kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: Tuyên Ngôn Niệm Phật

  1. #1

    Mặc định Tuyên Ngôn Niệm Phật



    TUYÊN NGÔN NIỆM PHẬT (những ai thiếu lòng tin thì nên đọc bài văn tuyên ngôn này hằng ngày để tăng trưởng niềm tin)

    - Tôi tuyệt đối tin tưởng có thế giới Tây Phương Cực Lạc, chắc chắn có đức Phật A-di-đà hiện hữu.

    - Tôi tuyệt đối tin mình là một phàm phu đầy tội lỗi, nghiệp chướng sâu nặng, chìm đắm trong luân hồi sinh tử, nếu dựa vào tự lực tu hành thì dầu là dùng phương pháp gì cũng tuyệt đối chẳng thể thành tựu.

    - Tôi tuyệt đối tin tưởng rằng chỉ có nương vào sức Phật A-di-đà, nhờ Ngài cứu giúp mới có thể liễu thoát sinh tử, giải quyết sự thống khổ của sinh tử luân hồi.

    - Tôi tuyệt đối tin tưởng vào thệ nguyện cứu độ của đức Phật A-di-đà. Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, chẳng luận thiện hay ác, chẳng bàn trí hay ngu, chẳng kể sang hay hèn chỉ cần muốn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, nếu xưng lên danh hiệu A-di-đà Phật, thì nhất định đức Phật A-di-đà sẽ đến tiếp dẫn, cứu độ cho họ được vãng sinh.

    - Tôi tuyệt đối tin tưởng vào Phật lực của đức Phật A-di-đà tuyệt nhiên không có chướng ngại. Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dẫu là chúng sinh trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh chỉ cần chịu tin, chịu nguyện, nếu xưng niệm A-di-đà Phật thì quyết định có thể nương vào Phật lực vượt thoát sinh tử, đoạn dứt luân hồi.

    - Tôi tuyệt đối tin tưởng tín nguyện niệm Phật thì nhất định vãng sinh thành Phật, đức Phật A-di-đà tuyệt đối cứu độ tôi. Tôi tuyệt đối tin vào sức Phật, tin tưởng đức Di-đà, tiếp nhận sự cứu độ của đức Phật A-di-đà.

    - Tôi rất mong mỏi sớm được vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, sớm ngày nào tốt ngày đó, nhanh chừng nào mừng chừng đó. Lòng tôi tràn ngập sự hân hoan, mong kỳ hạn vãng sinh đó đến sớm một chút.

    - Tôi không sợ chết, tôi vui lòng chết, chết sớm một chút thì càng đến thế giới Cực Lạc sớm một chút, sớm lìa khổ được vui. Tôi chẳng sợ chết, thậm chí toàn tâm toàn ý mong ngày chết kia đến sớm một chút.

    - Mỗi ngày đều là ngày chết của tôi, mỗi lúc đều là lúc tôi vãng sinh, đều là lúc tôi nhàm chán Ta-bà, ưa cầu Cực Lạc. Tôi mỗi giờ mỗi phút, mọi thứ mọi việc đều đã chuẩn bị xong rồi, buông bỏ sạch trơn, đợi chết đến, đợi đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn vãng sinh.

    - Nếu ngay lúc này, đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn tôi đi, cũng có nghĩa là ngay lúc này tôi phải chết, lập tức phải bỏ vợ con, quyến thuộc, địa vị, tài sản đang có, tôi cũng chẳng mảy may do dự, đi ngay tức khắc, chẳng chút sợ sệt, chẳng chút lưu luyến.

    - Tôi tin tưởng đức Phật A-di-đà, tôi mong muốn đến thế giới Cực Lạc, tôi biết mình nhất định vãng sinh về Tây Phương. Nếu như duyên đời chưa mãn, tôi sẽ xem mình là con của đức Di-đà, là dân của nước Cực Lạc, cố gắng chân thật thành tâm làm tròn bổn phận, nỗ lực hiếu dưỡng cha mẹ, giáo dục vợ con, hết lòng làm tròn cương vị công tác, hành thiện sửa lỗi, chở che người cô thế, cưu mang kẻ khốn cùng, phóng sinh hộ sinh, chay lạt sám hối. Tôi sẽ gắng hết sức mình để nêu lên tấm gương tốt của người niệm Phật cho những người trong thế gian noi theo.

    - Trong tận đáy lòng, tôi luôn tâm niệm: “Nam mô A-di-đà Phật!”, đức Phật A-di-đà là cha tôi, đức Phật A-di-đà là mạng sống của tôi, cõi nước của đức Phật A-di-đà là chỗ tôi phải quay trở về, cho nên tôi chấp trì danh hiệu, nhớ nghĩ về Ngài, lòng chẳng quàng xiên, một môn thâm nhập, mỗi ngày đều nhớ nghĩ đến người cha lành Di-đà của tôi; mỗi lúc luôn nhớ nghĩ đến quê cũ Cực Lạc của tôi. Một câu “Nam mô A-di-đà Phật” là tất cả sự tu hành, là tất cả sinh mạng của tôi.

    (Ngữ Lục của Đại sư Thiện Đạo)
    Nam-mô A-di-đà Phật
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  2. #2

    Mặc định

    Xin lỗi bạn nhưng bài của bạn mình thấy hoang tưởng quá.
    Tin một cách cuồng tín, không hiểu gì về cái mình tin là đang sỹ nhục chính đức tin bản thân.
    Cha bạn là cha bạn, không phải Adda Phật.
    Nhưng mình nghĩ ý tưởng của bạn phù hợp với số ít người rơi vào tình trang cực kỳ đau khổ, trắng tay toàn diện, những tử tù, tù chung thân, khủng bố đánh bom liều chết..., không cần gì cả ngoài một niềm tin mù quáng, chỉ cần làm theo không cần hiểu, sau khi chết họ sẽ được lên cõi cực lạc hoặc thiên đàng với nhiều lợi lộc để thoát khỏi hoàn cảnh bi đát hiện tại.
    Mong bạn có cái nhìn hữu minh hơn.
    Last edited by bangtown; 12-09-2017 at 01:31 PM.

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi bangtown Xem Bài Gởi
    Xin lỗi bạn nhưng bài của bạn mình thấy hoang tưởng quá.
    Tin một cách cuồng tín, không hiểu gì về cái mình tin là đang sỹ nhục chính đức tin bản thân.
    Cha bạn là cha bạn, không phải Adda Phật.
    Nhưng mình nghĩ ý tưởng của bạn phù hợp với số ít người rơi vào tình trang cực kỳ đau khổ, trắng tay toàn diện, những tử tù, tù chung thân, khủng bố đánh bom liều chết..., không cần gì cả ngoài một niềm tin mù quáng, chỉ cần làm theo không cần hiểu, sau khi chết họ sẽ được lên cõi cực lạc hoặc thiên đàng với nhiều lợi lộc để thoát khỏi hoàn cảnh bi đát hiện tại.
    Mong bạn có cái nhìn hữu minh hơn.
    Niềm Tin là điều quan trọng nhất trong Phật Giáo. Là Thiện Căn gốc rễ điều lành đi đến con đường giải thoát. Dù người theo hệ phái Bắc Tông hay Nam Tông nếu không có Niềm Tin thì không thể giải thoát được. Bạn tu theo Nam Tông chắc bạn cũng biết rằng phải có Niềm Tin Bất Động vào Phật, Pháp, Tăng và giữ giới mới có thể chứng được quả Dự Lưu đó sao.

    Sau đây mình sẽ trích của hai hệ phái Bắc Tông và Nam Tông cho thấy Niềm Tin quan trọng như thế nào.

    LÒNG TIN LÀ GỐC RỄ ĐIỀU LÀNH SANH RA CÁC CÔNG ĐỨC

    * Kinh Hoa Nghiêm: "Như người có tay, vào trong núi báu, tự do lấy ngọc; người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp, tự do lấy của báu vô lậu."

    * Kinh Tâm Địa Quán: "Như người không tay tuy đến núi báu, không lấy được gì. Người không lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì."

    * Luận Đại Trí Độ: "Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được."

    * Kinh Tiểu Địa Quán: "Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành."

    * Kinh Lăng Nghiêm: "Tin chơn lý thường trú gọi là lòng tin."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Lòng tin làm nhân cho nghe pháp, nghe pháp làm nhân cho lòng tin."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Nhân duyên được nghe chánh pháp, là gần gũi bạn lành; nhân duyên gần gũi bạn lành đó là lòng tin vậy. Phát được lòng tin có hai nhân duyên là: nghe pháp và suy nghĩ nghĩa lý của pháp."

    * Luận Khởi Tín: "Nói lòng tin có 4 món:

    - Một là lòng tin cội gốc, nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như.
    - Hai là tin đức Phật có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi, cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu xin nhất thế trí.
    - Ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo.
    - Bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát cầu học hạnh như thật."

    * Kinh Niết Bàn:

    "- Lòng tin lại có 2 món: một là từ nghe mà sanh, hai là từ nghĩ mà sanh. Những người từ nghe sanh mà chẳng từ nghĩ sanh, thì gọi là lòng tin chẳng đầy đủ.

    - Còn có 2 món nữa: một là tin có Đạo, hai là tin có chứng Đạo. Lòng tin người nào chỉ tin có Đạo mà chẳng tin có các người chứng Đạo, ấy gọi là lòng tin chẳng đầy đủ."

    * Kinh Đại Bảo Tích:"Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin."

    * Kinh Đại Bát Niết Bàn:" Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai."

    * Kinh Phạm Võng: "Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy."

    * Kinh Đại Trang Nghiêm: "Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng; trong các của báu, của đức tin đứng đầu."

    * Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa:" Nếu người trồng căn lành, nghi thời hoa chẳng nở; lòng tin được trong sạch, hoa nở liền thấy Phật."

    * Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới."

    * Kinh Hoa Nghiêm: "Tin là nguồn Đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở chỉ Niết Bàn, đạo Vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho Pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các nạn, được không nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo Vô thượng giải thoát; tin chẳng phá hư giống công đức; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay thêm ích trí tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật."

    * Kinh Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Sumana nói "Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho thiện nam tử có lòng tin. Thế nào là năm?

    1. Các Thiện nhân, các Chân nhân, trước hết có lòng thương tưởng đến vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin;

    2. Khi đến thăm, trước hết họ đến thăm vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin;

    3. Khi chấp nhận, họ chấp nhận (các món ăn) trước hết từ những người có lòng tin, không từ những người không có lòng tin;

    4. Họ thuyết pháp trước hết cho những người có lòng tin, không cho những người không có lòng tin;

    5. Người có lòng tin, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi lành, cõi Trời.

    Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm lợi ích cho thiện nam tử có lòng tin. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên khoảnh đất tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim chung quanh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ.

    Như cây bàng to lớn,
    Với cành, lá, trái cây,
    Với thân, rễ, đầy trái,
    Làm chỗ trú loài chim.
    Tại trú xứ thoải mái,
    Các con chim làm tổ,
    Cần bóng mát, hứng mát,
    Cần trái cây, ăn trái.
    Cũng vậy, vị trì giới,
    Người có lòng tịnh tín,
    Khiêm nhường và nhu thuận,
    Hiền hòa, lời từ tốn,
    Tánh tình thật dịu hiền,
    Vị đoạn tham, đoạn sân,
    Ðoạn si, không lậu hoặc,
    Là ruộng phước ở đời.
    Họ đến người như vậy,
    Họ thuyết pháp, người ấy
    Ðoạn trừ mọi khổ đau,
    Vị ấy ở tại đây,
    Hiểu biết Chánh pháp ấy,
    Viên bản nhập Niết-bàn,
    Hoàn toàn không lậu hoặc.

    * Trong Tương Ưng Bộ tập 1, chương 10, phần Alavaka cũng nói:
    "Lòng tin đối người đời,
    Là tài sản tối thượng.
    Chánh pháp khéo hành trì,
    Ðem lại chơn an lạc.
    Chân lý giữa các vị,
    Là vị ngọt tối thượng.
    Phải sống với trí tuệ,
    Ðược gọi sống tối thượng."

    * Kinh Kìtàgiri, Trung Bộ nói: “Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ.

    Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một vị có lòng tin đi đến gần; sau khi đến gần, vị ấy tỏ sự kính lễ; sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai; sau khi lóng tai, vị ấy nghe pháp; sau khi nghe pháp, vị ấy thọ trì pháp; sau khi thọ trì, vị ấy suy tư ý nghĩa các pháp được thọ trì; sau khi suy tư ý nghĩa, các pháp được chấp thuận; sau khi các pháp được chấp thuận, ước muốn sanh khởi; sau khi ước muốn sanh khởi, vị ấy nỗ lực; sau khi nỗ lực, vị ấy cân nhắc; sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần. Do tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy.

    Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu không có lòng tin ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự đến gần ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có tỏ sự kính lễ ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự lóng tai ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nghe pháp ấy, thời này Tỷ-kheo, không có sự thọ trì pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự suy tư ý nghĩa ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự chấp thuận pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự ước muốn ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nỗ lực ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự cân nhắc ấy, thời này các Tỷ-kheo không có sự tinh cần ấy. Này các Tỷ kheo, ở đây, các Ông đã đi vào phi đạo. Này các Tỷ-kheo, ở đây, các Ông đã đi vào tà đạo. Thật là quá xa, này các Tỷ-kheo, các kẻ ngu này đã đi ra ngoài Pháp và Luật này."



    Hỏi: Xin hỏi Pháp sư, có người cho rằng Pháp môn Phật A-di-đà, là Tổ sư sau này phát minh, thời xưa không có Phật A-di-đà, đúng vậy không?

    Đáp: Kinh điển y cứ chính của pháp môn này là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà, là do Phật nói, và kinh điển y cứ phụ rất nhiều, có hơn hai trăm bộ, cho nên có căn cứ của Phật nói, có sự truyền thừa của Tổ sư, cũng có sự chứng ở hiện tại. Sự chứng ở hiện tại chính là tác phẩm Niệm Phật cảm ứng lục mà tôi đã biên soạn; trong sách này mỗi câu chuyện đều nói về cảm ứng của niệm Phật, nếu không có Phật A-di-đà, thì bạn niệm như thế nào cũng không có cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng chữa bệnh, có cảm ứng xua đuổi ma quỷ, có cảm ứng bản thân niệm Phật, người nhà tiêu tai miễn nạn, có sự tích bình thường niệm Phật, lâm chung Phật đến tiếp dẫn; có người cả đời không niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung đứt hơi, họ chỉ niệm Phật với chúng tôi vài câu thì nói Phật A-di-đà đã đến phía trước tiếp dẫn họ. Thế nên, có văn chứng, có lí chứng, có sự chứng, sự thật vững chắc ở ngay trước mắt, không bị người lừa.

    Pháp sư Huệ Tịnh
    HGTĐ dịch 17.7.2017
    Nam-mô A-di-đà Phật
    Last edited by 123456789; 12-09-2017 at 02:06 PM.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  4. #4

    Mặc định

    Niềm tin phải đi cùng với trí tuệ. Nếu không sẽ là mê.

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tuanfodacon Xem Bài Gởi
    Niềm tin phải đi cùng với trí tuệ. Nếu không sẽ là mê.




    Đối với pháp môn Tịnh Độ, vô minh nghiêm trọng nhất không phải là tham sân si mà là nghi.

    Bởi lẽ, chúng ta nghi ngờ sự cứu độ của Phật A-di-đà, khiến chúng ta tiếp tục tạo tội nghiệp, chịu khổ báo trong sáu đường ba cõi này. Còn luân hồi, chỉ cần làm người thì sẽ tạo thập ác, lại là ỷ mạnh hiếp yếu. Nói về phương diện này, chẳng phải tội nghiệp ‘vô minh nghi ngờ’ về Phật A-di-đà so với tội giết người, phóng hỏa, ngũ nghịch, phỉ báng pháp còn nặng hơn đó sao? Cho nên, nghi ngờ sự cứu độ của Phật A-di-đà, nghi ngờ Phật trí, không tin cứu độ, những tội nghiệp này nặng hơn so với tội giết người, phóng hỏa. Bởi lẽ, do nghi ngờ mà không thể được vãng sanh, tiếp tục luân hồi; luân hồi thì có cơ hội tạo thập ác, ngũ nghịch, phỉ báng pháp, bất kì tội gì cũng có thể phạm phải. ‘Nghi’—nghi ngờ sự cứu độ của Phật A-di-đà – là tội lớn nhất trong tất cả các tội.

    Nam-mô A-di-đà Phật
    Pháp Sư Huệ Tịnh
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thuốc chữa bệnh U sơ tuyến tiền liệt – Ung thư Tiền liệt tuyến
    By benh_thuoc in forum Nơi Rao vặt, Trao đổi, Hiến tặng ...
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-07-2013, 10:28 AM
  2. Tuyệt chiêu, tuyệt kĩ võ công
    By NganhCong in forum Võ Thuật
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 24-02-2013, 02:03 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •