kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: Phân biệt Ăn Chay - Ăn Mặn - Ăn Lạc

  1. #1

    Exclamation Phân biệt Ăn Chay - Ăn Mặn - Ăn Lạc

    Trong chủ đề Thần thông là gì? Làm sao có? chư vị vào tranh luận lệch với chủ đề cả, từ thần thông chư vị chuyển sang ăn uống thì thật là thiện tai thiện tai. Với các chư vị thích chứng tỏ sở học của mình xoáy vào những ý trái chủ đề rồi những thành viên khác tham gia tranh cãi là tất cả loạn lên giúp cho 3 độc nảy sinh, nhưng một khi nói đến điều này chư vị bảo rằng có tranh luận mới biết mình ngu hay dốt và lãnh hội thêm cái mới. Nhưng chư vị cứ khăng khăng giữ cái ý của mình bất chấp mê ngộ thì làm sao lãnh hội được thêm những bài học hay khác. Tranh luận và tranh cãi ranh giới rất mỏng manh, tranh luận mà vượt sang tranh cãi thì tất tham sân si nổi lên. Vào học Phật pháp mà như vậy chư vị khác nào tự thân phạm Pháp.

    Với câu hỏi ma cũng có phép thần thông của Love_Tamlinh thì đây là câu hỏi chất vấn Phật học, Muốn trả lời câu hỏi này phải liễu ngộ kinh lăng nghiêm và hàng phục được ngũ ấm ma. Cho nên câu hỏi này bây giờ không thể trả lời, nếu trả lời sẽ thiếu sót rất nhiều dẫn đến sai với Chánh Pháp. Với câu hỏi này thì Love_Tamlinh nếu có thời gian thì hoan hỷ post vài bài giảng mật tông của các pháp vương cho chư vị ở đây được rõ thêm về họ hàng quyến thuộc của Ma.

    Bây giờ xin quay về đề tài chính : "ĂN"

    Thế nào là ăn chay, thế nào là ăn mặn?Thế nào là ăn lạc

    - Ăn mặn :
    - Ăn lấy sức để hành ác
    - Ăn đến khi nào thấy ăn không nổi nữa thì mới ngưng
    - Ăn với tâm phân biệt ngon dở nóng nguội
    - Ăn không biết nhường lớn nhỏ trên giới
    ...vvv

    - Ăn chay:
    1 - Thọ dụng không thọ lạc (ăn thấy no thì ngưng, không ăn cho đã miệng)
    2 - Sám hối trước khi ăn
    3 - Nguyện độ trước khi ăn.
    4 - Chia sẽ phần ăn cũng mình với tất cả các chúng sanh (thấy con kiến đói cho nó ăn, thấy thằn lằn đói cũng cho nó ăn ...vvv)
    ...vvv

    - Ăn lạc:
    - Chỉ ăn rau cỏ không ăn thức ăn có máu là ăn lạc.

    Chúng ta cứ lầm tưởng ăn rau cỏ là ăn chay mà thật ra đó là ăn lạc(ăn rau cỏ không giữ ngũ giới thì không phải là ăn chay), nếu ăn rau cỏ và tu hành giữ được ngũ giới đó mới là ăn chay.


    Thành thật khuyên chư vị nên ăn lạc, chư vị ăn lạc sẽ gián tiếp không hại chết rất rất nhiều chúng sanh vô tội và vì thế được phước báo vô hình ( chư vị nào tu tịnh động tông chắc rõ thế nào là phước báo vô hình)

    Đối với các chư vị ăn lạc cấm tiệt ăn trứng gà. Mahasattva đã chứng kiến rất nhiều người bị bọn ngoại đạo đưa ra tà kiến xằng bậy dụ ăn trứng gà (trứng gà không trống cũng có máu) sau khi ăn trứng dần dần thì thít mùi tanh, khoái đồ ngon và cơ thể cứ đòi ăn cho đủ chất thế nên chuyển sang ăn thịt lại như cũ.

    Với các chư vị vì lý do bắt buộc phải ăn thịt cá do còn đi làm việc rồi nhậu nhẹt ăn tươi uống tiết chúng sinh thì nên làm như sau :

    - Ăn lạc được thì nên ăn lạc, tốt nhất là nên ăn lạc vào buổi trưa luôn còn sáng và tối thì tùy hỷ.

    - Đứng trước Bồ tát hoặc kinh Phật ở nhà hoặc bàn thờ hoặc nơi chính tâm quỳ lạy 3 lần và nguyện như sau:
    "Tất cả các chúng sanh con ăn nếu vì trả nợ cho con mà bị ăn thì con xin
    xóa bỏ toàn bộ nợ cho các chúng sanh đó cho đến muôn ức kiếp về sau, nếu con ăn những chúng sanh không mắc nợ thì vào những kiếp sau nếu các chúng sanh này có đòi mạng quyết không oán trách. Tất cả các chúng sanh nợ con hoặc con nợ chúng sanh hoặc không nợ thì khi con thành tựu quả vô thượng chánh đẳng chánh giác sẽ độ tất cả các chúng sanh đó thành Phật".

    Sau khi phát nguyện xong thì tất cả món ăn đều là ăn chay, nên nhớ một khi nguyện thì không thể làm trái được, và tốt nhất nên sớm chuyển sang ăn chay trường không dùng thức ăn có máu nữa. Vì theo nguyện đã phát nếu lạm dụng máu thịt của quá nhiều chúng sanh thì khi chết sẽ đẩy thẳng xuống địa ngục mà thọ cho bằng hết khổ sau đó mới được hưởng phần công đức và phước báu hoặc được sanh thiên và nghe Phật thuyết giảng, hoặc về cõi tịnh độ. Nhưng chắc chắn là xuống địa ngục trước. Chư vị nào đã chuẩn bị tinh thần thì hãy phát nguyện nhá.

    Chư vị chắc đã rõ chay mặn lạc rồi. Nhưng chỉ cho chư vị cách ăn chay dễ nhất nè. Chư vị ăn thoái mái nhưng trước khi ăn nhẩm câu này

    Không làm các việc ác
    Chỉ làm các việc lành
    Máu thịt chúng sanh đây
    Là cha mẹ ta cả.

    Lúc đó chư vị tự biết nên ăn rau cỏ hay ăn những miếng thịt từng là cha mẹ mình trong vô lượng kiếp.

  2. #2

    Mặc định

    Kình
    Đệ nghe nói còn có định nghĩa về "ăn trai " nữa
    Bát Quan Trai Giới căn cứ theo Kinh luận, bất kể hàng tại gia đã quy y Tam Bảo hay chưa, bất kể là người học pháp Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, đều có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Ðây là điểm đầu tiên chúng ta nên biết.

    Bát Quan Trai Giới thông thường cho rằng thọ vào các ngày lục trai nhật, nhưng căn cứ theo Luật điển thì không cứ phải vào ngày lục trai (sáu ngày ăn chay). Ngay cả những ngày vía chư Phật, Bồ Tát, những ngày vía sanh hay kỵ của cha mẹ hay của sư trưởng, hoặc ngày sanh của mình, thường tụng niệm làm công đức, cũng có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Ðây là điểm thứ hai chúng ta nên biết.

    Bát Quan Trai Giới thông thường cho rằng thích hợp nhất là phải đến chùa chiền, chốn đạo tràng thanh tịnh, xa lánh trần tục, thỉnh một vị Tăng truyền thọ, nhưng cũng có thể tự mình thọ giới tại gia, bằng cách mời một vị Tăng đến nhà truyền giới. Nói đúng hơn, người nam đến chùa thọ giới thì tốt, còn người nữ thọ giới tại nhà tiện hơn. Ðây là điểm thứ ba nên biết.

    Bát Quan Trai Giới tuy là danh từ rất quen thuộc với chúng ta, nhưng trong Kinh Phật Thuyết Trai, Đức Phật vì phu nhân Duy Da phân biệt có ba loại:

    - Mục Ngưu trai,

    - Ni Kiền trai,

    - và Phật Pháp trai.

    Nhưng không có nghĩa là có tất cả ba loại Bát Quan Trai Giới khác nhau, mà do cách dụng tâm của người thọ giới mà phân biệt xếp loại, hợp với tinh thần thọ trai của Phật pháp mới là Bát Quan Trai Giới của Phật giáo. Ðây là điểm thứ tư nên biết.

    Nguyên nhân Phật nói Kinh Phật Thuyết Trai: Do có một lần Đức Phật trụ ở nhà thừa tướng tại Xá Vệ thành. Sáng sớm hôm đó, mẹ thừa tướng là bà Duy Da phu nhân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, dẫn con cháu đồng đến chỗ Phật lễ lạy. Ðức Phật hỏi: “Sáng sớm đến có việc gì không?” Duy Da phu nhân thưa: “Chúng con chỉ muốn thọ Trai Giới”. Ðức Phật dạy: “Các vị phát tâm muốn thọ Trai Giới, điều này rất tốt và rất khó được, nhưng có ba thứ là Mục Ngưu trai, Ni Kiền trai và Phật pháp trai. Vậy quý vị muốn thọ thứ nào?” Phu nhân Duy Da không hiểu ba loại này khác nhau chỗ nào, xin Phật chỉ dạy. Ðức Phật vì vậy giải thích chỗ sai biệt của ba loại.

    Thứ nhất, Mục Ngưu Trai, các vị vừa nghe tên này đã lấy làm ngồ ngộ. Thật ra đây là thí dụ: Như người chăn bò, mỗi ngày ra đồng chăn bò, đến chạng vạng trở về, trong lòng luôn nghĩ: chỗ nào có cỏ nước nhiều, ngày mai đến chỗ ấy chăn cho bò được no nê, có vậy mới thấy bớt cực nhọc, và không thấy chăn bò là khổ. Người chăn bò thường như vậy. Cũng thế, một số người phát tâm thọ trai theo Phật một ngày một đêm, nhưng sau khi thọ giới, không chịu cố gắng thành tâm thọ trì các giới, trong lúc thọ trai lòng luôn sinh vọng tưởng: “Tôi hôm nay thọ Trai Giới, cái gì cũng bị hạn chế không được hưởng thụ, ngày mai phải hưởng bù chút dục lạc để vớt vát lại ngày hôm nay phải chịu nhịn”. Thọ giới, không lưu tâm đến các giới thọ, mà chỉ đặt tâm vào sự hưởng lạc ngày mai, như vậy không phải là chân chánh thọ giới. Tỷ dụ như các vị hôm nay thọ giới, nghiêm trì giới quá ngọ không ăn. Giả như có người nghĩ chiều nay không ăn cũng được; ngày mai về nhà ăn bù lại một bữa cho đã. Như thế, dưới con mắt đại trí của chư Phật, đó là thọ Mục Ngưu trai, không phải đệ tử Phật thọ giới chân chính.

    Thứ hai, Ni Kiền trai: Ni Kiền Tử là một thứ ngoại đạo ở Ấn, thường gọi là Ly Hệ Ngoại Ðạo (lìa trói buộc). Họ có phương pháp tu của họ. Hơn nữa, mục đích dụng công tu của họ cũng để ra khỏi sự trói buộc của sanh tử tam giới. Nhưng, dẫu rất tinh tiến dụng công tu hành, vẫn không kiếm được con đường chân chánh, kết cuộc chẳng sao tìm được sự giải thoát các thứ trói buộc. Do họ chuyên tu khổ hạnh, như trời nắng như thiêu, phơi mình dưới sức nóng bỏng của mặt trời; trời lạnh thì nằm ngoài sương giá chịu rét, hoặc bôi tro, trét bùn trên người. Nhiều người thấy vậy cho là hy hữu, khó được. Dưới mắt đức Phật thì chỉ là sự khổ hạnh vô ích, chả có chút lợi ích gì nơi sự giải thoát sanh tử, cũng không chút công hiệu với việc thể ngộ chân lý. Họ thọ Trai Giới vào các ngày Rằm mỗi tháng. Khi thọ Trai Giới, nằm xoài ra đất, nói với chư thần trong mười do tuần rằng: “Tôi hôm nay thọ giới, không còn dám làm các việc không như pháp, không hợp lý nữa. Tôi nay rời gia đình, đồng với không có nhà. Vợ con, nô bộc trong nhà nay không là của tôi, tôi cũng không phải là chủ của họ”. Như vậy, không khác Bát Quan Trai Giới cho lắm, chỉ không kê khai từng điều giới tướng mà thôi. Họ tuy miệng nói như thế, nhưng không thiết thật thực hành, chỉ phô bày bên ngoài làm hài lòng tai mắt thiên hạ, thật thì khi người dối mình, kết quả vẫn đắm chìm trong biển sanh tử. Người phát tâm thọ giới nếu trong ngày thọ giới không buông bỏ được hết, hay lợi dụng ngày này thực tiễn tu tập pháp, thì khác gì Ni Kiền Tử thọ giới. Qua hôm nay rồi, ngày mai mọi việc lại vì Ta (Ngã). Ðâu phải là Trai Giới nên thọ của người học Phật.

    Thứ ba, Phật pháp trai: Chính là Bát Quan Trai Giới chúng ta đang đề cập đến hôm nay, trong Luật điển có nhiều tên gọi khác nhau. Ðơn giản nhất là Bát Giới, có nơi gọi là Bát Chi Giới, thông dụng nhất là Bát Quan Trai Giới. Nay lược giảng danh nghĩa như sau:

    Bát trong Bát Quan Trai Giới là số mục. Tại sao lại là tám (bát)? Vì khi thọ giới này, đề phòng và ngăn chận tám việc, nên gọi là tám nhánh (bát chi) hay tám phần (bát phần), tức là: Tám pháp ngăn che này, có khi gọi là Giới, có khi gọi là Trai, hoặc gọi là Quan. Vì sao? Trong Phật pháp, Giới có nghĩa là ngừa quấy ngăn ác (phòng phi chỉ ác). Như hai nghiệp thân, khẩu: Thân có ba là sát sanh, trộm cướp, dâm dục; khẩu có bốn là hai lưỡi, ác khẩu, nói điêu, thêu dệt. Tổng cộng bảy chi đều là việc quấy. Các việc quấy ác này, sau khi thọ Bát Quan Trai Giới, nơi thân tâm sẽ phát sanh sức mạnh hoặc tác dụng có thể ngăn chặn được tám việc xấu. Như tội sát sanh, nếu không thọ Trai Giới, ắt sẽ sát sanh thẳng tay, không chút suy nghĩ; nhưng khi thọ giới rồi, khi sắp sát sanh, Giới nơi tâm sẽ phát sanh một sức mạnh bảo mình rằng: “Không nên giết, không được giết!” Nhờ vậy mà chặn đứng được việc làm sát sanh hại mạng kia, phải biết đó chính là sức mạnh và tác dụng của Giới.

    Quan, giải theo chữ có nghĩa là “đóng”, hàm nghĩa người thọ Bát Giới này không còn làm bất cứ việc ác hại nào nên cánh cửa của tam ác đạo bị đóng chặt lại, không còn có thể vào trong ba đường dữ nữa. Té ra, ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều có cửa để vào. Bình thường, cánh cửa tam ác đạo luôn khép kín, bất cứ ai muốn tiến vào đều phải mở lấy, nhớ rằng không ai mở giùm mình ngoài chính mình tự mở. Ðằng sau cánh cửa, rõ ràng toàn là điều khốn khổ, sao lại tìm đến? Cũng chỉ vì không tự chủ được mình, tạo bao điều ác nghiệp, cánh cửa tam ác đạo kia tự mở, rồi mình bước vào hồi nào không hay, chịu bao điều quả báo khó kham. Hiện nay, thọ Bát Quan Trai Giới rồi không tạo các tội ác nữa, đừng nói cửa tam ác đạo chưa mở, chúng ta quyết không đến mở, mà ngay đến cửa này có mở rồi, ta cũng đóng nó lại để có muốn vào, vào cũng không được. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng: Cửa tam ác đạo mở là do tự ta mở bằng cách gây biết bao tội lỗi. Và cũng do chính chúng ta đóng bằng cách tu các thiện pháp, tạo bao việc lành. Cho nên tục ngữ có câu: “Họa phúc không cửa, do ta tự mời” (Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu). Hay còn nói: “Thiên đường có lối không ai đến, địa ngục không cửa vẫn tự vào” (Thiên đường hữu lộ nhữ bất tẩu, địa ngục vô môn nhữ tự khai). Nên đã là đệ tử Phật, chẳng những không nên đi mở cửa tam ác đạo mà còn phải đi đóng cửa này lại, có vậy mới hợp với ý thú học Phật.

    Trai”, thường giải thích như sau: Vì tư tưởng con người từ sáng đến tối tạp loạn không dừng, khi nghĩ đến này, lúc tưởng đến kia, không bao giờ ngừng nghỉ. Hiện tại, vận dụng một phương pháp khiến các tư tưởng tạp loạn được chuyên chú vào một cảnh, không còn lăng xăng, rối loạn. “Trai” còn có nghĩa thanh tịnh, như thế tục thường có Trai Thái Quán (tiệm chay), vừa bước vào đã thấy thật thanh khiết. Phải biết hoàn cảnh thanh khiết rất quan trọng, như đến nơi nào sạch sẽ, vẫn thấy thư thái; nếu chỗ dơ dáy, ắt sanh tâm nhờm gớm. Nội tâm con người thường nhận thức và cảm giác như vậy trước cảnh bên ngoài. Sở dĩ gọi Trai là “thanh tịnh” bởi vì Trai Giới có thể giúp cho tâm được thu nhiếp tịch tĩnh, đoạn được hết mọi tội lỗi, phát sanh được sức phòng hộ căn môn. Căn môn là cửa của sáu căn. Thế gian đầy dẫy tội ác đều do sáu cửa này tạo ra. Như mắt thấy Sắc, thích thì khởi lòng tham, ghét thì khởi lòng sân, rồi đưa đến hành động hoặc chiếm hoặc bỏ, gây ra bao tội ác. Nếu muốn không tạo ác, phải tìm cách thủ hộ, đề phòng căn môn, đừng để cho nó chạy theo cảnh giới bên ngoài. Có vậy mới dứt trừ hết được các tư tưởng tạp loạn, xa rời các thứ gây đến lỗi lầm, không còn bị tà dục ở thế gian ô nhiễm. Chính vì Trai có nghĩa là thanh tịnh, nên hàng kẻ sĩ và thục nữ thích gọi tịnh thất hay thư phòng mình là “trai”, biểu thị siêu nhiên thoát tục, không bị nhiễm thế.

    Như trên đã giảng, chư vị đã hiểu danh từ “Trai Giới” gốc từ Trung Quốc. Các điển lễ trong sách xưa ghi: “Trai giới để thưa với quỷ thần” (Trai giới dĩ cáo quỷ thần); cho nên, người xưa trước khi cúng quỷ thần phải trai giới, tắm rửa cho sạch sẽ. Lúc tu trai tức phải có giới, cho nên gọi chung là “Trai Giới”. Ðặc tánh của Trai là tẩy sạch nội tâm, không để cho các ý niệm bất tịnh tồn tại. Năng lực của Giới ở chỗ phòng hoạn, không để cho các hành vi bất chánh được hoạt động.

    Trai theo Ấn có nghĩa Bố Tát hoặc Bao Sà Ðà, bao gồm hai ý nghĩa “tịnh trụ” và “trưởng dưỡng”. Cư sĩ tại gia vào các ngày lục trai, thọ Bát Quan Trai Giới để trừ khử dần các ác pháp, đồng thời tu tập thêm các pháp lành, thiện pháp mỗi ngày mỗi tăng, ác pháp mỗi ngày mỗi giảm, nhờ vậy, thân tâm mới trụ nơi thanh tịnh, không bị trụ trọn ngày nơi phiền não và tội nghiệp, vì vậy gọi là “tịnh trụ”. Thứ nữa, hàng tại gia học Phật, nhờ thọ bát vào các ngày lục trai, thiện pháp mỗi ngày mỗi tăng trưởng, bởi lẽ bất kỳ ai nếu muốn công đức được trưởng dưỡng, bắt buộc phải tu tập không ngừng. Nếu nay tu mai nghỉ, ắt không sao trưởng dưỡng. Trong Trí Ðộ Luận, ngài Long Thọ dạy: “Hành thọ Bát Giới, đó là Bố Tát, Tần gọi Thiện Túc”, ý nói: Bố Tát còn dịch là Thiện Túc, nghĩa là thọ trì Bát Giới, khéo an trụ nơi pháp thanh tịnh, không còn bị dục nhiễm trần lao quấy phá, nên gọi là “thiện túc” (khéo trú).

    Liên quan đến vấn đề này, trong Trí Ðộ Luận ghi: “Thọ hành tám giới, tùy học các Phật pháp, gọi là Bố Tát, nguyện giữ phúc đức này, đời đời không đọa ba ác (1), tám nạn” (2). Ý nói: Người học Phật tại gia phát tâm thọ trì, phụng hành tám giới, tự nhiên có thể tùy thuận học hết mọi Phật pháp; tu học và phụng hành Phật pháp như vậy gọi là Bố Tát. Phúc đức Bố Tát này nguyện hồi hướng đời đời kiếp kiếp không đọa ba ác, tám nạn.
    Ba ác, tám nạn nói theo Phật pháp là không mỹ mãn, không lý tưởng. Khổ như ba ác không lý tưởng đã đành, mà đến những nơi sung sướng tợ thiên đường hay Bắc Câu Lô Châu, dù kiếp sống rất thỏa thích, nhưng vì không có cơ hội tu học Phật pháp, nên không những không được cho là chỗ tốt lành, mà ngược lại còn bị coi là nơi hoạn nạn nữa! Phải biết điều quan trọng nhất của học Phật là có cơ hội tu học, nếu sanh vào lúc không có Phật pháp, thử hỏi làm sao y pháp tu hành được? Cho nên sau khi thọ hành tám giới, nên phát nguyện do công đức này, không còn đọa vào ba đường tám nạn. Do đó chứng minh tám giới của Phật pháp, bất luận ở Luật hay Luận đều gọi là Bố Tát, còn có thể thêm chữ Hộ gọi là Bố Tát Hộ. Hộ có nghĩa là “thủ hộ”, chỉ sự gìn giữ tự tâm, ý nói: người phát tâm thọ trì tám giới phải khắc khắc thủ hộ tự tâm, vì tâm là đầu mối của tội họa, tội ác nào cũng do từ tâm ra. Nếu khéo hành đúng tinh thần tám giới, luôn luôn phòng giữ tự tâm, ắt không phát triển ác nghiệp nữa, cho nên gọi là Bố Tát Hộ. Thọ trì Bát Quan Trai Giới dĩ nhiên không chỉ chuyên phòng hộ nội tâm, mà phòng hộ cả thân khẩu nữa, chính vì vậy các bậc cổ đức thường bảo: “Nơi tâm gọi Hộ, nơi thân khẩu gọi Giới”.

    Còn có Trai của Bát Quan Trai Giới, có người còn bảo quá ngọ không ăn gọi là “trì trai”. Do nghĩa này làm tự thể của Trai, thậm chí các giới trước như bất sát… chẳng qua chỉ trợ thành trai thể mà thôi. Lại có người bảo ăn chay trường là trường trai, ăn chay sáu ngày là hoa trai. Ðâu biết “trai” của trường trai, hoa trai chẳng ăn nhập gì với “trai” của Bát Quan Trai, lại cũng chẳng quan hệ gì với giới “ăn ngọ”. Vì không ăn quá ngọ chỉ là duyên phòng phạm, cùng trai thể vô can.

    Trong kinh đức Phật dạy: Căn cứ vào truyền thuyết của các tôn giáo Ấn, thế giới này khi mới thành lập gọi là Kiếp Sơ, có rất nhiều ác thần, ác quỷ có nhiều thế lực, thường ở thế gian hút lấy tinh khí của con người vào các ngày lục trai. Sự tồn vong của sinh mạng dựa vào sự duy trì của tinh khí, mà hễ tinh khí này bị rút mất, ắt sự sanh tồn phải bị đe dọa. Vì vậy, ai nấy cũng vì sự sanh tồn mà sanh tâm đề phòng. Bấy giờ, có một vị đại trí huệ muốn trừ sạch các mối nguy này, nên bảo mọi người rằng: “Ðừng sợ sệt, đã có biện pháp. Chỉ cần mọi người cứ vào sáu ngày trai, không ăn nguyên ngày cho tâm tịch tĩnh, thân được tiết chế; nhờ vậy, ác thần, ác quỷ không sao hút được tinh khí. Tinh khí được bảo toàn, mạng sống không phải lo mất!”

    Như thế, thuở giờ bên Ấn đã có lục trai nhật; hơn nữa, vào lục trai nhật còn không ăn bất cứ gì. Sau này khi Phật xuất thế, ngài thấy phương pháp lục trai nhật có thể duy trì, song cần phải sửa đổi để thích hợp với Phật pháp, nên thay vì “không ăn” đổi thành “quá ngọ không ăn”, gọi là “không ăn phi thời”. “Phi thời” ý chỉ sau 12 giờ, qua giờ đó thì không ăn nữa, đó là một trong Bát Giới.

    “Không ăn phi thời” đã là một trong tám giới, đương nhiên không phải là trai thể, ai bảo đó là trai thể tức ngộ nhận đó vậy. Nhưng có thể có người bảo: “Ăn cơm đâu phải là tội ác, không phải giờ mà ăn thì có sao đâu?” Phải biết rằng ăn uống là duyên tăng thượng trầm luân sanh tử của chúng sanh, do đó không nên xem thường. Tại sao ăn uống lại là tăng thượng duyên cho sự trầm luân sanh tử của chúng sanh? Chúng ta thường hay nói: “Ăn no ấm cật sanh tà vạy”. Ðời sống người nào quá đầy đủ, ăn ngon, hưởng đủ hay sanh chuyện nghĩ bậy. Ðể giúp ta thanh tịnh, ít dục, đức Phật chế quá ngọ không ăn để tiết chế sự tham ăn không cho tăng trưởng, ngăn chặn ác pháp không để lan rộng. Cho nên Ðạo Tuyên Luật Sư bảo là: “Duyên phòng đó vậy” rất đúng. Nếu bảo giới “không ăn phi thời” là trai thể, các giới khác là trợ thành trai thể thì không hạp với nghĩa trên. Chúng ta phải hiểu cho rõ điểm này. Nếu không thọ trì Bát Quan Trai Giới, chỉ mải lo đặt nặng vấn đề “không ăn phi thời” mà xao lãng các giới kia, như vậy không hợp với tinh thần của Bát Giới.

    Bát Quan Trai Giới còn gọi là Cận Trụ Luật Nghi, hay Trưởng Dưỡng Luật Nghi. Ý nói: Người phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới thiện căn ban đầu vốn rất nhỏ nhưng lâu ngày sẽ tăng trưởng nhờ thọ tám giới. Hoặc có thể nói như vầy: Người học Phật tại gia khéo phát tâm thọ trì tám giới, huân tập công đức này không ngừng, lâu dần căn lành xuất gia càng tăng trưởng. Bởi vì thọ Bát Quan Trai Giới chủ yếu để tập đời xuất gia, tuy chỉ trong một ngày một đêm; nếu một tháng thọ một lần hay nhiều lần ắt sẽ huân tập và trưởng dưỡng căn lành xuất gia. Cho dù vốn không có ý niệm xuất gia, do vì thường thọ Bát Quan Trai Giới, chịu sống đời xuất gia, lâu ngày sẽ cảm nhận được đời xuất gia rất hợp với mình. Do vậy, ắt tự nhiên nghĩ rằng tại gia chẳng bằng xuất gia. Ðó chính là trưởng dưỡng căn lành xuất gia. Bởi vì khéo trưởng dưỡng như vậy, nên đức Phật còn gọi Bát Quan Trai Giới là Trưởng Dưỡng Luật Nghi.

    Còn tại sao gọi là Cận Trụ Luật Nghi? Nói giản lược là do vì thân cận Tam Bảo, an trụ ở đạo tràng của Tam Bảo, chịu sự huân tập của tư tưởng Tam Bảo, như chư vị hiện đang trụ ở đạo tràng này vậy. Nói rõ hơn có ba nghĩa:

    1. Thứ nhất, cận thời nhi trụ (ở thời gian ngắn). Ý nói: Chỉ thọ giới trong một ngày đêm; xét về mặt thời gian, chỉ trụ trong một thời gian quá ngắn tạm, trong vòng 24 giờ. Vì vậy gọi là Cận Trụ Luật Nghi.

    2. Thứ hai, cận tận thọ giới trụ. Chúng xuất gia, bất luận là tỳ kheo hay sa di, không thọ giới thì thôi, như phát tâm thọ giới tất phải cả đời trì giới. Như hôm nay thọ giới Tỳ Kheo rồi thì phải giữ cho đến khi thọ mạng hết, giới thể mới lìa thân. Trước lúc chết, chỉ cần đừng phá giới căn bản, giới thể luôn tại thân tâm, có tác dụng phòng quấy ngăn ác, cho nên hàng tứ chúng xuất gia phải giữ giới đến chết. Bát Quan Trai Giới tuy chỉ tạm thời một ngày đêm, nhưng đó là quy tắc xuất gia tạm thời cho hàng nhị chúng tại gia, tuy chưa xuất gia, song vẫn tạo được thắng nhân cho giới xuất gia tận hình thọ. Bởi vì từng lần từng lần thọ trì, huân tập, không ngừng tăng trưởng căn lành xuất gia; dần dà nhận thấy thọ từng lần chẳng bằng một lần xuất gia thọ Ðại Giới đến trọn mạng sống. Như vậy đủ thấy Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm tợ hồ rất ngắn, nhưng rất gần với giới xuất gia một đời, nên còn có thể gọi là “phương tiện ban đầu” cho giới xuất gia trọn đời. Vì vậy gọi là Cận Trụ Luật Nghi.

    3. Thứ ba, cận A La Hán trụ. Ý nói: Thọ Bát Quan Trai Giới học tập đời xuất gia, đó là hành môn của A La Hán, nên thọ giới chính là tu học A La Hán. Như thường tu học A La Hán pháp, người thọ hành Bát Quan Trai Giới này, chẳng bao lâu, trong tương lai ắt chứng được A La Hán quả. Tuy hôm nay còn là một kẻ phàm phu, song nhờ thân cận chỗ A La Hán, cùng A La Hán gần gũi, nên gọi là Cận Trụ Luật Nghi.

    Danh nghĩa của Bát Quan Trai Giới tóm tắt giải nghĩa như vậy. Chúng ta có thể thấy rõ ràng: tu Bát Quan Trai Giới trong vỏn vẹn có một ngày một đêm, thanh tịnh thân tâm, phòng hộ giữ mình. Tuy chưa xuất ly tam giới ngay được, nhưng nhờ nương công đức Trai Giới này, gieo trồng hạt nhân xuất thế thù thắng; tương lai chắc chắn được giải thoát. Học Phật mục đích quan trọng và lớn nhất chính là sự giải thoát dứt sanh tử, như nếu chưa đạt được giai đoạn này thì rồi sẽ lại bị chìm đắm trong biển sanh tử mãi không ngày ra. Chư Phật vì muốn hóa độ chúng sanh nên đặc biệt chỉ bày pháp môn hy hữu, phương tiện tối thắng này. Mong chư vị thọ giới không nên xem thường đó vậy!

    ________________________

    (1) Ba ác: tức tam ác đạo gồm súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục.

    (2) Tám nạn: Tám sự chướng ngại việc gặp Phật, nghe Pháp nên gọi là Nạn, gồm: Ðịa ngục; ngạ quỷ; súc sanh; Uất Ðan Việt (còn gọi là Bắc Câu Lô Châu), nơi đây thọ báo khoái lạc, không còn sự khổ; Trường Thọ Thiên (chỉ Sắc Giới và Vô Sắc Giới), nơi đó được an ổn trường thọ; đui điếc câm ngọng; thế trí biện thông: trí thông minh của thế gian; Phật tiền Phật hậu: sanh ra trước hay sau đời có Phật.

    Phẩm Phương Tiện kinh Duy Ma Cật nói: “Khi Bồ Tát thành Phật, nơi quốc độ không có ba ác và tám nạn”. Tịnh Tâm Giới Quán Pháp nói: “Gốc sanh 448 thứ bệnh do nơi ăn đêm, gốc sanh ba ác tám nạn do nơi nữ nhân”.



    Trích
    BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG/Chương 2 Chú Thích Danh Nghĩa
    Pháp -sư Diễn Bồi soạn
    Thầy Thích-Thiện-Huệ dịch Việt
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  3. #3

    Mặc định

    ĂN CHAY
    Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
    (Phật Học Tinh Yếu)





    Tiết II
    Những Ngày Chay
    Ăn chay có hai phương diện: chay kỳ và chay trường. Ăn chay trường hay trường trai là hành giả tự nguyện suốt đời dùng chất thanh đạm, không thọ dụng đồ huyết nhục. Ăn chay kỳ thì có những thuyết: Nhị trai, Tứ trai, Lục trai, Thập trai, Nhứt ngoạt trai, Tam ngoạt trai.

    Nhị trai là ăn chay mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và rằm. Tứ trai là ăn bốn lần chay trong tháng, vào ngày mùng một, mùng tám, rằm, hăm ba (hoặc ba mươi, mùng một, mười bốn, rằm). Nhứt ngoạt trai là ăn chay luôn trong một tháng, vào tháng giêng, tháng bảy, hay tháng mười. Cách thức ăn chay như trên, thật ra không có điển cứ, chẳng qua là bước tập lần để đi đến trường trai mà thôi. Bởi ăn chay dù rằng hữu ích và hợp lý, nhưng cũng tùy theo hoàn cảnh và căn cơ, không phải người Phật tử nào cũng có thể bỏ ăn mặn liền trong một lúc được. Vì muốn đạt mục đích trường trai, có người không y theo lệ trên, mỗi tháng tập ăn chay từ năm, mười, mười lăm ngày, lần lần cho đến trọn tháng.

    Lục trai là ăn chay trong các ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tháng thiếu 28, 29). Theo kinh Tứ Thiên Vương thì vào những ngày đó, Tứ Thiên Vương xem xét việc lành dữ của nhơn gian, và các ác quỷ cũng rình rập chờ người làm ác để gia hại. Nên trong mấy ngày ấy, mọi người cần phải giữ gìn ba nghiệp không nên làm ác. Thêm vào đấy, nếu kẻ nào biết trì trai, giữ giới, tụng kinh, tu phước, sẽ được tránh khỏi nạn tai, tăng phần phước huệ. Luận Trí Ðộ nói: "Tại sao trong sáu ngày trai, cần phải thọ tám giới và tu phước? Bởi vào các ngày ấy ác quỷ rình theo người muốn gia hại, gây những việc tật bịnh hung suy. Vì thế nên thuở kiếp sơ, trong mấy ngày đó, thánh nhơn dạy người trì trai, tu phước, làm lành. Nhưng cách trì trai khi xưa chỉ lấy trọn ngày không ăn, gọi là trai. Ðến khi Phật ra đời, chế lại cho thọ Bát quan trai giới trong một ngày đêm, và lấy quá ngọ không ăn làm trai. Ðức Thế Tôn đã bảo: - Nên như chư Phật, thọ trì tám giới và không ăn quá ngọ trong một ngày đêm. Công đức ấy sẽ đưa người mau đến niết bàn!"

    Thập trai là ăn chay mười ngày trong mỗi tháng. Kinh Ðịa Tạng, phẩm Như Lai Tán Thán nói: "Nầy Phổ Quảng! Trong các ngày: mùng 1, mùng 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29) của mỗi tháng, các tội được kết tập để định phần khinh trọng. Nếu chúng sanh đời sau, vào mười ngày trai, đối trước tượng Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh, tụng kinh nầy một biến, thì mỗi phương đông, tây, nam, bắc, trong vòng 100 do tuần, không các tai nạn".

    Tam ngoạt trai là ăn chay trong tháng giêng, tháng năm, tháng chín. Thuyết nầy phát xuất trong các phạm điển như: kinh Phạm Võng, kinh Ðề Vị, bộ Hành Sự Sao Tư Trì Ký. Kinh Phạm Võng nói: "Trong sáu ngày trai và ba tháng trường trai, nếu sát sanh, trộm cướp, phá trai, phạm giới, phạm tội khinh cấu (đối với người thọ giới Bồ Tát). Kinh Ðề Vị bảo: "Vào ngày mùng một tháng giêng, mùng một tháng năm, mùng một tháng chín, chư thiên Ðế Thích, Thái tử sứ giả, nhật nguyệt quỉ thần, Diêm La ở địa ngục, trăm vạn chư thần an bố khắp nơi. Vì trừ tội danh, định phước lộc, mọi người cần trì trai trong ba tháng ấy". Trong Tư Trì Ký cũng có nói: "Trong tháng giêng, tháng năm, tháng chín, nghiệp cảnh ở cõi u minh theo vòng xoay chiếu đến châu Nam Thiệm Bộ. Người đời có bao nhiêu việc thiện ác, thảy đều hiện bóng rõ trong gương. Lại trong mấy tháng đó, Tứ thiên vương tuần thú đến Nam Châu, cũng là lúc ác quỷ đắc thế, vì vậy nên phải trì trai, tu phước".

    Theo như trên, thì thuyết Lục trai, Thập trai và Tam ngoạt trai đều có điểm cứ. Nhưng để cho đúng với nghĩa trai, thì trong các ngày tháng ấy chẳng những ăn lạt, mà còn phải không ăn quá ngọ mới phù hợp lời Phật dạy, và có lẽ được nhiều công đức hơn. Lại theo kinh Phạm Võng, đức Phật bảo không nên dùng ngũ tân gia vị vào thức ăn, vì những thứ ấy làm cho thân thể hôi và dễ sanh các phiền não như ái dục, sân hận... Như thế thì muốn cho sự tu phước thêm phần toàn vẹn, vào ngày Lục trai hay Thập trai, người Phật tử nên thọ trì Bát quan trai giới, song phải ăn lạt và không dùng ngũ vị tân. Thọ trì Bát quan trai giới là giữ tám giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không trang điểm, không tự hành và cố ý xem nghe ca múa âm nhạc, không ngồi nằm chỗ cao rộng sang đẹp; và giữ một phép trai là không ăn quá ngọ. Tám điều trước duy thuộc về giới, vì có công năng đóng ngăn cửa ác, nên gọi là Bát quan. Một điều sau gồm nghĩa trai và giới mà trai là phần chánh, nên mới thêm chữ "trai" sau hai chữ Bát quan. Như thế, tổng hợp lại chín điều gọi là Bát quan trai giới. Và đây là nghĩa giải thích của Trí Ðộ Luận.

    Về việc trong những ngày tháng Lục trai, Tam ngoạt trai ác quỷ đắc thế, có thuyết nói vào thời gian ấy các ngoại giáo bên Ấn Ðộ thường theo thông lệ giết sanh vật cúng tế thần linh, hoặc cắt lấy máu thịt nơi thân để làm phép hộ ma. Và bởi duyên cớ đó, những ác quỷ cũng y theo lệ mà đi tìm ăn đồ huyết nhục. Do sự kiện nầy, vào các ngày trên, đức Phật khuyên đồ chúng nên giữ trai giới không được sát sanh, để phản ảnh phong thái từ bi của thánh đạo. Nếu quả như thế thì sự ăn lạt vào các ngày trai lại càng hợp lý hơn.

    Ăn chay đã vâng giữ theo lời Phật dạy, có lợi ích, hợp tình lý như trên, thì tất cả Phật tử đều nên tùy hoàn cảnh, khả năng tập lần, để tiến bước lên đường phước huệ. Ðiều cần yếu là khi ăn phải từ nơi cơ bản thiết thật của nó, không nên vì mê tín phi lý, vì háo danh muốn được tiếng khen mà ăn, hoặc sanh lòng kiêu mạn trở lại khinh người ăn mặn. Lại ăn chay phải hợp vệ sinh, biết chọn lựa thay đổi thức ăn, không nên ép xác cố ăn một cách quá kham khổ. Cũng không nên nấu chay giả thành đồ mặn mà làm trò cười cho thế gian.
    Trích TVHS
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  4. #4

    Mặc định

    BÁT QUAN TRAI GIỚI
    I. Ý NGHĨA
    Mục đích của người tu theo đạo Phật là cầu giác ngộ và giải thoát. Nhưng nếu có trần sự bận rộn tâm trí, thì không thể nào đạt mục đích ấy được. Cho nên, không luận đại thừa hay tiểu thừa, chỉ có một con đường duy nhất là xuất gia.

    Xuất gia là thoát ly hẳn những gì bận rộn ô nhiễm, thúc phược thân lẫn tâm. Xuất gia có ba nghĩa:

    1. Xuất thế tục gia (thoát ly nhà thế tục): Nghĩa là thoát ly gia đình, vợ con, chức vụ, tất cả những gì ở thế tục này.

    2. Xuất tam giới gia (thoát ly nhà ba cõi): Nghĩa là phát tâm tu hành theo vô lậu nghiệp, hầu mong chứng đến quả vị tam thừa, tứ quả. Không tham cầu những phước báo sang giàu nhàn tịnh hữu lậu trong ba cõi dục, sắc và vô sắc giới.

    3. Xuất phiền não gia (thoát ly nhà phiền não): Nghĩa là phát tâm hướng về quả vị vô thượng Phật đà. Đoạn sạch tất cả phiền não tham sân si mạn v.v... Thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. "Địa ngục chưa không, thề chẳng thành Phật". Không tham cầu quả vị Thanh văn niết bàn tự lợi.

    Quả vị cao rộng mênh mông mà đường đi chỉ có một là xuất gia. Chúng sanh vì nghiệp hạnh bất đồng, căn cơ sai khác, không thể nào ai cũng xuất gia được. Với lòng từ bi vô hạn, đức Phật muốn cho các hàng đệ tử Ngài, dù mau dù chậm, cuối cùng cũng sẽ đạt đến mục đích cứu cánh là giác ngộ và giải thoát như Ngài. Cho nên, Ngài chế ra nhiều lối xuất gia như:

    Đồng chơn xuất gia (xuất gia suốt đời từ khi còn nhỏ).

    Bán thế xuất gia và xuất gia theo kỳ hạn phát nguyện.

    Cuối cùng là xuất gia trong một ngày đêm 24 tiếng đồng hồ, tức là thực hành theo Bát quan trai giới này vậy.

    Bát quan trai giới nghĩa là tám cửa trai giới. Những người tại gia trong mỗi tháng vào những ngày trai như : mồng 8, 14, 15 v.v... bỏ tất cả những sự bận rộn ở thế tục vào chùa nhờ một thầy tỳ kheo truyền cho tám giới và một trai (1 trai tức là không ăn quá giờ ngọ) mà hành trì trong một ngày một đêm. Nếu xa chùa và không có thầy tỳ kheo thanh tịnh thì tự mình đến trước Phật sám hối tội lỗi phát nguyện thọ trì trai giới cũng được. Thọ trì trai giới này tức là đóng bít cửa ác đạo mà mở cửa nhơn thiên diệu thiện niết bàn. Nên gọi là tám cửa trai giới.

    Tóm lại, đức Phật vì thương xót hàng đệ tử tại gia, nên chế ra pháp bát quan trai giới này để cho hàng tại gia tu tập theo tịnh hạnh của người xuất gia, gieo giống bồ đề vô thượng vào tâm khảm mọi hàng đệ tử, hầu tiến dần đến quả vị cứu cánh tuyệt đích của chư Phật.

    Trong kinh thí dụ pháp bát quan trai giới này như ngọc bửu châu ma ni (ngọc như ý), dù nhỏ nhưng giá trị so với các thứ ngọc khác không sao sánh kịp.

    II. TRUYỀN THỌ
    Cầu thầy truyền thọ .Hàng tại gia thiện tín gặp những ngày trai như mồng 8, 14, rằm ... hoặc các ngày rảnh, dẹp bỏ tất cả công việc gia đình, chức vụ, phát tâm thanh tịnh hoan hỷ, đến chùa cầu một thầy tỳ kheo thanh tịnh làm giới sư truyền giới: bắt đầu từ sáu giờ sáng này đến sáu giờ sáng mai là xả giới. Nếu được thời đến chùa trước một hôm để nghe thầy giảng dạy ý nghĩa tu hành; cách thức hành lễ và lạy hồng danh sám hối cho thân tâm thanh tịnh thì tốt hơn.

    Giới sư sẽ theo nghi thức hành lễ như sau: a- Niêm hương bạch Phật: Giới sư như nghi thức quy y trước mà niêm hương bạch Phật. b- Tán Phật và c- Lễ Phật; cũng như trước.

    III. GIỚI SƯ KHAI THỊ
    Khổ hải vô biên, nếu không có thuyền từ thì không sao lên được bờ giải thoát; luân hồi mờ mịt, nếu thiếu hẳn tịnh giới thì khó mà ra khỏi cảnh tối tăm. Chính chư Phật cũng nhờ giới mà thành chánh quả. Bất luận đại thừa, tiểu thừa, thế gian hay xuất thế gian không ai là không thọ trì giới pháp mà được hưởng quả an vui. Ngặt nỗi hàng tại gia bị trần lụy đoanh vây, không thể chung thân theo dõi! Vì thế đức Như Lai phương tiện chế ra giới pháp này dạy cho hàng tại gia mỗi tháng gặp ngày trai phải một ngày một đêm thọ trì. Công đức của giới bát quan trai này, nó là tịnh nhơn vô lậu hơn tất cả phước báo nhơn thiên và là con đường thẳng đến đạo quả vô thượng bồ đề.

    IV. SÁM HỐI
    Các người từ vô thỉ kiếp đến nay, vì mê lầm nên thân, khẩu, ý đã tạo ra muôn ngàn tội lỗi. Giờ đây trước hết các ngươi phải phát lòng chí thành đối trước Tam bảo cầu xin sám hối, để cho thân tâm thanh tịnh, rồi sau mới thọ lãnh giới pháp.

    Các ngươi hãy đọc theo đây: (giới sư đọc trước, giới tử đọc theo sau, không nên cùng đọc một lần).

    Đệ tử chúng con (ai nấy đều xưng tên họ của mình) từ vô thỉ kiếp đến nay, gây nên ba nghiệp dữ, mười điều ác và các tội tà kiến. Nay đối trước mười phương Tam bảo cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu diệt (đọc ba lần, vái 3 vái, đứng dậy) .

    Nam mô Thập phương thường trụ Tam bảo (lạy ba lạy, quỳ xuống, đọc tiếp)

    Xưa kia con đã tạo các vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, bởi thân khẩu ý phát gây nên, tất cả, chúng con xin sám hối.

    Nam mô Cầu sám hối Bồ tát ma ha tát. (đọc ba lần, lạy ba lạy rồi quỳ xuống)

    V. THẦY KHAI THỊ TRUYỀN GIỚI
    Này các Phật tử! Từ trước đến nay các người đã phát tâm chí thành sám hối, ba nghiệp đã được thanh tịnh, bắt đầu từ giờ này cho đến sáng mai phải học tập theo giới Bát quan trai. Bát quan trai là gì? Nghĩa là tám giới điều và một trai pháp : không được sát sanh, không được trộm cắp, không được dâm dục, không được nói dối, không được uống rượu, không được thoa ướp hương hoa và trang sức sắc phục, không được ca múa xướng hát và đi xem nghe, không được ngồi giường cao ghế đẹp và không được ăn phi thời (nghĩa là không ăn quá giờ ngọ). Tám điều trước là giới; giữ tám điều này tức là đóng kín cửa ác đạo. Không ăn phi thời là trai. Trai nghĩa là tề, là ăn đúng giữa giờ ngọ, để thích hợp với con đường trung đạo mà Tam thế chư Phật đã noi theo. Nói chung cả trai và giới nên gọi là Bát quan trai giới. Các người nên phát tâm vô thượng để được giới pháp vô thượng. Vậy, các người sẽ đọc theo đây để thọ trì giới pháp: (đọc như trên)

    Đệ tử chúng con (xưng tên họ) quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh Ưu bà tắc, (nếu đàn bà thì gọi ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác, là Thế Tôn của chúng con (đọc ba lần)

    Đã quy y Phật, thề suốt đời không quy y trời thần quỷ vật; đã quy y Pháp, thề suốt đời không quy y ngoại đạo tà giáo; đã quy yTăng, thề suốt đời không quy y bè đảng tàn ác; xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh Ưu bà tắc, (nếu đàn bà thì gọi Ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác, là Thế Tôn của chúng con (đọc ba lần, vái ba vái).



    VI. THẦY KHAI THỊ GIỚI TƯỚNG
    Phật tử! Đã truyền cho các người pháp Tam quy xong là giới thể đã chu toàn. Nay vì các người sẽ nói rõ các giới tướng, để cho các người hộ trì và không hủy phạm. Vậy các người hãy nói theo thầy (thầy đọc trước, giới tử đọc theo sau):

    1. Như chư Phật suốt đời không sát sanh, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không sát sanh.

    2. Như chư Phật suốt đời không trộm cắp, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không trộm cắp.

    3. Như chư Phật suốt đời không dâm dục, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không dâm dục.

    4. Như chư Phật suốt đời không nói dối, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không nói dối.

    5. Như chư Phật suốt đời không uống rượu, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không uống rượu.

    6. Như chư Phật suốt đời không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục.

    7. Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.

    8. Như chư Phật suốt đời không ngồi giường cao ghế đẹp, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không ngồi giường cao ghế đẹp.

    9. Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời, chúng con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không ăn phi thời.

    VII. THẦY KHUYẾN THỊ
    Này các Phật tử, thân người khó được, tánh mạng vô thường, ngày giờ thấm thoắt như thoi đưa, đời sống bấp bênh như bọt nổi! Nếu không tinh tấn tu hành thì về sau ăn năn không kịp. Nay các ngươi đã có nhiều nhơn duyên lành, hãy cố gắng lên.

    Đáp : Y giáo phụng hành.

    VIII. HỒI HƯỚNG
    Tụng bài Đệ tử kính lạy. Xướng lễ Phật. Tam tự quy.

    IX. XẢ GIỚI
    Sớm hôm sau lúc trời sáng, giới tử cung thỉnh giới sư lên điện niêm hương bạch Phật xả giới.

    Xướng hiệu Phật lạy tạ, giới tử đồng lạy.

    Tụng Bát nhã tâm kinh, những bài hồi hướng, tự quy.



    TỰ THỌ GIỚI
    Nếu xa chùa, không có thầy truyền giới hay không tiện đến chùa, các thiện nam tín nữ đến ngày trai có thể tự mình đến trước bàn Phật phát nguyện thọ trì trai giới cũng được. Trước một hôm giới tử phải trai giới thanh tịnh lễ Phật sám hối: 6 giờ sáng đến trước bàn Phật niêm hương, khai tên họ pháp danh, tuổi, làng ... xin phát nguyện thọ trì bát quan trai giới trong một ngày một đêm. Niêm hương xong, xướng lạy danh hiệu Phật, Bồ tát, các vị Tổ sư và Hộ pháp, Thiện thần. Lạy xong quỳ sám hối:

    Con, xưa đã tạo các vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham, sân, si; bởi thân khẩu ý phát sanh ra, tất cả, chúng con xin sám hối. Nam mô Cầu sám hối Bồ tát ma ha tát (đọc ba lần, lạy ba lạy).

    Quỳ thọ giới, tự mình phải đọc:

    Đệ tử chúng con (xưng tên) quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh Ưu bà tắc (nếu đàn bà thì Ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác; là Thế Tôn của chúng con (đọc ba lần, vái ba vái).

    Đệ tử đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y trời thần quỷ vật; đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo; đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y bè đảng tàn ác. Con xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh Ưu bà tắc (nếu đàn bà thì Ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác; là Thế Tôn của chúng con (đọc ba lần, lạy ba lạy). Rồi quỳ đọc thọ giới.

    1. Như chư Phật suốt đời không sát sanh, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không sát sanh.

    2. Như chư Phật suốt đời không trộm cắp, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không trộm cắp.

    3. Như chư Phật suốt đời không dâm dục, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không dâm dục.

    4. Như chư Phật suốt đời không nói dối, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không nói dối.

    5. Như chư Phật suốt đời không uống rượu, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không uống rượu.

    6. Như chư Phật suốt đời không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục.

    7. Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.

    8. Như chư Phật suốt đời không ngồi giường cao ghế đẹp, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không ngồi giường cao ghế đẹp.

    9. Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không ăn phi thời.

    (Đứng dậy lạy ba lạy)

    Quỳ tụng bài hồi hướng "Đệ tử chúng con ..." Tam tự quy. Thọ giới xong, tùy mình phân thời gian tu tập.

    Sáng mai, khi trời sáng, đến trước bàn Phật niêm hương xin xả giới:

    Niêm hương bạch Phật. Tụng Bát nhã. Hồi hướng. Tự quy.

    NIÊM HƯƠNG

    Hương là tiêu biểu cho Giới, Định, Huệ, ...

    Cho nên, hành giả trong khi niêm hương bạch Phật cần phải thân tâm tinh khiết, nhất tâm chuyên chú hướng về Tam bảo. Trước hết đứng ngay thẳng trước Phật, chiêm ngưỡng Phật, quán tưởng đức tướng Phật, đọc thầm 21 biến Tịnh pháp giới chơn ngôn: "Án lam tóa ha", quán tưởng chữ Lam (...) đỏ lửa từ trong miệng theo tiếng đọc tuôn ra lên trên đảnh phủ xuống và bao quanh cả toàn thân, làm cho từ thân thể đến cả pháp giới đều thanh tịnh. Kế đến, cầm hương đốt, miệng đọc: "Hương vân kiết thể, thông xuất tam giới; ngũ uẩn thanh tịnh, tam độc liễu nhiên. An phóng ba tra tóa ha". Quỳ xuống đưa hương lên đầu đọc bài tán hương: "Lư hương sạ nhiệt, pháp giới mông huân, chư Phật hải hội tất diêu văn, tùy xứ kiết tường vân, thành ý phương ân, chư Phật hiện toàn thân. Nam mô hương vân cái Bồ tát ma ha tát (Lò hương vừa đốt, xông ngát mười phương, chư Phật Bồ tát thảy đều nghe, tùy chỗ kết mây lành, một niệm chí thành, chư Phật hiện toàn thân). Tiếp niệm bài cúng hương:

    Giới hương Định hương dữ Huệ hương,

    Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương,

    Quang minh vân đài biến pháp giới;

    Cúng dường thập phương vô thượng tôn.

    Nam mô Hương cúng dường Bồ tát ma ha tát.

    Kế niệm:

    Nguyện thử diệu hương vân

    Biến mãn thập phương giới

    Cúng dường nhất thiết Phật,

    Tôn Pháp, chư Bồ tát,

    Vô biên Thanh văn chúng,

    Cập nhứt thiết Thánh hiền.

    Duyên khởi quang minh đài

    Quá ư vô biên giới,

    Vô biên Phật độ trung;

    Xứng tánh, tác Phật sự.

    Phổ huân chư chúng sanh

    Giai phát bồ đề tâm,

    Viễn ly chư vọng nghiệp

    Viên thành vô thượng đạo.

    Nam mô Đại hạnh Phổ hiền Bồ tát (3 lần).

    Kế tưởng niệm tán Phật:

    Pháp vương vô thượng tôn,

    Tam giới vô luân thất.

    Thiên nhơn chi đạo sư,

    Tứ sanh chi từ phụ.

    Ư nhứt niệm quy y,

    Năng diệt tam kỳ nghiệp.

    Xưng dương nhược tán thán

    Ức kiếp mạc năng tận.

    Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,

    Thập phương thế giới diệc vô tỷ,

    Thế gian sở hữu ngã tận kiến

    Nhất thiết vô hữu như Phật giả.

    Sát trần tâm niệm khả sổ tri,

    Đại hải trung thủy khả ẩm tận,

    Hư không khả lượng phong khả kế,

    Vô năng tận thuyết Phật công đức.

    Nam mô Ta bà thế giới tam giới đạo sư, tứ sanh từ phụ, nhơn thiên giáo chủ, thiên bách ức hóa thân Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.

    Nam mô Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật, biến pháp giới chư tôn Bồ tát Ma ha tát. Linh sơn hội thượng vô lượng thánh hiền, Hộ pháp hộ giáo hộ giới già lam chư vị Thiện thần. Tây thiên Đông độ Nam quốc truyền giáo chư vị Tổ sư Hòa thượng Liên hoa tọa hạ tác đại chứng minh.

    Ư kim ... niên ... nguyệt ... nhật ... Việt Nam quốc ... phủ, huyện ... xã ... tự viện ... Đệ tử ... Pháp danh ... Tự ... Hiệu ... quy đầu Tam bảo phát nguyện thọ trì tam quy ngũ giới pháp (tùy việc mà canh cải). Ngưỡng khởi thập phương Tam bảo sát hải vạn linh, từ bi vô lượng thệ hải hoằng thâm, nguyện giáng oai quang chứng minh mặc hộ. Tỷ đệ tử chúng đẳng quy y chi hậu, thân tâm thanh tịnh, nghiệp chướng tiêu trừ, trí tánh thường minh, bồ đề khai phát. Nguyện sanh sanh thế thế, tại tại xứ xứ thường vi Tam bảo tiếp thọ cứu hộ, sanh phùng Phật pháp, tri ngộ thiện hữu, bất vong quảng đại bồ đề chi tâm, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, phàm hữu kiến văn giai phát đạo tâm, đồng triêm lợi lạc. Cánh kỳ: Pháp giới oán thân, tình dữ vô tình đồng thành Phật đạo. Thiệt lại Phật đức chi bất khả tư nghì dã.

    Cắm hương lên bàn. Đọc bài đảnh lễ Phật:

    Sở hữu thập phương thế giới trung

    Tam thế nhất thiết nhơn sư tử,

    Ngã dĩ thanh tịnh thân, ngữ, ý,

    Nhất thiết biến lễ tận vô dư ...

    Xướng và lạy:

    Nam mô Thập phương thường trụ Tam bảo.

    Mặc tưởng:

    Năng lễ sở lễ, tánh không tịch.

    Cảm ứng đạo giao nan tư nghị.

    Ngã, thử đạo tràng,như đế châu:

    Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.

    Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

    Đầu, diện tiếp túc, quy mạng lễ.

    (Tùy tâm phát nguyện lạy nhiều hay ít, và tùy theo việc mà lạy danh hiệu chư Phật, Bồ tát ...Lạy xong bắt đầu làm lễ).




    --------------------------------------------------------------------------------

    Ban Tu Thư Phật Học
    Cập nhật: 08/12/2005

    http://www.phatviet.com/dichthuat/ht...at/luat_03.htm
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  5. #5

    Mặc định

    Huynh mahasattva ơi!
    Ăn lạc là ăn đậu phọng hả huynh?
    Mô Bụt

  6. #6
    Lục Đẳng Avatar của batquantrai
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    6,518

    Mặc định

    Ăn lạc là ăn đậu phọng hả huynh?
    ...........

    Ăn lạc là không ăn muối đó mà, hihihii... :D
    Như tảng đá kiên cố
    Không gió nào lay động
    Cũng vậy , giữa khen chê
    Người trí không giao động .
    :big_grin: :big_grin:

  7. #7

    Mặc định

    Ăn lạt chứ không phải lạc. Nói chung ăn chay là tốt, không phải nhất thiết cứ tu là ăn chay, người không theo đạo mà ăn chay trường cũng tránh bệnh tật và thể xác cũng nhẹ nhàng hơn, vì cái chỗ nhẹ nhàng này mà khi kết hợp với tu tập thì kết quả thường vi diệu hơn.
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thích tùm lum Xem Bài Gởi
    Ăn lạt chứ không phải lạc. Nói chung ăn chay là tốt, không phải nhất thiết cứ tu là ăn chay, người không theo đạo mà ăn chay trường cũng tránh bệnh tật và thể xác cũng nhẹ nhàng hơn, vì cái chỗ nhẹ nhàng này mà khi kết hợp với tu tập thì kết quả thường vi diệu hơn.
    Đúng là như vậy đó đạo hữu.

  9. #9

    Mặc định

    trai giới quả là 1 việc tốt khiến đàu óc nhẹ nhàng thanh thản để tu tập, tuy nhiên xét về hoàn cảnh thực bây giờ, trong XH bon chen này thì cũng nên hiểu linh hoạt hơn 1 chút, DN đã 1 tháng nay chỉ ăn bánh mì, mì gói, và rau xanh...tuy k thấy mệt mỏi hay bị ức chế, đilại vẫn nhanh nhẹ hoạt bát nhg cảm nhận đc cơ thể thiếu chất gây ảnh hưởng đến công việc, ví dụ như môi luôn khô nứt nẻ, kèm theo họng cũng khô ảnh hưởng đến việc nói, nhất là ng phải nói nhiều, đàu óc tuy minhmẫn nhg khi giải quyết việc rất dễ bị chi phối...nói chung lầ cũng tuỳ từng ng, từng môi trg sống,từngcông việc mà bố trí ăn chay sao cho phù hợp, ví trong những cách tu đức Phật dạy là phải giữ cho thân thể luôn đc khoẻ mạnh...

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi dieungoc2552 Xem Bài Gởi
    trai giới quả là 1 việc tốt khiến đàu óc nhẹ nhàng thanh thản để tu tập, tuy nhiên xét về hoàn cảnh thực bây giờ, trong XH bon chen này thì cũng nên hiểu linh hoạt hơn 1 chút, DN đã 1 tháng nay chỉ ăn bánh mì, mì gói, và rau xanh...tuy k thấy mệt mỏi hay bị ức chế, đilại vẫn nhanh nhẹ hoạt bát nhg cảm nhận đc cơ thể thiếu chất gây ảnh hưởng đến công việc, ví dụ như môi luôn khô nứt nẻ, kèm theo họng cũng khô ảnh hưởng đến việc nói, nhất là ng phải nói nhiều, đàu óc tuy minhmẫn nhg khi giải quyết việc rất dễ bị chi phối...nói chung lầ cũng tuỳ từng ng, từng môi trg sống,từngcông việc mà bố trí ăn chay sao cho phù hợp, ví trong những cách tu đức Phật dạy là phải giữ cho thân thể luôn đc khoẻ mạnh...
    Quá đúng!
    Bài nầy của ai Vô Định bà bà chép lại, chua thêm vào sai chính tả tèm lem , rồi mượn nick đệ tử vô đây làm rùm!
    Ăn chay không đúng cách còn bị nhiều thứ bệnh khác, thiếu A chân răng chảy máu, loảng xương (nếu cử phô mai và trứng).
    Tùy duyên thôi, hôm nay ăn chay thì tránh tội ngày hôm nay thôi, còn vô lượng kiếp trước làm thân cọp mà không ăn chi cả à?
    Tùy duyên thôi!
    Mô Bụt
    Last edited by chỉnh_tâm; 06-07-2010 at 07:44 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Những Lý Do để Chúng Ta ăn Chay
    By tuyenhoa1985 in forum Sách Tôn Giáo
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 07-10-2008, 10:05 AM
  2. Địa chỉ các quán chay tại Việt Nam
    By uafs8 in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 01-10-2008, 05:37 PM
  3. Các Món Ăn Chay!
    By khang in forum Cộng đồng Mạng XH,Trò chuyện vui, Spam, Xả stress
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 24-09-2008, 12:18 PM
  4. Xin hỏi về cách ăn chay?
    By hieuphuctien in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 24-09-2008, 10:45 AM
  5. Trang Web hay về Gia Chánh Nấu Chay : NẤU ĂN CHAY
    By uafs8 in forum Âm nhạc, Media
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 01-06-2008, 02:27 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •