Trang 3 trong 3 Đầu tiênĐầu tiên 123
kết quả từ 41 tới 57 trên 57

Ðề tài: GIẢI NGHĨA HỆ THỐNG TƯỢNG TRONG CÁC CHÙA Ở VIỆT NAM

  1. #41
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Từ Đạo Hạnh

    Vị Thánh tổ Từ Đạo Hạnh cũng nổi tiếng không kém Minh Không Quốc sư. Ông được gọi là Thánh Láng vì sinh ra và tu ở làng Láng, nay còn chùa Láng nổi tiếng. Sau ông đến tu và mất tại chùa Thầy, một ngôi chùa thậm chí còn nổi tiếng hơn.

    Truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh không thấy mấy về Phật giáo, mà hầu hết là phép thuật kể rằng Từ Đạo Hạnh lúc đầu học pháp thuật để giết sư Đại Điên là kẻ thù bằng phép tu kiểu Mật tông. Sau rồi lại làm phép đầu thai làm vua Lý Thần Tông, bị bệnh hóa hổ phải nhờ Minh Không hóa giải.

    Từ Đạo Hạnh còn được tôn là ông tổ nghề múa rối nước.

    Đến chùa Thầy, tại tòa Thượng điện có 3 tượng Thánh tổ, một là tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp Thánh, một là tượng ở kiếp Vua, và tượng giữa là kiếp Phật - Thiền sư.

    Chùa Láng thì tượng Từ Đạo Hạnh được cất kín trong hậu cung cùng những mạn đà la Mật Tông, chỉ những ngày lễ các chức sắc và sư mới được vào, còn không ai được vào xem cả.


    Tượng Từ Đạo Hạnh Thiền sư chùa Thầy. Pho tượng này trông ghê ghê, rất sống, cứ như Thánh tổ đang lầm bầm nói chuyện vậy.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  2. #42
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Tượng Nhục thân

    Một thể loại tượng Tổ rất hiếm nữa, mới chỉ có ở chùa miền Bắc, đó là tượng Nhục thân.

    Tượng Nhục thân là toàn bộ thân xác của các vị sư sau khi qua đời được bảo quản dưới dạng tượng, bó sơn trực tiếp ra ngoài. Một số tượng không moi nội tạng, mà nguyên vẹn cả cơ thể.

    Hiện nay phát hiện được 4 tượng Nhục thân: ở chùa Đậu có 2 pho Thiền sư Đạo Tâm (Vũ Khắc Minh) và Đạo Chân (Vũ Khắc Trường), cách đây trên 350 năm; ở chùa Phật Tích có pho Thiền sư Chuyết Chuyết; và chùa Tiêu có pho Thiền sư Như Trí.

    Nhục thân hai Thiền sư chùa Đậu




    Nhục thân của thiền sư Như Trí là pho Nhục thân thứ ba, được tìm thấy trong tháp Viên Thông ở chùa Tiêu.

    Chùa Tiêu là ngôi chùa cổ nổi tiếng là nơi sư Thiền sư Vạn Hạnh tu. Lý Công Uẩn sau là Lý Thái Tổ cũng đã học với Vạn Hạnh tại đây, và rồi mẹ của Lý Thái Tổ cũng về đây tu hành. Chùa là một trung tâm Phật giáo trong nhiều thế kỉ, với nhiều thiền sư đắc đạo. Trong vườn chùa có khu mộ tháp với nhiều ngôi mộ, lớn nhất là tháp Viên Minh. Gần đây khi mở tháp đã phát hiện nhục thân của một vị sư ngồi trong tháp đó đã 300 năm, bị hủy hoại khá nhiều. Sử ghi lại thì đó là thiền sư Như Trí, một tác giả Phật giáo viết khá nhiều sách.

    Hôm tôi đến chùa Tiêu gặp một ông chụp ảnh trước chùa. Ông này kể rằng khi mở tháp thì chính ông là người có mặt ở đó, và chụp những bức ảnh đầu tiên về pho nhục thân này. Thực ra trước đây đã có kẻ gian đục tháp tìm của, nên làm hỏng tượng khá nhiều. Giờ đây người ta phục chế pho Nhục thân theo kiểu của pho chùa Đậu, rôi đưa vào một gian riêng, đặt trong một lồng kính chứa khí Nitơ.



    Thiền sư Chuyết Chuyết

    Pho nhục thân cuối cùng được tìm thấy gần đây nhất là của thiền sư Chuyết Chuyết.

    Vị thiền sư này là người Trung Quốc, sang Việt Nam tu, và chủ yếu ở chùa Bút Tháp. Cái tháp đá nổi tiếng của chùa Bút Tháp, trở thành biểu tượng của chùa và của cả tỉnh Bắc Ninh, chính là tháp mộ của ông. Tưởng rằng như thế thì ông phải được chôn trong đó.

    Thế nhưng không, đó chỉ là cái tháp thờ vọng. Còn nhục thân của ông lại ở chùa Phật Tích. Vốn là kẻ trộm đột nhập tháp cổ, phá tháp để lộ ra nhục thân của ông. Giờ nhục thân đã được phục chế theo kiểu giống sư Vũ Khắc Minh, và thờ trong lồng thủy tinh chứa khí Nitơ.

    Cho đến nay, trên đây là 4 pho nhục thân duy nhất tại Việt Nam. Chưa tìm thêm pho nào khác cả.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  3. #43
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Hòa thượng, Thương Tọa , Đại Đức

    Nói đến chùa, không thể nói đến người trong chùa, đó là các Nam tu sĩ, gọi là Tăng hay Tỳ kheo tăng; và Nữ tu sĩ, gọi là Ni, hay Tỳ kheo ni.

    Phật giáo là tôn giáo rất bình đẳng. Ngay từ thuở sơ khai Phật Thích Ca đã chấp nhận phụ nữ tham gia vào giới tu sĩ, và Ni giới cũng tích cực trong việc tu trì không kém Tăng giới. Cho đến nay ở Việt Nam, số chùa do Ni trụ trì nhiều không kém Tăng.

    Tuy vậy, cũng giống như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng vẫn dành cho Nam giới những đặc quyền lớn hơn. Chỉ có Tăng mới được làm một số vị trí quan trọng như Chứng minh, Đàn đầu, Sám chủ, Giám luật... Một người nữ muốn xuất gia thì bên cạnh Nghiệp sư (thầy trực tiếp dạy dỗ) là Ni, thì cũng cần có sự hiện diện của Tăng, và trong lễ xuất gia chính thức cho Tăng chủ trì.

    Về giáo phẩm của Tăng thì cao nhất là Hòa thượng, dưới đó là Thượng tọa, dưới nữa là Đại đức. Hòa thượng từ 80 tuổi trở lên gọi là Đại lão Hòa thượng.
    Với Ni giới thì cao nhất là Ni trưởng, dưới là Ni sư, dưới nữa là Ni cô hay Sư cô.

    Tại sao đang viết về chùa tôi lại nhảy sang Tăng Ni? Bởi vì hôm nay tôi gặp một vị Tăng đặc biệt tại một ngôi chùa làng, và chụp ảnh vị tăng ấy.

    Các bác thử nhìn vị tăng áo nâu, mà áo len trong còn thòi ra áo ngoài, đội mũ len cũng nâu như một ông nông dân đứng bên trái, và đoán xem tại sao vị tăng này đặc biệt ???
    Thực ra tớ nghĩ ở đây cũng không ai biết được điều gì khác thường ở vị tăng này.

    Đây là Sư cụ chùa Ráng, người ta thường gọi là Tổ Ráng, năm nay 93 tuổi nhưng rất khỏe mạnh, không hề cần chống gậy.

    Điều đặc biệt nhất ở cụ chính là vì cụ không có vẻ gì khác người. Cụ là vị sư thuần Việt nhất mà tớ từng thấy, áo nâu sồng, răng đen, đi lại liên tục như một ông nông dân, và cụ còn tự cày ruộng đến tận năm 80 tuổi mới nghỉ.

    Và điều quan trọng nhất là Cụ chính là Pháp Chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là vị đứng đầu, lãnh đạo cao nhất của 50 nghìn tăng ni, của hàng triệu Phật tử của Phật giáo Việt Nam.

    Khi cụ lên ngôi Pháp chủ, hàng trăm tăng ni già trẻ đã quỳ xuống dập đầu lễ cụ, đoàn người kéo dài hàng km đón cụ. Và mới ngày hôm trước khi tôi đến, thì các vị Sư chức thuộc loại to nhất của Hà Nội cũng vừa mới đến lễ bái cụ xong.

    Thế nhưng sau tất cả những nghi lễ màu mè đầy tính tôn giáo đó, Pháp Chủ cũng vẫn là một ông sư già chùa làng, lúc nào cũng áo nâu. Ngay cả khi người ta khoác áo vàng rực, đỏ lòe lên, thì bên trong vẫn là lớp áo nâu, và cả đời cụ hình như chỉ đi dép, chưa bao giờ đi giày.


    Cũng ở địa phận Hà Tây cũ, còn sư cụ Đại trưởng lão, thọ bậc nhất Việt Nam, 97 tuổi, nhưng khi nói chuyện với tất cả các tăng ni khác, bất kể là chú tiểu bé cho đến các hòa thượng, thì sư cụ Đại trưởng lão vẫn luôn tự xưng là "Con" !

    Nhân nói đến cụ trưởng lão phía Tăng, cũng xin gửi chân dung cụ trưởng lão phía Ni. Dưới đây là ảnh sư cụ chùa Tây Phương, đã 96 tuổi. Tuy vậy cụ đã nghễnh ngãng nặng lắm rồi, đi đứng cũng không còn nhanh nhẹn như cách đây vài năm nữa.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  4. #44
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Cối phật

    Tại các ngôi chùa cổ miền Bắc, còn có một cấu trúc rất độc đáo, là CỐI PHẬT, hay Cối Kinh.

    Tên chính thức của cấu trúc này là Tòa Cửu Phẩm Liên Hoa, có hình thức là tòa tháp gỗ cao 9 tầng, 6 cạnh, mỗi tầng là một đài sen lớn. Toàn bộ cấu trúc dựa trên một trục gỗ ở chính giữa, đặt trên một cối đá, có thể quay được.

    Trên mỗi tầng, mỗi mặt có một tượng Phật ngồi giữa hai Bồ tát. Như vậy có tổng cộng 9x6 = 54 tượng Phật, 9x12 = 108 tượng Bồ tát. Mỗi khi quay Cối Phật, thì như cả thế giới chuyển động.

    Cửu Phẩm Liên Hoa tượng trưng cho 9 bậc trong cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Cõi Tịnh Độ gồm 3 bậc là Hạ phẩm, Trung phẩm, Thượng phẩm; mỗi Phẩm lại chia làm 3 là : Hạ sinh, Trung sinh, Thượng sinh. Như vậy từ Hạ phẩm Hạ sinh đến Thượng phẩm Thượng sinh là 9 bậc.

    Chín bậc này dành cho tất cả mọi chúng sinh có lòng hướng đến cõi Tây phương Cực Lạc của phật A Di Đà, tùy vào phẩm hạnh của kẻ đó mà được tái sinh vào các cõi tương ứng.
    Cối Phật chùa Bút Tháp, hai bên có hai tượng Phật ngồi quay ra hai hướng.
    Theo văn bia thì cối Phật được dựng từ đời Trần, đến năm 1739 làm lại,



    Cối Phật chùa Đồng Ngọ - Hải Dương, được làm năm 1692, mới được/bị sơn thếp lại, trông choáng lộn rực rỡ ...



    Tòa Cửu phẩm liên hoa đẹp nhất là của chùa Giám.

    Chùa Giám là nơi Nam dược Thánh Y - Thiền sư Tuệ Tĩnh đã từng tu hành, chữa thuốc đời Trần. Ngôi chùa có lịch sử từ đời Lý, trải nhiều lần trùng tu vẫn mang được nhiều nét kiến trúc cổ.

    Năm 1971, chùa được dời từ bãi sông vào nơi mới, cách 8km. Vì ngôi chùa cổ bằng gỗ hoàn toàn, nên người ta đã dỡ ngói, dỡ mộng gỗ ra, rồi ghép lại, mà không ảnh hưởng đến kiến trúc. Cũng là một kỳ công.

    Chùa rất đẹp, nhưng đẹp nhất là tòa Cửu phẩm liên hoa, hiện nay vẫn còn quay được. Tòa tháp gỗ này được sơn màu đỏ gạch, với các góc được trang trí như đốt trúc, có cả các mấu tre rất độc đáo. Số cánh sen ở mỗi lớp cũng nhiều và đẹp. Tòa Cối phật nằm ở giữa một tháp gỗ trong sân chùa, sáng sủa hơn nhiều so với tháp gỗ chùa Đồng Ngọ.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  5. #45
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Con rồng đời Ly

    Những ngôi chùa lớn đời Lý đều là chùa hoàng gia, nghĩa là xây theo lệnh của vua, và là nơi vua làm lễ. Vạn Phúc, Sùng Thiện Diên Linh, Cảnh Long Đồng Khánh, Đại Thắng Tư Nghiêm... những cái tên huy hoàng, mà về sau dân gian gọi là Phật Tích, chùa Đọi, chùa Dạm, chùa Báo Thiên... đều là nơi có những di vật quý còn sót lại.

    Những ngôi chùa lớn đời Lý đều là chùa hoàng gia, nghĩa là xây theo lệnh của vua, và là nơi vua làm lễ. Vạn Phúc, Sùng Thiện Diên Linh, Cảnh Long Đồng Khánh, Đại Thắng Tư Nghiêm... những cái tên huy hoàng, mà về sau dân gian gọi là Phật Tích, chùa Đọi, chùa Dạm, chùa Báo Thiên... đều là nơi có những di vật quý còn sót lại.

    Chùa Dạm xưa được vua Lý Nhân Tông xây trong 8 năm, dành tặng mẹ là bà Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, tức bà Ỷ Lan. Người đàn bà tài năng và quyền lực bậc nhất của nước Việt, về cuối đời sám hối tội lỗi đã giết vợ cả của chồng và 72 cung nữ - tức Thượng Dương hoàng hậu, đã về đây và Phật Tích theo Phật pháp.

    Tất cả đến nay hoang phế hết, chỉ còn những nền móng đá, và một cây cột đá đứng giữa trời. Cột đá để trên một đài hình sóng nước vòng tròn. Đối xứng qua bên kia trục chính có một đài sóng nước hình vuông nữa, không biết xưa kia có gì. Có thể là một cặp biểu tượng Linga - Ioni vì thời Lý chịu ảnh hưởng Chămpa, cũng có thể là một công trình đặc biệt. Trên thân cột còn một số vết khắc sâu vào đá, không rõ để làm gì.

    Cột nửa dưới vuông, trên tròn, và quanh thân có một đôi rồng đá, đôi rồng đời Lý đẹp nhất...


    Oai hùng con rồng đời Lý


    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  6. #46
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Chùa

    Chùa trên khắp đất nước Việt Nam, chỗ nào cũng có. Có liệt kê đến hàng tháng cũng chả hết. Nói về chùa có hàng năm cũng không hết. Thích gì nói nấy thì tiện hơn, hì.

    Chùa miền Bắc theo Đại thừa Bắc truyền, chịu ảnh hưởng Trung Quốc, nhưng có những nét riêng rất Việt mà không nơi nào có được, đặc trưng bởi kiến trúc, hệ thống tượng, không gian chùa, từ chùa quốc gia đến chùa làng.
    Chùa Bắc phần lớn có lịch sử lâu đời, xa xưa nhất từ thời thế kỉ 2, thế kỉ 5, trong lịch sử thì nhiều nhất đời Lý, đời Trần. Nhưng những gì còn lại hiện nay chủ yếu đời Lê, Nguyễn.

    Chùa trên khắp đất nước Việt Nam, chỗ nào cũng có. Có liệt kê đến hàng tháng cũng chả hết. Nói về chùa có hàng năm cũng không hết. Thích gì nói nấy thì tiện hơn, hì.

    Chùa miền Bắc theo Đại thừa Bắc truyền, chịu ảnh hưởng Trung Quốc, nhưng có những nét riêng rất Việt mà không nơi nào có được, đặc trưng bởi kiến trúc, hệ thống tượng, không gian chùa, từ chùa quốc gia đến chùa làng.
    Chùa Bắc phần lớn có lịch sử lâu đời, xa xưa nhất từ thời thế kỉ 2, thế kỉ 5, trong lịch sử thì nhiều nhất đời Lý, đời Trần. Nhưng những gì còn lại hiện nay chủ yếu đời Lê, Nguyễn.

    Chùa miền Trung kiến trúc hoàn toàn đời Nguyễn, mang dấu ấn triều Nguyễn sâu sắc không thể lẫn. Chùa gỗ ở Huế thực ra cũng không còn nhiều, do chiến tranh tàn phá, mà cũng nhiều chùa xây lại, cũng mất một phần phong vị.

    Chùa miền Nam theo Nguyên thủy Nam truyền, thì chùa cổ Khơ Me tập trung nhiều nhất ở Sóc Trăng, với những ngôi chùa rất cổ.
    Chùa khác ở miền nam thì gần như toàn bộ là xây sau này bằng bêtông, xi măng cốt thép, to lớn, màu sắc, nhưng không cổ kính. Nhiều chùa bị ảnh hưởng của phong cách Hoa - Phúc Kiến nặng, mất hết kiểu Việt.

    Đặc trưng của trào lưu Phúc Kiến trong chùa chính là bức tượng Quan Âm đứng giữa giời, cầm cái bình, bắt đầu xuất hiện từ miền nam, rồi lan dần ra miền trung và ra bắc. Thế nên nhiều chùa miền bắc cả nghìn năm nay không để tượng ấy, thì giờ bỗng xuất hiện, đôi lúc lạc lõng kì dị.

    Có ai thắc mắc chữ "lam" trong cụm từ Danh lam thắng cảnh nghĩa là gì không?

    Tra chữ hán, thì "lam" này nghĩa là màu xanh lam (dark blue), nhưng lại cũng có nghĩa là Chùa.

    Vốn xưa, khi Phật giáo truyền sang Trung Quốc, những nhà truyền giáo đầu tiên phải tìm cách dịch các từ tương ứng. Trong tiếng Phạn, nơi thờ Phật gọi là samgharama, khi dịch sang tiếng Trung, thì dịch âm, (chứ không phải dịch nghĩa, vì chưa có từ tương ứng về nghĩa). Dịch âm là già lam với lam là màu xanh lam. Về sau gọi tắt là Lam.

    Thế nên Danh lam là ngôi chùa nổi tiếng; thắng cảnh là cảnh đẹp hàng đầu, mở rộng ra là công trình (của con người tạo dựng), phong cảnh (của tự nhiên) đẹp đẽ, đứng đầu.

    Tự - nghĩa xưa cũng không chỉ riêng chùa, mà chỉ một cơ sở, cơ quan (của chính quyền phong kiến) chuyên về một việc gì đó, như Đại Lý tự chuyên về xử án, Quang Lộc tự chuyên về ăn uống,... Về sau mới mang nghĩa nơi chuyên về tu hành, nghiên cứu Phật giáo.

    Vì thế chùa nổi tiếng, lâu đời gọi là Danh lam Cổ tự.

    Như viết ở phần đầu, Chính điện chùa miền Trung và miền Nam - theo tôi biết - không bày hệ thống tượng như chùa miền Bắc, thường là ít tượng hơn rất nhiều, chỉ có một vài pho tượng rất lớn thôi. Một số tượng khác có thể bày rải rác ở các nơi, nhưng không để tại chính điện.

    Chùa Vĩnh Nghiêm là một ngôi chùa mang tên tòa Tổ đình miền Bắc - chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang. Tổ khai sơn của chùa là HT Thích Thanh Kiểm, đệ tử của HT Thích Thanh Hanh, Thiền gia Pháp chủ đầu tiên của Phật giáo Miền Bắc. Chùa Vĩnh Nghiêm đầu tiên là dựng cho những người miền Bắc vào Nam, do đó để vọng về Bắc. Câu đối ở ngay cổng chùa nói rõ điều đó, bàn thờ phía trước của chùa cũng có 4 cảnh đặc trưng của Hà Nội: Văn Miếu, chùa Một Cột, cầu Thê Húc, tháp Rùa.

    Chính điện chùa Vĩnh Nghiêm - Sài Gòn


    Tuy vậy, chính điện chùa không giống các chùa truyền thống miền Bắc, mà là phong cách miền Nam. Trong chính điện có Di Đà Tam tôn rất lớn, phía trước có tòa Cửu Long nho nhỏ. Pho tượng đá trắng theo phong cách Miến điện mới được thêm vào sau này. Các hệ thống Tam thế, Niêm hoa, Hoa nghiêm tam thánh, Di lặc tam tôn, Dược sư tam tôn, Quan Âm nghìn tay, Đức ông, Thánh hiền, Kim cương... đều không có. Bên ngoài có đắp nổi hai tượng Hộ pháp, chứ cũng không làm tượng.

    Nói chung các chùa miền Nam thường làm một số ít tượng lớn, hơn là nhiều pho tượng bày thành nhiều tầng llớp cao và sâu như chùa miền Bắc
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  7. #47
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Cổng chùa

    Bước vào chùa, đầu tiên hầu như bao giờ cũng là Tam quan.

    Tam quan không phải là đặc thù của chùa, vì đình, đền, miếu, thậm chí là cổng làng, ... thì cổng cũng đều là Tam quan, tức là Cổng gồm 3 cửa cả. Với các công trình đó, Tam quan thường chỉ đơn giản là để phân chia độ trang trọng, tạo tính thẩm mỹ, cân đối...

    Nhưng riêng với chùa, thì Tam quan còn mang một ý nghĩa riêng; đó là Tam quan tương ứng với Tam quán : Không quán, Giả quán, Trung quán, đó là những con đường để đạt đến Phật quả. Do đó nếu Cổng có xây thành một tòa, thì cũng chia thành 3 gian cổng, 3 bộ cửa.

    Như dưới đây là cổng chùa Láng (Chiêu Thiền Tự), ngôi chùa gắn liền với Từ Đạo Hạnh từ gần nghìn năm trước. Vì chùa có không gian dài rộng, nên có đến 2 Tam quan: Tam quan ngoại gồm 4 cột trụ có bắc mái ở giữa, và Tam quan nội là một tòa 3 gian ở trong.



    Tất nhiên không phải tất cả mọi cổng chùa đều là Tam quan. Những chùa do những nguyên nhân khác nhau có thể có số cửa khác nhau.

    Như chùa Trấn Quốc, vì nằm trên đảo, xưa kia không có cổng. Cho đến khi đắp con đường nhỏ nối với đường đê Cố Ngự (sau bị đọc nhầm thành Cổ Ngư), thì mới có cổng, nhưng cổng cũng chỉ có 1 cửa, vì con đường bé quá, lấy đâu ra mà tam quan.

    Hoặc như chùa Bà Đá (Linh Quang Tự), bị dân chiếm hết xung quanh, chỉ còn một lối đi bé tí, nên cũng chỉ có một cửa.

    Ngược lại, như chùa Nành (Pháp Vân Tự) ở Ninh Hiệp, thì lại có Ngũ môn quan to hoành tráng.

    Có lẽ đây là một trong những cổng chùa cổ to nhất.



    Cái Tam quan chùa to nhất Hà Nội



    Cổng tam quan có cánh cửa gỗ đẹp nhất có lẽ thuộc về chùa Keo ở Thái Bình (Thần Quang Tự).

    Tam quan chùa dựng bằng gỗ, không cao to, mà chỉ như một ngôi nhà 3 gian thông thường (các cụ tính cứ 4 cột là 1 gian). Cổng chùa nhìn ra một hồ bán nguyệt, hai bên tường chỉ là tượng trưng, ngăn cách không gian, chứ không có vai trò bảo vệ.

    Tam quan chùa Keo chỉ mở trong dịp lễ hội, muốn ra vào, thì theo hai cổng nhỏ hai bên cách xa cổng chính. Do cách xa, nên Tam quan này không trở thành Ngũ quan như chùa Nành.
    Hai cánh cửa gỗ của cửa chính Tam quan chùa Keo là một tác phẩm điêu khắc gỗ tuyệt đẹp đời Lê. Trên cổng khắc hình rồng ổ, nghĩa là ngoài rồng to (rồng mẹ), còn có các rồng con quấn quýt. Bên dưới là mây cuộn như sóng nước, ở chính giữa là mặt trăng.

    Hoa văn trang trí "hỏa vân" (mây lửa) của rồng cửa chùa Keo rất đẹp. Nếu như thân rồng uốn lượn, bờm theo chiều ngang, thì hỏa vân hình đầu đao chỉ tỏa theo chiều dọc, lên trên và xuống dưới.

    Một số cửa chùa mới làm về sau có nhiều cánh cũng chi phí tốn kém để khắc rồng, nhưng rất kém, vì hỏa vân tỏa lung tung. Như hai cánh cổng đền Đô, rất tốn kém nhưng trông bố cục hỏng, đường nét lộn xộn, kém quá xa bức cửa này.



    (Tuy vậy, đây chỉ là hai cánh cửa phiên bản thôi Bản gốc nằm trong bảo tàng Mỹ thuật .

    Tòa tam quan chùa độc đáo nhất mà tôi từng thấy là tam quan chùa Kim Liên ở Hồ Tây.

    Chắc bác nào học kiến trúc, mỹ thuật đều biết cái cổng này. Hic, đi tìm thì 2 bộ ảnh chụp chùa Kim Liên đều đã mất ở đâu không tìm thấy. Chiều chạy qua đó thì than ôi, toàn bộ chùa đang được bao bọc bởi sắt thép, do đang đại trùng tu.

    Thế thôi, đành lấy ảnh trên mạng nho nhỏ này vậy...



    Tòa tam quan này độc đáo ở chỗ : Toàn bộ cấu kiện gỗ nặng cả chục tấn được dồn lên 4 chiếc cột gỗ đứng thằng hàng. Những cột gỗ này không chôn xuống đất, mà chỉ được đặt thăng bằng lên 4 phiến đá kê chân. Nghĩa là chiếc cổng phải cực kì cân bằng. Tưởng tượng rằng nếu chỉ cần có một sự mất thăng bằng nào đó dù nhỏ, thì cổng cũng đổ từ lâu rồi. Thế nhưng hơn 200 năm trôi qua rồi, cổng vẫn đứng đó, với lớp mái ngói nặng nề nhưng lại thanh thoát như muốn bay lên. Cổng chùa rất đúng với hình ảnh bông sen vàng bay lên.[/IMG]
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  8. #48
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Bia đá

    Một trong những thứ không thể thiếu ở các ngôi chùa, đền cổ, và nhiều lúc là vật cổ nhất, quý giá nhất của một ngôi chùa, đó là các tấm bia đá.

    Việc để lại dấu tích trên đá đã có từ thượng cổ, và bia đá trở thành một hình thức lưu giữ dấu tích, bút tích, sự tích phổ biến nhất. Bia đá không chỉ là nơi để khắc chữ, các bài văn, mà còn là nơi thể hiện trình độ điêu khắc, trang trí đá tuyệt vời của cha ông. Xung quanh bia thường có các điêu khắc trang trí hoa văn, rồng phượng...

    Bia có nhiều loại: bia hậu chuyên dành để ghi tên những người đóng góp công đức cho chùa, thường làm đơn giản, xung quanh ít trang trí, và để trực tiếp trên bệ đá thường.

    Những bia lớn có văn bia (minh) thì viết kỹ lưỡng chi tiết về lịch sử chùa, quá trình hình thành, xây dựng, trùng tu, cùng tên tuổi những người liên quan. Văn bia loại này là tư liệu lịch sử quý giá, là nguồn tư liệu chính xác, lâu bền. Văn bia có độ chính xác thời gian cao, vì thường ghi rõ thời gian tạo lập (niên đại, mùa, tháng). Những bia lớn thường có trang trí cầu kỳ, nhiều họa tiết, mà nhìn vào đó có thể xác định phong cách điêu khắc của các thời kỳ lịch sử.
    Bia chùa Keo ở Thái Bình:

    Đây là một bia được trang trí rất cẩn thận cầu kỳ. Các điêu khắc và chữ viết khắc rất sâu vào đá. Đặc biệt là vì bia dầy nên còn điêu khắc trang trí cả trên hai cạnh hai bên, điều rất ít gặp trong các bia khác. Bia này không đặt trên rùa như thông thường, mà là trên một loạt các lớp cánh sen có trang trí đẹp.

    Bia thường đặt trên lưng rùa với ý nghĩa trường tồn lâu bền. Bia của Việt Nam cũng rất khác bia của Trung Quốc, nhìn là có thể nhận ra sự khác biệt tương đối rõ ràng. Bia của TQ không đặt trên lưng rùa, mà là con Bị hí, một giống con của rồng. Trên trán bia cũng không phải là rồng, mà là con Phụ hí, cũng là một loại con khác của rồng.


    Hai tấm bia đá dựng hai bên cái cổng nổi tiếng của chùa Kim Liên

    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  9. #49
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Sân chùa

    Qua Tam quan là vào đến sân chùa. Sân chùa rộng hay hẹp còn tùy vào địa thế. Và cũng tùy vào địa thế mà giữa sân chùa có công trình nào không. Thông thường sân chùa để trống.

    Cũng có trường hợp như chùa Láng, giữa sân có đình bát giác, là nơi để kiệu khi làm lễ thánh. Điều này rất đặc biệt, vì chùa Láng thuộc dòng Mật tông, thờ Từ Đạo Hạnh vừa là Sư, vừa là Thánh, nên khi cúng có cả rượu thịt, trong chùa lại làm cả hậu cung kín mít y như các ngôi đền, đình.

    Đình bát giác này là một kiến trúc không chỉ độc đáo, mà còn là duy nhất ở một ngôi chùa cổ. Các chùa khác mà tớ đã biết không làm nhà kiệu ở ngay sân trước của chùa bao giờ.

    À, có chùa Hương, có cả một cái lầu rất lớn trước chùa Thiên Trù, nhưng có vẻ đó là công trình độc lập, không phải cái nhà kiệu của chùa.

    Sân và nhà bát giác chùa Láng


    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  10. #50
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Thủy đình

    Kiến trúc Thủy đình là đặc trưng riêng có của đồng bằng Bắc bộ, và cũng là riêng có của Việt Nam, gắn với hình thức sân khấu Múa rối nước.

    Thủy đình chùa Thầy, chùa Nành là những hình ảnh tuy không hoành tráng, nhưng rất sâu đậm với người Việt. Nếu có đi đâu, bỗng gặp một thủy đình, hãy hình dung đến rối nước...



    Thủy đình cũng có thể trở thành một phần kiến trúc không gắn với rối nước, như thủy đình của đền Phù Đổng, được xây thành một miếu đối diện với đền, tôn lên vẻ đẹp không gian của ngôi đền.



    Đứng bên cây đa cổ thụ, một nhịp cầu không liền. Chỉ ngày lễ mới nối cầu với bờ



    Một nơi khác, trên hòn đảo giữa hồ sen, có tòa đình nhỏ cũng rất đẹp.

    Đó là chùa Hoàng Xá (Hoa Vân Tự), cách Hà Nội không xa.



    Tòa thủy đình hoành tráng của đền Đô. Đây là nơi biểu diễn hát quan họ chứ không phải rối nước.

    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  11. #51
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Tháp chùa

    Một công trình kiến trúc đặc trưng nhưng không phải chùa nào cũng có là ngọn Tháp. Nguyên thủy thì Tháp - Stupa - dùng để lưu giữ thánh tích: Sợi tóc, cái răng, xá-lợi Phật, là Tháp Phật. Nhưng Phật cũng không thể đủ mà phân chia nhiều tháp thế, nên rồi có các tháp mộ sư, tháp-vũ trụ (cũng có thể coi là tháp Phật, vì Phật ở khắp Vũ trụ). Những tháp sau này không còn là stupa nữa.

    Một công trình kiến trúc đặc trưng nhưng không phải chùa nào cũng có là ngọn Tháp. Nguyên thủy thì Tháp - Stupa - dùng để lưu giữ thánh tích: Sợi tóc, cái răng, xá-lợi Phật, là Tháp Phật. Nhưng Phật cũng không thể đủ mà phân chia nhiều tháp thế, nên rồi có các tháp mộ sư, tháp-vũ trụ (cũng có thể coi là tháp Phật, vì Phật ở khắp Vũ trụ). Những tháp sau này không còn là stupa nữa.

    Đối với các chùa Nguyên Thủy (Nam Tông) như Ấn, Nepal, Thái, Cam, Khơme thì Stupa là bộ phận không thể thiếu, và chính nó tạo thành tên gọi pagoda.
    Stupa thường có hình quả chuông, chân đế rộng vững chãi, lên cao nhỏ dần. Tháp gồm 3 phần: Đế, thân, đỉnh, tượng trưng cho toàn bộ Vũ trụ Tam giới: Đế tháp là Dục giới, thân tháp là Sắc giới, đỉnh tháp là Vô sắc giới. Ngoài ra có thể có cái chóp hình cái lọng nhiều tầng, là Niết Bàn.
    Cái Stupa rộng nhất thế giới: Borobudur ở Indonesia



    Cái Stupa lộng lẫy nhất: Shwedagone ở Myanmar



    Tháp chùa Đông Á

    Tháp chùa ở Việt Nam thì học theo kiểu Trung Quốc, tất nhiên rồi.

    Tháp TQ không giữ kiểu Stupa, mà kết hợp với kiến trúc Lầu, để thành cái tháp nhiều tầng, mở cửa ở mỗi tầng, và mỗi tầng có một lượt mái. Các tháp cổ của TQ cũng có kiểu giật cấp, nhỏ lại rất nhanh, ít tầng, 4 cạnh vững chắc. Nhưng về sau họ đã đạt đến đỉnh cao kiến trúc khi dựng những ngọn tháp cao, thẳng đứng, nhiều tầng, đến mười mấy tầng, các mái đưa ra ngoài treo chuông. Cả ngọn tháp là một khối đa giác, thường là lục giác, bát giác, nổi bật lên nền trời. Tháp có tháp gỗ, tháp gạch đá...

    Sang Nhật Bản, tháp chùa mang một kiến trúc khác khi thân tháp nhỏ nhưng mái lại rất lớn. Tháp chùa Nhật chỉ có 4 cạnh, 5 hoặc 7 tầng thôi. Tháp luôn làm bằng gỗ, với những cột gỗ là nguyên cây gỗ cao.

    Tháp TQ nổi tiếng có Lầu Hoàng hạc, nhưng đã bị phá, lầu hiện nay dựng lại bằng xi măng cốt thép. Có tháp Lục Hòa ở sông Tiền Đường có hơn nghìn năm nay, (ai đọc Thủy Hử có thể nhớ là Lỗ Trí Thâm đã viên tịch ở chùa này),...

    Tháp sáu cạnh tượng trưng Lục hòa, tám cạnh tượng trưng "tám hướng" hay Bát chính đạo của Phật giáo. Tháp bốn cạnh là "bốn phương" của núi Tu Di, số 4 cũng là Tứ Diệu đế.

    Tháp chùa Việt Nam có gì khác chăng ?

    Tháp chùa Việt

    Trong lịch sử Việt Nam ghi lại một số ngọn tháp nổi tiếng: Tháp Báo Thiên (Đại Thắng Tư Nghiêm bảo tháp) là 1 trong Tứ đại khí; tháp Tường Long ở Đồ Sơn, tháp Long Đọi ở Hà Nam, tháp Phật Tích ở Bắc Ninh, đều dựng đời Lý. Nhưng không còn ngọn tháp nào còn cả.

    Theo ghi chép thì tháp chùa Việt cổ đời Lý Trần đều xây bằng đá, gạch, không thấy tháp gỗ. Các tháp đều có 4 cạnh, nhiều tầng. Đây là kiến trúc tượng trưng cho Trục Vũ trụ, tháp là hình ảnh của núi Vũ trụ Tu Di (Meru), do đó bốn góc có 4 Thiên vương đứng gác. Tháp có 11, 12, 13, 14 tầng, số tầng không cố định tùy thuộc vào quan niệm.

    Lúc này không còn 3 phần tương ứng Tam giới rõ ràng như Stupa; tuy vậy các tầng tháp cũng có thể chia ra:
    - Các tầng bên dưới là Dục giới
    - 4 tầng tiếp theo là Sắc giới gồm 4 tầng thiên: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền
    - 4 tầng trên cùng là Vô Sắc giới gồm:Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

    Chỉ đến đời Nguyễn mới xây tháp tám cạnh, tiêu biểu là tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ bảy tầng, là vì tương ứng với 7 vị Phật quá khứ.

    Một số tháp khác có 9 tầng gọi là tháp Cửu Phẩm Liên hoa, tương ứng với 9 phẩm của Tịnh Độ, từ Hạ phẩm hạ sinh đến Thượng phẩm thượng sinh. Những tháp dựng ngoài trời cửu phẩm này đều dựng muộn, không phải tháp cổ. Nhưng có loại tháp đặc biệt là Tháp gỗ - hay Cối phật

    Tháp Phổ Minh

    Quay lại với chủ đề tháp chùa.

    Ngôi tháp chùa cổ nhất Việt Nam nay còn lại là tháp Phổ Minh ở chùa Phổ Minh, Nam Định, xây từ thế kỉ 13. Ngôi tháp dáng đẹp cao 14 tầng, đế và tầng 1 làm bằng đá, các tầng trên xây bằng gạch. Trước kia gạch mộc đỏ tươi giống tháp Bình Sơn , đến đời Nguyễn thì trát vữa lên, nên có hình dạng như ngày nay.

    Trước tháp có mấy bệ chân cột mà tương truyền là để kê chân Vạc Phổ Minh, các vạc lớn nhất của VN, một trong Tứ đại khí. Vạc to đến độ hai người có thể chạy đuổi nhau trên miệng vạc. Giặc Minh đã phá hủy vạc nên không còn gì cả.


    Tháp Phổ Minh có hình dáng thuôn lên rất đẹp, giống một chiếc bút viết lên trời


    Tháp Bình Sơn

    Một ngọn tháp nổi tiếng rất đẹp khác, nhưng có lẽ rất ít người biết, là tháp Bình Sơn ở Vĩnh Phúc.

    Tháp là tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lý, Trần cách đây 8 trăm năm, làm hoàn toàn bằng gạch nung. Sau bao nhiêu năm mà màu gạch vẫn đỏ tươi, họa tiết khắc chạm vẫn sắc nét. Một số phiên bản của tháp còn được đặt tại Bảo tàng Lịch sử, như sự khẳng định của văn hóa Việt Nam.

    Tháp Bình Sơn hiện còn lại có 11 tầng, phần trên cùng đã hoàn toàn mất. Trải tám trăm năm, dù móng bằng gạch khá sâu nhưng cũng bị xói lở, tháp nghiêng. Năm 1969 người ta đã dỡ toàn bộ ngọn tháp ra, thì thấy nhiều viên gạch được kết nối bằng mộng bằng chì. Sau khi đổ móng bê tông chân tháp, sau hơn 2 năm tháp được dựng lại nguyên như trước đó.

    Những phần chân đế phải dùng gạch bổ sung do gạch cũ đã bị xói mất. Nhìn là thấy ngay, vì lớp gạch mới sau vài chục năm đã xỉn màu, còn gạch cũ vẫn đỏ tươi.



    Các chùa gần đây cũng bắt đầu dựng nhiều tháp, bên trong đặt các pho tượng Phật. Tháp chùa Trấn Quốc xây bằng gạch đỏ khá đẹp, 11 tầng, mỗi tầng sáu cạnh, mỗi cạnh có pho tượng bằng đá trắng ngồi trong, tổng cộng 66 tượng.

    Tháp chùa Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng bày cực nhiều tượng đá, tầng nào cũng nhiều đến mức quá, vì không chỉ xung quanh mà ở giữa cũng chi chít.

    Gần đây ở HN có chùa Bằng A dựng tòa tháp - hiện tại là cao nhất - 13 tầng, mỗi tầng tám cạnh, mỗi cạnh trổ cửa sổ, đặt một pho tượng Phật bằng đồng nặng hơn trăm cân. Tổng cộng 104 pho tượng, trở thành tháp đặt nhiều tượng đồng nhất.

    Tượng Phật tháp chùa Bằng A, ngồi quay ra tám hướng.



    Toàn bộ ngọn tháp



    Tháp mộ

    Bên cạnh các Tháp Phật - Tháp Vũ trụ, các ngôi chùa còn có các tháp mộ.

    Tháp mộ là nơi đặt hài cốt của các vị sư đã từng tu tại chùa. Theo như truyền thống của Phật giáo từ Ấn Độ, thì các vị sư sau khi viên tịch sẽ được hỏa táng (lễ trà tỳ), nếu như ở một mức độ nào đó thì có thể còn lại các Xá lị. Xá lị có thể được lưu giữ như báu vật của chùa. Nếu không còn xá lị, thì tro cốt được táng trong các tháp.

    Không rõ thời xưa, các vị sư ở Việt Nam có được hỏa táng không, còn gần đây thì hình như đều chôn trực tiếp và xây tháp lên trên. Một số tháp của thiền sư đặc biệt như Chuyết Chuyết, Như Trí,..., thì nguyên vẹn nhục thân ngồi trong tháp.

    Tháp mộ sư thường có 3 tầng bốn mặt, tháp nhỏ 2 tầng, nhưng cũng có tháp nhiều tầng hơn, tùy quan niệm và tùy chùa. Tháp xây gạch hoặc đá, thường ở phía sau chùa.

    Tháp đá Đăng Minh ở chùa Côn Sơn, nơi táng Xá lị của Thiền sư Huyền Quang, là vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm (Trúc Lâm đệ tam tổ). Tháp xưa đời Trần có lẽ cũng bị hư hại nhiều, những chi tiết sửa lại gần đây.



    Tháp mộ sư độc đáo và thuộc loại đẹp nhất có lẽ là tháp của chùa Bút Tháp. Tháp bằng đá hình lục giác, cạnh thẳng đứng chứ không nhỏ lại như các tháp khác. Tầng dưới có mái trùm ra, cột điêu khắc rồng cuốn rất đẹp, bên trong tầng để tượng thiền sư Chuyết Chuyết.

    Tuy nhiên, nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết lại được tìm thấy ở chùa Phật Tích. Nếu thế thì tháp này chỉ là thờ vọng, không có di cốt bên trong.



    Tượng thờ trong tháp



    Ngôi chùa mà tôi thấy có nhiều tháp mộ sư nhất có lẽ là chùa Bổ Đà ở Bắc Giang. Tôi chưa thấy ngôi chùa nào nhiều tháp đến thế, cả một vạt đồi toàn tháp mộ, trải dài từ trên xuống dưới.



    Những ngôi tháp mộ bằng đá ong ở chùa Nôm



    Toàn cảnh vườn tháp mộ chùa Bổ Đà

    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  12. #52
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Gác chuông

    Bên cạnh Tháp Phật, Tháp vũ trụ, Tháp mộ, Tháp thờ, tại chùa chiền còn một hình thức kiến trúc đẹp nữa là Tháp chuông, hay chỉ đơn giản là Gác chuông, cũng mang hình dáng một ngọn tháp.

    Gác chuông - như tên gọi, mục đích là để treo chuông, để khi gõ chuông tiếng được vang xa, khắp nơi đều nghe được. Chuông, khánh là đồ nhạc khí linh thiêng, theo niềm tin tôn giáo thì khi gõ chuông khánh, thần linh kinh động linh ứng, mỗi lời cầu nguyện theo một tiếng chuông sẽ có tác dụng gấp cả vạn lần. Những quả chuông quý trên khắc các bài kinh văn, mỗi khi gõ lên thì tương ứng với bài kinh đó được tụng cả vạn lần.

    Bên cạnh Tháp Phật, Tháp vũ trụ, Tháp mộ, Tháp thờ, tại chùa chiền còn một hình thức kiến trúc đẹp nữa là Tháp chuông, hay chỉ đơn giản là Gác chuông, cũng mang hình dáng một ngọn tháp.

    Gác chuông - như tên gọi, mục đích là để treo chuông, để khi gõ chuông tiếng được vang xa, khắp nơi đều nghe được. Chuông, khánh là đồ nhạc khí linh thiêng, theo niềm tin tôn giáo thì khi gõ chuông khánh, thần linh kinh động linh ứng, mỗi lời cầu nguyện theo một tiếng chuông sẽ có tác dụng gấp cả vạn lần. Những quả chuông quý trên khắc các bài kinh văn, mỗi khi gõ lên thì tương ứng với bài kinh đó được tụng cả vạn lần.

    Gác treo chuông của chùa cổ thường không được cao lắm, vì các cụ xưa trình độ kiến trúc cũng có hạn, không thể kéo chuông nặng lên những tháp gạch cao, mà cũng không có chỗ để đứng gõ (khác với chuông phương tây kéo dây, treo cao bao nhiêu cũng được). Do đó các gác chuông thường vững chãi và thấp, hoặc làm gác ngay trong chùa.

    Gác chuông cổ đẹp nhất mà tớ biết là gác chuông chùa Keo, đã trở thành biểu tượng kiến trúc chùa cổ, và cũng là biểu tượng của tỉnh Thái Bình.



    Gác chuông chùa Keo hình dáng tuy không thật cao thanh thoát, nhưng lại vững chãi gần gũi, chắc khỏe, được coi là mang dáng một búp sen chưa nở. Bốn cây cột chính cao từ nền lên đến đỉnh nóc, bốn phía còn các cột phụ cho tầng một.

    Tầng một bốn phía để trống, treo một khánh đá lớn. Tầng hai, tầng ba, tầng nóc đều treo mỗi tầng một quả chuông. Toàn bộ gác chuông liên kết bởi những lỗ mộng, con sơn, vì kèo, đấu, đố, cốn, theo như truyền miệng thì không dùng đến đinh.

    Tuy nhiên gần đây trùng tu lại gác chuông, đổi các kết cấu gỗ mục, nên trông gác chuông có vẻ mới hẳn lên.



    Ngoài gác chuông chùa Keo có kiến trúc đẹp nhất, nhiều chùa cũng có gác chuông. Gác chuông thường nằm ở trước chùa chính, tại sân trước, cũng có trường hợp nằm ở sân trong. Nhiều chùa thì tam quan cũng là gác chuông luôn.

    Gác chuông cũng khá nổi tiếng của chùa Trăm Gian - Hà Tây nằm bên sườn đồi phía trước chùa



    Gác chuông một ngôi chùa làng ở Hà Tây



    Có những ngôi chùa không làm gác chuông bên ngoài, mà làm gác ngay trong chùa.

    Nghĩa là mái chùa không là những lớp mái lớn đơn thuần nữa, mà được nâng cao một phần tạo thành những gác nhỏ để treo chuông, khánh.

    Chùa Nành là ngôi chùa có kiến trúc khá đặc biệt kiểu này. Gian tiền đường được tạo thành hai căn gác nhỏ tạo nên một kiểu rất riêng và cũng đẹp.

    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  13. #53
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định Chuông chùa, Khánh

    Chuông chùa

    "Xây chùa, tô tượng, đúc chuông
    "Trong ba việc ấy thập phương nên làm

    Các cụ ngày xưa đã nói thế, đủ biết vai trò quan trọng của Chuông chùa thế nào. Chùa không có chuông thì còn chưa thể gọi là đầy đủ.

    Chuông là loại pháp khí thuộc loại cổ nhất của hầu hết tất cả các nền văn minh, và đặc biệt luôn được dùng trong tôn giáo do âm thanh đặc biệt của nó tạo ra. Tiếng chuông trầm, ngân xa bao giờ cũng gợi đến tâm linh, tôn giáo, huyền bí.

    Trong Phật giáo, chuông không chỉ là pháp khí hỗ trợ khi hành lễ, mà còn mang ý nghĩa lời cầu nguyện. Trên chuông khắc các bài kinh, mỗi khi gõ chuông, tức là gửi lời kinh ấy đi theo âm thanh đến khắp mười phương tám hướng. Một lời cầu nguyện kèm một tiếng chuông có thể nhân gấp nhiều lần lời cầu.

    Chuông phương đông khác hoàn toàn phương Tây ở chỗ âm thanh tạo ra do gõ từ bên ngoài vào, chứ không phải bên trong ra. Do đó muốn gõ chuông phải đứng cạnh chuông, chứ không thể kéo dây như phương tây. Tiếng chuông phương đông không to như phương tây, nhưng trầm và âm đọng lại lâu hơn. Nếu đứng nghe hồi chuông nhà thờ, có thể thấy tiếng chuông dồn dập liên tục vang xa, nhưng hết chuông thì âm thanh cũng gần như tắt luôn. Ngược lại, không thể gõ thật to chuông phương đông liên tục dồn dập được, mà thường gõ từng tiếng đều, khi hết tiếng ngân mới gõ tiếp. Những khi dồn về sau thì gõ nhẹ lại, tạo thành tiếng ngân nga mãi trong không gian.

    Quả chuông thường có hình trụ tròn, treo lên bằng quai có khắc hình đầu rồng. Thực ra đó không phải là rồng, mà là con Bồ Lao, giống con của rồng, là loài thần thú thích nghe âm thanh, gìn giữ bảo vệ cho chuông.



    Quả chuông Việt Nam cũng có những đặc trưng khác khá nhiều so với chuông Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc.

    Chuông bao giờ cũng được chia thành bốn phần theo chiều dọc bởi các gờ nổi lên. Có ít nhất một gờ ngang chạy dọc phần gần đáy, làm quả chuông được tạo thành các phần trống có thể ghi chữ. Nơi các gờ dọc và ngang gặp nhau tạo thành bốn núm chuông. Thường các núm khắc chữ Xuân - Hạ - Thu - Đông.

    Trên phần trống khắc các bài văn chuông, gọi là bài "minh", hoặc các bài kinh Phật. Các bài minh có thể ghi sự tích, lịch sử chùa giống bia, hoặc công đức của người góp công, hoặc ghi danh những người được tôn thờ. Văn chuông cũng có giá trị không kém văn bia.

    Chuông Việt Nam bao giờ thân cũng thẳng đứng, miệng chuông Việt Nam luôn có một gờ rộng hơn thân xòe ra.

    Đó là đặc điểm phân biệt với chuông nước khác.

    Dưới đây là chuông của TQ, Nhật Bản. Có thể thấy các chuông này thường không có cạnh đứng, mà hoặc phình ở giữa, hoặc loe ở miệng. Thậm chí miệng chuông còn lượn sóng. Phần chia trên thân chuông cũng rất phong phú. Nhiều chuông còn có rất nhiều hàng núm đồng để tạo tiếng vang.

    Phải công nhận rằng thật ra chuông TQ, NB muốn đúc phải có trình độ cao hơn hẳn so với đúc chuông VN.



    Chuông to nhất trong lịch sử Việt Nam ghi lại là chuông chùa Diên Hựu, hay còn gọi là chuông Quy Điền, do Thái hậu Ỷ Lan cho đúc. Chuông to nặng, bao nhiêu không rõ, có tài liệu cho rằng nặng một vạn hai nghìn cân (cân ta), nhưng có tài liệu lại thấy ghi một vạn hai nghìn cân là quả chuông bé; tức là chuông còn to hơn nữa.

    Khi đó đã phải dựng một tòa gác rất lớn để treo chuông, nhưng treo lên thì chuông đánh không kêu, có lẽ là do đúc to quá nên bị nứt. Do đó đành bỏ chuông ra ngoài ruộng, rùa chui vào sống bên trong rất nhiều, nên gọi là chuông Quy Điền. Chuông là một trong Tứ đại khí của nước ta. Chuông Quy Điền để ở ruộng chùa Diên Hựu suốt bốn trăm năm, cho đến khi Vương Thông khi chiếm thành Thăng Long đã phá hủy lấy đồng đúc vũ khí.

    Chuông gia trì - mõ
    Chuông cỡ lớn tại chùa thường được gọi là Đại hồng chung ("Đại" đã là to, mà "hồng" lại cũng có nghĩa là to lớn nữa, nhưng mang hai nghĩa hơi khác nhau. Hồng ở đây mang tính to lớn trừu tượng, tâm linh hơn đại). Chuông lớn còn có tên là U minh chung. Cũng có những chuông nhỏ hơn theo hình dáng giống đại hồng chung thường dùng khi làm lễ, tiếng cũng không ngân dài như đại hồng chung.

    Trong chùa còn có một loại "chuông" đặc biệt nữa gọi là chuông gia trì, giống như cái ang bằng đồng để ngửa, khi dùng dùi gõ vào cũng tạo tiếng kêu ngân nga, tiếng cao hay trầm, ngân lâu hay không đều có hình dáng, độ dày, chất liệu đồng đúc lên. Chuông gia trì luôn để ở nơi ngồi tụng kinh hành lễ trước bàn thờ, phía bên trái, đối xứng với mõ.

    Mõ nguyên bản là dụng cụ gõ báo thời gian, canh giờ gọi mọi người làm một việc gì đấy. Từ việc dùng mõ gọi các nhà tu hành đến giờ lên tu tập hành lễ, hoặc đi ăn (thụ trai), dần chuyển thành thứ pháp khí dùng khi làm lễ. Nếu mõ xưa chỉ gõ một vài hồi để thông báo, thì nay được gõ đều đặn trong suốt thời gian đọc kinh. Tiếng mõ tốc tốc trở thành âm thanh đặc trưng quen thuộc của chùa.


    Mõ bên tay phải, và chuông gia trì bên tay trái



    Cái mõ dần trở thành một vật biểu tượng của ngôi chùa. Nói đến sư sãi là thể nào cũng hình dung ra cái mõ, tràng hạt, và cuốn kinh.

    Ở nông thôn Việt Nam vẫn thường gặp cái mõ cá dài thượt, có hình một con cá treo ở ngoài đình. Như xưa các cụ kể, thì khi có việc làng, sẽ gõ cái mõ đó lên để tập hợp làng xã. Trong làng có một người làm công việc được gọi là làm Mõ, thường là dân ngụ cư (không phải dân 3 đời ở làng), phải cầm cái mõ đi rao khắp làng xã khi có việc, là người bị coi rẻ nhất làng.

    Trong chùa, cái mõ hình tròn, khoét rỗng lòng, có một cái quai, trên khắc hai con cá. Cái mõ liên quan đến con cá là vì Cá được cho là loài vật không bao giờ ngủ, vì mắt chúng bao giờ cũng mở thao láo. Do đó mõ - cá thể hiện sự thức tỉnh, giữ gìn không bao giờ ngủ nghỉ, cũng như những người tu hành không bao giờ thôi trì giới và tinh tiến. Gõ tiếng mõ cá để nhắc nhở cái tâm con người.

    Bên cạnh chuông gia trì và mõ, trong chùa còn dùng hai pháp khí tạo âm thanh nữa là trống và chiêng. Trống đánh lên để tạo âm thanh hùng mạnh, thể hiện uy lực của nhà Phật, xua đuổi tà ma yêu quái. Tiếng trống tạo ra âm thanh liên quan với biểu tượng "sư tử hống" - tiếng gầm của sư tử, tượng trưng cho đại hùng đại lực. Tiếng chiêng để giữ nhịp, thức tỉnh người đọc kinh.


    Bộ: Trống - chuông gia trì - mõ - chiêng trong một ngôi chùa


    Cùng với chuông là Khánh.

    Khánh được làm bằng đồng hoặc đá, có hai núm ở hai mặt, có thể gõ. Tuy vậy tiếng của Khánh tắt rất nhanh, và gần như chỉ có người gõ là nghe rõ, từ xa chả thấy gì hết. Khánh mang tính pháp khí, trang trí nhiều hơn công dụng tạo âm thanh.

    Trên khánh cũng là chỗ để khắc chữ, nhưng bài văn, và hình ảnh rồng phượng... Khánh thường là đồ cổ, vì gần đây thấy người ta toàn đúc chuông chứ ít thấy đâu đúc khánh.

    Khánh đồng chùa Nành


    Khánh đá chùa Kiến Sơ, một cổ vật đặc biệt được treo trên các trụ và đà cũng bằng đá

    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  14. #54
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định CÁCH BỐ TRÍ TƯỢNG PHẬT THỜ TRONG CÁC CHÙA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    I- SƠ ĐỒ BỐ TRÍ ĐIỆN PHẬT PHỔ BIẾN CHÙA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    Đạo Phật du nhập vào Việt Nam thế kỷ đầu Tây lịch. Phật Giáo Nguyên Thủy, hay còn gọi là Phật giáo Theravada là Giáo Huấn do chính đức Phật thuyết giảng, hoặc là toàn bộ Phật giáo gồm nhiều học phái khác nhau đã phát triển trong khoảng thời gian sau khi Đức Phật tịch diệt cho đến thế kỷ thứ I.

    Giáo lý căn bản của Phật giáo Nguyên thủy được các nhà tư tưởng Nguyên thủy giữ trung thành với những lời dạy của đức Phật, được ghi trong năm bộ Nikaya, bằng ngôn ngữ Pali, gọi là Thánh điển Phật giáo Nguyên thủy.

    Dựa vào năm bộ Nikaya, các nhà Phật giáo Nguyên thủy triển khai toàn bộ hệ thống giáo lý mà các vị này tin rằng, đây là lời Phật dạy, hay nói khác hơn đây kinh văn chánh truyền. Trên nguyên tắc, giáo lý Nguyên thủy làm nòng cốt cho việc nhận thức Phật giáo, giúp cho người nghiên cứu không đi sai lệnh Phật pháp hoặc lạc lối trong rừng lý luận mông lung.


    II. GIỚI THIỆU THÂN SẮC CÁC NGÀI TRONG ĐIỆN PHẬT CHÙA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    1. Phật Thích Ca (Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật):Giáo chủ cõi Ta bà (đau khổ) – là thế giới mà chúng ta đang sống.



    Last edited by changchancuu; 15-12-2016 at 08:34 PM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  15. #55
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định CÁCH BỐ TRÍ TƯỢNG PHẬT THỜ TRONG CÁC CHÙA MIỀN BẮC

    I- SƠ ĐỒ BỐ TRÍ ĐIỆN PHẬT PHỔ BIẾN CHÙA MIỀN BẮC

    Các lớp tượng cũng được phân bố theo các lớp kiến trúc tạo nên các con đường ngang dọc trong không gian chùa.
    Không có một công thức duy nhất cho bài trí tượng thờ, nhưng có một số điểm chung giữa cách bố trí tượng thờ các chùa đã được các nhà nghiên cứu đã đề cập đến như Trần Lâm Biền, Trần Nho Thìn, Nguyễn Đăng Duy…

    Triết lý vô thường có thể thấy rõ trong bài trí tượng thờ miền Bắc, đó là vạn vật luôn biến đổi, mọi không gian và thời gian bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai, trong Phật giáo gọi là tam thiên thế giới gồm trang nghiêm đại kiếp (quá khứ), hiền đại kiếp (hiện tại) và tinh tú đại kiếp (tương lai).

    Một đặc điểm nổi trội của người Việt là tín ngưỡng đa thần và “vô tôn giáo”, họ đã đưa nhiều thần linh khác vào thờ trong chùa tạo nên các dạng chùa tiền thần hậu phật.


    II. GIỚI THIỆU THÂN SẮC CÁC NGÀI TRONG ĐIỆN PHẬT CHÙA MIỀN BẮC


    1.Phật A Di Đà:
    Giáo chủ tại cõi Cực Lạc (an vui) ở phương Tây. Ngài có nhân duyên hóa độ chúng sinh ở thế giới Tà ba (thế giới ta đang sống) này. Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa.
    2.Phật Thích Ca (Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật):Giáo chủ cõi Ta bà (đau khổ) – là thế giới mà chúng ta đang sống.
    3.Phật Di Lặc: xem giải thích tại Mục B.II-Chùa Miền Trung.
    4.Tòa Cửu Long: là 9 con rồng phun nước tắm cho Phật sơ sinh, các tầng trời mở ra và chư thiên cùng mừng rỡ, các cõi Phật trong quá khứ hoan hỉ.Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra) phát tâm nguyện hỗ trợ cho ngài.
    5.Phật Niết Bàn:Niết bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Theo Phật nguyên thủy, Niết bàn được xem là đoạn triệt Luân hồi. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si.
    6.Quan Thế Âm Bồ Tát:Là bậc Ðại Bồ Tát có lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Ngài hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm.
    7.Đại Thế Chí Bồ Tát:là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, khiến chúng sanh mười phương thế giới thoát khổ đau, thành tựu đạo quả Bồ đề.
    8.Phổ Hiền Bồ Tát: là vị Bồ Tát tượng trưng cho Lý, Ðịnh, Hành cưỡi voi trắng sáu ngà, hầu bên tay phải của đức Như Lai. Voi trắng tượng trưng cho cho trí tuệ vượt chướng ngại, sáu ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
    9.Văn Thù Bồ Tát: Ngài là vị Bồ tát biểu hiện cho sự anh minh về trí tuệ, tượng thờ ngài thường có dạng 5 búi tóc biểu thị cho 5 trí của nhà Phật, cưỡi trên sư tử xanh biểu thị sức mạnh của trí tuệ, tay cầm thanh gươm biểu thị cho 5 lợi hại của trí tuệ.
    10.Địa Tạng Vương Bồ Tát:Là vị Bồ tát cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi, và nguyện không chứng Phật quả nếu chưa cứu độ hết chúng sinh khỏi địa ngục.
    11.Quan Âm Tống Tử: là hình tượng Quan âm Bồ tát bế một cậu bé trai trong lòng Ngài.
    12.Ngọc Hoàng Thượng Đế : Ngài ngự trên Thiên Đình , cùng với các vị thần tiên giúp việc , cai quản cả Thế gian, trên điều hòa âm dương tạo ra bốn mùa, mây mưa gió bão, ngày đêm..., dưới thì nuôi dưỡng vạn vật chim muôn cây cỏ.... Thường phối thờ với 2 vị thần là Nam Tào, Bắc Đẩu
    13.Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra): là các vị Thiên, vua cõi trời Đao Lợi, cũng nằm trong cõi Ta Bà, phát tâm phù hộ Phật, bảo vệ cho giáo pháp.
    14.A Nan Đà và Ca Diếp: hai vị là 2 Đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Ma-ha Ca-Diếp là tổ sư đời thứ nhất, tôn giả A-Nan là tổ sư đời thứ nhì.
    15.Tổ Bồ Đề Đạt Ma: Là vị Bồ tát cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi, và nguyện không chứng Phật quả nếu chưa cứu độ hết chúng sinh khỏi địa ngục.
    16.Thập Điện Minh Vương: là các vị thần linh cai quản cõi chết và phán xét con người ở Địa ngục căn cứ vào công hay tội họ đã tạo ra khi còn sống.
    17.Hộ Pháp:Là vị thần xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ linh tháp của Phật Tổ .
    18.Bát Bộ Kim Cương: là tám vị Hộ pháp trong Phật giáo Đại thừa trong đó có Phật giáo Việt Nam. Trong tám vị thì ba vị tô mặt trắng nét mặt nhân hậu, năm vị tô mặt đỏ với dữ tợn, để kết hợp hai chức năng “khuyến thiện” và “trừng ác” của thần linh.
    19.Giám Chai: là một vị thần trông nom việc ăn uống cho chúng Tăng trong chùa, thường thờ ở nhà bếp, vị thần này có hình dáng mặt xanh tóc đỏ.
    20.Bà La Sát: giống như người phụ nữ xinh đẹp, đầy sức quyến rũ, chuyên ăn thịt uống máu loài người, loài quỷ này còn có hình dáng, hoặc là đầu trâu tay người, hoặc có móng chân trâu, hoặc là đầu nai, đầu dê, đầu thỏ.
    21.Ngọc Nữ và Kim Đồng: hai đứa trẻ phục vụ cho Quan âm Bồ Tát, Đồng nam còn có tên là Thiện Tài, đồng nữ còn có tên là Long Nữ.
    Last edited by changchancuu; 15-12-2016 at 08:27 PM.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  16. #56
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định CÁCH BỐ TRÍ TƯỢNG PHẬT THỜ TRONG CÁC CHÙA MIỀN TRUNG

    I- SƠ ĐỒ BỐ TRÍ ĐIỆN PHẬT PHỔ BIẾN CHÙA MIỀN TRUNG

    Bàn thờ sư tổ thường được đặt ngay sau bàn thờ Phật tạo thành cách thờ Tiền phật Hậu tổ (đề cao thờ cúng tổ tiên – sư tổ trụ trì chùa, nói lên vị thế quan trọng của con người trong việc mở mang Phật giáo ở Trung Bộ ). Ví dụ như chùa Quốc Ân (Huế), chùa Từ Hiếu ( Huế), chùa Chúc Thánh ( Hội An) đều có dạng chánh điện (hay còn gọi là đại hùng bảo điện) phía trước thờ Phật, phía sau ngăn ra thành gian thờ Tổ hoặc các tăng chúng quá cố.

    Nói chung, việc bài trí tượng thờ tại các chùa miền Trung không thống nhất. Các chùa ở Thuận Hoá thường bị ảnh hưởng đậm nét của phong cách Trung Hoa trong việc tạo tác tượng Phật cùng như bài trí Phật điện, nên nhiều chùa không thờ bộ Tam thế mà chỉ thờ Di đà tam tôn ( tam thánh Tây Phương) hoặc thờ độc tôn đức Thích ca (chùa Từ Ðàm). Một số trường hợp đặc biệt khác như chùa có ban thờ Quan Thánh (chùa Quốc Ân), chùa không có ban thờ Tổ như chùa Thánh Duyên – Huế.

    Cùng với hệ thống tượng Phật, các tượng thuộc các tôn giáo khác cũng có phần thay đổi. Trong các chùa Huế ta không thấy tượng Bát Bộ Kim Cương hoặc Mẫu liễu hạnh, thay vào đó là thờ Thiên Yana và Tiêu diện. Xu hướng tạc tượng thờ các ông hoàng bà chúa, quan lại nhà Nguyễn đã có công đóng góp xây dựng cho nhà chùa và các vị khai canh khai khẩn tương đối phổ biến ở đây.

    Ví dụ ta có thể thấy cách bố trí tượng thờ của chùa Thập Tháp Di đà tại Bình Ðịnh như sau: khu chính điện thờ Tam thế Phật và tượng Phật Quan âm, nhà Phương trượng phía sau thờ sư tổ, khu đông đường và tây đường có nơi thờ phụng sư Nguyên Thiều, các sư trị trì khác và Phật tử.


    II. GIỚI THIỆU THÂN SẮC CÁC NGÀI TRONG ĐIỆN PHẬT CHÙA MIỀN TRUNG


    1.Tam Thế Phật: Bộ tượng này gồm có 3 pho, thường được tạc trong tư thế ngồi thiền bán kiết, để chỉ các vị Phật ở Quá khứ, Hiện tại và Tương lai.Mục đích tôn sùng cái hình tướng chân thật, sáng láng, kỳ diệu, luôn tồn tại khắp không gian và xuyên thời gian của các đức Phật.
    2.Hoa Nghiêm Tam Thánh: Bộ tượng này bao gồm Phật Thích Ca Mâu Ni (giữa) hai bên là Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Mục đích Cặp Bồ Tát này là hai bậc thượng thủ của hết thảy hàng Bồ Tát, thường giúp đỡ, tuyên dương cho việc giáo hóa chúng sinh của đức Phật Như Lai.
    3.Phật A di đà: Giáo chủ tại cõi Cực Lạc (an vui) ở phương Tây. Ngài có nhân duyên hóa độ chúng sinh ở thế giới Tà ba (thế giới ta đang sống) này. Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa.
    4.Phật Thích ca (Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật): Giáo chủ cõi Ta bà (đau khổ) – là thế giới mà chúng ta đang sống.
    5.Phật Di lặc: là vị Bồ Tát sẽ thay thế đức Phật Thích ca ở cõi Ta Bà (thế giới ta đang sống), đức Di Lặc tuy chưa thành Phật nhưng lấy lòng từ bi mà phổ độ chúng sinh nên mọi người đều gọi ngài là Phật.
    6.Phật Mẫu Chuẩn Đề: là vị Bồ-tát hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sanh nào trí tuệ kém cỏi, nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh, thọ mạng ngắn ngủi.
    7.Quán Thế Âm Bồ Tát: Là bậc Ðại Bồ Tát có lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Ngài hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm.
    8.Địa Tạng Vương Bồ Tát: Là vị Bồ tát cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi, và nguyện không chứng Phật quả nếu chưa cứu độ hết chúng sinh khỏi địa ngục.
    9.Phổ Hiền Bồ Tát: là vị Bồ Tát tượng trưng cho Lý, Ðịnh, Hành cưỡi voi trắng sáu ngà, hầu bên tay phải của đức Như Lai. Voi trắng tượng trưng cho cho trí tuệ vượt chướng ngại, sáu ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
    10.Văn Thù Bồ Tát: Ngài là vị Bồ tát biểu hiện cho sự anh minh về trí tuệ, tượng thờ ngài thường có dạng 5 búi tóc biểu thị cho 5 trí của nhà Phật, cưỡi trên sư tử xanh biểu thị sức mạnh của trí tuệ, tay cầm thanh gươm biểu thị cho 5 lợi hại của trí tuệ.
    11.Hộ Pháp Vi Đà: xem giải thích tại Mục A.II-Chùa Miền Nam.
    12.Già Lam Hộ Pháp (Quan Thánh):là Quan Công – Quan Vân Trường, theo truyền thuyết thì Ngài đã từng hiển thánh ở Ngọc Tuyền Sơn và qui y nhà Phật, Phật giáo nêu cao gương trung nghĩa của Ngài mà gọi là Hộ Pháp.
    13.Thập Điện Minh Vương: là các vị thần linh cai quản cõi chết và phán xét con người ở Địa ngục căn cứ vào công hay tội họ đã tạo ra khi còn sống.
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  17. #57
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định CÁCH BỐ TRÍ TƯỢNG PHẬT THỜ TRONG CÁC CHÙA MIỀN NAM

    I- SƠ ĐỒ BỐ TRÍ ĐIỆN PHẬT PHỔ BIẾN CHÙA MIỀN NAM

    Chùa Miền Nam tôn thờ Ðức Phật Thích Ca hoặc Đức Phật A Di Ðà làm chủ đạo và thường thờ Tổ ngay trong không gian thờ Phật.

    Có thể lý giải như sau:

    *Phật giáo Tịnh Ðộ Tông tôn thờ Ðức A Di Ðà làm giáo chủ với cách tu Phật dễ nhất, chỉ cần niệm nhiều lần tên A Di Ðà Phật là có thể tu Phật và thành Phật.
    **Còn Đức Phật Thích Ca là Giáo chủ cõi Ta bà (đau khổ) – là thế giới mà chúng ta đang sống. Ngài giới thiệu Nhân địa và Công hạnh của đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc cho chúng sanh cõi Ta bà được biết, để niệm danh hiệu Ngài mà cầu sanh về cõi đó.
    ***Với con người Nam Bộ lao động lo cho hiện thực cuộc sống thì Phương pháp niệm “A Di Đà Phật” này là cách hiệu quả nhất để theo Phật.
    Một số ngôi chùa Nam Tông chỉ tôn đức Thích Ca trên Phật điện và các vị A la hán dưới hình dạng người Ấn Độ.

    Những ngôi chùa Nam Bộ là những không gian phong phú gây lên ấn tượng thiêng liêng về Phật cứu độ chúng sinh, về luân hồi chuyển kiếp, về ở hiền gặp lành.




    II. GIỚI THIỆU THÂN SẮC CÁC NGÀI TRONG ĐIỆN PHẬT CHÙA MIỀN NAM


    1.Phật A di đà: Giáo chủ tại cõi Cực Lạc (an vui) ở phương Tây. Ngài có nhân duyên hóa độ chúng sinh ở thế giới Tà ba (thế giới ta đang sống) này. Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa.
    2.Phật Thích ca (Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật):Giáo chủ cõi Ta bà (đau khổ) – là thế giới mà chúng ta đang sống.
    3.Phật Dược sư: Các Ngài giúp chúng sinh được cứu khổ ban vui, sinh vào thiện đạo,thân hình đầy đủ các căn, được giàu có, xinh đẹp, thọ mạng dài lâu, tiêu trừ các tội lỗi về phạm giới khuyết giới, tiêu trừ các tội trộm cắp nghèo khó, giúp trừ các bệnh khổ thân tâm ma quỷ ám hại, được vãng sinh Tịnh Độ,…
    4.Phật Nhập Niết Bàn: Niết bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Theo Phật nguyên thủy, Niết bàn được xem là đoạn triệt Luân hồi. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si.
    5.Tây Phương Tam thánh: Bộ tượng này thường thấy trong các chùa Phật thuộc Tịnh Độ Tông bao gồm Phật A di đà – Giữa (Trí), Hai bên là Quan âm Bồ tát (Bi), Đại thế Chí Bồ tát (Dũng). Mục đích: Ba vị này ngự ở cõi Tây Phương Cực Lạc, phóng hào quang để tiếp dẫn chúng sinh về cõi đó.
    6.Quán Thế Âm Bồ Tát: Là bậc Ðại Bồ Tát có lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Ngài hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm.
    7.Đại thế Chí Bồ Tát:là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, khiến chúng sanh mười phương thế giới thoát khổ đau, thành tựu đạo quả Bồ đề.
    8.Địa Tạng Vương Bồ Tát: Là vị Bồ tát cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi, và nguyện không chứng Phật quả nếu chưa cứu độ hết chúng sinh khỏi địa ngục.
    9.Mục Kiều Liên Bồ Tát: theo Phật giáo Bắc Tông, Ngài biết mẹ đang lâm kiếp ngạ quỷ; ông hỏi Phật tổ về cách cứu mẹ. Theo lời Phật, mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp).
    10.Phật Mẫu Chuẩn Đề: là vị Bồ-tát hộ trì Phật pháp và hộ mạng cho những chúng sanh nào trí tuệ kém cỏi, nghiệp chướng sâu dày, thân nhiều tật bệnh, thọ mạng ngắn ngủi.
    11.Thiên Thủ Thiên Nhãn Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát: một thân biến hóa toàn vẹn của Quán Thế Âm Bồ Tát với Đại Nguyện Từ Bi cứu nạn bạt khổ cho tất cả chúng sinh trong biểu hiện sự cứu độ rộng rãi qua sự hợp nhất của Trí Tuệ (1.000 mắt) với phương tiện Thiện Xảo của Tâm Từ Bi (1.000 tay).
    12.Tiêu Diện Đại Sĩ: còn được gọi là ông Tiêu – một trong những hóa thân của Quan Âm Bồ tát đi diệt trừ ngạ quỷ, cứu độ chúng sinh.
    13.Hộ Pháp Vi Đà: Là vị Bồ Tát xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ linh tháp của Phật Tổ (chứa xá lợi Phật).
    14.Tổ Bồ Đề Đạt Ma: là đệ tử và truyền nhân Bát Nhã Đa La, Tổ thứ 27 của nhà Phật
    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 27-08-2015, 09:16 AM
  2. Ý NGHĨA CON RỒNG TRONG ĐẠO PHẬT
    By chinhca0910 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 07-03-2013, 01:14 PM
  3. Ý nghĩa của việc cúng gà trống trong ngày Tết
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 18-03-2010, 01:57 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 16-10-2007, 08:45 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •