Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 28

Ðề tài: Ngã, Thường, Lạc, Tịnh, Phật tánh

  1. #1

    Mặc định Ngã, Thường, Lạc, Tịnh, Phật tánh

    Ngã, Thường, Lạc, Tịnh

    http://www.niemphat.com/kinhdien/kin...tnietban3.html

    Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: ” Lóng nghe ! Lóng nghe ! Vừa rồi các thầy trình bày ví dụ người say đó, các thầy chỉ biết danh tự mà chưa hiểu thấu “thật nghĩa”. Thế nào là “thật nghĩa” ? Như ngườ say kia thấy nhà cửa núi sông vốn thiệt không xoay lộn, mà tưởng cho là xoay lộn. Cũng vậy, bị những phiền não vô minh trùm đậy nên chúng sanh khởi tâm điên đảo : ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất tịnh, lạc cho là khổ. Vì mắc phải phiền não trùm che, nên dầu nghĩ tưởng như vậy mà không thấu rõ thật nghĩa”, như người say kia đối với sự không xoay lộn mà tưởng cho là xoay lộn.

    “ Ngã” chính là thật nghĩa của “Phật”, “Thường” chính là thật nghĩa của”Pháp-Thân”, “Lạc” là thật nghĩa của “Niết-bàn”, “Tịnh” là thật nghĩa của “Pháp”.

    Các thầy sao lại nói người có ngã thời kiêu-mạn cống-cao lưu chuyển sanh tử. Nếu các thầy nói rằng, tôi cũng tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngã. Ba môn tu tập này không có thiệt nghĩa”.

    Như-Lai sẽ nói ba pháp tu đặc thắng. `

    Khổ cho là vui, vui cho là khổ, là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, là pháp điên đảo. Vô-ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thời là người chẳng rõ pháp tu chơn chánh.

    Các thầy ở trong pháp khổ tướng cho là vui, ở trong vô thường tưởng cho là thường, ở trong vô-ngã tưởng cho là ngã, ở trong bất tịnh tưởng cho là tịnh.

    Thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Xuất thế cũng co thường, lạc, ngã tịnh. Pháp thế gian có văn tự mà không thật nghĩa. Xuất thế có văn tự có thật nghĩa. Tại sao vậy ? Vì pháp thế gian có bốn sự điên đảo nên chẳng biết thật nghĩa. Lại có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Vì có ba sự điên đảo nầy nên người thế gian ở trong lạc thấy là khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã thấy vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh, đây gọi là điên đảo. Vì điên đảo nên thế gian biết văn tự mà chẳng biết thật nghĩa.

    Gì là thật nghĩa? Vô ngã gọi là sanh tử, còn ngã gọi là Như-Lai. Vô thường là Thanh-văn Duyên- giác, còn thường là Như-Lai pháp thân. Khổ là tất cả ngoại đạo, còn lạc là Niết-bàn. Bất tịnh là pháp hữu vi, còn tịnh là chánh pháp của chư Phật và Bồ-Tát. Đây gọi là chẳng điên đảo. Vì chẳng điên đảo nên biết văn tự biết thật nghĩa. Nếu muốn lìa khỏi bốn sự điên đảo thời phải rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh như vậy.


    Phật tánh


    (http://www.niemphat.com/kinhdien/kin...nietban12.html)

    Phật tánh sẵn có

    Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Hai mươi lăm cõi có ngã cùng chăng ?

    Phật dạy : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Ngã tức là nghĩa Như-Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được.

    Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng vòng, tất cả người nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo cô gái nghèo : “ Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi”.

    Cô gái liền đáp : “ Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi sẽ dọn cỏ rác cho ông”.

    Người khách nói : “ Tôi biết cách thức, cóthể chỉ kho vàng cho cô.”

    Cô gái nói : “ Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biết được, huống là ông mà có thể biết !”

    Khách lại nói : “ Nay tôi có thể biết chắc chắn”.

    Cô gái nói : “ Tôi gấp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi”.

    Người khách liền ở trong nhà cô, đào được kho vàng ròng. Cô gái thấy kho vàng lòng rất vui mừng ngạc nhiên lạ lùng, kính trọng người khách.

    Nầy Thiện-nam-tử ! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, tất cả chúng sanh chẳng nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho vàng mà chẳng biết. Hôm nay ta chỉ bày Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh hiện bị các phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia trong nhà sẵn có kho vàng nhưng không thấy được. Hôm nay đức Như-Lai chỉ bày kho báu giác tánh cho chúng sanh, đây chính là Phật tánh. Chúng sanh thấy được tánh nầy lòng rất vui mừng quy ngưỡng đức Như-Lai.

    Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Như-Lai. Cô gái nghèo dụ cho vô lượng chúng sanh. Kho vàng ròng dụ cho Phật tánh.

    Phật tánh thường hằng

    Ca Diếp bạch Phật:

    Do những nghĩa trên đây nên định biết Phật tánh chẳng phải là pháp thường trụ. (Ý Ca Diếp muốn nói Phật tánh cũng sanh diệt, vô thường)

    Nếu cho rằng Phật tánh quyết định là thường trụ, thời do duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu. Vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân khuể, tà kiến.

    Nếu ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rươu lại say mê.

    Nếu ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi.

    Nếu ngã tánh là thường trụ, lẽ ra chẳng còn tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, dao gươm, kẻ ác, thú dữ.

    Nếu ngã là thường trụ, thời những việc đã từng nghe thấy le õra chẳng quên. Nếu chẳng quên cớ gì lại nói : tôi đã từng thấy người nầy ở chỗ đó.

    Nếu ngã là thường, thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu, tráng niên, lão thành v.v… Lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu cùng nhớ đến việc đã qua.

    Nếu ngã là thường, thời nó ở chỗ nào ? Nó ở trong nước mũi, nước miếng, hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư !

    Nếu ngã là thường, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu mè không chỗ hở trống. Nếu như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị đứt !

    Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát: (Phật giải thích rằng do vô minh mà không thấy Phật tánh thường hằng)

    Thiện-nam-tử ! Ví như nhà vua có đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ nầy cùng người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da, Nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da. Y sĩ hỏi lực -sĩ : “ Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi ?”

    Lực sĩ kinh hãi đáp : “ Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi ư ? Nó rơi rớt ở đâu ?” Nói xong lo rầu khóc lóc.

    Y sĩ an ủi : “ Nay ông chẳng nên buồn khổ. Vì lúc ông đánh vật, hột châu lún vào ở ẩn dưới da, bóng nó hiện ra nơi ngòai. Lúc các ông vật đánh nhau, ,lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà chẳng hay biết”.

    Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ. Nghĩ rằng : Nếu hột châu ở dưới da, máu mũ chảy tuôn cớ sao hột châu chẳng trồi lên. Còn nếu hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy. Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta chăng ? Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt lực sĩ. Hột châu kim cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy, ngạc nhiên mừngrỡ.

    Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh cũng như vậy. Vì không được gần gũi bực thiện-tri-thức, dầu có Phật tánh mà đều không nhận thấy. Bị tham, sân, si che đậy. Vì thế nên đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, A-tu-la, Chiên-đà-la, Sát- đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà. Sanh vào trong các dòng đó, nhơn tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp duyên. Dầu được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt. Thọ các quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si, che lấp bổn tâm, nên chẳng biết Phật tánh. Như lực sĩ kia hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã mất.

    Cũng vậy, chúng sanh chẳng biết gần gũi thiện-tri-thức, chẳng biết bảo tạng Như- Lai, nên tu học vô ngã. Như hạng chẳng phải bực Thánh, dầu nói là có ngã, nhưng lại chẳng biết chơn tánh của ngã.

    Hàng đệ tử của ta cũng giống như vậy, vì chẳng biết gần gũi bực thiện-tri- thức, nên tu học vô ngã mà chẳng biết chỗ thật của vô ngã. Còn chẳng tự biết chơn tánh của vô ngã, huống lại có thể biết chơn tánh của ngã.

    Nầy Thiện-nam-tử ! Đức Như-Lai nói các chúng sanh đều có Phật tánh, ví như y sĩ chỉ hột châu kim cương cho lực sĩ, các chúng sanh nầy bị vô lượng phiền não che đậy chẳng biết Phật tánh. Nếu dứt hết phiền não, bây giờ mới đặng chứng biết rõ ràng. Như lực sĩ thấy hạt châu trong gương sáng.

    Tạng Như-Lai vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

    Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là “Dược vị”. Thuốc đó rất ngọt, ở dưới lùm bụi rậm, người không thấy được. Có người nghe mùi thuốc liền biết chỗ đó chắc có thuốc ấy. Thuở trước có vua Chuyển Luân ở nơi núi Tuyết nầy đặt những bộng cây để tiếp lấy thuốc. Lúc thuốc đó chín thời từ đất chảy ra chứa vào trong bọng cây, mùi vị thuốc ngọt ngon. Sau khi Vua đã băng, thời thuốc đó hoặc chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc lạt, tùy địa phương của thuốc sanh ra mùi vị đều khác nhau. Nhưng vị thật của thuốc đọng ở nơi núi như mặt trăng tròn. Người phàm ít phước dầu có đào xới chỉ luống khốn khổ mà không thể được. Lúc có Thánh-Vương ra đời, vì phước lớn của Vua, liền đặng vị thật của thuốc.

    Nầy Thiện-nam-tử ! Mùi vị tạng Như-lai cũng như vậy, bị các rừng bụi phiền não che đậy, chúng sanh mê mờ chẳng thấy được.

    “Dược vị” trên kia dụ cho Phật tánh. Bởi các phiền não nên sanh ra các thứ mùi vị sai khác như là địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, Trời, người, nam, nữ, Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà v.v…

    Phật tánh hùng mãnh không thể hư hoại, vì thế nên không ai có thể sát hại được. Nếu sát hại được thời Phật tánh dứt, nhưng Phật tánh trọn không thể dứt, vì không bao giờ tánh có thể dứt được.

    Như tánh của ngã tức là tạng Như-Lai không có gì phá hoại, đốt cháy được tánh ấy. Dầu không có thể phá hoại, nhưng chẳng thấy được. Nếu chứng đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác mới thấy được tánh. Do cớ đó nên không ai có thể sát hại được.

    Phật tánh thường hằng, sao lại có nghiệp nơi thân, khẩu, ý

    Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật rằng : “ Thế Tôn ! Nếu không ai sát hại được, thời lẽ ra không có nghiệp bất thiện ?”

    Phật nói : :” Nầy Ca-Diếp ! Thiệt có sát sanh. Vì Phật tánh của chúng sanh ở trong thân ngũ ấm, nếu sát hại ngũ ấm, gọi là sát sanh, đã có sát sanh, thời đọa ác thú.

    Do nhơn duyên của nghiệp mà có Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ- đà,Chiên-đà- la, nam-nữ v.v… hai mươi lăm cõi sai khác lưu chuyển trong dòng sinh tử.

    Người chẳng phải bực thánh vọng chấp tướng của ngã là lớn hay nhỏ, bằng hột cỏ, hoặc bằng hột gạo, hột đậu, nhẫn đến bằng ngón tay cái. Họ vọng sanh các thứ tưởng tượng như vậy. Tướng của vọng tưởng không có chơn thật.

    Tướng ngã xuất thế gian, gọi là Phật tánh. Nhận lấy ngã nầy, gọi là rất lành.

    Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người giỏi biết kho báu dưới đất, liền lấy cuốc bén đào đất, thẳng đến đá bàn, cát, sỏi, có thể đào qua không khó, chỉ đến lớp kim cương
    thời không thể xoi thấu.

    Luận về chất kim cương, tất cả dao búa không thể làm hư bể. Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà biện luận, Thiên-ma, Ba-tuần, cho đến các hàng Trời, người, không thể phá hoại.

    Tướng ngũ ấm là hữu vi, tướng hữu vi dụ như đá, cát, sỏi, có thể đào, có thể xoi. Phật tánh dụ như kim cương, không thể phá hoại được.

    Do nghĩa nầy, nên phá hoại thân ngũ ấm thời gọi đó là sát sanh.

    Kinh Đại Bát Niết Bàn

  2. #2

    Mặc định

    Phẩm tứ tướng thứ bảy, kinh đại bát niết bàn.
    Phật nói thêm về vô thường, vô ngã, và khổ.
    Phật nói rằng Phật là thường trụ, không biến đổi.


    Thế nào là "Chánh Tha" ? Lúc nọ Phật đang thuyết pháp, có một người nữ vào l¬ Phật rồi ngồi qua một bên. Ðức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi rằng: Có phải nàng vì quá thương con, mà mớm cho con ăn nhiều chất bơ, rồi không biết có tiêu hoá hay không tiêu hoá? - Người nữ liền bạch Phật: "Lạ lùng thay! đức Thế Tôn biết được tâm niệm của con. Bạch Thế Tôn! Sớm mai này tiện nữ cho con ăn nhiều chất bơ, lòng tiện nữ sợ rằng không tiêu hoá được, nó sẽ phải bệnh. Ngưỡng mong đức Như Lai chỉ dạy cho." - Phật dạy: "Con nàng ăn thức ấy đã tiêu hoá tốt, nó sẽ được khoẻ mạnh". Người nữ nghe đức Phật nói, thời vui mừng hớ hở và thốt lời rằng: "Vì đức Như Lai nói đúng như thiệt nên con vui mừng".

    Ðức Thế Tôn vì muốn điều phục các chúng sanh, mà khéo phân biệt nói tiêu hay chẳng tiêu, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường. Nếu Phật nói "thường" trước, các đệ tử sẽ cho rằng pháp nầy đồng với ngoại đạo mà không chịu tin theo, vì hàng thanh văn đệ tử sẽ chẳng tiêu được pháp thường trụ, nên Như Lai trước dạy pháp "khổ", "vô thường". Khi mà hàng thanh văn đệ tử đã đầy đủ công đức, đủ sức tu tập kinh pháp đại thừa, Như Lai ở kinh nầy nói sáu vị: Một là "Khổ", vị chua; hai là "vô thường", vị mặn; ba là "vô ngã", vị đắng; bốn là "lạc", vị ngọt; năm là "ngã", vị cay; sáu là "thường", vị lạt.

    Trong thế gian kia có ba vị: vô thường, vô ngã, và khổ, phiền não làm củi, trí huệ làm lửa, do các nhơn duyên đó mà thành cơm niết bàn tức là "thường, lạc và ngã", làm cho các đệ tử đều được nếm mùi ngọt ngon.

    Phật lại bảo người nữ rằng: "Nếu nàng có sự duyên muốn đến xứ khác, thời phải đuổi đứa con trai hung ác ra khỏi nhà, rồi đem gia nghiệp giao cho đứa con trai hiền lành." Người nữ bạch Phật rằng: "Thiệt đúng như lời đức Thế Tôn dạy, gia nghiệp nên giao cho đứa con hiền, chớ chẳng nên giao cho đứa con dữ." Phật nói: "Như Lai cũng vậy, lúc nhập niết bàn, đem tạng pháp vô thượng phó chúc cho các vị Bồ Tát, chớ không giao cho hàng Thanh văn, vì hàng Thanh văn tưởng là Như Lai thiệt diệt độ. Còn các vị Bồ Tát thời nhận rằng Như Lai thường trụ không biến đổi. Mà quả thiệt Như Lai không có diệt độ. Như lúc nàng xa nhà chưa trở về, đứa con ác kia bèn nói là nàng đã chết mất rồi, còn đứa con hiền vẫn tin tưởng là nàng còn sống. Mà chính thiệt thời nàng còn sống.

    Nếu có chúng sanh nào nhận rằng Phật là thường trụ không biến đổi, phải biết nhà kẻ ấy thời là có Phật.

    ---

    Phật hỏi "đố" Ca Diếp

    Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Nếu có người nói thế này: Như Lai vô thường. Biết là vô thường, vì như lời Phật dạy diệt các phiền não gọi là niết bàn, cũng như lửa tắt thời không chỗ có, dứt các phiền não gọi là niết bàn cũng lại như vậy, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Lại như Phật dạy, rời các cõi hữu lậu, bèn gọi là niết bàn, trong niết bàn đây không có các cõi hữu lậu, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Như cái áo hư rách hết, chẳng còn gọi là món vật. Cũng vậy, niết bàn dứt các phiền não chẳng gọi là vật gì. Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Ðức Phật cũng dạy: ly dục tịch diệt gọi là niết bàn, như người bị chém đứt đầu thời không còn có đầu, cũng vậy, ly dục tịch diệt rỗng trống, không chỗ có nên gọi là niết bàn. Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Phật từng dạy rằng:

    Như sắt nướng đỏ
    Ðập văng mạt lửa
    Văng ra liền tắt,
    Chẳng biết ở đâu!
    Ðược chánh giải thoát.
    Cũng lại như vậy.
    Ðã lìa dâm dục,Ữ
    Các cõi hữu lậu.
    Ðược quả vô động,
    Không rõ đến đâu!

    Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi?

    Nầy Ca Diếp! Nếu ai hỏi gại như vậy, gọi là lời gạn tà. Ông cũng chẳng nên suy nghĩ rằng tánh Như Lai là diệt tận.

    Nầy Ca Diếp! Dứt hết phiền não không còn gọi là vật, vì đã trọn rốt ráo hẵn, thế nên gọi là "Thường". Câu này tịch tịnh không có gì hơn. Dứt hết các tướng không có thừa sót. Câu đây trắng sạch thường trụ không thối chuyển. Thế nên niết bàn gọi là thường trụ. Như Lai thường trụ không biến đổi cũng lại như vậy.

    Mạt lửa để dụ phiền não, văng ra liền tắt không biết ở đâu, để chỉ Như Lai đã dứt phiền não, chẳng ở trong năm loài. Thế nên Như Lai là pháp thường trụ không có biến đổi.

    Nầy Ca Diếp! Chánh pháp là chỗ tôn thờ của chư Phật, nên Như Lai cung kính cúng dường. Vì pháp là thường trụ nên chư Phật cũng thường trụ". ("pháp là thường trụ", "pháp" ở đây là Chánh pháp)

    Ca Diếp trả lời câu đố vui của Phật

    Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Nếu lửa phiền não tắt, Như Lai cũng tắt, thế thời Như Lai không có chổ thường trụ, như mạt sắt kia, mất ánh lửa đỏ rồi chẳng biết văng đến đâu. Như Lai phiền não cũng vậy, diệt rồi thời vô thường. Lại như trên thanh sắt kia, hơi nóng và màu đỏ tắt rồi thời không còn có, Như Lai cũng vậy diệt rồi thời vô thường. Diệt lửa phiền não bèn nhập niết bàn, nên biết Như Lai tức là vô thường"

    Phật giải thích, Ca Diếp vẫn cố chấp lập luận

    Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Thanh sắt là nói các phàm phu. Người phàm dầu diệt phiền não, diệt rồi sanh lại, nên gọi là vô thường. Như Lai chẳng phải như vậy, diệt rồi không còn sanh lại nên gọi là thường".

    Ca Diếp Bồ Tát lại bạch: "Như nơi thanh sắt, màu lửa đỏ đã tắt, đem thanh sắt để lại trong lửa, thời màu đỏ sẽ sanh lại. Nếu như vậy, Như Lai lẽ ra sanh phiền não lại, nếu phiền não sanh trở lại bèn là vô thường".

    Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Ông không nên nói Như Lai vô thường, vì Như Lai là thường trụ.

    Như đốt gỗ, khi gỗ hết lửa tắt thời còn tro, phiền não diệt rồi bèn có niết bàn. Các điều dụ như áo hư, chém đầu, lọ vỡ cũng như vậy.

    Nầy Ca Diếp! Như sắt nguội có thể làm nóng lại. Như Lai không phải như vậy, dứt phiền não rồi rốt ráo thanh lương, lửa phiền não chẳng còn sanh trở lại.

    Vô lượng chúng sanh như thanh sắt kia Như Lai dùng lửa mạnh trí tuệ đốt sắt kiết sử phiền não của chúng sanh".

    Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Lành thay! Lành thay! Con nay thật biết rõ chư Phật là thường trụ".

    Phật nói: "Nầy Ca Diếp! Ví như Thánh Vương vốn ở trong cung, hoặc có lúc dạo chơi nơi vườn; dầu lúc ấy vua không có ở giữa đám cung phi, cũng chẳng được nói là vua đã chết. Cũng vậy, Như Lai dầu nhập vào trong niết bàn không hiện nơi cõi Diêm Phù, chẳng gọi là vô thường. Như Lai ra khỏi vô lượng phiền não vào nơi niết bàn an vui, dạo chơi vui vẻ nơi các vườn hoa chánh giác".

    Ca Diếp hỏi về việc duyên cớ gì Phật cưới vợ sanh con (khi mà Như Lai đã vượt khỏi biển phiền não)

    Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi: "Như đức Phật đã dạy: Từ lâu Như Lai đã vượt khỏi biển phiền não. Duyên cớ gì lại cùng Gia Du Ðà La sanh La Hầu La? Do cớ đây mà biết rằng Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não. Cúi xin Như Lai nói về nhơn duyên đó".

    Phật nói, Thân thị hiện ở Ta Bà là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ, đi bảy bước, cạo tóc, đi học, làm thái tử, tướng số làm Chuyển Luân Thánh Vương,...., đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào, nhơn loại (dài và nhiều)

    Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ông chẳng nên nói Như Lai từ lâu đã vượt khỏi biển cả phiền não, duyên cớ gì lại cùng Gia Du Ðà La sanh La Hầu La, vì cớ đây nên biết Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não.

    Nầy Ca Diếp! Ðại niết bàn đây hay kiến lập sự nghĩa to lớn. Nay các ông nên chí tâm lóng nghe, rồi rộng vì người mà giảng thuyết, chớ sanh lòng nghi ngờ.

    Nếu có vị đại Bồ Tát trụ đại Niết bàn, có thể đem núi Tu Di cao rộng để vào trong vỏ hột đình lịch. Các loài ở tại núi Tu Di không bị chật hẹp, vẫn y như thường, cũng không có quan niệm gì khác, chỉ có người đáng được độ mới thấy vị Bồ Tát ấy đem núi Tu Di để vào vỏ hột đình lịch, rồi đem để lại chỗ cũ.

    Nầy Ca Diếp! Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn, có thể đem cả cõi đại thiên để vào vỏ hột đình lịch, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm nầy, ngoài ra tất cả chúng sanh đều không hay biết cũng không thấy chật hẹp, vẫn y như cũ. Cho đến đem cõi đại thiên để vào lỗ chưn lông cũng như vậy.

    Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn ngắt lấy nhiều thế giới ở mười phương để nơi đầu mũi kim, như ghim lá táo, rồi ném để nơi thế giới khác. Những chúng sanh trong các thế giới bị ném đó không hay không biết, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm nầy, và cũng thấy Bồ Tát đem thế giới đã ném để lại chỗ cũ.

    Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn, bức lấy các thế giới ở mười phương để trên bàn tay mặt, rồi ném vụt qua khỏi vô lượng thế giới khác. Cũng có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn đem vô lượng thế giới ở mười phương để vào trong thân mình, hoặc để vào trong một vi trần, vẫn không chật hẹp. Chúng sanh trong các cõi ấy không bị bức ngộp, cũng chẳng hay chẳng biết, chỉ có người đáng được độ mới thấy biết việc làm nầy, và cũng thấy Bồ Tát đem những thế giới để lại chỗ cũ.

    Nầy Ca Diếp! Vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, vì thế nên gọi là đại bát niết bàn.

    Tất cả chúng sanh không có thể suy lường đến được. Nay ông làm thế nào biết Như Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La?

    Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn , thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Ðề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.

    (dài, lượt bớt)

    Như Lai thị hiện ra đời thành Phật, chúng sanh đều nói Như Lai mới thành Phật; nhưng thiệt ra Như Lai chỗ làm đã xong từ vô lượng kiếp rồi, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.


    Có lúc thị hiện thân gái thành Phật, mọi người đều nói, rất lạ cho người nữ mà có thể thành Phật. Phải biết Như Lai trọn hẳn không thọ thân gái, vì muốn điều phục vô lượng chúng sanh nên hiện thân gái. Và cũng vì thương xót chúng sanh mà hiện nhiều thứ thân, cho đến hiện thân A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Ðịa Ngục, để độ chúng sanh trong các loài ấy.

    Có lúc thị hiện vào nhà gái dâm, nhưng Như Lai thiệt không có niệm dục, lòng Như Lai trong sạch không nhiểm ô như hoa sen, vào đấy để tuyên thuyết diệu pháp cho hạng người say mê sắc dục.

    Túm lại là "mấy cái đó" đều do thị hiện ra để độ chúng, chứ thật chẳng có "mấy cái đó".

  3. #3
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Itdepx Xem Bài Gởi

    Ðức Thế Tôn vì muốn điều phục các chúng sanh, mà khéo phân biệt nói tiêu hay chẳng tiêu, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường. Nếu Phật nói "thường" trước, các đệ tử sẽ cho rằng pháp nầy đồng với ngoại đạo mà không chịu tin theo, vì hàng thanh văn đệ tử sẽ chẳng tiêu được pháp thường trụ, nên Như Lai trước dạy pháp "khổ", "vô thường". Khi mà hàng thanh văn đệ tử đã đầy đủ công đức, đủ sức tu tập kinh pháp đại thừa, Như Lai ở kinh nầy nói sáu vị: Một là "Khổ", vị chua; hai là "vô thường", vị mặn; ba là "vô ngã", vị đắng; bốn là "lạc", vị ngọt; năm là "ngã", vị cay; sáu là "thường", vị lạt.

    ..........................................

    Phật nói: "Như Lai cũng vậy, lúc nhập niết bàn, đem tạng pháp vô thượng phó chúc cho các vị Bồ Tát, chớ không giao cho hàng Thanh văn, vì hàng Thanh văn tưởng là Như Lai thiệt diệt độ. Còn các vị Bồ Tát thời nhận rằng Như Lai thường trụ không biến đổi. Mà quả thiệt Như Lai không có diệt độ. Như lúc nàng xa nhà chưa trở về, đứa con ác kia bèn nói là nàng đã chết mất rồi, còn đứa con hiền vẫn tin tưởng là nàng còn sống. Mà chính thiệt thời nàng còn sống.
    ===> Đọc cả đoạn trích chỉ thấy dẫn dắt, làm cho người đọc hoa mắt, rối trí với mới tri kiến nghe qua có vẻ cao thâm, sâu dày... nhưng kỳ thực là rỗng tuếch! Bà La Môn khéo xuyên tạc giáo pháp Như Lai, trà trộn những tư tưởng ngoại đạo mà gán ghép cho Phật!

    - Khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, có vị Bồ Tát nào ở đó mà Đức Phật phó chúc cho? Hay tại lúc đó, chỉ có các hàng Thánh Đệ Tử chứng quả A La Hán kề cận Đức Phật? Lúc này các vị Bồ Tát ở đâu?

    PG Trung Quốc đã khéo ngụy tạo lời nói, kinh điển để hạ thấp các vị thánh đệ tử A La Hán, nâng cao địa vị Bồ Tát lên. Chúng sinh thì mù mờ trong mớ triết lí hỗn độn, hoa mỹ, thần thông, cõi này cõi kia... rồi cho rằng:

    + Phàm phu thì tu ngũ giới,thập thiện.
    + Thanh văn - Duyên giác thì tu 12 nhân duyên, tứ diệu đế
    + Phật, Bồ tát thì tu 30 Ba La Mật hay lục độ ba la mật...v...v....

    => Bởi vì có đọc kinh điển đâu, có nghiên cứu sách vở đâu, cứ nghe nói đó là pháp tu của Thanh Văn thì bắt đầu rời xa... mà tìm tu những thứ cao siêu, huyễn hoặc, hoang đường, sáo rỗng... được bao bọc bởi những ngôn từ hoa lệ, mỹ miều!

    Last edited by smc; 06-08-2016 at 01:44 PM.

  4. #4

    Mặc định

    Ðại Bát Niết Bàn là tên bộ kinh do Phật Thích Ca thuyết trước khi Ngài Niết Bàn. Có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật Giáo Nam Tông và Phật Giáo Bắc Tông. Kinh Ðại Bát Niết bàn của Nam Tông, được tìm thấy trong Kinh Trường Bộ, [Kinh Ðại Bát Niết Bàn, (Hệ Pali), Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991]. Còn Kinh Ðại Bát Niết Bàn của Phật Giáo Bắc Tông bao gồm hai bản: (1) Phật Thuyết Phương Ðẳng Bát Nê Hoàn Kinh, do ngài Dharmaaksa (265-316), đời Tây Tấn dịch và (2) Ðại Bát Nê Hoàn Kinh, do ngài Pháp Hiển và Buddhabadhra đời Ðông Tấn (317-420) dịch. Bản Việt ngữ của Phật Giáo Bắc Tông do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch từ bản Hán văn, Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ tái Xuất Bản năm 1990, dầy 1500 trang gồm tất cả hai mươi chín phẩm (chương), được phân ra làm hai quyển, quyển 1 từ phẩm 1 đến phẩm thứ 21 và quyển hai từ phẩm 22 đến phẩm 29.

    http://www.niemphat.com/kinhdien/kin...atnietban.html

    ---

    Trưởng lão bộ hay Phật giáo Nguyên thủy, Theravàda, là một trường phái Phật giáo xuất phát từ Phân biệt thuyết bộ (sa. vibhajyavādin), do Mục-kiền-liên-tử Tu-đế (pi. moggaliputta tissa) thành lập (xem Kết tập). Phái này được Ma-hi-đà đưa về Tích Lan năm 250 trước Công nguyên và được các cao tăng tại Đại tự (pi. mahāvihāra) gìn giữ. Về giới luật cũng có một số bất đồng trong nội bộ phái Thượng tọa bộ. Ngày nay Thượng tọa bộ được lưu hành tại các nước Ấn Độ, Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và Lào, nên còn được gọi là Nam tông Phật pháp hay Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nam Tông.

    https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%...n_th%E1%BB%A7y

    ---

    Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh.

    Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành. Họ cho rằng sự ăn chay không có mặt trong thời kỳ bắt đầu của Phật Giáo và chính Đức Phật cũng không phải là người ăn chay, ăn chay là một nét đặc thù của Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa, bắt đầu từ triều đại nhà Minh, tức thời Hòa Thượng Vân Thê Châu Hoằng (1565-1615) và dĩ nhiên truyền mạnh qua Phật giáo Bắc Tông Việt Nam.

    http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110420/9949

    ---

    À, phải rồi, ngay cả căn bản giới luật cũng khác nha. Thôi, chúng ta không thuộc về nhau. hà hà. (Nói nhỏ nè, tui không ưa phật giáo campuchia, thái, lào, ngay cả tây tạng, tây tạng họ lấy mở động vật để thấp đèn chùa đó)

    ---

    Như lai nghĩa là gì? Như Lai đâu phải danh xưng chỉ để ám chỉ riêng đức Thích Ca. Adidaphat.
    Last edited by Itdepx; 06-08-2016 at 03:38 PM.

  5. #5

    Mặc định

    Thì là Phật, là Đạo, là Bản Tâm, là Thiên Chúa,...nên mới nói là tùy duyên mà theo, rồi tự mình tu, rồi tự mình chứng đạo theo cách của mình, hiểu theo cách của mình. Đôi khi có cùng trường phái mà thể trí, căn cơ rồi thì chưa đủ duyên lành nên cái ngộ nó cũng khác nhau. A Di Đà Phật!

  6. #6

    Mặc định

    NHỜ CÓ ADAM EVA MÀ CHÚNG TA CÓ HOA HẬU XINH ĐẸP ĐẤY! Đó là nói riêng về THÂN XÁC. Nhưng VÌ CÓ NGUỒN GỐC THẦN LINH NÊN CHÚNG TA "CÓ LINH HỒN", NÓ BẤT TỬ BẤT DIỆT. Ví như GIỌT NƯỚC, BẤT Diệt, nhưng LÀM MÂY HAY LÀM NƯỚC CỐNG LÀ TÙY Ý THỨC HÀNH ĐỘNG

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Itdepx Xem Bài Gởi
    Như lai nghĩa là gì? Như Lai đâu phải danh xưng chỉ để ám chỉ riêng đức Thích Ca. Adidaphat.
    copy



    如來
    như lai
    Copy liên kết
    Từ điển Nguyễn Quốc Hùng
    Hiện của Phật ( Tathagata ).
    Hát nói của Nguyễn Công Trứ có câu: » Nên mơ màng một bước một khơi, khiến cho phiền muộn Như Lai «
    — Kinh Kim Cương giải thích: Không từ đâu lại và cũng không đi đâu
    ( vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ cố danh Như Lai ).
    Theo sách Đại Viên tập:
    Vốn biết gọi là Lai. » Nàng vâng thụ giáo Như Lai « (Phan Trần ).

    http://hvdic.thivien.net/han/nh%C6%B0%20lai




    在世為人身,
    心為如來藏。
    照曜且無方,
    尋之更絕曠。

    Tâm

    Tại thế vi nhân thân,
    Tâm vi Như Lai tạng.
    Chiếu diệu thả vô phương,
    Tầm chi cánh tuyệt khoáng.

    Dịch nghĩa

    Tấm thân con người ở thế gian này,
    Còn cái tâm là kho báu của Như Lai.
    Chiếu sáng khắp mọi nơi,
    Nhưng tìm nó thì biệt tăm.



    成正覺

    如來成正覺,
    一切量等身。
    迴互不迴互,
    眼晴童子神。

    Thành chính giác

    Như Lai thành chính giác,
    Nhất thiết lượng đẳng thân.
    Hồi hỗ bất hồi hỗ,
    Nhãn tình đồng tử thần.

    Dịch nghĩa

    Khi đức Như Lai đã thành Chính giác,
    [Thì coi] thân của mọi vật đều có lượng bằng nhau.
    Điều quanh co cũng trở thành không quanh co,
    Trong cái thần trong sáng của con mắt trẻ thơ.

    Nhất Tự kiến NHƯ LAI,
    Nhất VÔ qui vị ĐẠO.

  8. #8
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Nghiên cứu lại quá trình kết tập kinh điển, hai danh từ "đại thừa" và "tiểu thừa" không hề được đức Phật nhắc tới, cho đến 100 năm sau khi Phật Thích Ca nhập diệt. Vì nhân duyên nào mà ngài Ca Diếp phải triệu tập các vị A La Hán để kết tập kinh điển (kỳ kết tập thứ 1)? Ai có tìm hiểu lịch sử phát triển PG thì ai cũng biết!

    Phật giáo là Phật giáo, không có "đại", "tiểu" gì trong đó. Toàn bộ kinh điển Nam Truyền tôi từng đọc, chưa tìm thấy cụm từ nào là "đại", "tiểu"... thế mà trong những bộ kinh PG Phát triển thì không hiếm gặp, đoạn trích bên trên của chủ topic là một ví dụ! Trong đó, không hề thấy được PHÁP HÀNH mà toàn là những lý thuyết suông, lời nói hoa mỹ, bóng bẩy nhưng rỗng không, phù phiếm.

    Nói để học giả nghiên cứu, học tập cẩn trọng mà tìm đọc, tu học. Trung Quốc là trung tâm của "hàng giả"!

  9. #9

    Mặc định

    Vậy thì giới luật, Nam tông ăn thịt vô tư thì hợp lý? Đạo hữu nói có, tôi sẽ không nói gì thêm. (Tại vì tôi không nói lý đạo với bọn ăn thịt)

  10. #10
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    - "Ăn thịt vô tư" như bạn nói là không phù hợp! Nhưng... ăn để duy trì thọ mạng, để có sức tu tập thì chuyện đó không có gì để bàn. Đức Phật dạy chúng đệ tử khi ăn phải quán: ăn thức ăn như ăn thịt con mình, ăn không phải để vui chơi, ăn không phải để tham đắm, ăn không phải để trang sức, ăn không phải để béo tốt.

    - Bạn có nhận xét gì về 2 cách ăn:

    1- Ăn mạng (ăn mặn): ăn ngày 1 buổi. Trong lúc ăn phải quán: ăn thức ăn như ăn thịt con mình, ăn không phải để vui chơi, ăn không phải để tham đắm, ăn không phải để trang sức, ăn không phải để béo tốt... mà là để duy trì thọ mạng để tu tập.

    2- Ăn chay: hễ đói là ăn, ăn ngày 3 bữa. Ăn cho mập, ăn cho béo tốt, ăn cho no nê. Ngủ ngày 8 tiếng, giường ấm nệm êm...v...v... Ăn cho đã cơn no!

    => Ăn thì là ăn thôi. Trong cái ăn, hành giả phải quán xét về món ăn để không tham đắm vào cái ăn. Hay còn gọi là thúc liễm, quán xét, phòng hộ các căn. Còn nếu cứ mắc vào ăn chay hay ăn mặn, thì đó chính là một kiết sử trói buộc hành giả.

    Ăn mặn mà ăn trong chánh niệm, ăn trong tư duy quán sát (những điều đã nói bên trên), ăn để duy trì thọ mạng, không tham đắm, hoan hỷ trong cái ăn thì TÔI ỦNG HỘ. Còn ăn chay mà ăn cho cực khổ, ăn cho đã cái miệng, ăn bất chấp giờ giấc... hễ đói là ăn thì TÔI KHUYÊN NÊN ĂN MẶN theo cách trên là tốt hơn !

    Tóm lại: ĐỪNG QUAN TÂM CHAY MẶN. KHI ĂN, HÃY NÊN QUÁN XÉT ĂN ĐỂ SỐNG, CHỨ KHÔNG PHẢI SỐNG ĐỂ ĂN! Như vậy, ta vượt ra khỏi kiết sử của "cái ăn" mà không còn bị nó trói buộc, đau khổ nữa!

    Và một điều nữa, Phật và các đệ tử ngày xưa, ăn là đi khất thực. Ai cho gì, ăn nấy. Chỉ xin đủ thức ăn cho 1 bữa, không xin dư. Chứ không phải ngồi 1 chỗ mà ăn bát vàng! Nên, chay mặn là quan niệm thế gian thường tình, đức Phật cần chúng ta ăn trong chánh niệm! Đừng để cái ăn "trói buộc" làm ta đau khổ.

    Ăn chay không phải là ăn CHO SẠCH CÁI MIỆNG! Ăn chay mà thấy người ta ăn mặn cái khởi lên suy tư:" Ơiiiii... xời... tu mà ăn mặn"; không thì đang ăn chay, con cháu lỡ quên chọt cây đũa đang ăn mặn vô đồ ăn mình thì:" Cái thằng/con này, tao đang ăn chay" !!! Chi vậy! Phải tự mình làm khổ mình không!

    Hay đi đám tiệc cũng vậy, cứ chấp vào chay mặn thì làm khổ người, khổ mình thôi! Có đồ chay thì tốt, không có thì cứ chọt vô đồ mặn, ăn rau củ, không ăn thịt... thì ai đâu mà bắt tội!
    Last edited by smc; 07-08-2016 at 11:43 AM.

  11. #11
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Lời dạy Đức Thiện Thệ:

    “Có bốn loại thức ăn giúp các loài sinh vật lớn lên và sống còn. Bốn loại thức ăn ấy là gì? Thứ nhất là đoàn thực, thứ hai là xúc thực, thứ ba là ý tư thực và thứ tư là thức thực."

    “Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về đoàn thực như thế nào? Ví dụ có một cặp vợ chồng kia có một đứa con trai nhỏ, thường chăm sóc nuôi dưỡng nó với rất nhiều thương yêu, một hôm muốn đem con (đến xứ khác sanh sống) đi qua một vùng sa mạc đầy nguy hiểm và tai nạn. Giữa đường hết lương thực, sa vào tình trạng đói khát cùng cực, không có cách nào giải quyết, họ mới bàn với nhau: “Chúng ta chỉ có một đứa con mà chúng ta thương yêu hết mực. Nếu ăn thịt nó thì ta sẽ sống sót và vượt qua khỏi cơn hiểm nạn này, còn nếu không thì cả ba người sẽ cùng chết”. Bàn tánh như vậy xong, họ giết đứa con, xót thương rơi lệ và gắng gượng ăn thịt con để sống còn mà vượt qua miền sa mạc.

    “Này các thầy, các thầy có nghĩ rằng cặp vợ chồng kia ăn thịt con vì muốn thưởng thức hương vị của thịt ấy hoặc vì muốn cho thân thể họ có nhiều chất bổ dưỡng mà trở thành xinh đẹp thêm?

    “Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, không”. Bụt lại hỏi: “Có phải cặp vợ chồng ấy bị bắt buộc ăn thịt con để có thể sống sót mà vượt qua khỏi chặng đường hiểm nguy và hoang vắng?” Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy.”

    Bụt dạy: “Này các thầy, mỗi khi tiếp nhận đoàn thực, ta phải tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới được cái thấy và cái hiểu rạch ròi (đoạn tri) về đoàn thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về đoàn thực rồi thì tâm vướng mắc vào ái dục sẽ được tiêu tán. Tâm vướng mắc đã được tiêu tán thì không còn một kiết sử nào về năm đối tượng ái dục mà không tiêu tán trong con người của vị thánh đệ tử có tu có học. Còn kết sử trói buộc thì mới còn phải trở lại trong cõi đời này.

    (Tạp A Hàm, Kinh số 373)

  12. #12

    Mặc định

    “Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, không”. Bụt lại hỏi: “Có phải cặp vợ chồng ấy bị bắt buộc ăn thịt con để có thể sống sót mà vượt qua khỏi chặng đường hiểm nguy và hoang vắng?” Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy.”

    1- Ăn mạng (ăn mặn): ăn ngày 1 buổi. Trong lúc ăn phải quán: ăn thức ăn như ăn thịt con mình, ăn không phải để vui chơi, ăn không phải để tham đắm, ăn không phải để trang sức, ăn không phải để béo tốt... mà là để duy trì thọ mạng để tu tập.

    Đây là một pháp tu nhưng rất dễ dẫn đến hậu quả khôn lường...

    Một chúng sinh nào đó không hiểu tưởng là thật.... cho là lời Phật dạy là chân lý.... Họ ăn thịt con thật đó.....

  13. #13
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi congiolamientay Xem Bài Gởi
    “Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, không”. Bụt lại hỏi: “Có phải cặp vợ chồng ấy bị bắt buộc ăn thịt con để có thể sống sót mà vượt qua khỏi chặng đường hiểm nguy và hoang vắng?” Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy.”

    1- Ăn mạng (ăn mặn): ăn ngày 1 buổi. Trong lúc ăn phải quán: ăn thức ăn như ăn thịt con mình, ăn không phải để vui chơi, ăn không phải để tham đắm, ăn không phải để trang sức, ăn không phải để béo tốt... mà là để duy trì thọ mạng để tu tập.

    Đây là một pháp tu nhưng rất dễ dẫn đến hậu quả khôn lường...

    Một chúng sinh nào đó không hiểu tưởng là thật.... cho là lời Phật dạy là chân lý.... Họ ăn thịt con thật đó.....
    - Bởi vậy... tôi thực sự nghi ngờ khả năng tư duy của ông, và nghi ngờ khi ông bảo rằng ông đã "diện kiến Như Lai" rồi! Tu sai đường là loạn tưởng đấy ông anh ạ!

  14. #14

    Mặc định

    Tại sao không quan tưởng cách khác mà lại quan tưởng ăn thịt con? Nếu quan tưởng la thịt con mà dám ăn thì. ... Ông SMC ạ ông là con quỷ đội lớp người đó ông ạ

    Hàng ngày ông ăn thịt con mình mà ko chút gì ân hận.

    Tôi nói như vậy có đúng không SMC?

    Hằng ngày ông có quán tưởng thịt con của ông hay không?

    RỒi ông có ăn nó hay không?
    Last edited by congiolamientay; 07-08-2016 at 06:09 PM.

  15. #15

    Mặc định

    Xuyên tạc quá. Đến phanquan cũng phải bỏ chạy. Congiola hãy tỉnh lại.

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi dungdragon88 Xem Bài Gởi
    Xuyên tạc quá. Đến phanquan cũng phải bỏ chạy. Congiola hãy tỉnh lại.
    Tôi nói không đúng sao Dunggragon?

    Tại sao đã quán tưởng rằng đây là thịt con của mình.... mà còn dám ăn thịt con của mình... vậy là quỷ rồi còn gì nữa.

    Hổ còn không ăn thịt con mà.

    Con người đâu có ai dám ăn thịt con của mình.


    Tôi có mê bao giờ mà bảo tôi phải tĩnh?

    Tôi hỏi cái chỗ quán thịt con mình...

    Nếu không giải thích được thì tôi khẳng định đây không phải là Giáo pháp của Như Lai.

    Còn giải thích được thì tôi cũng học theo.


    Phanquan chạy tôi sao?

    Trên đời này chỉ có ma dương sợ Phật mà bỏ chạy... chứ làm gì có chuyện Phật sợ ma dương mà bỏ chạy.

    Tôi nói chuyện rất từ tốn, từng câu từng chữ một.. rõ ràng từng lời.

    Vậy tại sao bỏ chạy?
    Last edited by congiolamientay; 07-08-2016 at 06:19 PM.

  17. #17

    Smile

    Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ
    Vô minh là mờ tối,là mê lầm chấp thân này là thật ngã và lầm chấp tâm suy tư,nghĩ tưởng là mình.Chấp thân này làm tôi là căn bệnh thâm căn cố đế của tất cả mọi người. Bởi chấp thân này là ta nên thấy nó thật,nó lâu dài,nó cao cả và quý báu rồi đam mê,đắm say,tham lam vì nó.Bởi do si mê chấp thân làm ngã nên sanh tham lam,dính mắc,chấp trước vào mọi thứ khi có ai đụng chạm đến thân này.Đã thấy thân này quý trọng nên quý luôn những vật thuộc về sở hữu như vợ ta,con ta,tài sản của ta.Đó là nguyên nhân dẫn đến con người tàn sát,giết hại lẫn nhau,tham được thì càng thêm tham,tham không được thì sinh ra thù hằn,do đó tạo nghiệp ân oán vay trả không có ngày cùng.Đã quý thân nên nỗi lo sợ lớn nhất của con người là ham sống sợ chết,không ai dám dùng tiếng chết vì coi đó như điều cấm kỵ tuyệt đối.si mê chấp thân làm ngã là căn bệnh muôn đời của tất cả chúng sinh,do đó tạo nhiều thói quen không tốt làm tổn hại cho nhau.Chấp tâm làm ngã cũng là bệnh thông thường của tất cả mọi người.Từ đó sinh ra bảo thủ,chấp trước ý kiến của mình là đúng nên tranh chấp,đấu tranh,biến yêu thương thành thù hận,gây đau thương,tang tóc cho nhiều người.Người con Phật mục đích tu là để xả bỏ tâm tham sân si.Sở dĩ chúng ta khổ là do tham lam quá đáng,hễ nhìn thấy người và vật mà vừa lòng thích ý thì muốn chiếm đoạt cho mình,muốn mà không được thì sinh tâm oán hờn,buồn khổ.Thường thì cuộc sống thế gian khó có ai muốn ít biết đủ nên tâm tham muốn không bao giờ thỏa mãn, do đó tham nhiều thì càng khổ nhiều

    Sắc trong ngũ uẩn là sắc của tâm.Sắc có trước.Không sắc chẳng tâm.Không tâm chẳng sắc.Sắc dẫn tới thọ.Thọ dẫn tới tưởng,rồi hành,rồi thức.Vô minh,hành,thức.Cứ thế chằng chịt.Cứ thế quấn quýt.Sắc là vô minh.Thọ là vô minh.Tưởng là vô minh.Thọ tưởng mới sinh sự.Ái,Thủ,Hữu này khác.Sinh sự thì sự sinh.Diệt thọ tưởng định là một kỹ thuật.Thọ không khởi,Tưởng sẽ không khởi.Sắc thọ tưởng hành thức được xếp theo một quy trình,một tiến trình.Tứ đại mới là Sắc thân,còn Ngũ uẩn chính là Sắc tâm.Nói khác đi,ngũ uẩn là tâm.Cho nên ngũ uẩn giai không là tâm Không.Còn Tứ đại kệ nó.Cứ cho nó lắc lư bay nhảy theo kiểu chơi của nó,sanh bệnh lão tử của nó.Tha hồ
    Từ Vô thường,Khổ,Vô ngã,Bất tịnh lăn lóc,lang thang,trôi nổi luân hồi bỗng gặp Thường,Lạc,Ngã,Tịnh.Vô thường trở thành Thường,Khổ trở thành Lạc,Vô ngã trở thành Ngã và Bất tịnh trở thành Tịnh.Không khó.Nó chỉ là mặt bên kia,bờ kia,phía kia.Lý thú nó bất nhị bởi nó vô tướng,vô ngã.Hoa nở rồi tàn,trăng tròn rồi khuyết,sanh bệnh lão tử.Vô thường quá đi chứ,nhưng cứ đời đời kiếp kiếp đều đặn,lặp đi lặp lại như vậy hoài chẳng hóa ra là thường ư.Lạc làm sao có nếu không thấy biết khổ chính là nguồn lực.Cho nên luân hồi sinh tử chíng là Niết bàn đó vậy.Sóng ngàn đời về đâu.Nước ngàn đời về đâu.Thân tứ đại ngũ uẩn tưởng là bất tịnh mà tịnh quá đi chứ,đàng sau kia là bao nhiêu nguyên tố chẳng đổi dời.Khi Phật không cần phương tiện nữa thì nói trắng ra Thường,lạc,ngã,tịnh đó thôi.Đều Như Lai tạng cả mà
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  18. #18
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Ông @CGLMT: ông có đọc hết đoạn trích mà tôi trích không, hay ông chỉ đọc tới chỗ "ăn thịt con" rồi thôi?

    - Ông có hiểu "quán" là như thế nào không?

    => Tri kiến của ông về đoạn trích mà tôi trích ra từ ví dụ của Đức Phật là như thế nào? Ông làm ơn tư duy, suy nghĩ thật kỹ rồi hãy nói, chớ có xuyên tạc ý người khác!

  19. #19

    Mặc định

    Bài viết của Thầy PQ rõ ràng mạch lạc dễ hiểu.

    Nhưng túm lại thì không biết để làm cái gì bây giờ?

    Cứ thế chằng chịt.Cứ thế quấn quýt.... chằng chịch quá làm sao mà gở ra bây giờ đây?

    Sắc là vô minh.Thọ là vô minh.Tưởng là vô minh cái nào cũng vô minh hết... thì làm sao mà Minh bây giờ?

    Tu là tìm cái minh. diệt cái vô minh.... Mà tìm hoài không thấy chỗ nào Minh hết.

    Tu là diệt khổ... mà tìm hoài không thấy cách diệt.

    Tu là diệt Tham sân si.... mà vẫn chưa thấy cách diệt Tham sân si....

    Thầy PQ nếu được xin thầy cho đọc Pháp Vô ngã..

    Cảm ơn thầy trước

  20. #20

    Mặc định

    Bài viết của Thầy PQ rõ ràng mạch lạc dễ hiểu.

    Nhưng túm lại thì không biết để làm cái gì bây giờ?

    Cứ thế chằng chịt.Cứ thế quấn quýt.... chằng chịch quá làm sao mà gở ra bây giờ đây?

    Sắc là vô minh.Thọ là vô minh.Tưởng là vô minh cái nào cũng vô minh hết... thì làm sao mà Minh bây giờ?

    Tu là tìm cái minh. diệt cái vô minh.... Mà tìm hoài không thấy chỗ nào Minh hết.

    Tu là diệt khổ... mà tìm hoài không thấy cách diệt.

    Tu là diệt Tham sân si.... mà vẫn chưa thấy cách diệt Tham sân si....

    Thầy PQ nếu được xin thầy cho đọc Pháp Vô ngã..

    Cảm ơn thầy trước

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •