KHỞI NGUỒN CỦA TƯ TƯỞNG BÍ MẬT
Từ thế kỷ VIII Phật nguyên (tính từ năm Phật diệt độ) về sau, Bí mật giáo ngày càng thịnh hành. Đây là pháp tu dùng tam mật thân, ngữ, ý hành trì tương ứng nhau nhằm cầu đắc quả thế gian và xuất thế gian. Mật chú có nguồn gốc sâu xa từ chú thuật của Phệ-đà, đặt niềm tin vào sức mạnh thần bí của chú ngữ, mượn vật biểu trưng và sức chú nguyện để lợi dụng thần quỷ tinh mỵ nhằm đạt được mục đích của người hành trì. Vật biểu trưng và mật chú, cho đến những động tác của thân thể thường có thần lực ẩn tàng trong đó. Tác dụng của chú pháp được phân ra bốn loại “tức tai”, “chú trở”, “khai vận” và “ảo thuật”. Bốn loại này đại khái tương đồng với “tức tai”, “điều phục” (aṅgiras), “tăng ích” (atharva) của Bí mật giáo.
Từ xưa, văn minh Ấn Độ xem Lê-câu Phệ-đà (Ṛg-veda) làm chủ thể, sau đó lại tổ chức và bổ sung thêm thành hai trường phái Phệ-đà là Sa-ma Phệ-đà (Sāma-veda) và Dạ-mâu Phệ-đà (Yajur-veda). Mặc dù ba trường phái này tôn sùng và thờ phụng thần quyền nhưng sau này lại trở thành một trường phái “Tế tự vạn năng”, tức mang ý nghĩa thanh cao, tinh khiết, gọi chung là “Tam minh”. Ngoài ra, còn có A-thát-bà Phệ-đà (Atharva-veda) lấy chú thuật làm trung tâm, sùng bái các đối tượng quỷ mị u linh, thích ứng với nhu cầu và sở thích của tầng lớp hạ lưu.
Khi đức Thế Tôn xuất thế, Ngài bài xích Tam minh của tầng lớp Bà-la-môn, nhưng vẫn đề cập đến một vài chi tiết. Đối với chú pháp, ảo thuật, Ngài hoàn toàn cự tuyệt vì sợ rằng phương pháp này chẳng mang lại lợi ích gì khả quan. Kinh Tạp A-hàm (Saṃyuktāgama) dạy: “Tất cả ảo thuật đều là cuồng pháp, khiến người ta đọa vào địa ngục”. Tiểu phẩm, Tam minh, Thích-tháp-ni-ba-đà kinh trong tạng Ba-li hoàn toàn nghiêm cấm chú pháp ảo thuật. Sau này, trong Kinh A-hàm, Tỳ-nại-da lại có sự tạp nhập ảo thuật, chú pháp nhưng những phương pháp ấy hiện có mặt trong kinh luật đều nhằm mục đích trị bệnh là chính. Hai trăm năm sau Phật diệt độ, Pháp tạng bộ thuộc Phân biệt thuyết hệ tôn sùng ngài Mục-liên (Maudgaliputra Tiśya), nói nhiều đến quỷ thần nên bắt đầu lưu truyền thuyết Chú tạng[1].
Phật giáo Đại thừa và Mật giáo đương nhiên không có quan hệ gì, nhưng sự hưng khởi của Phật giáo Đại thừa chính là chất xúc tác mạnh mẽ cho tư tưởng Bí mật nảy sinh. Đối với sự tôn sùng cao độ công đức các bậc Thánh giả mà Đại thừa ngưỡng vọng, thuở xưa thì cái thiện thế gian và xuất thế gian hoàn toàn do tự lực quyết định, nhưng bây giờ thì người ta quan niệm Phật lực vô lượng, Bồ-tát hành đại nguyện nên tư tưởng sức mạnh của sự gia trì nhờ vào tha lực bắt đầu bộc phát. Các vị Bồ-tát hóa thân vào trong lục đạo, hiện thân làm các loài rồng, quỷ, Dạ-xoa (yakṣa) nên Bồ-tát tồn tại là lẽ đương nhiên. Song, giáo pháp của đức Phật do các vị đệ tử biên tập đã dung nhiếp các pháp thế tục, xem ma vương và các sư tông ngoại đạo phần lớn là những vị Bồ-tát thị hiện, lại cho Thiên long, Dạ-xoa là những vị thần Hộ pháp mà bảo rằng kinh điển của Phật được truyền lại từ Dạ-xoa hoặc Long cung.
Khuynh hướng đồng hóa giữa ma vương, ngoại đạo, thiên, long, Dạ-xoa và Bồ-tát ngày càng hiện rõ, Như Phạm đồng tử và Văn Thù, Nhân-đà-la và Phổ Hiền, Trời Ma-hê-thủ-la thành Phật và trời Đại Tự Tại là những ví dụ điển hình. Trong đó, người ta rất chú trọng đến Dạ-xoa, vì Dạ-xoa vốn là các vị thần của dân tộc Đạt-la-duy-đồ. Khi còn tại thế, đức Phật thường bảo, có Kim Cương lực sĩ hộ trì đức Phật, kinh Mật tích gọi đó là vị đại Bồ-tát, vì hộ trì giáo pháp của hàng ngàn đức Phật mà thị hiện làm thân Dạ-xoa. Kinh Kim cương nằm trong kinh Thập địa cũng là một trong những kinh nói về Dạ-xoa. Đại trí độ luận cho rằng, ngữ âm của Dạ-xoa ẩn mật, tạp loạn không dễ biết. Sự ẩn mật của ngữ âm này có quan hệ với ẩn mật của Mật chú. Vị Dạ-xoa tay cầm chày Kim cương, Kim cương là báu vật thường trụ bất hoại nên đặc biệt rất khế hợp với Chân thường luận. Từ khi xảy ra pháp nạn ở miền Trung Ấn, văn hóa vương triều An-đạt-la[2] hưng khởi và phát triển mạnh. Đại thừa cũng phát triển nhờ sự ủng hộ của vương triều và Dạ-xoa cũng chính là sự hóa thân của Bồ-tát từ đấy.
Người truyền Mật pháp sau này là ngài Long Thọ (Nāgārjuna). Khi mở tháp sắt ở miền Nam Thiên Trúc thì thấy có Kim cương Tát-đoả (Vajra-sattva) nên sau đó Ngài mới đem truyền bá. Phần lớn Mật điển lấy Bí mật chủ và Kim Cương thủ làm báu vật đương cơ nên giữa chúng có mối quan hệ mang tính đương nhiên. Sự diễn biến của Phật giáo Đại thừa thành Mật giáo, tuy ngàn đầu vạn mối nhưng sự hợp hóa giữa Bồ-tát và ngoại đạo, rồng, quỷ, dạ xoa là nhân tố tương đối đặc biệt.
Tự môn Đà-la-ni của các kinh Bát-nhã, Hoa nghiêm cũng cung cấp một cơ sở có sức thuyết phục đối với Bí mật pháp. “Khổ ngôn năng trợ” của Đại chúng bộ là từ mở đầu cho âm thanh Phật sự[3]. Tự môn Đà-la-ni thì mượn hàm nghĩa của mẫu tự, nghe âm thanh mà suy ra ý nghĩa, để ngộ nhập thực tướng của nhất thiết pháp. Như chữ “A” có nghĩa là “vô”, là “bất”, khi nghe xướng lên chữ “A” thì ngay lập tức ngộ nhập được thể tính vốn không sinh của nhất thiết pháp. Điều này chịu ảnh hưởng rất sâu sắc về chủ trương thường trụ của âm thanh trong Bà-la-môn giáo. Ngay thời kỳ đầu, người ta còn dùng nghĩa phát sinh từ âm thanh làm phương tiện ngộ nhập thực tướng, nhưng sau đó lại lấy văn tự làm sự hiển hiện của chân thường và xem văn tự như là sự biểu thị pháp tính của chân thường và Phật đức. Do đó, Mật chú lúc đầu được sử dụng như là thứ “tức tai” (tiêu diệt tai ương), “điều phục” (hàng phục ác ma), “tăng ích” (tăng trưởng lợi ích), nhưng sau đó được xem là phương tiện diệu dụng để thành tựu Phật quả. Ý nghĩa “Chữ A vốn không sinh” chính là một trong những lý luận quan trọng của Mật chú.
Mặc dù tư tưởng thần bí có hình tướng của rồng quỷ thịnh hành dần dần theo con đường của Đại thừa, nhưng trong kinh Đại thừa thời kỳ đầu, người giáo hóa và người được giáo hóa phần lớn là nhân thân Bồ-tát, vẫn còn lấy sự nhập thế lợi sinh, thâm nhập Phật trí, giác ngộ chân lý làm gốc. Trong kinh điển thời kỳ này thành phần Mật chú phát triển với số lượng lớn nhưng đa số các nhà Mật giáo dùng Mật chú để hộ trì Phật pháp, chứ chưa thấy sử dụng Mật chú như một phương pháp để tu hành thành Phật. Hơn nữa, những Mật chú này phần nhiều do đời sau thêm thắt vào. Như kinh Bát-nhã vốn không có thần chú, tuy nói rằng “Là thần chú lớn, là minh chú lớn, là chú vô thượng, là chú vô đẳng, là vua của hết thảy các chú” nhưng thật ra nói như thế là thí dụ để tán thán đặc tôn của Bát-nhã. Người đời sau tập hợp những điểm quan yếu trong phẩm Học quán thành Bát-nhã tâm kinh thì lại ghi thêm phần “Tức thuyết chú viết”.v.v. Kinh Pháp hoa vốn dĩ không có thần chú nhưng phần phụ biên sau phẩm Chúc lụy lại có phẩm Đà-la-ni. Nhân vương kinh, Lý thú kinh vốn không có thần chú nhưng bản dịch đời Đường thì lại có. Điều này có thể cho thấy Đại thừa thời kỳ đầu vẫn chưa đi quá đà vào mục đích sử dụng Thần chú.
Mật giáo còn gọi là Du-già giáo, có quan hệ đặc thù và mật thiết với những người hành trì Du-già. Nói về con đường Giải thoát thì chỉ có Bát chính đạo, tức là Ba môn học tăng thượng. Xem Tuệ học trong Chính kiến, Chính tư duy là mắt; xem Giới học trong Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng là chân. Trong tâm phải giữ sự sáng suốt, thanh tịnh, đi đứng nghiêm chỉnh không khệnh khạng rồi sau mới dụng tâm Tinh tấn dũng mãnh, từ Chính niệm mới bước vào Chính định (tức Chính học). Thiền chỉ và Thiền quán phải song hành thì mới đoạn trừ lậu hoặc, chứng đắc chân lý. Đoạn lậu hoặc, chứng chân lý phải dựa vào Thiền định nhưng Phật pháp không xem Thiền định là bước khởi đầu, cũng không xem Thiền định là phương tiện chính yếu mà cốt làm sao giữ được sự nhiếp tâm, sáng suốt, thanh tịnh mà thôi. Nếu không như vậy mà lìa Giới và Tuệ để vào Định thì sẽ ắt bước vào lối mòn của ma quỷ và ngoại đạo. Thiền định được Phật nói ra cùng với Nhị cam lộ môn[4] đều là phương pháp Thiền định thường được thực hành ở Ấn Độ, mà Thiền định của đức Phật chính là cánh cửa để nhiếp tâm. Lúc đầu, đức Phật dạy đệ tử quán bất tịnh, nhiều người tự sát vì nhàm chán thân thể, đức Phật bèn dạy họ quán niệm hơi thở, tức lấy việc điều hòa hơi thở làm phương tiện để ràng buộc tâm mà nhập định. “Phong”, “mạch” của phái Du-già là tên gọi khác của pháp quán niệm hơi thở, nếu thực hành được phương pháp này sẽ sinh tâm yêu đời. Mạt lưu của Du-già này giống với thuyết của các Phương sĩ[5]. Tĩnh cư nhập định mà giới hạnh bất tịnh, tuệ nhãn bất minh, động cơ bất chính hoặc dụng tâm bất thiện thì thường sinh ra vô số căn bịnh về thân tâm và nhiều cảnh giới như vui mừng, sợ hãi hiện hữu trước mắt. Cốt lõi của đời sống thanh tịnh và chân chính không gì bằng thực hành Giới và Tuệ. Có nhiều người không chú trọng vào gốc mà cứ bám theo ngọn, như có người treo tượng Thánh hiền, tượng thiện thần, đốt hương rải hoa để cầu Thánh thần hộ vệ; có người luận bàn về tinh tú, cát hung, ngày tốt giờ kỵ, sông núi lợi hại để cầu giải trừ tai ương ách nạn; có người mượn năng lực thần chú, vật biểu trưng, thỉnh cầu Hộ pháp thần vương xua đuổi tà ma quỷ quái. Đi chệch hướng như vậy nên bệnh Thiền ngày càng nặng, ngọn gió thần bí ngày càng hừng hẫy thêm lên.
Thuở xưa khi đức Phật còn trụ thế, các đệ tử cho rằng không được thấy Phật là khổ, sống độc cư hoặc đi đêm mà sợ hãi thì đức Phật thường dạy họ hãy niệm Phật, niệm Thiên. Niệm trí tuệ, dung mạo hiền từ của đức Phật hoặc niệm việc hành thiện thì sẽ được sinh Thiên, nếu ta đã hành thiện thì còn điều gì phải sợ! Dạy họ niệm Phật, niệm Thiên là cốt để khích lệ ý chí của họ được mạnh mẽ thêm và an ủi những người có tâm yếu đuối. Người hành thiền mà còn nhiều sợ hãi thì niệm Phật chính là pháp hành quan trọng của họ, từ đó phát sinh ra pháp niệm Phật Tam-muội. Không những chỉ có niệm về từ bi, trí tuệ của đức Phật mà nhiều người còn niệm về tướng hảo của Ngài, và còn niệm về quốc độ trang nghiêm (cõi Tịnh độ) của đức Phật nữa. Nếu ai an trú trong niệm Tam-muội này thì đức Phật vì họ mà hiện thân thuyết pháp. Đối tượng được niệm không chỉ có đức Phật mà các vị Bồ-tát cũng là đối tượng quán tưởng của hành giả. Đến khi người ta nhập chung Phật và Thiên làm một thì coi những đối tượng như Dạ-xoa... là Bản tôn để quán tưởng, nhằm cầu thành tựu đạo nghiệp thì Mật pháp bắt đầu xuất hiện. Các vị sư Du-già lúc đầu đề xướng Duy thức luận mang tính hư vọng rồi tiếp thu Duy tâm luận chân thường mà sinh ra Mật pháp. Phái Du-già hai miền Nam và Bắc hợp lưu nên giáo lý Tam mật Du-già mới thịnh hành.
II. SỰ TRUYỀN BÁ CỦA BÍ MẬT GIÁO
Mặc dù Bí mật cùng với Đại thừa phát triển nhưng trường phái thuộc Đát-đặc-la thừa[6] được hình thành một cách độc lập thì lại nằm ở thời kỳ sau này. Các học giả Mật thừa muốn mượn một quãng thời gian lâu xa để bồi đắp thêm bề dày lịch sử cho học phái mình nên mới bảo rằng ngày xưa đã có Mật thừa rồi, mà người hoằng dương sâu rộng là ngài Long Thọ. Các bậc danh Tăng đức độ trong Phật giáo như Đề-bà (Kāṇa-deva), Vô Trước (Asaṅga) đều được mọi người liệt vào hệ thống
của những vị đại sư Mật thừa. Sự lẫn lộn các chi tiết trong truyền thuyết cũng cực kỳ phức tạp. Theo thuyết của Tây Tạng thì Mật thừa gồm có bốn bộ, đó là: Sự bộ, Hành bộ, Du-già
bộ và Vô thượng Du-già bộ. Theo cựu truyền của Trung Quốc thì Mật thừa truyền vào Nhật Bản có hai bộ lớn là Thai tạng
bộ và Kim cương bộ. Hai bộ này tương đương với Hành bộ
và Du-già bộ. Vô thượng Du-già bộ xuất hiện ở thời kỳ sau, bắt đầu hoằng dương vào thời đại vương triều Ba-la[7], thời Triệu Tống[8] đã xuất hiện một vài bộ nhỏ nhưng trong số ấy có bộ bị cấm không cho lưu hành. Sự bộ rất giống với Tạp mật ở Nhật Bản, bộ này nằm ngoài hai bộ lớn là Thai tạng bộ và Kim cương bộ.
Xét về phương diện lý luận, Thai tạng giới giải thích về Chân thường Tâm tính luận mang tính bản cụ (Pháp giới tính); Kim Cương giới giải thích về pháp tu Hiển giáo đối với Chân thường bản tịnh tính, hoàn toàn hợp với đại nghĩa của Chân thường duy tâm luận. Tạp mật ít nói đến lý tính, pháp tu của phái này là Vô tướng Du-già, cũng là vọng chấp minh Không (vọng chấp về bản tính các pháp), không tương hợp với Thiên sắc thân quán (pháp quán về Sắc thân của chư Thiên) nên sắc thái về chân thường không sâu sắc lắm. Xét về tổ chức, Tạp mật thường thiết bày các vị Phật, Bồ-tát, quỷ thần chung một điện thờ, không tổ chức nghiêm mật bằng Thai tạng giới nhưng lại sắp xếp có trật tự. Trong pháp hành của Tạp mật thì kết đàn tràng, trọng thờ cúng, tụng chú kết ấn, chú trọng nhiều đến sự tướng nhưng quán tưởng thì giản đơn. Đối tượng mà họ quán tưởng là triệu thỉnh một vị Bản tôn ở bên ngoài để quán, tu xong thì họ lại thỉnh vị Bản tôn ấy trở về bản xứ, chưa quán tưởng trực tiếp được tự thân tức Phật (đại khái như vậy). Trong quá trình phát triển của Bí mật giáo, Sự bộ là mô hình đầu tiên, chưa đạt đến mức độ viên mãn, thành thục mà nó chỉ là một chi phái được sinh ra đầu tiên từ sự thịnh hành của Chân thường Duy tâm luận.
Cuối thế kỷ thứ VII Phật nguyên, (niên hiệu Vĩnh Gia đời Tấn), Bạch-thi-lê-mật-đa-la[9], có nghĩa là “Giỏi trì chú thuật”, đến Trung Hoa phiên dịch các bộ kinh Khổng Tước minh vương (Mahāmayūrī-vidyārājñī), kinh Quán đảnh thần chú (Mahābhiṣeka-mantra). Tạp mật thời kỳ đầu có quan hệ với các vị sư phái Du-già ở Bắc Ấn. Tây Vực ký ghi rằng, người Ô-trượng-na (Udyāna) ở Bắc Ấn “Chỉ thực hành chú thuật”, vùng Mạt-để-bổ-la cũng nổi tiếng nhờ thực hành thuần thục chú thuật này.
Theo thuyết của Tây Tạng, từ ngài Tăng Hộ trở về trước, Bí mật pháp được lưu hành khắp nơi không sót chỗ nào, nhiều người Ô-trượng-na cũng hành trì Đà-la-ni [Trì minh]. Thời kỳ đầu, người đến Trung Hoa truyền dịch Mật điển và thực hành tinh thông chú thuật hầu hết là người Bắc Ấn và người Quy-tư (Kucīna) ở Tây Vực. Bạch-thi-lê-mật-đa-la là người Quy-tư giỏi hành trì chú thuật, nhưng ở đây chúng tôi không bàn luận nữa.
Phật Đồ Trừng họ Bạch từ nước Kế Tân đến, cũng “giỏi tụng chú thuật, có thể sai khiến quỷ thần”. Ngoài ra, ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci), người Bắc Ấn giỏi công phu hành trì chú thuật; Na-liên-đề-da-xá người nước Ô-tràng (tức Ô-trượng-na), Xà-na-quật-đa (Jñānagupta) người nước Kiền-đà-la (Gandhāra) cũng truyền bá nhiều chú điển vào đời Tùy. Các vị sư Du-già cư trú tại vùng Tuyết Sơn, bên trong có chứng nhập định cảnh, bên ngoài thu phục được lòng dân. Họ sử dụng chú thuật để tự phòng hộ và giáo hóa mọi người. Sự bộ dần dần lưu hành từ đây.
Con đường lưu bố của Mật thừa bắt đầu từ ngài Long Thọ. Trước hết, nói đến Đại nhật kinh (Mahā-vairocanābhisaṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtrendra-vāja-nāma-dharmaparyāya) là do ngài Long Thọ truyền thừa. Từ khi ngài La Thập đến Trung Hoa thì sự truyền thừa từ ngài Long Thọ đến Đề-bà, Thanh Mục không rõ ràng. Phó pháp tạng nhân duyên truyện có nói, đệ tử của Đề-bà là La-hầu-la. Theo thuyết của Chân Đế thì La-hầu-la dùng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh để giải thích Bát bất[10], Tính không chuyển nhập vào Chân thường, người đầu tiên có thể khảo sát được bắt đầu từ La-hầu-la. Theo thuyết của Tây Tạng, thì đệ tử của La-hầu-la có ngài Long Hữu, đệ tử của Long Hữu là Tăng Hộ. Theo truyền thuyết, Ngài Long Hữu và Long Thọ ghi chép rất lộn xộn. Thầy của Long Hữu là La-hầu-la-bạt-đà-la (Rāhulabhadra), nhưng cũng có thuyết nói “Thầy của Long Thọ cũng là La-hầu-la-bạt-đà-la” thì chúng ta có thể thấy được thuyết ấy là ngoa truyền.
Theo truyền thuyết người sống cùng thời với Đề-bà có tên là Như Lai Hiền mà thường gọi là Long Khiếu (tức là Long Mãnh trong kinh Lăng-già) hoằng truyền Duy thức trung đạo. Truyền thuyết giữa ngài Long Hữu, Long Khiếu, Long Thọ xen tạp lẫn nhau nên mới có thuyết nói rằng, ngài Long Thọ là người truyền Mật giáo. Xét theo những thuyết trên thì vào thời đại ngài Tăng Hộ, đệ tử của ngài Long Hữu, Hành bộ bắt đầu lưu hành rộng khắp ở đời. Có người tên là Long Trí, tương truyền là đệ tử của ngài Long Thọ. Có thuyết cho rằng, khi ngài Huyền Trang ở tại nước Trách-ca thuộc Bắc Ấn đã gặp một vị Bà-la-môn tuổi cao, người đó là Long Trí (Nāgabodhi). Sau này, đệ tử của Thắng Thiên là Tỳ-lưu-ba, đệ tử của Nguyệt Xứng là Hộ Túc cũng đều theo học với ngài Long Trí.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (739-741) đời Đường, có ba vị đại sĩ đến Trung Hoa đều tự xưng mình là học trò của ngài Long Trí. Có thể thấy rằng, sự thịnh hành của Mật học có quan hệ sâu sắc với vị Trưởng lão này! Tuổi thọ của Long Trí cực cao như vậy nên truyền thuyết mới cho Ngài là đệ tử của Long Thọ, chúng tôi e rằng là đệ tử của Long Hữu hoặc Long Khiếu chăng! Sự bộ chính là mô hình phát triển của chú pháp, nó dung nhiếp ý nghĩa thâm áo của Chân thường luận, lấy Tam mật làm pháp hành trì, tổ chức thành Mật điển với sự lý viên thông đầy đủ, nghi rằng người tổ chức đó là Long Khiếu và Long Trí.
Hành bộ lưu hành tương đối sớm, dùng ý nghĩa của ba câu “Tâm Bồ-đề làm nhân, Tâm Đại bi làm căn bản, lấy phương tiện để đạt đến cứu cánh” làm đại bản. Giải thích mười câu Duyên sinh rất giống với thuyết của “Bát-nhã”, nhưng tâm Bồ-đề chỉ cho tự tâm vốn đầy đủ tính đức chân thường, phương tiện thì chú trọng vào pháp hành tùy cơ ứng hóa, có thể gọi đó là tư tưởng Bát-nhã mang tính chân thường. Kim cương đảnh kinh trong Du-già bộ giải thích Ngũ trí thành thân, sau này thịnh hành trong thuyết Duy tâm luận. Hành bộ, Du-già bộ lưu hành dần dần từ vùng Bắc Ấn truyền sang Nam Ấn và Trung Ấn. Thời kỳ sau này, nhờ ngài Phật Hộ, Thanh Biện hoằng pháp ở vùng Nam Ấn nên pháp Tính không chuyển nhập vào Mật thừa. Tây Vực ký ghi rằng, ngài Thanh Biện vào hang động Na-la-diên là để học Mật giáo này. Các ngài như Nguyệt Xứng, Trí Tạng, cho đến ngài Tĩnh Mệnh, Liên Hoa Giới (Kamalaśīla) không ai là không học Mật giáo. Những vị theo học phái của ngài Vô Trước du hóa ở vùng Nam Ấn, Trung Ấn như Trần Na, Hộ Pháp, Pháp Xứng, theo thuyết Tây Tạng lưu truyền thì những vị này đều có dính dán đến Mật giáo.
Vào đời Đường, bộ phận sang Trung Hoa truyền dịch Mật điển cũng là những vị Tăng miền Nam Ấn và nhiều hơn nữa là người miền Trung Ấn Độ. Lúc bấy giờ, trào lưu tư tưởng Bí mật được thiết lập trên nền tảng của chân thường, duy tâm, viên dung, bí mật, tha lực, đốn thành, dung nhiếp cái học Tính không và Duy thức nên không có chỗ nào là không thông suốt. Sự giao tranh giữa hai trào lưu tư tưởng Hữu và Không chỉ bổ sung thêm phong độ trang nghiêm của những người Bí mật giáo mà thôi. Lúc đầu, không ai theo hai tư trào Hữu hoặc Vô mà chủ yếu là sùng chuộng tư tưởng Trung quán, nên tôn ngài Long Trí làm thầy, người theo tư tưởng Tính không cũng dần dần chuyển nhập vào Mật giáo.
Hành bộ và Du-già bộ thành lập dung nhiếp cả pháp thế tục bên ngoài, có thể nói đó là sự tổng hợp cả Phạm và Phật. Điều này được thấy trong Mạn-đà-la của Kim cương giới và Thai tạng giới. Trong đó, điều đáng chú ý là cung tôn đức Đại Nhật Như Lai mang hình tướng của một vị Bồ-tát tại gia (Thiên nhân) làm đối tượng trung tâm, dùng Kim cương thủ để hộ vệ, đức Thích-ca chỉ là vị A-la-hán và Ngài bị đẩy ra vòng ngoài. Đại khái, theo sự kiến giải của những người theo Mật giáo, nếu xét về gốc gác thì các vị thần của Ấn Độ hoàn toàn là sự thị hiện của Phật và Bồ-tát, tất cả đều là quyến thuộc, đại quyến thuộc của đức Đại Nhật Như Lai. Đức Thích-ca với Ứng thân và Hóa thân cùng đại quyến thuộc của Ngài vẫn còn chuyển vận trong cõi trần nên chẳng vị nào bằng vị Bồ-tát tại gia ấy. Tôn Bồ-tát tại gia làm trung tâm vốn là tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngài Văn Thù, Tịnh Danh và các vị đại Bồ-tát trong Hiển giáo thì không vị nào là không hơn hẳn chúng Thanh văn xuất gia mà thượng cư trên chúng này. Những người theo Bí mật giáo đứng trên lập trường của Phật giáo tại gia, không thể phát hạnh nguyện vào đời để cứu độ chúng sinh, nên dung hợp cả thần giáo của thế tục, còn dám coi nhẹ con đường Giải thoát cứu cánh, bảo rằng đức Thích-ca vẫn là người chưa thành tựu đạo nghiệp, nên mới thỉnh giáo đức Đại Nhật Như Lai để chứng nhập. Thuyết này không thể không rơi vào trường hợp đảo lộn tôn ti vậy!
Theo cựu truyền, La-hầu-la Bạt-đà-la là một học giả Bà-la-môn tên là Sa-ha-la, mà Long Trí cũng là một người Bà-la-môn có tuổi thọ cao. Phật giáo lúc bấy giờ thường xem học giả Bà-la-môn do Phật hóa thân là người thầy dẫn đường của họ. Tinh thần như vậy thì vốn chẳng phải Tăng cũng chẳng phải tục, vừa Phật vừa Phạm rất hỗn tạp.
Tuy nhiên, Hành bộ và Du-già bộ vẫn xem Đại Nhật Như Lai mang hình ảnh con người là trung tâm. Sau đó, các hành giả Mật thừa lại khế hợp Đại Nhật Như Lai với Kim Cương Minh Vương[11] trong Đại pháp giới viên dung của Thai tạng và Kim cương tạng, dùng đại tham đắm dục lạc để nhiếp hóa, dùng đại phẫn nộ để chiết phục, đại tham đại sân và cũng là đại kiêu mạn, quán sát tự thân là Bản tôn mà tu trì. Đối tượng sùng bái chính của họ là La-sát (rākṣasa), Dạ-xoa (yakṣa) nên không phải hình người đức Đại Nhật Như Lai như Hành bộ và Du-già bộ tôn sùng. Do vậy, đặt chúng ta trong tâm cảnh của người xưa thì mới có được những điều luận giải xác đáng.
Ấn Độ là một thế giới của Thần tiên, tất cả mọi sự vật đều nằm trong khung cảnh huyền bí. Khi đức Phật xuất thế, người ta thực hành theo giáo lý Phật giáo nên tính thần bí giảm thiểu dần. Sau pháp nạn ở Trung Ấn, tính thần bí ấy được phồn thịnh trở lại. Phật giáo dung nhiếp tư tưởng nhập thế của Đại thừa nên ít nhiều có khuynh hướng coi trọng ở tha lực. Khi vương triều Cấp-đa (Gupta) hưng thịnh, các học giả Bà-la-môn lấy Phạm-Ngã luận làm gốc, dựa vào lý luận mà cho rằng thần mang tính cách con người nên tăng thêm niềm tin về Thấp-bà (Śaiva), Tỳ-nữu (Viṣṇu), Phạm thiên (Brahmā). Tất cả mê tín thuộc thế tục không thứ gì không thâu nạp vào luận lý này để phát triển thành trào lưu của thời đại. Để làm cho Phật giáo hưng khởi mà đi ngược lại triết thuyết của Phệ-đà thì mục đích này khó có thể thực hiện được. Hạnh nguyện Giải thoát của Thanh văn không đủ để thích ứng căn cơ của quần chúng và cũng không đủ để thoả mãn bản hoài của đức Phật trước đây. Hạnh nguyện Bồ-tát nhập thế, tuy lý luận đã bàn đến tận cùng của Tính không Duyên khởi nhưng những vị Tăng theo Bồ-tát hạnh lại không có, chính giáo hình thế bị hạn chế nên khó thực hành được hạnh nguyện vào đời để tế độ.
Phật giáo Đại thừa nhắm đến phương pháp tu tập tùy cơ thích ứng, chuyên tâm tư duy, tinh tấn thiền định, để khai thông con đường tế độ chúng sinh. Từ Tính không để đi vào hình tướng mà đỉnh cao là Diệu hữu, từ Tự lực để đi vào Tha lực, từ Duyên khởi để hội nhập Vô tâm, từ vô thần để đi vào hữu thần, dù hữu ý hay vô ý thì điều đó đã mở đầu cho một sự chuyển biến, dần dần hình thành nên tinh thần tổng hợp giữa Phạm và Phật, đi ngược lại tinh thần của Phật giáo căn bản. Song, người đầu tiên chuyển hóa tư tưởng này dường như đã biết rõ từ trước. Thâm mật kinh giải thích về độn căn của ngũ sự bất cụ, cho rằng Y tha tự tướng là có. Lăng-già kinh thuyết minh về Chân thường duy tâm luận, nên nói: “Nếu gọi tướng chân thật, tâm tức vô chân thật. Nói tâm khởi các tướng, vì giáo hóa phàm ngu”. Đại Nhật kinh thuyết minh pháp Bí mật, nên nói: “Kẻ trí tuệ kém cỏi không thể hiểu, nên phải nói hữu tướng”. Người xưa chẳng ai mà không biết các thuyết này nhưng chỉ muốn dùng chúng làm phương tiện để hướng dẫn thế gian đi vào Phật đạo mà thôi. Tư tưởng ấy chẳng khác nào đầu voi đuôi chuột, một khi thuyết Chân thường duy tâm thần bí tích tập cùng với tâm sinh tử phát sinh thì khó lòng mà ngăn lại được.
Sự lưu hành của ba bộ Mật giáo (Mật bộ, Hành bộ, Du-già bộ) được vương triều Cấp-đa tôn sùng đến hơn 300 năm. Còn bộ Vô thượng Du-già thì sau này được hoằng truyền ở vương triều Ba-la. Từ khi vương triều Phạt-đàn-na có khuynh hướng sụp đổ, miền Trung Ấn đại loạn, Phật giáo dần dần suy vi. Khi vương triều Ba-la hưng thịnh, Phật giáo cũng nhờ đó mà phồn thịnh đến 500 năm, nhưng đã phát triển với nhiều nét dị dạng. Phương đông có Cù-ba-la vương (Gopāla) nổi dậy thống nhất nước Phiên-ca-la, chiếm giữ các vùng ở Ma-kiệt-đà, sáng lập nên vương triều Ba-la. Kế thừa vương triều này gồm có 18 đời vua. Dạ-xoa Ba-la vương bị đại thần La-bà-tư-na soán vị nên vương triều Ba-la từ đó suy vong. Trong khoảng 500 năm trải qua 18 đời vua, triều đình sùng tín Phật pháp nên không một tư tưởng nào có thể thay thế được Phật giáo trong thời gian đó. Những vị vua nhiệt thành hộ trì Phật pháp gồm có bảy đời, nên gọi là “Ba-la thất đại”. Trong bảy đời đó, vào thời vua Đạt-ma Ba-la thuộc thế hệ thứ IV, thế lực quốc gia hùng mạnh, đã mở rộng ảnh hưởng đến thành Khúc-nữ, nên đối với việc hộ trì Phật pháp thì thời này cũng rất mạnh. Gần chùa Na-lan-đà, vua cho xây dựng chùa Âu-đan-đa-phú-lê (Udaṇḍapura). Vua còn cho xây dựng Tỳ-cửu-ma-la-thi-la (Vikramaśīla) ở phía Bắc chùa Na-lan-đà tức ngôi chùa Siêu Nham nổi tiếng. Một trăm linh tám đạo tràng quy mô rộng lớn. So với 8 viện 300 phòng của chùa Na-lan-đà thì chùa Siêu Nham có quy mô lớn hơn, có ưu thế hơn hẳn chùa Na-lan-đà nên chùa Siêu Nham trở thành học phủ cao nhất của Ấn Độ lúc bấy giờ.
Vô thượng Du-già phát triển vào thời đại vương triều Ba-la. Bộ phái này lúc đầu không phải là sở hữu của riêng ai mà là do các học giả Mật thừa lần lượt truyền thừa. Trước đây, có người tên là Tỳ-lưu-ba theo môn phái Thắng Thiên, tức tọa chủ của chùa Na-lan-đà. Sau đó, ông theo học với ngài Long Trí và đạt được Tất-địa[12]. Từ đó về sau, Đàm-tỳ-ê-lưu-ca, Bà-nhật-la-kiền-đà... lần lượt đắc đạo. Lại có Bà-bà-ba, Bà-la-ba, Câu-câu-ra-la-xà, Hỷ Kim Cương... xuất hiện, hoằng dương Du-già và năm bộ của Vô thượng Du-già như “Tập mật”, “Hoan hỉ Kim Cương”, “Minh điểm”, “Huyễn hóa mẫu”, “Diệm-ma-đức-ca” đều lần lượt lưu bố. Đệ tử của Hỷ Kim Cương là Đàn-tỳ-lô-ca cũng truyền các bộ như “Phật đảnh luân”, “Cứu độ mẫu luân”. Vô thượng Du-già về đại thể đã hoàn bị.
Vào hậu kỳ thế kỷ XII Phật nguyên, Đạt-ma-ba-la lên ngôi, xây dựng chùa Siêu Nham, thế lực Mật thừa ngày càng hưng thịnh. Vua rất tôn sùng ngài Trí Túc, đệ tử của Sư Tử Hiền, là người theo phái “Hiện quán trang nghiêm”. Các vị sư Trung quán tu theo pháp Du-già có quan hệ rất mực đối với Mật thừa. Ngài Trí Túc truyền bá rộng ba bộ đầu của Mật thừa và Ngũ chủng nội đạo Đán-đặc-la, rất có công trong việc giải thích về Tập mật. Tuy nhiên, Tập mật có khác về tư tưởng với cựu truyền của Hộ Túc vì Tập mật có hai dòng phái lớn gọi là “Long Mãnh truyền” và “Trí Túc truyền”. Những vị kế tục Trí Túc làm chủ ngôi chùa Siêu Nham có 11 người như Nhiên Đăng Hiền.v.v. gọi chung là “Điều phục pháp Đán-đặc-la A-xà-lê”. Tất cả họ đều duy trì dòng pháp của ngài Trí Túc, chuyên hoằng truyền giáo nghĩa của Vô thượng Du-già như: “Thắng lạc”, “Diệm ma”, “Minh điểm”, “Hoan hỷ Kim Cương”, “Tập mật”. Các học giả Mật thừa ngoài dòng pháp chùa Siêu Nham cũng không ít, như ngài Tịch Hữu thông đạt ba bộ đầu của Mật thừa; ngài Giác Mật, Giác Tịch tinh thông ba bộ đầu mà đặc biệt là tinh thông Du-già bộ. Tất cả họ là những vị sư nổi tiếng lúc bấy giờ.
Vào thời vua Ma-ê-ba-la đời thứ VII, Tỳ-đổ-ba bắt đầu truyền bá “Thời luân Kim cương” và học trò của sư là Thời Luân Túc cũng tiếp tục truyền thừa. Lúc bấy giờ, nền học thuật của Mật thừa phát triển đến tột đỉnh.
Vào thời vua Đồ-na-ca đời thứ XI, các bậc chân tu cao danh thạc đức đông đúc, chùa Siêu Nham hưng thịnh một thời, lại xuất hiện “Lục Hiền môn”. Những gì là Lục Hiền môn? Phương Đông là Bảo Tác Tịch; phương Nam là Trí Sinh Tuệ; phương Tây là Tự Tại Ngữ Xưng; phương Bắc là Na-lộ-ba, sau đó lại có Giác Hiền; Trung ương là Bảo Kim Cương và Trí Cát Tường Hữu. Lục Hiền đều thông hiểu Ngũ minh, chuyên hoằng truyền Mật thừa, lại rất sở trường về pháp “Thắng lạc” của Vô thượng Du-già. Sau này, những nhân vật toà chủ xuất chúng có A-đề-hạp-sư-tư. Na-lộ-ba-sư-tư... và người kế thừa cuối cùng của học phái này là Vô Úy Hiện Hộ thuộc vương triều La-ma-ba-la đời thứ XVII. Do vương triều có nhiều biến động, nền giáo dục không được chăm lo nên thế mạnh chính trị có cơ hồ muốn dứt.
Nhìn chung, thế lực phát triển của Mật giáo là sùng bái quỷ thần để đạt đến cứu cánh. Sự bộ dần dần xuất hiện nhiều chi phái hỗn tạp, người đời sau đã chỉnh lý lại để thu về một mối, phân làm ba bộ là Phật bộ (thượng), Liên Hoa bộ (trung), và Kim Cương bộ (hạ). Phật bộ xem đức Thích-ca là bộ tôn, ngài Văn Thù là bộ chủ; Liên Hoa bộ xem đức A-di-đà là bộ tôn, ngài Quan Thế Âm là bộ chủ; Kim Cương bộ xem ngài Bất Động là bộ tôn, Kim Cương Thủ là bộ chủ. Tuy có ý dung nhiếp cả quỷ thần, nhưng vẫn quan niệm rạch ròi thứ bậc về tôn ti. Trong ba bộ này nếu xét về đối tượng được tôn trọng thì Phật bộ xem đức Phật là Giải thoát tướng; Liên Hoa bộ xem Bồ-tát là Từ bi tướng; Kim Cương bộ xem quỷ thần là phẫn nộ tướng. Người đời chỉ sùng phụng ba bộ này mà thôi. Điều đó có nghĩa là dùng thâm trí Đại thừa của đức Thích-ca và ngài Văn Thù dung nhiếp với đức từ bi, nhu hòa của đức Di-đà, và ngài Quan Âm ở phương Tây (Bắc); phương tiện cùng với đức hùng mạnh của ngài Bất Động, Kim Cương Thủ ở phương Đông (Nam). Hành bộ đã kế thừa tư tưởng này để tổng hợp thành ba bộ, nhưng đức Thích-ca trong Phật bộ được biến thành đức Đại Nhật Như Lai với hình tướng của vị Bồ-tát tại gia (Thiên nhân), Bí mật giáo một lần bị biến đổi.
Đức Phật xuất gia bị biến thành Phật tại gia, cho đó là một con người có khả năng đáng được tôn trọng và xem đức Phật tại gia còn có những khả năng khác của Trời đáng tôn trọng hơn. Đài giữa Mạn-đà-la làm bằng hình ảnh của hoa sen tám lá để biểu tượng cho tâm, ở giữa là đức Đại Nhật Như Lai, bốn phương là bốn vị Phật. Du-già bộ theo thuyết Ngũ phương ngũ Phật mà triển khai thành năm bộ, tức Như Lai bộ, Bảo bộ, Liên Hoa bộ, Nghiệp bộ và Kim Cương bộ. Mạn-đà-la của Du-già bộ dựa vào Ngũ trí trong Nguyệt luân tâm mà hình thành nên ngũ Phật, mỗi một vị Phật hiện ra tướng trạng của Tam luân thân, tức là xem năm vị Phật Đại Nhật (Trung ương), Bất Động (phương Đông), Bảo Sinh (phương Nam), Di-đà (phương Tây), Bất Không (phương Bắc) là Tự tính luân thân; xem năm vị Bồ-tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Hư Không Tạng, Quán Tự Tại, Kim Cương Nghiệp là Chính pháp luân thân; xem năm vị Đại minh vương Bất Động Kim Cương, Hàng Tam Thế, Quân-đồ-lợi, Lục Túc (tức là Diệm-ma-đức-ca), Đại Dạ-xoa Kim Cương là Giáo lệnh luân thân. Từ ba Luân thân, Hành bộ cải đổi thành năm Luân thân, Du-già bộ giải thích năm Luân thân nhưng lại ứng dụng ba Luân thân. Mật giáo xem Như Lai bộ là tối thắng nhưng Như Lai mang hình tướng của một vị Bồ-tát tại gia, hình tướng giữa kẻ Tăng người tục bị đảo lộn, nhưng trật tự giữa người và quỷ thì chưa mất. Các học giả sau này đặc biệt chú trọng đến pháp Điều phục của Kim Cương nên xuất hiện giáo nghĩa Vô thượng Du-già là “Tập mật”, “Thắng lạc”, “Diệm ma”. Song, do các bộ đứng độc lập nhau nên dường như không có một hệ thống liên kết nào. Có người cho rằng, hệ thống của Ngũ bộ lấy bộ thứ sáu của Kim Cương bộ, tức lấy Kim Cương Trì (Vajra-dhara) làm tối thắng, tức không còn xem vị Bồ-tát mang hình tướng nhân thiên mà lấy thân tướng phẫn nộ của quỷ thần, Dạ-xoa làm sở tông. Bí mật giáo lại biến đổi một lần nữa.
Có thuyết cho rằng, vào thời đại vương triều Ba-la, quốc nạn, giáo nạn liên tiếp xảy ra nên đặc biệt chú trọng vào pháp hùng mãnh của Kim Cương để mà khắc chế. Giáo pháp cần phải biến hóa nhưng ý nghĩa vẫn gần với Phật pháp chứ không đi quá xa. Nếu quốc nạn, giáo nạn xảy ra như vậy thì liệu Ngũ đại Kim Cương có khả năng cứu vãn được tình hình ấy không?
Sự bộ
Hành bộ
Du-già bộ
Vô thượng Du-già bộ
Giải thoát, tôn đức Phật làm chủ; dung nhiếp bên ngoài
Từ bi, hòa nhu, tôn Bồ-tát làm chủ; dung nhiếp bên ngoài
Tham sân, tôn quỷ thần làm chủ; tương đồng bên ngoài
sùng bái
quỷ thần
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks