kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: [Toát Yếu Kinh Trung Bộ] 1. Pháp Môn Căn Bản

  1. #1

    Mặc định [Toát Yếu Kinh Trung Bộ] 1. Pháp Môn Căn Bản



    TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 1

    Pháp môn căn bản


    I. TOÁT YẾU

    Mùlapariyàya Sutta - The root of all things.

    The Buddha analyses the cognitive processes of four types of individuals - the untaught ordinary person, the disciple in higher training, the arahant and the Tathàgata. This is one of the deepest and most difficult suttas in the Pali Canon, and it is therefore suggested that the earnest student read it only in a cursory manner on a first reading of the Majjhima Nikàya, returning to it for an in-depth study after completing the entire collection.

    Gốc rễ của vạn pháp.

    Phật phân tích tiến trình nhận thức của bốn hạng người: phàm phu chưa nghe pháp, bậc hữu học, A la hán và Như lai. Kinh này là một trong những kinh sâu sắc và khó hiểu nhất trong tạng kinh Pali, bởi thế đề nghị học giả nghiêm túc sau khi đọc qua một lần đầu, hãy đọc trở lại kinh này khi đã xem trọn 152 kinh.

    II. TÓM TẮT

    Gốc rễ của đau khổ là dục hỷ: ham muốn, vui thích đối với các pháp từ vật chất đến tinh thần, từ phàm đến thánh, từ bốn đại đến hạng sinh vật, người, chư thiên, các cõi thiền, và Niết bàn.

    Về các pháp ấy, có những cách nhận thức khác nhau tùy theo trình độ tu học: lối nhận thức sai lầm của phàm phu gọi là tưởng tri, của người biết qua sách vở là thức tri, của bậc thánh hữu học là thắng tri, của A la hán là tuệ tri. Và cuối cùng, cái biết của Phật là liễu tri.

    Phàm phu tưởng tri các pháp, ví dụ địa đại, như sau:

    1. Vị ấy nghĩ tự ngã là địa đại;
    2. Nghĩ tự ngã ở trong địa đại;
    3. Nghĩ tự ngã tách biệt với địa đại;
    4. Nghĩ "địa đại là của ta."

    Như thế là không liễu tri địa đại. Về các pháp khác cũng thế, bao gồm:

    Chúng sinh, Chư thiên, Sinh chủ, Phạm thiên, Quang âm thiên, Biến tịnh thiên,Quảng quả thiên, Thắng giả, Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, kiến văn giác tri, Ðồng nhất và sai biệt, Tất cả, Niết bàn.

    Ðối với 4 đại và các pháp khác, các bậc hữu học không có thái độ tưởng tri của phàm phu, nghĩa là:

    1. Vị ấy không nghĩ tự ngã là địa đại;
    2. Không nghĩ tự ngã ở trong địa đại;
    3. Không nghĩ tự ngã tách biệt với địa đại;
    4. Không nghĩ "địa đại là của ta ", không dục hỷ địa đại.

    Như thế gọi là thắng tri. Nhờ thắng tri các pháp, không dẫn đến tham, mạn và kiến, nên các bậc hữu học có khả năng liễu tri các pháp.

    Các bậc A la hán đối với các pháp trên thắng tri một cách sâu xa, nghĩa là biết đúng thực chất vô thường khổ vô ngã của chúng, nên gọi là liễu tri các pháp. A la hán không dục hỷ niết bàn vì đã liễu tri niết bàn; hơn nữa, vì đã tận trừ tham, sân và si.

    Ðức Như lai không tưởng tri địa đại… niết bàn như kiểu phàm phu, không dục hỷ các pháp, vì đã liễu tri dục hỷ là nguồn gốc của đau khổ. Lại nữa, nhờ liễu tri lý duyên khởi, Ngài đã tận trừ ái thủ vì biết nó sẽ đưa đến hữu, sinh và già chết.

    III. CHÚ GIẢI

    Tham, mạn, kiến: Khi một người do thấy, nghe… mà đâm ra tham luyến tái sinh làm một hạng chúng sinh nào đó, ấy gọi là "tham". Khi người ấy tự xếp hạng mình là hơn, bằng hoặc thua kẻ khác, ấy là "mạn". Và khi có quan điểm rằng chúng sinh là thường hoặc vô thường, đó gọi là "kiến". Thái độ tưởng tri của phàm phu đưa đến tham, mạn, kiến như sau:

    Nghĩ tự ngã ở trong địa đại (Ðịnh sở cách, Locative): dẫn đến "mạn"

    Nghĩ tự ngã tách biệt với địa đại (Xuất xứ cách, Ablative): dẫn đến "kiến"

    Nghĩ "địa đại là của ta" (Sở thuộc cách, Genitive), dục hỷ địa đại: dẫn đến "tham"

    Chúng sinh, nghĩa là tất cả sinh vật dưới cõi trời Tứ thiên vương.

    Chư thiên: sáu cõi trời dục giới.

    Sinh chủ, ám chỉ Ma vương thống lĩnh tất cả sinh loài.

    Phạm thiên hay Ðại phạm - Mahàbramhma, vị trời sinh ra trước nhất trong mỗi đại kiếp, thọ mạng ngang bằng với thọ mạng vũ trụ trong đại kiếp ấy. Các vị tu chứng sơ thiền cũng tái sinh vào cõi này.

    Quang âm thiên: cõi của nhị thiền. Ở đây bao gồm cả trời Thiểu quang và Vô lượng quang.

    Biến tịnh thiên: cõi của tam thiền. Ở đây bao gồm trời Thiểu tịnh và Vô lượng tịnh.

    Quảng quả thiên: cõi của tứ thiền.

    Thắng giả (Abhibhù) chỉ cõi trời Vô tưởng, vì ở đây không còn 4 uẩn vô sắc.

    Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ là 4 cõi trời vô sắc.

    Kiến văn giác tri: những gì được thấy, nghe, cảm giác và nhận thức, mà gọi là "tưởng tri " (sai lầm), là khi có chấp thủ "tôi " và "của tôi ", hoặc có phát sinh mạn, tham và kiến.

    Ðồng nhất và sai biệt: những vị tu thiền khi tâm đạt đến một cảnh giới duy nhất không biến đổi, thì chấp là "đồng nhất ". Những người không chứng đắc thì chấp có nhiều cảnh khác nhau. Loại tưởng tri "đồng nhất " sản sinh triết học nhất nguyên và tôn giáo nhất thần, loại tưởng tri "sai biệt " sản sinh triết học đa nguyên, tín ngưỡng đa thần.

    Tất cả: chỉ tất cả các pháp nói trên, gom chung lại thành một khối. Tưởng tri về tất cả có thể sản sinh các thuyết phiếm thần hoặc nhất thần, tùy theo tương quan giữa cái tôi và tất cả.

    Niết bàn: chỉ 5 loại niết bàn hiện tại, chủ trương của 62 tà kiến ngoại đạo được nói trong kinh Phạm Võng, Trường bộ: thụ hưởng các khoái lạc giác quan là niết bàn, bốn cõi thiền là niết bàn. Mong cầu, hưởng thụ năm thứ này là tham, kiêu hãnh khi đạt được là mạn, xem loại niết bàn ảo tưởng đó trường cửu, là kiến.

    IV. PHÁP SỐ

    Bốn đại: địa thủy hỏa phong.

    Bốn Không định hay Bốn Vô sắc: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng.

    V. KỆ TỤNG

    Gốc rễ của đau khổ
    Là hỷ tham các pháp
    Vật chất và tinh thần
    Pháp phàm và pháp thánh:
    Bốn đại và ba cõi
    Cùng "niết bàn hiện tại ".
    Sở dĩ có hỷ tham
    Vì tưởng tri bốn đại
    Cùng tất cả pháp khác
    Là "tôi " và "của tôi ".
    Nhờ liễu tri các pháp
    Không "tôi ", không "của tôi "
    Như lai không dục hỷ
    Bất cứ một pháp nào.
    Phăng tận nguồn khổ đau:
    Ái thủ đưa đến Hữu
    Từ Hữu, có Sinh, Già
    Bệnh, chết và sầu ưu.
    Do liễu tri như vậy
    Từ bỏ mọi ái dục
    Tận trừ tham, mạn, kiến
    Ðạt vô thượng an ổn.

    -ooOoo-

    (https://www.budsas.org/uni/u-kinh-tr...rung-ty-00.htm)


  2. #2

    Mặc định

    Trung Bộ Kinh
    Majjhima Nikaya
    1. Kinh Pháp Môn Căn Bản
    (Mùlapariyàya sutta)
    Như vầy tôi nghe.

    Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!". - "Bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người "Pháp môn căn bản tất cả pháp". Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

    (Phàm phu)

    -- Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.

    Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy đại, người ấy nghĩ: "Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.

    Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: "Hỏa đại là của ta"- dục hỷ hỏa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.

    Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngã) như là phong đại, người ấy nghĩ: "Phong đại là của ta"- dục hỷ phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại.

    Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù...

    Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ...

    Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn... Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm... Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri...

    Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả...

    Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.

    (Vị hữu học)

    Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: "Ðịa đại là của ta", - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.

    Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại... Sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả...

    Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

    (Bậc A-la-hán - I)

    Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.

    Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại... sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết-bàn".

    (Bậc A-la-hán - II)

    Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

    Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

    (Bậc A-la-hán - III)

    Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

    Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

    (Bậc A-la-hán - IV)

    Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

    Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

    (Ðấng Như Lai - I)

    Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại.

    Như Lai thắng tri thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Niết-bàn.

    (Ðấng Như Lai - II)

    Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

    Như Lai thắng tri thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của Ta" -- không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác."

    Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.[*]


    Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

    [*] Dựa theo các bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Thanissaro, đoạn cuối nầy dịch là:

    "Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn."
    ("That is what the Blessed One said. Displeased, the monks did not delight in the Blessed One's words." -- Bhikkhu Thanissaro
    "That is what the Blessed One said. But those bhikkhus did not delight in the Blessed One's words." -- Bhikkhu Nanamoli and Bhikkhu Bodhi)

    Thật ra, trong bản dịch năm 1986, Hòa thượng Minh Châu có chú thích phần này ở cuối bài kinh (trang 19, Trung Bộ Kinh tập I, ấn bản 1986):

    "... Các Tỷ kheo không có hoan hỷ khi nghe kinh này, các vị này ngu si và tự hào mình sáng suốt như đức Phật. Rồi đức Phật giảng Mùlapariyàyajàtaka để làm cho các vị này hết kiêu mạn. Sau đức Phật giảng kinh Gotamakasutta (A. i. 276) và các vị này chứng quả A-la-hán..."

    (https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung01.htm)


  3. #3
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Bài kinh "Pháp môn căn bản" là một bài kinh ngắn nhưng quan trọng và khó hiểu bậc nhất của mọi hành giả học Phật vì tính chất khó hiểu, sâu xa đòi hỏi từng cấp độ nhận thức mà một phàm phu khó có thể nắm bắt một cách rõ ràng. Bài kinh được thuyết ở Ukkatha, nơi rừng Subhaga, cội đại thọ Sala. Mục đích để nhiếp sự ngã mạn của 500 Tỳ-kheo dòng Bà-la-môn xứ Licchavi. 500 Bà-la-môn này tinh thông 3 tạng Kinh Vệ-đà, thông hiểu Pháp và Luật của Thế tôn giảng dạy, họ khởi lên kiêu mạn cho rằng "Ta hiểu biết ngang bằng với Thế Tôn", Đức Phật thuyết bài kinh "Pháp môn Căn bản" họ nhận ra họ không hiểu 1 điều gì cả, không còn kiêu mạn, trở nên hiền như những con rắn bị hút hết độc tố. Kết quả: mặc dầu Đức Phật đã thuyết giảng bài Pháp chi tiết đến như vậy, cả 500 vị đều không hiểu và không hoan hỷ với lời dạy của Ngài. Nhưng chư vị đã bớt đi tâm lý tự mãn, không còn ngã mạn. Và về sau thành tựu Giải thoát.

    Để hiểu được lời Phật dạy trong đây, ta phải thật sự nắm vững 12 nhân duyên sanh khổ. Sự dục hỷ ở mức độ thô đến tế, từ dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Kẻ phàm phu thì chấp thân, chấp tâm, chấp dục lạc. Người tu hành chấp cảm thọ lạc, Niết Bàn. Tất cả đều là sự Thọ mà duyên ra vui thích trong Tam Giới... sẽ đưa đến Thủ mà tác thành Nghiệp Hữu khởi sanh. Khi như thật thấy tận mắt tác hại của thuốc lá ta sẽ từ bỏ không tham thủ. Niết Bàn chỉ là cứu cánh, Giải Thoát mới là cốt lõi, Bất Tử làm chỗ để thể nhập.

    Qua bài kinh này, Đức Thế Tôn đã khai thị cho các Tỳ-kheo về 1 nhân sinh quan rất rõ ràng của Ngài thông qua mức độ giác ngộ của 4 loại người nêu trong kinh. Ngài cũng sẽ sử dụng các thuật ngữ trên xuyên suốt quá trình giảng Đạo. Đối với Ngài, tất cả chúng sinh đều bình đẳng, nếu ai tinh tấn tu tập đều có thể liễu tri Niết Bàn, không phân biệt giai cấp, nguồn gốc (đối lập với Bà La Môn thời này cho rằng khi sinh ra trong dòng Bà-la-môn là Ta có giá trị).

    1. Phàm phu: là những người không chịu học, vô minh, không thấy pháp... v... v...
    2. Tỳ-kheo hữu học: là những người đang học Pháp, nhưng chưa thành tựu -----> Tỳ-kheo hữu học có thể liễu tri Niết Bàn.
    3. Các Tỳ-kheo đã liễu tri Niết Bàn: là bậc A-la-hán vì các lậu đã tận, tu hành thành mãn... v... v... đã được đoạn trừ tham dục, sân hận, si mê... v... v...
    4. Như Lai là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác... v... v... diệt trừ hoàn toàn cái ác, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn cái ác, đã chân chánh giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Kính tưởng Đức Thế Tôn Gotama - vị Phật có thật trong lịch sử loài người.

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

  4. #4

    Mặc định

    Cảm ơn bạn SMC

    Quyển Toát Yếu Kinh Trung Bộ này giúp mình đọc kinh Trung Bộ dễ hơn hẳn. Đọc phần tóm tắt giúp mình nắm được ý tưởng của bài kinh, ngoài ra có thêm các phần chú thích/giải thích các thuật ngữ giúp mình hiểu những từ chuyên môn. Mình nghĩ rằng có thể nhiều bạn cũng gặp khó khăn khi lần đầu đọc các kinh Phật nói chung và kinh Trung Bộ nói riêng, thì những toát yếu như thế này rất hữu ích. Điều này thúc đẩy mình đăng quyển Toát Yếu này lên diễn đàn với hy vọng có ích cho mọi người.

    Tuy nhiên mình nghĩ dù sao thì toát yếu cũng ít nhiều phản ánh quan điểm của tác giả (ở đây chủ yếu là của Ni sư Thích Nữ Trí Hải, ngay trong phần giới thiệu của quyển sách Ni sư cũng nói về điều này), nên khi đọc xong toát yếu chúng ta vẫn nên đọc trực tiếp kinh. Vì mỗi bài kinh là một chủ đề, là một bài học, nên mình sẽ đăng dần dần để mọi người và cả mình cùng học và có thời gian để suy ngẫm.

    Hy vọng rằng mình có đủ điều kiện để có thể đăng tất cả các bài kinh (cùng với toát yếu). Mong rằng tất cả chúng ta đều có thể học và thực hành được qua những lời dạy của Đức Phật, để đem lại hạnh phúc an lạc cho chính mình, cho mọi người và cho tất cả sự sống trên hành tinh này.

  5. #5

    Mặc định

    Toát yếu nhìn chung sai và không có giá trị, cũng chưa làm nổi bật được vấn đề. Đặt tên là toát yếu là đặt lên cao quá so với bài viết! Nhìn chung Noname thấy vô nghĩa và vô ích!
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  6. #6

    Mặc định

    Hỏi thật lòng chứ có ai đọc và hiểu kinh này nói gì hay ko?
    Hay là đọc cho biết bởi vì cho rằng đây là kinh phật?

  7. #7
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Hỏi thật lòng chứ có ai đọc và hiểu kinh này nói gì hay ko?
    Hay là đọc cho biết bởi vì cho rằng đây là kinh phật?
    - Vấn đề bạn nên quan tâm: bạn có đọc và hiểu kinh này nói gì hay không!

    Còn người khác CÓ ĐỌC và HIỂU kinh này nói gì hay không... là chuyện của họ. Đây là điều bạn không cần quan tâm.

  8. #8

    Mặc định

    Smc trả lời cho Noname kìa... học trò của smc đấy...

  9. #9

    Mặc định

    Cảm ơn bạn Noname đã nêu ý kiến thẳng thắn.

    Bản thân mình cũng thấy có nhiều chỗ không đồng quan điểm với cách giải thích của Ni sư, như về Tác ý và Như lý tác ý trong Bài kinh số 2, hay cách phân loại Tám thánh đạo trong Bài kinh số 3 vv... Mặc dù những chú giải của Ni sư về các khái niệm mình không biết như Chư thiên, Phạm thiên, Quang âm thiên vv... mình không rõ Ni sư giải thích có đúng hay không, nhưng đối với những điểm mình biết và không đồng quan điểm với Ni sư thì mình không cho rằng Ni sư sai mà nhìn nhận cách giải thích của Ni sư là một một góc nhìn khác về cùng một vấn đề. Trong phần đầu của cuốn sách có phần Ghi chú quan trọng của Ni sư về việc toát yếu quyển kinh (vui lòng xem lại tại thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?835354-To%C3%A1t-Y%E1%BA%BFu-Kinh-Trung-B%E1%BB%99). Một cách tổng quan, mình nhìn nhận quyển Toát yếu vẫn là một tác phẩm hữu dụng cho người mới bắt đầu đọc kinh (như mình).

    Mặc dù vậy, những người đã thâm nhập kinh Phật lâu năm có thể có cái nhìn khác, nếu không có gì cản trở xin các bạn vui lòng cho ý kiến về quyển Toát yếu này. Và bạn Noname có thể phân tích rõ hơn quan điểm của bạn về quyển sách này được không ạ?

  10. #10
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    Smc trả lời cho Noname kìa... học trò của smc đấy...
    - SMC không có trách nhiệm trả lời câu hỏi của bất kỳ ai mà không liên quan đến mình.
    - Thứ 2, SMC không đủ tư cách để nhận bất kỳ ai làm học trò, và cũng không mong muốn điều đó xảy ra trong tương lai. Mong bạn hãy tác ý chân chánh, nói sự thật khi trao đổi.
    - Thứ 3, quan điểm nhất quán của SMC trong các học pháp là y chỉ lời dạy của Đức Thế Tôn trong bản kinh Đại Bát Niết Bàn - Trường Bộ Kinh, như sau:

    "Này các Tỳ-khưu, có thể có Tỳ-khưu nói: "Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Ðạo Sư". Này các Tỳ-khưu, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỳ-khưu ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỳ-khưu ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỳ-khưu ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỳ-khưu, như vậy là Ðại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì."

    nghĩa là: SMC lấy KINH làm đối chiếu - lấy GIỚI LUẬT làm khuôn mẫu. Còn lại, tất cả những BỘ LUẬN của chư vị Thánh Nhân, Cổ nhân, Tiền nhân, các vị đi trước trước tác... đều mang tính chất tham khảo, phản ánh góc nhìn cá nhân của vị ấy.

    Trân trọng.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 11-03-2013, 12:15 PM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-11-2011, 03:37 PM
  3. Tam giới mật ma quan thánh đế quân trung hiếu trung nghị chân kinh
    By nhaply in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 18-10-2011, 10:17 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 24-01-2011, 09:45 AM
  5. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 20-10-2010, 01:10 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •