Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 36

Ðề tài: Chú Đại Bi Giảng Giải ( HT Tuyên Hóa )

  1. #1

    Mặc định Chú Đại Bi Giảng Giải ( HT Tuyên Hóa )

    TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC
    1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi.
    2. Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo.
    3. Người dịch phải tự chế, không được tự khen ngợi mình, chê bai người khác.
    4. Người dịch không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp
    người khác bằng cách tìm lỗi nơi tác phẩm của họ.
    5. Người dịch phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
    6. Người dịch phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phán xét đâu là chân lý.
    7. Người dịch phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng Đại Đức mười phương
    chứng minh cho bản dịch.
    8. Người dịch phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa Phật học bằng cách in Kinh,
    Luật, Luận khi việc phiên dịch của mình được công nhận là chính xác.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa

  2. #2

    Mặc định Kệ Khai Kinh

    Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
    Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
    Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
    Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
    *
    Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
    Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
    Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
    Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
    -----------------------------------------------------------
    HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA
    * THỜI THƠ ẤU
    Vào ngày 17 tháng 03 năm Mậu Ngọ (1918), Hòa Thượng Tuyên Hóa sinh
    ra trong một gia đình họ Bạch, tại một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Song Thành, tỉnh
    Cát Lâm, Đông Bắc Trung Hoa.
    Ngay khi vừa sinh ra, Ngài khóc suốt ba ngày, thương cho chúng sinh trong cõi Ta
    bà quá nhiều khổ lụy. Năm 11 tuổi, nhân thấy một em bé chết giữa vùng sa mạc
    hoang vu, Ngài có phần thức tỉnh, muốn rời bỏ cuộc sống gia đình, tu đạo để giải
    quyết vấn đề sinh tử lớn lao.
    Năm lên 12 tuổi, Ngài bắt đầu sám hối tất cả mọi lỗi lầm của mình với hai đấng
    sinh thành, dự tính một lòng báo đáp hiếu đạo. Ngài lạy cha mẹ mình hằng ngày.
    Sau đó, Ngài cảm thấy lạy cha mẹ mình chưa đủ, Ngài lạy Trời Đất, Quốc vương,
    Sư trưởng. Ngài vẫn thấy chưa đủ. Vì thế, dần dần Ngài lạy đến cả mọi loài chúng
    sanh. Ngài lạy sáng và chiều, lỗi lần hơn 380 lạy, 5 thời mỗi ngày. Ngài lạy đến cả
    gió, mưa, tuyết, mong rằng qua cái lạy sẽ chuyển hóa được người xấu thành người
    tốt; hy vọng cái lạy sẽ đem bình an đến cho thế giới tao loạn này.
    Năm 15 tuổi, Ngài quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí ở chùa Tam Duyên.
    Chính thức là Phật tử đã quy y Tam Bảo.. Ngài thân cận Hòa Thượng Thường
    Nhân. Đến năm 17 tuổi, Ngài chỉ đến trường học hai năm rưỡi. Do Ngài đạt được
    tâm chuyên nhất nên đọc qua một lần liền thuộc. Nhờ vậy, Ngài thông thạo Tứ
    Thư, Ngũ Kinh, Bách gia Chư Tử, Y học, Bốc phệ, Chiêm tinh, Vật lý, và các lĩnh
    vực học thuật khác của thế gian.
    Vào năm 16 tuổi, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cang,
    Kinh A Di Đà, và giảng giải Phật Pháp cho những người không biết chữ nghe.
    Năm 18 tuổi, mẹ Ngài lâm bệnh. Ngài bỏ học ở nhà chăm sóc. Vì Ngài đã biết rõ
    khó khăn do không được học hành chu đáo, nên Ngài thành lập một lớp học miễn
    phí, dạy cho hơn 30 trẻ em nghèo, từ sáng đến tối không nghỉ.
    Trong những năm đi học, Ngài còn tham gia nhiều hội đoàn từ thiện, như Hội Phật
    Học, Hội Đạo Đức, Hội Từ Thiện, Hội khuyến khích bỏ uống rƣợu, bỏ hút thuốc;
    khuyến khích từ bỏ những thói xấu, làm việc thiện. Ngài tu tập hạnh Bồ tát,
    nguyện cứu độ tất cả mọi loài.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  3. #3

    Mặc định * XUẤT GIA

    Năm 19 tuổi, mẹ Ngài, Hồ Thái qua đời. Ngày 08 tháng 04 ngày Đức Phật
    Đản sanh, Ngài đảnh lễ Lão Hòa thượng Trí Nhân ở chùa Tam Duyên, xin thế phát
    xuất gia. Được Lão Hòa thượng truyền giới Sa di, pháp danh là An Từ, pháp tự là
    Độ Luân. Ngài xin được y chỉ với Lão Hòa thượng Thường Nhân, trụ trì chùa Tam
    Duyên. Khi được Lão Hòa thượng Hư Vân truyền pháp, Ngài được ban pháp hiệu
    là Tuyên Hóa.
    Trong suốt ba năm xuất gia, Ngài sống trong một túp lều đơn giản bên cạnh mộ mẹ
    Ngài. Người đời gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con hiếu họ Bạch).
    Vào ngày 19 tháng 06, kỷ niệm khánh đản Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài phát 18 lời
    nguyện lớn trước Chư Phật. Cuộc đời của Ngài là sự thực hành sống động 18 lời
    nguyện lớn này.
    “Cúi đầu đảnh lễ Chư Phật mời phương cùng Tam Tạng Pháp quá khứ, hiện tại,
    vị lai cùng các Hiền Thánh Tăng, duy nguyện rủ lòng chứng minh cho đệ tử pháp
    danh Thích An Từ, tự Độ Luân, con nay phát tâm không vì tự mình cầu phước báo
    cõi Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác cho đến các quả vị Bồ tát quyền thừa, chỉ
    y theo tối thượng thừa phát tâm Bồ đề. Con nguyện cùng chúng sinh trong cả pháp
    giới cùng lúc đều đạt được quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.
    1. Con nguyện vì hết thảy chư vị Bồ tát trong cùng tận hư không, khắp pháp giới,
    trong cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu
    quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    2. Con nguyện vì hết thảy các vị Duyên giác trong cùng tận hư không, khắp pháp
    giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con
    chưa thành Chánh giác.
    3. Con nguyện vì hết thảy các vị Thanh văn trong cùng tận hư không, khắp pháp
    giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con
    chưa thành Chánh giác.
    4.Con nguyện vì hết thảy các loài ở cõi Trời trong tam giới, nếu như còn một vị
    nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    5. Con nguyện cho hết thảy loài người, trong mười phương thế giới, nếu như còn
    một người nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    6.Con nguyện cho loài người, loài Trời, hết thảy loài A tu la, nếu như còn một vị
    nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    7.Con nguyện cho hết thảy các loài súc sanh, nếu như còn một vị nào chưa thành
    tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    8.Con nguyện cho hết thảy các loài Ngạ quỷ, nếu như còn một vị nào chưa thành
    tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    9.Con nguyện cho hết thảy chúng sanh trong địa ngục, nếu như còn một vị nào
    chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    10.Con nguyện cho tất cả các loài Trời, Người, A tu la, các loài côn trùng, cho đến
    các linh giới như Rồng, Quỷ thần … đã từng quy y với con, nếu như còn một vị nào
    chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
    11.Con nguyện đem hết tất cả những phước lạc mà con đáng được hưởng, xin hồi
    hướng, bố thí, cúng dường cho hết thảy chúng sanh.
    12.Con nguyện chịu thay hoàn toàn mọi khổ nạn cho chúng sanh trong pháp giới
    này.
    13.Con nguyện phân thân vô số lượng để chuyển hóa hết thảy chúng sanh chưa có
    lòng tin với Phật Pháp, khiến họ bỏ việc ác làm việc lành, sám hối mọi tội chướng,
    quy y Tam Bảo, rốt ráo thành Phật.
    14.Con nguyện cho hết thảy chúng sanh, khi được thấy mặt con, được nghe đến tên
    con, đều phát tâm Bồ đề, chóng thành Phật đạo.
    15.Con nguyện hết lòng tôn kính giới luật đức Thế Tôn đã chế. Nguyện thực hành
    ăn một ngày một bữa vào lúc giữa trưa.
    16.Con nguyện giác ngộ cho hết thảy chúng sanh hữu tình, nhiếp độ hết thảy mọi
    căn cơ.
    17.Con nguyện tu tập để ngay đời này được ngũ nhãn ,lục thông, đến đi tự tại.
    18.Con nguyện cho hết thảy những điều đã phát nguyện đều được viên mãn.
    Cuối cùng:
    Chúng sanh không ngằn mé, thệ nguyện độ hết thảy.
    Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
    Pháp môn không số lượng, thệ nguyện đều tu học.
    Phật đạo không gì sánh bằng, thệ nguyện được viên thành.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  4. #4

    Mặc định * TRỊ TÂM BỆNH

    Hòa thượng Tuyên Hóa ngay từ thơ ấu đã có lòng nghĩa hiệp và lòng trắc ẩn.
    Ngài không chịu nổi khi thấy người khác bị khổ. Vì vậy, Ngài nguyện chịu thay
    mọi khổ nạn cho chúng sanh. Ngài đã cứu chữa cho vô số người bị những chứng
    bệnh ngặt nghèo và quái dị. Những bệnh không còn phương cứu chữa, như bệnh ôn
    dịch, bệnh ma ám, bệnh do nghiệp chướng …
    Hòa thượng nói: “Đây chẳng phải là do tôi có một năng lực gì đặc biệt hay thần
    thông diệu dụng gì cả. Đây là sức gia bị của Chư Phật và Chư Bồ tát. Khi tâm
    nguyện chí thành, sẽ nhận được sự cảm ứng của Chư Phật, Chư Bồ tát”.
    Trong khi dùng lực gia trì để chữa bệnh cho mọi người, Ngài đều giải thích cho họ
    hiểu ý nghĩa chủ yếu của lực gia trì: “Các con không nên chỉ biết tìm kiếm sự gia
    bị ở bên ngoài, mà trước hết hãy tự mình gia bị cho chính mình, rồi mới có thể gia
    bị cho hết thảy mọi người. Đó là ý nghĩa chân chính của việc gia bị”.
    Tại sao ta không có được sự cảm ứng khi tụng kinh, trì chú, niệm Phật? Vì chúng
    ta không thành thực, chúng ta đã nói dối. Chú là chân ngôn. Nếu mọi người không
    vọng ngữ thì mọi lời nói của họ đều có công hiệu. Nếu họ gọi Trời, Trời liền cảm
    ứng, gọi đất, đất liền linh hiển. Hòa thượng nói:
    “Tôi là một người không có khiếu nói năng, vì tôi chỉ biết nói những điều chân
    thực và nói những điều mà mọi người muốn nghe, đặc biệt là trong việc phá trừ mê
    tín. Tôi chẳng ngại bị đắc tội với người. Nếu có điều gì cần phải nói, tôi sẽ nói ở
    bất cứ nơi đâu mà tôi đến. Nếu có điều gì không cần phải nói, tôi sẽ không nói.
    Đơn giản chỉ vì khi ta không vọng ngữ thì mọi chữ, mọi lời ta nói lên đều có một
    năng lực vô biên, có thể chữa lành những căn bệnh hiểm nghèo cho chúng sanh
    hữu tình cũng như vô tình. Như cơn bão lẽ ra sẽ đến, nó có thể chuyển sang hướng
    khác. Một trận động đất lớn giả sử sẽ xảy ra, nó sẽ được ngăn chặn. Nơi bị hạn
    hán, nước sẽ xuất hiện. Nơi không có mưa, sẽ có mưa. Chiến tranh và tai ương sẽ
    được dập tắt. Những điều xấu đang hiện hữu sẽ được làm cho biến mất, và những
    điều lành chưa hiện hữu sẽ được làm cho phát hiện. Bởi vì khi tâm ta chân thành
    đến cực điểm, sự cảm ứng tự nhiên sẽ dung thông, đáp ứng ngay tâm nguyện của
    mọi người. Chân lý ở nơi đâu thì nơi đó sẽ có hết thảy các loài Rồng, Chư Thiên và
    các thiên thần đến để hộ trì. Chân lý ở nơi đâu thì tất cả Chư Phật, Chư Bồ tát sẽ
    đến nơi đó để hộ trì”.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  5. #5

    Mặc định Hoằng Truyền Chánh Pháp.

    Vào năm 1948, Hòa thƣợng sang Hồng Kông để truyền bá chánh pháp. Vào
    năm 1962, Ngài nhận lời cầu thỉnh sang Hoa Kỳ, nơi Ngài phát nguyện lớn hoằng
    truyền Phật pháp, dịch Kinh và giáo dục. Ngài còn dựng lập đạo tràng, nhận đệ tử,
    lập tông chỉ, đặt nền móng cơ bản cho việc truyền bá Phật pháp ở Tây phƣơng.
    Hòa thƣợng thƣờng nói:
    “Tôi có thể không ăn một ngày, nhưng không thể bỏ phí một ngày mà không giảng
    giải Phật pháp”. – “Chỉ cần còn một chút hơi thở, là tôi còn giảng pháp”. – “Tôi
    sẽ giảng pháp, dù cho nhiều người, hoặc chỉ có ít người nghe. Dù chỉ có một người
    đến, tôi vẫn giảng. Dù chẳng có người nào đến, tôi cũng giảng cho quỷ thần
    nghe”.
    Công hạnh một đời của Hòa thƣợng là nói và làm, tƣơng ứng nhau khắp mọi nơi,
    vào mọi lúc. Đó là biểu hiện chân thật nhất của giáo pháp mà Ngài đã truyền bá.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  6. #6

    Mặc định Thân Thuyết Pháp.

    Ngài đã sống bên cạnh mộ của mẹ Ngài suốt ba năm. Đối với cha mẹ, Ngài
    là người con chí hiếu. Suốt đời, Ngài luôn kính trọng những người lớn tuổi, yêu
    mến trẻ thơ, và hết lòng thương xót các loài chúng sanh. Thấy nước Trung Hoa gặp
    nhiều tai ương trong chiến tranh, Ngài không từ bỏ nghĩa vụ công dân của một
    người Trung Hoa. Suốt trong thời gian hơn 30 năm ở nước Mỹ, Ngài tự nguyện
    làm việc vì lợi ích của nước Mỹ, trong khi Ngài vẫn kiên quyết giữ quốc tịch
    Trung hoa. Ngài hoàn toàn trung thành với cả hai quốc gia.
    Ngài rất đơn giản trong việc sử dụng áo quần, thực phẩm, mọi đồ dùng riêng … để
    tiết kiệm nguồn năng lượng cho toàn thế giới. Ngài dùng một đôi giày suốt hơn 30
    năm. Ngài chẳng có nhiều quần áo. Khi ăn cơm, nếu có một hạt cơm rơi xuống nền
    nhà, Ngài liền nhặt lên ăn. Khi uống nước, Ngài uống cạn sạch ly. Ngài dùng
    những thực phẩm đơn giản nhất, chỉ luộc chín, chẳng cần dầu và muối. Những của
    phước lạc riêng Ngài, Ngài đều xin hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sanh. Ngài
    chẳng có riêng tài sản gì, vì Ngài đã cúng dường cho những quỹ từ thiện.
    Không bao giờ theo hình thức bên ngoài. Ngài luôn hạ mình thấp nhất và sau hết
    mọi người. Ngài đã bắt đầu tu tập pháp lễ lạy khi Ngài còn 12 tuổi. Ngài lạy hết
    thảy mọi người suốt ngày không mệt. Sau khi đến Mỹ, Ngài còn lạy các đệ tử của
    Ngài. Ngài lạy cho đến khi các vị đệ tử chịu giảng dạy Phật pháp. Ngài lạy cho đến
    khi một số đệ tử phát nguyện thực hiện một cuộc hành hương với ba bước một lạy.
    Ngài lạy cho đến khi đệ tử Ngài chịu lạy những kẻ đã phỉ báng chính Ngài. Bất cứ
    khi đi đâu, Ngài đều nhường đệ tử mình đi trước. Ngài muốn đi sau rốt mọi người.
    Khi giảng pháp, Ngài để cho đệ tử giảng trước và Ngài là người giảng sau cùng.
    Ngài còn là người nguyện cho các đệ tử thành tựu Phật đạo trước mình. Ngài
    nguyện mình là người cuối cùng trong pháp giới thành tựu Chánh giác.
    Dung mạo, oai nghi của Ngài rất hoàn chỉnh. Trong vẻ trang nghiêm đượm tính từ
    hòa. Đôi mắt luôn nhìn xuống, hai tay luôn luôn chấp lại ngang ngực. Nụ cười
    thường tỏa rạng trên môi. Trông dáng dấp Ngài rất oai nghiêm. Khi có người tiếp
    xúc với Ngài, Ngài luôn nhã nhặn và từ ái.
    Ngài không bao giờ muốn làm phiền đến người khác. Ngài tự giặt giũ quần áo, tự
    mang hành lý. Ngài không muốn ai phục vụ cho Ngài, ngay cả khi bệnh nặng phải
    chống gậy mà đi. Ngay cả vào những năm cuối đời, khi Ngài phải dùng xe lăn,
    Ngài vẫn nài nỉ được tự mình mang túi xách trên vai hoặc ôm trong lòng khi Ngài
    di chuyển bằng máy bay từ Đạo tràng này sang Đạo tràng khác để giảng pháp trong
    tình trạng sức khỏe rất yếu. Ngài bảo: “Tôi muốn được đứng bằng đôi chân của tôi
    và sử dụng chính sức lực của mình. Tôi không muốn phụ thuộc vào ai cả”.
    Ngài ở trong thiền định suốt cả ngày đêm. Công việc đến, Ngài liền ứng xử, giải
    quyết kịp thời và nhanh chóng. Xong việc, trở lại sự thanh thản thường xuyên.
    Ngài xử lý vô số việc trong ngày một cách tự nhiên, thoải mái. Ngài nói: “Tôi
    chẳng tụng Kinh chẳng trì chú. Điều đơn giản là tôi không khởi vọng
    tưởng”. Ngài làm việc trong trạng thái nhất tâm. Ngài tức khắc nhận ra và nhắc
    nhở sửa lại những lầm lẫn của thông dịch viên khi chuyển lời Ngài sang tiếng Anh.
    Ngài không bao giờ bỏ quên vật gì, Ngài nhớ hết thảy tên, hoàn cảnh gia đình, tính
    tình, tập khí của mọi đệ tử mà không ba giờ lẫn lộn. Thậm chí Ngài còn nhớ chính
    xác Ngài đã đi bao nhiêu bước chân quy định trong ngày.
    Trong suốt bao nhiêu năm Ngài truyền bá Chánh pháp ở Mỹ, ngƣời ta gọi Ngài là
    Đệ nhất Cao tăng trên thế giới, là Thượng nhân. Trường Cao Đẳng Tế Minh ở Sơn
    Đông, Trung Hoa muốn đổi tên trường thành Trường Cao Đẳng Tuyên Hóa. Có vị
    giáo thọ đề xướng thành lập “Pháp Giới Diệu Giác Sơn Nguyên Cứu Hội” để học
    tập công hạnh Ngài. Ngài bảo: “Đừng học theo tôi. Tôi chẳng có gì xứng đáng để
    học theo cả. Các bạn nên nghiên cứu học hỏi ở mọi người dân, đàn ông, phụ nữ,
    người xuất gia, giới cư sĩ, người già lão, trẻ em, người hiền lương, kẻ tai ác … hãy
    ghi nhận toàn bộ đời sống của họ, vì trong tương lai, nhờ những sự kiện này mà
    các bạn có thể giáo hóa, giúp đỡ cho mọi người. Đạo hạnh của tôi chưa đủ để cảm
    động đến Trời. Đức độ của tôi chưa đủ để chuyển hóa người. Người đời thích gán
    cho tôi những cái tên mà tôi không muốn. Tôi chẳng phải là cao Tăng cũng chẳng
    phải là Thượng Nhân. Tôi chỉ là một người bình thường, thích đặt mình dưới
    những người khác. Tôi tự gọi mình là “Xác chết biết đi”, “Thầy tu ở gò mả”,
    “Con kiến bé”, “Con muỗi nhỏ”, … Tôi thích đi sau tất cả mọi người. Mọi danh
    xưng đều chỉ là hư giả, không thật. Danh xưng chỉ tồn tại khi nó xứng hợp với mọi
    người, với mọi thời gian, mọi nơi chốn. Cái tên chẳng đáng tí nào cả, thế mà nhiều
    người chấp trước vào danh xưng mà nhọc thân, nhọc xác. Khi tôi còn sống cũng
    như sau khi chết, tôi không muốn mọi người chú ý đến tên tôi hay xây tháp kỷ niệm
    tôi. Tôi chẳng muốn lưu lại dấu vết gì cả. Tôi đến từ hư không, tôi trở về lại với hư
    không”.
    Last edited by Thiên Việt; 29-07-2019 at 09:44 AM.

  7. #7

    Mặc định Giảng Pháp Bằng Lời.

    Tại các đạo tràng chi nhánh của Hội Phật Giáo Pháp Giới, đều có những
    khóa giảng Kinh để giúp mọi người nhận ra chân lý. Do vậy, mỗi Đạo tràng đều có
    chương trình giảng Kinh hàng ngày. “Nước sông Hằng luân lưu mỗi ngày thì dòng
    pháp ở vạn Phật Thành cũng sẽ được giảng nói suốt ngày đêm”. Có một thời gian
    Hòa thượng dùng phương pháp gọi là “Pháp Quán Chiếu để phát khởi trí tuệ vốn
    có”. Để hướng dẫn cho tứ chúng đồng tu. Phật tử có thể đến đây để thăm hỏi Phật
    pháp, để tập diễn giảng và thi diễn giảng. Hòa thượng thường xuyên mở lớp “Vấn
    đáp song đối” để giúp cho đệ tử tự khai mở trí tuệ bản hữu.
    Tuỳ theo nhân duyên, Hòa thượng thường chọn các đề tài thích hợp để giảng nói
    cho người đang muốn nghe. Đối với tầng lớp bình dân, Ngài giảng về việc làm tròn
    bổn phận, nghĩa vụ cơ bản của mình. Đối với sinh viên, học sinh Ngài giảng về
    hiếu hạnh, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, ý thức về bản thân, yêu mến gia đình và
    nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Đối với các vị giáo thọ, các vị hiệu trưởng, Ngài giảng
    về pháp môn giáo dục và thiên chức của giáo dục. Đối với giới chính trị gia, Ngài
    nói về đạo đức, liêm khiết và lòng thương yêu dân như con đẻ của chính mình.
    Khi nhận lời mời giảng pháp, hòa thượng không bao giờ ước mong được mọi
    người biết tiếng. Bởi vì Hòa thượng chỉ muốn hoằng pháp giáo huấn để đào tạo
    con người. Ngài không bao giờ chỉ đi xa để giảng pháp. Hơn thế nữa, Ngài luôn
    luôn đưa các đệ tử theo để học hỏi những điều hay lạ ở xứ người. Chương trình
    hàng ngày của đoàn tham quan này rất nhiều chi tiết. Ngoài hai thời công phu sáng
    tối như thường lệ và lễ quá đường vào buổi trưa, còn có các thời lễ sám, tụng Kinh,
    nghe khai thị, dự lễ truyền Tam Quy, Ngũ giới cho Phật tử, dự các Pháp Hội Đại
    Bi, Pháp Hội Thủ Lăng Nghiêm … hoặc tiếp xúc với Phật tử. Không để một phút
    giây nào lãng phí. Hòa thượng nói: “Chúng tôi chẳng phải là đoàn tham quan du
    lịch, cũng chẳng phải là đoàn hoằng pháp. Chúng tôi đơn giản chỉ là đoàn người
    đi học hỏi. Chúng tôi chưa thông thạo nhiều vấn đề, và chúng tôi chưa đủ khả
    năng để làm việc hoằng pháp. Chúng tôi rất hoan hỉ được theo sau mọi người,
    mong được học hỏi các vị Đại đức, Trưởng lão ở khắp mọi nơi”
    Last edited by Thiên Việt; 29-07-2019 at 09:40 AM.

  8. #8

    Mặc định Kiến Lập Đạo Tràng.

    Hòa thượng từ Trung hoa đến Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Hoa Kỳ.
    Ngài phát nguyện: “Đào tạo người, không dựng chùa”. Ngài chủ yếu là đào tạo
    những vị Tổ sống, những vị A la hán sống, những Bồ tát sống và những đức Phật
    sống. Do vậy, trải qua rất nhiều điều kiện khó khăn, Ngài sửa chữa, trùng tu lại
    những cơ sở có sẵn làm Đạo tràng để giảng dạy giáo pháp kịp thời cho Phật tử.
    Ngài chủ trương hạ thủ công phu ngay tại những Đạo tràng vô hình tướng. Các
    Đạo tràng chi nhánh thuộc Hội Phật Giáo Pháp Giới ở khắp nơi bên ngoài có vẻ
    không giống với các tự viện truyền thống của Trung Hoa, nhưng người ta có thể
    nhận ra bên trong là cõi Tịnh độ, một khi họ đã đến đó và thực sự phát tâm tu hành.
    Ngài còn có ước nguyện: “Từ chùa nhỏ, xây dựng nên chùa lớn”, và kiến lập
    những Đại đạo tràng công cộng. Mỗi khi dựng lập xong một Đạo tràng, Ngài lại
    cúng dường cho người khác. Ngài đã từng cúng dường hai Đại đạo tràng là Vạn Phật
    Thánh Thành và Pháp Giới Thánh Thành, cũng như những tự viện chi nhánh thuộc
    Hội Phật Giáo Pháp Giới. Ngài cúng dường cho tất cả mọi chúng sanh trên thế
    giới. Ngài đón nhận tất cả mọi người đến để tu học, không phân biệt quốc tịch, nòi
    giống, tuổi tác, địa phương … không kể thân sơ, bất luận họ thuộc truyền thống
    Phật giáo Bắc truyền hay Nam truyền, Ngài đều có ước nguyện hộ trì, cũng như
    bất cứ người nào đến Đạo tràng chân thật tu hành. Hòa thượng nói: “Chúng ta
    không phải là những người biến chùa thành nhà riêng. Mọi người từ mười phương
    đều có thể đến Đạo tràng này. Ở đây luôn chờ đợi một vị đạo cao đức trọng để làm
    Trụ trì. Tôi chỉ là người trông coi tạm thời. Chẳng có một Đạo tràng nào riêng
    thuộc về tôi cả”.
    Ngài còn nói: “Phật Giáo là giáo lý về con người, giáo lý về tâm, giáo lý về chúng
    sanh và giáo lý về toàn thể pháp giới. Phật Giáo không phải là một pháp môn
    riêng biệt nào cả. Tôi cũng chẳng thuộc về một giáo phái nào cả. Thiên chúa giáo,
    Do thái giáo, Hồi giáo và tất cả tôn giáo khác đều có trong Phật giáo cả. Chúng ta
    luôn luôn chào đón mọi giáo phái khác đến Vạn Phật Thánh Thành để cử hành
    những nghi lễ của họ. Mọi tín đồ của mọi tôn giáo khác đều nên thực tập hạnh
    nguyện từ bi. Đó là nền tảng của mọi tôn giáo để cứu độ toàn thế giới. Mọi người
    nên giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau bắt tay làm việc để thiết lập nền tảng ban đầu
    cho sự thống nhất tôn giáo trên toàn cầu. Chúng sanh sẽ có một nơi để quy
    ngưỡng và chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng”.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  9. #9

    Mặc định THÂU NHẬN ĐỆ TỬ

    Hòa Thượng nói: “Vạn Phật Thánh Thành là nơi rồng rắn lẫn lộn, đủ mọi
    thành phần. Có người tu hành chí thiết, có người chẳng tu. Chúng ta nên tâm niệm
    sống trong Tứ vô lượng tâm: Từ bi hỷ xả. Đặc biệt, nên chú tâm đến những người
    chưa được hoàn thiện và hết sức chuyển hóa họ thành người tốt”.
    TIẾP NHẬN ĐỆ TỬ XUẤT GIA - NHƯNG KHÔNG TỪ CHỐI MỘT
    CHÚNG SANH NÀO.
    Chánh pháp lưu hành nhờ chư Tăng, chánh đạo phải được truyền đến cho
    mọi người. Để cho Chánh pháp có được nền móng vững chắc ở Phương tây, ắt cần
    phải có những vị đã thực hành chánh đạo. Do vậy, Hòa thượng đặt ra một yêu cầu
    rất nghiêm khắc cho mọi ngƣời muốn theo Ngài xuất gia tu học, là phải tốt nghiệp
    Cao Đẳng và tụng thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm. Sau khi được xuất gia, phải học
    Kinh Thủ Lăng Nghiêm, học cách giảng kinh, thuyết pháp, học phương pháp ngồi
    thiền và học cách nhẫn nại, chịu đựng cực khổ. Qua thời gian sau, Hòa thượng bắt
    đầu nhận mọi ngƣời xuất gia đủ mọi trình độ. Miễn là người đó có một chút thiện
    căn, Hòa thượng đều tiếp nhận khi họ có tâm nguyện xuất gia. Người già đến 90
    tuổi Ngài cũng tiếp nhận, miễn là họ có sự thiết tha tu niệm. Ngài cũng tiếp nhận
    trẻ em 6-7 tuổi, giúp cho thiện căn các em ngày càng tăng trưởng. Những người tàn
    tật, sáu căn không đủ, Ngài cũng tiếp nhận, cũng đều tạo nhân duyên lành giúp họ
    vượt thoát hệ lụy cõi trần.
    ĐỘ HẾT HÀNG CƯ SĨ - NHƯNG KHÔNG TRANH ĐỆ TỬ.
    Khuynh hướng Phật tử thời nay là thích quy y với nhiều thầy, nên Hòa
    thượng dạy: “Chỉ cần quy y với một thầy là đủ rồi. Đừng quy y với thầy này rồi bỏ
    thầy kia. Bạn quy y với quá nhiều thầy mà không nghe lời họ dạy, thế là vô ích.
    Không những việc này gây nên sự bất hòa trong hàng Pháp Sư khi họ tranh đệ tử,
    mà còn gây hậu quả cho những nơi có hàng Phật tử kỳ cựu sinh tâm rối loạn và
    nhầm lẫn. Việc này không tạo nên sinh khí mới cho Phật pháp mà ngược lại, sẽ
    làm cho Phật pháp trở nên hư hoại”.
    Miễn là lòng người chân thành, Hòa thượng sẵn sàng truyền Tam quy, Ngũ giới
    ngay cả khi Ngài đang bệnh, Ngài chẳng bận tâm đến sự phiền lụy. Dù chỉ một
    người đến xin thọ giới, Ngài cũng sẵn sàng làm lễ truyền giới.
    Có một số vị Đại đức. Cao Tăng xưa nay phát nguyện không tiếp nhận đồ chúng,
    ngại rằng vì bận rộn trách nhiệm dạy dỗ mà trở ngại công phu của riêng mình. Hòa
    thượng không như vậy, Ngài nhận hết thảy những người có tính khí ương ngạnh,
    mông muội và những kẻ có căn tính rất khó điều phục. Ngài nguyện rằng, thà xả
    bỏ đầu, mắt, tủy, não của mình, hơn là từ chối không độ thoát những người này.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  10. #10

    Mặc định LẬP TÔNG CHỈ

    Mọi người đến Vạn Phật Thánh Thành đều phải tuân theo một số quy định.
    Rồng cũng phải cuộn mình mới có thể bay lên phun mưa tùy ý. Cọp cũng phải thu
    mình mới có thể đón hướng gió mà vồ mồi chính xác”. Tại Đạo Tràng Hội Phật
    Giáo Pháp Giới, mọi người đều phải phấn đấu thực hành ba tông chỉ và sáu nguyên
    tắc do Hòa thượng đề ra như một tiêu chuẩn để tu tập. Vạn Phật Thánh Thành là
    trung tâm của các Hội Phật Học này.
    * BA TÔNG CHỈ VÀ SÁU NGUYÊN TẮC
    Ba tông chỉ:
    Ngay lúc vừa bắt đầu hai thời khóa tụng vào buổi sáng sớm, mỗi chiều tứ chúng đệ
    tử đều phải tự mình quán sát lại chính mình:
    1.Dù lạnh đến chết, cũng không phan duyên, dù đói chết, không van nài, dù nghèo
    chết, không cầu cạnh.
    2. Tùy duyên mà không biến đổi, không biến đổi nhưng tuỳ duyên.
    3.Kiên quyết thực hành đúng theo ba tông chỉ. Nguyện xả bỏ thân mạng để làm
    tròn Phật sự. Chính mình có trách nhiệm chuyển hóa nghiệp riêng của mình. Xem
    công phu tu hành là sự nghiệp chính của Tăng sĩ.
    Sáu nguyên tắc :
    1. Ngay nơi Sự để sáng tỏ Lý. Lý sáng tỏ tức là Sự. Tu tập, xiển dương, lưu hành
    mạch phái Tổ sư đã truyền.
    2. Tự hỏi mình thật sự đã là người không tranh chưa? Tự hỏi mình thật sự đã là
    người không tham chưa?
    3. Tự hỏi mình thật sự đã là người không mong cầu chưa? Tự hỏi mình thật sự đã
    là người không vị kỷ chưa?
    4. Tự hỏi mình thật sự đã là người không tư lợi chưa? Tự hỏi mình thật sự đã là
    người không nói dối chưa?
    5. Tự hỏi mình thật sự đã là người ăn một bữa chưa?
    6. Tự hỏi mình có luôn luôn đắp y không rời thân không?
    Những điều này là gia phong của Vạn Phật Thánh Thành, không một người nào có
    thể thay đổi được.
    * LUÔN LUÔN MẶC Y GIỚI
    Để tuân thủ giới luật đức Phật đã chế và để hộ trì tăng trướng, Hòa thượng
    dạy cho Tăng luôn luôn đắp y và mang theo tọa cụ, không được để những vật này
    rời thân. Ngài dạy phải dẹp trừ ham muốn sử dụng y phục quý và đẹp.
    * ĂN MỘT NGÀY MỘT BỮA TRƯA
    Dùng nhiều thức ăn vào nhiều bữa trong ngày sẽ làm lớn mạnh tâm tham,
    khiến trở ngại công phu tu tập. Theo luật đức Phật đã chế, cho Tăng thực hành ăn
    một bữa vào buổi trưa và sử dụng bình lục bát ngọ trai. Rau luộc và “canh A la
    hán” là vị thuốc hay để hữa bệnh đói và khát. Mọi người đừng nên ăn quá no, nên
    ăn vừa đủ. Đừng tham ăn nhiều, đừng muốn ăn ngon, ta sẽ được tự tại thoát khỏi
    tham dục.
    * ĐÊM KHÔNG NGỦ NẰM
    Ngủ nhiều và hôn trầm khiến tâm ngu si tăng trưởng. Hòa thượng đã từng
    thực hành không bao giờ nằm ngủ vào ban đêm từ hồi còn trẻ, nên Ngài khuyến
    khích đệ tử ngủ ngồi, khiến tinh thần thanh thản, nhẹ nhàng, tỉnh táo. Nhờ đó có
    thể thoát khỏi sự cám dỗ của ma quỷ.
    Last edited by Thiên Việt; 30-01-2020 at 10:46 AM.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  11. #11

    Mặc định Lập Tông Chỉ (TT)

    * KHÔNG GIỮ TIỀN BẠC
    Tiền bạc là gốc tội lỗi. Người có tiền dễ sanh khởi vọng tưởng. Để đảm bảo
    cho công phu tu tập có hiệu quả, Hòa thượng dạy đệ tử tuân thủ luật đức Phật đã
    chế, không giữ tiền bạc làm của riêng mình. Tăng sĩ không đƣợc phép nhận của
    cúng dường riêng cho mình. Chư Tăng làm việc đều mang tính chất phục vụ. Khi
    bị bệnh hoặc có việc tăng sai thì có thể sử dụng quỹ của Tăng chúng để chi dùng.
    Hòa thượng bảo: “Người nào giữ được giới không cất giữ tiền của riêng tư, thì vị
    ấy chính là tăng sĩ xứng đáng với nghĩa ruộng phước thanh tịnh”.
    * KHÔNG CÓ Ý NIỆM THỨ BẬC.
    Trong mọi Đạo tràng, tứ chúng đệ tử đều sinh hoạt và cùng nhau công phu
    tu tập. Mọi người đều hoàn chỉnh bổn phận của chính mình trong niềm vui của
    Chánh pháp. Không có danh lợi, không có quyền lực, không có lương bổng nên
    chẳng có những nỗ lực riêng tư để tranh đoạt quyền lợi cá nhân. Không có chức vụ
    Trị sự hay Trụ trì. Mọi người đều bình đẳng trong vai trò chính mình là chủ tự
    viện.
    * NGHIÊM TÚC TRONG GIỚI HẠN NAM NỮ.
    Bất cứ lúc nào hai người cần tiếp xúc nhau, dù qua điện thoại, trao đổi thư từ
    … cũng nên có ít nhất hai người khác ở bên cạnh. Nguyên tắc này áp dụng cho cả
    bốn chúng để đảm bảo cho mọi nhân duyên giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, thoát khỏi
    mọi ham muốn. Công việc hàng ngày chẳng rời công phu tu niệm: công phu tu
    niệm không tách rời công việc hàng ngày.
    * TU TẬP TÙY CHÚNG.
    Thời khóa tu niệm hàng ngày gồm: công phu sáng, Lễ Phật, tụng Kinh hoa
    Nghiêm, trước thời qúa đường buổi trưa, lạy sám Đại Bi. Công phu chiều: nghe
    giảng Kinh, tụng Tâm Kinh. Còn có những nghi lễ, pháp hội riêng vào những ngày
    kỷ niệm, húy nhật chư Phật, chư vị Bồ tát, Đại pháp hội Thủy Lục Không … Mọi
    lúc, mọi người tùy khả năng của mình để đóng góp công quả vào các lĩnh vực giáo
    dục, phiên dịch kinh điển, xử lý công việc tự viện hàng ngày … Như thế, không để
    thời gian trôi qua vô ích.
    * MỖI ĐẠO TRÀNG LÀ MỘT TRƯỜNG HỌC
    Giáo dục là nền tảng của tất cả các pháp thế gian cùng pháp xuất thế gian.
    Pháp môn vô số lượng, thệ nguyện đều tu học. Chúng ta đồng thời là thầy và trò,
    học tập lẫn nhau. Ở Vạn Phật Thánh Thành có trường Tiểu học Dục Lương, trường
    Trung học Bồi Đức, trường Đại học Phật Giáo Pháp Giới, cùng chương trình giáo
    dục cho Tăng sỹ và Cư sĩ. Nhiều chi nhánh Đạo tràng đều có lớp học Phật pháp
    cuối tuần hay vào ngày Chủ nhật.
    * TÌNH NGUYỆN GIẢNG DẠY LÀ QUY LUẬT
    Giáo thọ sư tự nguyện giảng dạy không hưởng lương và không đình công.
    Mục đích việc giáo dục là làm sáng tỏ đạo lý, chứ không phải vì danh lợi. Dùng
    chương trình Nho giáo cho lớp cơ bản và Phật học cho lớp đệ tử đã quy y. Qua
    giáo dục sẽ phát hiện vào đào tạo nhân tài để phục vụ cho lợi ích toàn thế giới. Hòa
    thượng nói: “Người không cần tiền bạc là người chân chính”.
    * NAM NỮ HỌC TẬP RIÊNG.
    Nam nữ được tổ chức học tập riêng biệt, để họ có thể tập trung vào việc học
    mà không bị phân tâm. Nhờ vậy nên có thể ngăn ngừa đƣợc những căn bệnh xã hội
    như: nam nữ giao thiệp nhau quá sớm, phá thai, ly dị, đồng tính luyến ái …
    Những hiện tƣợng đó đều bị cấm tuyệt ở đây. Hòa thượng nói: “Giáo dục là nền
    tảng tối yếu của quốc phòng, có thể cứu vãn cả xã hội và có thể giải quyết tận gốc
    mọi vấn đề của thế giới”.
    * GIÁO DỤC TRONG TĂNG GIÀ LÀ CHỦ YẾU.
    Tăng sĩ có trách nhiệm làm mô phạm cho hết thảy mọi chúng sanh, nên họ
    phải tự rèn luyện, học tập Phật pháp hoàn hảo trước khi họ đảm nhiệm công việc
    dạy dỗ cho người khác. Do vậy, Hòa thượng đặc biệt giáo dục hàng đệ tử xuất gia
    rất nghiêm cẩn và yêu cầu rất cao ở họ.
    Tùy thuộc vào năng lực của từng người, các đệ tử đều được phân công đảm nhiệm
    những công việc trong chúng để học hỏi thêm. Mọi người đều có được những cơ
    hội như nhau. Các giáo thọ thường cho học tăng những lời giáo huấn trực tiếp và
    gián tiếp cũng nhƣ những sự hỗ trợ cần thiết.
    Các giáo thọ thƣờng cho học tăng những bài khảo thí bất ngờ, nhƣ mời mọi ngƣời
    từ mọi giai tầng trong xã hội, ở khắp mọi quốc gia đến để giảng kinh, mở những
    khóa học tại Vạn Phật Thánh Thành hay những Đạo tràng chi nhánh khác. Hòa
    thƣợng bảo: “Mọi người cần phải có cái nhìn thấu suốt chân lý trạch pháp nhãn.
    Nếu nhận ra Đạo, hãy nên tiến tới, nếu chẳng phải Đạo thì nên thối lui. Hãy chọn
    những pháp thiện để hành trì theo, lọai trừ những tính bất thiện ở trong mình. Mọi
    việc đều là một sự khảo nghiệm cho chính mình, nếu ta chưa nhận ra được mặt
    mũi trước khi sinh ra là gì, thì phải cố gắng làm lại từ đầu”.
    Các pháp vốn bất định. Pháp cố định là pháp chết. Con ngƣời là pháp sống động,
    bạn không nên mắc kẹt vào một lối đi cho đến khi nó dẫn bạn vào bóng tối.
    Hòa thượng bảo: “Bạn phải tự làm sáng tỏ trí tuệ và tự tin nơi chính mình. Đừng
    tin vào tôi”.
    Phong cách của Hòa thượng rất thoải mái và dân chủ. Ngài tôn trọng chúng đệ tử và
    không bao giờ tự ý chế định những iới điều. Khi có đệ tử làm điều gì sai trái. Ngài
    mới đưa ra quy định kịp thời để hộ trì cho công phu học tập.
    Hòa thượng có một tấm lòng bao dung khoan thứ vô hạn. Bất luận người nào phạm
    lỗi lầm, miễn là họ khởi lên ý muốn sám hối, thì Hòa thượng sẵn lòng tha thứ.
    Trực nhận tự kỷ thác: Nhận ngay lỗi của mình.
    Mạc luận tha chi nhân: Không bàn luận đến sai trái của người khác.
    Tha phi tức ngã phi: Xem lỗi lầm của người khác chính là lỗi của mình.
    Đồng thể danh đại bi: Được gọi là đồng tâm thể đại bi của chư Phật.
    Hòa thượng tự trách chính mình thay vì trách cứ người khác. Ngài nhận về phần
    mình hết thảy mọi lỗi lầm mê muội, nghiệp chướng, tập khí xấu của đệ tử. Ngài
    phát nguyện gánh vác hết nghiệp chướng.
    Xem việc giáo dục chúng Sa di là nền tảng của việc giáo dục tăng chúng.
    Vào những năm cuối cùng của cuộc đời, Ngài hết lòng chăm sóc giáo dục chúng
    Sa di và Sa di trẻ mới xuất gia. Ngài đích thân sắp xếp giáo thọ và thời khóa học.
    Ngài tự thân truyền thọ pháp môn Tứ thập nhị thủ nhãn ấn pháp cho chúng Sa di tu
    tập. Ngài đem hết tâm huyết để truyền thọ cho hai giới này, hy vọng sự đồng tu của
    tứ chúng, của lớp tăng trẻ từ 6 –17 tuổi này, chẳng bao lâu sẽ trở lên những mặt
    trời sáng rỡ của Phật pháp, sẽ truyền bá lòng từ bi vô hạn, niềm an nhiên hạnh phúc,
    hướng dẫn chúng sanh tu tập đạo Bồ tát, chuyển hóa tận cùng khổ đau sinh tử.
    Last edited by Thiên Việt; 30-01-2020 at 11:07 AM.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  12. #12

    Mặc định * ƯỚC NGUYỆN PHIÊN DỊCH TAM TẠNG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO.

    Từ hồi còn trẻ, Hòa thượng đã có ước nguyện truyền bá Phật pháp rộng khắp
    thế giới. Muốn vậy, Ngài phát nguyện tổ chức phiên dịch Tam Tạng Kinh điển
    Phật giáo sang các thứ tiếng trên thế giới. Đây là công trình sự nghiệp ngàn năm.
    Ngài nói:“Phiên dịch Tam Tạng còn quan trọng hơn vãng sanh Tịnh độ”.
    Hòa thượng là người đầu tiên trên thế giới dùng Trung văn để giảng Kinh, trước
    hết, Ngài đọc một đoạn Kinh từ trí nhớ, rồi liên tiếp giảng câu này sang câu khác
    mà không cần nhìn vào Kinh văn. Ngài chẳng cần ghi chép điều gì, Ngài giảng
    hoàn toàn lưu xuất tự tự tánh khiến ai ai cũng hiểu được. Ngài sử dụng tiếng bạch
    thoại thông dụng để giảng giải những ý nghĩa sâu rộng nhất của Kinh văn, bằng
    những ví dụ rất thực tế khiến mọi tầng lớp đều hiểu được. Hòa thượng nói: “Tôi
    chỉ biết cách đưa ra những ví dụ rất đơn sơ để chuyển ý Kinh do tôi giảng, gọi là
    “Bản dịch đơn giản”. Cũng như rau cải được luộc chín bằng nước sôi, trông có vẻ
    thanh đạm nhưng rất tốt cho sức khỏe”.
    DỊCH SANG NHỮNG NGÔN NGỮ KHÁC:
    Có hàng trăm bộ Kinh dịch xong đã được ấn hành. Nhiều nhất là tiếng Anh.
    Sau này sẽ in Kinh song ngữ Hoa Pháp, Hoa Việt …
    Bên cạnh việc xuất bản Kinh sách, băng từ và băng video cũng được phát hành
    song ngữ. Hiện nay băng từ song ngữ cũng rất thông dụng để ghi và truyền các dữ
    liệu bằng tiếng Hoa và tiếng Anh.
    THÀNH LẬP VIỆN PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN QUỐC TẾ:

    Năm 1973, Viện Phiên dịch Tam Tạng Kinh Phật giáo Quốc tế đã được
    thành lập.
    Năm 1992, thành lập Ban quản trị Hội Phật giáo Pháp giới. Chư Tăng cùng Cư sĩ
    từ khắp nơi đều tình nguyện đến đây để cộng tác dịch và ấn hành Tam Tạng Kinh
    mà không nhận bất cứ khoản thù lao nào.
    TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT:
    Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ tự truy cầu danh lợi.
    Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo.
    Người dịch phải tự chế, không được tự khen ngợi mình nhưng lại chê bai người
    khác.
    Người dịch không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp người
    khác bằng cách tìm lỗi nơi tác phẩm của họ.
    Người dịch phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
    Người dịch phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phân xét đâu là chân lý.
    Người dịch phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng Đại Đức mười phương chứng minh
    cho bản dịch.
    Người dịch phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa Phật học bằng cách in Kinh, Luật,
    Luận khi việc phiên dịch của mình được công nhận là chính xác.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  13. #13

    Mặc định THỊ HIỆN TƯỚNG BỆNH

    Hàng phàm phu bị bệnh do nghiệp. Họ thọ nhận lấy những gì họ đã làm
    trong quá khứ. Tất cả các bệnh của họ đều do tham, sân, si. Còn bệnh của Thánh
    nhân là do nguyện lực. Các Ngài phát nguyện chịu thay nghiệp chẳng lành mà
    chúng sanh đã tạo lập. Vì chúng sanh bệnh nên Bồ tát bệnh, các bậc Thánh đã
    chuyển hóa xong toàn bộ ba món độc này rồi.
    Ngài vốn không bệnh, nhưng lại muốn chịu thế mọi khổ đau cho chúng sanh, nhận
    hết bệnh của chúng sanh về phần mình, nên thân Ngài có biểu hiện các triệu chứng
    của bệnh, với hy vọng chúng sanh khi thấy tướng bệnh, biết được nguyên nhân của
    bệnh, mới chịu quyết tâm tu hành.
    Để hộ trì cho đệ tử bốn chúng tu hành. Ngài đã đi từ Đạo tràng này đến Đạo tràng
    khác. Những cuộc hành trình bằng xe hơi, giữa thời tiết nóng lạnh bất thƣờng, xử
    lý vô số những công việc phức tạp, giúp cho ngƣời khác lực gia trì để tu tập. Điều
    ấy đã làm cho Ngài kiệt sức.
    Mười năm trước đây Ngài đã phát bệnh nặng vì làm việc quá sức. Năm nay bệnh
    Ngài quá nặng đến nỗi Ngài không thể bước lên một bậc thềm. Ngay cả khi các
    bác sĩ chẩn đoán Ngài chỉ còn sống một tuần lễ nữa. Hòa thượng vẫn từ chối sự
    nghỉ ngơi để tìm phương cách trị liệu. Ngài vẫn chống tích trượng để đi hoặc ngồi
    xe lăn, tiếp tục đi đến khắp nơi để giảng pháp. Hai năm nay, bệnh đến liệt giường
    mà Ngài vẫn chỉ dạy các đệ tử khắp nơi bằng điện thoại, hay xuất hiện trong những
    giấc mơ của họ để giáo hóa.
    Hòa thượng đã chữa trị bệnh cho vô số người, sao Ngài lại không chữa trị cho
    chính mình? Đó chẳng phải là Ngài không thể chữa, mà vì Ngài không muốn chữa.
    Một đời Ngài xưa nay chưa từng làm hoặc suy nghĩ một điều gì cho riêng mình.
    Ngay cả khi Ngài đau đớn cùng cực, Ngài cũng chẳng cần đến sự giúp đỡ cho
    riêng mình chút nào. Ngay cả khi Ngài an tường thị tịch vào ngày 06 tháng 07 năm
    ấy (1995)., bệnh Ngài và cơn đau cũng không giảm chút nào.
    Ngài không thị hiện những điềm lạ, cũng chẳng lưu lại những kỳ tích. Ngài chỉ nói
    cho mọi ngƣời những bài học lớn lao về thành, trụ, hoại, không – sanh, lão, bệnh,
    tử.
    Đây thật là bài học lớn lao mà Hòa thượng đã trao cho hàng đệ tử trên đường thực
    hành đạo Bồ tát. Từ vô lượng kiếp xa xưa, chư Bồ tát đã xả bỏ vô số thân để cứu
    độ chúng sanh. Chư vị hoàn toàn nghĩ đến mọi ngƣời chứ không nghĩ đến mình.
    Đối diện với những nỗi khổ khó chịu đựng này, ngƣời ta mới có thể tiếp tục can
    đảm tiến bước với niềm tin kiên định, không khuất phục khi tu hạnh Bồ tát, dũng
    mãnh tiếp nối công hạnh của người xưa. Đó chính là chất vàng không chảy của
    Hòa thượng trong lò lửa hừng hực.
    Toàn bộ cuộc đời của Ngài là biểu hiện từ bộ Kinh Hoa Nghiêm. Phẩm “Pháp giới
    bất khả tư nghì của chư Phật”, trong Kinh Hoa Nghiêm có nói rằng chư Phật Thế
    Tôn có mười Phật sự rộng lớn:
    … “Các Phật tử, khi chư Phật nhập Niết bàn, vô lượng chúng sanh đau đớn khóc
    lóc, sanh tâm ưu bi khổ não. Chư Phật thấy vậy nên nói: Như Lai Thế Tôn có tâm
    đại từ bi, vì lòng thương xót và làm lợi lạc cho cả thế gian, là nơi nương tựa và
    cứu hộ cho muôn loài. Thật khó mà tính kể sự thị hiện của Như Lai trên thế gian
    này.
    Ruộng phước vô lượng từ nay mất hẳn. Do vậy, vì khiến cho chúng sanh kính mến,
    ngưỡng mộ mà các Ngài làm Phật sự.
    Chư Phật Thế Tôn tuy nhập Niết bàn nhưng vì chúng sanh mà tiếp tục làm ruộng
    phước bất khả tư nghì; làm ruộng phước tối thượng, vô tận phước đức; khiến cho
    chúng sanh có được đầy đủ thiện căn và ruộng phước tròn đầy
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  14. #14

    Mặc định XEM KINH VỚI LÒNG THÀNH

    Kẻ hậu học khi xem kinh, nên có tâm thái như sau: ba nghiệp tâm, khẩu, ý
    phải được thanh tịnh. Ba nghiệp trên được lắng trong thì phước huệ tròn đầy.
    Nên thẳng mình ngồi ngay như ngồi trước đức Phật. Đó là thân nghiệp được thanh
    tịnh.
    Miệng không nói lời sai trái, không cười đùa. Đó là khẩu nghiệp được thanh tịnh.
    Ý không tán loạn, dứt sạch tâm phan duyên. Đó là thanh tịnh ý nghiệp.
    Khi tâm an tịnh thì ngoại cảnh lắng trong, đó là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập
    pháp lý. Khi nước lắng trong thì vẻ sáng của ngọc tự chiếu soi, mây tan trăng tự
    hiển bày, đại nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa. Thấu đạt ý
    kinh cũng chính là đến được đỉnh núi cao trí tuệ. Nếu hành giả muốn dễ thành tựu,
    phải gieo trồng Đại nguyện. Khi tâm, pháp đều quên, thì mình cùng pháp giới.
    chúng sinh đều chung lợi lạc. Có được như thế mới mong báo đáp ân sâu của Chư Phật.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  15. #15

    Mặc định CHÚ ĐẠI BI


    1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
    2. Nam mô a rị da
    3. Bà lô yết đế thước bát ra da
    4. Bồ đề tát đỏa bà da
    5. Ma ha tát đỏa bà da
    6. Ma ha ca lô ni ca da
    7. Án
    8. Tát bàn ra phạt duệ
    9. Số đát na đát tả
    10. Nam mô tất kiến lật đỏa y mông a lị da
    11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
    12. Nam mô na ra cẩn trì
    13. Hê rị ma ha bàn đà sa mế
    14. Tát bà a tha đậu du bằng
    15. A thệ dựng
    16. Tát bà tát đá, na ma bà già
    17. Ma phạt thị đậu
    18. Đát điệt tha, án
    19. A bà lô hê
    20. Lô ca đế
    21. Ca ra đế
    22. Di hê rị
    23. Ma ha bồ đế tát đỏa
    24. Tát bà tát bà
    25. Ma ra ma ra
    26. Ha hê ma hê, rị đà dựng
    27. Cu lô cu lô yết mông
    28. Độ lô độ lô phạt già ra đế
    29. Ma ha phạt già ra đế
    30. Đà la đà la
    31. Địa lỵ ni
    32. Thất phật ra da.
    33. Giá ra giá ra
    34. Ma ma phạt ma ra
    35. Mục đế lệ
    36. Y hê di hê
    37. Thất na thất na
    38. A ra sam phật ra xá lợi
    39. Phạt sa phạt sam
    40. Phật ra xá da
    41. Hô lô hô lô ma ra
    42. Hô lô hô lô hê rị
    43. Ta ra ta ra
    44. Tất lỵ tất lỵ
    45. Tô rô tô rô
    46. Bồ đề dạ - bồ đề dạ
    47. Bồ đà dạ - bồ đà dạ
    48. Di đế rị dạ
    49. Na ra cẩn tri
    50. Địa lỵ sắt ni na
    51. Ba dạ ma na
    52. Ta bà ha
    53. Tất đà da
    54. Ta bà ha
    55. Ma ha tất đà dạ
    56. Ta bà ha
    57. Tất đà du nghệ
    58. Thất bàn ra dạ
    59. Ta bà ha
    60. Na ra cẩn trì.
    61. Ta bà ha
    62. Ma ra na ra
    63. Ta bà ha
    64. Tất ra tăng a mục khư da
    65. Ta bà ha
    66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
    67. Ta bà ha
    68. Giả cát ra a tất đà dạ
    69. Ta bà ha
    70. Ba đà ma yết tất đà dạ
    71. Ta bà ha
    72. Na ra cẩn trì bàn đà ra da
    73. Ta bà ha
    74. Ma bà lợi thắng yết ra dạ
    75. Ta bà ha
    76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
    77. Nam mô a lị da
    78. Bà lô kiết đế
    79. Thước bàn ra dạ
    80. Ta bà ha
    81. Án tất điện đô
    82. Mạn đà ra
    83. Bạt đà dạ
    84. Ta bà ha
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  16. #16

    Mặc định KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUYÊN HÓA.

    Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
    Chấn động tam thiên thế giới thì
    Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
    Từ bi phổ độ Diêm phù đề
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  17. #17

    Mặc định PHẦN GIẢNG

    Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni,
    nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú
    Đại Bi. Vì kinh văn thần chú này thuộc vào hệ mật ngôn chân ngữ. Nay để giảng
    giải về thần chú này, trước tiên tôi xin đưa ra một bài kệ để thuyết minh cho ý
    nghĩa của thần chú:
    Đại bi đại chú thông thiên địa
    Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
    Đại từ đại bi năng khử bệnh
    Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền.
    Nghĩa là:
    Thần chú Đại bi có công năng thông cả thiên đường, thấu cả địa phủ. Người nào
    thường trì niệm chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như thế thì có thể
    khiến Thập điện Minh vương hoan hỷ.
    Năng lực Từ và Bi của thần chú có thể chữa lành tất cả mọi tật bệnh và làm cho đài
    gƣơng chiếu tội sáng ngời ngời.
    *Đại bi đại chú thông thiên địa
    Khi quí vị niệm thần chú này thì trời đất đều chấn động, cả pháp giới chuyển rung.
    Trên thông cả cõi trời, dƣới thấu khắp cả các cõi giới địa ngục. Khắp cả mọi pháp
    giới trời người đều cảm thông và tán dương công đức.
    *Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
    Nếu quí vị niệm thần chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như vậy, tức là
    vào khoảng 3 năm. Niệm thần chú này liên tục trong 3 năm không gián đoạn,
    không bỏ sót một ngày, bất luận quí vị có bận rộn như thế nào cũng không quên
    niệm, thì có thể khiến cho mười vị vua điều hành công việc ở chốn địa phủ cũng
    phải hoan hỷ. Có nghĩa là từ vua Diêm La cai quản điện thứ 10, cùng tất cả các
    chung sinh đang bị tội báo ở trong 10 địa ngục ấy đều được vui mừng.
    *Đại từ đại bi năng khử bệnh
    Năng lực Từ và Bi của thần chú này có thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật. Vì sao
    gọi là chú Đại Bi? Là vì: “Bi năng bạt khổ”. Nghĩa là Bi có công năng làm cho mọi
    khổ nạn của chúng sinh đƣợc tiêu trừ. Còn “Từ năng dữ lạc”. Lòng Từ thường đem
    lại niềm vui cho chúng sinh. Vì thần chú này khả năng bớt khổ ban vui cho mọi
    chúng sinh nên gọi là Chú Đại Bi. Chủ yếu nhất là công năng chữa lành mọi bệnh
    tật. Bất luận quí vị bị bệnh gì, nếu quí vị trì niệm Chú Đại Bi, thì mọi bệnh khổ đều
    được tiêu trừ.
    Có người sẽ thắc mắc: “Tôi đã niệm Chú Đại Bi rồi, tại sao không lành bệnh?”
    Quí vị chưa lành bệnh là vì quí vị chưa vận hết lòng thành trong lúc trì niệm. Với
    lòng chí thành, chắc chắn quí vị sẽ có được sự cảm ứng khi niệm chú.
    *Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền.
    Khi quí vị trì niệm mỗi ngày 108 biến chú Đại Bi, niệm trong 1000 ngày như thế
    thì Thập điện Minh Vương vui mừng và tất cả mọi bệnh tật đều đƣợc tiêu trừ.
    Trong suốt 1000 ngày, tức 3 năm này, quí vị đó thành tựu được khá nhiều công đức
    rồi. Bởi vì trong 3 năm này, mỗi ngày quí vị đều gia tâm trì tụng thần chú nên
    không có điều kiện để tạo tác nghiệp nhân. Quí vị không uống rượu, không ăn thịt,
    không ăn ngũ vị tân.
    Trong địa ngục có một đài gương báo tội gọi là “nghiệt kính đài”, nếu quí vị gây
    một nghiệp ác nào thì nghiệp ấy sẽ hiện rõ trong đài gương kia. Cũng giống như
    hình ảnh đang hiện ra trên màn ảnh xi nê vậy. Ví như một người, đời này gây tội
    sát nhân, thì trong gương báo tội sẽ hiện ra cảnh người ấy đang giết người. Nếu
    người ấy gây nghiệp trộm cắp thì trong gương sẽ hiện hình ngƣời ấy đang đi ăn
    trộm. Nếu người ấy gây nghiệp đốt phá nhà cửa người khác thì trong gương sẽ hiện
    ra rõ ràng hành động đốt nhà ấy.
    Còn nếu quí vị không gây tạo ác nghiệp gì cả thì sao? Thì chẳng có gì hiện ra trong
    kính đó cả. Vậy nên, nếu quí vị trì tụng thần Chú Đại Bi trong 3 năm thì khi gương
    nghiệp soi chiếu đến, tội báo của quí vị sẽ được tẩy sạch. Nơi địa ngục ấy sẽ treo
    lên một tấm bảng ghi rằng: “Ngƣời này đã từng trì tụng Chú Đại Bi, tội báo của
    người này đều đã được hóa giải toàn bộ.”
    Tất cả các vị quỷ thần trong địa ngục đều cúi đầu lễ bái sùng kính ngƣời trì chú này
    như lễ bái cung kính chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vậy. Đồng thời
    các vị quỷ thần ấy sẽ hộ trì người trì chú cũng như họ thường hầu cận chư Phật
    vậy, và các vị quỷ thần đều thông báo cho nhau biết là không nên quấy nhiễu
    người trì chú này. Thần lực của chú Đại Bi thật là không thể nghĩ bàn.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  18. #18

    Mặc định CÚ GIẢI ( Giảng Giải Từng Câu )

    1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
    Hàng ngày chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A – di - đà Phật. Nam mô Bổn sư
    Thích – ca Mâu – ni Phật. Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không?
    Chắc là rất ít người biết được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong
    một pháp hội nhưng chưa một người nào có đƣợc câu trả lời hoàn chỉnh cả.
    Nam – mô, phiên âm chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng
    dịch là “Quy mạng kính đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của
    con về nương tựa vào chƣ Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà
    con xin dâng trọn vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống
    thì con sống; bảo con chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là
    “Quy mạng”.
    Còn “Kính đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý
    nghĩa của Nam – mô.
    Còn “Quy y” có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của
    mình trở về nương tựa vào đức Phật.
    Nói tổng quát. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo
    vô biên vô tận trong khắp mười phương”.
    Đó chính là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì
    niệm. Mặc dù đó là bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là
    quy y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại
    vị lai. Khi quí vị trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với
    Tam Bảo thường trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho tất
    cả mọi loài hữu tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính lễ
    mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.
    Quí vị có biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị
    nên biết rằng, trên thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và
    Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà
    còn cao quý đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi
    tưởng phi phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật pháp
    nữa. Trong mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta cần
    phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên
    cố và thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
    Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y
    Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y
    Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi
    quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là
    những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
    Nhưng khi đã quy y rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành,
    tương ứng với lời dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị vẫn
    còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục,
    nói dối, nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì quí vị
    không thể nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Bở vì
    trong Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói: “Tôi đã quy y
    Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục,
    ngạ quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi muốn…”
    Quí vị phải thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành
    những việc thiện, dứt khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn
    tiếp tục làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.
    Đạo Phật không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm
    tin. Nếu có niềm tin thì dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn
    ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi
    vào hỏa ngục”.
    Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa
    vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước
    thiện thì quí vị vẫn đƣợc lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con
    người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.”
    Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí
    vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
    “Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục
    như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
    Chân chính quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa
    đổi mọi lỗi lầm. Như một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm
    thuần túy những việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt
    được lợi ích thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
    có nghĩa là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương
    Khi quí vị trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí
    vị. Lúc gặp tai chướng, quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ
    da thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và
    nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai
    pháp”, là một trong năm bộ chú hộ ma.
    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da cũng còn đƣợc gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là
    từ trƣớc đến nay quí vị đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng
    chú này, thì thiện căn của quí vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không
    kể xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích pháp”.
    Quí vị có thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này
    thôi: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn
    điều gì, thì sở nguyện sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí
    vị không có con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá
    ra dạ da sẽ sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành, không
    phải chỉ niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất là trong ba năm.
    Nếu quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam
    mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm
    được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam
    mô hắc ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không thể nghĩ
    bàn.
    Câu chú này cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có
    thể hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
    Tuy vậy, câu chú này không phải là “Câu triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu
    chú thuộc trong “Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều
    đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.
    Vậy nên, câu chú Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này có công năng rất mạnh,
    không thể suy lường được. Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
    Tóm lại, trong câu Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy
    mạng kính đầu”. Hắc ra đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là
    “Lễ”.
    Nghĩa toàn câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ
    Tam Bảo vô tận vô biên trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta
    phải cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
    Vì sao gọi là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận.
    Chư Phật trong thời hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng
    vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  19. #19

    Mặc định Nam mô a rị da

    Nam Mô như đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân tâm, tánh mạng quy y và kính
    lễ, học tập chư Phật và chư Bồ – tát”. A rị có nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam
    mô A rị da có nghĩa là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả các pháp
    bất thiện.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

  20. #20

    Mặc định 3. Bà lô yết đế thước bát ra da

    Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được
    dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh
    Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát”
    nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến.
    Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
    Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là
    ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
    quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại.
    Thầy Pháp Cao Tay Ấn ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 39
    Bài mới gởi: 04-02-2020, 02:40 PM
  2. Thuốc chữa bệnh U sơ tuyến tiền liệt – Ung thư Tiền liệt tuyến
    By benh_thuoc in forum Nơi Rao vặt, Trao đổi, Hiến tặng ...
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-07-2013, 10:28 AM
  3. Trả lời: 75
    Bài mới gởi: 17-04-2013, 04:38 AM
  4. Tuyệt chiêu, tuyệt kĩ võ công
    By NganhCong in forum Võ Thuật
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 24-02-2013, 02:03 PM
  5. Tuyển thêm người vào lớp học dịch lý-lục hào
    By vietsuper in forum Dịch học ( Dịch số, Thái Ất, Kỳ Môn Ðộn Giáp, Hoa Mai, Bát tự hà lạc,…)
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 14-02-2013, 09:23 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •