kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: Các vấn đề liên quan đến việc luận giải lá số Tử vi

  1. #1

    Mặc định Các vấn đề liên quan đến việc luận giải lá số Tử vi

    Lá số tử vi và việc cải thiện số mạng



    Khi chúng ta đi xem số, dù bằng bất cứ phương pháp nào như Tử vi, Tứ trụ, tướng mạo, quẻ Dịch...đều với mục đích xem bản thân mình có những ưu nhược điểm nào, có sở trường gì, có khả năng khi nào gặp vận hạn hanh thông, lúc nào có vận xấu, khi nào cần chờ đợi khi nào cần mạnh dạn hành động. Cũng có thể xem liệu lúc nào có thể gặp tai nạn, lúc nào có khả năng xảy ra việc phá sản hay đổ vỡ hôn nhân...hoặc có những vận có thể rất xấu...
    Tuy nhiên nếu xem số mệnh mà không có cách nào thay đổi hoặc giảm nhẹ được thì thiết nghĩ không cần xem làm gì. Đã gọi là định mệnh thì dù xem hay không nó cũng phải xảy ra như thế. Biết trước tai nạn hay vận hạn xấu chỉ thêm chuốc lo vào người, không xem có khi đỡ phải tiền mất tật mang.
    Nhiều bà nhiều cô bị các thầy mạnh miệng khủng bố :"Ngày ấy tháng ấy cô mà không bị gãy chân què tay là tôi đi đầu xuống đất" đâm ra lo quá, bản thân bị bệnh tim, tụt huyết áp sẵn, suốt ngày buồn bã bỏ ăn bỏ ngủ chưa đến ngày định mệnh của thầy đã đi cấp cứu mấy lần... Hoặc vợ chồng người ta đang yên ấm, thầy phán: "Thằng chồng nhà cô không ngoại tình là tôi đốt sách, đập mu rùa". Thế là cô vợ lập tức nghi ngờ, nhìn chồng bằng đôi mắt mang hình viên đạn, thái độ bí hiểm, tình cảm lạnh nhạt. Anh chồng chán quá, dần dần đâm ra có tình ý khác thật. Rõ ràng chính lời phán của thầy đã làm méo mó số phận người ta theo hướng tiêu cực. Chả trách được đa số các thầy đều bị nghiệp báo xấu.
    Thực ra lá số như một bản hồ sơ lý lịch, một bản kết án của một "tù nhân bể khổ", trong ấy chỉ nêu những khả năng có thể xảy ra, không khẳng định "Dứt khoát phải như thế" mà chỉ nêu "Có khả năng lớn sẽ như thế". Thầy không thể phán một cách chắc chắn như đinh đóng cột được.
    Thí dụ một người phạm tội, bị tuyên án 10 năm tù giam, hồ sơ ghi rõ ràng, anh ta phải có trách nhiệm thi hành đủ số năm ấy. Tuy nhiên khi làm tù nhân anh ta bỗng nhiên hối cải ăn năn, làm nhiều việc tốt, lập công chuộc tội, tích cực lao động hoặc tham gia những việc công ích. Tự nhiên được xét ân xá giảm án chỉ còn 5 năm, được tự do. Như vậy dù bản án có tình có lý, đúng người đúng tội, nhưng việc thi hành vẫn có thể khác biệt với nội dung bản án.
    Ngược lại anh chàng nọ cũng bị kết án 10 năm, vào làm đầu gấu, phá phách đánh đập bạn tù, thích làm Tù trưởng hung hăng ác độc. Sau một thời gian bị tăng lên thành 15 năm. Như vậy, vẫn bản án đúng, nhưng sự thi hành lại khác, không giống nội dung đã ghi.
    Lá số Tử vi và Tứ trụ được lập dựa vào thời điểm ra đời của đương số, ghi rõ những điều mà đương số phải thi hành trong cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên diễn biến số phận không cứng nhắc như lá số đã ghi mà có thể thay đổi theo hướng tiêu cực và tích cực. Việc tu nhân tích đức, lánh dữ làm lành sẽ làm số phận được cải thiện tốt hơn. Ngược lại đương số làm nhiều việc xấu, ác độc thì diễn biến cuộc đời sẽ chuyển biến theo hướng tiêu cực, nặng nhẹ tùy vào mức độ của các hành động của đương số.

    Kinh Dịch của Nho gia nói : "Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; Tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương"
    Tức là: Nhà nào thường tích chứa điều thiện sẽ có nhiều niềm vui; Nhà tích chứa điều ác ắt sẽ gặp tai ương.

    Kinh Niết bàn của Phật gia nói : "Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình; Tam thế nhân quả, tuần hoàn bất thất"
    Tức là: Quả báo thiện ác, như bóng theo hình; Nhân quả ba đời, xoay vần không mất.

    Thái thượng cảm ứng thiên của Đạo gia nói: "Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu; Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình"
    Tức là: Họa hay là phúc, do người tự tạo; Quả báo thiện ác, như bóng theo hình.

    Qua đây đủ biết nhân quả báo ứng là xác thực, là điều các thánh nhân thế gian và xuất thế gian đề muốn tuyên dương.

    Việc cải thiện số mạng của chúng ta cũng chính là dựa theo luật nhân quả. Dù lá số xấu mà bản thân có những động thái tích cực cải sửa thì ít nhiều vẫn có thể thi hành bản án nhẹ hơn những gì đã tuyên. Và tất nhiên nếu làm chuyện tổn phúc thì sẽ có những tình tiết tăng nặng, vận chỉ ghi có khả năng đau ốm, nhưng có khi chết luôn cũng nên!

    Và ở đây cũng cần nói thêm. Có người nói vậy là lá số Tử vi có khi sai? Thực ra lá số đúng, nhưng diễn biến cuộc sống có thể giống lá số hoặc không. Nếu một người không có động thái tăng nặng hay giảm nhẹ, sống theo cảm tính thì lá số sẽ rất ứng với cuộc sống của đương số. Như chàng tù nhân, không lập công, không gây thêm tội thì cứ thi hành đủ 10 năm mới ra, không thắc mắc Oong Đơ Toa Cát gì ráo.

    Dục tri tiền thế nhân
    Kim sinh thọ giả thị
    Dục tri lai thế quả
    Kim sinh tác giả thị.

  2. #2

    Mặc định

    Vài đặc điểm về việc xem vận hạn của phái Trung Châu

    Phái Trung Châu có cách xem vận hạn rất chi tiết và biến hóa, cung đại vận có các sao lưu và tứ hóa của đại vận. Cung Lưu niên có các sao lưu và tứ Hóa của Lưu niên.
    Cách an sao và các cung Mệnh Thân... của phái này tương tự như cách an của Nam phái, chỉ có 2 sao Linh tinh và Hỏa tinh là an thuận cho cả âm nam và dương nữ. Ngoài ra có vài sao nhỏ khác với Nam phái như Nguyệt giải, Thiên vu, Thiên nguyệt, Âm sát...
    Các cung đại hạn của Trung Châu được nạp thiên can theo tháng của năm sinh. Cung Dần trên lá số là tháng 1, cung Mão tháng 2...
    Thí dụ: Các năm Giáp, Kỷ tháng Giêng có can là Bính nên cung Dần trên lá số có can Bính, cung Mão - Đinh, cung Thìn - Mậu....
    Năm Ất Canh: Cung Dần - Mậu, cung Mão - Kỷ, cung Thìn - Canh....
    Can của cung dùng để làm căn cứ xác định các sao lưu quan trọng của đại vận như Lộc tồn, Kình dương, Đà la, tứ Hóa...
    Ngoài xem tam phương tứ chính của các sao hội hợp cung đại hạn, chúng ta có thêm khá nhiều các sao lưu của Đại hạn do đó sự luận giải sẽ chi tiết rõ ràng hơn.
    Còn một điều khá độc đáo là phái Trung Châu coi cung đại vận hiện hành là cung lưu Mệnh của đại vận, các cung khác như Phụ mẫu, Tài bạch, Quan lộc... cũng được xác định theo cung lưu Mệnh.
    Thí dụ: Một người đang trong đại vận 24-33 tuổi tại cung Ngọ, cung Ngọ được coi là cung lưu Mệnh, cung Mùi là lưu Phụ mẫu, cung Thân là lưu Phúc đức...
    Phái này không dùng các cung tiểu hạn và lưu niên đại hạn. Xem vận hạn một năm thì lấy cung có lưu Thái tuế làm lưu niên, coi là cung lưu Mệnh của năm ấy. Các cung còn lại cũng dịch chuyển thành lưu Phụ mẫu, lưu Phúc đức...
    Các sao lưu của lưu niên được lấy căn cứ vào can chi của năm xem hạn. Tương tự như Nam phái.
    Thí dụ năm nay 2012 là Nhâm Thìn, cung lưu niên tức là cung lưu Mệnh tại cung Thìn của lá số, cung lưu Phụ mẫu là cung Tị, lưu Phúc đức là cung Ngọ...
    Muốn xem hôn nhân năm ấy thế nào, người ta xem các cung lưu của Đại vận, chú trọng cung lưu Phu thê, kết hợp các cung Mệnh Tài Quan và đặc biệt lưu Phu thê của Lưu niên, tam phương tứ chính, các cung giáp, phối hợp các sao lưu để luận cát hung. Dĩ nhiên cũng không bỏ qua các cung Thân Mạng Tài Quan Phúc của lá số ban đầu. Như vậy so với Nam phái thì sự luận đoán của Trung Châu có nhiều dữ liệu hơn, chi tiết hơn.
    Còn một đặc điểm khác nữa là phái này còn mượn các sao cho cung vô chính diệu, không những mượn chính tinh mà mượn luôn các sao khác trong cung xung chiếu. Các sao mượn này sau khi được an vào cung Vô chính diệu còn có thể tạo các cách cục mới với các sao trong tam phương tứ chính của cung vô chính diệu nguyên thủy. Tạo nên sự biến hóa rất đa dạng.
    Cách khởi nguyệt hạn thì cũng tương tự như Nam phái, tuy nhiên phải bắt đầu từ cung Lưu niên thay vì cung tiểu hạn.



    Bài viết này thực ra tôi chỉ nêu vài đặc điểm xem hạn của phái Trung Châu để quý vị tham khảo mà thôi. Trong thực tế luận giải tôi hầu như không dùng cung Lưu, cũng không có chuyện đem chính tinh xung chiếu đưa vào cung Vô chính diệu rồi phối hợp với các sao trong tam hợp của cung ấy. Mấy lần tôi thử dùng cách này trên các lá số thực tế nhưng không thấy ứng nghiệm. Cách xem hạn truyền thống trên cung Tiểu hạn và Lưu niên có sự ứng nghiệm rõ ràng hơn rất nhiều. Vẫn dùng các cung nguyên thủy trên lá số, tam phương tứ chính kết hợp các sao lưu cùng Đại vận để xem hạn. Thỉnh thoảng tôi cũng dùng Lưu Tứ Hóa.
    Việc xem hạn thường phải kết hợp nhiều thứ, cung Thân mạng mạnh mẽ vững vàng, đại vận tốt, gặp Tiểu hạn kém sẽ không giống với người có cung Thân mạng yếu và ngược lại... Nói chung mỗi người có một sở trường xem hạn riêng của mình. Riêng tôi thường dùng cách xem Tiểu hạn và Lưu niên, trường hợp đương số hỏi quá cụ thể thì kết hợp thêm quẻ Dịch mới có kết luận khả dĩ. Nếu tôi dùng lá số Tử vi thông thường chỉ xem được khả năng và xu hướng sự việc là chính, khó quyết đoán được những việc cụ thể.
    Dục tri tiền thế nhân
    Kim sinh thọ giả thị
    Dục tri lai thế quả
    Kim sinh tác giả thị.

  3. #3

    Mặc định



    Một số sao khái quát về nghề nghiệp trong thuật Tử vi


    1. Những chính tinh chỉ học vấn:

    Thái Dương, Thái Âm sáng sủa:
    Ở Mệnh hay chiếu Mệnh: con người rất thông minh, lĩnh hội mau chóng, phong phú và sâu sắc, phân biện tinh vi các góc cạnh của vấn đề. Về mặt khoa bảng, Âm Dương sáng thì học giỏi, học rộng, học cao, có bằng cấp lớn, có thực học. Nếu được thêm các văn tinh khác đi kèm thì trình độ học vấn càng cao, học lực có thể lên mức quốc gia hay quốc tế.
    Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung:
    Đắc địa trở lên, hai sao này gần như đồng nghĩa, chỉ sự thông minh sắc sảo, trí đa mưu, óc quyền biến, khả năng khảo cứu chính trị, chiến lược. Cơ Lương đồng cung chỉ năng khiếu sư phạm, có tài dạy học, nghiên cứu, tìm tòi đồng thời với tài tham mưu, cố vấn. Về mặt học vấn, Cơ Lương là bộ khoa bảng quan trọng, dường như nặng ý nghĩa ứng dụng.
    Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung:
    đắc địa ở Mão và Dậu, ở Mão hay hơn. Có ý nghĩa tương tự như Cơ Lương, ngành học của Cự Cơ thiên về pháp lý, chính trị học, luật học nhiều hơn.
    Tử, Phủ, Vũ, Tướng:
    Cũng chỉ khoa bảng, cả văn lẫn võ, nhưng nặng về quý cách hơn là khoa cách. Nếu có thêm văn tinh hội tụ thì nhất định khoa bảng sẽ rõ rệt.
    Sát, Phá, Liêm, Tham:
    Chỉ năng khiếu võ nghiệp, học võ lợi và dễ hơn học văn, làm ngành quân sự đắc dụng.
    Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương:
    Nếu đắc địa, chỉ sự thông minh, học giỏi và học cao, có bằng cấp lớn. Nếu các sao trong bộ cùng đắc địa thì chắc chắn có khoa bảng cao. Nếu không, các sao đó chỉ tư chất thông minh. Nếu hãm địa thì học vấn bị trở ngại, bị chậm, dang dở. Bất lợi này chỉ được bù trừ nếu có nhiều phụ tinh khoa bảng hội tụ đông đảo.

    2. Những phụ tinh chỉ khoa bảng:

    Hóa Khoa: điển hình cho khoa bảng. Ngoài đức tính thông minh, hiếu học, Hóa Khoa còn chỉ sự đỗ đạt, trình độ học vấn cao và rộng. Năng khiếu học vấn còn đi liền với khả năng sư phạm, khả năng sáng tác, sưu tầm. Có Hóa Khoa ở Mệnh hay chiếu Mệnh, học trò thì xuất sắc, thầy giáo thì dạy hay, khảo cứu thì nổi danh, có viết sách. Hóa Khoa chỉ phương pháp dạy và học độc đáo, cách thức trình bày ngăn nắp, hệ thống hóa các điều hiểu biết một cách mạch lạc, trật tự, diễn tả tư tưởng rất rõ ràng và thông thái. Hóa Khoa là một sao hùng biện, lối hùng biện của người có học vấn uyên thâm.
    Văn Xương, Văn Khúc:
    Xương Khúc tượng trưng cho tình cảm và trí tuệ. Xương Khúc rất xuất sắc trong những ngành học nào mình thích còn Hóa Khoa thì giỏi về nhiều môn. Xương Khúc thiên về chuyên khoa nên khó ai vượt nổi Xương Khúc trong chuyên môn sở trường. Vì nặng về tình cảm nên ngành học của Xương Khúc là văn chương, triết lý, thi ca, nhạc kịch, vốn là các bộ môn làm rung động mãnh liệt tâm hồn con người.
    Thiên Khôi, Thiên Việt:
    Biểu tượng cho học trò giỏi và đỗ đạt. Khôi Việt chỉ sự lỗi lạc, xuất chúng trong nhiều ngành. Khôi còn có nghĩa là đứng đầu, cầm đầu, vì thế có tinh thần ganh đua mãnh liệt để chiếm giải nhất, không chấp nhận nổi sự thua thiệt. Đức tính quý báu của Khôi Việt là óc lãnh tụ, sự mưu cơ, tài tổ chức, chí hướng chỉ huy, lãnh đạo vì vậy Khôi Việt hữu dụng cho xã hội trong khi Hóa Khoa và Xương Khúc thường đắc dụng cho học đường, cho ngành giáo dục thuần túy. Khôi Việt vừa là người có học vừa biết ứng dụng cái học vào trường đời, cũng bằng ý chí tranh thắng thi đua, vốn là động cơ thành công trong nhiều lĩnh vực.
    Long Trì, Phượng Các:
    Bằng cấp của hai sao này rất cao, đặc biệt là khi đồng cung ở Mùi (với người tuổi Mão) hoặc ở Sửu (với người tuổi Dậu).
    Thiên Hình:
    Chỉ năng khiếu nhận xét tinh vi, phê phán phân minh, óc phân tích tỷ mỉ và sự lý luận sắc bén. Sao này đắc dụng cho người khảo cứu, cho luật gia, cho học trò, cho nhà phê bình nghệ thuật, văn chương. Văn của Thiên Hình lại khô khan, kỹ thuật, nhưng vô cùng chính xác.
    Thái Tuế:
    Sao này lanh lợi, nói giỏi, nhiều ý và nhất là nhiều lời, hoạt bát. Thái Tuế chỉ hợp với luật sư, công tố, ứng cử viên tranh cử, chính trị gia …
    Văn Tinh, Lưu Hà, Bác Sỹ:
    Văn Tinh chỉ sự ham học. Lưu Hà và Bác Sỹ chỉ sự hùng biện sự diễn đạt tư tưởng thâm thúy. Cả ba đều cần cho học trò, giáo sư, thuyết khách.
    Hỏa Tinh, Linh Tinh đắc địa:
    Đi với Thái Dương sáng sủa, Hỏa Linh làm tăng thêm sự mẫn tiệp, có lợi cho sự học hỏi và khảo cứu, điều tra. Cả ba cùng là sao hỏa nên rất sắc bén, linh động.
    Thiên Không:
    Chỉ sự thông minh của hạng mưu sĩ, dùng trí để hại, để phá, để diệt kẻ khác.

    3. Các sao trợ lực khoa bảng:

    a. Sao mở rộng học vấn:
    Tả Phù, Hữu Bật, Đế Vượng, Tràng Sinh:
    Có Tả Hữu đi với khoa tinh, sức học sẽ rộng hơn. Sinh và Vượng thì chỉ sự phong phú, tương hợp với học gạo, học ráo riết thật nhiều. Đi với khoa tinh, Sinh Vượng là hệ số làm tăng thêm kiến thức tổng quát. Ví dụ như Khoa-Sinh nghĩa là học rộng, sáng tác nhiều. Khôi-Vượng sẽ đỗ cao.
    b. Những sao thúc đẩy học vấn
    Quan Phù, Quan Phủ:
    Chỉ sự cạnh tranh, ganh tị, thi đua, ích kỷ. Về việc học, Phù Phủ chỉ sự cầu tiến, cố gắng thường đưa đến ganh đua, đôi khi có đố kỵ nhỏ nhen, cạnh tranh bất chính. Nếu gặp Hóa Kỵ hay Phục Binh hay các sao chỉ tính tham lam thì sự cạnh tranh dùng đến thủ đoạn không cao thượng.
    c. Những sao may mắn cho học vấn:
    Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc, Tả Phù, Hữu Bật: Đều có nghĩa may mắn, được giúp đỡ, được phù hộ, ví dụ như thi trúng tủ (Quang, Quý) gặp thầy dễ, bài dễ, được khoan hồng (Tả, Hữu, Quan, Phúc). Cả sáu sao này chỉ sự phù trì của linh thiêng hoặc sự trợ giúp của người đời.
    – Thanh Long, Hóa Kỵ hay Lưu Hà
    – Bạch Hổ, Phi Liêm hay Tấu Thư
    – Thiên Mã, Tràng Sinh hay Phi Liêm
    – Thiên Hỷ, Hỷ Thần
    những bộ này nếu đóng ở Mệnh hay chiếu vào Mệnh thì thường gặp vận hội tốt đẹp. Nếu đóng ở cung hạn thì gặp hên may trong hạn đó. Nếu bộ sao hên rơi đúng vào kỳ thi thì dễ đậu.

    4. Các sao cản trở khoa bảng:

    Triệt: sao này có hiệu lực chế khắc rất mạnh, cụ thể như làm cho khoa bảng bất thành, không cao, chật vật, thi rớt, đậu thấp hay đậu vớt.
    Tuần: cũng có hiệu lực khắc chế khá mạnh nhưng kém hơn sao Triệt. Văn tinh mà gặp Tuần đồng cung báo hiệu sự thi rớt, thi khó, thi nhiều keo …
    Hóa Kỵ:
    Báo hiệu việc thi rớt, thi khó, khoa bảng lận đận, dở dang. Hóa Kỵ chỉ sự nông nổi hay thay đổi chí hướng, sự bất mãn vì thất bại. Hiệu lực của Hóa Kỵ khá mạnh vì có thể làm lu mờ cả Khôi, Việt, Xương, Khúc, Hóa Khoa. Người có Khôi Việt gặp Kỵ thì chỉ là kẻ ẩn dật, bất đắc chí. Hóa Kỵ chỉ tốt khi gặp Thanh Long đồng cung mà thôi.
    Kình Dương, Đà La hãm:
    Đều chỉ sự cản trở, sự gian nan, sự chậm lụt trong khoa trường. Nếu Kình Dương miếu địa, đối với hai tuổi ất, Tân thì lại là người có tài văn chương từ đó có nghĩa thi đỗ.
    Địa Không, Địa Kiếp hãm:
    Đi với văn tinh thì rất bất lợi: không thể thi được, thi rớt, bị tai họa lúc thi (cóp bài bị đuổi …)
    Thiên Không hãm (ở Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu, Tuất, Hợi): gặp phải khoa tinh, Thiên Không làm cho khoa trường lận đận.
    Đại Hao, Tiểu Hao:
    Chủ sự thay đổi, hao tán, ứng dụng vào khoa bảng có thể có nghĩa: thi rớt keo đầu, thi hai ngành trong đó rớt một, có thể tốn tiền về thi cử.
    Thiên Khốc, Thiên Hư:
    Chỉ sự lo âu, nước mắt, xui xẻo, do đó có thể báo hiệu việc thi rớt hoặc học mà không chịu thi. Nếu đăc địa ở Tý Ngọ thì có thể đỗ ở kỳ hai vì hai sao này đắc địa lợi về hậu vận hơn.

    5. Các ngành trong khoa tử vi:

    a. Võ học:
    Sát, Phá, Liêm, Tham:
    Nếu hội đủ cả bốn sao chiếu Mệnh thì nghiệp võ của đương số sẽ rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp quân nhân vẫn không hội đủ bốn sao. Mặt khác, cũng có trường hợp có đủ bốn sao mà vẫn không phải là nhà binh. Trong trường hợp này, những sao đó nói lên võ tính của đương sự hơn là võ học hay võ nghiệp: biểu lộ tính can đảm, táo bạo, liều lĩnh, hay sát phạt, có hành động võ phu.
    Binh Hình Tướng ấn:
    Cách này chỉ sự hiển đạt trong nghiệp võ, chỉ quân nhân có tài tác chiến, tài tham mưu, đồng thời cũng là quân nhân có chiến công, có cầm quân, có huy chương.
    Vũ Tướng:
    Hai sao này kết hợp cũng chỉ võ nghiệp rất đặc sắc.
    Tử Phủ Vũ Tướng:
    Cách này vừa chỉ văn, vừa chỉ võ cho nên đặc biệt có quyền uy: đó là ngành võ cầm quyền chính trị.
    Tướng Quân, Thiên Mã:
    Chỉ quân nhân có tài. Tướng Quân chỉ võ tính, sự cương cường, hiếu thắng, phách lối còn Thiên Mã chỉ tài năng. Nếu Thiên Mã đi với Thiên Tướng cũng đồng nghĩa nhưng đây là một quân nhân có kỷ luật hơn vì Thiên Tướng vốn đôn hậu, có tư cách hơn Tướng Quân.
    Thiên Mã, Lực Sỹ:
    Là cách của võ tướng có sức mạnh từ đó vũ dũng (ít có mưu lược).
    Thiên Tướng-Tướng Quân hay Thiên Tướng-Phục Binh hay Tướng Quân-Phục Binh:
    Là tướng có quân, có quyền.
    Ngoài ra có thể kể một số sao trợ võ, nghĩa là đi chung với các võ tinh khác thì làm cho võ nghiệp rõ rệt hơn. Đó là Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh là những sát tinh, hung tinh nói lên tính nết mạnh bạo, dám làm, tác phong của võ cách. Ví dụ, hai sao Kình, Hỏa miếu địa đồng cung là số danh tướng, hợp vớ cách Sát Phá Liêm Tham. Tướng Mã Không Kiếp đắc địa chỉ quân nhân cầm binh, vị tướng cầm quân có nhiều binh tướng dưới tay, thường lập nghiệp vẻ vang trong thời tao loạn. Sát Phá Liêm Tham gặp Kình hãm địa ở Mão và Dậu là tướng làm loạn, đảo chánh, binh biến, khát máu, giết người không gớm tay.
    b. Văn học
    Văn Xương, Văn Khúc: chỉ các môn về văn chương, triết lý hoặc chỉ môn học nói chung.
    Thái Tuế, Thiên Hình, Cự Môn, Quan Phù: một trong bốn sao này chỉ các môn học về luật pháp.
    Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật: cả bốn sao này chỉ ngành dịch thuật. Đây là bộ sao của các thông ngôn, hành nghề dịch sách, tu thư, khảo cứu cổ ngữ, kim ngữ.
    Lưu Hà, Tấu Thư, Hóa Khoa, Thái Tuế, Cự Môn, Hóa Kỵ: chỉ sự hùng biện, tài dùng ngôn ngữ, ứng dụng đắc cách vào ngành sư phạm, vào khoa hùng biện, chính trị học.
    Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ người công chức. Ngành học là hành chính, quản trị công sở.
    Lộc Tồn: chỉ tài năng tổ chức, sắp xếp công việc, do đó cũng liên quan đến ngành quản trị hành chính hay công sở đặc biệt là quản trị tài chính, kế toán, ngân sách, kho bạc, ngân hàng.
    c. Khoa học:
    Thiên Tướng, Thiên Y: Hai sao này đi chung (đồng cung hay hội chiếu) có nghĩa là y học. Ngoài ra, nếu Thiên Y đi kèm với các sao phù trợ khác cũng có nghĩa về y học: Thiên Quan, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phúc, Thiên Lương, Thái Âm, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần …
    Thiên Y, Hóa Kỵ: có ý nghĩa bào chế thuốc men, có liên quan đến y dược học.
    Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Thái Dương: các sao này có nghĩa là điện, liên quan đến ngành điện học, điện tử hay nguyên tử.
    Thiên Cơ: liên quan đến máy móc, ngành cơ khí, kỹ thuật. Đây có thể là sao của kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật, kỹ nghệ gia.
    d. Kinh tế học:
    Vũ Khúc, Tham Lang: Vũ Khúc chỉ tài lộc, tiền bạc. Tham Lang chỉ sự đua chen tham lợi. Đây là cách chỉ nghề thương mại, kinh doanh.
    Hóa Lộc, Lộc Tồn và Thiên Mã: Hai sao Lộc chỉ tiền tài. Thiên Mã chỉ tài năng, sự tháo vát, giao dịch. Hai sao này đi chung chỉ ngành thương mại, đặc biệt là ngành thương mại lưu động. Người có bộ sao Mã Lộc hay Mã Tồn là kẻ mua sỉ bán lẻ hay đại lý thương mại hay người phân phối, đóng vai luân lưu hàng hóa trong hệ thống kinh tế.
    Vũ Khúc, Thiên Phủ: Thiên Phủ chỉ cái kho tàng hay kho bạc. Ngành học của Phủ có thể là ngân hàng, tín dụng, thuế khóa. Vũ Khúc có thể chỉ kinh tế học. Đây là cách chỉ ngành kinh tế, tài chính.
    Vũ Khúc, Tham Lang, Kình Dương, Thất Sát: bốn sao này sáng sủa hội họp thường thiên về kỹ nghệ.
    e. Nghệ thuật:
    Phượng Các, Tấu Thư, Xương Khúc: Phượng Các là thính giác. Tấu Thư là sự linh mẫn, êm dịu, ngọt ngào. Xương Khúc chỉ môn học. Bốn sao này đi cùng chỉ môn âm nhạc.
    Tấu Thư, Hồng Loan: Hồng Loan có nghĩa là hoa tay, từ đó chỉ ngành học liên quan đến sự khéo tay như hội họa, điêu khắc, thêu may, hay thủ công nghệ nói chung.
    Đào Hoa, Tấu Thư, Thiên Hỷ, Vũ Khúc: bộ sao của ca sĩ, kịch sĩ, diễn viên màn ảnh, tài tử, minh tinh, có liên quan đến ngành học như hát, đóng kịch, đóng phi. Đào Hoa chỉ sự hâm mộ, Thiên Hỷ chỉ sự giúp vui, Vũ Khúc chỉ danh giá, sự nổi tiếng.
    Thiên Trù, Tấu Thư, Hóa Lộc hay Hồng Loan: chỉ ngành nấu bếp, nấu rượu, chế tạo thức ăn thức uống hoặc gia chánh.
    Đào Hoa, Hồng Loan với Mộc Dục hay Hoa Cái: chỉ môn thẩm mỹ học, chuyên về sửa sắc đẹp. Nếu đi với Thiên Hình hay Kiếp Sát chỉ môn giải phẫu thẩm mỹ.
    B/ Cách nghề nghiệp – Những sao bá nghệ
    nghe-nghiep-trong-tu-vi-2
    1. Những nghề liên quan đến văn học:
    a. Nghề dạy học
    + Nói giỏi:
    Lưu Hà: chỉ sự lưu loát của ngôn ngữ, sự phong phú của tư tưởng, sự ngăn nắp của bố cục, sự linh mẫn của lý luận, sự hấp dẫn của nội dung …
    Thái Tuế: chỉ sự nói nhiều, khả năng biện luận, khuynh hướng đấu lý.
    Tấu Thư: chỉ sự khôn khéo trong ngôn ngữ, sự thanh nhã của ý tưởng, sự mềm mỏng của cách trình bày và hiệu lực thuyết phục sâu sắc.
    Hóa Khoa: chỉ sự thông thái của tư tưởng, sự cao kiến của học thức, sự khúc chiết của cách trình bày.
    Thiên Hình: chỉ khả năng phân tích sắc bén, sự sáng sủa của tư tưởng và của lối nói, lối viết, sự tinh vi của lý luận.
    Học giỏi: Văn Xương, Văn Khúc, Văn Tinh – Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Khoa – Thái Dương, Thái Âm sáng sủa – Cự Môn, Thiên Cơ ở Mão, Dậu – Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất – Long Trì, Phượng Các, Bác Sỹ.
    Hai năng khiếu nói giỏi và học giỏi là căn bản cho nhiều nghề khác nữa như chính trị gia, thương thuyết gia, sĩ quan tâm lý chiến, cán bộ dân vận, ứng cử viên tranh cử, cổ động viên, quảng cáo, môi giới, hòa giải. Điều cần lưu ý là xem số giáo sư, nên để tâm nhiều hơn vào cung Nô, vì đa số thày giáo giỏi có cung Nô rất tốt.
    b. Nghề hành luật:
    Thái Tuế, Quan Phù, Quan Phủ: Thái Tuế bao giờ cũng tham chiếu với Quan Phù còn Quan Phủ lại đồng nghĩa với Quan Phù. Bộ sao này điển hình cho ngành luật, mọi chuyện liên quan đến luật pháp từ kiện tụng, tù ngục, điều tra, thưa gửi, khiếu nại, bắt bớ đến truy tố, xét xử, bênh vực, tranh chấp …
    Thiên Hình: cũng chỉ nghề luật, đặc biệt là tư cách bị cáo, bị án, bị điều tra, bị gọi làm nhân chứng … Trong trường hợp hành nghề luật thì ý nghĩa tích cực ưu thắng: đương sự chuyên xử, truy bắt, bỏ tù, kết án kẻ khác. Trong một lá số tốt, Thiên Hình có nghĩa làm luật, cầm luật.
    Cự Môn, Hóa Kỵ: chỉ sự đa nghi, cạnh tranh trước pháp luật, vừa chỉ các vấn đề liên hệ đến luật pháp, từ việc nghiên cứu luật pháp, học luật pháp cho đến dạy luật pháp và hành xử luật pháp. Tư cách nạn nhân của một vụ tranh chấp trước pháp luật cũng được bao hàm, nhất là khi gặp vị trí hãm địa và không hành nghề luật chính tông.
    c. Nghề chính trị:
    Phục Binh: chỉ thủ đoạn, chỉ sự rắp tâm mưu hại kẻ khác, đồng thời cũng có nghĩa là mình mưu hại bằng thủ đoạn. Có Thái Tuế đi kèm thì càng rõ nghĩa. Đương sự phải chịu nhiều búa rìu của dư luận, đồng thời cũng sử dụng lại dư luận để đập lại đối thủ hay địch thủ. Những năng khiếu đi liền với Phục Binh tất phải có, từ sự lừa lọc, gài bẫy cho đến việc đánh úp, bôi nhọ, thanh lọc, kiềm chế, bế tỏa, ngăn trở, chèn ép, chụp mũ …Thiên Không: gần như đồng nghĩa với Phục Binh, chỉ tư chất lưu manh của hành động, mánh khóe, xảo thuật ứng dụng để loại trừ đối thủ hoặc để tự vệ, chống đỡ phản đòn của họ cũng bằng các thủ đoạn đó.
    Bạch Hổ – Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa: Bạch Hổ chỉ xu hướng hoạt động chính trị của phái nam, đồng thời chỉ sự hùng biện, sự khích động, sự lôi cuốn thiên hạ bằng ngôn ngữ có tâm huyết, có khí phách, có tác dụng xách động, có dụng tâm cổ võ tranh đấu. Thiên Khốc, Thiên Hư cũng đồng nghĩa. Nếu được đắc địa thì xu hướng chính trị có triển vọng, ngôn ngữ đắc dụng và có hiệu quả. Nếu hãm địa thì có khuynh hướng sai ngoa, xuyên tạc nhiều hơn, tuy không hẳn có nghĩa thất bại.
    Ngoài ra, nghề chính trị đòi hỏi cung Nô tốt hoặc là có nhiều sao chỉ nhân lực trợ giúp. Có như thế, chính trị gia mới có tập đoàn ủng hộ và dân chúng hậu thuẫn, giúp cho sự tiến đạt và thành công dễ dàng và bền vững.
    d. Nghề viết văn:
    Thiên Tướng: chỉ cây bút, chỉ con người thấy sự bất bình không nhịn được, phải cải người, sửa đời. Tuy nhiên, phải có thêm sao khác để đủ diễn tả tư cách viết văn.
    Tấu Thư, Đà La, Ân Quang, Thiên Quý: Tấu Thư là giấy, Đà La là mực, Ân Quang Thiên Quý là bài vở. Ngoài ra, Tấu Thư còn chỉ sự sắc bén, tế nhị của lời văn, ngòi bút. Ân Quang, Thiên Quý chỉ sự tha thiết, hoài bão cải tạo con người cho tốt thêm.
    Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Khoa: chỉ ngành và nghề dịch thuật vì Khoa chỉ học vấn đi với Tả, Hữu có nghĩa là biết nhiều ngoại ngữ. Tả Hữu có thể đi với Văn Xương, Văn Khúc hay Văn Tinh … để chỉ nghề dịch, người thông ngôn.
    2. Những nghề liên quan đến kinh, thương:
    a. Nghề thương mại:
    Hầu hết đều có đặc tính chung là: liên quan đến tiền bạc, sự tham lam, óc tính toán và tài tháo vát:
    + Tính tham do các sao dưới đây mô tả:
    Tham Lang: điển hình cho con buôn, có óc kinh doanh và hám lợi vì thế đi với bất cứ tài tinh nào đều có nghĩa kiếm lời bằng hình thái này nọ, đặc biệt là trục lợi trong thương trường. ở thế đắc địa, tính hám lợi thường gặp may mắn, dễ làm giàu, nhất là từ 30 tuổi về sau. Người có Tham đắc địa dám mưu sự lớn lao, đầu tư vào các lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế, có óc mạo hiểm táo bạo. ở thế hãm địa như Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi, lòng tham càng dữ dội hơn khả dĩ đi đến chỗ thất tín, bất nhân. Đây là thế của gian thương đầu cơ, tích trữ, lũng đoạn kinh tế, không quan tâm đến đạo đức xã hội, dù là tối thiểu.
    Phá Quân hãm địa: ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Phá Quân vô cùng hám lợi. Riêng ở Tỵ, Hợi đi với Vũ Khúc sự tham tiền này đi tới chỗ bất lương. Duy cách này thường gặp phá sản, khánh tận hoặc buôn bán khổ nhọc ở phương xa.
    + óc tính toán và mưu trí trong thương trường được mô tả bởi những bộ sao sau:
    – Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão, Dậu
    – Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung
    – Thiên Đồng, Thiên Lương đồng cung
    – Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung ở Ngọ
    những bộ sao này không nặng tính tham mà thiên về mưu trí, sự tinh xảo trong nghề buôn, sự hiểu biết rõ ràng thương trường, tài buôn bán. Hầu hết là phúc tinh cho nên việc thương mại tương đối lương thiện. Ngoài ra, tất cả các sao nói lên trí thông minh đều ứng dụng được trong doanh thương.
    Thiên Mã, Lộc Tồn: Mã chỉ sự tháo vát, lanh lợi, đa tài, tinh thần xông pha, lăn lóc – các đức tính rất cần thiết cho nghiệp vụ thương mại. Vì thế, Mã đi với bất cứ tài tinh nào cũng đều đắc lợi và có ý nghĩa buôn bán, nhất là khi tọa thủ ở cung Tài hay cung Thân, Mệnh, Quan. Riêng ở Hợi thì phải cực nhọc mới kiếm lời được. Tốt nhất là ở Dần, Tỵ rồi mới đến Thân. Vì Mã chỉ sự lưu động cho nên các nghề buôn của sao này liên hệ đến ngành vận tải, đường bộ hay đường hàng không hoặc là các ngành môi giới, giao thiệp lưu động, nghiên cứu thị trường ở nhiều nơi. Lộc Tồn đồng nghĩa với Thiên Mã, nhưng không có ý nghĩa lưu động. Cả hai kết hợp thì rất đặc sắc cho việc buôn.
    + Tinh thần cạnh tranh cũng là đức tính thương mại. Những sao liên hệ gồm có: Quan Phù, Quan Phủ – Phục Binh, Hóa Kỵ: chỉ óc thi đua, cạnh tranh thường đi đôi với mưu mẹo, lừa gạt, nói dối. Hóa Kỵ vừa có nghĩa đó kỵ, sợ người khác hơn mình, vừa có nghĩa miệng lưỡi, môi miếng. Phục Binh là sao thủ đoạn. Cả bốn sao đều đắc dụng cho doanh thương, duy phương cách cạnh tranh không mấy gì ngay thẳng, thường đưa đến sự mưu hại lẫn nhau một cách ngấm ngầm.
    + Vấn đề tiền bạc: phải có nhiều sao tài hội tụ vào cung Quan, Tài, Mệnh, Thân.
    b. Nghề kỹ nghệ:
    Hạng công nhân kỹ nghệ có các sao và bộ sao sau miêu tả: Phá Quân ở Dần, Thân, Thìn, Tuất – Thất Sát, Kình Dương – Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung – Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung – Thiên Cơ, Thiên Hình, Kiếp Sát – Kình Dương, Hỏa hay Linh Tinh – Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung. Những bộ sao trên không đắc địa, gần như có nghĩa bần hàn, cực khổ, thích hợp cho hạng công nhân.
    Đối với hạng chủ nhân, chuyên viên, kỹ sư, tư bản hoạt động trong ngành kỹ nghệ, họ phải có sao học vấn cao hoặc là những bộ sao trên nhưng sáng sủa nhờ Tuần, Triệt hay ở vị trí đắc địa, đồng thời cũng phải có những bộ sao của nghề thương mại. Trong ngành kỹ nghệ nói riêng có hai sao dưới đây đáng lưu ý:
    Thiên Cơ: chỉ tất cả các loại máy móc lớn nhỏ của ngành kỹ nghệ, chỉ sự tinh xảo trong nghề nghiệp. Hai ý nghĩa này ghép lại chỉ người chuyên môn về máy móc. Đắc địa thì là kỹ sư, hãm thì là thợ máy. Thiên Cơ, Hỏa Tinh hay Linh Tinh: chỉ máy hay lò luyện sắt thép, nấu quặng, hoặc máy tạo hơi nóng, máy sấy, máy phát điện. Thiên Cơ, Thái Âm hay Thiếu Dương, Thiếu Âm chỉ máy điện và tất cả máy móc sử dụng điện, cũng có thể là máy điện tử. Thiên Cơ, Thiên Mã chỉ máy xe các loại hay phi cơ, tàu thủy.
    Thiên Hình: chỉ dao, kéo hay cơ khí, nói chung các sản phẩm kỹ nghệ bằng kim khí.
    3. Những nghề liên quan đến khoa học ứng dụng:
    a. Nghề điện: Thái Dương, Thái Âm – Thiếu Dương, Thiếu Âm – Hỏa Tinh, Linh Tinh
    b. Nghề nha: Tuế Phá chỉ bộ răng. Thiên Hình hay Kiếp Sát chỉ sự mổ xẻ, chắp vá. Tấu Thư hay Hồng Loan chỉ khéo tay, tinh xảo.
    c. Nghề dược: Thiên Y chỉ thuốc men. Hóa Kỵ chỉ các dung dịch, hóa chất bào chế.
    d. Nghề y:
    + Về mặt cứu độ:
    Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ sự làm việc nghĩa. Người có cách này có thiên tính, hay giúp đỡ kẻ khác, có khuynh hướng xã hội rất cao, hay làm phúc, tạo phúc và có cơ hội tích phúc. Đây là bộ sao cần thiết cho y sĩ.
    Thiên Tướng: biểu tượng cho vị cứu tinh của nhân loại, mang lại công bình, hạnh phúc cho nhân thế trong tinh thần cứu nhân độ thế.
    Thiên Y: trực tiếp nói về y học. Người có Thiên Y tính sạch sẽ, vệ sinh và có năng khiếu về thuốc men. Ngoài ra, Thiên Y cũng có nghĩa cứu giải bệnh tật và có nghĩa hay dùng thuốc khi có bệnh.
    Ngoài ra, còn có những sao trợ y: Ân Quang, Thiên Quý – Thiên Quan, Thiên Phúc – Tả Phù, Hữu Bật. Ân Quang, Thiên Quý chỉ cái phúc do Trời ban cho. Đi với bộ sao bác sỹ, sẽ được nổi tiếng nhờ mát tay, nhờ may mắn, được linh thiêng phù trợ, soi sáng dẫn dắt trong vấn đề trị liệu. Đồng thời, Quang Quý cũng nói lên tinh thần vị tha cao độ của một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, yêu nghề, tin nơi nghề và được nghề đãi ngộ xứng đáng, lấy việc cứu người làm lẽ sống cao cả, ít quan tâm đến khía cạnh tiền bạc của nghề thuốc. Thiên Quan, Thiên Phúc nói lên xu hướng xã hội của y sĩ. Với 4 sao này, y sĩ hay bố thí, cứu người không lấy tiền, làm việc với sự tận tâm và vị tha nhờ đó mà được nổi danh. Tả Phù, Hữu Bật trong cách y sĩ cũng có nhiều ý nghĩa cứu độ làm phúc nhưng thông thường, hai sao này nặng ý nghĩa đắc thời, có sự nghiệp y dược lớn, cụ thể như có bệnh viện riêng, được bác sỹ, y tá trợ giúp.
    Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần: có hiệu lực hóa giải bệnh tật. Người có bệnh gặp ba sao này thì mau hết bệnh vì gặp thầy, gặp thuốc còn y sĩ có ba sao này thì cứu mạng và chữa trị rất công hiệu cho bệnh nhân.
    + Về năng khiếu chuyên khoa:
    – Những chuyên khoa có tính kỹ thuật do những sao dưới đây biểu diễn:
    Thái Âm, Thái Dương: bác sỹ chiếu điện hay chụp hình hoặc là sử dụng các phương pháp chữa trị băng điện, bằng quang tuyến hay tia phóng xạ.
    Thiếu Âm, Thiếu Dương: tương tự như trên nhưng yếu tố âm dương cực nhỏ cho nên đồng hóa với điện tử.
    Thiên Hình, Kiếp Sát: bác sỹ giải phẫu, chắp vá, thay thế bộ phận thiên nhiên bằng bộ phận nhân tạo.
    – Những chuyên khoa trong cơ thể bao gồm các ngành đặc biệt dưới đây:
    Thái Âm, Thái Dương: hai mắt và là bộ thần kinh đồng thời cũng là tâm linh con người.
    Tuế Phá: chỉ bộ răng – bác sĩ nha khoa
    Phượng Các, Long Trì, Phá Toái: bác sĩ Tai-Mũi-Họng
    Mộc Dục, Thai hay Đào Hoa, Hồng Loan: bác sỹ phụ khoa, sản khoa.
    Hỷ Thần: chuyên về trĩ
    Thiên Riêu, Kình Dương: chuyên khoa sinh dục nam
    Bạch Hổ, Địa Kiếp: bệnh ung thư
    Thiên Hình, Kiếp Sát: bác sĩ châm cứu
    Đào Hoa, Hồng Loan, Hoa Cái: chuyên khoa thẩm mỹ, chuyên sửa sắc đẹp
    Thiên Mã hay Kình Dương, Đà La: ngành chỉnh hình.
    Nếu không có chuyên khoa mà có Hóa Kỵ thì là bác sĩ trị liệu tổng quát.
    Nếu có thêm Thái Tuế, Lưu Hà, Hóa Khoa, Văn Xương, Văn Khúc thì có dạy và sáng tác về y khoa. Nếu có thêm Khôi, Việt thì trong ngành chuyên môn, đương số rất nổi danh.
    4. Những nghề liên quan đến nghệ thuật:
    e. Ngành kiến trúc:
    Long Trì, Phượng Các – Thái Âm: Long, Phượng chỉ nhà cửa và cảnh trí trong nhà, trong vườn. Thái Âm chỉ bất động sản.
    Tấu Thư, Hồng Loan: chỉ hoa tay hay năng khiếu mỹ thuật, mỹ nghệ nói chung, thích hợp cho người vẽ kiểu nhà, kiểu lăng tẩm, dinh thự.
    bất luận nghề nào cũng phải có Tấu Thư hoặc Hồng Loan hoặc Thiên Cơ. Nếu không, đó chỉ là một sự hiểu biết hay sở thích chứ không phải nghề.
    a. Nghề nhạc: phải có đủ 3 sao: Tấu Thư (chỉ sự linh mẫn, tế nhị và cả ngón cần thiết), Hóa Lộc (nghệ thuật, sự sành điệu, biết chơi, biết thưởng thức, biết ứng dụng) và Phượng Các (lỗ tai hay thính giác). Với 3 sao này, đương số sẽ là nhạc sĩ, sống về âm nhạc hoặc là chuyên viên âm thanh trong kịch trường hoặc phim trường. Nếu có thêm sao khoa giáp thì đương số sẽ là giáo sư âm nhạc hay nhà khảo cứu về âm nhạc, âm thanh.
    b. Nghề họa: Ngoài Tấu Thư hoặc Thiên Cơ, đương số phải có sao Hồng Loan chỉ hoa tay. Nếu có thêm Long Trì, Phượng Các cũng được.
    c. Nghề nữ công: Ngoài Tấu Thư, Hồng Loan hay Thiên Cơ, phải có Kiếp Sát hay Thiên Hình (thêu, may, cắt và vẽ kiểu áo thời trang, chế mốt thời trang …)
    d. Nghề nấu ăn: Ngoài Hóa Lộc, Tấu Thư, Hồng Loan còn phải có Long Trì hay Hóa Kỵ và Thiên Trù.
    e. Nghề kịch: các sao của nghề nhạc, nghề họa đều có thể ứng dụng cho nghề kịch. Nếu có thêm Đào Hoa, Vũ Khúc, Thiên Hỷ, Hỷ Thần thì càng hay. Nghề kịch chỉ hiển vinh nếu các sao đắc địa và có thêm Văn Xương, Văn Khúc hay Thái Âm sáng sủa. Nếu có thêm Thiên Khôi, Thiên Việt thì xuất chúng.
    f. Nghề ca: ngoài các sao của nghề kịch, phải có Phá Toái hay Phượng Các.
    g. Nghề vũ: có sao của nghề kịch là đủ. Nếu có thêm Thiên Mã thì rõ ràng hơn nhưng phải có sao Hoa Cái (làm dáng, sự quyến rũ bằng điệu bộ kiểu cách).
    Ở trên là những điều khái quát về các sao chủ về nghề nghiệp trong Tử vi, tuy nhiên còn nhiều yếu tố tác động. Và phải xét nhiều sao, kết hợp mệnh, tính chất cung, vòng tràng sinh, âm dương, ngũ hành, tam hợp, nhị hợp, xung chiếu, chỉ những người nghiên cứu lâu năm mới có kết luận chính xác.
    ST
    Dục tri tiền thế nhân
    Kim sinh thọ giả thị
    Dục tri lai thế quả
    Kim sinh tác giả thị.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 19-01-2012, 10:16 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •