Trang 2 trong 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
kết quả từ 21 tới 33 trên 33

Ðề tài: Tác động của Thần khí nơi các tôn giáo khác

  1. #21

    Mặc định

    MỜI BẠN VX ĐỌC LẠI KĨ ĐOẠN TÔI VIẾT
    "TÔI MUỐN HỎI TẤT CẢ CÁC ĐẠO HỮU THIÊN CHÚA GIÁO TRÊN ĐÂY....."
    BẠN THẤY ĐẤY , TÔI NÓI VỚI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI CHỨ CÓ ƯU ÁI CHỈ NÓI VỚI RIÊNG BẠN THÔI ĐÂU MÀ TỰ DƯNG BẠN VÀO NGÚNG NGUẨY GIẬN DỖI VÀO ĐÒI KHÔNG NÓI CHUYỆN VỚI TÔI...??? BẠN THẬT LẠ ĐẤY...???

  2. #22

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vitxiem Xem Bài Gởi
    quangcom & thaiduong162 vx có quyền không nc với 2 bạn vì vx không muốn chuốc sự bực mình và gây ồn ào trong cái phòng này, các bạn không thích những lời phát biểu của vx thì đừng đọc pót của vx , vx cũng đã đang làm như vậy với những cái pót của 2 bạn, cám ơn!
    Mình có nói chuyện với vx đâu nhỉ ?

  3. #23

    Mặc định

    2 con mèo đen bây giờ ăn vụng đã biết chùi mép rồi à?

    xì, vit thì phải ngúng nguẩy rồi :party:1
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  4. #24

    Mặc định

    Đã theo chúa đừng nên tranh luận
    Biết khiêm nhường và thuận lời răng
    Đạo này đạo nọ không cần
    Miễn lòng ngay thẳng thiên thần là ta
    Cùng chung huynh đệ một nhà
    Vui buồn có bạn thánh ca giải sầu
    Các ông tu học đã lâu
    Tức nhiên phải biết quý câu thuận hòa
    Bát nhã

  5. #25

    Mặc định

    4. Vấn đề Ơn Cứu Ðộ
    cho những người ngoài Kitô giáo


    Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

    I. Niềm vui Ơn Cứu Ðộ đến cho muôn người
    Thời còn học ở Tiểu Chủng Viện, có một lần tôi và một người bạn đùa với nhau rồi đi tới cãi nhau, chung quy vẫn là vấn đề những người chưa Rửa tội sau khi chết có được lên Thiên Ðàng không. Vẫn cứ lập luận cũ rích thời tiền công đồng, anh bạn trả lời, "đương nhiên chưa Rửa tội thì làm sao mà lên Thiên Ðàng được". Thế là tôi tức khắc, lý luận với anh bạn: "300 năm về trước, ông bà tổ tiên của tôi, những người sinh ra và chết đi trước khi Tin Mừng của Chúa Giêsu được truyền vào Việt Nam, họ là những người hiền lành chất phác, họ hy sinh dưỡng dục dạy dỗ những người trong dòng họ của tôi để biết ăn ngay ở lành, nhờ đó đời này truyền qua đời khác, và giúp tôi có nền tảng hôm nay để biết sống trong ơn nghĩa Chúa, giữ đạo và sống đạo. Nếu mà họ cũng không được lên Thiên Ðàng thì buồn quá".
    Ðương nhiên Thiên Chúa lòng lành vô cùng và thông biết mọi sự, Ngài là Người Cha nhân từ, là Ðấng luôn tha thứ, Ngài sẽ chiếu theo lượng công bình của Ngài để mà xét đoán những người thiện tâm, tuy chưa biết Chúa nhưng vẫn sống trong sự quan phòng và tràn đầy tình thương của Chúa, chắc chắn họ cũng có thể được lãnh nhận ơn Cứu Ðộ. Nhưng ơn Cứu Ðộ này đến với những người ngoài Kitô giáo như thế nào? Giáo hội giải thích như thế nào về ơn cứu độ cho những người ngoài Kitô giáo? Chúng ta sẽ lần lượt dựa theo những tài liệu của Giáo hội để tìm hiểu vấn đề Ơn Cứu Ðộ cho những người ngoài Kitô giáo này.
    II. Vấn đề Ơn Cứu Ðộ cho những người ngoài Kitô giáo
    (1) Trước Công Ðồng Vatican II (1962-1965), lập trường truyền thống của Giáo hội là: "Ngoài Giáo hội không có ơn Cứu Ðộ" ("extra ecclesiam nulla salus"). Ðây là câu nói nổi tiếng của Giáo phụ Origen (khoảng năm 185-254) và Cyprian (200-258), sau này Công Ðồng Florence (1442) cũng tuyên bố nguyên tắc này (DS 1351).
    (2) Công Ðồng Vatican II đối với vấn đề Ơn Cứu Ðộ cho những người ngoài Kitô giáo có thái độ cởi mở hơn, trong hiến chế về Giáo Hội "Ánh Sáng Muôn Dân" (Lumen Gentium), một mặt nhắc lại tính quan trọng của Ơn Cứu Ðộ trong Giáo Hội (Lumen gentium - LG 10), nhưng một mặt lại mở rộng phạm vi của Giáo Hội; những kitô hữu đã chịu phép Rửa tội thì đương nhiên là những con cái của giáo hội, nhưng những người ngoài Kitô giáo chưa lãnh nhận Tin Mừng, nhờ vào nhiều phương cách khác nhau cũng có liên quan tới đoàn thể Dân Chúa: "vã lại những người ngoài Kitô giáo kia, nếu không phải do lỗi ở chính mình mà không nhận biết Tin Mừng của Ðức Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, dựa theo những chỉ dẫn của lương tâm, nhờ vào ơn Chúa soi sáng, thực hành Thánh Ý Thiên Chúa, họ cũng có thể có được sự sống đời đời." (Lumen gentium - LG 16). Hiến chế còn nói tiếp, kể cả những người chưa nhận biết Thiên Chúa, hay không có tín ngưỡng, chỉ cần họ thành tâm thiện ý và hành động căn cứ theo lương tâm, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho họ những ơn ích cần thiết để giúp họ được cứu độ. Hiến chế cũng nhắc đến trách nhiệm truyền giáo của Giáo hội, nhưng giải thích rằng, trong khi rao giảng Tin Mừng, Giáo hội không có ý loại bỏ những chân lý và thiện mỹ của những truyền thống của các tôn giáo hay văn hóa, nhưng muốn bảo tồn những điểm này, và đưa những truyền thống này đến nơi viên mãn của nó (Lumen gentium - LG 17). Cũng vậy, Sắc Lệnh "Rao Giảng Tin Mừng" (Ad gentes divinitus) một mặt nhấn mạnh sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội, một mặt nhìn nhận những tôn giáo khác cũng có những điểm tích cực để có thể dẫn đưa các tín đồ của họ tìm về Thượng Ðế, và cũng là những điểm làm nền tảng chuẩn bị cho họ lãnh nhận Tin Mừng (Ad gentes divinitus - AG 3). Ngoài ra, trong Hiến Chế Mục Vụ "Vui Mừng và Hy Vọng" (Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay) (Gaudium et spes) càng nhắc rõ Thánh Thần sẽ dùng những phương cách đặc biệt để làm cho những người ngoài Kitô giáo được tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô (Gaudium et spes - GS 22).
    III. Công Ðồng Vatican II đối với vấn đề ơn cứu độ ngoài Kitô giáo
    Công Ðồng Vatican II đối với vấn đề ơn cứu độ ngoài Kitô giáo đã đem lại một lối giải quyết mới, nói chung, mọi người đều nhìn nhận rằng đây là những cống hiến tương đối to lớn của Karl Rahner (1904-1984)
    (1) Trong khi thảo luận vấn đề này, Karl Rahner căn cứ vào hai nguyên tắc căn bản: 1) Trước hết ngài đề ra tính cần thiết trong niềm tin vào Ðức Kitô để có ơn cứu độ, tính cần thiết này và bản chất của ơn cứu độ có liên quan với nhau, bởi vì tín ngưỡng chính là biểu lộ thái độ rộng mở và đón nhận Thiên Chúa nhờ vào Ðức Kitô ban phát ơn cứu độ. 2) Một nguyên tắc căn bản khác đó là ý muốn cứu độ của Thiên Chúa có tính phổ quát, Thiên Chúa muốn cứu độ toàn thể nhân loại (1Tm 2,4). Qua ý muốn cứu độ có tính phổ quát này làm cho ta cảm thấy niềm tin vào Ðức Kitô vẫn còn ở mức độ thấp (chưa phổ quát), sự thật chỉ có số ít người có niềm tin này. Ðể giải đáp cho vấn nạn này, Karl Rahner nhận thấy cần phải để niềm tin vào Ðức Kitô phân thành hai loại: công khai và tiềm ẩn; như vậy mới có tính phổ quát và mọi người đều được ơn cứu độ.
    (2) Lý luận của Karl Rahner căn cứ theo "Tiên nghiệm nhân học" (transcendental anthropology), niềm tin tiềm ẩn với kinh nghiệm siêu việt của con người có liên quan với nhau; con người là loài có tâm linh, và điểm lớn nhất trong tâm linh đó là siêu việt vô biên. Khi con người hành động trong tinh thần nhận thức và yêu thương thường hướng về một lãnh vực cao hơn, hướng về chân thiện mỹ cao hơn và thực hữu (infinite being) cao hơn. Ý kiến độc đáo này của Karl Rahner nói rằng, khi kinh nghiệm siêu việt hướng về một thực hữu vô biên thì không còn thuộc về kinh nghiệm bản thân nữa, nhưng thuộc về một loại kinh nghiệm ân sủng. Một khi con người rộng mở hướng về kinh nghiệm siêu việt, tích cực tìm kiếm chân thiện mỹ cao hơn, thì họ đã rộng mở hướng về Thiên Chúa là Ðấng ban phát ơn Thánh Hóa, họ đang đi vào thế giới ân sủng.
    (3) Karl Rahner nói thêm, loại kinh nghiệm siêu việt này không những liên quan tới ân sủng, mà cũng liên quan tới mầu nhiệm Chúa Kitô. Khi xét đến mầu nhiệm nhập thể, Karl Rahner nhận thấy rằng Ngôi Lời kết hiệp với nhân tính, nghĩa là để cho sự hướng về siêu việt của nhân tính đi đến một hiện thực vẹn toàn, Mầu nhiệm Kitô có thể xem là một điển hình của con người tự mình siêu việt cao nhất. Ðương nhiên, việc tự mình siêu việt này là do bởi chính Thiên Chúa thông truyền cho. Nhờ đó, khi con người rộng mở hướng đến kinh nghiệm siêu việt, thì đã thực sự rộng mở hướng về mầu nhiệm Kitô. Karl Rahner đặc biệt đưa ra hai loại niềm tin vào Ðức Kitô theo phương cách tiềm ẩn, hay biểu hiện cách cụ thể là "kitô hữu vô danh", (a) nhìn nhận rằng con người có giới hạn và (b) thường rộng lượng đối với người anh em: (a) ai đối diện với sự huyền bí của sinh lão bệnh tử, và mọi sinh hoạt trong cuộc sống của con người, thì có thể an nhàn, chấp nhận giới hạn của chính mình, và trung thành với những trách nhiệm của công việc hằng ngày, thì người đó đã âm thầm (tiềm ẩn) đón nhận Ðấng đã xuống thế làm người, chia sẻ những sự việc trong cuộc sống con người, người đó thường thường trung thành với Ðức Kitô của Chúa Cha. Như thế thì tuy người này chưa nhận biết Tin Mừng của Ðức Kitô, nhưng thực sự thì đã đón nhận Ngài rồi. (b) Nhờ vào mầu nhiệm giáng sinh, Ðức Kitô trở thành con người thân cận của loài người, Ngài ngự đến trong thân xác của mỗi anh chị em; ai rộng lượng với những người anh em, chân thành tiếp đón và phục vụ hết tình, thì chính là đã tiếp đón Ðức Kitô. Hai loại trên đây Karl Rahner gọi là những biểu hiện cách cụ thể "những kitô hữu vô danh" (anonymous christians).
    (4) Lý luận của Karl Rahner cũng bao gồm luôn việc đặt lại vấn đề ý nghĩa ơn cứu độ của những người ngoài Kitô giáo; Karl Rahner ủng hộ giáo lý truyền thống, chấp nhận tính cần thiết của Giáo hội để có ơn cứu độ, nhưng nhận thấy tính cần thiết này với hoàn cảnh thực tế của lịch sử quan hệ với nhau. Trước khi Ðức Kitô đến, và ngày hôm nay ở những nơi Phúc âm chưa phổ cập, các tôn giáo địa phương cũng có ý nghĩa ơn cứu độ. Con người có tính quần chúng, cần phải nhờ vào đoàn thể tôn giáo để bày tỏ tín ngưỡng, các tôn giáo ngoài Kitô giáo có thể nói được là những người chưa nhận biết Phúc Âm của Ðức Kitô, phải nhờ vào những phương tiện thông thường nào đó để có được ơn cứu độ; như vậy, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa các tôn giáo này đều có ý nghĩa tích cực.
    (5) Có một số người nhận thấy rằng lập luận "những tín hữu vô danh" làm trở ngại công việc truyền giáo. Karl Rahner tuyệt đối ủng hộ sứ mạng truyền giáo của Giáo hội, ngài chỉ đưa ra mục đích của truyền giáo chính là đem niềm tin tiềm ẩn (fides implicita) bên trong trái tim của con người dẫn tới việc công khai tuyên xưng niềm tin vào Ðức Kitô, để con người có thể gia nhập vào Giáo hội, để nhờ vào bí tích và những phương tiện cứu độ khác trong Giáo hội, càng hiệu lực hơn, và càng vẹn toàn hơn để lãnh nhận ơn cứu độ. Cũng có người phê bình danh xưng "những kitô hữu vô danh" này làm cho người ta có ấn tượng tự đại, nhưng Karl Rahner nói rằng danh xưng này, không phải là công cụ để đối thoại với các nhân sĩ của những tôn giáo khác; mà chỉ là để cảnh tỉnh các kitô hữu đối với vấn đề ơn cứu độ cho những người anh em khác, cần phải có những quan điểm tích cực hơn. "Những kitô hữu vô danh" tuy là một danh xưng mới do Karl Rahner tạo dựng nên, kỳ thực ngài cũng chỉ dựa theo những căn cứ đã có từ trước, giáo phụ Q.S.F Tertullian (khoảng năm 160-230) đã từng gọi mọi người là những kitô hữu thiên sinh (anima naturaliter christiana).
    IV. Thần học ngày nay về quan hệ giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác
    Quan hệ giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác đã trở thành đề tài quan trọng để đặt lại vấn đề thần học ngày nay, cao điểm của thảo luận nằm tại ý nghĩa ơn cứu độ có tính phổ quát của Ðức Kitô, và vấn đề Ðức Kitô là Chúa Cứu thế của nhân loại. Các thần học gia cận đại đối với vấn đề này có nhiều ý kiến không giống nhau đại khái có thể phân chia thành ba loại, tạo thành ba loại kitô luận khác nhau:
    (1) Kitô luận bài ngoại (exclusive Christology): ý kiến này cương quyết giữ lập trường nghiêm khắc giải thích ngoài Giáo hội tuyệt đối không có ơn cứu độ, không những xem Chúa Kitô là Chúa Cứu Thế duy nhất của toàn nhân loại, mà còn phủ nhận tính khả thể của bất cứ ơn cứu độ nào trong lịch sử; như thế, để có được ơn cứu độ, cần phải nhận thức và tin thờ vào Ðức Kitô, gia nhập vào Giáo hội của Ngài. Thần học gia Tin Lành K. Barth (1886-1968), trong các tư tưởng thần học thuộc các tác phẩm ban đầu của ngài, là một phát ngôn nhân đại biểu cho loại thần học bài ngoại này. Ðối với phía Công Giáo, đây là lập trường truyền thống trước Công đồng Vatican II, nhưng công đồng Vatican II đã đem lại một biến chuyển lớn.
    (2) Kitô luận khoan dung (inclusive Christology): Loại kitô luận này bảo vệ ý muốn cứu độ có tính phổ quát của Ðức Kitô, đồng thời tuyên nhận Ðức Giêsu Kitô là vị Trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người (1Tm 2,4-5); cũng thừa nhận ngoài Ngài ra, "Trong thế gian này không còn Danh Hiệu nào khác, để chúng ta có thể nhờ vào mà được cứu độ" (Cv 4,12). Các thần học gia này chủ trương rằng tin vào Ðức Kitô để được cứu độ là điều cố nhiên cần thiết, nhưng niềm tin này cũng có thể tiềm ẩn; Giáo hội của Ðức Kitô chính là cửa vào để có ơn cứu độ, nhưng đối với những người chưa nhận biết và chưa tin thờ vào Ðức Kitô, các tôn giáo khác cũng có những ý nghĩa tích cực về ơn cứu độ. Như đã giới thiệu trên đây, lập luận "những kitô hữu vô danh" của Karl Rahner đại biểu cho loại kitô luận này. Công đồng Vatican II đã đi theo kiểu lập luận này. Sau công đồng Vatican II, gần đây trong giới thần học gia Tin Lành cũng gần như đã chấp nhận hướng theo lập trường cởi mở này.
    (3) Kitô luận đa nguyên (pluralist Christology): Kitô luận đa nguyên không nói về đa nguyên hóa của kitô luận, mà là đại biểu một loại thần học mô thức mới được sáng tác. J.H. Hick (1922- ) đặt mô thức này để so sánh với những cải cách của Copernican (Copernican revolution), ông ta chủ trương rằng không phải ở nơi Ðức Kitô, nhưng thay vào đó là một vị thần của thần học phản tỉnh làm trung tâm điểm. Nhìn từ góc độ này, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới này đều bình đẳng, Ðức Giêsu Kitô cũng chỉ là một Ðấng trong nhiều Ðấng Cứu Thế của lịch sử. Thí dụ nếu nói rằng Ðức Kitô là Ngôi Lời xuống thế làm người, như vậy thì cũng phải chấp nhận rằng Ngôi Lời này cũng nhập thể trên chính những vị cứu thế khác của các tôn giáo khác. Thần học gia Ấn độ giáo R. Panikkar (1918- ), trong các tác phẩm sau này cũng từ kitô luận bao dung chuyển vào kitô luận đa nguyên; ngài có ý đồ đặt Ðức Giêsu lịch sử (historical Jesus) phân biệt với Ðức Kitô có tính vũ trụ (cosmic Christ), ông chủ trương Ðức Kitô có tính vũ trụ không những hiện thân trong Ðức Giêsu Nazarét, mà còn đã từng hiện thân trong các vị cứu thế của các tôn giáo lớn khác, tất cả cũng chỉ là một vị Kitô vũ trụ xuất hiện với những vị thế không giống nhau trong lịch sử.
    Loại kitô luận đa nguyên này đặt Ðức Kitô vũ trụ phân biệt với Ðức Giêsu lịch sử, làm như thế thì đi ngược lại với mạc khải của Tân Ước. Khi Tân Ước làm chứng Ðức Giêsu Kitô là vị cứu thế của nhân loại, không phải là nói về một đấng lấy hình tượng Kitô, nhưng là chính Ðấng đã xuống thế làm người, Ðức Giêsu Nazarét, chính Ðức Giêsu này đã nhờ vào những phép lạ đương thời mà Ngài đã làm, và nhờ vào mầu nhiệm Ngài đã chết và đã phục sinh, để trở thành Ðấng Cứu Thế của nhân loại. Nhờ vào sự Phục Sinh của Ngài, Ðức Giêsu lịch sử này được tuyên bố là Ðức Kitô có tính vũ trụ siêu vượt lịch sử, nhưng hai vị này đều cùng là một người. Nếu như nói Ðức Kitô cũng xuống thế làm người hiện thân trên những Vị Cứu Thế của các Tôn Giáo khác, thì vô ý đã đặt sự việc Nhập thể trở thành một câu chuyện thần thoại, làm cho mầu nhiệm Nhập thể mất đi ý nghĩa đặc biệt của riêng nó.
    (4) Kết luận: Trong ba loại ý kiến trên, kitô luận bao dung mới là lập trường chính đáng, lập trường này trên căn bản lấy theo lý luận "kitô hữu vô danh" của Karl Rahner. Karl Rahner đối với việc phản tỉnh về lịch sử cứu độ có thể làm thành những bổ túc cho lý luận này. Những phép lạ của Ðức Kitô là những sự kiện riêng biệt trong lịch sử, nhưng chắc chắn trong toàn thể nhân loại có ơn cứu độ với ý nghĩa phổ quát; để giải thích tính riêng biệt của những phép lạ của Ðức Kitô, và ý nghĩa có tính phổ quát, cần phải nhìn những phép lạ này từ phía Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ muôn đời Ðức Chúa Cha đã có một chương trình toàn thể cho ơn cứu độ, chương trình này cần phải đưa ra và thực hiện trong lịch sử, và hình thành lịch sử cứu độ; Mầu nhiệm Ðức Kitô chính là chương trình cứu độ xuất hiện vẹn toàn trong lịch sử này, như thế Thánh Phaolô gọi Ðức Kitô là ý chỉ "nhiệm mầu" (mysterion) trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa (Eph 1,9); Chúa Thánh Thần chính là động lực làm cho lịch sử cứu độ được tiến hành. Trước khi Ðức Kitô giáng sinh, Thánh Thần đã âm thầm mạc khải cho các Tiên tri và Thánh hiền trong cựu ước, và ngoài cựu ước ra, đã nhờ vào chân lý soi sáng cho các bậc Hiền triết thời cổ đại, để sắp xếp chuẩn bị cho việc giáng sinh của Ðức Giêsu. Sau khi Ðức Kitô phục sinh, Chúa Thánh Thần càng trở thành "Thần Trí thuộc về Ðức Kitô", làm cho mầu nhiệm Ðức Kitô "nội tại hóa", đi đến tận tâm linh của con người; cũng làm cho mầu nhiệm này "phổ quát hóa", phổ cập tới mọi thời đại, tới mọi người thuộc mọi lãnh vực. Thánh Thần có thể phát động con người công khai tuyên xưng niềm tin vào Ðức Kitô, cũng có thể hướng dẫn con người âm thầm (tiềm ẩn) đón nhận và sinh hoạt theo Phúc âm của Ðức Kitô, trở thành "những kitô hữu vô danh", âm thầm (tiềm ẩn) tham gia vào mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô.
    Chính Thần Trí này (Thánh Thần) đã ở ngay trong các truyền thống tôn giáo và văn hóa của các dân tộc và đã gieo những hạt giống của Ngôi Lời, làm hướng đạo mở đường đưa đến Phúc Âm của Ðức Kitô. Tựa như trong nền văn hóa truyền thống thâm sâu của dân tộc Việt Nam (và nhiều dân tộc khác như Trung Quốc, Ấn Ðộ,...), Thánh Thần cũng đã gieo vào đó những hạt giống của Ngôi Lời. Vì chính tại những nơi này, những hạt giống chân lý, những văn hóa truyền thống này không những rộng mở để hướng về Tin Mừng của Ðức Kitô, mà còn biểu lộ cho thấy đó là những dụng cụ hữu hiệu của việc truyền bá Tin Mừng, tiềm ẩn ngay trong lòng của con người và làm khơi dậy tựa như những hồng ân; Nhờ đó, ta có thể nhìn thấy, trong truyền thống tín ngưỡng dân gian của dân tộc Việt Nam, biểu lộ một niềm tin phó thác hoàn toàn trong tay Chúa Cả Trời Ðất. Như trong lời cầu mùa của người dân gian Việt Nam: "Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bán cơm". Lời cầu này gợi cho ta nghĩ đến phần sau của lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện: "Lạy Cha... xin cho chúng con lương thực hằng ngày..." (= "lạy Trời... lấy đầy bát cơm"). Quả là những hạt giống của Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn và làm nẩy nở đức tin trong lòng những người dân Việt Nam hiền lành chất phác. Chúng ta cũng có thể tìm thấy nhiều đoạn khác trong ca dao tục ngữ Việt Nam với những niềm tin tràn đầy ân sủng tương tự: "Cha mẹ sinh con, Trời sinh Tánh"; "Trời sinh voi, Trời sinh cỏ"; "Trời sinh, Trời dưỡng"; hoặc khi có người thân qua đời thì gọi là "chầu Trời" hoặc "qui Tiên" (tương tự như những từ ngữ quen thuộc mà giáo dân Công giáo thường sử dụng "Khi Chúa thương gọi con về"; "về với Chúa" hoặc "được Chúa gọi về ngày..."). Như thế, đặt Tin Mừng của Ðức Kitô hòa nhập với Văn hóa của Việt Nam hay của nhiều dân tộc khác (như Trung Quốc, Ấn Ðộ...) là những nhu cầu cấp bách cần thiết trước mắt để chuẩn bị cho việc truyền bá Tin Mừng. Ðồng thời, Giáo hội cũng xem việc đối thoại tôn giáo là một phần trong việc truyền bá Tin Mừng, việc đối thoại này có thể làm cho cả hai bên đều có lợi; bởi vì nhờ vào việc đối thoại với các tôn giáo, các kitô hữu cũng có thể càng hiểu rõ tín ngưỡng của chính mình hơn.

    Philippines, ngày 21/11/2002, kỷ niệm 9 năm ngày Thụ Phong Linh Mục (1993-2002).
    Rev. Joseph Trương Văn Phúc
    (Trích dẫn và biên dịch từ những chương liên quan tới đề tài Ơn Cứu Ðộ của cuốn Ðại Tự Ðiển Thần Học bằng tiếng Trung Hoa được soạn thảo bởi các Giáo sư thuộc Viện Thần Học Ðại Học Công Giáo Phù Nhân, Ðài Loan, Theological Dictionary, a One-Volume Encyclopedia of Christian-Catholic Theology)
    Mt5:37 Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

  6. #26

    Mặc định

    NGOẠI ÐẠO

    Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
    Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.



    Là người ngoại đạo sao lại tin có Chúa ngự trên cao? Ðã tin Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn ngoại đạo chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo thôi.

    Nhiều người có đạo nhưng không vào đạo. Cũng như nhiều người vào đạo nhưng không có đạo. Thơ Nguyên Sa bảo rằng nắng Saigon tôi đi mà chợt mát vì em mặc áo lụa Hà Ðông. Cũng nắng Saigon tôi đi, nhưng sẽ chẳng chợt mát khi lòng tôi không có áo-lụa-em bay. Áo lụa cũng phơi bên sân hiền nhà ai. Dưới ngõ trúc cũng là áo lụa ai đi về. Cũng là áo lụa đó, nhưng vẫn là khác. Phải là áo-lụa-em bay lòng anh mới chợt mát.

    Như thế, xem ra, cái gần gũi không gian có là gần mà vẫn là xa. Cái lòng mình chợt mát phải là cái gì thiêng liêng hơn, nó ở trong hồn ta chứ không ở ngoài ta. Nếu nó ở ngoài ta thì bất cứ áo lụa nào lòng tôi cũng chợt mát, bất cứ nắng nào cũng được chứ không phải nắng Saigon. Cái nắng Saigon, con đường Duy Tân lá đổ, hàng me già công viên, tự nó chỉ là me, là nắng, là lá đổ mà thôi cho những ai đi giữa Saigon mà không có Saigon với áo-lụa-em trong hồn mình. Còn ai có áo-lụa-em thì nắng là chợt mát, lá đổ là muôn chiều dư âm. Ðạo cũng thế, chỉ khi nào đạo ở trong tôi mới là có đạo, mới là "chợt mát", là ơn cứu độ.

    Thủa xưa cũng đã có một chuyện tình. Ngày đó, sau khi phạm tội, Ađam cùng Evà đi "trong địa đàng" nhưng vẫn là rũ úa giữa địa đàng. Như thế, "tôi ở trong địa đàng" vẫn là thống khổ, chỉ khi "địa đàng ở trong tôi", lúc đó tôi mới "có địa đàng", bấy giờ mới là gió lụa, mới là nắng hoa, mới là lòng mình chợt mát.

    Nói về có đạo và vào đạo thì Phúc Âm có nhiều biến cố tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.


    Một người ngoại đạo

    Kết thúc cuộc đời rao giảng của Chúa là khúc đường vác thập giá lên Núi Sọ. Nếu Chúa vác không nổi mà chết trên đường đi thì hành trình cứu chuộc có dang dở không? Ðó là câu hỏi giả sử mà thôi. Thực tế, hành trình cứu chuộc đã không dang dở. Chúa đã không kiệt sức mà chết trên đường đi vì đã có người vác đỡ. Kẻ vác đỡ thánh giá là ông Simon, người xứ Kyrênê, ông là một người ngoại giáo (Lc. 23:26).


    Một người ngoại giáo nữa

    Trong quãng đời mục vụ của Chúa, Tin Mừng thánh Matthêu có kể câu chuyện đức tin của một người như thế này:

    Khi Ngài vào Carphanaum, thì một viên bách quản đến gặp Ngài, van xin: "Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà, phải đau đớn dữ dằn." Ngài nói: "Ta phải đến chữa nó?" Viên bách quản thưa lại: "Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào mái nhà tôi. Song Ngài hãy phán một lời mà thôi, thì tên hầu tôi sẽ khỏi, vì tôi đây tuy là thuộc hạ, thế mà có lính tráng dưới quyền tôi, tôi bảo người này: "Ði đi!" là nó đi; và bảo người khác: "Ðến!" là nó đến; tôi bảo tôi tớ của tôi: "Làm cái này" là nó làm". Nghe vậy Ðức Kitô ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel" (Mt. 8:5-10).


    Lại một người ngoại giáo nữa

    Câu chuyện trên là chứng nhân của niềm tin. Câu chuyện dưới đây nói về tâm tình biết ơn, cũng lại là một người ngoài.

    Nhằm lúc Ngài vào một làng kia, thì mười người phung hủi đón gặp Ngài. Ðứng đàng xa, họ gióng tiếng lên mà rằng: "Lạy Thầy Yêsu, xin thương xót chúng tôi!" Thấy vậy, Ngài bảo họ: "Hãy đi trình diện với hàng tư tế." Và xẩy ra là trong lúc họ đi, thì họ đã được sạch. Một người trong bọn thấy mình được lành thì quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari. Ðức Yêsu cất tiếng nói: "Không phải là cả mười người được sạch cả sao? Chín người kia đâu? Không thấy họ quay lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại bang này?" (Lc. 17:11-18).


    Rồi lại một người nữa ngoại giáo

    Thánh Luca thuật lại câu chuyện như sau: "Một người ở thành Yêrusalem xuống Jêrico, giữa đường bị kẻ cướp bóc lột hết và đánh nhừ tử, đoạn chúng bỏ người ấy nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một trưởng tế đi qua đấy, ông thấy người ấy song tránh một bên mà đi. Lại có một thầy Lêvi cũng qua lối ấy, thầy thấy người ấy song cũng tránh một bên mà đi. Một người Samari nọ, nhân đi đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, tiến lại đổ dầu và rượu, ràng buộc thương tích người ấy, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy (Lc. 10:29-37).

    Thầy tư tế và Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa, họ là kẻ giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng lại không có đạo. Kẻ sống đạo lại là người ngoại đạo.


    Rồi những người ngoại giáo nữa

    Vào đêm Chúa sinh ra, trên bầu trời Belem năm ấy có một vì sao lạ. Cả triều đình và bao nhiêu pho Kinh Thánh, với những kinh sư chuyên môn cắt nghĩa ngôn sứ, mà họ chẳng biết gì, họ phải đợi cho tới khi những kẻ ngoại giáo từ phương xa tới hỏi: Ðấng Cứu Thế đã sinh ra ở đâu? (Mt. 2:1-12). Trên bầu trời Belem năm ấy, vâng: Con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao.


    * * *

    Lạy Chúa,

    - Nói về niềm tin thì các môn đệ khẳng định Thầy đâu có sống lại (Mc. 16:11, Yn. 20:25). Trong khi người có niềm tin mà tìm hết dòng dõi nhà Israel cũng không thấy lại là một người bên ngoài.

    - Kẻ vác đỡ thánh giá cho Chúa trên những bước chân xiêu té cuối đời cũng lại là người ngoại.

    - Nói về lòng biết ơn thì ít quá. Trong cái ít ỏi ấy lại cũng là một người bên ngoài.

    - Nói về lòng bác ái thương người thì cũng không phải là tư tế hay các vị chức sắc trong đạo mà lại là người Samari, một kẻ ngoại giáo.

    Băn khoăn một chút thế nào là "người bên ngoài", thế nào là "người bên trong", thế nào là "ngoại đạo" và "có đạo", con thấy một lần Chúa nói: "Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tự phương Ðông, phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Yacob trong Nước Trời, còn chính con dân trong Nước lại sẽ bị đuổi ra bên ngoài tối tăm" (Mt. 8:11-12).

    Con không muốn là con dân trong Nước nhưng bị loại ra ngoài. Làm kẻ từ mười phương mà được Nước Trời thì vẫn tốt hơn. Nếu thế thì con phải hiểu ÐẠO là gì. Con phải băn khoăn thế nào là "vào đạo" và thế nào là "có đạo". Trời chiều nay rộng quá, mênh mông như ÐẠO không bến bờ. ÐẠO mênh mông lắm, làm sao con có thể đem ÐẠO vào một định nghĩa chật hẹp được. Làm sao con có thể nhốt ÐẠO vào nhà thờ, vẽ chân dung ÐẠO bằng tờ giấy rửa tội. Ðã nhiều lần con loại bỏ những ai không cùng tôn giáo với con là người "ngoại đạo".

    Bỏ cái chật hẹp của lòng mình, con thấy ý nghĩa lời kinh kia quá đỗi thênh thang. Nếu những giải mây ngang đời trôi về vùng trời bao la không biết đâu là bờ bến thì ý nghĩa của lời kinh ấy cũng mênh mông không biết đâu là bến bờ. Lời kinh đó là:


    Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
    Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.


    Nguyễn Tầm Thường
    (Trích tập Con Biết Con Cần Chúa)
    Mt5:37 Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

  7. #27

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hacdoclong Xem Bài Gởi
    đạo với chả đời tuyên truyền lung tung dùng thủ đoạn lôi kéo dụ dộ, áp đặt tẩy nảo người khác để mong có thêm lượng tín đồ, là cả 1 thế hệ tương lai cống hiến góp phần làm nó lớn mạnh và nhiều quyền lực. Giúp ích xã hội thì chả dc bao nhiêu so với những vấn nạn tôn giáo gây ra... chiến tranh, mê tín, mù quán, phân biệt, thù hằn, mất nguồn cội, biến người tốt làm chuyện xấu làm tốn kém tốn kém tài nguyên của cải nhân lực của cải xã hội thì không biết bao nhiêu là kể ( đó là thực trạng xấu về cái gọi là tôn giáo )

    - việc kito giáo bị thiên hạ ném đá thì xem nhiều rồi... từ đông sang tây, từ thằng nông dân tới ông bác học, triết học, khoa học... từ da đen tới da màu và da trắng, từ thành thị đến nông thôn từ các quốc gia có truyền thống kito giáo tới các quốc gia ko co truyền thống kito giáo. từ người theo chủ nghĩa vô thân tới người theo chủ nghĩ hữu thần... từ người theo tôn giáo khác tới chính người từng thèo nên tảng của kito giáo... --- mà còn số có thể đếm dc cả hàng tỉ chứ ko phải chỉ lát đát vài người
    tóm gọn tám phương tứ phía ném gạch tới tấp vào nên tảng lý thuyết và Giáo luật của kito giáo. tại sao? không phải vì nó là tôn giáo lớn nên bị ghanh ghét...
    - tất cả là vì nó quá lỗi thời. lịch sử hành đạo của nó thì quá nhiều vết dơ ko thể nào xóa sạch, nó đi ngược với thời đại và chứa đựng quá nhiều mần móng nguy hiểm có thể dẫn đến chết chóc và khổ đau, bất hạnh cho nhiều người hơn những gì tốt đẹp nó có thể giúp ích XH...

    -có rất thể quý vị đọc tới đây cho rằng tôi ghét kito giáo, tôi cũng có thể thừa nhận tôi ghét đó. nhưng ko phải ghét kito giáo, hay vi tin 1 điều gì đó. ( ai muốn tin gì là chuyên của họ tại sao tôi phải ghét họ trong số họ cũng có nhiều người rất tốt mà ). Cái tôi ghét ở đây đó ghét cái mần móng nguy hiểm có thể dẫn đến chết chóc và khổ đau, và bất hạnh cho nhiều người mà kito giáo chứa đựng như là 1 tật xấu 1 căn bệnh tìm tàn ko có thuốc chữa của nên tản tôn giáo ấy, nó chỉ chờ đợi thời cơ thuận lợi để tái phát ra gậy họa rồi lại nằm yên ngủ tg dài giống hệt như 1 ngọn núi lửa ngầm thôi.

    - đọc tới đây chắc quý vị vẫn chưa hình dung đc cái tôi nói đó là cái gì... xin đọc lại toàn bộ lịch sử nhan loại của nhóm tôn giáo có nguồn gốc từ apraham cái quý vị sẽ thấy các vị sẽ thấy... mặt trái của độc thần giáo

    - tôi chỉ vô tình đi ngang đây tôi ko rảnh bàn luận với các vị trong này, nên đây là bình luận duy nhất, miễn trả lời thêm cứ để vậy ai muốn hiểu sao hiểu. tôi cũng ko viết bài này dành cho các bạn tín đồ ngoan đạo và cuồn tín nên miễn bình luận nhé... ai đọc hiểu thi tốt ko hiểu thì thôi cứ việc sống theo ý mình
    Cái này giống đi ngang nhà người ta, thấy người ta đang hạnh phúc, thế là ghen tức ném đá vào nhà người ta, nhưng lại chẳng biết lại sợ gì nữa nên nói tôi chỉ ném 1 cục đá xong chuồn mất muốn trúng ai thì trúng. "Tôi" không có ý dành cục đá này cho các bạn tín đồ ngoan đạo và cuồng tín nên miễn bình luận nhé (lỡ có trúng thì ráng mà chịu)...

    Thôi thì cũng...chẳng muốn bình luận gì thêm...
    Có Chúa dẫn đưa tôi, đời tôi chan chứa bao niềm vui.
    Có Chúa bước bên tôi, nhịp chân tôi bước trong thảnh thơi.

  8. #28

    Mặc định

    thằng chuột cống hacdoclong này có muốn đánh nó cho khỏi bẩn vào nhà cũng sợ bẩn tay
    tất cả chúng ta là anh em với nhau.

  9. #29

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hacdoclong Xem Bài Gởi

    - tôi chỉ vô tình đi ngang đây tôi ko rảnh bàn luận với các vị trong này, nên đây là bình luận duy nhất, miễn trả lời thêm cứ để vậy ai muốn hiểu sao hiểu. tôi cũng ko viết bài này dành cho các bạn tín đồ ngoan đạo và cuồn tín nên miễn bình luận nhé... ai đọc hiểu thi tốt ko hiểu thì thôi cứ việc sống theo ý mình

    - vô tình đi ngang mà chửi tràng giang đại hải chứng tỏ là thù ghét trong lòng lắm hả, bạn cũng là anh hùng đó, nhưng thuộc loại anh hùng rơm tức là anh hùng nằm dưới đống rơm chờ cho người ta đi ngang là bạn kéo chân cho người ta té chơi, bạn chửi như hát hay mà nhát như con thỏ , chửi xong rồi chạy trốn không dám đối chất thì ngoài đời bạn làm được chuyện gì lớn đây hả
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  10. #30

    Mặc định

    Cám ơn đề mục này của bạn.
    Nếu thích nhìn phía ngoài của Đạo, bạn chỉ thấy tôn giáo của anh, của tôi.
    Nếu thích nhìn phía trong của Đạo, bạn không còn thấy anh và tôi.

    YÊU THƯƠNG LÀ DẤU CHỈ ANH EM CON
    VÂNG LỜI LÀ DẤU CHỈ CON CỦA CHA

  11. #31

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minhthai Xem Bài Gởi
    Khi đọc câu này: "Xét về mặt thực tiễn, các tôn giáo này đã là con đường dẫn đưa đại đa số dân chúng Á châu đến với Thiên Chúa, cũng như là một cách thế Thiên Chúa sử dụng để tiếp cận họ.Thần khí của Thiên Chúa đã tác động trong tâm trí của các hiền giả Á châu cổ đại. Chính các vị đã để lại cho dân tộc mình chứng từ của những giác ngộ tâm linh trong các kinh điển. Giáo huấn của các ngài vẫn còn hướng dẫn đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của một số lớn người Á châu".

    Vậy thì Phật Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, vv... các tư tưởng Phật giáo, triết học Đạo Khổng, Lão giáo,vv... đều là các phương cách Thiên Chúa tiếp cận với con người. Vì các giá trị đó hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.
    Quy nạp hồ đồ và mang tính định hướng

  12. #32

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Kal-El Xem Bài Gởi
    Trích dẫn Nguyên văn bởi minhthai Xem Bài Gởi
    Khi đọc câu này: "Xét về mặt thực tiễn, các tôn giáo này đã là con đường dẫn đưa đại đa số dân chúng Á châu đến với Thiên Chúa, cũng như là một cách thế Thiên Chúa sử dụng để tiếp cận họ.Thần khí của Thiên Chúa đã tác động trong tâm trí của các hiền giả Á châu cổ đại. Chính các vị đã để lại cho dân tộc mình chứng từ của những giác ngộ tâm linh trong các kinh điển. Giáo huấn của các ngài vẫn còn hướng dẫn đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của một số lớn người Á châu".

    Vậy thì Phật Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, vv... các tư tưởng Phật giáo, triết học Đạo Khổng, Lão giáo,vv... đều là các phương cách Thiên Chúa tiếp cận với con người. Vì các giá trị đó hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.
    Quy nạp hồ đồ và mang tính định hướng
    Chúa có dùng đạo Cao Đài định hướng hay không mà đạo này xếp chúa Giê Su phía dưới Phật vài bậc.



    Đạo Cao Đài còn có nhiều con rồng đại diện cho quỷ Satan tại các cột lễ đường của họ.


  13. #33

    Mặc định

    Không phải bất cứ tôn giáo nào cũng đến từ Thiên Chúa, có mấy ông cố tình không chịu suy nghĩ hay sao ấy. Triết lý trong các tôn giáo và tôn giáo đó là 2 cái khác nhau, nếu nó hướng con người về Thiên Chúa thì đó là Thần Khí, việc làm của Thần Khí không thể hiểu được mà phải cảm nhận bằng con mắt tâm linh

    Trong mối tương quan trong vũ trụ theo quan điểm của Kito giáo có 3 mối liên hệ

    1- Thiên Chúa - Con người
    2- Con người - Con người
    3- Con người - Chính mình

    Qua hàng ngàn năm lịch sử, con người đã nhận ra được 2 mối tương quan chính số 2 và 3 thông qua việc cảm nghiệm của các bậc hiền triết như Đức Thích Ca, Đức Khổng Tử, v.v...

    Nhìn chung các giáo lý Á châu đều chưa có được mối liên hệ với Đấng Tạo Hoá. Khi khai sinh ra Phật giáo, đức Phật chính ngài cũng chưa cảm nghiệm được có 1 đấng sáng tạo hằng hữu trên mình mà chỉ dựa trên lý luận của bản thân để phủ định, sau khi giác ngộ chính đức Phật cũng chưa nhận ra được điều đó vì lý do đơn giản: Chúa Cha hằng hữu chưa muốn mặc khải mình cho bất kì con người nào trên vũ trụ nếu ngài không muốn

    Thiên Chúa không nhất thiết phải cứu hết toàn bộ nhân loại vì nhiều lý do, nếu như ngài muốn, thì chẳng có tôn giáo nào khác. Một lần nữa, lý thuyết về sự tự do của con người lại được nhấn mạnh trong quan điểm này để làm rõ vấn đề, có nhiều tôn giáo có sự tiếp tay của ma quỷ để bóp méo sự thật, điều đó không đến từ Thiên Chúa mà đến từ ma quỷ nhưng không có nghĩa là bản thân tôn giáo đó lại không có Thần Khí soi sáng. Nói nôm na có thể nó giống như 1 nồi lẩu thập cẩm, mỗi ngừoi bỏ vô 1 chút, ai ăn trúng miếng dở thì xui :)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. VÌ SAO PHẬT GIÁO SUY TÀN TẠI ẤN ĐỘ
    By Bin571 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 24
    Bài mới gởi: 20-10-2022, 08:20 AM
  2. ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU
    By vohinh69 in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 52
    Bài mới gởi: 30-12-2015, 10:54 AM
  3. Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 12:09 AM
  4. Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 06-04-2012, 11:22 PM
  5. TÂM VŨ TRỤ
    By doxuantho in forum Đạo Việt Nam
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 26-03-2012, 02:27 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •