung Quốc quyết liệt hơn.
Tựu chung lại, những đánh giá của các học giả nước ngoài tuy vẫn chưa liên hệ đến chiều sâu lịch sử văn hóa Việt Nam-Trung Quốc, chưa bao quát và chỉ ra được cốt lõi của vấn đề là: Bắc Kinh đã thất bại vì họ lại một lần nữa tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa với nước ta.Xuyên suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử, lịch sử của cả 2 nước đều thể hiện rõ ràng một sự thật: Việt Nam chưa bao giờ là bên chủ động gây chiến mà ngược lại, Trung Quốc đã hàng chục lần huy động đại quân tấn công xâm lược đất nước nhỏ bé ở phương Nam, nhưng đều thảm bại.
Những hành động tàn phá, giết chóc dân thường, cũng như ngược đãi tù binh của quân Trung Quốc đã khiến cuộc chiến tranh phi nghĩa của Trung Quốc núp dưới chiêu bài “Chiến tranh phản kích tự vệ” chống “Tiểu bá Việt Nam”, nhanh chóng bị lật tẩy là một cuộc chiến tranh xâm lược, bị cộng đồng quốc tế lên án, ngay cả một số nhà lãnh đạo và đông đảo nhân dân nước này phản đối.
Nội bộ Trung Quốc chia rẽ vì cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979 (Ảnh: Cựu binh Trung Quốc 1979 biểu tình đòi quyền lợi sau chiến tranh)
Mâu thuẫn trong tầng lớp lãnh đạo chính trị và quân sự
Giáo sư Đại học Harvard Ezra Feivel Vogel trong cuốn “Thời đại Đặng Tiểu Bình” do Nhà xuất bản Đại học Trung Văn - Hồng Kông đã cho biết, Đặng bị nhiều Ủy viên quân ủy trung ương phản đối, bao gồm cả Nguyên soái Diệp Kiếm Anh và Đại tướng Túc Dụ, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (lúc đó là Chủ tịch nước-Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, tức nhân vật số 2 của Trung Quốc) đã chỉ trích mục đích của cuộc chiến là báo thù hộ Mỹ: “Mỹ muốn báo thù Việt Nam bằng máu Trung Quốc. Không được dùng máu của người Trung Quốc để phục hận cho người Mỹ…”.Ông cho rằng, cuộc chiến này chẳng khác gì sự kiện Gia Cát Lượng năm lần bảy lượt Bắc phạt Tư Mã Ý [thời Tam Quốc] và chỉ rõ rằng, Trung Quốc không thể đánh thắng một đội quân cơ động ngay trong nhà của họ.
Ngay cả nhà lãnh đạo số 1 Trung Quốc lúc bấy giờ là Hoa Quốc Phong vốn không đồng tình, nhưng không cưỡng nổi uy thế của Đặng Tiểu Bình, nên sau này, cho dù khi thấy được tính chất nghiêm trọng của cuộc chiến nhưng ông cũng không thể chống lại.Thậm chí ông Trương Thắng, Cục trưởng Cục Tác chiến (con trai nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình) cũng thừa nhận trong hai cuốn sách “Đi ra từ chiến tranh” và “Đặc công cuối cùng náu mình ở Đại lục” rằng, ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng khi đó cũng không rõ vì sao ta phải tiến hành cuộc chiến tranh ấy.
Một số quan chức cấp cao trong quân đội cũng như ngoài dân sự cho rằng việc đánh Việt Nam là không khôn ngoan, một số khác công khai phản đối việc tấn công một nước láng giềng xã hội chủ nghĩa. Một số thì lo ngại xung đột sẽ dẫn tới hậu quả là Việt Nam thù địch lâu dài với Trung Quốc.10 năm sau, Thượng tướng Trần Tích Liên, nguyên là Tư lệnh Binh chủng pháo binh, Tư lệnh Đại Quân Khu Thẩm Dương, Tư lệnh Đại Quân khu Bắc Kinh, nguyên Phó Thủ tướng Trung Quốc đã thẳng thắn tuyên bố rằng: “…đây là cuộc chiến dốt nát, là cuộc chiến ngu xuẩn, là cuộc chiến điên rồ, lính chết đầy ra đấy nhưng không ai dám kêu oan”.
Cuộc chiến tranh không rõ nguyên nhân, mục đích
Vào thời điểm năm 1979, mặc dù đã được đả thông tư tưởng bằng những cuộc diễn thuyết vu cáo Việt Nam đàn áp người Hoa, xâm lấn biên giới Trung Quốc... nhưng phần lớn binh lính và sĩ quan cấp thấp đều không hiểu rõ mục đích của cuộc chiến tranh.
Sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng chục năm sau những cựu binh và người dân Trung Quốc vẫn không hiểu nổi cuộc vì sao phải tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và cuộc chiến này rốt cuộc là nhằm mục đích gì.Một cựu binh Trung Quốc tự xưng là “Tây Hồ kiếm khách” đã viết bài “Chiến tranh Phản kích Tự vệ chống Việt Nam - một cuộc chiến tranh gây tranh cãi” trên trang mạng “Tianya.cn” của Trung Quốc ngày 6/4/2012.“Tây Hồ kiếm khách” nêu lên “11 vấn đề bên trong cuộc chiến tranh cần được làm sáng tỏ” mà vấn đề đầu tiên chính là yếu tố được đánh giá quan trọng nhất trong mỗi cuộc chiến tranh, đó là “Vì sao phải tiến hành cuộc chiến tranh với Việt Nam?”.
Tác giả cho rằng, về nguyên nhân gây chiến, đến nay vẫn chưa được giải thích công khai, rõ ràng.“Một cuộc chiến tranh vô nghĩa, kỳ quặc” là tiêu đề bài viết khác của một cựu binh Trung Quốc khác đăng trên trang tin điện tử “Thiết Huyết” (Tiexue.net) ngày 18/7/2013.Tác giả viết: “Chiến tranh Triều Tiên chúng ta đạt được lợi ích là kìm chế quân Mỹ ở phía Nam vĩ tuyến 38; Chiến tranh Giải phóng, chúng ta giải phóng được Trung Quốc đại lục. Tôi thực sự không hiểu trong cuộc chiến tranh kỳ quặc năm 1979, rốt cục Trung Quốc đạt được cái gì? Chả được gì cả!”.
Trong bài viết có tiêu đề “Nhìn lại Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” trên báo mạng “Botanwang.com” ngày 30/5/2013, tác giả Thường Thanh viết rằng, chiến tranh Việt-Trung năm 1979 có lẽ là cuộc chiến khiến mọi người Trung Quốc hiểu biết sự thật khó mở miệng nhất trong mọi cuộc chiến tranh với nước ngoài kể từ năm 1949…
Tác giả cho biết, ngay khi thấy hàng ngũ trùng điệp những chàng trai Trung Quốc tuổi 18-20 kéo ra tiền tuyến, đã có rất nhiều người nghĩ khác với chính quyền về giá trị của cuộc chiến tranh này.
Những người lính Trung Quốc không hiểu gì về mục đích của cuộc chiến 1979 (Ảnh: Tù binh Trung Quốc)
Một điều bất thường là khi chiến tranh kết thúc chả ai biết, cũng không có cảnh cả nước ăn mừng thắng lợi, chỉ biết nó đã kết thúc rồi… và sau đó là hàng vạn ngôi mộ liệt sĩ được xây dựng san sát trong các nghĩa trang ở biên giới Tây Nam.Theo tác giả, đa phần những người ngã xuống đã không biết mình đổ máu vì cái gì và sở dĩ chiến tranh kết thúc mà không ai ăn mừng bởi chính quyền không thể nói rõ ràng cho quốc dân về tính chất của cuộc chiến tranh đó.Trong dân chúng cũng có nhiều người hoài nghi về cuộc chiến tranh này. Nhiều báo tường chữ lớn ở Bắc Kinh ví dụ như trên tường ở khu Tây Đơn (trung tâm thủ đô Bắc Kinh) đã thẳng thắn phê phán Đặng Tiểu Bình và cho rằng Quân đội Trung Quốc đã thất bại thảm hại.
Những yếu kém về tác chiến của quân đội Trung Quốc
Xét trên nhiều phương diện, trong cuộc chiến tranh này, Quân đội Trung Quốc phải trả cái giá thê thảm nặng nề. Kế hoạch ngông cuồng "chiếm 5 tỉnh thành lớn của Việt Nam sau 1 tuần, thậm chí đánh đến Hà Nội" của Đặng Tiểu Bình cùng các tướng lĩnh thân tín bị nhanh chóng thất bại.Những yếu kém về tác chiến của quân Trung Quốc được đánh giá ở những điểm như sau:
Một là: Không nắm được khả năng tác chiến của đối thủ
Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy, Trung Quốc đã không lường trước được sự khó khăn khi triển khai cuộc chiến tranh xâm lược đối với một nước có thế trận chiến tranh nhân dân sáng tạo.Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Bắc Kinh.
Mặc dù trước chiến tranh một thời gian, Trung Quốc đã cử nhiều thám báo, gián điệp sang nằm vùng, nắm tình hình nhưng điều đó là không đủ.Do đó, trước khi tấn công Việt Nam, Quân đội Trung Quốc nắm được rất ít binh pháp và chiến thuật tác chiến chính quy cũng như nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, dẫn đến đánh giá thấp và không đầy đủ khả năng chiến đấu của đối thủ.
Hai là: Không mạnh về tấn công, yếu về phòng thủ
Các nhà phân tích quân sự cho rằng quân đội Trung Quốc (PLA) đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu trong cuộc xâm lược phi nghĩa này, nhất là năng lực và trình độ chỉ huy tác chiến của các tướng lĩnh cũng như trình độ hiệp đồng tác chiến của họ.Thượng tướng Trần Tích Liên, nguyên Tư lệnh Lực lượng pháo binh, nguyên Tư lệnh Đại Quân Khu Thẩm Dương, nguyên Tư lệnh Đại Quân khu Bắc Kinh, nguyên Phó Thủ tướng Trung Quốc đã chỉ trích kịch liệt năng lực chỉ huy của Thượng tướng Hứa Thế Hữu (Tư lệnh cánh quân phía Đông, hướng Quảng Tây) là tấn công không tốt mà phòng thủ cũng quá kém.
Còn ở cấp dưới, không thiếu những trường hợp sĩ quan chỉ huy Trung Quốc giao nhiệm vụ cho binh lính, nhưng không thể dự liệu được cấp dưới sẽ làm gì, còn binh sĩ cũng không hiểu được ý đồ của cấp trên muốn gì.
Cuộc chiến năm 1979 là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến Hiệp đồng quân binh chủng trên quy mô lớn. Sự lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến Quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến, dẫn đến việc bộ binh, xe tăng và các đơn vị pháo binh không có khả năng hiệp đồng tác chiến hiệu quả, thậm chí có trận đánh, hơn 500 sĩ quan và binh lính Trung Quốc đã chết do chính pháo binh và các loại hỏa lực khác của chính quân đội Trung Quốc bắn nhầm.
Ba là: Hệ thống cung cấp hậu cần, kỹ thuật lạc hậu, phi khoa học
Hoạt động hậu cần là một trong những lĩnh vực yếu kém của Quân đội Trung Quốc. Ngay từ đầu PLA đã thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại, để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở những chiến trường xa xôi.Quân đội Trung Quốc đã không thành lập một Bộ chỉ huy giao thông vận tải để đối phó với các vấn đề mà bộ đội của họ đã phải đối mặt trong chiến dịch.
Một nguyên nhân chính khiến Trung Quốc thảm bại là do khả năng tác chiến yếu kém (Ảnh: Xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn hạ ở bản Sẩy, Hòa An, Cao Bằng lúc 8h sáng 17/2)Vì không có đầy đủ dự trữ và phương tiện vận tải, khiến cả Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải đặt dưới cùng một hệ thống cung cấp, nên Trung Quốc đã phải huy động số lượng dân công khổng lồ nhưng hệ thống cung cấp vẫn luôn trong tình trạng quá tải, không thể hoạt động thông suốt và hiệu quả.Vấn đề khác đã từng được Tướng Trương Chấn - chủ nhiệm Tổng bộ Hậu cần (tương đương Tổng cục Hậu cần) tiết lộ là vấn đề tồi tệ về sự thiếu thốn đạn dược và chất lượng kém. Kiểm tra ban đầu cho thấy rằng không ít đạn pháo xịt, và 1/3 số lựu đạn lép.
Những yếu kém về công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật trong một cuộc chiến tranh quy mô đã khiến quân đội Trung Quốc giống như hình tượng một “người khổng lồ chân đất sét”, làm giảm đáng kể hiệu quả chiến đấu của binh lính và trang bị, vũ khí trên chiến trường.
Bốn là: Ý chí chính trị không thể bù đắp kỹ năng quân sự
Tướng Chu Đức Lễ đã từng sử dụng thành ngữ “Lâm trận ma đao” (ra trận mới mài gươm), để chỉ ra vấn đề vào thời điểm sát giờ nổ súng mà Quân đội Trung Quốc không hiểu được khả năng tác chiến của Quân đội Việt Nam, trình độ tác chiến của sĩ quan, binh lính còn rất yếu kém, hậu cần cung cấp không đủ.
Tuy nhiên, vấn đề này không được giới lãnh đạo nước này quan tâm mà đối với họ, chỉ cần dùng quân số đông là có thể áp đảo được đối thủ, chỉ cần dùng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần là có thể bù đắp cho hiệu năng chiến đấu.
Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam được mở liên miên với việc được trưng bày các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh, hoặc là ngụy tạo hoặc là bị xuyên tạc về ý nghĩa, nhằm gia tăng chủ nghĩa yêu nước “Đại bá” và lòng căm thù “Tiểu bá” Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền những điều phi lí và sáo rỗng này đã thất bại thảm hại khi gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân dân Việt Nam. Binh lính Trung Quốc nhiều người đã tự thương để trốn ra mặt trận hoặc là lùi lại sau lưng đồng đội hay là cứ thua là bỏ chạy về tuyến sau chờ tiếp viện.
Những nguyên nhân trên là lời giải thích xác đáng nhất cho câu hỏi “Tại sao đã chuẩn bị trước, có yếu tố bất ngờ, lại có quân số, hỏa lực áp đảo mà Quân đội Trung Quốc lại thất bại thảm hại trước Quân đội Việt Nam?”
.(Còn nữa)
Bookmarks