Trang 2 trong 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
kết quả từ 21 tới 40 trên 40

Ðề tài: Cây chướng ngàn năm xin quy y Hòa thượng Tuyên Hóa - các mẫu chuyện về HT.Tuyên Hóa

  1. #21

    Mặc định

    các xá lợi của Hòa thượng Tuyên Hóa: lấy từ nguồn của tuyenhoa laitutran

    [/URL][/IMG]



    [IMG][/IMG]

    [IMG][/IMG]

    [IMG]

    [/IMG]

    [IMG]

    [/IMG]

    [IMG]

    [/IMG]
    [IMG][/IMG]
    [IMG][/IMG]





    Last edited by hoauudam; 26-10-2018 at 08:36 PM.

  2. #22

    Mặc định

    Lời di huấn của Hòa Thượng Tuyên Hóa:

    Đem tro cốt của tôi rải khắp hư không! Khi tôi đến, không mang đến một thứ gì; khi ra đi, vẫn là không cần gì cả. Tôi không muốn lưu lại trên đời bất kỳ một dấu tích nào! Tôi từ hư không đến, và sẽ trở về với hư không.

    Nếu người nào muốn biết cảnh giới của Chư Phật, thì nên thanh tịnh tâm ý của mình như hư không


    (Nhược nhân dục tri Phật cảnh giới, đương tịnh kỳ ý như hư không)

    Kinh Hoa Nghiêm

    Năm 1995, Hòa Thượng Tuyên Hóa nhập diệt, để lại cho các đệ tử một niềm tiếc thương vô hạn. Có một người đệ tử đã hình dung về Hòa Thượng như thế này: Hòa Thượng là một vị Tỳ kheo thanh tịnh không tỳ vết, đầy đủ oai nghi, Người đã thị hiện một cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng vô tận, không thể nghĩ bàn, bặt dứt nói năng.

    Namo Tuyên Hóa bồ tát- Namo Hsuan Hua bodhisattva
    Last edited by hoauudam; 27-10-2018 at 07:16 PM.

  3. #23

    Mặc định

    Mười Tám Ðại Nguyện của Lão Hòa Thượng Tuyên Hóa


    Năm Hòa Thượng Tuyên Hóa mười chín tuổi thì thân mẫu Ngài tạ thế. Sau khi lo liệu chu toàn việc mai táng. Ngài tới Chùa Tam Duyên ở Hợp Nhĩ Tân lạy Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy, chính thức xuất gia. Ít lâu sau, Ngài tới trước mộ phần của thân mẫu để thủ hiếu. Năm đó, nhân ngày vía Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, 19 tháng 6 âm lịch, Ngài đối trước Chư Phật và Chư Bồ Tát mười phương phát Mười Tám Ðại Nguyện :

    "Kính lạy mười phương Chư Phật, cùng Tam Tạng Pháp,Với Chư Hiền Thánh Tăng trong đời quá khứ và hiện tại,

    Nguyện rũ lòng chứng giám :

    Ðệ tử là Ðộ Luân, Thích An Từ,
    Con nay phát tâm,
    Chẳng vì cầu phước báu của hàng Trời, Người, cùng Thanh Văn, Duyên Giác,
    Hay của hàng Bồ Tát Quyền Thừa, Mà phát Bồ Ðề Tâm.
    Nguyện cùng tất cả chúng sanh trong Pháp Giới,
    Ðồng thời chứng đắc,
    A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề

    1. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Bồ Tát ở mười phương ba đời, trong
    trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    2. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Duyên Giác ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    3. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Thanh Văn ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    4. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Trời, Người ở trong Tam Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    5. Nguyện rằng nếu còn một Người ở trong mười phương thế giới chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    6. Nguyện rằng nếu có một vị Trời, Người hay A-tu-la, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    7. Nguyện rằng trong thế giới loài Súc sanh mà còn một kẻ chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    8. Nguyện rằng trong thế giới loài Ngạ quỷ mà còn một kẻ chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    9. Nguyện rằng nếu trong thế giới loài Ðịa ngục, mà còn một kẻ chưa thành Phật hoặc địa ngục chưa trống không, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    10. Nguyện rằng trong Tam Giới, nếu còn một ai đã từng quy y với con-dù là Trời, Người, A-tu-la, các loài bay, lặn, động vật, thực vật, linh giới, rồng, súc sinh, quỷ, hoặc thần mà chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi Chánh Giác.

    11. Nguyện hồi hướng, bố thí khắp nơi mọi phước lạc mà con đáng được hưởng, cho tất cả chúng sinh trong Pháp Giới.

    12. Nguyện rằng một mình con sẽ nhận chịu hết tất cả khổ nạn của chúng sinh trong toàn Pháp Giới.

    13. Nguyện rằng con sẽ phân linh thành vô số để phổ nhập vào tâm của những chúng sinh nào không tin Phật Pháp, làm cho họ bỏ ác hướng thiện, sám hối tội lỗi, biết tự sửa mình, quy y Tam Bảo, rồi cuối cùng đều được thành Phật.

    14. Nguyện rằng chúng sanh nào thấy mặt con, hoặc chỉ nghe tên con, đều phát tâm Bồ-đề, chóng đắc thành Phật Ðạo.

    15. Nguyện rằng luôn tôn kính điều Phật dạy và thực hành mỗi ngày ăn một bữa vào lúc giữa trưa.

    16. Nguyện giác ngộ loài hữu tình, nhiếp thọ rộng khắp các loài căn cơ.

    17. Nguyện trong đời này con sẽ đắc Ngũ nhãn, Lục thông, phi hành tự tại.

    18. Nguyện rằng tất cả nguyện trên đều được thành tựu viên mãn.

    Và cuối cùng :

    Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
    Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành."

    Namo Hsuan Hua bodhisattva- Namo Tuyên Hóa bồ tát
    [IMG][/IMG]
    Last edited by hoauudam; 27-10-2018 at 07:24 PM.

  4. #24

    Mặc định

    Pháp Ngữ ​Của Hòa Thượng Tuyên Hóa
    1.Người có lòng thù hằn, thì sẽ có con quỷ mặt đỏ.
    Người có lòng oán ghét, thì sẽ có con quỷ mặt vàng.
    Người có lòng áo não, thì sẽ có con quỷ mặt trắng.
    Người có lòng sân nộ, thì sẽ có con quỷ mặt xanh.
    Người có lòng phiền toái, thì sẽ có con quỷ mặt đen.

    2.Người thù hằn thì hại tim. Người oán ghét thì hại tỳ. Người áo não thì hại phổi. Người sân nộ thì hại gan. Người phiền muộn thì hại thận.

    3.Con trẻ, khi sinh lý chưa trưởng thành, mà đã đi tìm đối tượng yêu đương thì (thân thể và tinh thần) sẽ bị tổn thương, lại bị thiệt thòi nữa.

    4.Tu hành không cần tìm kiếm chỗ cao, chỗ xa xăm. Ðạo thì tại trước mắt mình, tức là trong tâm mình. Vọng tâm thì ý ngựa, tâm khỉ vượn. Ý thì lăng xăng như con ngựa, tâm thì nhảy nhót như con khỉ. Nếu bạn có thể nhận thức tâm này thì tu hành nhất định mới có cảm ứng.

    Có người hỏi tôi: Khi tới Tây phương, thầy làm sao hoằng dương Phật pháp? Tôi xin đáp rằng: Tôi hoàn toàn dựa vào Quán Thế Âm Bồ Tát, chú Ðại Bi và chú Lăng Nghiêm.

    Chùa là chốn nuôi dưỡng người tu hành không phải nuôi dưỡng kẻ làm biếng.

    Chúng ta phải tranh nhau học Phật pháp. Học Phật pháp so với việc kiếm tiền còn quan trọng hơn nhiều. Nếu bạn tu dưỡng Pháp thân huệ mạng cho khỏe mạnh, cho cường tráng thì còn tốt hơn đi kiếm tiền trăm ngàn vạn lần nữa.

    Phước không thể hưởng hết. Hưởng hết thì không còn phước nữa. Khổ thì có thể chịu hết. Chịu hết thì hết khổ để chịu.

    Suy gẫm về cái khổ của bịnh tật, thì mạnh khỏe là phước.

    Suy gẫm về cái khổ của tai nạn, thì bình an là phước.

    Suy gẫm về cái khổ khi có tiền, thì không tiền là phước.

    Suy gẫm về cái khổ của giàu sang, thì nghèo cùng là phước.

    Từ vô lượng kiếp tới nay, mình bị thứ hư vọng lừa đảo. Nên đời đời kiếp kiếp mình phải ở trong vòng sinh tử luân hồi. Cũng như cá trong lưới, bơi ra bơi vô, vĩnh viễn không thoát khỏi lưới.

    Ðó cũng là do mình không chịu phát tâm bồ đề, không chịu bị thua thiệt, nên vẫn phải ở mãi trong vòng sinh tử, kẹt trong bánh xe luân hồi xoay vần sáu nẻo.

    Kẻ chân chính có trí huệ thì không bao giờ tự khen, chê người. Ai mà tự khen thì người đó không có tiền đồ gì nữa. Tuy rằng vẫn còn sống nhưng đã như chết rồi.
    Ðời này người ta cứ tìm thứ giả, còn thứ thật thì bỏ đi.

    Toàn thế giới tràn ngập khí hắc ám. Ở đâu có người chân chính tu hành, ở đó tai nạn ít bớt, và nhỏ hơn. Nếu nhiều người cùng tu ở tại một chỗ thì sức mạnh tập thể của họ có thể biến khí hắc ám thành khí kiết tường.

    Người thuyết pháp bất luận rằng y có thần thông quảng đại tới đâu, bạn cũng phải quan sát hắn ta. Nếu y có lòng tham lam, tới đâu cũng kiếm tiền; hoặc có lòng dâm dục, thì y không phải thứ thiệt, mà là thứ giả. Nếu y không có lòng tham, lòng dâm dục, không có mưu đồ, thì y mới là thứ thiệt.

    Tu hành không là chuyện một ngày một đêm mà thành. Nó đòi hỏi, ngày cũng như vậy mà đêm cũng như vậy: Tâm lúc nào cũng tu trì, kiên định không biến đổi. Sau một thời gian lâu dài thì sẽ phát triển thành trí huệ bát nhã. Nếu bạn một ngày tu, mười ngày nghỉ thì vĩnh viễn không thể thành tựu.

    Trong chùa, bạn không nên nói chuyện bừa bãi. Không thể tùy tiện cẩu thả. Quy củ là giới luật. Giữ giới luật thì mới thanh tịnh. Có thanh tịnh thì mới gần gũi chư Phật.

    Thân thể của ta cũng giống như một xưởng hóa học, thiên biến vạn hóa. Có lúc nó biến mình thành con trùng, có khi con chim, con quỷ đói, hay nếu phản ứng hóa học thành công thì biến mình thành Phật.

    Nó có thể biến có thành không, biến không thành có; hóa ra vô số sinh mạng khác nhau. Do đó mình phải cẩn thận đừng để nó biến mình thành quỷ đói hay thú vật.
    Tại xưởng hóa học này mình phải hun đúc, tôi luyện thành Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Biến hóa sai một chút thì kết quả sẽ sai khác xa lắc, muốn trở lại thì cũng chẳng phải dễ đâu.

    Không tu hành mà muốn thành Phật: Chẳng có chuyện đó.
    Vô minh tức là không hiểu biết. Căn bản của vô minh là ái dục.
    Bạn chớ nghĩ rằng mình có cảnh giới rồi cho rằng đó là tốt. Có cảnh giới nhưng bạn không nhận biết nó rõ ràng thì sẽ rước ma.

    Bất luận là bạn thấy việc gì, đừng nên bị cảnh ấy lay chuyển, đừng nên chạy theo cảnh giới ấy. Phải làm sao? Phải xem nó như không có. Gặp cảnh giới và không gặp cảnh giới, tâm bạn phải như nhau. Không sinh tâm vui mừng, cũng không sinh tâm ghét bỏ.

    Rất nhiều người đời chỉ ăn rồi chờ chết, lãng phí thời giờ. Ai cũng vậy: Sáng sớm ngủ dậy, là bận rộn này nọ cho tới tối về lên giường ngủ. Cũng chỉ vì ba miếng cơm mà bôn ba. Sống như cục thịt biết đi, chẳng có chút giá trị, ý nghĩa gì cả, thì sống và chết có gì bất đồng?

    Bởi do con ngưòi có tâm sân nên mới có hỏa tai (nạn cháy). Có tâm tham nên mới có thủy tai (nạn lụt lội). Có tâm si nên mới có phong tai (nạn gió bão). Ba tai nạn vốn do ba độc tham sân si mà ra. Chúng ta ai ai cũng có đủ ba độc trong tâm. Nếu tâm ấy một ngày một lớn mạnh thì tới một lúc nào đó, nó sẽ tạo thành đại tai nạn.

    Bên ngoài có máy vi tính (computer), bên trong tự tánh chúng ta cũng có máy vi tính, gọi là thần não, thánh não hay Phật não. Cũng tức là đại trí huệ. Tuy khoa học tiến bộ, song phương hướng của nó hướng ngoại, nên càng truy tìm chân lý thì càng rời xa chân lý. Các vị khoa học gia chỉ dụng công nơi ngoài da, do vậy dường như có điều sở đắc, nhưng kỳ thật thì đã quên mất trí huệ bổn hữu. Ðó gọi là bỏ gốc, theo ngọn.

    Lúc tu đạo không cần mình phải dùng sức mạnh để đối phó với chướng ngại. Nếu bạn chân thành thì tự nhiên mọi chuyện sẽ giải quyết êm đẹp.

    Không thể muốn tu pháp xuất thế, đồng thời chẳng chịu buông bỏ pháp thế gian. Hai chân đạp lên hai chiếc thuyền: Một thuyền đi Giang Bắc, một thuyền đi Giang Nam. Ðó là chuyện không thể làm đặng.

    Nếu muốn cái độc trong thế giới tiêu trừ thì mọi người phải ăn chay, không ăn thịt.

    Ai mà không chấp trước? Chớ nghĩ rằng, lúc tôi không có việc gì làm, tức là tôi không chấp trước. Xem thử lúc có việc, cảnh giới tới, thì bạn sẽ ra sao. Lúc không có việc gì, bạn không có phiền não, thì đó chưa phải là thiệt. Phải chờ lúc cảnh giới tới, nếu bạn nhận thức được nó, thì đó mới đáng kể.

    Người học Phật chúng ta cần thiết phải thâm nhập kinh tạng, thì mới có trí huệ rộng lớn như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì trí huệ không sao rộng sâu như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì cái gì sẽ như biển? Phiền não của bạn sẽ rộng như biển.

    Chấp trước của bạn cũng sẽ sâu như biển. Tà kiến của bạn cũng đầy như biển. Do đó việc đọc tụng kinh điển đại thừa thật vô cùng trọng yếu.

    Người xưa nói: Vạn ác, dâm đứng đầu. Ðó là đường chết, không thể đi. Bạn cứ làm chuyện dâm dục thì cũng như đi vào đường chết.

    Ðừng cho việc thiện quá nhỏ nên không làm, đừng cho việc ác nhỏ quá nên làm luôn. Việc tốt dù nhỏ đến đâu, mình cũng phải làm. Việc xấu tuy là nhỏ song mình chớ làm.

    Tu hành thì phải nhịn khổ.

    Không tranh, không tham, không truy cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối: Ðó là việc vốn rất dễ làm, chẳng ai cưỡng bách bạn làm cả. Nhưng bởi vì bạn không chịu làm nên nghịch cảnh mới tới.

    Nghịch cảnh đó là việc tranh giành, việc tham lam, truy cầu, ích kỷ, tự lợi, dối trá. Từ đó mới có nạn hoạnh nghịch. Khi gặp nghịch cảnh thì bạn chịu không nổi. Vậy thì khi bạn nói dối trá, sao chẳng cảm giác là chịu không nổi chớ?

    Giới tức là cử tâm động niệm, bạn không được sinh tất cả thứ gì xấu ác.

    Ðịnh tức là thành tích của tu giới. Nếu bạn trì giới cho lâu thì sẽ có định lực. Ðịnh lực tiếng Phạn gọi là samadhi hay tam muội, nghĩa là chính định hay chính thọ. Chính định thì khác với tà định. Chính thọ thì cũng khác với tà thọ.

    Chính định chính thọ thì mới hợp với chánh pháp. Còn tà định và tà thọ thì không phù hợp với pháp.

    Do định phát huệ. Có trí huệ mình mới nhận thức được Phật pháp. Nhận thức được Phật pháp rồi thì mới có thể thành Phật. Do vậy tu giới định huệ là điều kiện tối căn bản để thành Phật.

    Vì sao thế giới càng ngày càng tệ? Bởi vì người ta ai cũng tranh: Bao gồm tranh danh, tranh lợi, tranh quyền hành, tranh địa vị. Nghiêm trọng nhất là tranh sắc.

    Các bạn xem: Chư đại đức cao tăng từ ngàn xưa đều từ trong khổ hạnh mà tu hành đắc đạo. Không có một vị nào do hưởng thọ mà khai ngộ. Các bạn đọc hết Ðại Tạng Kinh, cũng tìm không ra một vị.

    Nếu bạn có thể làm ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thì niệm Phật giống như bỏ viên ngọc (làm lắng bùn) vào trong nước đục vậy. Nước đục không thể nào chẳng lắng trong. Khi tiếng niệm Phật vào tâm loạn, thì tâm ấy vốn đầy dẫy vọng niệm, cũng sẽ từ từ theo tiếng niệm Phật mà hóa mất, thành duy nhất một tiếng niệm Phật.

    Ðối với ma, bạn không nên có tâm xem nó là thù địch, mà phải xem nó là vị thiện tri thức giúp bạn tu hành.
    Học Phật thì phải đem chân tâm ra học. Nhất cử nhất động, mỗi lời mỗi việc, phải hướng về điều chân thật mà làm.

    Nhiều đời nhiều kiếp mình tạo nghiệp khác nhau, nên vọng tưởng cũng không giống nhau. Nghiệp nặng thì vọng tưởng nhiều, nghiệp nhẹ thì vọng tưởng ít. Ðó là tỷ lệ giữa nghiệp và vọng tưởng.

    Trong chùa, mình phải tiết kiệm tất cả mọi thứ, vì rằng: Thương tiếc vật của thường trụ (chùa), như bảo vệ con mắt mình.

    Không yêu không ghét là trung đạo. Tu đạo là tu cái gì? Chính là tu trung đạo. Ðối với ai mình cũng đối xử bình đẳng, từ bi quan hoài. Song le bạn phải cẩn thận trong hành động, không để lọt vào lưới tình, rọ ái.

    Tâm của mình thì kẻ khác (tha) ở (tại). Không phải là mình (tự) ở (tại). Vì kẻ khác ở nên dù mình có đó nhưng tâm mình không ở đó.

    Người tu phải làm sao khôi phục trở lại cái không. Nghĩa là mình phải phản bổn, hoàn nguyên để viên mãn bản tánh là tạng đại quang minh, là trí huệ tròn đầy như kính (đại viên kính trí), không có gì thiếu sót.

    Thế nào là động đất? Tức là khi lòng dục vọng động. Không động đất tức là Niết Bàn.

    Có người nói: Tâm tôi già rồi. Tâm này là tâm sinh ra do sự tương giao của căn (giác quan) với trần (cảnh bên ngoài), không phải là cái chân tâm thường trụ, viên minh tịch chiếu.

    Nếu bạn thật sự thương yêu chúng sinh, bỏ mình giúp người, thì dù có tuổi tác cao niên tới đâu , cũng biến thành thanh xuân hạnh phúc.
    Ở bất kỳ trường hợp nào người tu cũng phải biết dấu đi ánh sáng (che đi trí huệ, tài năng), không thể chơi nổi, làm vẻ ta đây hay giỏi để người ta thấy.

    Có chấp trước thì đó là nhân tâm. Không chấp trước thì mới là đạo tâm.

    Mắt quán tưởng đức Quan Âm Bồ Tát ở trước mặt, ngàn mắt nhìn mình, ngàn tay bảo vệ. Tai nghe danh hiệu Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát đưa vào trong tâm. Miệng niệm tên ngài rõ ràng từng chữ. Nhớ ngài cũng rõ ràng. Nơi sáu căn, tai mắt mũi lưỡi thân ý, bạn đều phải niệm đức Quan Thế Âm.

    Không có công đức thì khi chết sẽ rất đau khổ.

    Tu thì không được đeo mặt nạ, treo đầu dê nhưng bán thịt heo, làm những chuyện không chân thật, không đúng đạo lý. Tu thì phải chân thật, bước cho chắc chắn, thật sự dụng công tu trì.

    Chú Ðại Bi và Quán Thế Âm Bồ Tát là hai mà không phải hai. Không hai mà là hai. Không thể tách rời hai thứ ấy được. Tôi hy vọng các vị thiện tri thức có thể thành tâm tụng trì chú Ðại Bi, để tiêu tai trừ nạn.

    Tu thì không được rao bán việc tu của mình, cũng không được quảng cáo mình. Khi rao bán việc tu hành thì mình sẽ bị ma chướng.
    Phật và ma thì chỉ cách nhau một niệm. Phật có lòng từ bi, còn ma thì có lòng hiếu thắng hơn thua.

    Thiên địa sinh ra từ trung đạo. Chư Phật, Bồ Tát, La hán cũng sinh ra từ trung đạo. Trung đạo là mẹ chung cho Phật và chư Thánh hiền. Không nghiêng về không, không nghiêng về có, cứ miên mật như vậy mà tu pháp trung đạo.

    Tham thiền, ngồi lắng lòng đều là tu pháp trung đạo. Nếu luận hình tướng thì trung đạo là số một; nếu luận về vô hình tướng thì trung đạo là số không. Không là nghĩa rốt ráo của trung đạo.

    Tu hành thì phải trầm lặng, yên tĩnh. Không phiền não, không cống cao ngã mạn.

    Người học Phật phải làm cho Phật giáo ngày một thêm sáng lạn rạng rỡ. Làm sao? Ðầu tiên phải có phẩm hạnh đạo đức, tâm chí rộng trùm thái hư, lòng dạ bao la như pháp giới.

    Vì sao nói nếu tâm bạn không có quỷ thì con quỷ bên ngoài chẳng thể hại bạn? Con quỷ bên ngoài có là do tâm bạn có quỷ. Trong tâm bạn không có quỷ thì con quỷ bên ngoài sẽ không tới.

    Con quỷ bên trong gồm có năm loại: tham lam, sân giận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ. Cũng là năm thứ: thù hằn, oán ghét, áo não, tức giận, phiền muộn.

    Mình không chịu phát khởi trí huệ. Ngày ngày cứ dùng sức mạnh của vô minh phiền não. Ðụng một chút là nổi lửa giận lên rồi. Rằng: Lửa vô minh, ông thần cọp! Nóng giận là do gốc của tội nghiệp kiếp trước. Không có tội nghiệp thì sẽ không có lửa vô minh. Lửa vô minh mà bộc phát thì tham sân si đều tới đủ. Các bạn thử hồi quang tự chiếu, xem có đúng như vậy không.

    Vô minh có hai kẻ đồng lõa giúp sức, kết thành một băng đảng. Cứu cánh chúng là ai? Một ăn uống, hai là dâm sắc. Một cái tham ăn, ham uống. Một cái háo sắc, tham dâm. Hai cái này giúp cho vô minh làm đủ mọi chuyện xấu.

    Tới chỗ chẳng cầu, sẽ hết lo. Biết chuyện càng ít, bớt phiền não.

    Vô luận đối diện với bất kỳ cảnh giới nào, bạn cũng phải có thái độ: Có cũng như không, thật cũng như giả. Phải nhớ đừng nên được chút ít rồi cho là đủ, nhận cái giả cho là thiệt.

    Ăn uống giúp tăng dục vọng. Dục vọng giúp thêm vô minh.

    Bồ Tát sợ nhân không sợ quả, phàm phu sợ quả không sợ nhân. Khi Bồ Tát còn trong lúc trồng nhân thì ngài vô cùng cẩn thận, một chút cũng chẳng làm càn. Ðến lúc quả báo tới thì ngài không sợ hãi. Nhưng kẻ phàm phu thì bình thường lúc gieo nhân chẳng sợ gì cả. Sát sinh, trộm cắp, dâm loạn, dối trá, rượu chè, cờ bạc, hút sách ma túy. Những thứ ấy bạn dám nghĩ dám làm, đến lúc thọ quả báo thì mới than khổ không thôi.

    Trên đời bất luận là ăn cơm, mặc áo, ngủ nghỉ, mình đều ở trong phạm vi của Phật pháp. Tiếc là chúng ta không biết thể hội Phật pháp trong sinh hoạt hàng ngày, cứ hướng ngoại tìm kiếm. Thế nào là kẻ ngoại đạo? Chính là kẻ tìm cầu pháp ở ngoài tâm.

    Mọi người không nên coi thường chính mình, vất bỏ mình đi, tự cam chịu đọa lạc.

    Vô luận là mình phạm giới ở nơi thân như giới sát, đạo, dâm; hoặc phạm giới nơi lời nói: Nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói thô ác; hoặc là phạm giới nơi tâm: Khởi tham sân si, mình phải thành tâm sám hối. Nếu không thì mình sẽ đọa vào bùn lầy, càng lún càng sâu, tội nghiệp càng làm càng thêm nghiêm trọng. Mình sẽ bị đè đến nghẹt thở, chẳng sao trốn thoát.

    Các bạn nên biết, mình sống trên đời, chẳng khác gì cá nằm trong vũng nước cạn. Chẳng bao lâu thì ô hô ai tai, nước sẽ cạn khô. Từ vô lượng kiếp tới ngày nay, mình không biết tu hành: Sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh. Thật đau lòng thay.

    Tại sao cho đến ngày nay mình còn trù trừ chờ đợi, chưa chịu tu hành?

    Ái dục chính là sinh tử. Sinh tử chính là lòng ái dục. Ái dục là gốc của sinh tử. Nếu không trừ bỏ lòng ái dục vô minh thì rốt ráo không thể nào thoát khỏi biển ái sinh tử.

    Vì sao có việc không kiết tường? Vì trong tâm không kiết tường. Một khi bạn trồng nhân xấu thì sẽ gặt quả báo xấu. Nếu mình có thể sửa lỗi làm lành thì có thể biến chuyện xấu thành chuyện tốt. Do đó mà thấy, vận mạng có thể đổi thay, nó hoàn toàn nằm trong tay mình. Nên nói: Ðại thiện, đại ác thì siêu xuất khỏi số mạng.

    Không thể có chuyện là chẳng đoạn trừ lòng dâm mà có thể thành Phật. Trong thiên hạ không có chuyện đó. Ðời nay đa số người ta thích mau chóng, thích có kết quả ngay, nên khi họ nghe nói có pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc rồi rơi vào lưới ma. Ðến lúc chết mà vẫn cho là có pháp bí mật, hay mật pháp! Bí mật? Bí mật! Bí mật đến độ phải vào địa ngục luôn!

    Tu thì phải tu với cái tâm như em bé sơ sinh: Trong lòng chẳng vương vấn một chuyện gì. Phải giống như trẻ thơ, mình phải phản lão hoàn đồng. Nhưng không phải phản lão hoàn đồng là bắt bạn phải uống sữa như con nít, mà là muốn bạn phải hết sạch tham sân si mạn nghi.

    Ðó gọi là phản bổn hoàn nguyên, nghĩa là tâm trí bạn tựa hồ trẻ thơ, thiên chân hoạt bát, không chút lười biếng, giải đãi, không chút ý tứ muốn tranh giành háo thắng, cũng chẳng có quan niệm về mình về người. Cũng như là: Xưa nay không một vật ở đó, thì bụi trần dựa vào đâu mà dính vào.

    Người ta nói bạn một câu mà bạn khó chịu, không vui. Ðụng một sợi lông là bạn đau đớn tới tim can. Thậm chí nói bạn nhổ một sợi lông để lợi thiên hạ, bạn không chịu đâu.
    Có tâm ích kỷ như thế thì không thể tu hành gì được. Người tu đạo thì đừng nên có quan niệm về cái tôi, về người khác, đừng có ý niệm về chúng sinh hay về thọ mạng.

    Cái lậu (chỗ lũng) lớn nhất là dục lậu - lòng dâm dục. Khi có ý dâm dục thì cũng như bị giặc cướp tới cắp, cũm hết tài sản bảo vật. Cũng giống như gỗ bị mối ăn thì gỗ thành vô dụng. Lại cũng như món ăn ngon mà bỏ chút phân vào thì chẳng ai dám ăn. Ba ngày nôn mửa là khác!
    Người xuất gia phải đau lòng nhớ nghĩ tới vấn đề sinh tử để phát tâm bồ đề. Không thể ăn no rồi chờ chết. Rằng: Một ngày còn làm sư, một ngày còn phải gõ chuông. Làm sư mà có tư tưởng như vậy thì đối với chuyện sinh tử của mình hoàn toàn không thể tự chủ.

    Chúng ta phải quyết định mãnh liệt, nhất định rửa lòng đổi dạ, phá trừ sắc thái mê tín, tiêu diệt thái độ ích kỷ, tự lợi.

    Tôi xin đem Vạn Phật Thành cống hiến cho toàn nhân loại và tất cả tín đồ Phật giáo ở toàn thế giới.

    Các bạn chớ nên suốt ngày sầu muộn, chẳng thể dương mày. Việc gì cũng phải nhìn nó một cách nhẹ nhàng, xem như mộng như huyễn. Hãy thảnh thơi, điềm đạm xử lý mọi sự. Trên đời mọi sự đều là hư vọng, chỉ cần bạn hết lòng tận lực làm tròn bổn phận là đủ. Ai sinh ra đời cũng chỉ là để trả nợ mà thôi.

    Hồi quang phản chiếu, tìm đáp án nơi bản thân. Hãy xem mình đã sinh ra bao nhiêu niệm lành, bao nhiêu niệm ác, khởi bao nhiêu vọng tưởng. Niệm lành chưa sinh, hãy làm nó sinh ra. Niệm lành đã sinh ra thì làm nó tăng trưởng. Chưa sinh niệm ác thì đừng sinh nó.

    Ðã sinh niệm ác thì diệt nó đi. Không tùy tiện, bừa bãi, khiến lãng phí thời gian, mạng sống. Vọng tưởng nào có giá trị nhưng không thể thực hiện được thì đừng nghĩ ngợi lăng xăng. Vọng tưởng nào chẳng chút giá trị, đương nhiên càng không nghĩ tới. Người chân chính biết dụng công thì lúc nào cũng kiểm thúc chính mình. Ði đứng nằm ngồi chẳng hề tách rời nhà (chân tâm hay bồ đề tâm).


    Ở đời, nếu bạn không vất bỏ được cái giả thì không thể thành tựu được cái chân thật. Không xả bỏ đặng cái chết (vọng tưởng, chấp trước), thì không đổi được cái sống (trí huệ, tự tại). Nếu muốn mình không chết, thì phải làm người chết giả. Nghĩa là nếu bạn tuy sống nhưng xem mình hệt như người chết (không còn tranh giành, tham lam...) thì bạn sẽ chân chính hiểu rõ:
    Tất cả pháp hữu vi,
    như mộng, huyễn, bọt, bóng;
    như sương, như điện chớp,
    ​phải quan sát như vậy.
    Tham sân si của mình rất khó dập tắt, khó diệt trừ, do đó mình càng phải dập tắt và diệt trừ. Nếu trừ nó quá dễ thì mình đâu có phải mất sức phí lực.
    Bố thí thì phải bố thí Tam Bảo. Không phải là để Tam bảo bố thí cho mình.

    Vọng tưởng là cục đá buộc chân người tu hành, chướng ngại sự thành tựu đạo nghiệp.
    Tiền bạc, bất quá chỉ là một tờ giấy, trên đó in hình ảnh màu mè. Thế mà tờ giấy màu ấy làm mê hoặc người ta khiến họ quên mất nhân nghĩa đạo đức. Ðó cũng chỉ vì tham mấy tấm giấy này cho rằng nó là chân thật. Bạn ngu si hay không?

    Sân là nóng giận, cũng là phiền não. Khi có lòng sân giận thì bạn thấy ai cũng không tốt. Nếu có một người làm lỗi với tôi thì tôi nổi giận đối với tất cả mọi người. Thật là giống như xem phiền não là cơm. Ăn một chén rồi lại ăn tiếp một chén.

    Ăn xong lại ăn tiếp chén nữa. Vĩnh viễn không bao giờ ăn thấy no.
    Si là tâm ngu dốt, vọng tưởng, ngu si. Không được lấy mà cứ lấy, đó là ngu si. Không được ăn mà cứ ăn, đó là ngu si. Không được có mà cứ muốn có, đó là ngu si. Không được làm mà cứ làm, đó là ngu si.

    Người có đẹp lộng lẫy đến đâu, cũng chỉ là bọc da thối. Người xấu xí tới đâu cũng chỉ là bọc da thối. Bên ngoài tuy không giống nhau nhưng bên trong thì một thứ, chẳng gì đẹp đẽ hay xấu xí. Nếu càng tìm bên trong càng thấy toàn là máu, mủ, đờm, dãi, nhớp nhúa. Xét đến năm tạng, thì toàn là phân và nước tiểu. Bên ngoài đẹp đẽ, bên trong thối không thể chịu được, có gì khác đâu? Cần gì mình phải chấp trước vào cái thân này chớ! Người ngu si thì chú ý vẻ đẹp bên ngoài, chấp trước vào cái tướng đẹp đẽ mỹ miều, rồi ghét bỏ cái tướng xấu xí. Ðây chẳng phải là ngu si sao?

    Người tu phải nhớ đừng ham ăn uống đồ ngon, ham hưởng thụ. Lúc nào mình cũng phải lấy đạo hạnh của đức Thích Ca Mâu Ni làm gương để tự khuyến khích, tự cảnh giác. Bất kỳ lúc nào cũng không được buông lung.
    Nam hay nữ, khi tu thì phải dứt sạch thất tình. Thất tình là gì? Là vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, dục vọng. Bị bảy thứ này khống chế thì định lực của bạn sẽ tiêu tan mất. Khi bị gió của cảnh thổi đến, tâm bạn dao động, không thể tự chủ, như nhà không chủ, lúc ấy thì là điên đảo.

    Ở trên đời nếu mình làm gì không đúng thì cũng giống như sống trong địa ngục vậy. Làm chuyện gì không đúng đạo lý, có lòng ích kỷ tự lợi thì là ở tại địa ngục rồi. Cứ vui việc này việc kia, giận chuyện này chuyện nọ, cứ dùng tình cảm giải quyết vấn đề, thì cũng như là ở trong địa ngục vậy.
    Thế nào là điên đảo? Tức là cho khổ là sướng, cho đúng là sai, trắng đen chẳng phân, chân giả không rõ, cho vô thường là hằng thường.

    Người tu phải thành thật với nhau, khuyến khích lẫn nhau, dạy nhau tiến tới chỗ quang minh. Không thể đồng lõa làm xấu, che chở chuyện xấu, hoặc giả nịnh hót người, vuốt ve người, làm tôi tớ cho người.
    Biển khổ mênh mông, quay đầu là bến. Chớ nên tại trong biển khổ chìm xuống nổi lên trôi dạt mãi mãi. Thế thì chẳng có ngày giải thoát xuất ly.
    Thân của mình ô uế vô cùng. Nhưng người ta cứ xem nó như bảo bối, đeo vào nó nào là hột xoàn, châu báu lại xức dầu thơm, đánh son phấn. Chẳng phải đó là đem bảo vật, hương hoa tới trang điểm cái cầu tiêu sao?
    Người tu đạo nhất định phải trừ sạch những vọng tưởng về thất tình, lục dục. Quét cho thật sạch sẽ.

    Tại sao nói không thể nắm bắt được ba tâm? Không thể nắm bắt được tâm quá khứ; không thể nắm bắt được tâm hiện tại; không thể nắm bắt được tâm vị lai. Quá khứ thì đã qua rồi, qua rồi thì còn gì nữa đâu. Không có quá khứ thì ta nghĩ về nó cũng không thể có. Hiện tại thì không dừng trụ, niệm niệm trôi qua, niệm niệm di động, niệm niệm chẳng hề ngừng nghỉ đi qua, do đó tâm hiện tại cũng chẳng thể nắm bắt. Vị lai thì chưa tới, thì mình làm được gì nó? Do đó tâm vị lai cũng không thể nắm bắt. Nếu bạn có thể không nắm bắt ba tâm, chẳng sinh bốn tướng chấp trước (vào cái ngã, vào người, vào chúng sinh, vào thọ mạng), thì có thể hợp nhất với tự tánh, viên mãn bồ đề, về chỗ không sở đắc.

    Khi tu hành, bạn có tư tưởng ý niệm gì thì sẽ có thứ quỷ tương ứng. Quỷ là một thứ âm khí. Khi bạn có tư tưởng tốt lành thì âm khí tiêu mất. Nếu bạn sửa đổi nề nếp suy nghĩ, để cho ánh sáng chiếu rọi thì sẽ có trí huệ.
    Tuy rằng chúng sinh ai cũng miệng nói là tìm cầu an lạc, nhưng bất hạnh thay, càng tìm càng đau khổ.

    Con người sửa ác làm lành thì thế giới không còn tam tai bát nạn. Người hiền lành thân mến đối xử với nhau, không tranh không tham thì thế giới sẽ biến thành thế giới đại đồng.

    Người học Phật tu đạo không nên tính toán nhiều quá. Ai đó chửi tôi, nhưng tôi là ai? Ai đó đánh tôi, nhưng tôi là ai? Tự hỏi xem, bạn sẽ chẳng tìm thấy một cái tôi nào đâu. Như vậy thì tại sao không buông bỏ nó chớ.

    Tu thì phải xoay trí huệ tự chiếu lòng mình, tự hỏi mình có lòng tham chăng? Có thì chẳng phải là tu. Không có thì tức là tu. Tự hỏi mình có lòng sân hận không? Có thì chẳng phải là tu. Không có thì chứng minh rằng cái ngã đã bớt một chút. Bị đánh thì bạn coi như không thấy biết; bị chửi thì bạn dùng đạo lý để thấu triệt. Nếu trong lòng sinh phiền não, nổi sân giận thì sẽ chẳng thể tu hành được.

    Tự hỏi mình có ngu si không? Phải chăng mình thông đạt một thứ thì thông đạt mọi thứ, chẳng hề chướng ngại? Rằng: chân không thì chẳng có nhân ngã; đại đạo thì chẳng hình tướng.

    Kẻ thiện căn sâu dày thì nghe lời thiện. Kẻ tội nghiệp nặng nề thì nghe lời phỉ báng.

    Nếu không vất bỏ thứ hư vọng, thì thứ chân thật vĩnh viễn không thể đạt được. Vì sao? Bởi vì mình cứ chạy theo sau đuôi cái hư vọng thì làm sao nhận thức được diện mục của cái chân thật.

    Có phiền não thì có nóng bức. Không phiền não thì sẽ mát dịu. Ai bảo bạn sinh phiền não?

    Buông bỏ thân tâm thì Phật tự thành.
    Last edited by hoauudam; 27-10-2018 at 07:09 AM.

  5. #25

    Mặc định

    Pháp Ngữ ​Của Hòa Thượng Tuyên Hóa

    Phật không có lòng sân giận. Ma mới có.

    Ma do đâu mà thành? Do có năm thứ độc: Hận thù, oán ghét, phiền não, tức giận, phiền muộn tạo thành.

    Bạn cần lập đại chí, làm đại sự. Ðừng nên nghĩ chuyện làm quan, kiếm nhiều tiền. Ðó chỉ là để mình hưởng thụ, không có cống hiến gì đến nhân loại.

    Có người tới chùa cho rằng thắp càng nhiều nhang thì càng được nhiều công đức. Ðây là quan niệm sai lầm. Thắp nhang cúng Phật là biểu lộ lòng thành, nên một nén là đủ. Sao cần dùng cho nhiều? Nếu tâm không thành khẩn thì thắp nhiều cũng chẳng cảm ứng. Phật không đến để ngửi mùi hương đâu.

    Ðạo Phật không chủ trương đốt tiền giấy, (giấy vàng mạ, hình nộm xe cộ, tàu bè; áo quần giấy, dày dép vật dụng bằng giấy).

    Các bạn xem xét, chỉnh đốn lại những kinh điển mà mình đã phiên dịch trước kia. Cần chính xác, trung thật, khế hợp với ý Phật. Ðó là nguyện vọng của tôi, hy vọng các bạn cùng nhau nỗ lực hoàn thành sứ mạng này.

    Sân giận thì như nước bị đông cứng thành băng. Mình cần đem băng làm tan thành nước, vì nước thì lợi ích vạn vật.

    Người xuất gia thì phải nghiêm trang trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi. Rằng: Ði nhẹ như gió thoảng, ngồi yên như chuông đồng, đứng thẳng như cây tùng, nằm gọn như cây cung.

    Tu hành thì phải tu trung đạo. Quá lố: Không phải trung đạo. Quá ít: Cũng không là trung đạo. Ðức Phật dạy nghĩa rốt ráo của trung đạo thì không rơi vào không cũng chẳng nghiêng về có.

    Không có giới lực thì sẽ chẳng có định lực. Thiếu định lực thì chẳng thể sinh huệ lực. Khi nền móng không vững thì cột trụ dựng lên không thể chắc chắn, tường vách sẽ xiêu vẹo gãy đổ. Giới định huệ, là ba môn học vô lậu, thiếu một, không xong. Các bạn hãy chú ý điểm này.

    Niệm Nam mô A Di Ðà Phật! Nam mô A Di Ðà Phật! Chỉ một tiếng Nam mô A Di Ðà Phật, đừng có vọng tưởng gì khác: Ðó gọi là dùng độc để trị độc. Nếu bạn có quá nhiều vọng tưởng thì tức là có quá nhiều độc. Nhất định phải chết thôi!
    Mình phải dưỡng khí, không nên sinh khí (nổi giận)!

    Các bạn cho rằng xem truyền hình, nghe điện thoại, nghe radio, chơi computer là tốt lắm, nhưng các bạn nào biết rằng chúng làm tổn thương tâm can tỳ phế thận của mình. Tương lai chúng sẽ làm mình, người không ra người, quỷ không ra quỷ.

    Nếu đến độ như vậy thì thế giới này hủy hoại mất. Do vậy, chúng ta sinh vào thời đại mà chúng sinh vô phước, khó điều phục này thì thật không dễ gì giáo hóa.

    Ngũ ấm chỉ là một thứ âm khí. Âm khí này có thể biến thành dương khí. Âm quỷ cũng có thể biến thành dương quỷ. Xem thử bạn có biết biến đổi hay không.
    Nhất định mình phải giữ giới luật cho thật tinh nghiêm. Ðây là điều vô cùng trọng yếu, hết sức quan trọng.

    Giảng kinh thì phải giảng điều cốt yếu, không nên rườm rà. Phải giảng điều quan hệ tới kinh văn.

    Bây giờ trên toàn cầu, ai cũng nói về khí công. Ðúng là một thứ phong trào. Trong khí công cũng có nhiều loại khác nhau: có thật, có giả, có chính, có tà. Nếu gặp tà thì bạn có thể bị điên loạn; điên đến độ bác sĩ tâm thần cũng bó tay không thể chữa.

    Ðừng lầm rằng ai học khí công thì cũng là kẻ chính phái. Ai học khí công vì muốn kiếm tiền, muốn phát tài, thì đều là tà. Họ chẳng khác gì những kẻ đầu óc tràn ngập lợi dục.

    Chữ khí công: tên và sự thật không phù hợp. Vì khí thì chẳng có tri giác, nên căn bản nó không thể có công. Phải nói là thần công, quỷ công, ma công, yêu công mới đúng.

    Thần công: thần nhi minh chi, tồn hồ kỳ nhân, (nghĩa là sự linh thông và sáng suốt được chân lý thì kết tụ nơi con người, câu này trích trong Hệ Từ Thượng Truyện). Dùng sức mạnh do giữ vững một chính niệm để khiến thần chế ngự cái khí, thì đó gọi là khí công.

    Thần công cũng do dụng công ở tâm ý. Song, vì chưa đạt tới cứu cánh nên môn này vẫn còn dính mắc vào hình tướng. Thần công là do có vị thần bên ngoài tới chi phối, không phải dùng khí lực chi phối tinh thần. Vì thần công thì văn nhã, nên khi vị thần tới nhập, người ấy không có nhảy nhót múa máy, cũng không nói lăng nhăng gì cả.

    Quỷ công thì khác: Khi quỷ tới nhập thì người ấy sẽ nhảy nhót múa máy, cười khóc, hớt hãi bất định. Ðây là một trong năm pháp điều động tụi quỷ. Pháp này phóng tụi quỷ vào thân người ta, gọi là phi tinh phú nhân, khiến kẻ ấy ăn nói bậy bạ tạp loạn. Ðó là do tụi quỷ vốn chẳng có tánh an định và định lực.

    Ma công và Yêu công thì không để ý gì tới đạo lý; chúng kiêu mạn, hại người, chuyên môn làm việc dâm dục. Tất cả khí công đều là biểu hiện của yêu ma quỷ quái.
    Những loại khí công ngày nay đều có thứ tà khí. Bản lai nó phải là thứ chính khí, lấy thiền làm thức ăn, sung mãn pháp hỉ, vì nó là một thứ công phu thiền định.
    Song, giờ đây nơi nào có khí công nơi đó khí thật cuồng loạn. Bạn run lẫy bẫy, tôi cũng run lẫy bẫy.

    Rồi nói luông tuồng lăng nhăng toàn thứ tà khí. Chẳng có chút định lực, những thứ khí (do vị thầy khí công) phóng ra là từ tâm tán loạn, nhưng y cứ cho là tự mình đã phát công, rồi có linh cảm như thế. Kỳ thật y đã điên cuồng! Chỉ có kẻ bịnh tâm thần mới nói lăng nhăng như vậy.


    Hai câu để phê bình khí công: Người chính tu tà pháp, tà pháp cũng thành chính. Người tà tu chánh pháp, chánh pháp cũng thành tà. Không chính thì là tà. Không tà tức là chính.
    Răng cứng, lưỡi mềm: răng rụng nhưng lưỡi chẳng rụng.

    Ngày nay nhiều người làm nô lệ cho cái thân: cho nó ở nhà tốt, ngồi xe sang. Họ bị vật chất chi phối như vậy thì tự tâm có thật sung sướng chăng?
    Ðối với người già, họ càng lớn tuổi, tôi càng chiếu cố chăm sóc.
    Bạn đuổi được bọn quỷ tham ăn, quỷ làm biếng, quỷ ham ngủ thì đó là công phu tọa thiền sơ bộ nhất.

    Chỉ biết người khác, quên mất mình đi: tới trình độ này thì mới đáng là hiểu biết Phật pháp.

    Phải niệm Quán Âm Bồ Tát ở mọi thời mọi chốn. Ði đứng nằm ngồi đều phải niệm. Lòng mặc niệm hay miệng niệm đều có công đức như nhau. Do vậy đừng khởi tâm so sánh (công đức của tâm niệm và miệng niệm), mà phải tùy duyên niệm.

    Chờ chết mới niệm danh hiệu đức Quán Âm thì không còn cơ hội nữa. Nên nói rằng: Hãy nhớ tới lẽ vô thường, nên chớ có buông lung.


    Mình gặp người nào thì người ấy hẳn phải có duyên với mình. Hà tất ta phải tranh chấp cãi vả. Thật chẳng có nghĩa lý gì.
    Người chân chính tham thiền thì cũng là chân chính niệm Phật. Người chân chính niệm Phật, cũng là người chân chính tham thiền.

    Người có tánh nóng, dễ giận dữ, thì từ sáng tới tối đầu như bốc khói, nộ khí xung thiên. Ðó cũng là biểu hiện của sự thiếu đức hạnh.

    Thiện và ác hai con đường: Tu thì cứ tu, mà tạo tội thì vẫn tạo tội. Nếu là đạo thì hãy tiến bước, nếu không phải là đạo thì hãy lùi lại. Hãy chọn nẻo lành mà theo. Trong nồi lửa bỏng mà rèn luyện thành thân kim cang bất hoại.

    Nếu bạn muốn lập công, lập đức, lập ngôn thì bạn phải dựa vào lục độ. Lục độ tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ bát nhã.

    Thế giới này là thế giới của tiền giấy: Chỉ vì tham tờ giấy lộn này mà người ta quên lãng mất nhân nghĩa đạo đức rồi. Cho rằng đồng tiền là thật: bạn nghĩ như vậy có ngu si chăng?

    Tọa thiền tức là thu hồi cái tâm hướng ngoại, tán loạn. Tức là tâm này chạy đi đâu mất, bây giờ mình tìm nó về lại.

    Người tu nào chú trọng đến thần thông, người ấy là kẻ không có tri thức.

    Nếu người ta không sinh phiền não thì họ sẽ thu hoạch được bảo bối.

    Bạn phải canh chừng lửa vô minh trong lòng. Lửa vô minh này cũng như con cọp khi nổi giận, cũng chính là gốc tội nghiệp của đời trước.
    Ðề phòng lửa vô minh bên trong: trong không có lửa thì ngoài không lửa gì đốt được bạn.

    Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là sáu tên giặc. Không biết sử dụng sáu căn thì chúng biến thành sáu tên giặc. Biết sử dụng chúng thì chúng biến thành hộ pháp.
    Có người nuôi gà nuôi chó. Khi gà, chó chạy ra ngoài, họ liền chạy đuổi theo bắt về.

    Song khi tâm chạy ra ngoài, chẳng ai chạy theo bắt về lại! Ðó là xả gốc theo ngọn: quên mất gốc (là tâm), thu nhặt ngọn (là phiền não).

    Tôi truyền thọ một yếu quyết cho các bạn. Yếu quyết gì? Khi gặp chuyện cấp bách nguy nan, bạn hãy bình tỉnh, không nên khẩn trương cấp bách, phải gác chuyện sống chết ra ngoài, nhất tâm niệm Quan Thế Âm Bồ Tát. Nhất định chuyện nguy hiểm sẽ biến thành bình an, thoát khỏi nguy nan.

    Người chân tu thì chuyên tâm niệm đức Quan Âm cũng sẽ đắc tam muội. Trong cảnh tam muội, lạnh tới đâu cũng chẳng thấy lạnh, nóng cách mấy cũng không thấy nóng, đói khát cở nào cũng không cảm thấy đói khát. Nó kỳ diệu không thể diễn tả được.

    Ðừng sinh phiền não, chớ nghi ngờ,
    Kiểm soát chính mình, đừng đụng người.
    Nhận mình sai nhiều, bớt cải lý,
    An nhiên, thanh tịnh, trí huệ sinh.
    Minh tâm: chẳng ngại việc gì khó,
    Thấy tánh: đâu còn có lo buồn,
    Phật quang nào phải không chiếu sáng,
    Lo, nghĩ, hận, oán khiến nhiễu nhương.

    Nếu bạn y theo lý bài thơ trên tu hành, thì hẳn sẽ có cảm ứng đặc biệt.

    Niệm danh hiệu đức Quan Âm, bạn nên học lòng đại từ đại bi, đại hỷ đại xả, đại nguyện đại lực của ngài Quan Âm.

  6. #26

    Mặc định

    Pháp Ngữ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa

    Khi bạn có lòng lo sợ thì dù bạn không muốn ma lại, ma cũng sẽ tới. Bạn không có tâm lo sợ, thì dù ma muốn tới cũng không thể nào tới. Ðây là bí quyết quan trọng nhất: đừng có sợ hãi. Khi bạn không sợ hãi thì tâm sẽ chính. Chính thì có thể hàng phục mọi thứ, bởi vì tà bất thắng chính. Vì thế ma sợ nhất chính là bốn chữ: Chính đại quang minh.

    Người minh tâm thì không ngu si. Kẻ kiến tánh thì không âu sầu. Tâm như gương sáng, lại cũng như nước lặng.
    Các bạn nên: Tùy duyên để tiêu nghiệp cũ, chớ tạo thêm tội mới.

    Kẻ tự mãn, (kiêu ngạo, cho mình quá tốt quá giỏi quá đủ) thì tuyệt đối chẳng thành tựu được gì cả. Mình phải học: Có mà dường như không, thật mà dường như giả. Có đạo đức cao thượng thì dường như chẳng có vẻ gì cả. Kẻ chân chính có tài hoa, thì y có vẻ như chẳng có tài gì cả.

    Sau đây là Sáu cái đừng:
    Khi ngồi đừng đu đưa chân, rung đầu gối.
    Khi đứng, đừng rung quần.
    Khi đi đừng ngoái đầu.
    Khi nói đừng lộ lưỡi.
    Khi cười đừng cười lớn tiếng.
    Khi nóng giận đừng la hét.

    Phải tập: Suy nghĩ chín chắn rồi hãy nói, lòng vui rồi mới cười, thấy việc ấy có nghĩa mới làm.

    Tất cả pháp hữu vi ở cõi đời này, thật sự là hết sức mỏng manh, không chắc chắn gì hết. Chẳng có chuyện gì vĩnh viễn không biến hoại. Tất cả mọi sự mọi vật không thứ gì kiên cố cả.

    Chúng ta ai mà thường thường cứ nổi nóng tức giận, nổi lửa vô minh, thì chính là đang ở trong lưới của ma. Làm sao thoát lưới ma? Rất dễ dàng: Ðừng nóng giận. Không nổi đóa, không có lửa vô minh, không sân giận thì sẽ thoát lưới ma ngay.

    Thân thể của mình là giả, thế sao mình cứ chấp trước nó hoài vậy? Vì sao mà cứ vì nó mà tạo tội nghiệp, chẳng thể buông bỏ.
    Người tu đạo phải tu hạnh viễn ly: Viễn ly tài sắc danh thực thùy, viễn ly mọi thứ xấu ác. Gần gũi mọi thứ thiện.

    Ai có thể hàng phục sáu căn, sáu trần, sáu thức khiến chúng nghe lời, không tạo phản, kẻ ấy là Bồ Tát.

    Ai có thể quét sạch tình cảm, lòng không còn rác rưởi dơ bẩn, kẻ ấy là Bồ Tát.

    Các vị phải thức tỉnh, giác ngộ đời người là vô thường. Con quỷ vô thường không biết lúc nào sẽ tìm mình. Lúc ấy: Ngàn thứ chẳng đem theo đặng, chỉ có nghiệp theo thân. Nếu bây giờ không dụng công thì đợi đến lúc nào, đến kiếp nào mới tu đây?

    Bạn nên biết rằng hai chữ danh và lợi làm hại tất cả người đời.

    Không có lòng tham dục thì phiền não gì cũng chẳng có. Một khi có lòng tham dục thì chuyện gì cũng xảy ra. Thế giới, vạn sự vạn vật vạn loài, thứ gì cũng do lòng tham dục sinh ra cả.

    Thật ra những thứ sơn yêu, thủy quái, tinh mỵ v.v... không phải là chuyện phiếm đâu. Song nếu lật ngược vấn đề lại nhìn thì nếu mình giữ lòng mình cho thanh tịnh, không có tà niệm, thì lúc nào cũng có thiên long bảo vệ mình. Hãy kiên cố giữ tâm đừng để sơ hỡ, thì ma chướng từ đâu mà lọt vào chớ.
    Kẻ có trí huệ thì không có phiền não.

    Dựa vào chân mà có vọng. Khi vọng hết thì chân hiện bày. Vọng chưa dứt thì chân không hiện.

    Người học Phật chớ nên hễ nghe người ta khen là vui vẻ cao hứng lắm. Nghe một câu không vừa ý thì phiền não vô cùng. Ðó là biểu hiện chẳng có định lực. Có định lực thì bạn không bị cảnh giới của tám gió làm lay chuyển.

    Lúc nào các bạn cũng phải tu hành, lúc nào cũng siêng năng cầu thoát ra khỏi cõi đời trần thế này.

    Sinh tử nguy hiểm như vậy mà mình còn dám lười biếng sao! Lại còn ra vẻ như chẳng có chuyện gì, tựa như rằng mình có định lực ghê lắm. Chẳng phải đó là lãng phí thời gian sao?

    Bậc đạo đức cao tăng xưa kia, thường thường tới một cách vô hình mà ra đi cũng không dấu tích. Tới thì phiêu phiêu, đi thì hốt hốt. Tới như gió thoảng, đi cũng như gió thoảng. (Tuy rằng đạo phong của các ngài truyền lưu muôn thuở). Tới thì vô quái vô ngại, đi cũng vô quái vô ngại.

    Siêng tu giới định huệ tức là người quân tử thì hướng về phía trước mà tiến. Khi trừ diệt tham sân si thì mình không cần phải hướng xuống nữa.

    Ma vô cùng thông minh. Nó rình biết người kia có lòng tham muốn thứ gì thì nó sẽ dùng phương pháp thích hợp để dụ hoặc người đó. Do đó người tu hành chúng ta không cần thiết phải niệm chú gì đặc biệt, cũng không dùng pháp môn gì.

    Chỉ cần mình chân thật, không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, cứ chăm chỉ khổ tu, thì không có ma gì phá hại được bạn. Chỉ cần bạn có lòng tham, có lòng kiêu hãnh, muốn chiếm tiện nghi, muốn tìm đường tu tắt, thì sẽ dễ dàng bị dính vào ma sự.

    Khi sinh tâm ô nhiễm, thì đó là thế giới Ta Bà.
    Khi sinh tâm thanh tịnh, thì đó là thế giới Cực Lạc. Thế giới Lưu Ly và Cực Lạc không có gì khác biệt đâu.

    Xây chùa không bằng xây người. Xây người không bằng xây Phật.

    Bạn phải đang cơ (ngay lúc chuyện xảy ra) mà quyết định (phải làm gì). Không nên ủy mỵ, trù trừ chẳng quyết, rồi cứ dây dưa mãi, khiến mất đi thời cơ quý báu. Chớ nên lết chân chẳng quyết, phải mau chặt đứt phiền não, liễu thoát sinh tử.

    Trời đất không thể một ngày không hòa khí, lòng người không thể một ngày thiếu hỉ thần (niềm vui). Ngày ngày mình phải mời hỉ thần tới tâm, làm bạn với hỉ thần. Vậy thì mình sẽ không có phiền não. Ðiều này đối với người tu cũng quan trọng lắm.

    Mình phải dập tắt chiến tranh thế giới, không phải là phản đối chiến tranh. Khi bạn có tâm phản chiến thì chiến tranh nơi thân bạn đã phát sinh rồi. Khi bạn phản đối kẻ khác, hay phản kháng chiến tranh, thì chiến tranh trong tâm bạn đã khởi dậy rồi.

    Bạn không tin nhân quả báo ứng? Chờ tới khi nó đổ xuống đầu bạn, lúc ấy muốn trốn cũng trốn không kịp.

    Ngồi kiết già là để dễ dàng nhập định. Nếu bạn có thể nhập định lúc đi, thì ngồi hay không ngồi đều như nhau. Cảnh giới nhập định thì hoàn toàn vắng lặng vọng tưởng, trong tâm không sinh một niệm, không nhiễm bụi trần.

    Nếu bạn có thể trong lúc đi đứng nằm ngồi không sinh ý niệm nào cũng chẳng nhiễm bụi trần gì thì đó chính là chỗ bạn dụng công. Không phải rằng ngồi xuống mới gọi là dụng công.

    Ðừng nên bị những tướng hư giả làm điên đảo.
    Không thể nhầm lẫn trong lý nhân quả, không thể đình trệ trong việc tu hành.

    Người tu hành thì lánh xa danh lợi. Họ xem phú quý như những giọt sương giữa khóm hoa. Họ xem công danh như hơi nước trên mái ngói, trong khoảnh khắc sẽ tan biến mất dấu tích. Nếu bạn muốn trắc nghiệm xem người nào đó có tu hành hay không thì hãy xem việc làm, hành động của người đó có nhắm về danh với lợi chăng.

    Không khóc không cười, đó gọi là định lực. Không có định lực thì mới hay khóc hay cười.

    Nếu thường tinh tấn thì đó tức là ở trong định. Nếu bạn có thể tùy thuận theo duyên bên ngoài mà không biến đổi, không thay đổi chí hướng nhưng có thể thích ứng với hoàn cảnh, thì đó gọi là Kim Cang Ðịnh. Kim Cang Ðịnh không phải là thứ có hình tướng, nó chỉ là tâm bồ đề không biến hoại mà thôi.

    Nếu mình thấu suốt được thất tình: Vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham muốn - thì có thể hàng phục nó. Ðừng để chúng nổi sóng, nổi gió thì tức là hàng phục tâm mình.

    Hiện tại chuyện tối quan trọng là thế giới quá đầy bọn tiểu quỷ, không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao tụi tiểu quỷ nhiều như vậy? Bởi vì người ta phá thai nhiều quá. Thai nhi chưa thành hình mà đã bị giết rồi, nên khi làm quỷ chúng có tâm báo thù rất nặng nề. Do đó giới sát, phóng sinh, ăn chay thì bao quát không được phá thai. Những tiểu quỷ thật không dễ độ thoát chúng đâu, rằng: Diêm Vương dễ gặp, tiểu quỷ khó độ.

    Người thiếu đức hạnh thì có tánh nóng rất lớn, vô minh ngu si cũng sâu dày. Người có đức hạnh thì chẳng có nóng nảy gì cả, vô minh cũng đã hóa trừ thành trí huệ. Do đó người tu hành phải tài bồi đức hạnh là vậy.

    Người thường tự so sánh, cho rằng mình hơn kẻ khác. Kỳ thật, khi thân tâm chưa đạt đến cảnh không thì họ đều chấp trước vào ngã tướng mà thôi. Kẻ tham thiền phải trừ bỏ cái ngã. Chẳng những không có tướng hay quan niệm về cái tôi, mà cần phải không có cái tâm, không có cái thân. Khi thân tâm đều không, bạn sẽ làm vô tâm đạo nhân.

    Khi chân chính chẳng có vọng tưởng thì bạn sẽ vãng sinh thế giới Cực Lạc. Khi không có vọng tưởng thì sẽ không có phiền não, không có thống khổ. Ðó chính là thế giới Cực Lạc.

    Nên biết thiểu dục tri túc (bớt tham muốn, biết mình đủ). Khi biết mình gì cũng đầy đủ thì sẽ không có gì rắc rối.

    Mỗi người chúng ta không nên tụng suông Kinh Kim Cang, Kinh A Di Ðà, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm.

    Mình phải tụng cho rõ ràng bộ kinh trong tâm thì mới tốt. Bạn tụng bộ kinh chân thật tức là khi tâm chẳng có đố kỵ, chẳng cống cao ngã mạn, chẳng chấp trước vào cái ngã một cách nặng nề, chẳng chấp cứng vào kiến giải của mình thật sâu.

    Nếu bạn có những tật xấu trên thì tuy bạn có tụng kinh nhưng bạn không biết tụng.

    Người có tánh nóng nảy thì khổ. Người không có tánh nóng nảy thì sướng. Người hay nổi giận thì có phiền não; kẻ không nóng giận thì thường thường vui vẻ. Tánh nóng giận là kẻ thù lớn nhất của mình. Vì sao người ta sinh bịnh? Bởi vì có nóng giận.

    Vì sao mọi chuyện không xảy ra thuận lợi? Cũng bởi vì có sự nóng giận. Nếu người ta ở trong mọi thời điểm, lúc nào cũng không nóng nảy giận dữ thì y lúc nào cũng vui sướng khoái lạc, bình an.

    Muốn tu đạo thì phải nuôi dưỡng đạo đức. Không có đức hạnh thì chẳng thể tu đặng.

    Tu đạo cần mình phải thật thà. Nó cũng giống như xe tơ, cần phải từng sợi từng sợi kéo ra thì mới không rối loạn.

    Ðừng nên tìm phương pháp khoa học để đạt tới giác ngộ. Ðừng nên làm cách thông minh.

    Trên thân thể của mỗi người, ai cũng có vô lượng vô biên chúng sinh. Nếu bạn có lòng tham thì những chúng sinh ấy cũng có tâm tham, nếu bạn có lòng tức giận thì mỗi chúng sinh ấy cũng bắt chước nổi lòng tức giận. Tánh tham sân si của mình có thể ảnh hưởng đến những chúng sinh ấy.

    Những chúng sinh nhỏ ấy lại biến thành rất nhiều con, những con lớn lại càng biến lớn hơn. Ðó chính trăm ngàn ức hóa thân của bạn! Do vậy người tu đạo, cử tâm động niệm phải sửa đổi thói xấu, tu thành thói tốt.

    Ngũ ấm là xiềng xích cột người ta. Vì bị tứ đại, ngũ ấm che phủ nên mình mới không thể giải thoát.
    Nếu không biết hòa nhã, khiêm cung thì làm sao cứu người. Có lẽ tự mình cũng chẳng cứu được nữa là.

    Các bạn làm những người đồng tu, đạo hữu thì nên khuyến khích lẫn nhau, cùng đi trên đường bồ đề. Không tổn hại lẫn nhau. Lúc nào mình cũng nên nói pháp cho nhau nghe. Miệng không nói lời phi lễ, thân không làm chuyện phi lễ.

    Tu hành cần mình phải hồi quang phản chiếu (thâu hồi ánh sáng, chiếu ngược vào tâm). Không phải là phóng quang ra ngoài để kêu người khác nhận thức về mình.
    Tu mà không tranh thì chẳng có ma. Tranh là ma tới liền.

    Khi chọn bạn, mình phải chọn bạn tốt, bạn có ích lợi. Không nên chọn bạn xấu rồi cùng nhau làm việc tệ hại, rồi sau này đôi bên đều cùng phải đọa lạc.

    Chưa tu thành thì hào quang còn non lắm. Hào quang như vậy thì còn yếu ớt, chẳng thể kháng cự lại sóng gió bão táp. Khi hào quang viên mãn, không thiếu không dư, thì lúc đó mới phóng quang. Hiện tại là giai đoạn tu hành, bạn chớ phóng quang.

    Lúc đang làm người không chịu tu cho tốt. Ðến lúc làm trâu dê heo ngựa thì có muốn tu cũng chẳng còn cơ hội. Lúc ấy bạn quỳ tại cửa chàng đồ tể khóc lóc năn nỉ: Xin ngài từ bi, đừng giết mạng con! Chàng đồ tể vẫn cứ giết chẳng tha. Do đó chỉ cần mình nghe tiếng rên siết thê thảm ở nhà đồ tể là sẽ hiểu nguyên nhân của tai kiếp, chiến tranh từ đâu mà ra.

    Khi tu thì không nên tùy tiện nói bậy. Nếu không thì sẽ bị quả báo câm ngọng.

    Ðịa chấn (động đất) có thể gọi là nhân chấn (động người) vì đất và người thì thông nhau. Khi nhân chấn thì địa chấn. Nếu nhân không chấn thì địa cũng không chấn. Bạn vui vẻ thì địa chấn, bạn nổi giận thì địa cũng chấn.

    Bạn có bi ai, buồn lo, sợ hãi, yêu ghét, thì đều sinh địa chấn. Khi có dục vọng, tình ái thì địa chấn càng lớn. Bên trong động nên bên ngoài mới động. Có địa chấn bên trong thì mới có địa chấn bên ngoài.

    Chúng có quan hệ liên đới. Bạn trồng nhân gây động đất bên trong nên mới có động đất bên ngoài. Khi trồng nhân thì mình không sợ, lúc nó kết thành quả thì mình mới sợ chết luôn.

    Tu hành phải cần chăm chỉ cần khổ.

    Phương pháp dụng công là phải niệm niệm hồi quang phản chiếu. Không phải là niệm chú gì đâu, chỉ cần mình đi đứng nằm ngồi không rời nhà, không chạy ra ngoài truy đuổi. Cũng không phải tìm kiếm nơi sách vở. Cần chú ý tới cái không.

    Nếu bạn chân chính thể hội thì chuyện gì bạn cũng không tham lam. Bởi vì tự bạn xưa nay vốn đầy đủ.

    Cái không này tức là chân không. Từ trong nó phát sinh ra diệu hữu. Vì thế: Không làm các việc ác (là chân không), làm hết các việc thiện (là diệu hữu). Giới luật là khuôn phép để người tu nương theo mà tu hành. Khi đạt tới "không" thì tất cả nghiệp chướng đều không, cũng chẳng có tội, chẳng có phước.

    Ma từ bốn phương tám hướng lại thử thách người tu. Nếu ai cứ luẩn quẩn trong vòng thị phi, nhân ngã, vui buồn, yêu ghét mà dụng công thì ma sẽ thừa cơ, nương chỗ sơ hở đó mà chui vào.

    Muốn sinh Cực Lạc thì phải thu nhiếp quét sạch mọi tình cảm.

    Vì sao thế giới có chiến tranh? Khi người ta bắt đầu ăn thịt thì chiến tranh cũng bắt đầu. Ăn thịt cũng chính là ăn người.


    Kẻ thấy lỗi lầm của ta, kẻ ấy là thầy ta. Những ai có thể nói ra thói hư tật xấu của bạn, người ấy là vị thiện tri thức. Bạn nên cám ơn người ấy, đừng nên nhìn họ như thù địch.

    Người mê thì tin phong thủy, người trí tin tâm thủy. Tất cả đều do tâm tạo thành.

    Người đời cho rằng học thì ở nơi chỗ rộng (như núi), nào hay rằng học ở ngay chỗ nhỏ xíu (tâm mình) này đây. Nếu ai có đức hạnh thì phong thủy tự nhiên tốt bởi vì tâm họ tốt.

    Người trí thì nhìn suốt tới cái lý của sự việc, không bị ngăn trệ bởi bề ngoài của sự việc. Người ngu chỉ nhìn thấy tướng trạng bên ngoài của sự việc, chẳng thấy suốt được chân lý bên trong của mọi chuyện.

    Nếu ai muốn biết chư Phật trong ba đời, hãy quán bản tánh của pháp giới: Tất cả đều do tâm tạo.

    Muốn có trí huệ, trước hết đừng chửi bới người ta, cũng đừng đánh đập, giết chóc, tổn hại kẻ khác.

    Mình phải lập công với đời, làm lợi cho người. Nếu chỉ toàn là tính toán lợi ích cho mình, lo cho mình được sung sướng, thì đó nào phải là ý nghĩa của việc làm người.

    Tôi biết được điều gì? Tôi biết thế nào là chịu thua thiệt, không chiếm tiện nghi. Nếu bạn thật sự hiểu rõ thì bạn sẽ biết rằng: Chịu thua thiệt chính là được tiện nghi (thắng thế), mà chiếm tiện nghi (giành hơn, giành thắng) chính là bị thua thiệt.

    Không phải dễ sửa những lỗi lầm tật xấu nho nhỏ đâu. Nếu bạn sửa đổi được chúng thì bạn sẽ có định lực.

    Người đời xem chuyện phát tài là vui sướng nhất. Có tiền rồi lại phải dùng óc não tính toán làm sao giữ gìn nó để nó không mất, không hết. Cứ cho rằng tiền là thật của mình, nên ngày ngày lo lắng. Song le, bất luận tiền nhiều hay ít, chết rồi chẳng đem được một xu.

    Thế rồi lại hai tay trắng! Bạn xem nó có vui sướng gì?

    Chúng ta ai cũng bị nghiệp dắt dẫn, rằng: Thân không tự chủ. Mình sinh vào đời này chính là để trả nợ. Bởi vì xưa kia tạo nghiệp không giống nhau, nên đời này chịu quả báo khác nhau. Ðó là: Lưới nghiệp đan kết.

    Làm việc quỷ thì tức là quỷ. Làm việc người thì là người. Làm việc Phật thì là Phật.

    Bây giờ mình được nghe mấy chữ chú Ðại Bi thì nên sinh lòng hoan hỉ, rằng thật may mắn, thật hân hạnh, thật khó gặp được chú Ðại Bi. Thật vậy, rất khó mà bạn có thể gặp được chú Ðại Bi. Nay gặp được chú rồi, bạn nên nhớ, đừng coi thường nó rồi vất qua một bên.

    Người học Phật phải bỏ ít thời gian ra học tập Phật pháp, không nên hiểu mường tượng chẳng rõ ràng, tợ hồ biết nhưng lại không biết. Có người nghĩ rằng: Tôi đã không biết, do đó tôi không cần muốn biết. Tôi đã không thông đạt, do đó cứ không thông đạt luôn.

    Ðó là thái độ tự mình đầu hàng, không chịu bước chân tới trước, tự vất bỏ tiền đồ của chính mình.

    Người mới phát tâm tu hành, cái chướng ngại lớn nhất cho việc dụng công là: Tâm dâm dục, con trai tham luyến con gái, con gái tham luyến con trai. Ðây là vấn đề căn bản nhất.

    Giảng kinh là tu huệ; tọa thiền là tu định; Không mở miệng nói lăng nhăng là tu giới.

    Làm người trên đời mình phải hành thiện cho đúng lúc, cho kịp thời. Còn một chút hơi thở, một chút sức lực, mình phải hành thiện, tích đức, không nên phung phí căn lành mình đã trồng trong kiếp trước, bằng cách đời này cứ việc hưởng thụ cho hết những phước báo ấy.

    Người tu mà sợ cô độc thì chẳng thể tu.

    Trong tâm ta, tuyệt đối không được có quỷ. Cũng đừng có sân hận, oán ghét, buồn bực, khó chịu. Khi có những thứ ấy thì không xong, bởi vì có chúng tức là quỷ vào nhà rồi vậy.
    Làm bậc thiện tri thức, bạn không được nịnh hót người ta, không được tìm cách làm vui lòng người ta, khiến người bạn của mình mê mờ chân lý mà cũng chẳng hay biết.
    Quỷ vương chuyên môn nóng giận, không giữ quy củ. Quan Âm Bồ Tát chuyên môn chịu bị hà hiếp, luôn giữ quy củ.


    Bạn suy nghĩ những việc không có giá trị, thì tương lai sẽ gặt những quả báo không có giá trị. Mọi thứ ẩm thực đều chỉ có một mùi vị. Cứ nghĩ về chuyện ăn uống thì tâm sẽ buông lung, không thể kiềm thúc được sáu căn.

    Nếu vũ trụ đầy tràn khí kiết tường thì địa cầu sẽ không vỡ tung.
    Các bạn chú ý: Phàm là cảnh giới từ bên ngoài tới, mình đừng chú ý vào nó, đừng can thiệp tới nó, cứ để tự nhiên, nhưng đừng để nó lay động tâm mình. Trong Kinh Lăng Nghiêm có giảng rất rõ ràng, hy vọng các bạn tham thiền nghiên cứu tường tận phần giảng về 50 Ấm Ma.

    Buồn một chút: Là mình dạo chơi địa ngục. Cười một cái: Là già biến thành trẻ. Khóc một hơi: Thì địa ngục có một phòng nhỏ thật đen thui.

    Việc quan trọng đối với người tu là đừng sinh phiền não, ở bất kỳ tình huống nào cũng vậy.

    Ngồi cũng không sinh phiền não; nằm cũng không sinh phiền não. Cốt yếu là phải đoạn phiền não. Rằng: Phiền não vô tận, thề nguyện biến; biến phiền não thành bồ đề.

    Phiền não tức là không giác ngộ. Bồ đề tức là giác ngộ.
    Chú Ðại Bi tức là đại chú của tâm đại bi. Nó có thể thông thiên triệt địa. Nếu bạn có thể mỗi ngày trì tụng 108 biến, liên tục trong suốt ba năm, thì sau đó bạn có thể dùng chú Ðại Bi để trị bịnh. Lúc ấy, tay tới là bịnh trừ.

    Tôi biết nói về công hiệu của chú Ðại Bi. Hy vọng các bạn mỗi người dùng sức mạnh của chú Ðại Bi để vãng cứu hạo kiếp (tai ương, đại nạn) của thế giới, khiến cho người ta vĩnh viễn không còn tai nạn, và chánh pháp vĩnh viễn ở mãi trong thế gian.

    Thánh nhân ngày xưa thì luôn tự trách phạt chính mình. Không như người đời nay, chuyện gì cũng chẳng bao giờ nhận là mình sai, cứ luôn tìm lỗi lầm của kẻ khác.
    Chúng ta mỗi ngày phải bớt nói một chút, để niệm Phật nhiều hơn một chút. Ðánh chết ý niệm trong tâm thì Pháp thân mới sống đặng. Bớt nói chuyện, niệm Phật nhiều: chuyện thật dễ như trở bàn tay.

    Người tu thì phải làm ngược trở lại. Ðó là nghĩa làm sao? Tức là: Chuyện tốt thì nhường kẻ khác, chuyện xấu thì gánh vào mình. Xả bỏ cái ngã nhỏ bé để hoàn thành cái ngã (Phật tánh) vĩ đại.

    Muốn học tốt thì oan nghiệt tìm; muốn thành Phật thì phải gặp ma. Nếu không muốn học đạo giỏi, thì oan nghiệt không tới tìm bạn đâu. Càng muốn học giỏi thì oan nghiệt càng tới tìm bạn, vì nó muốn thanh toán hết mấy món nợ cũ.

    Năm mới vui vẻ! Chúng ta cần mỗi năm đều vui vẻ, mỗi tháng đều vui vẻ, mỗi ngày đều vui vẻ, mỗi giờ đều vui vẻ. Chớ sinh phiền não thì mới là vun bồi miếng đất trong tâm, hàm dưỡng khoảng trời nơi tự tánh.

    Các bạn là người tu thì phải chân thật, bước từng bước chắc thật, niệm niệm không để lãng phí, niệm niệm đều hướng tới đường đạo dấn bước. Làm được như vậy thì bạn mới chân chính là người học Phật.

    Việc tu đạo có thể làm tăng trưởng trí huệ, tăng trưởng tâm bồ đề, tăng trưởng nguyện lực. Mọi thứ, chuyện gì cũng tăng trưởng.

    Ngày ngày bạn không nên quên lãng con quỷ Vô Thường không biết bao giờ sẽ tới mời bạn đi.
    Thời mạt Pháp là thời mà ma mạnh, pháp yếu. Thế lực của ma vương ngày càng lớn mạnh. Thế lực của đức Phật ngày càng thâu nhỏ. Ðối với Phật thì không phải nói về thế lực mà là oai đức mới đúng. Khi chúng sinh có phước báo lớn thì pháp mạnh, ma yếu. Khi chúng sinh phước báo ít thì ma mạnh, pháp yếu.

    Nếu người xuất gia tham đồ cúng dường, ham ăn ham mặc, thì còn chánh pháp gì để nói?
    Chuyên nhất thì linh cảm, phân tâm thì bế tắc. Làm sao chuyên nhất? Tất định phải đoạn dục, bỏ ái. Nếu không cắt bỏ ái dục thì người xuất gia tu tám vạn bốn ngàn đại kiếp cũng không thể thành tựu. Do đó điểm này rất trọng yếu.
    Bạn không có tâm tham thì mới buông xả đặng. Có buông xả thì bạn mới tự tại, rồi sau đó mới có thể giác ngộ, khai đại viên giác.

    Người tu đạo chúng ta phải từ có mà hóa ra không, phản bổn hoàn nguyên. Quay về lại với bản hữu Phật tánh của mình.

    Giải thoát tức là bạn tốt nghiệp nơi vòng giới luật. Cũng là tốt nghiệp trong vòng quy củ. Cũng là tốt nghiệp khỏi vòng phiền não. Cũng là tốt nghiệp khỏi vòng vô minh.

    Bản thể của Pháp là không, do đó bạn không nên chấp trước vào pháp. Nên nếu bạn đối với pháp mà không thể nhìn suốt, rồi buông bỏ thì bạn vẫn chưa được tự tại.
    Last edited by hoauudam; 27-10-2018 at 09:49 AM.

  7. #27

    Mặc định

    Pháp Ngữ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa

    Sống trên đời, bạn nên cẩn thận trong mỗi hành vi cử chỉ. Bạn hãy giữ quy củ. Một khi trồng nhân sai lầm, (sai nhân quả), bạn sẽ hối hận vô cùng.
    Lúc tu, điều tối trọng yếu là đừng tranh. Nghĩa là không cùng người khác tranh chấp đúng hay sai, thật hay giả, phải hay trái.

    Muốn tu cho có thiên thủ thiên nhãn thì không phải một ngày một đêm mà thành. Tu pháp này, bạn phải ngày ngày dụng công không gián đoạn. Ngày ngày y pháp tu hành thì mới có thể thành tựu diệu dụng bất khả tư nghì. Nếu hôm nay tu, ngày mai nghỉ thì chẳng có ích gì đâu.

    Nếu người xuất gia không tinh tấn tu thiền, tập định, trì chú, tụng kinh, nghiêm thủ giới luật mà lại dựa vào Phật để kiếm ăn, bám vào Phật để có áo mặc thì chắc chắn sẽ đọa vào ba đường ác.

    Bạn tới chỗ nào, phải xem chỗ đó là trường học. Không có chỗ nào chẳng phải là chỗ để học tập. Không có lúc nào chẳng phải là lúc tu học.
    Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Môn nào cũng là số một. Pháp nào tương ưng với bạn thì pháp ấy là nhất. Pháp chẳng hợp với bạn thì nó không là đệ nhất. Phải thâm nhập vào một pháp môn thì mới đạt tới quả vị Phật.

    Nếu người ta biết hiếu thảo với cha mẹ thì chính khí mới tồn tại. Không hiếu thảo thì tà khí tràn ngập thế gian. Hiếu thảo thì phải thành khẩn, lúc nào cũng chuyên tâm, cung kính. Con cái nên tôn kính cha mẹ hệt như tôn kính Phật sống trong nhà vậy. Do đó con cái biết cúng dường cha mẹ là một việc hết sức cát tường.

    Người tin Phật hay không tin Phật đều sẽ thành Phật.

    Còn tâm tham là còn khổ. Tới khi nào không còn gì mong cầu thì lúc đó sẽ hết âu lo.

    Nhà có máy truyền hình (Ti Vi) cũng giống như nhà có yêu quái vô hình. Nó dạy con trẻ hư hỏng, hút mất hết tinh thần sinh lực của chúng. Vì vậy học trò không có bao nhiêu thời gian học hành. Không có ảnh hưởng gì hư hoại thâm sâu bằng ảnh hưởng của truyền hình.

    Phàm sự không có gì là nhất định, sai biệt chỉ ở một niệm. Khởi một niệm thiện có thể chuyển việc xấu thành kiết tường. Lão Quân có câu rằng: Hồi tâm hướng thiện, thiện tuy chưa làm mà thiện thần đã tùy thân. Chuyển tâm hướng ác, việc ác chưa làm, mà ác thần đã theo sát.

    Ðừng vì túi thịt thối này mà lo lắng! Mỗi một tâm niệm muốn ăn cắp đồ cho nó ăn. Mỗi một tâm niệm muốn làm đẹp túi thịt thối này. Mỗi một tâm niệm cứ muốn túi thịt thối này hưởng thụ, được chút khoái lạc. Thật là điên đảo.

    Tu đạo không nên hưởng phước.
    Phải dùng lòng chân thật để học Phật pháp. Mỗi một cử chỉ hành động, phải hướng về điều chân thật. Không nên như người đời: Nửa thật nửa giả; có lúc nói thật, có lúc nói láo. Người tu đạo thì lúc nào cũng phải nói thật, làm việc chân thật, không nói dối.

    Mình không phải là khổ tu mà là lạc tu. Ai tu hành chịu khổ cũng là cam tâm tình nguyện, không phải miễn cưỡng. Mình hết sức mong muốn buông bỏ điều giả, chỉ lấy điều thật.

    Một ngày không nóng giận là một ngày bạn đã tu hành. Mười ngày không nổi giận là mười ngày tu hành. Hễ bạn nóng giận tức là không có tu hành.

    Học chú Lăng Nghiêm tức là có hóa thân của Phật. Không những là hóa thân, mà còn là hóa Phật trên đỉnh đầu của Phật, hóa thân trong hóa thân của Phật. Do đó đây là chỗ mầu nhiệm không thể nghĩ bàn của chú Lăng Nghiêm. Nếu có người có thể trì tụng chú Lăng Nghiêm thì trong phạm vi 40 dặm sẽ chẳng có tai nạn, nguy hiểm sẽ biến thành an ổn.

    Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỷ thuật sẽ đưa người ta tới tử vong ngày càng nhiều. Thậm chí toàn thể nhân loại có thể bị hủy diệt. Nếu nhân loại hủy diệt hết thì khoa học, triết học có ích gì?
    Muốn tiêu trừ tất thảy mọi tai nạn, mình cần phải nghiên cứu chân lý của nhân sinh. Một khi hiểu rõ chân lý trong đời sống hàng ngày rồi thì mình mới có thể hiểu nguồn gốc của những tai nạn ấy.

    Chí công vô tư thì mới là chánh pháp. Có lòng ích kỷ tự lợi thì là tà pháp.

    Ðừng cần để ý tới cảnh giới là thật hay giả, chỉ có sự dụng công của bạn mới là thật. Nếu bạn chân chính thấu hiểu thì bạn chẳng chấp trước vào bất kỳ thứ gì, cảnh giới gì.
    Từ kiếp vô thỉ tới nay, trong thức A Lại Gia hay thức thứ tám của mình, chủng tử gì cũng có. Khi tâm bạn yên tĩnh thì chúng hiện ra cho thấy. Ví như nước đục, bạn cứ quấy động nó hoài thì nó sẽ chẳng lắng trong. Nếu để yên một chỗ không xáo động, bụi bặm cặn bã từ từ lắng xuống, nước sẽ trong.

    Trẻ thơ không phải sinh ra là hư xấu đâu. Chỉ bởi vì chúng không được dạy dỗ mà ra. Vì thế, làm cha mẹ, phải coi việc giáo dục con cái là cấp thiết quan trọng nhất. Cho dù kiếm thật nhiều tiền cũng không có giá trị bằng dạy con cho tốt.

    Tham thiền tốt nhất là không có cảnh giới. Không có gì hết, chỉ là không. Các bạn lúc ấy chớ có sợ cũng chớ sinh vui mừng. Sợ hay vui đều làm bạn dính vào ma, như đã nói trong phần 50 ấm ma của Kinh Lăng Nghiêm. Do đó bạn cần nên hiểu để không bị cảnh giới làm động tâm.

    Cần nhất là bạn không được chấp trước.
    Muốn phát tâm bồ đề thì bạn phải nghe giảng kinh cho nhiều. Một khi hiểu Phật pháp thì tự nhiên bạn sẽ biết cách phát tâm bồ đề.

    Mình nên mở rộng tầm nhìn, khoáng đại tâm tư suy nghĩ. Ðừng nên chỉ biết có mình, hoặc chỉ biết có gia đình mình, đất nước mình. Phải để tâm lượng rộng mở trùm khắp hư không, biến hết pháp giới. Mình phải suy nghĩ lợi ích cho toàn nhân loại, không nên chỉ tính toán cho riêng cá nhân mình.

    Nếu bạn chẳng có tâm đấu tranh thì sẽ đoạn tuyệt vãng lai với loài A Tu La. Nếu bạn không có tâm tham lam thì sẽ đoạn tuyệt qua lại với loài súc sinh thú vật.
    Làm sao để có niềm vui? Nơi tự tánh phải thường cảm thấy đầy đủ. Rằng: Biết đủ thì thường vui, nhẫn nại thì an ổn.

    Tiền là thứ dơ bẩn nhất. Nếu bạn gần gủi với nó quá nhiều thì bạn dính bụi trần. Nếu bạn chẳng cần tiền bạc thì thật trong sạch nhất; bạn có thể nhảy ra khỏi vòng bụi bặm.

    Người công dân chào cờ, là bày tỏ lòng cung kính đối với đất nước, với tổ quốc. Tượng Phật thì đại biểu cho đức Phật. Do đó mình lễ lạy tượng Phật để tỏ bày lòng cung kính với Phật.

    Ma mà sở dĩ thành ma là vì nó có tâm tranh hơn thua, háo thắng. Có thơ rằng: Tranh là tâm háo thắng, ngược lại với đường tu, nó sinh bốn tướng chấp, thì sao đắc tam muội? Khi ma không tranh được bậc nhất thì nó sinh lòng sân hận, tâm đố kỵ, tâm chướng ngại cản trở. Do đó ai có tư tưởng và hành vi như thế đều là ma. Vĩnh viễn không thể thành Phật.

    Người tín đồ Phật giáo không nên đi du ngoạn quá nhiều! Dùng thời gian du ngoạn ấy để nghiên cứu Phật lý, bạn xem, không phải là tốt sao? Có thể dùng thời gian ấy tụng kinh, niệm chú, lạy Phật, càng tốt hơn.

    Phá thai là việc rất nghiêm trọng. Phá thai là một trong những nhân tố tạo ra nhiều bịnh khó trị, tai nạn khủng khiếp thời nay. Bạn nghĩ xem: Một sinh mạng chưa ra đời đã biến thành oan hồn. Con quỷ nhỏ ấy tới đâu cũng đòi mạng, thì xã hội làm sao an ninh đặng. Những con quỷ nhỏ ấy chỉ có các vị đạo hạnh, không tham tiền tài mới có thể siêu độ chúng.

    Ở đây mình niệm Phật thì điện thoại của đức A Di Ðà Phật sẽ reo.

    Các em trẻ! Các em biết căn bản của việc làm người là ở đâu chăng? Là ở nơi tám đức hạnh:

    Hiếu (hiếu thảo, cung kính với cha mẹ)
    Ðể (tình anh em chân thành đùm bọc, nhường nhịn lẫn nhau)
    Trung (lòng trung thành với chân lý và lý tưởng)
    Tín (sự đáng tin cậy, đáng tín nhiệm trong lời nói và hành động)
    Lễ (xử thế một cách lễ phép, lịch sự và đứng đắn)
    Nghĩa (biết theo chân lý, quên mình vì chân lý, vì nghĩa vụ cao thượng)
    Liêm (không tham lam, ăn hối lội, làm việc tồi bại trái lương tâm để tự lợi)
    ​Sĩ (lòng hổ thẹn với lương tâm, với thánh hiền khi làm quấy)

    Không nên chấp lầm rằng thân này thật là thân của ta. Bây giờ đã gặp Phật pháp, được thiện tri thức chỉ điểm cho pháp môn niệm Phật, mình phải dốc lòng hết dạ niệm Phật, tu hành để được giải thoát.
    Tu thì lúc nào cũng phải chuyên tâm nhiếp niệm. Không thể buông lung, dù trong tích tắc.

    Người ngu thì chẳng biết nhân quả lợi hại ra sao. Cứ tùy tiện làm bậy, cho đến không tin rằng có nhân quả, hủy báng nhân quả. Kẻ có trí huệ thì biết sự lợi hại của luật nhân quả cho nên sợ làm sai trái trong vòng nhân quả. Bất luận làm việc gì mình cũng nên suy nghĩ ba lần rồi hãy làm.

    Người đời nay không biết được tiền nhân hậu quả của việc trước mắt. Hệt như người mù cởi ngựa đui đi trật đường, mà tự mình chẳng hay biết. Gia đình, quyến thuộc (là chỗ ràng buộc) nhưng họ cho rằng đó là chỗ ân ái thân thiết. Do đó họ không thể nhìn thủng, buông xả. Thật ra thế giới này thật là chỗ vô cùng thống khổ.

    Do sát sinh nên oán khí kết tụ, tràn đầy vũ trụ, rồi dẫn tới đủ thứ tai nạn. Nếu người ta không sát sinh mà phóng sinh, không ăn thịt bất kỳ chúng sinh nào thì những tư tưởng bạo lực ác ôn sẽ tiêu trừ. Vì sao có những người hung tợn, bạo động, dữ dằn? Là bởi do họ ăn thịt. Ăn thịt làm tăng thêm dục vọng, tăng thêm tánh nóng nảy, không còn chút từ bi.
    Giới luật là sinh mạng của người tu hành.

    Mình tu thì phải dốc thân thực hành, dựa vào công phu chân thật. Ðừng nên tìm danh, kiếm lợi. Cũng chớ tự mình quảng cáo. Mình phải học tinh thần hộ trì đạo tràng, giáo hóa chúng sinh của bốn vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Ðịa Tạng.

    Trong đạo Phật, thường nghe đến câu: Bần tăng! Bần tăng (thầy nghèo)! Chẳng hề có: Phú tăng! Phú tăng (thầy giàu)!

    Tại sao có người ngủ gật lúc ngồi thiền? Tại tâm cầu pháp không chân thật. Nếu thật có chân tâm cầu đạo, thì tuyệt đối bạn không thể ngủ gật.
    Nếu bạn có thể sửa đổi thói quen ăn, mặc, ngủ nghỉ, làm việc thì bạn mới là vô tâm đạo nhân.

    Cả nhân loại trên thế giới ai cũng có đau khổ. Nhưng phải cần có một vị đại trí huệ tới thức tỉnh, nhắc nhở mỗi người sự đau khổ ấy. Từ đó mỗi người mới biết tìm cầu sự khoái lạc chân chính.
    Người trên đời nhận lầm cái khổ làm niềm vui.

    Ở nhà thì có một chiến tranh nho nhỏ. Trong nước thì chiến tranh lớn hơn. Trên thế giới thì là đại chiến. Mình phải dẹp tan tranh chấp nhỏ trước hết. Rồi sau, trừ đi cuộc chiến lớn hơn. Khi đó tự nhiên đại chiến sẽ chẳng phát sinh.

    Tất cả chúng sinh là người trong cùng một gia đình với mình. Vũ trụ là thân thể. Hư không là trường đại học. Tên của ta thì vô hình tướng. Công năng của ta là lòng từ bi hỉ xả.

    Phật giáo không hề có pháp làm phát tài.

    Vì sao không khí bây giờ bị ô nhiễm? Vì đa số người ta không biết tu hành, không biết cách làm không khí trong sạch nên nó càng ngày càng ô trược.
    Người tu có thể dùng phương pháp điện liệu để làm không khí hết độc, hết ô nhiễm.

    Phương pháp này là gì? Là tỉnh tọa. Từ trong tỉnh tọa bạn có thể phóng ra ánh sáng trí huệ. Ánh sáng trí huệ này chính là điện liệu. Nó có công năng tẩy trùng, làm cho không khí hỗn trược trở nên thanh khiết. Ðây gọi là điện liệu bịnh độc của thế giới.

    Vì sao Phật muốn độ chúng sinh? Bởi vì ngài thấy: Tất cả người nam là cha của ta, tất cả người nữ là mẹ của ta. Bởi vì cha mẹ của ngài ở trong lục đạo luân hồi chịu khổ do đó bất luận thế nào ngài cũng phải độ họ, với hy vọng rằng họ sẽ được ly khổ đắc lạc.

    Ða số người ta chỉ biết làm ăn nhỏ, chẳng biết làm ăn lớn. Vì sao? Bởi vì họ không có đủ hai thứ: Một, vốn liếng thiện căn không đủ; hai, kinh nghiệm trí huệ không đủ. Do đó họ không thể làm lớn, phát triển mạnh. Thế nào là chuyện làm ăn lớn? Tức là chuyện lớn xuất ly sinh tử luân hồi trong tam giới.

    Vọng tưởng thì như biển cả, vốn xưa nay gió im sóng lặng. Nhưng một khi gió nổi thì sóng khởi. Sóng là do gió dấy lên. Nghĩa là khi gió nghiệp dừng thổi thì biển vọng tưởng sẽ im lặng. Làm sao để gió nghiệp dừng lặng? Ðừng tạo nghiệp ác. Rằng: Không làm những chuyện ác, làm toàn những việc thiện.

    Nếu bạn còn thích đẹp đẻ, xinh xắn, mỹ quan thì hẳn thói quen (ham sắc) chưa trừ.
    Nếu bạn còn thích ăn ngon, thích mùi vị thì thói quen (ham ăn) chưa trừ.
    Nếu bạn còn thích trú ngụ chỗ sung sướng, ngủ chỗ êm ái, thì thói (thích hưởng thụ) chưa trừ.

    Các bạn nên biết: Chùa chiền nào xây ra, trãi qua một thời gian, cũng sẽ hoại diệt. Tháp miếu trãi qua nạn lửa rồi cũng bị thiêu hủy. Chỉ có tỉnh tọa (ngồi yên lặng tu hành) - nghĩa là tu hành thành tựu Phật Pháp Tăng, Tam Bảo của tự tánh - tới mức đạt được công đức vô lậu, thì đó mới là thứ vĩnh viễn thường trụ. Lúc ấy bạn không sợ bị mưa gió, lửa đốt, bảo táp nữa. Do đó công đức vô tướng (do tu hành với định lực mà không chấp ngã) thì thù thắng hơn công đức hữu tướng (do làm phước với tâm tán loạn, và với sự chấp ngã).

    Nổi nóng, bực dọc trong lòng mà không dám nói ra, đó là một biểu hiện của sự sân giận.

    Người tu nên dùng đức hạnh để cảm hóa kẻ khác. Không nên dùng thế lực đàn áp người ta. Ðối với ai mình cũng nên nói lời nhã nhặn, đầy đạo lý khiến họ tâm phục, khẩu phục.
    Khi quản lý việc ăn uống của đại chúng, người phụ trách phải biết điều hòa việc ăn uống thì mới tạo công đức. Nếu không biết điều hòa cho hợp lý, tùy tiện cẩu thả thì sẽ tạo tội nghiệp. Hợp với phép tắc thì có công; không hợp phép tắc thì có lỗi. Cẩn thận không phí phạm thực phẩm thì có công. Phung phí thực phẩm thì có lỗi.
    Trung đạo thì không có vui, buồn, giận, sợ, yêu, ghét, dục vọng. Nếu trong bảy thứ tình cảm trên mà chẳng dậy sóng, thì bên trong lòng bạn sẽ chẳng có vọng tưởng, bên ngoài cũng chẳng tham cầu truy đuổi. Khi trong ngoài thân tâm đều thanh tịnh thì đó chính là cảnh giới của tánh định.

    Bảy thứ tình cảm thì hệt như sóng cồn trên biển cả. Nếu sóng dậy ba đào thì thuyền bè ắt lật chìm. Nếu gió ngừng sóng lặng thì thuyền sẽ an bình cập bến. Bởi vậy người tu phải thấu rõ bảy thứ tình cảm ấy. Không phải hiểu ý nghĩa của nó là đủ, mà là phải có năng lực khống chế sự dẫn dụ của nó, điều phục không để chúng tác quái. Nếu không bị bảy thứ tình cảm ấy làm lòng rung động thì mới gọi là tánh định.

    Khi việc tới thì mình ứng tiếp nó, nhưng không có chút tâm phan duyên mới được. (Tâm phan duyên là tâm leo trèo như khỉ, so đo, tính toán ích kỷ; luôn tìm kiếm lợi lộc, tìm kiếm móc nối, không ngừng suy nghĩ kế sách cho mình, vì mình).

    Khi việc xong rồi thì chẳng lưu dấu tích gì trong tâm, để lòng trong sạch. Mình nên thấu rõ rằng ba tâm thái về quá khứ, hiện tại và tương lai đều không thể giữ được. Sau khi thấu hiểu rồi mình hãy theo đó mà tu trì thì mới thật sự hiểu Phật pháp.

    Ðiều tối kỵ trong lúc tu học là có đầu mà không có đuôi, đi nửa đường rồi bỏ dỡ. Như vậy thì công phu đã làm sẽ bỏ ngang, không thể tiến bước về phía trước. Rốt cuộc sẽ chẳng cách gì tới được kho tàng quý báu.
    Bạn nên nhớ: Làm gì cũng phải có đầu có đuôi. Không nên bị ngoại cảnh làm động tâm khiến bạn thối thất chí nguyện. Bạn phải lập chí nguyện chắc như đá, vững như đồng, không để nghịch cảnh làm rung động, quên mất tâm bồ đề.

    Người học Phật thì nên tin nhân quả vì nhân quả thì không sai một mảy may. Không nên lầm lẫn trong quá trình gieo nhân, gặt quả; cũng không nên hủy báng rằng chẳng có nhân quả. Mình nên hiểu: Nhân quả là định luật ngàn đời bất biến.

    Những người cùng trú ngụ trong chùa Vạn Phật thì phải tôn kính lẫn nhau. Không nên thúc thủ bàng quan thờ ơ với mệnh hệ của kẻ khác. Mình nên học tinh thần của chư Bồ Tát: Khi các ngài thấy chúng sinh thọ khổ trong chốn lửa bỏng, nước dìm, các ngài cảm giác như chính các ngài thọ khổ vậy. Do đó các ngài mới tìm cách để chúng sinh ra khỏi biển khổ.
    Mình biết một chút thì tu một chút. Cứ tích tiểu thành đại, tụ cát thành tháp, khi công phu đủ thì sẽ thành tựu.

    Mình không nên bỏ lỡ thời gian cơ hội quý báu, không nên cô phụ lòng kỳ vọng của thầy bạn: Hãy dũng mãnh tinh tấn tu đạo vô thượng, sớm thành Phật đạo.
    Lập công (làm việc có lợi có ích cho chúng sinh trong đường đạo), lập ngôn (viết lách, giáo dục, đóng góp vào sự hiểu biết và phát triển trí huệ của thế hệ mai sau) trong phật giáo thì mới chân chính là người con Phật.

    Từ nơi cảnh mê mà biết trở về, đó là giác ngộ.

    Người tu tuyệt đối không được nổi lửa giận trong tim gan. Phải nhẫn nhục; vì rằng: Lửa vô minh thiêu sạch rừng công đức. Các bạn xin hãy nhớ điểm này.
    Chư Phật Bồ Tát có lòng: Thi ân không cầu đền đáp, bố thí không hề hối hận. Các ngài có lòng hiền từ đối với kẻ chẳng có duyên, lòng đại bi xem người như mình. Do sự tu hành như vậy nên các ngài mới hoạch được trí huệ siêu việt, thần thông khó lường.

    Ai cũng biết sống trong Tam giới thì không bình an, giống như ở trong ngôi nhà lửa. Nhưng không ai chịu buông bỏ Tam Giới. Biết rõ rằng ngôi nhà lửa Tam Giới thì đau khổ vạn phần, nhưng vẫn cứ muốn lưu luyến ở mãi trong đó, chẳng chút kinh sợ, chẳng chút hốt hoảng.

    Lại còn nhởn nhơ cho rằng vui sướng lắm vậy.
    Bất luận là ở nơi nào mình cũng nên cúng dường Tam Bảo. Chẳng nên tìm lỗi của Tam Bảo, với thái độ vạch lông tìm vết. Thái độ tìm kiếm lỗi lầm là thái độ cống cao ngã mạn, không phải là thái độ bảo vệ Tam Bảo.

    Suốt ngày sáu căn cứ chạy theo sáu trần, không biết hồi quang chiếu vào bên trong, thì đó gọi là lậu.
    Thế nào là của báu trong nhà? Báu này không phải là châu báu, vàng bạc của thế gian đâu. Tức là chân tâm thường trụ, hay Như Lai Tạng, tánh giác ngộ sáng chói mầu nhiệm.

    Người đời thì cả ngày cạnh tranh phấn đấu không ngoài chuyện làm tiền, kiếm ăn, áo mặc, chỗ ở, tìm danh lợi. Ai cũng bị năm thứ ấy làm cho điên đảo; từ sáng tới tối chẳng có thời gian nghỉ ngơi. Nếu có lúc không lên sở làm việc thì ở nhà lại coi TV, xem xi nê, chơi máy vi tính, đi du ngoạn. Ðủ thứ chuyện để người ta lúc nào cũng bận rộn hoài.
    Các bạn nên biết Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, cũng tức là Phật, Pháp, Tăng và giới luật, cũng chính là giới định huệ. Nếu bạn muốn cung kính Phật pháp tăng thì trước hết hãy cung kính Kinh Lăng Nghiêm.

    Trên trần gian này, tam giáo cửu lưu, ngũ phương bát đức, tất cả những loài hình hài sắc tướng, có hạnh có nghiệp, ai ai cũng muốnmưu sinh không ai muốn mưu tử. Chẳng ai nghĩ tới tương lai mình sẽ chết làm sao. Sống thì giờ đây đang sống rồi, nhưng chết thì sẽ ra sao? Bởi vì không ai nghĩ tới vấn đề này nên mới nói rằng, chẳng có ai mưu tử.

    Làm gì cũng có chừng mực, đừng bao giờ quá cực đoan.
    Công phu khuya và công phu chiều là việc công, không ai ở trong đạo tràng được trốn tránh. Không tham gia các công khóa ấy là khinh thường đạo tràng, khinh khi chư Phật, phương trượng. Nếu khinh khi phương trượng thì bạn không thể trú ngụ trong chùa được.
    Bí quyết của người tu hành: Ăn ít.

    Tu mà không biết sửa đổi lỗi lầm thì cũng như chẳng tu.

    Không thể tùy tiện lấy đồ của chùa đem cho người ngoài. Bạn cho rằng làm như vậy là có công đức, thật sự ra đó chính là ăn cắp đồ vật của tăng-già. Hành vi lấy đồ đạc công cộng, tự ý mình riêng tặng cho người khác vì muốn giao hảo tốt với họ, là hành vi phá hoại quy củ của đạo tràng.

    Phàm lệ, tất cả mọi công đức tạo ra, mình phải nhất định hồi hướng cho chúng sinh trong pháp giới. Nếu không vậy thì mình sẽ trở thành ích kỷ.
    Có Kinh Lăng Nghiêm là có Phật pháp.

    Vì muốn hộ trì Phật pháp, đầu tiên cả mình phải hoằng dương Kinh Lăng Nghiêm. Mình phải học thuộc kinh, biết giảng giải kinh; sau đó theo lý kinh mà tu hành.
    Rớt mất chân tâm thì mình sẽ rơi vào biển khổ, thoát không ra.

    Người xuất gia cần biết rằng: Khi đạo nghiệp chưa thành tựu, chớ nên để cho mắc nợ. Nếu bạn bị mắc nợ thì bạn sẽ bị trói cột, không thể giải thoát. Nhất là những thứ duyên không thanh tịnh, nó sẽ hại bạn khiến bạn rút chân không ra, chẳng thể tự tại được.

    Là người, ai cũng phải trãi qua sinh lão bịnh tử, bốn cái khổ lớn. Bất kỳ người nào cũng phải chịu mấy cái khổ này. Trừ phi bạn tu đạo liễu sinh thoát tử mà thôi.
    Các bạn thiện tri thức! Hãy nhớ tới cái khổ sinh tử, mà phát tâm bồ đề.

    Ðừng nên trôi nổi trong bể khổ nữa. Phàm, ai không muốn rời bể khổ đều là kẻ ngu muội.

    Chuyện gì trên đời cũng đều có quan hệ liên đới. Giống như ba tôn giáo Phật, Lão, Nho thì quan hệ mật thiết với nhau. Nho giáo ví như bậc tiểu học. Ðạo giáo ví như bậc trung học. Phật giáo ví như bậc đại học.

    Chúng sinh nghĩa là do chúng duyên hòa hợp mà sinh ra. Chúng sinh không phải chỉ có loài người mà còn bao gồm tất cả loài có sinh mệnh.
    Trên đời sự việc thật là kỳ cục. Càng không có thì người ta càng tham. Càng có thì lại càng không thể buông bỏ.

    Người có lòng nóng giận là người ngu muội.
    Người giàu có là người không thích chiếm tiện nghi. Người chân chính phú quý thì không thích chiếm thượng phong, lấn át người khác. Kẻ nào thích chiếm thuợng phong thì kẻ ấy mới thật là nghèo nàn.

    Làm người thì thật là nguy hiểm. Làm Phật mới thật bình an. Nếu bạn thích nguy hiểm thì cứ làm việc nguy hiểm. Nếu bạn muốn bình an khoái lạc thì hãy làm việc bình an khoái lạc.
    Lúc bình thường thì mình phải biết niệm Phật, tu pháp môn tịnh độ. Tới khi lâm chung thì mình mới không sinh hoảng hốt, luống cuống, mà sẽ an lạc vãng sinh về cõi Cực Lạc.
    Tới lúc chết thì bất luận là mình giàu tới đâu cũng chẳng thể mua được sự bất tử.

    Khi người ta thọ ngũ giới, thì mỗi giới họ giữ có năm vị thần hộ pháp bảo vệ họ. Nếu bạn không giữ giới thì năm vị thần ấy sẽ chạy mất. Thay vào đó sẽ có năm vị ác thần tới.
    Quay lại tìm đáp án nơi chính mình tức là chân thật chấp nhận rằng mình sai lầm, không bàn luận gì tới lỗi lầm của người khác.

    Có những người tiền kiếp đã tạo ra rất nhiều sát nghiệp; ví dụ như săn bắn, lưới cá, giết gà, mổ trâu, thọc tiết heo, làm thịt chó. Vì những người ấy tạo sát nghiệp quá nhiều nên kiếp này họ mắc phải đủ thứ bịnh kỳ quái nan y, khó trị.

    Phật pháp không tách rời tâm mỗi người, do đó Phật pháp chính là tâm pháp. Nếu tâm ta không có lòng ích kỷ, vọng tưởng, ngã mạn cuồng loạn, tham vọng dã tâm, thói hư tật xấu, thì đó chính là Phật pháp.

    Tinh tấn: Không có nghĩa rằng khi bạn ăn uống nhiều hơn kẻ khác tức là bạn tinh tấn đâu. Tinh tấn cũng không phải rằng khi làm việc thì bạn làm ít hơn người khác.

    Ðến khi ngủ thì người khác chưa ngủ, bạn đã ngáy; người ta đã thức dậy, mà bạn còn chưa tỉnh. Cũng không phải rằng bạn tinh tấn cầu danh cầu lợi, mà là tinh tấn phát đại bồ đề tâm.

    Con quỷ vô thường chẳng kể người già con nít gì cả: Hễ tới lúc phải dẫn mình đi gặp vua Diêm La thì nó sẽ chẳng khách sáo gì đâu. Có câu rằng: Dương gian chẳng già trẻ, âm gian thường gặp mặt. (Trên đời này, thần chết chẳng nể nang gì kẻ già người trẻ. Ở dưới âm phủ, ai ai cũng thường gặp nó.)

    Nếu bạn thích nghe kinh: Hãy khuyến khích các người khác cùng tới nghe.
    Ði ngược lại lý âm dương của trời đất thì sẽ sinh bịnh nan y bất trị.
    Last edited by hoauudam; 27-10-2018 at 09:45 AM.

  8. #28

    Mặc định

    Pháp Ngữ ​Của Hòa Thượng Tuyên Hóa

    Có tôn giáo chủ trương rằng mọi sự đều do thần chi phối. Nếu do thần chi phối thì làm thiện làm ác chẳng có liên can gì tới mình. Nhưng tới khi chịu quả báo thì mình phải gánh, thần chẳng giúp gì được. Ðây là chỗ chẳng hợp lý.

    Tâm của chúng sinh thì như cái nút bật đèn: Mở nút thì ánh sáng của Phật chiếu sáng. Tắt đi thì hào quang Phật chẳng thể chiếu rọi.

    Người xuất gia nên cùng nhau ở trong một đại tùng lâm (chùa lớn) để cùng nhau tu đạo, khuyến khích và cảnh tỉnh lẫn nhau. Khi ở đơn độc trong một ngôi nhà (tịnh xá) nhỏ, nếu bạn không dụng công tu hành, cũng chẳng ai kiểm soát. Bạn muốn ăn ngon, cũng chẳng ai nói.

    Bạn muốn ăn thịt, uống rượu, đều chẳng rắc rối gì. Người cư sĩ cho rằng (ở đơn độc) như vậy là công đức lắm, kỳ thật họ chỉ giúp cho những người xuất gia ấy đọa địa ngục mà thôi.

    Thịt gì ăn vào, thịt ấy sẽ duy trì mạng sống của thân bạn. Trải qua thời gian lâu lâu, khí chất thân bạn toàn do khí chất của những thứ thịt ấy làm ra: Nào là khí của heo, khí của bò... Máu của bạn cũng là máu của chúng. Do đó thịt của bạn cũng biến thành thịt của chúng. Xin các bạn có trí huệ hãy suy nghĩ thâm sâu về việc này.

    Chớ nên đi đâu cũng nói lỗi người: Y làm vậy sai, làm kia trật. Làm vậy là bạn trồng nhân đau khổ (sai trái với luật nhân quả) đấy.

    Thử hỏi rằng tâm bồ đề thì ra sao? Tâm ấy vô hình vô tướng, chỉ là sự giác ngộ.
    Các bạn hãy thành thật nghĩ xem: Mọi chuyện rắc rối, phiền não từ đâu ra? Ðều là do chấp trước (dính mắc) vào cái tôi mà ra.

    Người xuất gia cần có nhân cách cao thượng, xuất sắc. Không nên a dua, chạy theo thói đời, ăn no ngồi rồi, làm Phật giáo khí độ trầm trệ u ám, chẳng chút sáng lạn.
    Vì sao người tại gia không được nhận đồ cúng dường? Vì không xuất gia thì bạn không phải là một trong Tam Bảo (chỉ có Tam Bảo thì mới thọ cúng dường). Bạn không thể tự mình sáng lập ra cái bảo thứ tư (Tứ Bảo).

    Nhiều người không hiểu Tam Bảo là gì. Lại còn có cư sĩ muốn lập ra Tứ Bảo. Thế là không phải cư sĩ cúng dường Tam Bảo, mà là Tam Bảo phải cúng dường cư sĩ! Chẳng mấy chốc có lẽ sẽ sản sinh ra Ngũ Bảo, Lục Bảo, Thất Bảo...! Nếu đây không phải là biểu hiện của thời Mạt Pháp thì là gì?

    Không nên sát sinh! Tất cả chúng sinh từ kiếp vô thủy đến nay, đều là cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ta cả. Ðời trước có thể là cha mẹ tạo tội nghiệp nên kiếp này họ đọa làm heo, bò, dê, ngựa... Nếu bạn mặc tình sát hại súc vật, thì gián tiếp giết hại cha mẹ mình rồi đó.

    Hãy thuận theo tự nhiên, theo quy luật sinh lý mà phát triển (vì thiên nhiên rất điều độ, quy củ, hài hòa). Không nên ăn uống bất thường, nói năng loạn xạ. Hoặc uống rượu, hút thuốc, xì ke ma túy, cho tới lạm dụng trong cái nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và suy tư. Những việc ấy đều tổn hại đến thân thể và linh tánh của bạn.

    Khi gặp kẻ nói thị phi, chuyên môn đặt điều, bêu xấu về bạn: Bất luận là oan uổng tới đâu, bạn phải nhẫn nhục. Ðó đều là nợ nghiệp từ kiếp trước, đời này tới đòi. Do đó bạn chẳng thể chống đối không trả. Nợ trả hết rồi thì trời xanh trong vắt, không còn phiền não, hết âu lo.

    Sáu tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối là pháp bảo cắt đứt dục vọng, khiến bạn hoạch đặng trí huệ chân chính.

    Không phải chỉ có ngồi thiền, lạy Phật mới là tu. Ăn uống, mặc áo quần, nhất cử nhất động đều là tu cả.

    Người tu phải: Chỉ biết việc cày cuốc, chớ hỏi chuyện thu hoạch. Bất luận làm gì, cũng phải hết lòng hết sức, đừng suy tính tới kết quả sẽ hưởng được lợi ích gì.
    Nếu suốt ngày bạn không phí phạm lời nói, không nghĩ chuyện vô vị; bạn điều hòa tâm tình khiến cho yên ổn thái nhiên, không buộc trói, không quái ngại, không nhân ngã, không thị phi thì đó không phải là âm nhạc rồi sao?

    Chữ Tự và chữ Ðại hợp lại thành chữ Xú (hôi thối). Bạn mà cao ngạo tự đại thì hôi thối rùm trời, không ai dám tới gần. Ai cũng muốn bịt mũi chạy trốn, không dám gần gũi.

    Lăng Nghiêm đại định không phải do ngồi thiền luyện thành. Trong lúc đi đứng nằm ngồi, nếu bạn không bị cảnh giới bên ngoài làm tâm động, không bị vọng tưởng quấy nhiễu thì đó mới là định.

    Mình không nên sợ nghèo cùng. Nghèo cùng không chướng ngại đạo. Chỉ sợ ma: Ma tức là tà tri tà kiến (kiến giải và cái nhìn sai lầm lệch lạc về chân lý). Hễ có tà tri tà kiến thì tu pháp môn gì cũng sẽ không được tương ưng.

    Nếu tám thứ gió: Khen ngợi, chê bai, đắng cay, ngọt ngào, lợi, suy, hủy nhục, vinh dự làm bạn động tâm thì nền móng tu hành của bạn chưa vững chắc.
    Người trẻ đừng để thứ dơ bẩn ràng buộc.

    Hãy có thái độ: Lạnh tới đâu, cũng hiên ngang ưởn ngực đón gió; đói tới đâu, cũng phây phây gồng bụng tiến bước. Hãy làm ngọn đuốc sáng trong cơn gió dữ, thứ vàng ròng trong ngọn lửa đỏ. Không sợ gì hết.

    Người chuyên tâm học đạo thì bất luận ai thuyết pháp hay dở thế nào, y cũng chú mục ngưng thần, cung kính lắng nghe. Kẻ không chú ý thì sẽ ngủ gật. Ðó là thử thách để đào luyện giữa cái thật và giả.

    (Ðể dành) tài sản cho lớn thì sau này con cháu cũng lớn gan lắm: Chúng chẳng sợ gì cả, mặc tình làm càn cho tới tán gia bại sản, mới ngừng tay. Ðể lại gia sản ít ỏi thì sau này con cháu cũng gan nhỏ: Chuyện gì cũng xong, (không tham vọng) do đó họa cũng ít.

    Sự thành công của người đời là sự thất bại của thánh hiền. Do đó trương mục (nghiệp) của mình phải thanh toán cho rõ ràng. Hãy làm người sáng suốt. Một khi sáng suốt thì vĩnh viễn bạn sẽ sáng suốt. Hãy phá sập cửa sinh tử, nhảy thoát khỏi vòng sinh tử. Ðó mới thật là việc của đấng đại trượng phu.

    Người quân tử tìm đáp án nơi chính mình. Kẻ tiểu nhân thì tìm cầu nơi kẻ khác. Kẻ tiểu nhân lúc nào cũng hướng ngoại.

    Ðời đời kiếp kiếp mình trôi dạt trong biển khổ. Tuy muốn tu hành nhưng mình lại không thể buông xả những thứ rác rưởi. Thủy chung không muốn mình thanh tịnh, sạch bụi bặm. Thật đáng thương xót.

    Giúp người là nguồn cội của khoái lạc hạnh phúc. Nếu bạn thường thường xem việc giúp người cũng quan trọng như giúp mình thì thế giới sẽ rất hòa bình yên ổn.

    Nhiều người làm đồ chay như thịt gà, vịt hay thịt cá, là vì họ chưa quên được mùi vị của thịt thà. Cứ muốn nếm nó. Họ nói rằng ăn thịt giả như vậy để đở thèm, lừa cái khẩu vị. Trong Phật giáo, nhất định phải sửa đổi thói xấu này.

    Nếu không sửa đổi, trãi qua thời gian lâu dài, e chẳng còn người xuất gia nào ăn chay nữa.
    Tôi nghĩ rằng đã ăn chay thì ngay cả tên món ăn cũng không nên đặt tên gà vịt gì đó vào. Tôi hy vọng rằng mỗi người tín đồ Phật giáo cần có con mắt hiểu biết chân lý (trạch pháp nhãn). Mình phải hiểu nhân quả, chớ lầm lẫn trong quá trình gieo nhân, thọ quả.

    Ăn chay thì ăn cho thanh tịnh, đừng nhớ mãi mùi vị thịt. Người ta làm đồ ăn theo hình dáng con chim con cá, (tuy giả), thì chẳng khác gì làm nhục đạo Phật. Người tín đồ không quan sát rõ ràng, tùy tiện cho là được. Căn bản làm vậy là thiếu trí huệ, không có mắt nhận biết chân lý, không thấu suốt nhân quả, chỉ mơ hồ mê muội mà thôi.

    Khi động vật bị giết, trong tâm chúng chất chứa lòng oán độc. Ngay lúc lâm chung, lòng chúng sợ hãi, thù hằn, muốn báo thù. Tâm lý oán độc căm thù ấy sản sinh ra độc tố khiến người ăn thịt nó sẽ ăn độc tố ấy.
    Người ta gặp tai nạn họa hoạn bất ngờ, đều do nói lời loạn xạ (vô trách nhiệm, ác độc, lếu láo...) mà ra.

    Mọi chuyện trên đời đều hết sức vi diệu, nhưng ít người nhận ra. Vì như, bán thuốc giả thì làm ăn khá lắm, còn bán thuốc thiệt thì lại ế ẩm. Vì sao? Bởi vì không mấy người thật sự nhận thức giá trị của thuốc thiệt.

    Nếu mình dịch hết kinh điển ra mọi thứ tiếng, đem Phật pháp tới tâm mỗi người thì đó mới là việc vĩnh cửu.

    Tại sao ở chùa nhỏ thì không tốt? Bởi ở đó, bạn sẽ chẳng có gì ràng buộc. Tha hồ ăn mặc, ngủ nghỉ, đi đứng; rất dễ quên mất việc tu đạo. Mỗi ngày chỉ biết có phan duyên. Thói quen này là đòn phá hoại đạo Phật đến chí mạng.

    Có người nghi: Thiệt có vua Diêm La và quỷ Vô Thường chăng?

    Xem thử bạn có chết hay không? Nếu bạn chẳng chết thì sẽ chẳng có quỷ vô thường. Nếu bạn khẳng định tự tin, cho rằng chẳng thọ quả báo, thì chẳng có vua Diêm La.

    Có định lực thì động tỉnh đều không hai (không có khác biệt). Như lúc trong cảnh động, bạn không bị cảnh ấy chi phối, đó tức là tỉnh. Trong cảnh tỉnh, bạn không bị vọng tưởng quấy nhiễu, đó tức là động.

    Nếu bạn tu sao cho động và tỉnh như nhau, công phu sẽ đúc kết như thành một khối. Lúc ấy cũng không phải là động, cũng chẳng phải là tỉnh, chẳng phải không, chẳng phải có. Ðó chính là trung đạo.

    Mình đừng nên vui thích nghe lời khen ngợi tán thán. Ðừng nên tự mình say sưa, tự quảng cáo mình.

    Nếu bạn biết sám hối, sửa mình thành người mới, biết lỗi lầm mình làm, giải kết tội nghiệp đã tạo thì tội sẽ tiêu trừ hết sạch. Như bịnh mà toát mồ hôi rồi thì bịnh sẽ từ từ thuyên giảm rồi lành hẳn.

    Thời đại này người ta gọi là thời đại thái không. Rốt ráo thế nào là thái không? Thái không nghĩa là nhìn xuyên vạn sự, buông xả mọi thứ, đạt tới tự tại.
    Khi bạn chấp trước vào vật chất, tài sản, thậm chí vào ăn mặc, thì tức là bạn chấp trước vào tài sắc danh thực thùy rồi. Vậy tức không còn là thái không mà là thái hữu! (chữ thái còn có nghĩa là quá, quá mức: Không còn quá không mà là quá có!)

    Tới chỗ bạn chẳng còn gì cả thì bạn mới khôi phục lại bản lai diện mục.

    Vì sao bạn chẳng có trí huệ, thần thông? Bởi vì bạn cứ chạy khắp nơi lượm lặt rác rưởi. Ngọc ngà châu báu bạn chẳng thèm, thứ quý báu sẵn có không ham, lại đem vất đi. Vậy mà bạn vẫn cho rằng mình thông minh lắm! Thật thì ngu si quá vậy.

    Có tội lỗi mà không sửa đổi, lại che dấu nó đi, khiến người không biết: Ðó chính là tội đội thêm tội.

    Không có chú Lăng Nghiêm trên đời thì ma quỷ yêu quái tha hồ thao túng, chẳng chút úy kỵ, mặc tình hoành hành. Nếu còn có chú Lăng Nghiêm thì những thứ bàng môn tả đạo, ly mỵ vọng lượng, sơn yêu thủy quái vẫn còn sợ hãi, không dám công nhiên xuất hiện trên đời.

    Tu nhưng không phát nguyện thì cũng như cây khai hoa nhưng không kết trái. Chẳng thể được.

    Những đều mình gặp và trải qua trong đời đều là do nghiệp lực kiếp trước tạo thành. Nếu muốn sửa đổi vận mạng của mình thì bạn phải làm thật nhiều việc công đức.
    Last edited by hoauudam; 27-10-2018 at 09:36 AM.

  9. #29

    Mặc định

    Pháp Ngữ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa

    Có người nói: Tôi là Phật thiệt! A! Phật thiệt là bạn, vậy Phật giả là ai? Cũng như tổng thống, chẳng bao giờ ngài nói: Tôi là tổng thống thiệt! Nói vậy thì ai là tổng thống giả? Từ đây mà suy ra: hễ nói cái gì thiệt, thì hẳn việc đó có vấn đề.

    Hãy làm mọi việc thiện: tức là bạn hãy tu hạnh thanh tịnh. Không thanh tịnh thì không phải là thiện. Thanh tịnh tức là thiện.

    Bạn cho rằng ăn chay thì ăn trứng cũng được? Cũng được! Chờ tới khi bạn đầu thai làm gà rồi khi đó bạn sẽ hiểu (phận làm gà) chính do ăn trứng gà mà ra.
    Nếu bạn chẳng thể đoạn trừ ái dục thì dù bạn xuất gia tám vạn đại kiếp, bạn cũng chỉ phí thời giờ, tạo tội nghiệp ở trong đạo Phật.

    Cây không gốc thì sẽ khô héo. Người không gốc thì phải chết.

    Bất luận bịnh thống gì cũng do oan nghiệp, chủ nợ tới đòi nợ. Bịnh là sao? Bịnh cũng là cách thuyết pháp, giúp người ta biết thân thể này là khổ, sinh lão bịnh tử là khổ. Lúc nào nó cũng có thể tìm đến bạn. Nó sẽ đánh điện tín, điện thoại hay gởi thư tới nhắn nhủ bạn (dưới hình thức là bịnh khổ). Chẳng những bạn có thể bị bịnh, mai này sẽ phải chết.

    Có sinh ra thì phải già đi, sinh bịnh rồi phải chết. Quá trình ấy dạy mình phải biết cái khổ của chuỗi sinh lão bịnh tử, để mình chuẩn bị làm sao giải thoát, không bị khí số ràng buộc.

    Do đó vô luận là có bịnh gì, bạn cũng phải phát tâm bồ đề, sinh lòng giác ngộ, xem mọi thứ là vô thường, đau khổ, chân không và vô ngã. Làm được vậy thì bịnh cũng là chuyện tốt.

    Người biết Phật pháp thì không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

    Những thứ như ngũ nhãn, lục thông, v.v... đều là thứ thừa thải, tu mà cầu những thứ đó thì cũng tựa như leo cây để tìm cá.

    Các bạn nếu học thuộc lòng nhuần nhuyễn Kinh Lăng Nghiêm, thì nhất định sẽ khai phát đại trí huệ, hoạch được biện tài vô ngại.

    Trong thời Mạt Pháp, người bạch y công nhiên nhận đồ cúng dường, hoằng dương Phật pháp. Bạch y tức là người tại gia. Họ công nhiên tụng đám cho người, làm lễ siêu độ, giảng quẻ xăm. Họ lợi dụng Phật giáo để kiếm cơm ăn, áo mặc.

    Quỷ thì chỉ ăn cái tánh của đồ cúng; chúng chẳng cần tiền bạc, thực phẩm. Nếu có tiền, bạn nên làm chút chuyện công đức rồi hồi hướng cho các vong hồn. Nếu bạn mua những thứ xe hơi giấy, tiền giấy, tàu bay giấy, nhà giấy.... để đốt cúng thì thật là mê muội tới cực điểm.

    Ðốt tiền giấy thành tro rồi thì bạn làm sao biết nó có hiệu quả gì chớ? Nếu nói đốt rồi vẫn có hiệu quả (tức là người chết có thể dùng được tiền do bạn đốt), thế thì người tây phương chẳng được bà con đốt tiền giấy cho họ, phải chăng họ đều trở thành những con quỷ nghèo mạt?

    Phải chăng: Tây phương không quỷ nghèo, đông phương không thần giàu!

    Trọn đời, tôi không muốn đi tụng đám, phóng diệm khẩu, làm pháp hội Thủy Lục, là bởi vì tôi chẳng có đức hạnh. Ðạo không đủ để cảm hóa người, đức không đủ để dạy dỗ ai. Tự mình chưa siêu độ được mình thì làm sao siêu độ được vong hồn. Ðó là lý do tôi không có gan làm những chuyện ấy.

    Pháp môn niệm Phật: người già vì năm tháng chẳng là bao, nên tốt nhất là niệm Phật. Người trẻ, vì đời còn dài nên cũng thích hợp để tu niệm Phật. Người trung niên, sau khi đã kinh nghiệm rõ ràng mọi chuyện trên đời rồi, cũng nên niệm Phật.

    Kẻ bịnh, không biết bao giờ sẽ chết, cần gấp niệm Phật. Lúc không bịnh, lợi dụng khi thân thể còn khỏe, tốt nhất là niệm Phật.

    Mỗi người đều nên chính tâm tu thân. Chính tâm tức là không nghĩ loạn, nghĩ tạp nhạp lăng xăng, tưởng những chuyện không chính đáng. Tâm chính thì quỷ chẳng tới tìm bạn. Ví như cái bát đồ ăn của con mèo đầy dẫy ruồi bu. Ðó là bởi đồ ăn quá dơ dáy.

    Nếu không có cái bát ấy thì ruồi nhặng chẳng bay tới. Nếu tâm bạn như thế nào thì sẽ chiêu cảm thứ tương tự tới. Không phải quỷ từ ngoài tới, mà do trong tâm (tạp nhiễm của bạn) mời tới.

    Không gặp ma, làm sao nhìn thủng hồng trần? Không chịu khổ, làm sao quyết chí chân tu? Không nên để trí óc thông minh lừa mình, cho rằng cái gì mình cũng biết. Kỳ thật mình chẳng biết gì. Khi cảnh giới tới thì mình bị nó lay chuyển đến độ luống cuống cả tay chân!

    Sau khi thọ giới rồi, bạn hãy nhất định làm sứ giả cho nhà Phật, làm đội ngũ của đạo Phật, làm vị đại tướng quân, đại anh hùng, đại hào kiệt trong Phật giáo. Không nên cẩu thả, tùy tiện, cứ theo thói hư tật xấu, ngày ngày đùa giỡn nhởn nhơ, chẳng có vẻ gì là kẻ vừa thọ giới cả.

    Không nên tán loạn: Gặp ai cũng rào đón xã giao, mà tự mình chẳng chút dụng công tu hành. Bạn phải biết làm sao tu: Nói nhiều quá không tốt. Kẻ phú quý không nói nhiều. Nói nhiều thì nhân cách thấp hèn. Thấp hèn thì không có giá trị. Người quý lời nói chậm, là vậy.

    Trong phạm vi của luật nhân quả thì phạm tội tà dâm là nghiêm trọng nhất. Sự trừng phạt còn ghê gớm nữa: Một người lúc sống phạm giới tà dâm bao nhiêu lần, thì khi chết sẽ bị một cái cưa lớn cưa thân người ấy từ đầu xuống chân bấy nhiêu lần. Sinh tiền kết hôn một trăm lần thì chết rồi bị cưa một trăm lần.

    Bởi vì mình chẳng thể nhìn xuyên suốt, không thể buông xả, do đó trong pháp hữu vi, pháp vô vi, thứ có tướng, thứ không tướng, mình bị ràng buộc rối rắm. Lúc ấy vì chẳng thể nhận thức rõ ràng (cảnh giới, hay kinh nghiệm trước mắt, hay chân lý bất biến) nên mình cứ dật dờ (như lết chân lội bùn). Trong vòng lục đạo luân hồi, cứ mãi tiếp tục sinh tử.

    Ðọc Kinh Lăng Nghiêm là để khai trí huệ. Ðọc Kinh Pháp Hoa là để thành Phật.

    Nên nói: Khai huệ là Lăng Nghiêm; thành Phật là Pháp Hoa. Kinh Hoa Nghiêm thì quy nguyên: Trở về gốc. Ai ai cũng từ trong pháp giới này lưu xuất; ai ai cũng sẽ trở về với pháp giới.

    Các bạn nên tuyển lựa một bộ kinh mà các bạn cảm thấy vui thích nhất thì nó mới khế cơ (hợp với căn cơ bạn). Ðã có pháp khế cơ rồi , bạn hãy nghiên cứu nó, không nên ngày ngày cứ lo làm tiền, quên mất Phật pháp.

    Việc lớn trong đời mình: Quy y Tam Bảo.

    Quy y Tam Bảo thì dựa vào hai chữ chân thành. Không chân thành, bạn sẽ làm cho có lệ, cẩu thả vô trách nhiệm, chẳng có cảm ứng gì .

    Mỗi sáng khi ngủ dậy, bạn hãy đối diện với Phật phát bốn điều thệ nguyện. Bốn lời nguyện này Bồ Tát nào cũng phát.

    Mỗi đêm bạn hãy kiểm thảo, tự hỏi xem: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, mình đã độ ai chưa? Nếu chưa, hãy ráng độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, mình đã đoạn chưa? Nếu chưa, phải đoạn nó đi. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, mình đã học chưa?

    Nếu chưa, hãy tìm thời gian rỗi rảnh giữa lúc bận bịu công việc để đọc chút kinh điển, xem sách Phật dạy. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành,mình hiện tại là phàm phu, chưa thành Phật, phải mau tu hành thì mới thành Phật được.

    Người học Phật không nên chạy rong. Suốt đời cứ chạy cùng hết chùa này đến chùa khác, mà rốt cuộc chẳng chút sở đắc: Không biết giảng kinh, không biết niệm Phật, cũng chẳng biết lễ sám.

    Tìm cầu bái phỏng một vị thiện tri thức: Ngay trong giới xuất gia cũng rắn rồng lẫn lộn, không phân rõ ràng. Bạn đi lộn vào chốn bàng môn tả đạo thì thật nguy hại. Nếu đi lầm lẫn vào chỗ kẻ tà sư thuyết pháp thì nguy hại càng lớn hơn nữa.

    Ở trong chùa, bạn nên nói chuyện liên hệ đến phật lý, đến tu hành. Ðừng nên nói người này thế này, người nọ thế kia, toàn chuyện thị phi. Càng nói thì bạn càng đọa lạc. Càng đọa lạc thì càng khó tu học Phật pháp.

    Vì sao bạn trì chú mà quên hoài? Vì bạn quá tán loạn. Vì sao tụng kinh mà không nhớ? Vì bạn quá tán loạn.
    Biết lắng nghe thì dù tôi có chửi bới người ta, bạn cũng nghe thành diệu pháp.

    Dù tôi có đánh người ta, bạn cũng cho rằng đó là pháp thức tỉnh họ thật đúng lúc. Không biết lắng nghe, thì tôi có dùng cách gì gia trì bạn, giúp đỡ bạn, bạn cũng cảm thấy vô nghĩa, vô lý.

    Muốn tôi lên trời: chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất.

    Muốn tôi độn thổ: chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất.


    Muốn gà trống đẻ trứng: chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất.

    Bạn cho rằng được người ta dập đầu đảnh lễ là mình ngon lành lắm sao? Bạn hãy tự hỏi mình có đạo đức gì? Có trí huệ chăng? Có xứng đáng để người ta cung kính chăng?
    Ðáng để người ta sùng bái chăng? Bạn hãy thường hồi quang phản chiếu như vậy.

    Cúng dường người xuất gia, bạn cần có con mắt biết chân lý (trạch pháp nhãn). Nên cúng dường người tu hành thanh tịnh.

    Phật thuyết tam tạng, mười hai loại kinh điển, đều không ngoài mục đích phá bỏ chấp trước của người ta. Song le mình không chịu nghe lời Phật dạy, lại làm kẻ phản đồ: chấp trước mãi cái TÔI.

    Lúc tôi tới, chẳng có gì. Lúc ra đi, tôi cũng chẳng muốn gì. Tôi chẳng muốn lưu lại dấu vết gì trên trần gian. Tôi từ hư không tới, sẽ về với hư không.

  10. #30

    Mặc định

    Một sinh viên: “….Khi ăn một tô cơm, thì đã lấy đi sinh mạng của tất cả các hạt cơm, trong khi ăn thịt chỉ lấy sanh mạng của một con vật.”

    Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời:

    "Trên có thể một con vật có hàng trăm ngàn, thật ra là nhiều triệu sinh vật nhỏ nhít. Những sinh vật này là những phần nhỏ của con vật trước đây.

    Linh hồn của con người lúc chết có thể chia chẻ ra thành nhiều con thú vật. Một người có thể trở thành mười con thú vật.

    Bởi vậy thú vật rất ngu si. Linh hồn của thú vật có thể chia chẻ và khi phân chia đến mức nhỏ nhất có thể trở thành một vi sinh thể hay cây cỏ. Những cảm thọ cây cỏ có lúc đó là những gì tách ra từ linh hồn của con vật lúc chết. Mặc dầu sanh mạng của một số lượng lớn cây cỏ có vẻ rất lớn, nhưng không lớn bằng một con vật hay một miếng thịt ăn trong miệng.

    Ví dụ như cơm: hàng chục tỉ hạt cơm không chứa nhiều sanh mạng bằng một miếng thịt. Nếu bạn mở Ngũ nhãn bạn chỉ cần nhìn sơ là biết rõ. Nếu bạn chưa mở Ngũ nhãn, dù người khác có cố gắng giải thích cho bạn thế nào đi nữa, bạn vẫn không hiểu được. Dù có giải thích cách nào đi nữa, bạn vẫn không tin, bởi vì bạn chưa từng là thảo mộc!

    Một ví dụ khác là mấy còn muỗi. Hàng triệu còn muỗi trên núi này có thể đơn giản là linh hồn của một người bị chuyển hoá thành những con muỗi này. Không phải linh hồn một con người chỉ chuyển thành một con muỗi. Một người có thể chuyển thành vô số con muỗi.

    Vào lúc chết thể tánh thay đổi, linh hồn phân tán, và những phần nhỏ nhất trở thành thảo mộc.

    Như vậy có sự khác biệt giữa việc ăn thực vật và ăn loài vật. Hơn nữa, thảo mộc có thọ mạng rất ngắn ngủi. Ví dụ như cỏ, sanh vào mùa xuân và chết trong vòng vài tháng. Loài vật sống lâu hơn. Nếu bạn không giết loài vật, chúng sẽ sống được nhiều năm.

    Cây lúa, dù điều kiện thế nào đi nữa, chỉ sống một thời gian ngắn. Như vậy, nếu bạn thật sự nhìn vào vấn đề, có nhiều yếu tố cần cứu xét, và ngay cả khoa học cũng chưa hiểu hết được.”

    (Buddha Root Farm, 64)

    nguồn tham khảo: https://www.dharmasite.net/BuddhaRootFarm/index_v.htm

  11. #31

    Mặc định

    Niệm Phật Giống Như Gọi Ðiện Thoại HT.Tuyên Hóa

    Nếu mình không gọi điện thoại, đâu ai trả lời.



    Niệm niệm chân thành niệm niệm thông,

    Mặc mặc cảm ứng, mặc mặc trung.

    Trực chỉ sơn cùng thủy tận xứ,

    Tiêu dao Pháp-giới nhậm Tây Ðông.

    Nghĩa là:

    Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt,

    Lặng lặng cảm ứng, lặng trung dung.

    Ðến khi núi mòn sông cạn hết,

    Tiêu diêu Pháp-giới khắp Ðông Tây.

    Không biết quý-vị có liễu ngộ được chân nghĩa của bài kệ vừa rồi hay chăng?

    "Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt," chữ niệm đầu tiên nói lên ý niệm do tâm phát ra. Chữ niệm thứ hai là chỉ ý niệm do miệng thốt ra. Nếu chỉ có ý niệm thứ nhì, tức là ý "niệm" phát ra từ nơi miệng thì không còn là ý niệm chân thành. Cho nên tâm khẩu cần phải chân thành khi niệm danh hiệu Phật Bồ-tát. Chúng ta cần niệm đến chỗ tâm và miệng hợp nhất, một mà không hai. Chúng ta không thể tùy tiện mà niệm, cũng không thể niệm một cách tán loạn, và càng không nên niệm một cách tạp nhạp với nhiều vọng tưởng của mình. Nếu mình làm được như vậy thì mới gọi là chân thành được.

    Có được ý niệm chân thành thì nhất định sẽ được cảm ứng. Cảm ứng đó là gì? Là sự tương thông giữa tâm phàm phu của mình với tâm sáng lạng của chư Phật Bồ-tát. Ðó gọi là:

    Quang quang tương chiếu;

    Khổng khổng tương thông.

    Nghĩa là:

    Ánh sáng này chiếu ánh sáng kia;

    Lỗ lông này thông lỗ lông kia.

    Tại sao có được cảm ứng như vậy? Giống như khi gọi điện thoại, bên này có quay số, bên kia mới trả lời. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, sẽ có lúc Bồ-tát hỏi mình rằng: "Thiện nam tử, thiện nữ nhân, các vị cần điều chi?" Lúc đó mình cầu gì sẽ được nấy. Nếu thiếu thành tâm thì cũng như điện thoại có năm số, mà mình chỉ quay có ba số rồi ngừng tay, làm sao đường dây có thể thông được. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, nếu mình niệm một chốc rồi ngừng lại, đó là thiếu thành tâm. Nhất định không có chuyện cảm thông được.

    Chỉ ai có cảm ứng mới nhận biết sự "quang quang tương chiếu" này. Cũng như khi gọi điện thoại, phải nhấc ống nghe lên mới nghe rõ người bên kia đầu dây. Vì phàm phu không sao thấy được luồng sóng qua lại của điện thoại nên bài kệ nói rằng: "Im lặng cảm ứng, im lặng trung dung."

    Còn nói đến: "Núi mòn, sông cạn hết" là chỗ mà "Bách xích can đầu trùng tiến bộ. Tán thủ thiên không biệt hữu thiên." Nghĩa là: Ðầu sào trăm trượng cứ bước tiếp. Duỗi tay trời sập: một trời mới. ý nói rằng: ở nơi đầu sào trăm trượng, mình buông tay thì ngoài trời kia còn có bầu trời khác. Khi mình niệm đến chỗ sơn cùng thủy tận, thì lúc đó mình niệm mà không niệm bởi vì niệm và mình đã thành một khối. Ðó là lúc mình có thể "Tiêu dao Pháp-giới, nhậm Tây Ðông." Thí dụ khi mình muốn vãng sinh Cực-lạc thế giới thì tức khắc được như ý. Nếu muốn "đảo giá từ hàng," trở lại độ chúng sinh thì mình cũng có thể ứng nghiệm; từ thế giới Cực-lạc mà trở lại thế giới Ta-bà, hoặc đến tất cả Pháp-giới khác. Không chỗ nào mình muốn tới mà chẳng đặng, nên nói rằng "nhậm Ðông Tây" chính là:

    Nhất như ý, nhất thiết như ý.

    Nhất tự tại, nhất thiết tự tại.

    Nghĩa là:

    Một việc như ý, muôn việc như ý,

    Một việc tự tại, muôn việc tự tại.

    Cho nên người học Phật lúc nào cũng phải chân thành. Nếu mình không như vậy tức là hư ngụy, là thứ: "Khai không hoa, bất kết quả" tức là nụ hoa giả có nở ra cũng không sao kết trái được. Học Phật cần nhất là đừng tự dối mình.

    Thêm vào đó, cổ nhân lại có câu: "Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân." Nghĩa rằng người quân tử thì tìm đáp án nơi chính mình, dựa vào năng lực của mình, còn kẻ tiểu nhân thì nương tựa, cầu cạnh kẻ khác. Chúng ta không thể có tâm ỷ lại, phải biết rằng sự cảm ứng là tự mình chiêu cảm lấy, không do nơi khác. Có người nói: "Niệm Phật để được sinh Tịnh-độ; như vậy nhờ Phật mới được tiếp dẫn." Câu nầy có thể đúng nhưng cũng có thể không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì thuyết tiếp dẫn do đối căn cơ mà lập. Ðối với chúng sinh còn đầy lòng tham, luôn hy vọng chỉ dùng ít sức mà hoạch kết quả lớn; hay thích cho vay ít lấy lãi nhiều, thánh nhân do đó phải tùy cơ ứng biến, nói rằng Phật lực tiếp dẫn với mục đích là muốn chúng sinh nổ lực niệm Phật. Kỳ thật kẻ niệm danh hiệu Phật Bồ-tát mà được vãng sinh Tịnh-độ đều hoàn toàn do dựa vào sức lực của chính họ.

    Niệm Phật nào phải do Phật niệm giúp mình đâu! Khi muốn niệm danh hiệu Bồ-tát, có phải là ý niệm đó xuất phát từ Bồ-tát không? Nếu không thì làm sao gọi là nhờ vào tha lực được? Ðây giống như là Phật và Bồ-tát phóng quang gia bị cho mình. Ðó cũng là sự cảm ứng do công đức mình niệm Phật Bồ-tát. Ðem chuyện gọi điện thoại ra ví dụ thêm lần nữa, nếu mình không nhấc điện thoại quay số thì đâu ai có thể tiếp chuyện cùng mình? Niệm Phật cũng đồng đạo lý như vậy.

    Kỳ thật, tâm niệm hy vọng Phật tiếp dẫn mình vãng sinh Tịnh-Ðộ thực ra là tâm tham, tâm ỷ lại, là cái tâm mình không muốn có. Khi tu hành, phải tự dựa vào năng lực của mình, phấn chấn tinh thần, dũng mãnh tinh tấn; phải biết quả báo không phải là kẻ khác mang đến mình. Cho nên niệm Phật không thể nói rằng nhờ Phật lực tiếp dẫn được.

    Cổ nhân có câu: "Tướng tướng bổn vô chủng, nam nhi đương tự cường." Nghĩa rằng các vị tướng không phải sinh ra đã thành, kẻ nam nhi phải tự lực tự cường. Chúng ta học Phật cũng phải có tâm khí như vậy:

    Phật-đà bổn vô chủng,

    Chúng sinh đương tự cường.

    Nghĩa là:

    Ðức Phật không do chủng tộc nào thành,

    Chúng sinh phải tự lực tự cường.

    Nếu không như vậy suốt ngày cứ ỷ lại vào uy lực của Phật thì cũng như là những người con của tỷ phú, ỷ lại nơi di sản của ông cha mình, rồi rốt cuộc tự mình sẽ hại mình mà thôi. Cho nên quý-vị mau mau tỉnh ngộ.

    Hòa Thượng Tuyên Hóa :Giảng ngày 16 tháng 6 năm 1985

  12. #32

    Mặc định

    Niệm Danh Hiệu Bồ-Tát có thể Minh Tâm Kiến Tánh

    Tâm tánh của chúng sinh, luôn luôn quang minh lỗi lạc. Chẳng qua là vì bị vô số tội chướng, vọng niệm, làm cho lu mờ đi thôi.



    Bản tính của chúng sinh thì thích sướng, ghét khổ. Do vô minh che đậy nên chúng sinh không biết cách để đạt tới sự an lạc sung sướng, thoát ra khỏi sự thống khổ. Do đó, tuy rằng miệng luôn nói là truy cầu sự an lạc nhưng, bất hạnh thay, hễ càng tìm kiếm thì càng thêm thống khổ.

    Bồ-tát là người có lòng từ bi quảng đại, đã giác ngộ, biết được làm thế nào để ly khổ, đắc lạc. Vì vậy đối với chúng sinh đau khổ, đáng thương xót, Ngài phát tâm nguyện đại bi rộng lớn, tầm thanh cứu khổ. Nên chúng sinh mình không phải là hoàn toàn tuyệt vọng.

    Chỉ cần mình có lòng thành khẩn, niệm tụng "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ-tát," thì Ngài sẽ dùng pháp lực vô biên để độ thoát, giúp mình ly khổ, đắc lạc. Sự an lạc này là sự an lạc cứu cánh, là sự an lạc ở Tây-phương Cực-lạc. Do vậy, nói rằng niệm danh hiệu Bồ-tát không những được thoát ly khỏi sự thống khổ của thế giới nầy, mà mình còn được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, khi hoa khai kiến Phật, tới được chỗ an lạc thanh tịnh cứu cánh nhất.

    Niệm Bồ-tát có thể ly khổ, có thể làm cho mình liễu ngộ tâm tánh. Phải chăng có một việc quá dễ dàng như vậy? Nhiều chúng sinh còn ngu tối, đặt ra câu hỏi nầy.

    Bồ-tát quả phát tâm muốn làm chuyện tiện nghi cho chúng sinh, nên Ngài mới nói ra pháp môn phương tiện như vậy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chúng sinh, dầu với sự dễ dàng tuyệt đỉnh kia cũng không nhận thức được. Thật đáng tiếc thay!

    Có người lại nói rằng: "Niệm danh hiệu Bồ-tát thì có thể tiêu trừ được tội khổ, đó là điều tôi tin tưởng. Nhưng làm sao niệm Bồ-tát lại có thể làm cho tôi minh tâm, kiến tánh được?" Vài ngày trước, tôi có nói ví dụ về chuyện đánh điện thoại. Bây giờ, lại kể cho quý-vị nghe một ví dụ khác còn đơn giản hơn.

    Ví như có một người bị bịt mắt, chỉ thấy bốn bể tối đen. Người đó đi tới đâu, nếu không đụng phải vào tường thì cũng va vô vách, làm cho sứt đầu bể trán, khổ không thể nói được. Nhưng, tự y lại không biết thế nào để tháo tấm khăn bịt mặt kia ra. May thay, y gặp được một người có lòng từ bi, trông thấy y tội nghiệp như vậy, liền giúp y mở khăn bịt mắt ra. Nhờ đó, từ chỗ không thấy đường, nay hắn ta có thể thấy mọi sự, không còn khổ sở, cũng không phải đi đụng vào tường, vào vách như xưa.

    Ðạo lý niệm Bồ-tát để được minh tâm kiến tánh cũng tương tự như vậy. Chúng sinh, y hệt như người bị bịt mắt kia, xưa nay mắt đâu bị mù, chẳng qua chỉ bị che kín mà thôi. Tâm tánh của chúng sinh cũng như vậy, xưa nay vẫn không mất mát, luôn luôn quang minh lỗi lạc.

    Chẳng qua là vì bị vô số tội chướng, vọng niệm, làm cho lu mờ đi thôi. Bồ-tát cũng giống như người có lòng từ bi kia. Ngài giúp mình giải trừ nghiệp chướng đã che đậy bản tánh quang minh trong tâm mình; để mình có thể phản bổn, hoàn nguyên; khôi phục lại bản lai diện mục.

    Cho nên, mình không thể không niệm danh hiệu Bồ-tát được. Bởi vì, giống như người bị bịt mắt kia, nếu không cầu kẻ khác, không chịu tiếp nhận sự giúp đỡ của kẻ khác, thì đừng nói là vẫn cứ phải đi đụng vào tường, mà còn có khi đi lạc lối, rơi xuống hố thẳm, nguy hại đến tánh mạng nữa.

    Ở đời nầy, số người có tội ác thì nhiều vô kể. Nếu như không cẩn thận, lỡ một mai lạc bước, rơi xuống vực sâu tội lỗi, mất đi thân người, thì muôn vạn kiếp khó mà tìm lại được, mang hận ngàn đời. Các vị cư sĩ! Hãy mau mau tiếp thọ sự khuyên dụ của đức Bồ-tát mà thường xuyên niệm tụng danh hiệu Ngài để được cứu độ ra khỏi chốn biển khổ sanh tử này.

    Giảng ngày 17 thàng 6 năm 1958-HT Tuyên HÓa

  13. #33

    Mặc định

    Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị

    THAM THIỀN CẦN CÓ CON MẮT BIẾT CHỌN PHÁP

    Nếu không nhận thức được pháp môn chân chính, thì có thể đi vào con đường tà đạo.

    Người học Phật-pháp cần phải có Trạch-pháp-nhãn, tức là con mắt biết chọn Pháp; biết cái nào là Pháp, cái nào không phải Pháp; cái nào đen, cái nào trắng, cái nào thiện, cái nào ác. Phải nhớ đừng nhận lầm cái giả là thiệt, đen cho là trắng, trắng cho là đen, hoặc lấy thiện làm ác, lấy ác làm thiện. Ðó đều là điên đảo. Khi mình muốn nhận thức những Pháp như vậy, cần phải có con mắt gọi là Trạch-pháp-nhãn.

    Trước tiên hãy rũ bỏ ngã tướng. Nếu có ngã tướng thì sẽ sinh ra đủ thứ chướng ngại, cũng không có trí huệ nữa. Có ngã tướng thì tự sinh ra tâm ích kỷ, rồi tiếp theo đó sinh ra tâm tư lợi, tâm truy cầu, tâm tham lam. Khi cầu không được, tham không xong, thì lại sinh ra tâm đấu tranh, cùng người tranh cường luận thắng.

    Nếu như không có "ngã tướng", thì có cái gì gọi là "ngã"? Ai là cái ngã? Cái ngã này là ai? Quý-vị suy nghĩ, “tham” nó. Như tham câu "Niệm Phật là Ai?" Câu "Niệm Phật là Ai?" nầy là “tham” chớ không phải để “niệm”. Nếu mình niệm tới niệm lui thì vô ích, mình phải tham nó. Tham thì tựa như lấy cái dùi đục mà dùi; dùi mãi tới lúc nào đâm thủng nó được thì tức là mình triệt ngộ.

    Nhất thời bất minh bạch, nhất thời đô yếu tham;
    Thời thời bất minh bạch, thời thời đô yếu tham.

    Nghĩa là:

    Lúc nào chưa hiểu rõ, lúc đó cần phải tham.
    Mọi lúc chưa hiểu rõ, mọi lúc cần phải tham.

    Tham thiền cũng không phải đoán mò, nếu như mình cứ đoán rằng "Tôi niệm Phật à? Anh niệm Phật? Người đó niệm Phật? Ai niệm Phật?" Ðoán tới đoán lui đều đoán không đúng. Mình cần phải tìm ra "Ai”. Chữ "Ai" nầy chính là Kim-cang-vương Bảo-kiếm, tức là lưỡi kiếm trí huệ. Nếu dùng lưỡi kiếm trí huệ nầy mà chặt đứt hết các vọng tưởng khác, thì trí huệ tự nhiên hiện tiền.

    Nếu không nhận thức, không hiểu rõ pháp-môn tham-thiền, mà cho rằng pháp-môn nầy cũng giống như pháp-môn niệm Phật, nghĩ rằng niệm càng nhiều càng tốt (thay vì tham) thì đó là điều hết sức là sai lầm. Không cần niệm cho nhiều, chỉ cần kéo hơi cho dài, tham cho nhiều, mấy giờ đồng hồ cũng được. Thậm chí tham đến tám vạn đại kiếp cũng không gián đoạn, thì đó mới là chân chính tham thiền.

    Tại sao phải tham câu "Niệm Phật là Ai?" Chữ "Ai" nầy cũng là đã nhiều lời. Nhưng vì chúng ta giống như con khỉ, lúc nào cũng muốn tìm cái nầy cái nọ để làm. Do đó chữ "Ai" để mình đi tìm, thì vọng tưởng mới hết. Nghĩa là dùng chữ "Ai" nầy giống như lấy độc trị độc. Tham thiền tức là quét sạch bụi (vọng tưởng). Khi mình không còn vọng tưởng thì mới đúng là "thời thời thường phất thức". Nghĩa là lúc nào cũng quét sạch. Tại sao cần phải quét bụi? Bởi vì không muốn cho tâm bám đầy bụi, mình muốn "quét sạch tất cả mọi Pháp, xa rời tất cả mọi tướng". Ðó là pháp-môn tham thiền.

    Nếu mình không có con mắt chọn Pháp, không hiểu biết được chân pháp, thì mình không biết thế nào là tham thiền. Không biết tham thiền thì chỉ phí công lao tu tập. Nếu không nhận thức được pháp môn chân chính thì có thể đi vào con đường tà đạo, nên Trạch-pháp-nhãn, con mắt biết chọn pháp, rất quan trọng.

    Giảng tối ngày 4 tháng 12 năm 1982 tại Vạn Phật Thánh Thành-HT Tuyên Hóa

  14. #34

    Mặc định

    Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị

    NGỒI THIỀN CÓ THỂ CHẤM DỨT SANH TỬ

    Vào những năm cuối của triều đại Bắc Tống, Trung Quốc có một vị anh hùng dân tộc tên là Nhạc Phi. Cha ông qua đời khi ông còn thơ ấu. Mẹ ông là một người hiền đức, trí huệ. Cả hai mẹ con nương tựa nhau mà sống. Nhạc Phi được mẹ dạy học và dạy viết. Bởi nhà quá nghèo, không có tiền mua giấy bút và mực nên Nhạc Phi phải tập viết chữ trên cát; thế mà về sau ông nổi tiếng viết chữ đẹp. Ðến lúc trưởng thành thì ông đầu quân. Mẹ ông lúc ấy xăm trên lưng ông bốn chữ "tận trung báo quốc" để nhắc ông phải luôn ghi nhớ chí nguyện lớn lao cứu nước cứu dân.

    Lúc bấy giờ quân Kim xâm lược Bắc Tống, chiếm Biện-kinh (Khai-phong), đày hai vua Hội Tông và Khâm Tông lên miền Bắc. Hội Tông là vua đã thoái vị, có hai người con là Khâm Tông và Khang Vương. Khang Vương lúc ấy đang ở Hàng-châu, liền lên ngôi, đặt tên nước là Nam Tống, tự xưng là Tống Cao Tông, phong Tần Cối làm Tướng-quốc. Ðương thời, các quan văn thì chủ trương hòa giải với quân Kim, nhưng các quan võ thì chủ trương chiến tranh.

    Bấy giờ Nhạc Phi đại thắng quân Kim ở trấn Chu-tiên (rất gần Biện-kinh) và dự định tiến đánh kinh đô quân Kim ở Hoàng-long (tức Kiết-lâm, Nông-an bây giờ). Chẳng may Nhạc Phi bị Tần Cối đố kỵ và dùng mười hai đạo kim bài giả để triệu hồi về kinh thành.

    Nhạc Phi vốn mang tư tưởng "trung quân, ái quốc" nên vâng mệnh vua trở về kinh đô. Lúc tới sông Trường-giang, ngang qua Chùa Kim Sơn, ông đến bái kiến Thiền-sư Ðạo Duyệt. Thiền-sư Ðạo Duyệt khuyên ông đừng trở về kinh thành, hãy ở lại Chùa Kim Sơn (Trấn-giang) xuất gia tu hành thì có thể sẽ tránh được tai nạn. Song, Nhạc Phi vốn đã coi thường sống chết và lại nghĩ rằng bổn phận kẻ làm tướng là phải tuân mệnh vua, không thể cho là "tướng ở ngoài có lúc không phải tuân theo lệnh vua". Do đó ông đã không nghe theo lời khuyên của Thiền-sư Ðạo Duyệt. Lúc chia tay, Thiền-sư tặng ông một bài kệ:

    Tuế để bất túc,
    Cẩn phòng thiên khốc,
    Phụng hạ lưỡng điểm,
    Tương nhân hại độc.

    Dịch là:

    Chưa đến cuối năm,
    Ðề phòng trời khóc,
    Dưới "phụng" hai chấm,
    Hãm hại ngươi đấy!

    Khi Nhạc Phi về tới Hàng-châu, Tần Cối dùng ba chữ "Mạc tu hữu" (bịa đặt) để hạ lịnh bỏ tù hai cha con Nhạc Phi. Gần đến ngày thọ hình, Nhạc Phi mới chợt hiểu thâm ý bài kệ của Thiền-sư Ðạo Duyệt.

    Năm ấy, ngày hai mươi chín tết, trời mưa tầm tả. Nhạc Phi ngồi trong ngục lắng nghe tiếng mưa rơi và chợt vỡ lẽ rằng đại nạn đã kề bên. Lời tiên tri của Thiền-sư Ðạo Duyệt cuối cùng đã ứng nghiệm. "Phụng hạ lưỡng điểm" (dưới chữ "phụng" có thêm hai chấm) tức là chữ "tần", ám chỉ Tần Cối. Quả nhiên Nhạc Phi sau đó bị xử chém tại Phong Ba Ðình.

    Bấy giờ Tần Cối hỏi đao phủ: "Nhạc Phi khi sắp bị chém có nói gì chăng?" Ðao phủ đáp: "Tôi chỉ nghe y nói rằng y hối hận vì không chịu nghe lời Thiền-sư Ðạo Duyệt ở Chùa Kim Sơn nên mới nhận lãnh hậu quả thê thảm này". Nghe vậy, Tần Cối vô cùng tức giận, liền phái Hà Lập tới Chùa Kim Sơn gấp để bắt Thiền-sư Ðạo Duyệt. Song Thiền-sư trong khi nhập Ðịnh một ngày trước đó đã biết được nhân duyên này, nên Ngài đã để lại một bài kệ:

    Hà Lập tự Nam lai,
    Ngã vãng Tây-phương tẩu.
    Nhược phi Phật-pháp đại,
    Khải bất lạc tha thủ.

    Nghĩa là:

    Hà Lập từ Nam đến,
    Ta nhắm Tây-phương đi.
    Phật-pháp nếu không tường,
    Ắt lọt vào tay hắn.

    Chuyện này chứng minh rằng khi công phu Thiền-định của người tu hành đã tới cực điểm thì có thể khống chế được sinh tử, muốn lúc nào vãng sinh cũng được, tự mình điều khiển định mệnh, đó là một điều rất đương nhiên.

    Thuở xưa, các Thiền-sư đều có công phu như vậy, tự do sống chết, toại tâm như ý. Ðời Ðường có vị Thiền-sư tên Ðặng Ẩn Phong, có thể lộn ngược đầu xuống đất mà viên tịch. Gần đây có vị Phật Sống ở Chùa Kim Sơn đứng mà viên tịch. Ðó đều là nhờ có công phu Thiền-định nên họ có thể đến và đi tự do, không bị hạn chế gì cả.

    (Thiền thất tháng 12 năm 1980) HT Tuyên Hóa

  15. #35

    Mặc định

    Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị

    THẾ NÀO LÀ ĐỦ TƯ CÁCH THAM THIỀN

    LỜI NGƯỜI ĐĂNG: Hòa Thượng giảng bài này rất ngắn, tuy vây nhưng qúi Phật tử chớ nên coi thường cho rằng quá ngắn, đọc chưa đã thèm. Chỉ một câu nói của Ngài mà quí vị chịu khó chuyên tâm suy nghĩ, quán tưởng thì hết cả cuộc đời này chắc cũng chưa học được hết những ý chỉ của Ngài muốn dạy chúng ta trên con đường tu Đạo chứ đừng nói là cả bài giảng dài.

    Với tôi, trong bài này chẳng hạn, chỉ một câu "CHỊU KHỔ THÌ HẾT KHỔ, HƯỞNG PHƯỚC THÌ TIÊU PHƯỚC" mà tôi được nghe từ bao nhiêu năm nay cho đến bây giờ, mỗi lần gặp nghịch cảnh tôi thường tạ ơn Ngài đã dạy tôi câu này. Nhờ nó mà tôi bớt phiền não mỗi khi gặp nghịch cảnh, tâm tôi an lạc hơn.

    Trong quá khứ, thân, miệng, ý của mình đã tạo ra biết bao nhiêu là nghiệp báo, thiện nghiệp thì ít mà ác nghiệp thì nhiều. Mà đã tạo ra nghiệp thì tất nhiên phải có ngày thọ nghiệp. Luật nhơn quả không bao giờ sai chạy một mảy may. Hòa thượng Tuyên Hóa có lần dạy: “Quí vị có thể không tin bất kỳ điều gì cũng được nhưng quí vị phải tin có luật Nhơn Quả”. Lời nói của một vị Bồ Tát lúc nào cũng hoàn toàn chân thật, không bao giờ dối gian.

    Như đã nói ở trên, đã tạo ra nghiệp thì tất nhiên phải có ngày thọ nghiệp. Hãy quán tưởng rằng thiện nghiệp mình đã tạo trong quá khứ bây giờ chính là số tiền mình đang có trong ngân hàng, còn ác nghiệp mình đã tạo trong quá khứ bây giờ chính là những món nợ mà mình đã, đang, và sẽ gánh trả.

    Nhà cửa, xe cộ, con cái, tiền bạc của cải, sức khỏe, trí tuệ v.v.. tượng trưng cho tài khoản thiện nghiệp. Đói khổ,bệnh tật, tù tội, nợ nần, si mê v.v… đại diện cho tài khoản ác nghiệp. Cả hai tài khoản này đều là của mình cả, mình phải chịu trách nhiệm và không thể trốn chạy được bởi nó nằm trong luật nhơn quả rồi.

    Hiện tại trong tài khoản thiện nghiệp thì ít mà tài khoản bên ác nghiệp thì nhiều vô số kể. Để có một cuộc sống an lạc thì mình phải cố gắng làm thế nào cho tài khoản bên thiện nghiệp càng ngày càng nhiều lên và bên ác nghiệp càng ngày càng giảm xuống.

    Lời Ngài dạy thật hết sức rõ ràng: "CHỊU KHỔ THÌ HẾT KHỔ, HƯỞNG PHƯỚC THÌ TIÊU PHƯỚC". Nếu mình không lo tích lũy phước báo mà cứ thẳng tay “hưởng phước” thì không sớm thì muộn ngân hàng phước báo của mình sẽ cạn sạch và mình sẽ lâm vào cảnh đói khổ, bệnh tật, tù tội. Ngược lại, nếu mình “chịu khổ” can đảm trả những ác nghiệp mình đã lỡ tạo thì từ từ tài khoản nợ nần sẽ giảm dần.

    Do đó, mỗi khi gặp nghịch cảnh tôi luôn nhớ lời Ngài dạy, và ý thức được rằng tôi đang làm vơi đi nợ nần trong tài khoản “ác nghiệp”, xem như vừa trả được một món nợ, tuy hơi chật vật nhưng khi trả xong thấy đôi vai nhẹ đi một chút, và nhờ đó mà tôi cảm thấy bớt phiền não và tâm thấy an lạc.

    Khi mọi việc lắng đọng tôi thường tự nghĩ: nhờ đâu mà bây giờ tôi ít phiền não và thường cảm thấy an lạc như vậy? Câu trả lời là trí huệ tôi sáng hơn trước kia một chút, bóng tối si mê đã tan đi một chút. Nhưng nhờ đâu mà tôi xóa tan bóng tối si mê và có chút trí tuệ đó? Đó là nhờ sự chỉ dạy của bậc thiện tri thức, những lời dạy của một vị Bồ Tát hóa thân.

    Quí Phật tử, quí vị cũng như tôi thôi, chúng ta là những chúng sanh chưa có nhiều thiện duyên để xuất gia tu học nhưng cũng có chút ít thiện duyên để được nghe lời chỉ dạy của bậc thiện tri thức. May mắn lắm mới được nghe, được đọc những lời chỉ dạy của chư Phật, chư Bồ Tát. Vì thế khi gặp thiện duyên như thế này thì nên đọc, đọc đi đọc lại nhiều lần, nghiền ngẫm để tìm cho ra cái chân lý ẫn khuất sau lời nói rồi theo đó mà tu hành để từng ngày từng ngày làm cho tài khoản ngân hàng phước báo của mình càng lớn lên và tài khoản bên ác báo càng ngày càng nhỏ lại. Được như vậy là mình đã đi đúng đường, không phụ lòng xuất thân thị hiện đến cõi giới ta bà này để cứu độ chúng sanh của các ngài.

    Để kết luận, bài giảng dù dài hay ngắn đều hàm chứa muôn ngàn vạn bài pháp ở trong đó. Quí vị không đọc hay đọc kiểu “đọc thoáng cho vui” thì chẳng khác gì thấy của quí mà không biết lấy để dùng . Nếu như vậy rõ ràng quí vị chẳng có chút thiện duyên nào cả.

    Bài này tuy ngắn mà nay trở thành dài rồi đó, âu đó cũng là một cái duyên. Chúc quí vị thường tinh tấn và chóng thành đạo quả.

    Nam Mô Thượng Sư Tuyên Hóa Bồ Tát Ma Ha Tát.

    ****************************************


    Phàm làm bất cứ một công trình gì, cũng phải trải qua một giai đoạn tôi luyện mới tới được thành công. Pháp môn tham thiền còn khó hơn nữa. Thiền giả phải nếm đủ loại tân khổ và tôi luyện, mới tiến bước được.

    Hễ tham gia thiền thất điều quan trọng nhất là phải có tâm nhẫn nại; nhẫn nại làm những công việc mình không ưa thích; nhẫn nại chịu đựng những gì không chịu đựng nổi. Phải có tinh thần như vậy mới đủ tư cách tham thiền, bằng không thì miễn bàn. Thân ở tại Thiền đường mà tâm thì ở nơi khác, dầu tham đến đâu cũng là uổng công, không thành tựu được gì hết.

    Tham thiền là tôi luyện thân này thành chất kim cương, chẳng khi nào bị hoại diệt. Nếu đã nguyện ý tôi luyện thân này thì gặp khổ phải ráng hết sức chịu đựng, bởi có câu: "Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước".

    Ðối với những gì ta hoan hỷ làm thì ta lại càng phải gắng sức hơn nữa, kẻo phụ lại tấm lòng lúc ban sơ đưa ta tới tham gia thiền thất. Về điểm này xin quý vị đặc biệt chú ý!

    theo "Hòa Thượng Tuyên Hóa Ngữ Lục" fanpage

  16. #36

    Mặc định

    Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị

    CẢNH GIỚI THIỀN

    Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng, không có nhân-tướng, không có chúng-sinh-tướng, không có thọ-giả-tướng; cũng là lúc "tâm quá khứ không có, tâm hiện tại không có, tâm vị lai cũng không có". Ðạt tới cảnh giới này chưa phải là đắc được công phu thật sự, cũng chẳng có gì đặc biệt đâu. Dù quý vị ngồi được một giờ, hay ngồi được mười giờ, nhẫn đến ngồi suốt một tháng, mười tháng, đó chẳng qua là công phu của quý vị có được chút ít tương ưng, chỉ mới được chút ít cảnh giới khinh an mà thôi. Trải qua cảnh giới nhẹ nhàng khinh an, cứ tiếp tục tham Thiền thì quý vị sẽ nhập cảnh giới Sơ-Thiền.

    Sơ-ThiềnThiên gọi là "Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa", tức là cảnh giới xa rời những lạc thú của chúng sanh. Tại cảnh giới "Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa này, quý vị rất mau nhập Ðịnh. Trong lúc nhập Ðịnh, hơi thở sẽ ngừng hẳn, không ra không vào, không đi không đến, giống như con rùa tới mùa đông thì rụt đầu vào mu, đình chỉ sự hô hấp bên ngoài, song sự hô hấp ở bên trong vẫn tiếp tục. Ðó là hiện tượng "đông miên". Người tham Thiền, khi nhập Ðịnh thì ngừng thở, nhưng khi xuất Ðịnh thì vẫn hít thở như thường. Quý vị hãy chú ý! Tới cảnh giới này quý vị chớ khởi vọng niệm: "A! Ngừng thở rồi!", khi vọng niệm ấy nảy sinh thì hô hấp sẽ tiếp nối ngay. Do đó không thể thiếu cảnh giác, bằng không quý vị sẽ lỡ mất cơ hội và phải làm lại từ đầu.

    Từ Sơ Thiền, nếu quý vị tinh tấn tu tập thì sẽ nhập Nhị Thiền. Nhị Thiền Thiên gọi là "Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa", tức là trong cảnh giới Ðịnh, niềm hỷ lạc sanh khởi. Nên có câu:

    Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn.

    Nghĩa là:

    Thiền vị là thức ăn, sung mãn niềm vui Pháp.

    Nhập cảnh giới này, chẳng những ngừng thở, mà tim cũng ngừng đập. Mạch tim chỉ ngừng chớ không phải dứt hẳn, nên khi xuất Ðịnh sẽ trở lại bình thường.

    Từ NhịThiền, nếu quý vị tiến tu thì nhập TamThiền. Tam Thiền Thiên gọi là "Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa", nghĩa là xa rời mọi sự hoan lạc thô thiển, chỉ còn niềm vui vi tế, vô cùng vi diệu. Nhập cảnh giới Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa, thì không những hơi thở ngừng, tim hết đập, mà ý niệm cũng dứt hẳn, hệt như một người chết vậy. Lúc ý niệm dứt thì mọi vọng tưởng mông lung cũng dứt.

    Khi hơi thở ngừng lại máu huyết hết dưỡng khí nên sự tuần hoàn cũng đình chỉ, do đó tim cũng không đập, không còn có mạch nữa. Lúc ấy tạp niệm chẳng còn. Giả sử hơi thở là gió, mạch là sóng, mà ý niệm là nước, nếu gió im thì sóng lặng, nước tự nhiên yên tịnh. Ðó chính là đạo lý "gió ngừng, sóng lặng" vậy. Ðây là tác dụng tạm thời lúc nhập Ðịnh chứ không phải là dứt hẳn như khi chết. Lúc nào muốn phục hồi hơi thở hay mạch đập thì chúng lại hoạt động bình thường.

    Từ Tam Thiền mà tinh tấn tu Thiền định thì nhập cảnh giới Tứ Thiền. Tứ Thiền Thiên gọi là "Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa", nghĩa là xả bỏ niềm vui vi diệu của Tam Thiền, tâm niệm thanh tịnh. Hơi thở ngừng, huyết mạch ngừng, ý niệm ngừng; song cảnh giới ấy cũng phải xả bỏ luôn thì lúc đó bản tánh Chân như thanh tịnh mới hiện tiền. Cảnh giới này, quý vị chớ nghĩ lầm là xuất sắc hay đặc biệt, bất quá chỉ là ở cõi Tứ Thiền mà thôi, chưa phải là cảnh giới chứng đắc Ðạo quả. Ðây vẫn còn là địa vị phàm phu, bởi vì dục vọng chưa đoạn tuyệt. Từ cảnh giới này, nếu quý vị tu phép Tà định của ngoại đạo thì sẽ nhập Vô Tưởng Thiên, thọ hưởng cảnh giới vô cùng an lạc. Nhưng nếu quý vị tu phép Chánh-định thì sẽ nhập Ngũ Bất Hoàn Thiên, tức là cảnh giới của bậc chứng quả.

    Nếu chứng được Sơ-quả A-la-hán, tức là quả vị Tu-đà-hoàn, thì không những khi nhập Ðịnh không còn vọng niệm, mà khi đi đứng nằm ngồi đều chẳng có vọng tưởng, chẳng có chấp trước. Ðạt được Sơ quả thì chỉ mới đoạn được tám mươi tám phẩm kiến hoặc (sự mê mờ do cái thấy) trong Tam giới mà thôi. Hãy còn bảy vòng sinh tử nữa, chứ chẳng phải chứng Sơ quả là nhập Niết bàn được đâu. Lúc chứng được Sơ quả, bất luận là gặp cảnh giới gì cũng không bị dao động, "đối cảnh vô tâm" (gặp cảnh, không khởi tâm tưởng), duy chỉ có Ðạo tâm, chuyên nhất tu Thiền. Giả như cảnh giới bên ngoài có trang nghiêm, đẹp đẽ ra sao, như là gái đẹp, trai bảnh, cũng không thể làm cho tâm quý vị dao động. Lúc bấy giờ quý vị cũng chẳng tham tiền, tham sắc, tham danh, tham ăn, hay tham ngủ nữa. Mọi thứ đều không tham thì mới có thể gọi là chứng quả. A-la-hán Sơ-quả đi không gây ra tiếng động bởi vì chân họ cách xa mặt đất ba phân. Vì sao vậy? Vì thánh-nhân đắc quả có lòng từ bi, sợ rằng sẽ đạp chết các côn trùng nhỏ, nên mới đi trong hư không.

    Quý vị hãy chú ý! Không được tự xưng là đã chứng ngộ khi chưa chứng ngộ, hay là đã đắc quả khi chưa đắc quả. Như thế là phạm giới vọng ngữ, tương lai phải đọa địa ngục kéo lưỡi. Tôi phải nói trước cho quý vị rõ, còn tin hay không là tùy ở quý vị. Trong số Phật tử có kẻ chưa khai ngộ mà cứ tự rêu rao là đã khai ngộ, đó là hành vi không thể chấp nhận được. Dù thật quý vị đã khai ngộ, quý vị cũng không nên khoe khoang: "Tôi khai ngộ rồi! Tôi có Ngũ-Nhãn Lục-Thông rồi nè!" Quý vị chớ tự tuyên truyền, tự mình quảng cáo cho mình; vì như thế thật chẳng có ý nghĩa gì cả.

    Ngay cả Phật và Bồ-tát, các Ngài cũng không tự tuyên truyền, tự quảng cáo. Nếu có ai biết vị này là Bồ-tát hay vị kia là Phật hóa thân thị hiện ở thế gian, thì các Ngài liền biến mất.

    Ðời Ðường có hai vị Ðại-sư, một vị là Hàn Sơn, một vị là Thập Ðắc. Hàn Sơn là hóa thân của Ðức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, còn Thập Ðắc là hóa thân của Ðức Phổ Hiền Bồ-tát. Cả hai ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc vốn là quý vị đồng tu rất thân với nhau. Ngài Thập Ðắc khi còn thơ ấu được Phương-trượng Phong Can đem về Chùa Quốc Thanh nuôi nấng và dạy bảo. Ngài Thập Ðắc chuyên việc nấu nước trong nhà trù và mỗi ngày góp nhặt đồ ăn thừa cho vào ống trúc đem cúng dường ngài Hàn Sơn. Ngài Hàn Sơn thì ngụ ở động Nguyệt-quang trên núi Thiên-thai, mỗi ngày tới Chùa Quốc Thanh nhận đồ thừa để ăn. Hai ngài tâm đồng ý hiệp, thường cười đùa bỡn cợt với nhau, nên cả chùa ai cũng cho các ngài là hai người điên, chẳng ai đếm xỉa gì đến họ cả. Không ai biết rằng hai ngài là Bồ-tát hóa thân, du hý ở nhân gian để cứu độ những chúng sanh cần được độ.

    Một hôm, quan Thái-thú Lã Khưu Yên tới gặp Hòa-thượng Phong Can và hỏi rằng: "Thưa Thiền-sư, trong quá khứ chư Phật và Bồ-tát thường hóa thân tới thế giới này, vậy thời nay chư Phật và Bồ-tát có còn hóa thân tới cõi này nữa hay không?"

    Ngài Phong Can đáp: "Có chớ! Bất quá ngài không nhận ra mà thôi. Bây giờ tại Chùa Quốc Thanh núi Thiên-thai, vị Thầy chuyên nấu nước ở nhà trù chính là Phổ Hiền Bồ-tát đấy. Thầy có một người bạn là Hàn Sơn, tức là Văn Thù Bồ-tát. Sao ngài nói chẳng có ai?"

    Lã Thái Thú nghe xong rất vui mừng, bèn đi gấp đến Chùa Quốc Thanh để đảnh lễ hai vị Bồ-tát Hàn Sơn và Thập Ðắc. Thầy Tri-khách Chùa Quốc Thanh thấy quan Thái-thú đến viếng thì ân cần tiếp đãi. Nhưng khi nghe vị quan này muốn gặp Hàn Sơn và Thập Ðắc thì ngạc nhiên vô cùng, chẳng biết vì sao ông ta lại muốn gặp hai người điên này. Tuy không hiểu được lý do, Thầy cũng dẫn quan Thái-thú tới nhà trù.

    Bấy giờ đúng lúc hai ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc đang cười nói bô bô như hai kẻ điên khùng khiến ai cũng nực cười. Nhưng Lã Thái Thú vô cùng cung kính đảnh lễ hai Ngài, rồi cũng hết sức cung kính thưa: "Ðệ tử là Lã Khưu Yên xin thỉnh cầu quý Ðại Bồ-tát từ bi dạy bảo cho kẻ mê muội này!"

    Ngài Thập Ðắc hỏi: "Ông làm gì thế?"

    Thái-thú đáp: "Con nghe Hòa-thượng Phong Can dạy rằng hai Ngài là hóa thân của Ðức Văn Thù và Ðức Phổ Hiền. Bởi vậy con đặc biệt tới đây để xin đảnh lễ và khẩn cầu quý Ngài khai thị cho con".

    Ngài Thập Ðắc nghe xong thì vừa thụt lùi vừa nói: "Ngài Phong Can nói nhảm! Ngài Phong Can nói nhảm! Ngài Phong Can là hóa thân của Ðức A Di Ðà, sao không lạy Ngài mà lại tới đây quấy rầy chúng tôi?"

    Nói xong thì chạy ra khỏi chùa, lên tới động Nguyệt-quang núi Thiên-thai rồi, cả hai ngài nhập vào vách đá. Thái-thú thấy vậy vô cùng thất vọng bởi vì hai vị Bồ-tát đã ẩn mình trong vách đá, không ra nữa. Ông ta nghĩ thầm: "Thôi hãy về lạy Ðức Di Ðà vậy!"; nhưng khi y về tới chùa thì mới hay Ngài Phong Can cũng đã viên tịch. Ðúng là "đang diện thác quá" (vuột mất cơ hội trước mắt). Cho nên có câu rằng:

    "Ðối diện với Ðức Quán Thế Âm mà chẳng nhận ra được Ngài"

    Trong Thiền-đường này cũng có Quán Thế Âm Bồ-tát, song tôi không thể tiết lộ cho quý vị biết được, để Ngài khỏi bị quý vị đuổi chạy mất!

    (Thiền thất 12/1980)

    theo "Hòa Thượng Tuyên Hóa Ngữ Lục" fanpage

  17. #37

    Mặc định

    Nhân Duyên Của Tôi Với Hòa Thượng Tuyên Hóa

    Bài viết của bà Rosaline Kang viết tại Tân Gia Ba ngày 21 tháng 11, 2008, đăng trên báo Vajra Bodhi Sea số tháng 4, 2009 trang 36-37



    Vào năm 1978, Hòa Thượng Tuyên Hóa lần đầu tiên đến Kuala Lumpur, Mã Lai Á và cũng vào dịp đó tôi quy y với Ngài. Lúc đó tôi chỉ ở độ tuổi 30 và nói về cuộc sống vật chất thì quá tốt không thể nào tốt hơn được nữa. Tôi kết hôn với một giám đốc quản trị ngân hàng và sống một cuộc sống xa hoa. Nếu cần làm bất cứ việc gì, tôi chỉ việc goị điện thoại cho cô thư ký của chồng tôi và mọi việc sẽ đâu vào đấy. Tôi dành thời gian đi làm đẹp với những kiểu thời trang mới nhất và giao du với giới thượng lưu của xã hội Kuala Lumpur. Chúng tôi luôn có tiệc tùng để tham dự hằng đêm và mỗi bửa đều được thưởng thức những món ăn ngon nhất. Cuộc đời tôi lúc đó chỉ quan tâm đến “năm chất độc” là tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ, những giá trị và sự vật giả tạo mà tôi đã từng cho là thật. Một ngày kia thế giới của tôi sụp đổ khi tôi phát hiện chồng mình phản bội lời thề chung thủy. Tôi đã cố gắng bằng mọi cách để cứu vãn cuộc hôn nhân nhưng cũng vô ích.

    Khi tôi gặp Hòa Thượng vào năm 1978, tôi thổ lộ vấn đề của mình với Ngài và Ngài khuyên tôi nên đi theo con đường Phật pháp và cứ coi như mình là người đã “xuất gia”. Vì đang tìm kiếm một cuộc sống có ý nghĩa hơn cho mình, tôi cân nhắc kỹ lưỡng lời khuyên của Hòa thượng và nghĩ đến Ngài như một vị thiện tri thức của tôi. Cũng từ dạo đó, tôi bắt đằu cuộc hành trình cuả mình bằng từng bước một hướng đến con đường cao quý này. Vào năm 1988, Hòa Thượng và phái đoàn của Ngài đã nghỉ lại bốn đêm tại chung cư của tôi ở Singapore. Chính sau chuyến đi đó, tôi quyết định trở thành người ăn chay trường. Thoạt đầu đó là quyết định rất khó khăn vì tôi biết mình sẽ nhớ đến những thức ăn mà tôi ưa thích. Tuy nhiên, tôi tự hỏi bản thân mình “Làm sao mình là một người đệ tử tốt nếu ngay cả hy sinh một việc nhỏ như thế mà mình không thể làm được?” Tôi đến một ngôi chùa điạ phương và tham dự lễ Sám Tam Thiên Phật trong 3 ngày, và tôi thành tâm cầu nguyện với chư Phật và Bồ Tát giúp cho tôi đạt được mục đích này.

    Trong khoảng thời gian đó, có những người bạn khuyên tôi không nên ăn chay trường. Một người bạn bảo rằng bà ngoại cô ấy cũng đã cố ăn chay nhưng cuối cùng bà ấy đã bị ho nhiều tháng vì ăn như vậy cơ thể bị hàn (mát) quá. Một người bạn khác cũng đã khuyên cản tôi bằng cách nói rằng nếu tôi ăn chay trường thì sẽ không còn ai đưa cô ấy và những người bạn khác thưởng thức các món ăn ngon khi họ đến thăm viếng Singapore. Tuy nhiên tôi cũng không biêt là có những người bạn khác đã cá với nhau là tôi chỉ ăn chay được trong vài tháng mà thôi. Thế rồi họ thật ngạc nhiên khi tôi không chỉ ăn chay trong 3 tháng mà tôi còn trở thành người ăn chay trong suốt 20 năm trời kể từ năm 1988. Tôi rất quyết tâm và không bao giờ bị cám dỗ khi thấy người khác ăn thịt. Nhưng điều tốt đẹp nhất là tôi không hề bị ho hay đau ốm gì cả. Chẳng những vậy, bệnh thiếu máu của tôi trong nhiều năm qua đã được chữa trị từ khi tôi ăn chay trường. Tôi nhận ra trong cuộc đời này không có gì là không thể làm nếu mình hạ quyết tâm và đặc biệt là nếu mình thành tâm với ý nguyện của mình thì Phật Bồ Tát sẽ từ bi giúp đỡ và hướng dẫn .

    Vào năm 1993, tôi đã sẵn sàng thọ Ngũ Giới sau lễ sinh nhật của Hòa Thượng ở chùa Long Beach. Một vài năm sau, tôi ước mong được thọ Bồ Tát Giới. Lúc đó sư cô Hằng Lương trong một chuyến viếng thăm chùa Kim Ngạn (Gold Coast) đã cho biết là chùa Vạn Phật sẽ tổ chức lễ truyền Bồ Tát Giới vào năm 2000. Tôi thật vui sướng và nộp đơn xin tham gia ngay lập tức. Khi tôi đến Vạn Phật Thánh Thành, tôi gặp Thầy Hằng Luật, vị sư trụ trì, và Thầy cho hay tôi là người nộp đơn đầu tiên. Kể từ ấy, tôi không còn hối tiếc gì cả. Sau những năm tháng đó, bây giờ tôi mới nhận ra mình thật may mắn khi có thể phân biệt được cái gì là giả và cái gì là thật. Thấm thoát đã 24 năm kể từ khi chồng tôi ra đi với cuộc sống mới và tôi thì sống một cuộc sống rất đơn giản. Tôi nhớ đến lời của Hòa Thượng và đã tự xem mình như một kẻ “xuất gia”. Dù đang sống ở đâu, tại Singapore hay Gold Coast, tôi luôn có một gian phòng nhỏ trang nghiêm bằng các tượng Phật và tôi vẫn luôn xem đó như là ngôi chùa riêng của mình.

    Hình ảnh

    Đã từ lâu,tôi không còn xem Tivi nữa. Ngoài việc kinh kệ mỗi sáng và mỗi chiều, hằng ngày tôi đều niệm danh hiệu Phật A Di Đà 20,000 lần. Tôi sống cuộc đời phù hợp với Phật Pháp và tìm thấy niềm vui khi nghe thuyết pháp và thích được ở một mình. Hiện giờ tôi rất hạnh phúc vì tôi đã tìm được Phật Pháp và đang cố gắng hoàn thành ước nguyện của mình, đó là vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc vào cuối cuộc đời. Đây cũng là cách tốt nhất để đền đáp lại tấm lòng từ bi và sự diù dắt của chư Phật, chư Bồ Tát và của Hòa Thượng. Không may mắn nào bằng được gặp một vị sư phụ vĩ đại như Hòa Thượng Tuyên Hóa. Tôi luôn biết ơn Ngài vì chính nhờ gặp Ngài mà cuộc đời của tôi đã thay đổi. Ngài thật sự là một vị thiện tri thức.


    Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ:

    Bà Rosaline Kang là người đã xây dựng và cúng dường Tu Viện Pháp Giới Kim Ngạn tại Úc cho Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới.

    nguồn: laitutran247 diendan.daitangkinhvietnam

  18. #38

    Mặc định

    Tam Bộ Nhất Bái Tại Hoa Kỳ

    Tam bộ nhất bái – hay là đi ba bước thì lại lạy một lễ (gọi tắt là lễ lạy) – là một phương cách để người Phật tử, phần nhiều là người tu sĩ xuất gia, tỏ lòng tin sâu vào Tam Bảo (Phật, Pháp và Tăng), để tôi luyện lòng kham nhẫn, chịu đựng đau khổ, hoặc/và tỏ quyết tâm theo đuổi một hạnh nguyện của mình. Đây là một hành trì vô cùng khó khăn, vất vả, vì người Phật tử khi tam bộ nhất bái, phải làm việc này mỗi ngày, bất luận mưa nắng, đường xấu đường tốt, cả năm cả tháng, đường xa muôn trùng. Tuy thế, đã từng có nhiều Phật tử đi hành hương với Tam bộ nhất bái tại những nước mà Phật giáo Đại Thừa là tôn giáo chính như Tây Tạng, Trung Hoa và Việt Nam.

    Người Tây Tạng đi hành hương
    Người Tây Tạng đi hành hương

    Nhiều người dân Tây Tạng, người dân thường không phải là tu sĩ, đã làm cuộc hành hương từ nơi mình ở cách xa thủ đô Lahsa ngàn dậm, với tam bộ nhất bái, chỉ cốt để chiêm ngưỡng và lễ bái được tu viện Jokhang và lạy về thánh thất Potola, nơi sinh sống của các tu sĩ (Lạt Ma) của Phật giáo Tây tạng. Mình mặc quần áo ấm, lớp ngoài bằng da thú, đầu gối có đệm dầy, hai tay đeo hai miếng gỗ lót, rất cần để mỗi khi quỳ và nằm dài xuống đất để đỡ bị xây xát, họ đã để cả năm, cả tháng, vượt đèo, lội suối, đi qua sa mạc, mà làm cuộc hành hương.

    Người Tây Tạng tam bộ nhất bái
    Người Tây Tạng tam bộ nhất bái

    Những người này, mỗi lần đi như vậy, đều phải có người đi theo giúp đỡ, kéo theo vật dụng như lều vải, quần áo đê ngủ, thức ăn, nồi niêu để nấu nướng. Trên đường đi, mệt đâu, họ có thể ngừng lại xin tá túc vào nhà dân địa phương, ở đấy họ được mời ăn uống, rồi lên đường đi tiếp.


    Đồng bào giải chiếu cho thầy Tâm Mẫn bái hương

    ĐĐ Thích Tâm Mẫn nhất bộ nhất báicó một tu sĩ trẻ tuổi là Đại Đức Thích Tâm Mẫn, xuất gia tu tại chùa Hoằng Pháp, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2004, vừa phát nguyện lạy hành hương từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Yên Tử (Quảng Ninh) bằng hình thức “nhất bộ nhất bái” (bước một bước, lạy một lạy) dọc theo tuyến quốc lộ 1A. Đoạn đường dài trên 1800 cây số. Hành trình bắt đầu từ mồng 2 Tết Kỷ Sửu và với tốc độ khoảng 2 cây số một ngày, cuộc hành hương dự kiến kéo dài khoảng 4 năm. Cùng đi với Thầy Tâm Mẫn có hai đệ tử mang giúp hànhlý (nặng khoảng 5kg). Lương thực dọc đường sẽ do phật tử chùa Hoằng Pháp đóng góp. Hành trình mỗi ngày chia làm hai thời: từ 4giờ-9giờ sáng, sau đó ba Thầy trò dừng chân nghỉ trưa bên đường, rồi tiếp tục từ 16giờ đến 21giờ chiều. Về lý do phát nguyện thực hiện chuyến hành hương này, Thầy Tâm Mẫn xin được giữ kín những ước nguyện cá nhân, chỉ cho biết Thầy vừa hành hương vừa cầu nguyện cho quốc thái dân an. Đi hành hương bằng cách Tam bộ (hay Nhất bộ) Nhất bái là một điều rất mới mẻ tại Việt Nam, cho nên cuộc bái hương của Thầy Tâm Mẫn đã gây được lòng hiếu kỳ và sự ủng hộ của nhiều người đồng bào mọi chỗ.


    Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân

    Có lẽ cuộc hành hương Tam bộ nhất bái nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo là của Đại Lão Hòa thượng Hư Vân tại Trung Quốc. Hòa Thượng sinh tại Hồ Nam năm 1840, mất năm 1959, thọ 120 tuổi. Hòa thượng cũng là Tổ thứ 44 của dòng Thiền Quy Ngưỡng. Năm ngài 43 tuổi, với hạnh nguyện báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, ngài đã quyết tâm tam bộ nhất bái từ núi Phổ Đà Sơn phía đông Trung quốc (một đảo nhỏ gần Thượng Hải, thuộc tỉnh Chiết Giang) đến Ngũ Đài Sơn (thuộc tỉnh Sơn Tây) cách xa ba ngàn dặm. Với bối cảnh chiến tranh, loạn lạc thời xưa, đường xá gập ghềnh, núi đồi ngăn trở, thú dữ khắp nơi, khí hậu nghiệt ngã…một vị tăng đơn độc, lặng lẽ, cứ bước ba bước lại quỳ xuống thành tâm lạy một lạy suốt non ba ngàn dặm gian nan, trong sáu năm trường, quả thật là không ai theo nổi.

    2.

    Truyền thống này đã được đem vào Hoa kỳ với Hòa Thượng Tuyên Hóa, người sáng lập ra Kim Sơn Tự (năm 1970) tại San Francisco và Vạn Phật Thánh Thành tại Ukia, cách khoảng 110 dặm phía bắc San Francisco (năm 1974). Hòa Thượng Tuyên Hóa đã được Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân truyền pháp để trở


    HT Tuyên Hóa với hai đệ từ Hằng Cụ và Hầng Do

    nên Tổ thứ 45 của dòng Thiền Quy Ngưỡng. Ngài đã đến California Hoa Kỳ, năm 1962 và cũng mất tại đấy năm 1995, hưởng thọ 77 tuổi. Nhiều người Hoa Kỳ chính gốc hay có gốc là một dân tộc khác, vì ngưỡng mộ tài đức của Hòa Thượng đã đến vời ngài, thọ giới Sa Di hay giới Tỳ Kheo, tu tập tại Kim Sơn Tự và Vạn Phật Thành có đến trên hai trăm vị(1).

    Năm 1973 hai vị Tỳ Kheo người Hoa Kỳ tên là Hằng Cụ (hay là Heng Ju), và Hằng Do (hay là Heng Yo), đã làm một cuộc bái hương từ Kim Sơn Tự San Francisco đến Marblemount Seattle, qua Garbeville và Coos Bay. Hai Thầy đã mất 10 tháng tam bộ nhất bái suốt chín trăm dặm đề làm cuộc bái hương này,.

    Hằng Cụ, tục danh là Tim Testu, trước khi xuất gia là một đứa bé hoang tàng, thích gây lộn phá phách, học song trung học thì đăng ký 6 năm vào hải quân (tiềm thủy đĩnh). Ra khỏi quân ngũ theo lời anh: “tôi hòa vào cuộc sống ồn ào, hỗn độn của cuối thời đại sáu mươi. Tôi học thêm chút ít ở đại học, sau đó thì làm đủ nghề như: thợ mộc, thợ máy đường rầy, thợ lặn, và ngay cả làm đầu bếp nấu ăn cho một nhà hàng” topless” (từ trong nhà bếp tôi chẳng thấy gì cả). Tôi làm việc cũng khá lắm, nhưng trong lòng lúc nào cũng nặng quằng một nỗi cô đơn, chán nản. Rồi tôi buông mình vào hút sách, bị thất nghiệp và kết bạn với những kẻ không ra gì”. Năm 25 tuổi sau khi gặp Hòa Thượng Tuyên Hóa, anh đã trở nên một con người khác hẳn, vào chùa trở nên sư Hằng Cụ.

    Hằng Do, tục danh là David Bernstein, lớn lên ở Rhode Island. Theo lời anh: “Tôi sống vô tư qua mười tám mùa thay đổi ở New England, cho đến khi rời nhà để vào nội trú trường đại học thực nghiệm nhỏ, vùng ngoại ô Michigan. Nơi đó tôi đã bị ru ngủ bởi những ảo tưởng thú vị của tự do như: Tự ý muốn ngủ trể chừng nào cũng được, hay bất cứ lúc nào muốn ăn gì cũng được và không bị ai sai bảo chi. Nhưng đến năm học thứ nhất gần mãn thì sự hưởng lạc của tôi hốt nhiên dừng hẳn. Chẳng ai ngạc nhiên gì cả, chỉ riêng tôi sửng sờ khi thấy mình thi rớt”. Năm 1970 anh đến giúp việc xây cất chùa Kim Sơn, anh đã gặp Hòa thượng Tuyên Hóa . Anh đã xin xuống tóc làm Sa di, và đến năm 1972 thọ giới Cụ Túc và trở thành Tỳ Kheo. Khi thấy sư huynh là Hằng Cụ có quyết tâm tam bộ nhất bái từ chùa lên Marblemount ở Seattle, anh đã xung phong đi theo giúp đỡ.


    Hằng Cụ và Hằng Do Tam bộ Nhất bái

    Ngày 16 Tháng 10 Năm 1973 hai người khởi hành từ chùa Kim Sơn, kéo theo một cái xe hai bánh chứa các vật dụng cần thiết cho cuộc bái hương và đến ngày 17 Tháng 8 Năm 1974 thì tới nơi, mỗi ngày lễ lạy khoảng bẩy tám dặm. Vì Phật giáo cũng như những tu sĩ áo vàng là những hiện tượng mới mẻ, chưa hòa nhập vào giòng chính của xã hội Hoa Kỳ, nên cuộc bái hương của hai Thầy Hằng Cụ và Hằng Do gặp đủ hạng người chống đối, gây cản trở khó chịu cũng như khâm phục, giúp đỡ(2).

    Cuộc bái hương của hai Thầy đã kết thúc bằng một câu chuyện lý thú, đượm rất nhiều tình thầy trò. Hôm về đến Marblemount, Hòa Thượng Tuyên Hóa đã dẫn cả chùa đi nghêng đón. Mọi người đến khen ngợi và chúc mừng hai nhà sư đã thực hiện được truyền thống của Đại Lão Hư Vân để lại. Hòa thượng Tuyên Hóa nói có một món quà cho Hằng Cụ và Hòa Thượng đã đua ra một cái bánh “pie”, có vẻ rất tầm thường ở bất cứ một tiệm bánh ngọt nào của Mỹ. Khi vừa trong thấy cái bánh “pie” của Sư phụ đưa cho, Hằng Cụ, nhớ lại chuyện xưa, vội quỳ ngay xuống và khóc sướt mướt.

    Mấy năm về trước, khi ấy Hằng Cụ, một thanh niên còn ít tuổi, mới xuống tóc vào chùa. Một hôm Hằng Cụ, lẻn ra khỏi chùa đến một tiệm bánh ngọt gần đó, mua “pie” mang về ăn lén. Chiều tối, anh mang bánh lên sân thượng ăn cho đã thèm. Anh đang ăn thì anh có cảm tưởng như có ai đang đi đến. Quay lại thì thấy đó là Sư phụ mình đang chầm chậm đi đến, mắt nhìn xuống đất, miệng tụng kinh, tay lần tràng hạt. Dường như ông thầy không nhìn thấy mình đang ăn vụng, anh hú vía, vội lẻn xuống phòng. Không ai biết chuyện này và Hòa Thượng Tuyên Hóa cũng chẳng bao giờ đả động đến. Không ngờ hôm nay được sư phụ mang đến cho một cái bánh “pie”, Hằng Cụ hiểu ngay là Hòa Thượng ngày ấy đã biết anh đã phạm giới (chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không được ăn phi thời), phạm thanh quy của tu viện (lẻn ra ngoài mà không được phép) nhưng đã được Sư phụ tha thứ.

    3.


    Cổng vào Vạn Phật Thánh Thành

    Sang đến năm 1977 hai vị Tỳ kheo khác cũng người Hoa Kỳ tên là Hằng Thật(3) (tục danh Christopher R. Clowery) và Hằng Triều (tục danh là Marty Verhoeven), đệ tử của Hòa thượng Tuyên Hóa, lại làm một cuộc bái hương tam bộ nhất bái thứ hai. Lần này họ khởi sự từ chùa Kim Luân Tự ở Pasadena mà bái lạy vế đến Vạn Phật Thành ở Ukia. Họ đã để hai năm rưỡi mới về đến nơi tam bộ nhất bái hơn tám trăm dặm.

    Khác với cuộc bái hương của Hằng Cụ và Hằng Do bốn năm trước, hai người có một xe hơi cũ Plymouth Station wagon đời 1957 để ngủ qua đêm, vì hai người đã quyết định sẽ không ngủ tại bất cứ nhà ai, dù có được mời. Hai người trong khi đi đường cũng không quên tu tập như khi còn ở chùa. Họ có một thời khóa biểu mổi ngày rất nghiêm túc khắc nghiệt:

    -4-4:50 công phu (tụng kinh) buổi sáng
    -5-6:30 tập t’ai chi (Thầy Hằng Triều là một võ sĩ có hạng trước khi xuất gia)
    -6:30- tắm rửa và bắt đầu bái hương
    -7-8 bái hương tam bộ nhất bái
    -8-8:20 nghỉ

    Sư Hằng Thật được HT Tuyên Hóa khuyến khích ra đi





    -8:20-9:20 bái hương tam bộ nhất bái
    -9:20-9:40 nghỉ
    -9:40-10:30 bái hương tam bộ nhất bái
    -10:30-11:30 đọc kinh luận, viết lách
    -11:30-12:30 ăn trưa
    -12:30-1:00 nghỉ, thiền tọa
    -1-2 bái hương tam bộ nhất bái
    -2-2:20 nghỉ

    Hằng Thật và Hằng Triều Tam bộ Nhất bái

    Kinh nhật tụng của hai người là Kinh Hoa Nghiêm, kinh Thủ Lăng Nghiêm và Chú Đại Bi. Thời gian dành cho bái hương không nhiều cho nên mổi ngày họ chỉ đi được khoảng 2, 3 dặm(4).

    Năm 2005, một nhà báo, ông David Miller, có đến phỏng vấn Thượng Tọa Heng Sure, bây giờ là trụ trì Tu viện Phật giáo Berkeley, một bộ phận của Tổng Giáo Hội Phật giáo Hoa Kỳ, thành lập bởi Hòa Thượng Tuyên Hóa. Xin đọc câu chuyện lý thú này, để biết thêm về thượng tọa Hằng Thật và cuộc hành hương của người năm 1977.

    David Miller -Theo tập quán của Phật giáo Trung Quốc, các sư, ni mỗi người đều có một pháp danh sau khi thọ giới tỳ kheo. Nhiều khi pháp danh phải có một ý nghĩa để giúp người tu sĩ nương theo đó mà tu tập. Pháp danh của Thầy có ý nghĩa gì?

    Hằng Thật – Pháp danh Heng Sure (tiếng Hán Việt là Hằng Thật) có nghĩa là “luôn luôn Thật”. Trước khi tôi xuất gia, tôi ở trong kịch nghệ. Là một diễn viên, giá trị của một kịch sĩ là ở chỗ làm sao lột được vai trò ảo tưởng trong vở kịch. Ở ngoài đời, tôi có thói xấu là vẫn cứ tiếp tục sống với vai trò ảo. Pháp danh của tôi là để nhắc nhở tôi bao giờ cũng phải trở về với sự thực, với những gì là chính thống, xác thực.

    David Miller – Thầy đóng những vai gì?

    Hằng Thật – Tôi ở trong những ban kịch mùa Hè, Phần nhiều là trong Nhạc Kịch ở Broadway. Tôi thủ vai Guy Masterson trong kịch “Guys and Dolls”, vai J. Piermont Finch trong bản kịch “How to succeed in business”, vai Mr. Applegate trong “Damn Yankees”.

    David Miller – Đó thật quả là một sự chuyển tiếp lớn lao, từ Nhạc Kịch sang Tu Viện Phật Giáo. Vậy Thầy có nghĩ kiếp trước của Thầy là một Kịch sĩ không.

    Hằng Thật – Ông biết đấy, kịch trường là kịch trường, rất vui và thú vị.Tôi vẫn còn nhớ tất cả những bài hát nhạc kịch và rất nhiều lời ca nữa. Nhưng mà tôi đã sống làm tu sĩ nhiều năm hơn là những năm tôi ở ngoài đời. Bởi vậy, tôi nghĩ là giải trí là một chuyện ở một thời điểm nào đó, nhưng một lúc nào đó mình phải biết nhìn sâu hơn vào mọi sự việc.

    David Miller – Thầy đến với Phật giáo thế nào? Tôi chắc rằng chẳng có bao nhiêu tu sĩ Phật giáo ở Toledo, Ohio, nơi Thầy sinh sống vào những năm 1950 và 60, có phải không?

    Hằng Thật – Điểm then chốt làm thay đổi cuộc đời tâm linh của tôi là tôi học tiếng Trung Hoa. Người già của tôi (chị của mẹ tôi) một thời làm tại cơ quan US Information Agency ở Hoa Thịnh Đốn. Già tôi chuyên về Á Châu. Một hôm bà ấy gửi cho tôi – hồi đó tôi mới lên 13 – một cuốn sách về những họa phẩm của Tầu. Những chữ viết Trung Hoa trong cuốn sách đã thu hút sự chú ý của tôi, làm như thể là – tôi không biết có đúng không – tôi đã thấy những chữ viết đó trước đây rồi.

    David Miller – Thế là Thầy bắt đầu học tiếng Trung Hoa?

    Hằng Thật – Vâng, may mà tôi đã bắt đầu học Quan Thoại ngay ở Trung Học. Quan Thoại, theo tôi nghĩ, là một trong ba chương trình ngoại ngữ cho Trung học hồi đó. Bố mẹ tôi đã đồng ý ngay và bảo tôi: “Con cứ học đi. Sau này sẽ có nhiều người học”. Tôi cứ theo con đường ấy mà đi, cả khi lên đại học. Tôi đã đậu phó tiến sĩ (master) môn Ngôn Ngữ Đông Phương (Oriental Languages) ở Berkeley. Ngay sau đó, tôi được gặp Sư Phụ tôi là Hòa Thượng Tuyên Hóa.

    David Miller – Thầy đã gặp Hòa Thượng Tuyên hóa ra sao?



    Hằng Thật – Một người bạn cũ cùng trọ học với tôi trước đây, có sang California. Anh ta đã gặp HT Tuyên Hóa tại Tu Viện Kim Sơn. Tu viện này được lập nên từ một xưởng làm nệm cũ trong khu Mission District. Một hôm anh ấy gọi điện thoại cho tôi và nói rằng: “ Này, anh còn nhớ có lần chúng ta đã bảo nhau sẽ đi tìm một Đại lão Hoà Thượng Phật giáo không?”. Hồi đó chúng tôi có bàn nhau, muốn gặp một vị như vậy, chúng tôi sẽ phải sang Hy Mã Lạp Sơn, có thể là vùng Rishikesh bên Ấn Độ, hay sang Nam Dương. Nhưng bạn tôi nói ngay: “Không. Có một vị Đại Lão ở ngay San Francisco này. Anh hãy đến đây để gặp ngài”. Thế là tôi lái ngay chiếc xe Volvo qua cầu Bay Bridge, đến rồi đi thẳng vào căn nhà trên góc đường 15 và đường Valencia. Tôi đã gặp ngài trong một dịp rất bất thường.

    David Miller – Chuyện đã sẩy ra thế nào?

    Hằng Thật – Hồi đó, tôi đang học sang năm thứ hai chương trình Chuyên Khoa (graduate program) và cuộc chiến tranh bên Việt Nam đang diễn ra dữ dội. Tôi tự hỏi: “Muốn đi giậy học chăng? Không! Khô cằn quá! Hay là đi làm Ca sĩ? Không! Khó mà được, bẩn thỉu quá. Hay là chạy sang Gia Nã Đại? Không! Làm thế không đúng”. Tôi cứ suy nghĩ mãi về chuyện này. Nhưng khi tôi vào qua cửa Tu viện, ngửi thấy mùi trong Tu viện, cảm thấy không khí mát lạnh của Tu viện, nghe thấy tiếng chuông vang lên và nhìn thấy sự tĩnh lặng ở đấy, mọi thắc mắc trong đầu tôi bỗng dưng tan biến mất. Mọi nghi ngờ, sợ hãi chạy tuột xuống chân, qua đầu ngón chân mà tiêu đi mất. Tôi nghe thấy rõ ràng có tiếng ai nói nhỏ nhẹ: “Con đã trở về. Con về đây để hành trì. Con đã về nhà”

    David Miller – Thế là Thầy bắt đầu học với Hòa Thượng Tuyên Hóa tại Tu viện. Ngài đã giậy những gì?

    Hằng Thật – Hòa Thượng là người Mãn Châu, một tu sĩ Phật giáo chân chính tu hành đúng chánh pháp. Ngài không phải là loại người: “chúng ta hành thiền bởi vì Thiền tô điểm thêm vào lối sống của chúng ta”. Ngài giậy tôi từ căn bản đạo lý: Con người anh đã là thế nào thì quan trọng thế ấy trong việc tu tập. Cái đó chính là khởi đầu cho việc tu hành. Ngài giậy tôi phép tu thân của Khổng tử cũng nhiều như chánh pháp của đức Phật. Ngài còn bỏ vào đầu tôi sự quan trọng của học hỏi. Tôi đã đi học suốt 18 năm trời, nhưng tôi không hề lưu tâm đến học hỏi cái Tâm trong tôi. Khi tôi gặp Hoà Thượng Tuyên Hóa, tôi đã thấy ngay Ngài rất yêu thích tìm tòi học hỏi. Tôi thấy rõ là Ngài rất vui thích thấy Tâm của lũ người trẻ được hiểu biết và tiến bộ thêm. Ngài thật là vui thích.

    David Miller – Bây giờ chúng ta hãy nói chuyện về chuyến đi hành hương mà Thầy đã làm năm 1977, sau khi thọ giới Tỳ kheo. Suốt hai năm rưỡi, Thầy đã cùng một đồng môn đi bộ từ Los Angeles dọc theo bờ biển California, cứ đi ba bước lại lạy một cái. Thật là khó không tưởng tượng được.

    Hằng Thật – Vâng. Lễ lạy như vậy quả có khó thật. Nhưng khó nhất là phải giữ tịnh khẩu (im lặng không nói). Tôi đã nguyện giữ tịnh khẩu trong 6 năm (bắt đầu với cuộc hành hương)

    Kim Sơn Thiền Tự tại khu phố Tầu
    Kim Sơn Thiền Tự tại khu phố Tầu

    David Miller – Thưa điều khó nhất khi tịnh khẩu lâu như vậy là điều gì?

    Hằng Thật – Khó nhất là phải biết kiên nhẫn khi thấy rằng đầu mình đang muốn nói. Đầu óc chúng ta đã được cấu tạo nên để nói chuyện với mọi người. Một trong những khoái lạc của loài người là được nói ra. Thật là tuyệt diệu. Vì vậy, khi tôi phải ngậm mồm không nói, thì thấy không ổn trong một thời gian khá lâu. Có một lúc tôi thấy cả tuần không nghĩ được chữ nào. Đến khi đó, bản kinh Phật tôi đeo sau lưng – tôi lễ lạy là lạy bộ kinh Phật – tự nhiên hiển hiện. Rất lạ là khi Tâm tôi trở nên tĩnh lặng thì những câu trong kinh Phật tự nhiên hiện ra như là những lời bình luận giải thích những gì tôi thấy nơi thế giới bên ngoài. Tôi đã khám phá ra một điều rất lạ là đầu óc chúng ta đã được sinh ra để giao tiếp một cách rất tế nhị và mãnh liệt với thế giới bên ngoài. Thế nhưng khi chúng ta quay về với nội tâm thì tất cả những điều đó đều nằm yên nghỉ, hết hoạt động.

    David Miller – Nếu Thầy phải tịnh khẩu, thì làm sao liên lạc được trong khi đi đường?

    Hằng Thật – Tôi chẳng cần nói nhiều vì nhà sư kia lãnh chuyện giao tiếp với mọi người, Tôi chỉ chú tâm vào cái Tâm của tôi thôi.

    David Miller – Như vậy, trước hết tại sao Thầy lại phải đi hành hương như vậy?

    Hằng Thật – Tôi nghĩ là nếu tôi có thể chuyển hóa được Tham, Sân, Si khi đi bộ, khi giữ tịnh khẩu và khi lễ lạy, thì tôi thấy có lẽ tôi có thể làm một cái gì để thế giới được an bình hơn. Đối với phần thế giới còn bất an, tôi sẽ gìn giữ Khẩu và Ý. Như vậy cuộc hành hương này là cho thế giới Hoà Bình, bắt đầu từ cái Tâm của tôi.

    David Miller – Ý Thầy nói là kiểm soát được cái Tâm là tượng trưng cho lòng mong cầu Hòa bình cho thế giới?



    Hằng Thật – Nhiều hơn là tượng trưng chứ. Ông phải biết rằng khi còn ở đại học, tôi đã hoạt động chính trị khá nhiều. Tôi đã thấy các bạn tôi bị cảnh sát Chicago đánh vỡ đầu khi tham đự Đại Hội Đảng Dân Chủ. Khi tôi còn ở đại học, Tiến sĩ Martin Luther King bị ám sát, Robert Kennedy bị giết. Ở địa vị là một sinh viên cao học, tôi suy nghĩ mình phải làm gì, phải phản ứng thế nào trước thời cuộc. Tôi nghĩ rằng: “Phật giáo chính thống dạy rằng phải hành xử từ trong mà ra. Phải bắt đầu từ cái Tâm mình. “Nhất thiết duy Tâm tạo” đó là một câu căn bản trong Phật giáo. Tôi nghĩ nếu tôi hiểu rõ được cái Tâm bất an của tôi thì tôi sẽ thấy được cái chân thật, đó không phải như trong kịch nghệ. Không phải là hoạt động chống nhóm tài phiệt, quân phiệt. Cũng không phải là bỏ học đi sì ke ma tuý. Thực ra đó là đào sâu đến cốt tủy của vấn đề là cái Tham Sân Si của tôi.

    David Miller – Đi hành hương như vậy, Thầy thấy những gì? Thầy đã gặp những loại người nào?

    Hằng Thật – Chúng tôi đã gặp đủ hạng người. Nhiều người tỏ ra rất tử tế và rộng lượng. Nhưng cũng có những người không tử tế. Chúng tôi đã bị ba lần có kẻ dí súng vào đầu.

    David Miller – Chúng dí súng vào đầu à? Thế là chúng định ăn cướp hay sao?

    Hằng Thật – Không. Chúng tôi có bị ăn cướp năm sáu lần, nhưng không lần nào bị dí súng hết. Mấy tên kia chỉ thích dí súng vào đầu chúng tôi thôi. Tôi không hiểu tại sao. Marty, ông sư đệ tôi dường như bảo họ: “Chào bạn. Chúng tôi là hai nhà sư Phật giáo đi hành hương cầu cho thế giới được an bình. Bạn có muốn đọc vài tài liệu của chúng tôi không?”. Bọn họ, cũng may, không bóp cò súng. Thế nhưng, phần nhiều những người chúng tôi gặp đều tự nhiên tỏ ra muôn giúp đỡ chúng tôi

    David Miller – Xin Thầy cho vài thí dụ

    Hằng Thật – Một hôm chúng tôi đi qua vùng Santa Cruz. Trời còn sớm lắm. Tôi mới lễ lạy song thì thấy có một em gái chừng 10 tuổi đi chiếc xe đạp tiến tới, và nói: “Ông ơi, đây là cái bánh mì kẹp của cháu. Cháu nghĩ rằng ông sẽ cần đến cái bánh mì này nếu ông còn cứ đi xuống phố như vậy. Đây ông cầm lấy đi”. Thế là em ấy đưa cho tôi cái bánh mì kẹp của em. Những cuộc gặp gỡ như thế xẩy ra nhiều hơn hẳn những trường hợp đối nghịch chúng tôi đã trải qua.

    David Miller – Hai vị có bao giờ thực sự bị nguy hiểm không?

    Hằng Thật – Lần ấy chúng tôi đến vùng San Luis Obispo, thì có một lũ thanh thiếu niên cứ tan học là đến quấy phá chúng tôi bằng xe “truck” của chúng. Chúng nó lái xe ngay xát cạnh chúng tôi làm bụi và đá sỏi bay mù trời. Thật là đáng sợ, bởi vì có ai biết chúng nó là ai đâu. Tôi đành chấp nhận, ông biết không, bởi vì tôi là vị sư chính đang làm chuyện lễ lạy, tôi là vị sư đang kiểm soát cái Tâm của mình. Nhưng it lâu sau, có lẽ vài tuần sau, tôi nghĩ: “Trời ơi, bây giờ mới 4 giờ. Mình còn phải tam bộ nhất bái một tiếng nữa, mà bọn chúng lại đang đến kia” Một buổi chiều, tôi thấy bọn chúng đậu xe “truck” của chúng tại sân đậu xe. Thế là tôi bắt đầu tụng Chú Đại Bi. Thực ra là tôi chỉ mong: “Xin Bồ Tát đập chúng nó đi, xin Ngài cứu con”. Bỗng nhiên, mở mắt ra, tôi thấy Sư Phụ tôi, Hoà Thượng Tuyên Hóa, đang đứng đó, trên sân đậu xe, chân đi dép.

    David Miller – Ngài Tuyên Hóa đến làm gì vậy?

    Hằng Thật –Tôi nghĩ là ngài đã lái xe từ San Francisco xuống. Dầu sao, ngài cười với tôi rồi bước tới những cái xe “truck” với lũ thiếu niên. Ngài bắt đầu nói chuyện với chúng. Lũ trẻ này có vẻ rất thích thú được có môt ông thầy Tầu trông như một thầy giậy võ Thiếu Lâm đến nói chuyện với chúng nó. Ngài cho chúng nó cái tràng hạt thì phải và chúng biếu lại ngài chai nước Coke. Về sau tôi đã nghĩ ra rằng tôi đã dùng Chú Đại Bi như là một thứ khí giới. Tôi đã tự coi mình là nạn nhân. Tôi đã không hành xử đúng như là một tu sĩ. Khi Sư phụ tôi dạy bảo điều gì thì bao giờ cũng làm đúng lúc. Chiều hôm ấy, ngài đã bảo tôi: “Lòng từ bi không phải là như vậy”. Ngày hôm sau, tôi đang đi lễ lạy thì lũ thanh thiếu niên đó lại đến. Lần này chúng chỉ đậu xe lại và nhìn chúng tôi hành lễ tam bộ nhất bái. Lát sau, tôi nghe thấy một đứa nói: “Chúc các Thầy may mắn. Các Thầy vẫn kỳ cục lắm. nhưng thôi, chúc các Thầy may mắn”.

    David Miller – Các Thầy ngủ ở đâu? Các Thầy có đến ngủ tại nhà người dân không?



    Hằng Thật – Thực ra là, chúng tôi đã nguyện không vào ngủ nhà ai hết. Chúng tôi có một cái xe hơi Plymouth Station wagon đời 1957 để ngủ qua đêm. Xe này chứa các thứ như ảnh Phật, kinh Phật và xoong chảo để nấu nướng.

    David Miller – Các Thầy ăn gì?

    Hằng Thật – Phần nhiều là cây cỏ, lá xanh dại bên vệ đường. Chúng tôi có một bản cuốn sách của Euell Gibbons tên là “Stalking the Wild Asparagus” (nói về cách chọn măng dại). Môt nhà giáo trung học dạy vạn vật ở Santa Babara cho chúng tôi cuốn sách này, có lẽ vì sợ chúng tôi không biết phân biệt thứ nào ăn được thứ nào không.

    David Miller – Các Thầy đã học được những điều chính yếu gì trong khi đi đường?

    Hằng Thật –Tôi đã học hỏi được rất nhiều về cái ý nghiệp. Tôi thấy như là bị kẹt trong ý nghiệp. Chúng tôi học hỏi được nhiều về cải bản ngã của mình, về những nhận thức hay là tri giác của mọi người, bạn bè hay cả từ vô tuyến truyền hình. Tôi thấy rõ cái kích thước của tri giác. Tôi thấy giới hạn của sự hiểu biết của tôi về phải trái, về chính mình và về tha nhân. Tất cả những điều do Tâm mình tạo ra. Mà những thứ đó đâu phải là tất cả cái Tâm của mình. Trong kinh Phật, tất cả những nhận thức đó được ví như những bọt bể trong biển cả. Tâm thức của chúng ta là biển cả. Khi tôi làm công việc lễ lạy, tịnh khẩu không nói năng gì, thì tôi thấy từ từ tôi đang lặn hụp sâu thêm vào biển cả.

    David Miller – Có bao giờ Thầy muốn lại lặn sâu xuống biển cả nữa không?. Tôi định nói là Thầy lại muốn đi hành hương tam bộ nhất bái như vậy nữa không?

    Hằng Thật – Như vậy chẳng khác gì vào hang động thám hiểm. Khi hành thiền, bạn về với cái Tâm sâu thẳm của mình, bạn có thể đánh dấu mình đã tới đâu. Rồi trở lên. Lại có thể bạn trở về Tâm lần nữa và đánh dấu lần nữa. Tôi không biết là tôi có sẽ đi hành hương nữa không, nhưng tôi vẫn hành thiền, vẫn lễ lạy. Như vậy ông có thể nói là tôi vẫn đi hành hương. Có lẽ phải mất cả đời để xuống tận cùng tột (cái Tâm mình). Ai biết được?

    David Miller – Thỉnh thoảng có những người chỉ trích cuộc sống tu hành như là một cuộc chạy trốn. Họ cho rằng sống trong tu viện là một cách đóng cửa lại không cần lưu tâm đến thế giới bên ngoài. Thầy nghĩ thế nào về chuyện này?



    Hằng Thật – Chắc chắn đó là một nhận định công thức hóa. Tôi còn nghĩ đó là một sự sai lầm. Bất cứ ai đã từng sống trong tu viện đều sẽ nói như tôi. Tu viện không phải là một chỗ để trón tránh thế giới bên ngoài.

    David Miller – Tại sao không?

    Hằng Thật – Trong tu viện, thực ra không có chỗ nào để trốn tránh cả. Không có TV, sách báo hay đồ chơi. Không có cả tủ đựng thuốc nữa. Căn bản là mình chỉ có cái Tâm để đối diện mà thôi. Hãy so sánh tu viện với một cái phòng sinh hoạt của một gia đình bình thường xem. Trung bình mở TV xem sáu giờ rưỡi một ngày. Đó là chạy trốn đấy. Hãy thử nghĩ xem tỷ số người phải nhờ vào thuốc an thần để sống được qua ngày, ngủ được ban đêm. Có bao nhiêu đứa trẻ đã nghiện ngập xì ke ma túy? Ông phải mất bao nhiêu thì giờ đi mua bán? Những ai tố cáo đời sống trong tu viện có lẽ chẳng bao giờ suy nghĩ về Tâm của mình. Nếu họ có suy nghĩ, họ sẽ kháp phá ra rằng không chạy trốn đi đâu được. Nhiều điều trong Tâm đang chờ ta tham cứu. Một khi đã ngồi xuống để hành thiền, tất cả đều vắng lặng, thì tất cả những kỷ niệm, những đau khổ, những lo âu, hy vọng được khai hiện lên. Như vậy tu viện là chỗ cuối cùng để tránh những điều đó. Chẳng có gì để giải trí hết. Mà chỉ có một thứ mà bạn đã quên không nhìn đến từ bao lâu; đó là những gì trong đầu bạn.

    David Miller – Thầy cứ ở trong tu viện, không ra ngoài tiếp súc với mọi người. Như thế thì Thầy đang trốn tránh rồi còn gì nữa.

    Hằng Thật – Ông có thể nói như vậy. Tuy nhiên trong Phật giáo chúng tôi có một thứ gọi là Phật giáo Dấn Thân. Tôi là một tu sĩ theo Phật giáo Dấn Thân và tôi ra ngoài mỗi ngày. Ý chính là tìm cách áp dụng những kiến giải khi ngồi thiền, những lời dạy trong kinh Phật vào những bất công trong xã hội, trong đời sống kinh tế và chính trị.

    David Miller – Trước đây Thầy có nói đến chương trình phát chẩn thức ăn cho người vô gia cư. Có phải là Thầy định nói đến chuyện này không?

    Hằng Thật – Đúng. Thế nhưng cũng còn có một cái gì khác hơn nữa. Lấy thí dụ, ông bạn đứng sau quầy phát chẩn San Anthony ở San Francisco, trực tiếp phát thức ăn cho 200 người. Rất tốt, bạn đã làm một việc rất hữu ích. Song việc, ông bạn ra chỗ khác, chờ một dịp phát chẩn nhiều hơn. Mặt khác, nếu ông bạn ngôi yên lặng trên tọa cụ, giữ cho Tâm không còn sân hận, thì bạn cũng đã làm một việc rất hữu ích cho thế giới. Tâm mọi người bao giờ cũng tiếp súc với người khác. Tâm bạn tiếp súc được với gia đình bạn, con cái bạn, cả xóm giềng nữa. Với cái Tâm tĩnh lặng, bạn tiếp súc được với tất cả thế giới bên ngoài.

    David Miller – Tâm làm sao có thể tiếp súc được?

    Hằng Thật – Để tôi lấy một thí dụ. Có một hành khách đang rất sốt ruột phải lên ngay xe điện. Trong bụng rất cáu kỉnh. Mọi người xung quanh anh ta thấy ngay, ai cũng cảm thấy điều đó. Lại có một người khác lên tầu, tâm trạng thoải mái, thất rất vui vẻ lên được tầu. Tất cả mọi người khác cũng sẽ cảm thấy ngay. Chúng ta luôn luôn phát ra hay nhận được những tín hiệu về trạng thái tâm linh của mình, của người. Bởi vậy, nếu bạn ngồi yên trong tu viện, đầu óc thật an vui tĩnh lặng, thì bạn đã đã phát ra tín hiệu an vui ra ngoài. Bạn đang làm một việc rất có giá trị cho thế giới. Bạn đang chuyển hóa tâm thức. Tôi nghĩ tất cả đó là Phật giáo – hay Do Thái giáo, hay Cơ đốc giáo hay Islam giáo – Dấn Thân vậy.

    David Miller – Không phải là ai cũng có thể bỏ nhiều thì giờ về chuyên tâm linh như các nhà sư được. Người ta ai cũng cần kiếm ăn, nuôi gia đình và mọi chuyện khác nữa. Vậy thì Thầy khuyên họ phải làm gì?

    Hằng Thật –Tôi sẽ nói rằng nếu bạn có thể ngồi an vui trong phòng ngủ, ngồi trên xe hơi ở ngoài đường, ngồi làm việc ở văn phòng, tức là bạn đang làm một cái gì rồi. Ông có biết có bao nhiêu sở làm mà có nhân viên bị thất vọng. Họ ngồi đấy, cảm thấy mình chẳng có giá trị bao nhiêu, rất thất vọng khi thấy những ý kiến mình đưa ra bị bác bỏ, hay là mình có một dự án đầu đời mà lại bị một ông xếp hạng thấp, chẳng biết gì, làm sai hỏng hết chọi. Nếu chúng ta có những sở làm trong đó nhân viên đến làm 8 tiếng một ngày mà biết quan tâm đến tinh thần của mình, không chịu để rơi vào những lo sợ, thất vọng, thì đó là một cái gì rồi. Đó là điều mà chúng ta phải đầu tư vào.

    David Miller – Trong các sách báo về thương mại hay trên đài CNBC, người ta chắc chắn chẳng ai nói đến những điều Thây nói cả. Mà trái lại người ta chỉ nói nhiều về mức sản xuất, về thành tích công việc, về lợi tức đem lại.



    Hằng Thật – Rất đúng. Chúng ta đầu tư vào những chuyện ấy, nhưng chúng ta không lưu tâm đến những gì xẩy ra ở mặt dưới cho chúng ta và cho thế giới xung quanh ta. Nguyên liệu thiên nhiên thế giới sẽ phá sản. Dầu hôi sẽ cạn dần. Chúng ta vẫn tự hỏi: “Có vấn đề gì vậy? Tại sao chúng ta lại bị rối mù thế này”. Chúng ta đếm từng chiếc lá còn ở cuối cành cây mà không chú tâm đế cái rễ. Cái rễ chính là cái Tâm. Vấn đề là ở chỗ đó.

    David Miller – Vậy thì câu trả lời là thế nào? Thiền định à?

    Hằng Thật – Câu trả lời là cầu nguyện, là kỹ thuật có từ ngàn xưa. Chúng ta ra ngoài tìm kiếm thêm kỹ thuật mới. Thế nhưng kỹ thuật căn bản cũ của chúng ta thì lại không đưọc nghiên cứu đến.

    David Miller – Thầy nói đến những kỹ thuật gì?

    Hằng Thật – Cầu nguyện là một kỹ thuật. Lòng quảng đại, lòng từ bi cũng thế. Cúng dường, nhịn ăn, tịnh khẩu cũng vậy. Bất cứ tôn giáo cổ truyền nào cũng đều có những công cụ chúng ta có thể dùng được. Xem như Mười Điều Răn (của đức Chúa Trời). Có câu: “Ngươi không được khai gian”. Câu này rất hay, tuy nhiên hằng ngày chúng ta cứ nói dối nhau, như ông đã biết, để sống còn. Chúng ta gọi thế là tinh khôn, gọi thế là để kiếm lời. Thực ra, nó chỉ làm hại mình.

    David Miller – Những kiểu “kỹ thuật” như Thầy nói ấy không đem lại lợi ích gì ngay. Ăn một cái bánh kẹo hay ngồi xem một chương trình TV thì thấy khoái ngay, có phải không? Còn nói đến phải hành xử với lòng từ bi hay mở rộng lòng quảng đại, thi lợi ích còn lâu mới đến.

    Hằng Thật – Đúng, điều đó là đúng. Con người chỉ thích được lợi lạc ngay lập tức. Nhưng nếu chúng ta có những nhà lãnh đạo quốc gia nói đến và đề cao sự khôn ngoan – họ nói rằng : “Chúng ta không nhìn đến những chuyện ngay trước mắt; chúng ta nhìn về bẩy tám thế hệ sau” – thì có lẽ chúng ta làm theo dễ dàng hơn.

    David Miller – Đã có ai từng nói như vậy chưa?

    Hằng Thật – Sự khôn ngoan của dân Da Đỏ, của dân Do Thái có nói như vậy. Tất cả những bậc Hiền Thánh, Tổ Sư đều nói theo chiều hướng đó. Các ngài đều nói là chúng ta phải lưu tâm đến số mạng của thế giới. Rất tiếc là ít người nghe theo

    David Miller – Một điều Thầy đã nói với tôi tuần trước về cuộc hành hương hai năm rưỡi Tam Bộ Nhất Bái, Thầy đã thấy là lòng người có thể thay đổi được. Thầy đã gập đủ hạng người, có kẻ lúc đầu còn nghi kỵ, hay hơn nữa còn chống đối công việc Thầy làm. Nhưng rồi họ tỏ ra khâm phục Thầy. Thầy còn nghĩ là lòng người có thể thay đổi được nữa không?

    Hằng Thật – Ồ! Chắc chắn rồi, tôi thực sự nghĩ như vậy. Tôi có thể cảm thấy lòng hướng thiện, lòng tử tế của họ. Khi tôi ra ngoài, tôi áp dụng nguyên tắc là lấy cái Tâm ra giao tiếp với mọi người. Tôi muốn Tâm tôi chứa chấp lòng tử tế, mỗi lần nghĩ là tôi thấy như vậy. Tôi nghĩ rằng người nào tôi giao tiếp cũng cảm thấy như vậy, điều đó quả thật có ảnh hưởng. Không phải chỉ là tưởng tượng ra đâu, Tôi có thấy lòng người quả có thay đổi.

    David Miller – Thầy cũng vừa nói là con người ta không chịu nghe những lời lẽ khôn ngoan. Họ không nghe thấy những điều họ cần nghe. Vậy thì làm sao thay đổi được?

    Hằng Thật – Hừ, tôi nghĩ là chúng ta đang ở một khúc ngoặt. Nền viễn thông toàn cầu của thế hệ tôi đã cho phép chúng ta liên lạc được với mọi người, thực sự biết đến và quan hoài đến những người ở xa tít mù tắp như A Phú Hãn và Trung Hoa, Chúng ta đã khám phá ra rằng trong cái mối giao liên ấy, chúng ta chẳng biết phải nói năng với nhau thế nào. Hiện giờ đang có một cuộc đua. Có hai cái đồng hồ đếm phút khác nhau. một cái đếm sự suy thoái của trái đất. Cái kia thúc đẩy chúng ta phải biết nói với nhau nhưng lời có ý nghĩa. Nếu chúng ta có thể giữ cho trái đất khỏi suy thoái, thì sẽ có một thế hệ mới sẵn sàng nói chuyện với nhau.

    David Miller – Thầy nói thế hệ mới là những ai?

    Hằng Thật – Họ là thế hệ mới đến gõ cửa tu viện; phần lớn là bọn trẻ người Hoa Kỳ. Cũng có những người Hoa kỳ gốc Trung Hoa, gốc Phi châu, nhưng chắc chắn bọn họ sinh trưởng tại đây. Toàn là bọn trẻ. Chúng tôi gọi họ là bọn trẻ hậu-thất-vọng, những đứa mới 14 tuổi đã nghiện rượu, 16 tuổi đã ma tuý xì ke, những đúa trẻ đến tuổi dậy thì suốt ngày lang thang trong “Mall”. Bây giờ đã là sinh viên đại học, họ đến cửa tu viện mà nói: “xin Thầy nói sự thật cho chúng con nghe”. Chúng tôi nói: “Các em hãy ngồi xuống, ngồi thiền. Hãy đọc Giáo Pháp của đức Phật. Hãy học về Tứ Diệu Đế. Hãy xem xét cổ nhân nói gì. Hãy dở ít sách cổ văn ra thảo luận về kỹ thuật ngày xưa”. Khi chúng tôi nói với chúng như thế, bọn trẻ nói: “Chúng con đã cảm thấy có cái gì. Cái đó là cái gì vậy”. Những câu nói như thế đã vào thẳng nỗi thất vọng, đâm thẳng vào lòng hoài nghi trắng trợn của chúng.

    David Miller – Điều đó làm Thầy làm Thầy hy vọng ở chúng.

    Hằng Thật – Quả có thế. Bọn trẻ này lớn lên trong bầu không khí giao tiếp quảng đại mà tôi đã nói trước đây. Chúng nghĩ thế giới là một mạng lưới. Và chúng sẽ nói lên những điều chúng muốn nói.

    David Miller – Chuyện ấy có liên quan gì đến những vấn đề về quả địa cầu của chúng ta?



    Hằng Thật – Thế giới là một hiện hữu to lớn mà mù mờ. Thế giới là gì? Báo chí truyền thông bảo nó là cái gì thì nó là cái ấy. Nó là quả địa cầu, nó là một cú điện thoại. Tôi không làm sao có thể giải quyết được chuyên của thế giới. Nhưng tôi có thể giải quyết những điều trong cái Tâm của tôi, bởi vì từ Tâm mà ra mọi chuyện bên ngoài. Tôi xin kể ông nghe một câu chuyện. Một hôm tôi nói pháp cho người Ấn Độ ở Olema nghe, tại Hội Truyền Giáo Vedanta. Tôi nói về lòng có hiếu thảo với cha mẹ, một đề tài tôi thích nói tới.

    David Miller – Thầy nói là lòng kính trọng đối với cha mẹ mình?

    Hằng Thật – Đúng. Tôi nói là chúng ta có thể giao tiếp với cả nhân loại qua cái Tâm của chúng ta khi chúng ta tỏ ra kính hiếu với cha mẹ chúng ta.. Cũng giống như là một cái cây có rễ cái đâm xuống đất tới mạch nước ngầm. Chính cái mạch nước này đã nuôi cây lớn lên. Nếu đi ngược lên các cành thì thấy có biết bao nhiêu cành lá. Trở lại với rễ nguồn cội, anh sẽ thấy, qua lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, là anh đã ngay lập tức giao tiếp được với tất cả nhân loại. Sau khi tôi nói song, có một anh chàng tiến lên – trông bảnh bao, sáng sủa – gặp tôi và nói: “Tôi có thể nói cho Thầy nghe những gì tôi đã hìểu không?”. Tôi nói : “Vâng”. Anh ta nói: “Tôi làm về Khoa học Vi Tính”. Tôi nói: “Thế thì hay lắm. Tôi cũng làm việc với máy vi tính”. Thế là anh ta nói: “Thầy nói cái Tâm của Thầy như là một cánh cửa mở toang đón nhận mọi lòng từ bi nhờ ở bố mẹ Thầy. Trong thế giới (vi tính học) của tôi thì tôi sẽ nói đó là một cái máy vi tính chuyên môn gọi là “a single-server portal with infinite bandwith”. Tôi nói: “Đúng lắm”.

    David Miller – Thực sự thế là thế nào?

    Hằng Thật – Cái máy vi tính “portal” là cái máy qua nó, bạn liên lạc với tất cả mọi người. Nếu đầu óc bạn không thất vọng, không chịu bỏ cuộc, thì dần dà mọi người bên ngoài sẽ cảm thấy thế. Bạn có thể làm đi làm lại nhiều lần. Lần hồi về sau, khi bạn đã làm đầy đủ chuyện cần làm, thế giới sẽ lần lần khá hơn lên. Vì vậy Phật giáo không phải là một cái bánh vẽ trên trời. Đạo Phật là điều thực có. Đạo Phật chính là bạn tự hỏi bạn mới có một cái vọng niệm (ý nghĩ) gì vậy? Bạn có thể bỏ nó đi được không hay là vọng niệm lại trở lại? Nếu bạn buông bỏ nó đi được thì tức là đang làm cho thế giới này được an bình, từng mỗi niệm một.

    ***

    Trong khi đi bái hương, Sư Hằng Thật và Sư Hằng Triều vẫn viết thư về cho Sư phụ Tuyên Hóa. Sư Hằng Thật, trong một thư, có kể lại cho Sư phụ một chuyên thương tâm. Ngày 10 tháng 9, 1979, khi bái lạy tới Boonville Road, gần về ttới Vạn Phật Thành, thì có một người đàn bà mặt mũi rất buồn rầu khổ sở đén nói với Thầy Hằng Thật rằng: “Bạch Thầy. Mẹ con đã rời khỏi Việt Nam bằng đường biển từ hai năm trước. Cho đến nay không một ai có tin tức gì của mẹ con cả. Có lẽ mẹ con đã chết ngoài biển cả rồi. Xin Thầy từ bi thương sót cầu siêu cho mẹ con”. Sư Hằng Thật rất cảm động trước lời thỉnh cầu đầy nước mắt ấy.

    __________________________________________________ ______________________________________

    1) Trong số những học trò tu tập với Hòa thượng Tuyên Hóa ít ra có hai tu sĩ là người Việt Nam. Thầy Hằng Trường, hiện hoằng pháp tại Orange County, miền Nam California; và Thầy Hằng Đạt, trụ trì tại Tu viện Vạn Phật Tiểu bang Indiana.

    2) Hai Thầy Hằng Cụ và Hằng Do đã ghi cuộc hành hương này trong một cuốn nhật ký, đã được dịch sang tiếng Việt, đặng trên Trang Nhà Quảng Đức website sau: http://www.quangduc.com/Nepsong/61tambonhatbai.html



    3) Thầy Hằng Thật vẫn thường xuyên đi giảng Pháp tại nhiều nơi trên Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Trung Hoa Lục Địa, Ấn Độ, Mã Lai Á và Đài Loan. Ngoài ra Thầy, một nhạc sĩ chơi lục huyền cầm, cũng đã cho xuất bản mới đây một CD nhạc Phật giáo do Thầy soạn ra.

    4) Tất cả những thư từ hai Thầy gửi cho Sư phụ Tuyên Hóa đều được ghi lại trong website dưới đây:http://www.urbandharma.org/pdf/newsf...ultivators.pdf
    theo daovien.wordpress.com

  19. #39
    Đai Đen
    Gia nhập
    Feb 2014
    Nơi cư ngụ
    Thanh Xuân, Hà Nội
    Bài gởi
    706

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoauudam Xem Bài Gởi
    Thực vật cũng muốn quy y vào cửa Phật ?



    Cây Chướng đã quy y vào ngày 23/10/1994 tại Chùa Trường Đê Long Beach, Los Angeles.

    sưu tầm internet
    Đến giờ, TD hiểu là mọi chúng sinh đều phải trải qua làm thân cây cỏ, động vật nhỏ, động vật lớn, rồi mới đến làm con người. Nếu tu luyện, hành thiện, hiểu đạo lý thì mới lên ở cõi Trời rồi mới lên cõi Phật được.

    Mọi chúng sinh đều được sinh ra và tiến hóa tuần tự như 1 đứa trẻ được sinh ra: từ 0-3 tuổi (giống thực vật), 3-12 (giống động vật), 12-xx (giống người), 48-xx (giống người cõi Trời). Vì tất cả là do sinh mệnh đó đã sống lâu dần và tự ngộ đạo theo thời gian, càng già thì sẽ càng hiểu nhân tình, thế thái và khi đủ độ chính rồi thì sẽ hiểu được rằng, buông bỏ, hành thiện sẽ giúp thân tâm được hạnh phúc, an lạc. Đó chẳng phải tâm ở cõi Trời còn gì :)
    Sám hối, tạ ơn trước khi ngủ và sau khi thức dậy !
    Lạy Phật giúp tăng trưởng Phước !
    Thương yêu cả với kẻ thù !
    Thực dưỡng Ohsawa !

  20. #40

    Mặc định

    Nam Mô A Di Đà Phật.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đổ xô ứng tuyển giám đốc khiêu dâm, lương 700 triệu/năm
    By ngụy quân tử in forum Tản mạn nhân sinh
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 02-08-2013, 07:04 PM
  2. Thuốc chữa bệnh U sơ tuyến tiền liệt – Ung thư Tiền liệt tuyến
    By benh_thuoc in forum Nơi Rao vặt, Trao đổi, Hiến tặng ...
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-07-2013, 10:28 AM
  3. Tuyệt chiêu, tuyệt kĩ võ công
    By NganhCong in forum Võ Thuật
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 24-02-2013, 02:03 PM
  4. 20 câu chúc mừng năm mới tuyệt vời nhất
    By Cửu Phẩm Liên Hoa in forum Văn Hóa - Phong Tục - Lễ Hội
    Trả lời: 10
    Bài mới gởi: 20-02-2012, 11:15 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •