'Chiến trường K ác liệt hơn chống Mỹ'
Cập nhật lúc 02 AM, 02/07/2012
Với nhiều người lính,10 năm cho một cuộc chiến đánh tan bè lũ Pol Pot còn ác liệt hơn cả thời kỳ chống Mỹ.
Trở về từ chiến trường
(Đất Việt) Nói tới cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, nhiều người chỉ nghĩ đến giai đoạn từ cuối năm 1978, đầu 1979, mà mốc dấu là sự kiện 7/1/1979 cho đến khi quân tình nguyện Việt Nam hoàn toàn rút khỏi Campuchia vào năm 1989. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này đã thực sự bắt đầu từ những năm 1976, 1977 với việc quân Pol Pot đánh chiếm đảo Thổ Chu, đảo Phú Quốc rồi gây ra những vụ tàn sát người Việt ở An Giang, Tây Ninh.
Giai đoạn ác liệt nhất
Theo những người lính từng tham chiến ở chiến trường K, chính thời kỳ năm 1977, 1978 mới là ác liệt nhất trong cuộc đối đầu với lực lượng Pol Pot.
Trước tháng 12/1978, dù Pol Pot thường xuyên xâm lấn lãnh thổ và tàn sát nhân dân Việt Nam nhưng chúng ta chỉ phòng thủ biên giới để bảo vệ lãnh thổ.
“Giai đoạn 1977, 1978 mới là ác liệt nhất, quân ta thương vong nhiều nhất vì lúc đó Nhà nước mình còn chờ đợi một giải pháp chính trị, cho nên quân đội chỉ được chốt giữ ở biên giới để phòng giữ chứ không được tiến công địch. Nhưng ta cứ chốt ở đâu thì địch bu bám đến đánh phá chỗ đó, thậm chí nó còn luồn sang đất ta để đánh từ sau lưng các đơn vị chốt giữ biên giới”, ông Nguyễn Hữu Hiệu, cựu lính trinh sát của Sư đoàn 7 - đơn vị đóng chốt ở biên giới Tây Ninh, nói.
Ngôi chùa từng là căn cứ của d7, e209, f7 trong những ngày truy quét quân địch Ảnh: L.T.Hiếu
Mấy ngày trước, khi tìm gặp ông Nguyễn Hữu Hiệu, nhờ ông Hiệu gọi điện báo, tôi có may mắn được gặp cả 3 cựu binh (ông Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Hữu Ngôn, Lê Nho Hữu) cùng một lúc. Ông Hiệu cho biết: “Một cái làng nhỏ như làng Ngọc Lâu này (xã Cẩm Hoàng, Cẩm Giàng, Hải Dương) mà đã có đến 4 liệt sĩ, 1 thương binh, 1 bệnh binh trong chiến tranh biên giới Tây Nam đấy anh ạ”.
Tham gia quân ngũ từ tháng 2/1974 đến đầu năm 1982 ra quân, ông Nguyễn Hữu Hiệu đã đi qua cả hai cuộc chiến. Những ngày chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc cho đến những trận đánh ác liệt trong chiến tranh biên giới Tây Nam đều có mặt ông Hiệu.
Với góc nhìn của một người lính đã đi qua cả hai cuộc chiến, ông Hiệu bảo: “Nhiều người cứ nghĩ chỉ có kháng chiến chống Mỹ là ác liệt nhưng công bằng mà nói thì nhiều khi đánh nhau với quân Pol Pot còn ác liệt, thương vong nhiều hơn thời đánh Mỹ”.
Ông Lê Nho Hữu, lính bộ binh trung đoàn165, vừa là đồng đội, vừa là đồng hương của ông Hiệu, tiếp lời: “Phải thừa nhận là thời kỳ chiến tranh biên giới Tây Nam là ác liệt vì cả hai bên đều dùng nhiều hỏa lực mạnh cho nên mức độ sát thương rất lớn”.
Trong một góc nhìn khác, ông Ngôn, lính trinh sát trung đoàn 20 chia sẻ: “Trong kháng chiến chống Mỹ, cán bộ trung cao cấp của mình thương vong không nhiều nhưng trong chiến tranh biên giới Tây Nam, mình mất cả một thiếu tướng (tướng Kim Tuấn, Tư lệnh quân đoàn 3), còn cán bộ cấp trung đoàn, sư đoàn bị thương là chuyện bình thường. Có thể thấy rằng cuộc chiến đánh Pol Pot rất quyết liệt chứ không phải “giặc cỏ” dễ đánh như nhiều người vẫn nghĩ”.
Liên tục bổ sung quân
Trong hồi ức của ông Nguyễn Hồng Quân, cựu chiến binh thuộc e7, trung đoàn 209 (e209), sư đoàn 7 (f7) - những ngày đó thật sự khốc liệt. Nhiều đơn vị thương vong với mức độ ngay cả thời chống Mỹ cũng ít có. Ví như trận đánh ngày 9/7/1978 của cả đại đội hơn 40 tay súng thuộc tiểu đoàn 7, gần như xóa sổ.
“Buổi sáng hôm ấy, hơn 40 anh em đại đội tôi lên giữ chốt, bị địch vây đánh 4 phía, cắt mất cả liên lạc với tiểu đoàn và các đại đội khác. Các anh em chiến đấu rất dũng cảm, anh Phạm Bá Lịch riêng ngày hôm đó đã bắn B40 nhiều đến nỗi tai bị điếc đặc. Nhưng địch quá mạnh lại có xe tăng thiết giáp hỗ trợ nên chúng tôi không chốt giữ được”, ông Quân nhớ lại.
Theo ông Quân, trận ấy có thể nói là ta thiệt hại rất nặng nề. Cả một đại đội hơn 40 người sáng lên chốt, đến tối khi chạy về được tới tuyến sau chỉ còn chưa đến chục người. Có 4 anh nuôi của đại đội gánh cơm lên cho đơn vị đều hy sinh cả. Chỉ cần nhìn vào việc bổ sung quân số, là thấy được mức độ khốc liệt của cuộc chiến.
Những cựu chiến binh thôn Ngọc Lâu, Cẩm Giàng, Hải Dương (trong ảnh từ trái sang: ông Hiệu, ông Ngôn, ông Hữu). Ảnh: Trường Sơn.
Ông Lê Thanh Hiếu, từng là lính e209, f7 kể: “Hồi ấy anh văn thư của đơn vị đi học sĩ quan vắng nên tài liệu giấy tờ của đơn vị được giao cho tôi. Trong năm 1978, chỉ riêng đại đội tôi (c2, d7, e209, f7) phải bổ sung quân số đến 21 lần. Mỗi một lần bổ sung quân số, nhiều thì trên 10 người, ít nhất là 3 người. Như thế cho thấy mức độ hao hụt, thương vong quân số phải rất lớn”.
Ông Nguyễn Trung Lâm, cũng là cựu binh của e209 kể: “Trong những năm 1978, tôi là trung đội trưởng, có lần tối hôm trước, trung đội vừa được bổ sung 7 - 8 lính mới, sáng hôm sau đã có 4 - 5 anh em hy sinh, vì đêm trước bị địch tập kích vào chốt của đơn vị. Phần lớn họ hy sinh khi còn rất trẻ, mới 18, 19 tuổi, thậm chí chỉ huy còn chưa kịp biết hết mặt, nhớ hết tên”. Ông Lâm cho biết thêm: “Trong cuộc chiến tranh ấy, bộ đội mình ngã xuống nhiều lắm, nếu ai có điều kiện vào nghĩa trang Gò Dầu, Tây Ninh thì sẽ thấy không kém gì nghĩa trang Trường Sơn”.
Trường Sơn
Bookmarks